Chương 19: Rùa
thoát xác
Mu bàn tay chỉ ngưa ngứa, không đau, nhưng ấn ngón tay vào thì đau
xói lên tận óc, tôi suýt nữa thì lộn cổ xuống dưới bục. Tôi vội vặn đèn chiếu
trên mũ, soi vào khúc gần cổ tay, giật mình phát hiện ra có hai, ba cái chồi
màu xanh đen đã nổi lên, chạm một cái là đau như bị xé thịt, nhức nhối hết cả
cánh tay lẫn xương tủy bên trong, tôi vội kiểm tra nhũng chỗ khác trên cơ thể,
nhưng tất cả đều bình thường.
Lúc này mọi người mới bật
đèn lên, tôi bảo cả bọn tự kiểm tra xem cơ thể có chỗ nào bất ổn không, nhưng
ngoài tôi ra, Shirley Dương, Minh Thúc và Tuyền béo đều không sao cả.
Kỳ lạ thật ,từ lúc tới Hắc
hổ huyền đàn này, cả bọn chưa từng rời nhau nửa bước, sao chỉ có mỗi cơ thể tôi
xảy ra sự lạ, nếu không nghĩ cách, e là sẽ mọc cả hoa huyết nhĩ mất.
Đang chưa biết phải làm
sao, chợt phát hiện ra A Hương đã nằm vật ra bất tỉnh nhân sự bên cạnh tôi, mũi
rỉ cả máu, nửa bên mặt nhoe nhoét máu trồi lên tua tủa những chồi thịt màu
xanh, cả trên tay cũng có. Thỉnh thoảng khi A Hương nhìn phải thứ gì cô bé
không muốn thấy thì máu mũi sẽ chảy, vừa nãy trong động huyệt phía ngoài, cô bé
mới nhác thấy hoa đỏ tuyết nhĩ, máu mũi đã túa ra rồi, trước đây đã mấy lần như
vậy, nhưng chúng tôi cũng không để ý xem trọng lắm.
Giờ tôi mới hiểu rõ, thì ra
loại huyết nhĩ gieo trồng cái chết này liên tục phát tán thứ phấn hoa không
nhìn thấy được vào không khí, chỉ cần tiếp xúc với máu tươi, nó sẽ nảy mầm.
Thành thử từ lúc A Hương vừ nhìn thấy nó, máu cô bé đã bị nhiễm độc rồi.
Chắc chắn ban nãy lúc A
Hương túm tay, đã làm dính máu lên mu bàn tay tôi, sau đó cô bé ngất lịm, tôi
vẫn còn tưởng cô bé nhìn thấy thứ gì ở dưới kia, đâu ngờ lại xảy ra sự thể thế
này.
Shirley Dương định giúp A
Hương cầm máu, tôi vội bảo cô nàng tuyệt đối không được chạm tay vào máu đó,
hãy dùng ngón tay ấn vào xương xoăn ở gốc hai cánh mũi, lỗ mũi bên trái chảy
máu thì ấn vào bên phải, phải chảy máu thì ấn vào bên trái, bất luận thế nào
cũng không được dính vào máu trên người cô bé.
Thuật phong thủy âm dương
giải thích, ở nơi sinh khí quá thịnh, thi thể chết mà không tan rữa, khí huyết
không suy, trải qua ngày này tháng khác, không những cứ trương phình dần lên,
mà cách mười hai tiếng lại nở ra những bông hoa thịt, gọi là huyết nhĩ. Người
chết thì không sao, nhưng người sống mà cơ thể bị mọc ra cái thứ thịt này thì
chỉ có hai lựa chọn, một là xa chạy cao bay khỏi nơi sinh khí qúa vượng này,
huyết nhĩ sẽ tự nhiên tiêu tán hết, có điều ở chốn phát nguyên long mạch của
thiên hạ chỉ có mỗi xe "căng hải" để dựa vào, nhất thời khó mà chạy
thát đi đâu xa; lựa chọn thứ hai là đành lưu lại, đợi huyết nhĩ đơm hoa kết
trái, bấy giờ người còn sống nhăn răng đây rốt cuộc cũng chỉ còn là cái xác
trương phình mà thôi.
Minh Thúc thấy cô con gái
nuôi ba hồn bảy vía bay sạch, tính mệnh mong manh thoi thóp, liền khóc rống
lên: "Ôi trời ơi, có lẫn không thế, lần này thì thực sự mất tất tật rồi,
thằng phu xe với thằng vệ sĩ mất rồi, vợ mất rồi, Băng xuyên thủy tinh thi cũng
mất rồi, giờ đến cả con gái yêu của tôi cũng sắp chết rồi..."
Tôi nói với lão: "Ấy,
bác chớ khóc lóc tang ma vội, trên tay tôi xungc có huyết nhĩ đây này, bác
thương con gái bác, tôi cũng thương tôi lắm đấy. Trước mắt phải mau chóng nghĩ
cho ra cách đã, vùng quê Tây Tạng chẳng phải vẫn thường có câu "khóc cho
nước mắt lụt cầu, chẳng bằng tính kế trên đầu ngón tay" đó sao?"
Minh Thúc vừa nghe thấy có
thể cứu được, vội vội vàng vàng hỏi lại: "Thì ra chú có cách à? Quả nhiên
chú Nhất vẫn là người vững dạ, một bụng cơ mưu, không biết có kế gì hay không?
Chú cứ nói rõ ra, anh già rồi đầu óc ngu si hủ lậu lắm. Giả như thực sự cứu
sống được A Hương, anh bằng lòng gả con gái nuôi của anh cho chú, sau này ta là
người một nhà rồi..."
Tôi không trả lời, trong
bụng thầm thở dài một tiếng, lão khọm Hồng Kông này sợ tôi bỏ mặc lão trong lúc
nguy nan, lại còn tính nước gả con gái cho tôi chứ, lão coi thường người khác
quá đấy, cái mồi này đi mà nhử Tuyền béo, may ra còn có tác dụng nhé!
Không ngờ Tuyền béo cũng
không ngốc chút nào, đứng bên cạnh nói với lão: "Bác Minh này, nếu bác
thực lòng thương A Hương, bác còn lôi cô bé tới Tây tạng mạo hiểm làm gì? Hai
thằng con quý tử của bác sao không tới giúp? Không phải con đẻ nên mới thế hử?"
Tuyền béo nói năng chẳng
kiêng kị gì, thốt ra có mấy câu, quả nhiên đã đánh trúng nỗi chỗ hiểm của Minh
Thúc. Lão ta không biết phải biện bách ra sao, mặt mày tím tái, tỏ ra hết sức
bối rối.
Tôi huých khuỷu tay chọc
vào người Tuyền béo, bảo ngậm cái miệng lại đừng nói nữa. Người ta nào phải
thánh hiền, ai chẳng có lòng riêng, chuyện này không trách lão ta được.
Shirley Dương thấy chúng
tôi không quan tâm đến sự sống chết của A Hương mà chực cãi nhau đến nơi, vừa
cầm máu cho A Hương, vừa can: "Đừng có cãi nhau nữa! Mọi vật trên đời
tương sinh tương khắc, trong vòng năm bước chân quanh rắn hổ mang, ắt sẽ có cỏ
giải độc. Con vật nhỏ màu xanh dưới kia kìa, nó ăn huyết nhĩ, trong cơ thể chắc
chắn có thứ giải dược độc tính của huyết nhĩ, hoặc giả vì nó đã ăn thứ gì đó
khác trong động huyệt này..."
Tôi gật đầu: "Đúng
đúng, tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Tuyền béo, cậu với tôi xuống đó bát
cái con lông xanh kia lên!" Nói rồi ném luôn hai cây pháo sáng xuống hố,
bên dưới đang co con vật to như con chó con đang nằm xệp trên mặt đất ăn ngốn
ngấu máy quả cuối cùng trên cái xác, nếu không hành động ngay, để nó ăn xong có
khi lại chui tọt vào trong cái khe nào mà trốn mất áy chứ.
Nhờ có pháo sáng, Tuyền béo
đã quan sát được rõ tình hình dưới hố, để đỡ lằng nhằng, bèn rút súng ra bắn
luôn. Tôi chưa kịp ngăn Tuyền béo lại thì đã muộn, trong lúc luống cuống, lỡ
huých phải cánh tay cậu ta, đạn bắn xiên vào vách hang.
Đất đá bắn tung tóe, chấn
động khá lớn, con vật nhỏ trông vừa như mù lòa vừa như ngu ngốc kia cũng bị
kinh động, quay đầu bò về phía sau. Tôi kêu lên với Tuyền béo: "Đừng giết,
để bát sống nó!" Vừa nói vừa nhảy tù bục đá xuống, vựa vặn giẫm lên cái
xác đàn ông, chặn đứng đường rút của con chó con.
Khoảng cách từ bục đá xuống
dưới này không cao lắm, Tuyền béo xoay người lại, cũng bám tay bò xuống. Cả hai
thằng chúng tôi, đứa đứng trước, kẻ đứng sau, kẹp con chó con lông xanh ở giữa,
cùng rút xẻng công binh ra. Con vật này trông vừa ngu đần, chỉ biết gặm lấy gặm
để quả sinh nhân, có điều tứ chi nó rất to chắc, xem ra rất khỏe. Cảm thấy
trước sai đều bị chặn, nó bối rối chạy quẩn tại chỗ, cái đầu nom như đầu rán
lại có mõm há to, phả ra một mùi tanh ngấy.
Con thú nhỏ này thị khắp
mình xếp nếp, có một lớp lông cứng màu xanh lục phủ dày. Tôi và Tuyền béo xưa
nay chưa từng nghe nói trên đời lại có loại động vật này, nhưng cứ giành thế
chủ động, cảm giác thứ này rất có thể là cương thi, có lẽ là do con dã thú nào đó
chết đi hóa thành, thân thể màu xanh đen, lại hôi thối, ắt hẳn có độc, có điều
nó chỉ to cỡ con chó cún bình thường, muốn bắt sóng xem chừng cũng không khó
khăn mấy.
Con thú nhỏ chạy tại chỗ
hai vòng, rồi nhằm thẳng Tuyền béo, xông lên há miệng cắn bừa. Tuyền béo vung
xẻng công binh vụt xuống, lưng xẻng công binh nện xuốngcũng đau điếng, phát rồ
con thú nhảy dựng lên, húc cho Tuyền béo ngã lăn ra đất. Tuyền béo nhanh tay
rút móng lừa đen gí vào, banh ngang mồm con thú ra.
Con vật trông giống con chó
con này chưa từng nếm mùi vị móng lừa đen, có lẽ cảm thấy không ngon cho lắm,
lắc đầu lia lịa, định nhổ ra. Tuyền béo lại húc đầu một phát vào mồm nó, hai
tay tóm lấy hai chi trước, đôi bên giằng co quyết liệt, xoắn vào nhau.
Tôi ở phía sau lấy băng
dính quấn liền mười mấy vòng quanh mõm con quái vật, kế đó dùng dây thừng trói
chân nó lại.
Tôi dựng Tuyền béo dậy. Cậu
ta bảo tôi: "Con này dễ đối phó hơn tôi tưởng rất hiều.
Chắc là nó ngày nào cũng ăn
xong rồi ngủ, chẳng có việc gì làm đây, thế rốt cuộc nó là con gì hả cậu? Tôi
thấy nó không giống chó cho lắm!"
Minh Thúc và Shirley Dương
tháy chúng tôi tóm được con vật, lập tức đưa A Hương, xuống dưới bục đá. Chồi
thịt huyết nhĩ trên mu bàn tay tôi đã nở to gấp đôi, tình trạng của A Hương còn
nghiêm trọng hơn nhiều, nếu không mau cứu chữa, e là không giữ được tính mạng.
Tuyền béo đã vào con vật bị
chúng tôi bắt trói, nói: "Con này có thể dùng làm thuốc giải á? Trông nó
xấu xí thế này, có khi máu thịt nó đầy độc ấy chứ, định lấy độc trị độc à?"
Shirley Dương nói:
"Tôi cũng không rõ đây là lọai gì đâu, nhưng không nằm ngoài hai khả năng,
một là thứ bài tiết trong cơ thể hóa giải độc tính, hai là, quanh chỗ nó sống
hoặc có thứ gì khác nó ăn có thể trung hòa độc tính, cứ tìm quanh cái hang này
xem, có lẽ có thu hoạch đấy."
Chúng tôi không dám trễ
nãi, bèn chia nhau tìm quanh trong đáy hang.
Tôi lại gần khối đá thủy
tinh khổng lồ thấy bên trên có khắc vô số ký hiệu của Mật tông, chưa kịp để ý
xem là có nội dung gì thì phát hiện dưới chân tảng đá có một thứ rất lỳ lạ. Lúc
này chúng tôi ở bên trên nhìn xuống, thấy có gì giống như cỗ quan tài gỗ đỏ bị
đè, thì ra bên dưới tảng đá thủy tinh này là cái mai rùa rỗng ruột màu đỏ vằn
đen, bị tảng đá chẹt lên, con rùa khổng lồ có lẽ đã chết từ lâu, xác thịt mủn
rữa không còn gì.
Minh Thúc cũng trông thấy.
Loại mai rùa đỏ vằn đen này cực kỳ hiếm thấy, tương truyền trong tứ linh
"long ly quy phượng", "quy" chính là chỉ cụ rùa già nghìn
tuổi, màu sắc trên mai đã ngả dần sang màu đỏ nhạt. Minh Thúc như có điều gì tư
lự, ngoảnh lại nhìn con vật Tuyền béo bắt được lần nữa, rồi hấp tấp bảo tôi:
"Phen này phát tài rồi... Thứ kia không phải là cuơng thi chó đâu, mà là
con rùa thoát xác đấy. A Hương được cứu rồi!"
Tôi thấy Minh Thúc quá phấn
khích, nói hấp ta hấp tấp nghe không rõ, bèn bảo lão ta bình thĩnh lại, nói cho
rõ ràng xem sao, cái gì được cứu rồi cơ chứ?
Lão ta chẳng thèm đáp lại,
vớ luôn xẻng chặt một miếng mai rùa, rồi đắp lên chỗ huyết nhĩ mọc trên người
tôi và A Hương. Một cảm giác mát lạnh đến tận xương, những chỗ đau rất tê tấy
trên da tức khắc dịu hẳn đi.
Thấy A Hương thoát hiểm,
Minh Thúc mới nói cho chúng tôi biết, trước kia hồi Peter Hoàng còn làm hải
tặc, có bắt chặn một con tàu, lạ là người trên tàu đều chết ráo cả, thi thể
trong khoang tàu mọc lên một loại tảo máu hình nấm. Bọn hải tặc đã đánh chết
một con vật to như con thằn lằn nước ở trên tàu, không ít kẻ chạm phải huyết
dịch tù xác chết nó, tính mạng nguy cấp trong gang tấc. Tên cầm đầu bọn hải tặc
vốn rành rẽ chuyện trên biển, biết con tàu này có khả năng cất giấu gì đó, bèn
sai bọn đàn em lục soát kỹ càng, quả nhiên tìm thấy một chiếc mai rùa kẹp trong
tủ hàng hóa ở khaong tàu. thứ rùa thoát được khỏi mai của nó chắc chắn ăn phải
thứ đặc biệt, đã biến thành tinh, hại chết hết người trên tàu. Những nơi nó bỏ
qua, xác người chết đều mọc ra mấy thứ hoa thịt có thịt.
Vực sâu dưới Long đỉnh này,
có lẽ là sinh khí quá vượng cho nên một xác chết mới có thể mọc thêm huyết nhĩ
nhiều lần.
Mai rùa là báu vật khó kiếm
trong thé gian này, chữa được tất cả mọi chứng độc. Cả cái mai rùa nguyên vẹn
này, không thể nói là giá cao ngất ngưởng nữa, mà là báu vật vô giá rồi. Bấy
giờ lũ hải tặc tranh nhau thứ này, tự tàn sát lẫn nhau, chết vô số, Peter Hoàng
cũng suýt nữa mất mạng. Cũng chính lúc ấy, Minh Thúc cứu được Peter Hoàng, và
biết về loại rùa thoát xác này từ miệng hắn, khi cho người quay lại tìm, tàu
của hải tặc đã đắm, đành lủi thủi trở về.
Giờ thấy cái mai rùa rỗng
bị tảng đá thủy tinh đè xuống này, màu sắc hoa văn đều không phải tầm thường.
Xem ra con người vẫn phải hành thiện tích đức, năm xưa tiện tay cứu mạng Peter
Hoàng, giờ vì vậy mà cứu được con gái nuôi. Cứu một mạng người, hơn xây tháp
Bụt bảy tầng, làm nhiều việc thiện ắt sẽ có báo ứng tốt.
Tuyền béo nghe bảo thứ này
đáng tiền như vậy, vội lao tới bắt tay đào lấy mai rùa ra. Tôi nghĩ bụng Minh
Thúc nói đến câu cuối cùng, lại còn phải đò đưa, cạnh khóe tôi một phát, có lẽ
lão ở mấy vùng Hồng Kông, Nam Dương lâu năm, giữa người và người với nhau thiếu
đi lòng chân thật, nói thế nào thì thế quả thực vẫn khiến cho tôi rất ngứa ngáy
ruột gan, sau này phải tìm cơ hội dọa cho lão chết khiếp mới được, vậy là tôi
đành tạm thời nói hùa theo lão: "Tục ngữ có câu "Tìm chỉ lên núi là
ra, không tường sự thế hỏi già rõ ngay", hiếm có người nào toàn tài cái gì
cũng biết, người bất tài chẳng được tích sự gì lại càng hiếm hơn, suy cho cùng
vẫn là bác đây dân giang hồ lâu năm hiểu rộng biết nhiều, chúng tôi thô thiển
lại ít được cập nhật thông tin, thành ra đều chưa ai nghe thấy chuyện kỳ lạ này
bao giờ..."
Tôi lơ đãng nói chuyện với
lão, còn mắt cứ nhìn chằm chằm vào tảng đá thủy tinh khổng lồ kia. Chỉ một lát,
những hình vẽ trên tảng đá đó đã như in vào trong mắt tôi, có lẽ nào Hiến Vương
ở Vân Nam đã từng tới nơi đây?
Tầng đã thủy tinh hình
vuông khổng lồ được chia đều thành năm lớp, lớp nào cũng có một số văn tự khắc
đá đơn giản. Văn tự mật và ký hiệu tôi xem không hiểu, nhưng hình vẽ thì nhìn
một cái là hiểu ngay. Lớp trên cùng có khắc rất nhiều nghi thức giết người độc
ác, rất giống trùng thuật của Hiến Vương ở Vân Nam, đều dùng một thứ gì đó gắn
vào cơ thể người chết sau khi đã giết họ một cách tà nhẫn, để chuyển hóa lòng
oán hận của người chết thành sức mạnh.
Tôi chẳng đành xem tiếp,
vội gọi Shirley Dương tới xem cùng. Shirley Dương liền giao A Hương lại cho
Minh Thúc chăm sóc, đi tới trước tảng đá chăm chú quan sát, một lúc sau mới nói
với tôi: "Trùng thuật của Hiến Vương vốn khởi nguồn từ đất Tạng, trùng
thuật ghi chép trên tảng đá so với trùng thuật Hiến Vương thì kém xa về sự
phong phú phức tạp, thần quỷ khôn lường. Nơi đây có lẽ là nơi phát nguyên cổ
xưa nhất của trung thuật, và chỉ một nguyên mẫu còn chưa hoàn thiện, tuy nhiên
cái cốt lõi của trùng thuật, chính lá chuyển hóa những sinh mệnh chết đi thành
năng lượng khác, đã được thể hiển rất rõ ràng. Tuy trùng thuật Hiến Vương về
sau phức tạp hơn hiều, chẳng qua cũng không thoát khỏi bộ khung nguyên thủy
này."
Shirley Dương nói, kỳ thực
ban nãy nhìn thấy Di lặc tuyết và Nãi cùng thần băng đã cảm thấy rất là quen
thuộc, mấy thứ ấy quả là rất giống trùng thuật. Sau khi xuống dưới vực sâu, thấy
lũ sứa nuớc ngọt dưới sông ngầm, cô đã nghi ngờ nguyên hình của Di lặc tuyết
vốn dĩ là loài sứa hút máu , thời kì hồ nước trên cao núi cao biến thành sông
băng cổ, chúng dần dần tiến hóa để cơ thể thischnghi với trạng thái sinh tồn
trong băng tuyết, bản tính sợ muối hột của chúng có lẽ liên quan đến điều này.
Cũng có khả năng Ma quốc cổ đại hoặc tín đồ Luân Hồi tông đều dựa vào đặc tính
của sinh vật này mà phát minh ra "trùng thuật", lọai tà thuật di họa
cho cả trăm đời.
Huyền vũ cự thi trong hang
động này, xét từ góc độ nào đó, cũng tương ứng với đặc trưng của "trùng
thuật".
Trên bề mặt tầng thứ hai
của tảng đá thủy tinh này có hình một người đàn bà bưng hai tay che mặt; tầng
thứ ba là một con rắn khổng lồ mọc mắt trên đầu; phần quan trọng nhất trong tầng
thứ tư đã bị người ta mài mòn hủy đi, nhưng vết tích mài còn lại là hình tròn,
có lẽ trước đây là ký hiệu vẽ nhãn cầu; tầng dưới cùng, đặc biệt kỳ lạ nhất,
chỉ có khắc vài thứ trông giống như xương cốt.
Tôi chỉ vào tầng đá này nói
với Shirley Dương: "Tảng đá to này, phân làm mấy tầng, từ trên xuống dưới,
tầng nào cũng có nội dung khác nhau, hình như giống với tòa tháp đen tượng
trưng cho thang bậc địa vị ở thành cổ Tinh Tuyệt."
Shirley Dương lại nhìn xuống
xem: "Cái này đúng là một kiểu sắp xếp, song hoàn toàn trái ngược với lối
sắp xếp ở thành cổ Tinh Tuyệt. Dựa vào những miêu tả về Ma quốc trong trường
thi Chế địch Bảo châu Đại vương, thì những ký hiệu trên khối đá thủy tinh này
tượng trưng cho sức mạnh hay năng lượng nào đó, chứ không phải thứ bậc địa vị
thứ tự từ trên xuống dưới, càng xuống dưới sức mạnh càng lớn."
Tuy nơi này có sự khác biệt
so với nước Tinh Tuyệt, nhưng vẫn thể hiện mối liên hệ khắng khít, chỉ dựa vào
tảng đá này thôi cũng có thể đoán định rằng, giữa dân tộc Quỷ động của nước
Tinh Tuyệt và dân tộc sùng bái vực sâu của Ma quốc chắc chắn có mối tương quan
sâu sắc. Có lẽ dân tộc Quỷ động là một phân chi của yêu ma phương Bắc hoặc Luân
Hồi tông năm xưa cũng nên.
Điều này chứng tỏ rằng chúng
tôi quả thực đang từng bước tiến gần tới chân tướng của "lời nguyền nhãn
cầu". Chỉ cần tìm ra thành Ác La Hải, nói không chừng là có thể kết thúc
luôn chuyện này. Tuy nhiên thành Ác La Hải chắc chắn sẽ hiểm ác hơn hành Tinh
Tuyệt bội phần, việc đến nước này chỉ còn có thể đánh cước với số phận mà thôi.
Ngay sau đó tôi và Shirley
Dương lại tìm thấy một vài bia đá thủy tinh khác trong động, không thấy có
nhiều chữ viết, thảy đều là hình vẽ ghi chép sự việc. Theo những gì ghi chép
trong đó có thể thấy rằng, tảng đá thủy tinh trấn con rùa thoát xác, chính là
một góc do Luân Hồi tông đào ra từ Cánh cửa tai họa, nét khắc trên đá đều là do
người thành Ác La Hải thực hiện. Cánh cửa tai họa kia vốn là một bức tường thủy
tinh khổng lồ không thể vượt qua được. Khi Ma quốc bị hủy diệt, Cánh cửa tai
họa đã bịt kín con đường duy nhất mở thông ra thề giới bên ngoài. Còn Luân Hồi
tông thì đã đào một con đường đi vào đó, là để đợi ngày chuyển sinh sẽ dến
trong tương lai.
Rà soát toàn hang động,
thông tin thu lượm được cũng chỉ có từng ấy, dựa vào đó mà đoán, thì việc đặt
một tảng đá lớn láy từ Cánh cửa tai họa vào hang tế tự này chính là để biểu
dương công quả sau khi Luân Hồi tông đào xong được con đường thông thẳng tới Ma
quốc; xác chết và con rùa thiêng đều là vật cúng tế đặc biệt. Chúng tôi đoán
nếu cứ men theo dòng sông nhung nhúc sứa đi xuống mạn dưới, chắc chắn có thể
tìm tới cánh cửa thủy tinh lớn kia, thành Ác La Hải có lẽ cũng ở không xa.
Lúc này Tuyền béo đã đào
mai rùa ra, xác chết trương phình bị con rùa thoát xác ăn hết huyết nhĩ nở trên
người giờ héo hon như cây khô, chắc là phải đến giờ này ngày mai, nó mới lại
kết được quả sinh nhân. Lúc này quay lại nhìn, con rùa thoát xác bị chúng tôi
bắt được đã chết cứng đơ rồi. Chắc là do băng dính quấn quá chặt, nên tắc thở
mà chết. Con vật này chẳng phải thứ lành, khắp mình đều có độc, giữ lại không
may mắn gì, Tuyền béo liền vứt xác nó và cái xác đàn ông mọc huyết nhĩ vào một
chỗ, đổ xuống một ít nhiên liệu dễ cháy, châm một mồi lửa đốt ra tro.
Tôi thấy cái hang này không
còn giá trị gì nữa, bèn dẫn mọi người quay trở lại bên ngoài. Vết thương của A
Hương đã không còn gì nguy ngại, nhưng vì mất máu quá nhiều, nên giờ ccần phải
nghỉ ngơi đầy đủ. Những người còn lại cũng mệt mỏi phờ phạc, hơn nữa cuối cùng
cũng đã diệt trừ xong tai họa tiềm ẩn quanh đây, đặt lưng xuống liền ngủ khì
khì.
Vực sâu dưới sông băng
không có khái niệm ngày đêm, cứ ngủ đến khi nào không muốn ngủ nữa, mới dậy
chuẩn bị tiếp tục lên đường.
Tôi kiểm tra lại vũ khí đạn
dược, thực phẩm và các trang thiết bị khác một lượt, độ cao nơi đây so với mực
nước biển khá thấp, chúng tôi bèn thay hết quần áo ra, nhưng trang thiết bị
chống rét không được vứt đi, bởi về sau có thể vẫn phải băng núi để thoát ra.
Thứ nữa do Minh Thúc và A Hương chỉ có thể mang đồ cá nhân, những thứ còn lại
thì phải chia cho tôi và Tuyền béo gánh chịu cho nên phải thật cố mang vác nhẹ,
cái gì không cần thì vứt cả đi, chỉ chọn những đồ thật cần thiết mà thôi.
Minh Thúc đang mặc cả với
Tuyền béo, bàn xem phải phân chia mai rùa thế nào. Cả hai đã bắt đầu cãi vã,
mãi không có kết quả, cuối cùng Tuyền béo phát cáu, cắm phập con dao lính dù
xuống đất, nói toẹt ra: "Chán đôi co với bố lắm rồi, bố cứ trông mà làm
đi, chia xong mà không vừa ý tôi, thì ta dùng dao thương lượng."
Minh Thúc nghe thề thì đành
phải thỏa hiệp, chia theo cách của Tuyền béo, cứ bình quân đầu người mà tính,
nhu vậy Tuyền béo nuốt gọn bốn phần năm, chỉ để lại cho Minh Thúc một phần năm.
Minh Thúc nói:" Có lẫn
không thế hả chú béo, anh với con gái anh phải chia hai phần chứ, sao chia co
một phần năm?"
Tuyền béo mặt mũi ngơ ngác:
"À, bác Minh Thúc này, bác là người thông minh
trên thương trường, sao ngủ
có một đêm tỉnh dậy đã nói nhảm thế nhỉ? Phần của A Hương, chẳng phải đã dùng
để trị vết thương cho cô bé rồi đó sao? Mây ở Kelamer trắng trong, chúng ta,
những người đổ đáu ở Kelamer, tâm địa cũng phải trong sạch như áng mây trên
đỉnh núi tuyết chứ. Tuy tôi xưa nay ngây thơ chất phác, trông cứ như chàng ngố,
song tôi cũng biết cái lẽ, đói cũng không ăn cà rốt, khát cũng chẳng uống tả
la, bác chớ có cậy mình già, ăn hơn chúng tôi hai thùng muối, mà coi tôi là
thằng ngố nhé.
Minh Thúc xưa nay nổi tiếng
tinh quái trong giới đồ cổ Nam Dương, thường tự xưng là Tiểu Gia Cát, đã qua
tay biết bao vụ làm ăn lớn, lúc này gặp phải cái loại ranh ma trà trộn như
Tuyền béo, có nói lý lẽ với cậu ta, cậu ta cũng cứ giả ngây giả ngô, mà nhược
bằng khiến cậu ta cáu lên, thì hậu quả cũng khó lừơng, thôi thì bó tay, coi như
xui xẻo vậy.
Tuyền béo huýt sáo, gói mai
rùa vào trong túi. Minh Thúc thấy vẻ mặt hớn hở đắc chí của cậu ta, tức lộn cả
ruột, đành lầm lũi đi xem con gái nuôi thế nào.
Tôi chạy lại kéo Minh Thúc
ra một chỗ, nói cho lão ta tình cảnh trước mắt: "Sức khỏe của bác và A
Hương không bì được với chúng tôi đau. Chúng tôi lần này quyết chí được ăn cả,
ngã về không. Bác có ba lựa chọn, thứ nhất là men theo bờ sông đi lên trên,
nhưng xác suất cs thể thoát ra ở đó chỉ là năm mươi năm mươi; thứ hai, bác và A
Hương ở lại hang này, đợi chúng tôi quay lại đón, có điều liệu chúng tôi còn
sống trở về không, bao nhiêu phần trăm cơ hội tôi cũng không nắm rõ; cuối cùng,
đi theo chúng tôi xuống hạ du con sông, băng qua Cánh cửa tai họa, dằng sau
cánh cửa ấy là thành Ác La Hải, nếu đi như vậy thì chắc chắn nguy hiểm vô cùng
thập tử nhất sinh, tôi không dámchắc có thể chăm sóc được cho cha con bác,
không hề có bất cứ đảm bảo gì cho an toàn tính mạng. Rốt cuộc đi đâu về đâu,
bác tự quyết định vậy!"
Tôi nói với Minh Thúc, nếu
bằng lòng chia đôi đường, sẽ cho bác cả cái mai rùa. Lão giật thót mình, vội tỏ
thái độ ngay: "Tuyệt đối không tách đoàn được moj người sống chết có nhau,
đi thì cùng đi tới Cánh cửa tai họa, sau này A Hương gả cho chú, việc buôn bán
của tôi cũng giao cho chú quản luôn, cái mai rùa thiêng kia đương nhiên cũng là
của chú, chúng ta là người một nhà sao lại nói là hai nhà cho được? Không bàn
bạc nữa đâu, cứ quyết định thế đi!"
Tôi thầm thở dài: "Xem
chừng lão khọm già này nghĩ chúng tôi định bỏ mặc lão đây, bất kể nói thế nào,
lão vẫn cảm thấy chúng tôi muốn tự tìm đường tẩu thoát. Xem ra cái chum nhuộm
vải của chủ nghĩa tư bản quả thực có thể làm thối rữa linh hồn con người. Từ
hôm qua đến giờ, điều gì cần nói tôi cũng đều đã nói với lão ta mấy lần rồi,
chuyện gì nói đến ba lần thì nhạt như nước ốc, thôi thì đi xuống hạ du, sống
hay chết đành phải chờ xem số phận của mỗi người thế nào vậy."
Chương 20: Ngư
trận
T ôi đành dắt Minh Thúc và A Hương men theo dòng sông dày đặc mạch
khoáng thủy tinh đi xuống phía hạ du, đi một mạch ba ngày, những con sứa nước
ngọt phát quang dần dần thưa thớt. Cuối cùng cũng tới nơi tận cùng của vực sâu
dài hẹp này, kẽ hở khổng lồ trong lòng núi bị một bức tường đá thủy tinh cao
hàng mấy trăm mét chặn lại, trên tường chi chít những mật hiệu và ấn ký quái
dị, giống như tảng đá thủy tinh chúng tôi thấy hôm trước, có điều bức tường này
quả thực quá cao quá lớn, đây chắc chắn là Cánh cửa tai họa được nhắc đến trong
truyền thuyết rồi.
Chân bức tường ngập dưới
dòng nước sông. Lúc này đang là khoảng thời gian lưu lượng hệ thống nước Côn
Luân lớn nhất trong năm, xem chừng đường hầm kia đã nằm dưới mặt nước, nếu vào
ngày thường, con đường trên Cánh cửa Tai họa có khả năng sẽ lộ ra. Do không
biết con đường này dài ngắn ra sao, mà thiết bị lặn cũng chỉ có ba bộ, không
thể mạo hiểm chui xuống cả đoàn, tôi quyết định để mọi người ở đây nghỉ ngơi
trước đã, một mình tôi sẽ xuống sông dò xét đường đi, rồi sẽ tính đi tiếp thế
nào.
Tuyền béo ngăn tôi lại, đòi
tự mình xuống sông trinh sát, xem xem con đường dài ngắn rộng hẹp ra sao. Tôi
biết Tuyền béo rất giỏi bơi lội, liền đồng ý cho cậu ta xuống dò đường. Tuyền
béo tự vỗ ngực cho rằng mấy mươi mét đường sông, bơi một hơi là quay lại được,
không thèm dùng bình oxy, chỉ đeo kính lặn rồi nhảy xuống.
Tôi đứng trên bờ bấm đồng
hồ chờ, thời gian trôi đi từng giây, mặt nước vẫn lặng như tờ. Cả Shirley Dương
cũng bắt đầu sốt ruột, một phút rồi vẫn chưa thấy Tuyền béo quay lại, chín mươi
chín phần trăm bị cá cắn đít rồi. Đang định xuống nước tìm, thì thấy bọt nước
rẽ ra, cái đầu đội mũ leo núi của Tuyền béo nổi lên, cậu ta vuốt nước trên mặt
nói :" Con đường thông qua bức tường thủy tinh này rất rộng, nhưng không dài
lắm, có điều là mẹ kiếp, phía bên kia không tài nào đi được nữa, những con cá
to dưới đó vây lại thành ngư trận, số lượng nhiều không đếm xuể, tắc nghẽn lại
một chỗ".
Hồ nước ở đất liền cũng có
ngư trận, có điều ở đây không có dấu vết của con người, bầy cá chắc là không
nhất thiết phải bày binh bố trận đề phòng con người tới bắt như vậy chứ, trừ
phi dưới nước còn có thứ gì còn chưa rõ đang uy hiếp đến sự sinh tồn của chúng.
Ngoài tôi và Tuyền béo ra,
những người còn lại đều chưa từng nghe nói tới ngư trận. Ở miền duyên hải Phúc
Kiến của chúng tôi, có rất nhiều loại truyền thuyết này, ngư trận cũng có ở các
hồ nước ngọt trong đất liền, nhưng không biết vì sao, hai mươi năm trở lại đây
cực kỳ hiếm thấy. Ngư trận, còn có cái tên là "bức tường cá", là một
dạng hành vi siêu tự nhiên của loài cá mà các nhà sinh vật học đến giờ vẫn
không có cách nào giải thích được. Những con cá cùng loài ở dưới nước tụ tập
lại với số lượng lớn, cùng cắn đuôi nhau, đầu đuôi gắn kết, từng vòng từng vòng
xoay thành trận tròn, bất kể nhỏ to lớn bé, vây chặt lại thành tầng tầng lớp
lớp, phạm vi có lúc kéo tới mấy dặm.
Loài cá trong hồ nước ngọt
kết thành ngư trận, một là để phòng "ma đen" ( chim cồng cộc) bắt;
hai là để chống lại sự tấn công của động vật săn mồi dưới nước, bởi nhìn từ xa
dưới nước, ngư trận giống như một con quái vật khổng lồ đen sì đang bơi nhởn
nhơ, đủ để dọa bất kỳ thiên địch nào; cũng có khả năng do khí hậu hoặc sự thay
đổi đột ngột của môi trường, bầy cá kinh hãi, bầy binh bố trận để tự bảo vệ.
Mọi người ngồi bên bờ sông
ăn uống một chút cho lại sức để còn bơi lội, nhân tiện xác định kế sách làm sao
vượt qua được ngư trận phía sau bức tường thủy tinh, việc này tốn rất nhiều nơ
ron thần kinh.
Shirley Dương tìm tờ giấy,
vẽ phác lại tình hình dưới sông theo tường thuật của Tuyền béo. Cánh cửa Tai
họa có một thông đạo rộng cỡ bảy, tám mét, dài chừng hai mươi mét, sau khi ra
khỏi thông đạo, địa thế có hình loa kèn, phía trước chật, phía sau rộng, tuy
nhiên ở miệng kèn lại có hàng ngàn hàng vạn con cá da trơn râu trắng túm tụm
lại thành một ngư trận lớn như cái thùng phuy di động, chặn đứng lối thông ra vùng
hồ bên ngoài. Cá râu trắng là loài cá đặc biệt chỉ sống được trong môi trường
nước ở vùng núi Kelamer, đặc điểm của nó là da trơn láng không vảy, toàn thân
màu xanh, duy chỉ có râu và miệng là màu trắng, cho nên mới có cái tên như vậy.
Tuyền béo nói những con cá râu trắng phía sau Cánh cửa Tai họa to nhỏ không
đều, nhưng nói chung thì đều có đuôi dài hơn nửa mét. Ngư trận khổng lồ đó cứ
cuộn đi cuộn lại, căn bản không thể nào xuyên qua được.
Shirley Dương nói :"
Cá râu trắng tuy không gây sát thương cho con người, nhưng với số lượng khổng
lồ như vậy thì lại là một sự uy hiếp ngấm ngầm đấy. Lúc đi xuyên qua dưới nước,
lỡ chẳng may mà bị rớt đoàn, rất có khả năng sẽ bị bầy cá vây chặt lại rồi mất
liên lạc, nên chúng ta phải tìm cách đánh tan ngư trận này đã, sau đó mới đi
được".
Tôi nói với mọi người
:" Từ xưa dân chài muốn phá ngư trận, cần phải có ma soái thân chinh,
chúng ta bây giờ cho dù có ma soái đuổi cá thật, thì e là cũng không đối phó
được với hàng ngàn hàng vạn con cá râu trắng dài hơn nửa mét thế kia".
Bọn Minh Thúc không hiểu
"ma soái" là gì, vội hỏi cho ra nhẽ. Tôi bảo Tuyền béo kể cho họ
nghe. Tuyền béo nói các vị có biết "ma đen" là gì không? Không phải
là con lợn đen theo cách gọi của người Tứ Xuyên đâu. Ở một số làng chài, dân
chài đều nuôi một loài chim nước mỏ to tên là chim cồng cộc, có thể giúp dân
chài bắt cá dưới nước, có điều trước đó phải buộc một sợi dây vào cổ nó, bằng
không nó bắt được cá là xực luôn. Loài chim nước này dân gian còn gọi là
"ma đen".
Phàm nơi nào nuôi ma đen
bắt cá, ở những vùng sông hồ rộng lớn, bất kể nuôi bao nhiêu con, đều phải có
một con ma soái cầm đầu. Ma soái to gấp hai ba lần con cồng cộc bình thường,
chiếc mỏ lớn của nó còn lợi hại hơn cả móc thép, đôi mắt sáng quắc soi mọi ngóc
ngách, trông như con đại bàng. Có lúc ngư dân đi thuyền ra giữa hồ bắt cá,mấy
ngày liền đến cái vảy cá cũng không kiếm được, chứng tỏ bầy cá dưới sông đã vây
thành ngư trận. Lúc này tất cả dân chài sẽ phải gom góp tiền bạc, lập bàn thờ
đốt hương cúng tế thần sông, sau đó thả ma soái xuống nước, bất luận ngư trận
có dày đến thế nào, cũng không chống đỡ nổi hai ba cú chọc xỉa của nó, lập tức
tan vỡ giải tán ngay.
Nhưng cá râu trắng ở đây to
lớn thế kia, cá thường ở sông hồ nội địa bì sao được. Loài cá này mà bơi ở dưới
nước, sức ấy có thể húc ngã con người, e rằng dẫu có ma soái cũng không giải
tán được ngư trận ở đây.
Tuyền béo đang kể cho mọi
người, tôi đã nghĩ xong quyết định, rằng đã tới trước cánh cửa lớn này của Ma
quốc, thì không có lý nào lại rút lui, không có ma soái thì chúng tôi có thuốc
nổ đủ để phá tan bầy cá rồi. Nhưng nếu lặn xuống sông, đi xuyên con đường dưới
nước, thì năm người phải cùng đi một lượt, bởi tôi nom Cánh cửa Tai họa khổng
lồ này không phải là một chỉnh thể, mà là từng khối đá thủy tinh to thể tích cỡ
mười mấy mét vuông được ghép vào, bên trên khắc hàng đống hình vẽ ký hiệu, còn
giữa các tảng đá với nhau thì có vô số kẽ hở, có khả năng là do sức nước chảy
đã tách chúng ra, mà cũng có thể khi xây dựng người ta chủ ý làm vậy để giảm
bớt sức dòng nước xối vào tường. Thuốc nổ dùng để công phá ngư trận không thể
quá ít, ít quá thì sẽ không đánh tan được lũ cá, nhưng nếu nhiều quá, sợ là phá
vỡ mất một góc tường thủy tinh. Bức tường khổng lồ này là di tích từ thời
thượng cổ, nói không chừng rung lên một cái, cả Cánh cửa tai họa này sẽ đổ sụp
như chơi, sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền, nội trong hai phút, đá tảng từ bức
tường chính rơi xuống sẽ lấp chặt thông đạo. Trước đó chừng một phút rưỡi, có
lẽ tương đối an toàn, phải nắm bắt thời cơ trước khi phản ứng dây chuyền xảy
ra, đi xuyên qua cánh cửa, có điều đã đi qua rồi thì đừng hòng nghĩ có thể quay
lại đường cũ.
Tôi nói qua cho mọi người
nghe về những nguy hiểm sắp phải đối mặt, nhất là phải để Minh Thúc chuẩn bị
tâm lý trước, giờ có hối hận muốn quay lại cũng vẫn còn kịp, một khi tiến vào
Cánh cửa Tai họa rồi sẽ không còn đường rút đâu.
Minh Thúc chần chừ mãi hồi
lâu, cuối cùng nghiến răng biểu thị quyết tâm đi cùng chúng tôi. Vậy là mọi
người trang bị gọn gàng, cùng xuống giữa dòng nước. Ba bình oxy, riêng Tuyền
béo dùng một cái, câu ta phụ trách đi đánh bộc phá ngư trận, Shirley Dương và A
Hương dùng chung một cái, tôi và Minh Thúc dùng chung một cái. Lão già này quá
nửa đời người bôn ba trên biển, thành thử rất quen sông nước, xuống một cái là
như con cá già dưới nước vậy, A Hương bơi lội cũng thường thường, nhưng đã có
Shirley Dương chăm sóc, chắc chắn có thể yên tâm được.
Nước sông ngầm ở Kelamer
hết sức đặc biệt, vừa trong vừa trắng, có rất ít thực vật họ tảo, nhiều nhất là
loài tép trong suốt chuyên ăn silic, tạo thành một hệ thống sinh thái đặc biệt
dưới nước. Xuống đáy nước, bật đèn chiếu, thì thấy những quầng sáng trắng lập
lờ khắp nơi, các tảng đá dưới nước toàn là màu trắng.
Trên bức tường thủy tinh
màu lục biếc có một thông đạo rộng gần mười mét, soi đèn chiếu vào, chỉ thấy
vùng nước trước mặt đục ngầu, vô số cá râu trắng con nọ ngậm đuôi con kia, vây
thành một bức tường cá mênh mông hết sức choáng ngợp, bịt kín con đường thông
tới dòng sông bên ngoài. Tốc độ chảy của nước dường như không vì vậy mà chậm
lại, có lẽ sâu hơn nữa dưới đất, có một hệ thống nhanh sông nào đó khác chăng.
Tôi, Minh Thúc, Shirley
Dương, A Hương, cả bốn người dừng lại ở trước cửa hang đợi thời cơ. Tuyền béo
đem thuốc nổ bơi về phía thông đạo, bóng của cậu ta mau chóng mất hút trong
khoảng nước đục trước ngư trận, phải một lúc lâu vẫn chưa thấy quay lại. Có lẽ
ở dưới nước thì sinh ra ảo giác về thời gian, mỗi một giây đều cảm thấy rất
lâu. Tôi giương đèn chiếu lên không ngừng rọi về phía đó, đang sốt ruột, thì
thấy ánh đèn lấp lóe ở vùng nước đối diện, Tuyền béo đang cuống quýt bơi lại.
Tuyền béo vừa bơi về vừa
đưa tay làm ám hiệu, ý là thuốc nổ không dễ đặt cho nên mới mất thời gian,
nhưng sắp sửa nổ rồi. Minh Thúc cũng nghển cổ hóng về phía cửa thông đạo. Tôi
vội ấn đầu lão xuống, nhân tiện với cánh tay ra, gắng kéo giật Tuyền béo đang
bơi lại gần.
Gần như cùng lúc ấy, cả
tầng nước rung chuyển, bức tường thủy tinh kia dường như cũng lắc lư theo. Vụ
nổ lớn dấy lên những luồng sóng xung kích, cuốn theo vô số xác cá nát vụn, bắn
tóe ra. Chúng tôi phủ phục dưới chân tường, qua kính lặn có thể thấy một màn
sương đỏ dày đặc xối ra từ trong Cánh cửa Tai họa, không ai ngờ rằng sức công
phá của vụ nổ lại mạnh thế. Tuyền béo đưa ngang ngón tay ra tỏ ý: hình như
thuốc cho hơi nhiều...
Do thời gian cấp bách, đợt
sóng xung kích vừa qua đi, chúng tôi liền nổi lên mặt nước, định mau chóng bơi
xuyên qua thông đạo. Tôi vừa mới ngẩng đầu lên, còn chưa kịp nhìn rõ tình hình,
chiếc kính lặn đã bị đập một phát, suýt gãy sống mũi, vội nấp ngay ra sau
tường. Bầy cá râu trắng đang kinh sợ ào ào lao xối từ trong thông đạo ra. Những
con cá lớn vây thành ngư trận, lúc vụ nổ xảy ra tinh thần vẫn đang trong trạng
tháo phấn khích cao độ, nói theo cách của các nhà sinh vật học là còn ở trong
cảnh giới "vô ngã", có bị đánh bị chém cũng không biết đau, cho nên
rất khó có thể tản ra khi gặp tác động quấy nhiễu đến từ bên ngoài. Nhưng sức
công phá của vụ nổ quá mạnh, khiến chúng từ trạng thái mộng du đột ngột bừng
tỉnh, tức thời hỗn loạn, mắt mũi đờ đẫn, rối rít quẫy nhau lao ra.
Từng đợt cá lao ra xối xả
như dòng nước lũ, dường như vĩnh viễn không có điểm dừng. Tôi nghĩ bụng phen
này không ổn rồi, cứ tưởng bầy cá sẽ rút ra hướng khác, không ngờ chúng lại mất
phương hướng, một lô xích xông tuồn vào cả trong thông đạo thế này. Thời gian
đã qua hơn phút rưỡi, bầy cá vẫn lũ lượt lao ra không ngừng, thế là chúng tôi
đánh mất cơ hội cuối cùng để thâm nhập vào thành Ác La Hải rồi.
Song đúng lúc ấy, bầy cá
râu trắng đã tuôn hết ra khỏi thông đạo, chúng tôi tranh thủ từng giây bơi vào
trong, nước sông ở đây trộn lẫn với vảy cá, thịt cá thành một vạt đục ngầu, bơi
trong nước, mà cứ thấy lợm giọng buồn nôn, hơn nữa còn gần như không thấy gì
cả, may mà thông đạo này thẳng tuột, cũng không quá dài, cả bọn đành nín thở,
gắng gỏi bơi về phía trước.
Cơ thể chốc chốc lại bị va
đập, vẫn còn không ít con cá lạc đàn bơi loạn xị như lũ nhặng. Bọn cá lớn này ở
dưới nước rất khỏe, trong cơn hỗn loạn, cái túi đeo trên lưng Minh Thúc bị một
con đuôi dài hơn mét rưỡi quất rơi mất, lão muốn quay lại tóm lấy, nhưng bị tôi
và Tuyền béo giật chân kéo cho một phát, lúc này mà quay trở lại chẳng khác nào
tìm đến chỗ chết.
Rốt cuộc cũng coi như vượt
qua được khoảng hai chục mét ấy. Tôi là người cuối cùng chui ra khỏi thông đạo,
nước hồ rất sâu, dòng chảy cũng rất lớn, tuy còn có vô số con cá lớn ở sâu tít
trong ngư trận còn chưa kịp đào tẩu, nhưng cảnh vật dưới nước cũng rõ lên
nhiều, đồng thời đá thủy tinh trên Cánh cửa Tai họa bắt đầu sụp đổ, mấy tảng đá
lớn đã rơi xuống chặn đứng đường rút.
Tôi đưa tay ra hiệu, bảo
mọi người nhanh chóng lần lượt đổi bình oxy cho nhau để hít thở, sau đó cả đoàn
tức tốc bơi chếch lên phía trên. Thế nhưng mọi người vừa định hành động thì đều
cùng lúc sững người ra, lớp ngư trận cuối cùng tan rã, làm lộ ra một con cá râu
trắng to lớn dài mười mấy mét. Dường như nó không hề kinh hãi trước vụ nổ, vẫn
thẩn thơ bơi trong làn nước, đỉnh đầu hồng đỏ, hai mang trắng muốt, râu dài đến
kinh người, trên cái râu dài mấy mét treo đầy cá nhỏ, con cá này rất khó đoán
tuổi, đại loại chắc nó là vua cá của vùng hồ này.
Tuy chúng tôi đều biết
những con cá râu trắng này không tấn công người, song cóc nhảy lên chân, tuy
không cắn cũng khiến người ta giật thót mình. Con cá khổng lồ này quả thực quá
lớn, mọi người đều thộn ra nhìn, không biết nó là cá hay là rồng nữa? Nơi này
làm gì có long môn, mà nếu có long môn, thì con cá già này e là đã hóa rồng
thật rồi. Trong lúc chúng tôi ngây ra như vậy, con cá như con rồng trắng này
quẫy đuôi bơi sâu xuống dưới hồ, giấu đi tung tích. Dòng nước cuộn lên do nó
mới hiện ra làm cho chúng tôi sực tỉnh lại, dắt díu lẫn nhau ngoi lên mặt nước.
Vừa ngoi được đầu lên,
chúng tôi lập tức nhận thấy môi trường ngoài này hoàn toàn khác xa so với trong
kia, dường như là một thế giới khác. Cánh cửa Tai họa sau lưng chúng tôi lởm chởm
những vách đá chót vót cao muôn trượng, bầu trời trên đầu phủ dày mây móc, ngọn
núi tuyết mấy nghìn mét ẩn hiện trong mây, bốn bề núi ôm nước ấp, rừng cây rậm
rịt, bát ngát sum suê hết sức tươi tốt. Quãng gần chúng tôi nhất có một sườn
núi, trong rừng cây mọc bên trên có một con đường rộng rãi ngoằn ngoèo, mặt
đường nhẵn phẳng như gương, nối liền với mặt hồ, có điều núi rừng dày đặc quá
không thấy rõ là dẫn tới đâu.
Minh Thúc thấy có đường đi,
tức thời mừng rỡ ra mặt, nói với tôi :" Chúng ta bơi lại gần đó đi, con
đường này có lẽ dẫn ra ngoài ..."
Tôi cũng đang có ý đó, vừa
hưởng ứng, bỗng nghe thấy Shirley Dương cuống quýt nói :" Không được, mặt
đường nhẵn bóng quá, tuyệt đối không phải đường do con người tạo ra đâu, hẳn là
do con mãnh thú nào đó trườn mình lên lâu năm. Chúng ta mau bơi ra phía tảng
nham thạch màu xanh ở đằng xa kia, bây giờ bơi mau, nhanh nhanh nhanh .. chớ có
dừng lại!".
Chương 21: Chúa
của hồ nước
M inh Thúc vẫn còn do dự, cảm thấy Shirley Dương có chút phức tạp hóa
vấn đề, đường rành rành ra đấy thì không đi, lại cứ bắt phải leo lên cái tảng
nham thạch dốc đứng kia. Tôi và Tuyền béo thì biết Shirley Dương xưa nay rất
nghiêm túc thận trọng trong những chuyện này, chưa đùa cợt bao giờ, sốt sắng
bảo mọi người phải tránh xa ra, chắc chắn là đã phát hiện ra mối nguy hiểm nào
đó rồi, huống hồ tôi nghe cô nàng nói thì cũng nhận ra ngay, con đường trên núi
kia quả thực quá trơn nhẵn, ngay cả cỏ dại cũng không có, chắc chắn không phải
đường cho người đi.
Chúng tôi đang ở giữa hồ
nước, rất gần con đường nhẵn bóng như gương kia, bất kể có con mãnh thú nào từ
phía trên lao xuống, đều không có cách nào chống đỡ được. Tôi bèn cuống quýt
dùng cả tay lẫn chân kéo Minh Thúc và A Hương bơi về phía tảng nham thạch màu
xanh lục ở bên trái hồ nước.
Xung quanh cái hồ này tuy
có rừng cây rậm rạp, nhưng chỗ có thể lên bờ lại không nhiều, ngoài con đường
trơn nhẵn dị thường kia, hai bên còn lại đều là những vách núi cheo leo trông
lên không thấy đỉnh, cộng với một tảng nham thạch lớn màu xanh, cao chừng mười
mấy mét ở bên trái, muốn leo lên cũng phải tốn không ít sức lực.
Chúng tôi bơi tới chân tảng
nham thạch, vừa mới đưa tay chạm vào vách đá lạnh ngắt, bên tai đã nghe thấy
tiếng đá vụn bị chà xát vang lên ở đầu bên kia của con đường trên núi, dường
như có con vật to lớn đang nhanh nhẹn bò ra từ sâu trong rừng núi rậm rì. Mọi
người đều ngẩn ra, âm thanh kia đến quá nhanh. Loài động vật có thể dùng cơ thể
mài nhẵn cả con đường núi ấy nếu không phải mãng xà khổng lồ thì cũng là mãnh
thú sống sâu trong núi Côn Luân như cá sấu long vương, bất kể là gì, hẳn sẽ cho
chúng tôi nếm đủ. Cả bọn liền gấp rút dùng cuốc chim leo núi móc vào tảng đá
leo lên.
Hiềm nỗi trên vách đá có
rất nhiều rêu, vừa trơn vừa dốc, cuốc chim không có tác dụng mấy. Phi hổ trảo
của Shirley Dương lại ở trong túi chưa lấy ra, đành phải tìm một dây thừng leo
núi thắt một vòng, sử dụng kỹ thuật thòng dây cổ ngựa cô nàng học được ở Texas,
tung lên quàng vào một mỏm đá nhô ra.
Thân thủ của Minh Thúc nom
không hề giống người hơn năm mươi tuổi chút nào, y như con vượn già, quả không
hổ danh là tay thủy thủ lão luyện trên biển. Khi phải chạy trốn giữ mạng thì
lão nhanh chân hơn bất cứ ai, sột soạt vài cái là đã giật dây, tranh bò lên một
cái bục tự nhiên giữa lưng chừng khối đá trước rồi. Tôi và Tuyền béo, Shirley
Dương ở phía dưới nâng A Hương, Minh Thúc ở trên đưa tay xuống kéo cô con gái
nuôi.
Sau khi Shirley Dương leo
lên, mỏm đá mắc vòng dây thừng đã lung lay, Tuyền béo giật một cái thì cả dây
lẫn đá rơi tõm xuống nước. Shirley Dương đang chuẩn bị thắt lại dây thừng, tôi
và Tuyền béo đã nghe thấy sau lưng vang lên một tiếng "ùm" thật lớn,
có thứ gì đó từ trên núi vừa trườn xuống, lặn sâu dưới mặt hồ. Shirley Dương và
Minh Thúc liền nhanh chóng thòng dây thừng xuống đón chúng tôi.
Minh Thúc vừa rồi đứng trên
cao đã trông thấy con quái vật dưới nước. Lão khọm này xưa nay có cái tật, có
khả năng là triệu chứng của bệnh liệt rung Parkinson giai đoạn đầu, hễ căng
thẳng là tay cực run, bất kể đang cầm thứ gì, đều sẽ nắm không chặt, sớm muộn
gì rồi cũng thả rơi ra. Lúc này cũng thể, trong tay lão đang cầm đinh găm, định
bụng sẽ cố định nó vào vách đá cho chặt, đột nhiên run run đánh rơi xuống nước.
Tôi và Tuyền béo vừa mới
bắt được sợi dây, không ngờ còn chưa dùng sức kéo, cả cái dây lẫn đinh găm đều
rơi cả xuống. Hai chúng tôi chỉ còn nước tức điên lên chửi lão đồ ngây ngây
ngẩn ngẩn, đúng là vô tích sự.
Shirley Dương định lấy sợi
dây thừng khác ra, nhưng lập tức nhận ra đã không kịp nữa, liền chỉ xuống dưới
mặt nước nói :" Mau chui vào trong hang đá dưới nước trốn đi cái đã!".
Tôi và Tuyền béo không biết
con quái vật dưới nước kia rốt cuộc là con gì, chỉ chắc chắn là thứ khó xơi.
Trong chớp mắt nó đã lù lù xuất hiện. Hai thằng bất đắc dĩ đành phải nín thở
lặn xuống đáy. Hồ nước này không sâu, nước trong vắt, những khối nham thạch bên
dưới trắng tinh. Đáy hồ có một vài lỗ thấm nước, ngoài ra còn có mấy cái hang
lõm rất sâu, có thể nói là thủng lỗ chỗ. Địa mạo nơi này, trước khi ngập nước
thì đã bị phong hóa, trở thành một hồ nước đặc biệt.
Trải qua hàng ngàn vạn năm
vật đổi sao dời, những tảng nham thạch phong hóa đã chìm xuống đáy nước, có lẽ
khi hồ này hết tuổi thọ, những hố đã lõm do gió bào mòn sẽ sụp xuống, nước của
cả vùng hồ trong núi này sẽ xối thẳng xuống, tạo nên một thác nước trong lòng
đất.
Dưới nước, cá mú tùm lum
cả, ngoài những con cá da trơn râu trắng số lượng đông nhất ra, còn có lác đác
cá vảy đỏ nứt bụng và cá nhỏ đuôi dài vây đen nữa, không biết do vụ nổ vừa nãy
ở Cánh cửa tai họa, hay là do con quái vật đột ngột trườn xuống hồ, chúng rõ ràng
rất bị kinh động, láo nháo bơi vào hang lẩn tránh. Cá râu trắng, trước khi cơ
thể lớn lên đến kích cỡ như thế, có lẽ từng là một phân chi của loài cá trê,
chắc chắn không thích nghi được với môi trường ngầm dưới lòng đất, sau cơn kinh
hoảng ào ào chui vào trong Cánh cửa tai họa đã lại lũ lượt bơi về, có lẽ thà
mạo hiểm cho con quái vật ăn thịt, còn hơn rời xa vùng hồ ấm áp thoải mái này.
Tôi vừa lặn xuống dưới
nước, thì phát hiện ra trong bầy cá đang bơi hoảng loạn, có một con vật dài
chừng năm sáu mét, bốn chân ngắn, thân mình vằn vện đen trắng, trông giống con
thằn lằn lớn, lại như một quả ngư lôi, vừa cắm xuống dưới đáy nước liền lao
mạnh về phía chúng tôi.
Trong đầu tôi đột nhiên
hiện ra tên của một mãnh thú, giao long vằn, con vật thích nóng sợ lạnh. Năm
1972 anh em bộ đội thi công dưới sông băng Mectabuchal ở núi Côn Luân, từng đào
được xác đóng băng của con mãnh thú này, có người muốn đem làm tiêu bản, nhưng
sau đó không rõ vì sao mà không thành công. Bấy giờ chúng tôi còn rong ruổi mấy
trăm dặm đường núi tới tham quan xác nó nữa. Đúng là không xong rồi, của nợ này
còn dữ hơn cả cá sấu long vương, da thô thịt chắc, đến cả súng đạn cũng khó mà
làm gì nổi nó.
Tuyền béo và tôi thấy con
giao long vằn lao đến vùn vụt, hơi hốt hoảng, nhưng lập tức lặn xuống dưới một
tảng nham thạch hình thù kỳ dị chọc thẳng lên dưới đáy hồ, cái đầu hình tam
giác cứng chắc của con giao long va vào tảng đá, tảng đá trắng giòn lập tức vỡ
ra vô số khối đá vụn, nó lại tức khí lao vọt lên trên.
Tôi chột dạ, không xong
rồi, nó định lao ra khỏi mặt nước tấn công Shirley Dương và bố con Minh Thúc
trên tảng đá. Bỗng thấy bọt nước bắn tung tóe, con giao long lại xuống dưới hồ
rơi đánh ùm một cái, xem ra với sức bật vừa rồi, chưa đủ để nó chạm tới con mồi
ở trên tảng nham thạch. Con giao long ngay sau đó lại cuộn tròn xông xxuống
phía dưới, nhưng có vẻ như nó không xác định rõ mục tiêu cố định, cứ đâm chỗ nọ
chọc chỗ kia, loay hoay trong hồ. Bầy cá chưa kịp lẩn tránh, bị nó nhai ngấu
nghiến hết cả.
Tôi nhân cơ hội đón lấy
bình dưỡng khí của Tuyền béo hít hai hơi. Hai thằng nhân lúc rối ren lẩn vào
một cái hang ở đáy hồ. Trong hang cũng nêm chặt những con cá tị nạn, hai thằng
chúng tôi với đàn cá chẳng ai để ý đến ai nữa, đứa nào lo phận đứa ấy. Tôi mau
chóng hiểu ra ý đồ của con giao long vằn kia, nó không ngừng quẫy trong hồ, là
muốn đuổi những con cá nấp trong hang ra, những con cá râu trắng quả nhiên kinh
hãi không chịu nổi, từ trong hang bơi vọt ra xung quanh. Con giao long liền
nhân cơ hội ấy mà đại khai sát giới, như thể nó có mối thâm thù huyết hận với
bầy cá này hay sao ấy, chứ tuyệt đối không chỉ đơn thuần là ăn cho no bụng.
Trước đó bầy cá râu trắng
kết thành ngư trận, có lẽ là để phòng ngự trước con thiên địch tàn bạo này.
Nước hồ trong suốt mau
chóng bị máu cá nhuốm đỏ, xác cá bị cắn nát trôi lập lờ khắp nơi. Tôi và Tuyền
béo nấp trong động trông mà thấy rùng mình, muốn nhân cơ hội chuồn ra chân tảng
đá để bò lên, có điều bò lên ít nhất cũng phải mất mấy phút, chẳng may giữa
đường đụng phải con giao long vằn vện hai mắt đỏ ngầu này thì toi đời, tốc độ
bơi trong nước của nó còn nhanh hơn cả ngư lôi, nếu không thể dựa vào địa hình
có lợi để né tránh, thì bất luận là ở trên đất liền hay ở dưới nước cũng sẽ
không thể có cơ hội sống sót, thôi thì đành nán lại dưới đáy hồ nhẫn nại đợi thời
cơ vậy.
Oxy trong bình dưỡng khí
Tuyền béo mang theo không còn nhiều nữa, trong lúc không để ý, đáy hồ đột nhiên
xuất hiện một cảnh tượng thảm khốc. Con giao long đang đuổi theo cắn đớp loạn
xị bầy cá, vừa vặn bơi tới trước cửa hang chúng tôi náu mình. Bấy giờ chỉ thấy
trong khoảng nước lẫn máu tươi có một bóng trắng vụt qua. Con cá râu trắng già
ở đáy hồ đã xuất hiện từ lúc nào. Nó oằn mình, quật đầu, húc một cú thô bạo vào
cái bụng nhỏ mềm yếu nhất trên mình con giao long. Con giao long bị húc lộn nhào
trong nước, oằn cả thân mình quái dị, nhưng lập tức lao thẳng đến, đớp ngay vào
sống lưng con cá già râu trắng. Loài cá râu trắng này tuy không có vảy, nhưng
da nó lại có những vảy thịt lăn tăn như vệt sóng, hết sức rắn chắc, nhất là con
cá này đã già, thân hình to lớn, vảy thịt của nó càng rắn chắc bội phần.
Con giao long cậy có răng
nhọn, da dày, móng sắc, con cá râu trắng già kia thì sống lâu năm, kinh nghiệm
phong phú, thân hình thì vừa dài vừa to, vảy thịt kiên cố, có bị cắn mấy phát
cũng không đến nỗi chí mạng, đôi bên quấn lấy nhau, nhất thời khó mà chia tách
ra được. Cả vùng hồ như có xoáy nước lớn, nhưng do nước từ lòng núi đổ vào rất
nhiều, lượng nước thấm qua các lỗ thấm ở đáy hồ cũng không ít, bao nhiêu máu me
tuôn ra tới đâu là bị cuốn đi tới đó, nước trong hồ vì thế mà vẫn trong suốt
sáng trắng.
Tôi và Tuyền béo nhìn thấy
thì hiểu ra ngay đây chẳng khác nào cuộc giao tranh giữa hai con hổ dữ, quyết
chiến vì tranh giành đất sống. Nhưng vì sao chúng lại quyết chiến một mất một
còn ác liệt như vậy? Phải chăng vì chất nước đặc biệt của hồ? Hay là vì thù oán
giữa hai loài thiên địch? Chúng tôi không tài nào luận đoán ra được, nhưng muốn
thoát khỏi mặt hồ thì phải tranh thủ ngay lúc này, liền chia nhau hít hết số
oxy còn lại trong bình dưỡng khí, tránh xa cuộc ác chiến giữa con giao long vằn
và con cá già râu trắng, men theo rìa nham thạch, bơi lên khỏi mặt nước.
Shirley Dương từ trên tảng
đá quan sát tình hình dưới hồ, còn nhìn rõ hơn chúng tôi nhiều, thấy chúng tôi
nhân cơ hội bơi lên, liền thả dây thừng xuống, lần này không dám để cho Minh
Thúc giúp một tay nữa.
Khi tôi leo được lên tảng
đá, quay lại nhìn xuống, con cá già đã chiếm thế thượng phong, đang húc con
giao long xuống dưới đáy hồ, miệng con giao long hộc cả bọt máu, trông chừng
không thể chống chọi được nữa. Đợi đến khi tôi leo hẳn lên tảng nham thạch, thì
phát hiện ra tình thế đã đột ngột thay đổi, từ trên con đường núi kia lại có
một con giao long to hơn nữa bò ra, con cá già râu trắng chỉ chăm chú đối đầu
đằng trước, mà không hề phòng bị phía sau, con giao long vằn kia lẻn tới đớp
chặt lấy mang cá, lôi nó vào trong hang động lớn nhất ở sâu dưới đáy hồ.
Xem chừng cuộc ác chiến
tranh đoạt vương vị ở hồ nước này sắp đến hồi kết thúc, Tuyền béo vuốt nước
trên mặt nói :" Đợi chúng cắn nhau xong, ta còn phải tranh thủ thời gian
xuống vớt ít thịt cá. Minh Thúc vứt cả túi thực phẩm sau bức tường thủy tinh
rồi, bằng không tối nay chúng ta chết đói cả lũ".
Tôi nói với cậu ta :"
Dưới nước nguy hiểm lắm, đừng vì con săn sắt mà thả con cá rô đi như thế. Trong
ba lô của tôi còn đồ ăn đấy, ta có thể dựa theo cách năm xưa chủ tịch dạy chúng
ta, lúc bận thì ăn khô, lúc rảnh thì ăn nhão, lúc không bận không rảnh, ăn nửa
khô nửa nhão, mọi người ăn tiết kiệm một chút, thì có thể đối phó được hai ba
ngày".
Tuyền béo nói :" Có
thực mới vực được đạo bố ạ. Lát nữa tôi thế nào cũng phải đi bắt cá, trong chốn
rừng thiêng núi độc này làm gì có lúc nào nhàn rỗi, có khi sắp tới lại đụng
phải con gì cũng nên, chết xuống âm phủ làm ma đói cũng vẫn bị bắt nạt thôi".
Shirley Dương chăm chú theo
dõi động tĩnh dưới hồ, rõ ràng vẫn cảm thấy cuộc ác chiến dưới hồ vẫn chưa kết
thúc, nghe thấy tôi với Tuyền béo nói chuyện, bèn lên tiếng :" Cá ở đây
không thể ăn đâu. Năm xưa cư dân ở thành Ác La Hải đều biến mất chỉ trong một
đêm, người bên ngoài không hiểu có chuyện gì xảy ra. Những câu chuyện xoay
quanh sự hủy diệt của thành Ác La Hải nhiều lắm, nhưng ở Tây Tạng quả thực từ
xưa đã có tục không ăn cá, vả lại cả một bầy cá râu trắng to thế này cũng quả
thực rất cổ quái, chúng ta tốt nhất đừng tự chuốc phiền phức ..."
Trong dòng nước giữa hồ,
bỗng nhiên xuất hiện hàng vạn con cá râu trắng, ních kín lại với nhau, dường
như muốn xuống đáy hồ giải cứu con cá già.
Bấy giờ sắc trời đã muộn,
hoàng hôn nhá nhem, để xem cho rõ hơn, tôi leo lên chõ cao nhất trên tảng đá.
Cảnh vật hiện ra đằng sau tảng đá còn khiến người ta giật mình choáng ngợp hơn
cả trận kịch chiến của bầy cá giữa hồ. Phía sau tảng nham thạch là một vùng đất
trũng thấp hơn so với mặt hồ, có một tòa thành cổ bằng nham thạch bị phong hóa
thủng lỗ chỗ như tổ ong, ít nhất cũng có mười mấy tầng, chót vót cắm giữa vùng
đất trũng, vây quanh toàn là những tảng nham thạch trắng ơn ởn, các hốc lỗ bên
trên nhiều không đếm xuể. Khu vực này khác hẳn với vùng rừng rậm thâm u xung
quanh, không có một bóng cây lụn cỏ nào cả. Trên nóc tòa thành trông như tổ ong
kia, có một quả nhãn cầu làm bằng một khối đá lớn, lẽ nào đây chính là thành Ác
La Hải trong truyền thuyết cổ xưa? Vậy nhưng tôi không hề cảm thấy vui mừng
chút nào vì lặn lội vạn dặm trường đã tới đích, mà ngược lại tóc gáy dựng hết
cả lên, bởi điều khiến người ta rợn người là, trong tòa thành này không những
đèn đuốc sáng trưng, mà còn rặt một mùi chết chóc nặng nề.
Ráng chiều trùm lên thành
Ác La Hải lốm đốm ánh đèn như những vì sao, làn sương mơ hồ nửa hư nửa thực bao
trùm khiến cảnh tượng trở nên mờ ảo vô cùng. Có vẻ như cư dân trong tòa thành
cổ này đã đốt đèn, chuẩn bị đón bóng đêm buông xuống, nhưng trong thành lại im
lìm vắng lặng như đã chết, không có chút cảm giác có sự sống nào. Mới nhìn qua,
tôi đã vã cả mồ hôi, tương truyền cư dân trong thành này đều đã mất tích một
cách kỳ lạ, những tín đồ Luân Hồi tông đời sau cũng tuyệt diệt cách đây mấy
trăm năm rồi, trong thành sao lại có thể có ánh sáng của đèn đuốc cho được? Mà
tòa thành có thể chứa hàng vạn người lại không có mảy may động tĩnh gì, xem
chừng nó không phải là "thành chết" mà là một tòa "Thành
ma".
Đúng lúc tôi kinh ngạc khôn
cùng, những người còn lại cũng lục tục leo lên đỉnh tảng nham thạch. Tất cả đều
giống tôi, nhìn thấy tòa thành cổ sót lại giữa hai thế giới sống và chết, đều
ngây người ra hồi lâu không nói được lời nào.
Tương truyền thành cổ
Pompeii thời La Mã bị phá hủy chỉ trong một đêm do núi lửa phun trào. Trong các
đợt khai quật khảo cổ sau này, người ta phát hiện ra cư dân trong thành khi
chết đều giữ nguyên bộ dạng đang sinh hoạt bình thường trong nhà, trạng thái
của tòa thành Pompeii vĩnh viễn ngưng kết lại trong khoảnh khắc bị hủy diệt ấy.
Vậy mà tòa thành cổ trước
mắt chúng tôi, cư dân sống trong đó dường như bốc hơi đi đâu hết cả, chỉ còn
mỗi tòa thành lỗ chỗ như tổ ong, đèn đuốc thắp sáng, đứng sừng sững trong sắc
chiều bảng lảng. Nó được giữ lại hoàn hảo như vậy, khiến người ta cảm thấy
dường như nó thoát ra khỏi xiềng xích của thời gian, trong mấy ngàn năm nay
chưa từng có bất kỳ thay đổi nào. Rốt cuộc trong thành đã xảy ra tai họa gì?
Chúng tôi đều không khỏi
nghĩ đây là "thành ma ảo giác", có điều hỏi A Hương thì lại nhận được
câu trả lời phủ định, nơi này đích thực tồn tại hẳn hoi, hoàn toàn không phải
là "thành ma ảo giác" do vong linh của người chết dựng nên.
Chúng tôi đang bàn bạc xem
phải vào thành thế nào, bỗng nghe thấy tiếng nước hồ dưới kia sôi lên cuồn
cuộn. Trời vẫn chưa tối hẳn, từ trên cao nhìn xuống, cả vùng hồ trong suốt như
pha lê hiện rõ trước mắt, con cá già râu trắng và hai con giao long sau một hồi
ác chiến đã phân thắng bại, hàng ngàn hàng vạn con cá râu trắng đã gắng hết sức
mình dùng cơ thể húc vào con giao long, để giúp đỡ cụ cố của chúng.
Trên đỉnh đầu của cá râu
trắng đều có một vết chàm đỏ, chỗ đó dường như là rắn chắc nhất của chúng, mỗi
con trung bình đều dài tầm nửa mét, nếu lao vụt về phía trước thì có thể đủ húc
cho người ta hộc máu ra. Đôi giao long vằn kia tuy hung bạo, ngoan cường, bị
tám chín con cá lớn húc vào cũng không cảm thấy gì, nhưng hàng vạn con cá lớn
cùng lúc tấn công điên cuồng thì không tài nào đỡ được, huống hồ con cá già lại
nhân cơ hội phản công, đôi giao long không chống trả được, đành chuồn vào rừng
rậm trên bờ hồ, quật cây cối nghiêng ngả, chỉ trong giây lát đã mất tăm mất
tích.
Con cá già bị thương khắp
mình nổi lên mặt hồ, vây thịt bị con giao long cắn đứt, hai mang cũng bị xé
rách một mảng lớn. Các con cá con cá cháu của nó vây quanh lại, há miệng ngậm
chặt vết thương, cá râu trắng tụ tập lại càng ngày càng nhiều, thoáng một cái,
đã lần nữa vây thành ngư trận, cả một khoảng bóng đen sì ngợp mắt, che kín hết
mặt hồ.
Tôi trông vòng ngư trận từ
từ chìm xuống đáy hồ, bụng nghĩ giữa cá râu trắng và giao long vằn chắc chắn
thường xuyên xảy ra xung đột quyết liệt. Giao long vằn dường như chỉ muốn giết
sạch bầy cá này, mà không chỉ để săn mồi ăn cho no bụng, nhưng bầy cá có cá
chúa thống soái, giao long vằn tuy lợi hại, cũng khó mà ăn hiếp được. Lẽ nào
mâu thuẫn giữa chúng, chỉ là do xuất phát từ ham muốn chiếm đoạt khu hồ phong
hóa hiếm thấy này sao? Khu hồ này rốt cuộc có chỗ nào đặc biệt?Điều này có lẽ
liên quan tới rất nhiều bí mật cổ xưa, có điều trước mắt không cần để ý bấy
nhiêu thứ ấy làm gì, tranh thủ trời còn chưa tối hẳn, tiến vào thành Ác La Hải
cái đã.
Chương 22: Đầu
bò
S hirley Dương hỏi tôi xem có phải trực tiếp tiến vào thành
không.Trong thành rõ ràng là sáng đèn,nhưng lại im lặng đến kỳ lạ,bấy nhiêu vẻ
quái dị như vậy,thực khiến người ta nhìn mà phát hãi.
Tôi nói với Shirley
Dương:"Không vào hang cọp sao bắt được cọp con.A Hương đã nói trong tòa
thành này không có thứ gì không sạch sẽ,tôi nghĩ bao mươi sáu kế của ta thất
bại thì cũng thất bại rồi,giờ chẳng còn gì phải sợ cả.Chỉ có điều tòa thành cổ
này quả thực từ trong ra ngoài đều toát lên một luồng tà khí,dường như còn ẩn
chứa một số bí mật khó tưởng tượng,chúng ta chỉ còn cách bất chấp cái vẻ quái
gở đó,thẳng tiến là thẳng tiến thôi!"
Vậy là mọi người xốc lại đồ
đạc vật dụng,tìm đường vào thành.
Tòa thành cổ trông như cái
tổ ong lớn,lún sâu vào đất,tường thành màu trắng vây quanh dường như chỉ để làm
cảnh,không có mấy tác dụng phòng ngự quân sự,nhưng quy mô rất lớn,muốn đi vòng
xuống cũng phải tốn rất nhiều sức.Có rất nhiều làn sương mỏng kỳ lạ chờn vờn trong
thành.Các căn nhà ở nơi đây toàn là những hang động trong tổ ong nối thông với
nhau.Chúng tôi sợ lạc đường,không dám mạo hiểm đi vào,chỉ đứng ở ngoài nhìn vào
mấy cái động,càng nhìn càng thấy khiếp vía.
Trong thành không một bóng
người,nhưng mười nhà thì có tới bảy tám nhà đốt đèn,mà đều không phải loại đèn
trường minh vĩnh cửu gì,toàn dùng nhiên liệu cổ xưa chế từ phân khô của thú
hoang kết hợp với hỗn hợp mỡ dầu,vẻ như vừa mới được thắp lên chưa lâu.Hơn nữa
thành trì động huyệt tuy cổ xưa,lại tuyệt nhiên không bị tàn phá như những di
tích cổ ngàn năm,một số đồ vật và da thú bên trong trông như mới,còn có những
chén uống rượu bằng nửa hộp sọ mài nhẵn bóng.Thời gian nơi đây quả thực như
đông kết lại,có lẽ dây phút ngưng đọng định hình này chính là khoảnh khắc cư
dân trong tòa thành này biến mất.
Chúng tôi bàn bạc một
chút,đều thấy là giữa đêm đen cứ đi lung tung trong thành rất dễ lạc đường.Vả
lại đường phố Ác La Hải,và cả những công trình quan trọng của tòa thành như
trung tâm hành chính,giáo dục,thờ tự,có khả năng đều nằm sâu trong tổ ong lớn
kia.Tòa thành với ngàn vạn hộ dân cư này là kết cấu hoàn toàn khác thành trì
bình thường,nên cách yên ổn nhất trước mắt là đợi sáng mai nhìn rõ kết cấu tổ
ong ở ngoại vi đã,rồi tìm đường tắt thâm nhập vào đàn tế,quyết không thể lỗ
mãng đi bừa vào được.Lúc cần phải làm thằng khốn nạn,tự nhiên sẽ rõ mặt khốn
nạn,song lúc cần phải cẩn thận thì cũng quyết không được manh động.
Chúng tôi vốn định đi tới
tường thành thì ở đó qua đêm,nhưng khi đi qua một hang động ở chân tương,Tuyền
béo như chó săn đánh hơi thấy con mồi,khịt khịt mũi nói:"Mùi gì thơm thế
nhỉ?Hình như nhà ai đang hầm thịt bò.Kệ thây thằng Ma Vương chứ,cái này thì quả
là gãi đúng chỗ ngứa của ông béo mày rồi!"
Nghe Tuyền béo nói,bản thân
tôi dường như cũng ngửi thấy mùi thơm của thịt bò hầm tỏa ra từ cái động kia,mà
tôi thì đang rầu rĩ vì thực phẩm còn ít ỏi,không đủ phân phát.Vừa nãy ở ven hò
nói là có thể đối phó được hai ba ngày,cũng chỉ để an ủi đồng bào thôi,chứ thực
ra nào có đủ ăn bữa đâu.Giờ này lại ngửi thấy mùi thịt,đương nhiên phải vào đó
xem thế nào rồi.Vậy là liền cùng Tuyền béo dẫn đầu đoàn tiến vào căn phòng
trong hang.Một chiếc nồi đá trong phòng quả thực đang hầm như thịt bò Yak,hơi
nước cuộn lên sùng sục,mùi thơm sực mũi,thật sự là ngon đáo để.
Tuyền béo nuốt nước bọt,nói
với tôi:"Nhất này,ta đúng là ước gì được nấy nhỉ,cứ bảo pho mát thơm
ngon,nhưng chẳng bằng món ăn tsampa Tây Tạng,mà tsampa tuy ngon,nhưng ăn lại
không no lâu bằng thịt bò Yak.Nồi thịt bò này được chuẩn bị cho mình đấy nhỉ?Thứ
này...có thể ăn được chứ?
Trong tòa thành cổ không
một bóng người,lại có một thịt bò đang hầm vừa chín tới,quả thực khó mà dùng lý
lẽ thông thường để dò đoán được.Tôi nhớ vụ đi cải tạo lao động thời Cách mạng
Văn hóa,ở trong núi Tim Trâu có thế chín rồng chầu sen ngọc đã từng ăn phải hoa
quả rởm của con mụ già,đây liệu có phải là thành phố ma của những u hồn
không?Toàn là bùa mê thuốc lú,ếch nhái,giun đất đánh lừa con mắt,ăn vào là đau
bụng chăng?Nghĩ đến đây,tôi bần thần cả người,trong lòng tuy rất muốn lực một
miếng thịt bò chín nhừ thật to đánh chén một bữa,nhưng lý trí mách bảo,thứ thịt
này lai lịch bất minh,không ăn thì hơn,trông thì giống thịt bò đấy,nhưng ai dám
chắc không phải là thịt người chứ.
Minh Thúc lúc này đã đói
hóp cả bụng.Lão và Tuyền béo đều hau háu nhìn những miếng thịt bò trong nồi,cứ
nhìn chằm chằm như thế cả hai chắc đã no mắt lắm rồi.
Tôi hỏi Shirley Dương nhìn
nhận thế nào về nồi thịt này,Shirley Dương lắc đầu một cách rất dứt khoát,lại
hỏi A Hương để xác nhận lại một lần nữa,nồi thịt đang hầm này,thực sự là nồi
thịt thật,không hề giả mạo một chút nào.
Tuyền béo nghe A Hương nói
vậy,chẳng đợi được nữa,cũng chẳng sợ nóng bỏng,thò tay bấu lấy một miếng thịt
bò bỏ vào mồm:"Tôi xả thân vì nghĩa,nếm trước hộ các đồng chí,trong thịt
này có thuốc độc gì thì nó sẽ ngấm vào người tôi trước."Cậu ta vừa ăn vừa
nói,mà nói chưa hết một câu,đã ăn bảy tám miếng thịt vào bụng rồi,muốn ngăn lại
cũng không ngăn nổi.
Chúng tôi chờ một lúc,xem
chừng Tuyền béo ăn xong thật sự không có vấn đề gì,lúc ấy cậu ta đã xực vơi nửa
nồi thịt bò,chờ thêm nữa thì mả mẹ nó đến rau cũng chẳng còn mà húp ấy chứ.Nếu
đã không có độc,thì có gì mà không dám ăn,thế là mọi người hạ quyết tâm thà
chết cũng không chịu làm ma đói,dùng do lính dù xọc thịt bò trong nồi nhấc ra
ăn.
Tôi đang ăn đột nhiên nhớ
ra một việc,liền nói với Minh Thúc:"Ngày mai,trời vừa sáng là ta phải tiến
sâu vào trong tổ ong lớn kia.Liệu sẽ phải đối mặt với những nguy hiểm gì còn
chưa biết,tôi đoán cũng chẳng yên bình gì đâu.Bác và A Hương cứ ở lại ngoài
thành cho an toàn,đợi chúng tôi xong việc sẽ ra đón hai bố con."
Minh Thúc mồm đang nhét mấy
miếng thịt bò,muốn nói lắm nhưng không nói được,vội vàng nuốt chửng luôn nghẹn
ứ ở cổ họng,một lúc lâu sau mới nói với tôi:"Chúng ta sớm muộn cũng là
người một nhà,sao lại nói khách sáo thế?Anh và A Hương tuy không có bản lĩnh
lẵm,nhưng vẫn có thể giúp chú phần nào cơ mà."
Lúc trước Minh Thúc nói sẽ
gả A Hương cho tôi,nhưng đấy là chuyện bàn riêng giữa hai người,tôi chưa hề
đồng ý.Bây giờ lão ta lại nói sớm muộn gì cũng là người một nhà gì gì
đó,Shirley Dương nghe thấy bèn lập tức hỏi:"Cái gì người một nhà cơ?Bác
định làm thông gia với nhà anh Nhất này á?"
Minh Thúc đáp:"Đúng
rồi,anh thấy chú Nhất nhân phẩm quá tốt,mà trai khôn dựng vợ,gái lớn gả
chồng,anh lại là người lớn,thì phải lo cho chúng thôi.Con gái nuôi anh gả được
cho chú ấy thì coi như có thể trông cậy được cả đời rồi,anh chết cũng nhắm
mắt,cũng coi như không có gì khuất tất với bộ mẹ ruột của A Hương."
Tôi vội ngắt lời
lão:"Hàng ngàn năm trở lại đây,máu của nhân dân lao động Trung Quốc đã
chảy thành sông thành bể,có đấu tranh có thất bại,có thất bại rồi lại có đấu
tranh,cho đến khi giành được thắng lợi cuối cùng mới thôi,tất cả cũng là vì lật
đổ ba ngọn núi lớn đè trên mình nhân dân Trung Quốc.Một nửa quãng đời của tôi
đã được thay đổi,đến giờ lại muốn sắp đặt cuộc hôn nhân trọn gói của chế độ
phong kiến cho tôi sao?Muốn tôi phải chịu khổ,một cổ hai tròng à?Tôi kiên quyết
phản đối,ai mà còn nhắc lại,thì cẩn thận với tôi đấy!"
Lúc này,Tuyền béo đã kịp ăn
no.Cậu chàng vốn chỉ lo thiên hạ không loạn,nghe thấy chúng tôi nói qua nói lại
như vậy,lập tức chõ mõm vào cho thêm phần rôm rả,bảo Minh Thúc:"Ông bác
Minh của tôi ơi,bác mặc kệ thằng Nhất này đi,bác có nhã ý gả vợ cho hắn,có khác
nào miếng bánh từ trên trời rơi tọt vào mồm hắn đâu,thế mà hắn còn ỉ ôi chê
nhân bánh không được mới chứ.Chẳng bằng bác nhượng lại A Hương cho tôi,bố mẹ
tôi mất sớm,tôi ở rể cho nhà bác OK không?Sau này tôi sẽ hiếu kính với bác như
với bố đẻ,đợi sau khi bác lên nóc tủ ngồi rồi,tôi đảm bảo sẽ khóc kêu bác dọc
đượng từ Thiên An Môn tới Bát Bảo Sơn.Tôi thề có Mao chủ tịch,tôi sẽ gọi mãi
không ngập ngừng,muốn bi thương thế nào thì...mẹ kiếp bi thương như thế!"
Nghe Tuyền béo giỡn với
Minh Thúc tôi suýt nữa phì cả đống thịt trong mồm ra.Nhưng đúng lúc đó trong
hang chợt vọng ra tiếng bò Yak kêu,cắt đứt tiếng cười của mọi người.Tiếng bò
Yak trên đất Tạng vốn dĩ chẳng có gì là lạ,có điều vang lên trong tòa thành cổ
im ắng này,lại ngay lúc chúng tôi vừa ăn thịt bò xong,gai ốc ai nấy cứ nổi hết
cả lên.
Tôi bảo Shirley Dương ở lại
trông chừng Minh Thúc và A Hương,rồi vẫy tay gọi Tuyền béo.Hai chúng tôi cầm vũ
khí,soi đèn pin mắt sói tiến sâu vào bên trong.Ban nãy mới vào đây tôi đã đáo
mắt qua một lượt,thấy kết cấu động này cũng giống với các căn phòng khác,chỉ có
điều dường như có nhiều hơn một cánh cửa đá,giờ tới sát cửa đá,mới cảm thấy
tình hình không ổn.
Trên cửa đá nhẵn thín,có
một vết bàn tay người bằng máu,như thể có người tay dính đẫm máu,lúc đi ra vội
vàng kéo cửa vậy.Tôi sờ vào đó,thấy vết máu dường như vẫn còn rất mới.
Tôi gật đầu về phía Tuyền
béo,Tuyền béo lui lại hai bước,tôi tiến lên tấn công,dùng vai đẩy cánh cửa
ra,giơ súng chĩa vào bên trong.,nhưng không hề phát hiện có tung tích một ai
cả.Chỉ thấy khắp vách tường nhoe nhoét máu tươi,chiếc bàn đá và cột gỗ ở giữa
cũng có màu đỏ tươi,bên trên chất cả đống thịt bò Yak tươi rói,và mấy tấm da bò
bê bết máu còn phả hơi nóng,giống như da mới lột.Chỗ này chắc là lò mổ súc vật
trong thành.
Tôi và Tuyền béo vừa ăn
thịt bò hầm xong,trong cổ đều cảm thấy hơi buồn nôn,bỗng nhiên phát hiện ra
trên đầu mình có thứ gì đó,vội ngẩng phắt lên.Một cái đầu bò to gấp hai gấp ba
lần đầu con bò Yak bình thường treo ngược trên đó.Cái đầu bò không có da,hai
mắt tròn xoe trờn trừng,đầm đìa máu,hai lỗ mũi vẫn còn phả hơi,qua nửa cái lưỡi
thè lè ra ngoài,trông như còn sống,thở ra một tiếng trầm đục về phía chúng tôi.
Tuyền béo dương súng lên
định bắn.Trong lúc luống cuống tôi thấy tuy cái đầu bò này hết sức quái
dị,nhưng không có vẻ định hại chúng tôi,bèn ngăn Tuyền béo lại đã,quan sát kỹ
xem đầu con bò Yak này rốt cuộc là làm sao.
Con bò Yak còn đang sống đã
bị lột hết da mặt sau đó mới đem ra chọc mổ, kiểu giết thịt như vậy chúng tôi
đã thấy trong các bức bích họa ở miếu Luân Hồi, thành thử cũng chẳng có gì lạ
cả. Cách thức này là được kế thừa từ thuở xa xưa, hàm ý phải giải phóng linh
hồn con bò trước đã, rồi mới có thể yên tâm ăn thịt của nó.
Trong cái lò mổ này có một
giàn gỗ lớn, hai bên trước và sau đều có thể kéo ra thụt vào được, như vậy sẽ
kẹp con bò ở giữa, dẫu nó có khỏe đến mức nào cũng không cựa quậy nổi, đồ tể cứ
việc tùy ý mổ xẻ.
Thân con bò Yak bị kẹp vào
giữa giá gỗ be bét máu, lớp da trên mình chưa lột, đuôi vẫn còn động đậy, phía
trước khoang ngực của con bò không đầu có một chiếc rìu lớn dùng để chặt đầu
đặt trên mặt đất. Còn chiếc đầu bò bị trep lơ lửng bằng sợi dây thừng, con mắt
vẫn còn đảo đưa, tựa như con bò vừa bị chém trong nháy mắt. Thời gian ở đây đã
đột nhiên ngưng đọng như thế, không trôi, và cho đến tận bây giờ, con bò Yak
này vẫn bị đóng cứng lại trong khoảnh khắc trước khi chấm dứt hoàn toàn sự sống.
Sau khi đầu đã lìa khỏi cổ
mà vẫn sống thêm mấy giây, thậm chí là mấy phút, là chuyện rất hay gặp ở động
vật. Con gà bị chặt đầu vẫn còn chạy được thêm một vòng. Thời xa xưa có những
tử tù chịu hình phạt chặt đầu, đầu đã rơi xuống đất, nhưng nếu có người gọi
tên, cái đầu của tử từ vẫn phản ứng lại được, ấy là bởi hệ thống thần kinh chưa
chết hoàn toàn.
Tuy nhiên tình trạng đó chỉ
diễn ra trong nháy mắt, còn từ lúc tôi và Tuyền béo phát hiện ra con bò Yak
chưa chết hẳn này tới giờ, nó vẫn ở nguyên trong trên ranh giới sống chết như
vậy, lẽ nào cứ thế đã mấy nghìn năm rồi? Không chỉ có cái đầu bò xui xẻo này
như vậy, mà tất cả lùm cây ngọn cỏ trong tòa thành Ác La Hải này, cả đèn đuốc
thắp sáng, cả các tác phẩm còn dở dang, bò Yak bị mổ xẻ, thịt bò hầm chín, vết
bàn tay máu chưa khô trên cửa đá, tất cả đều rơi vào trạng thái bất động trong
mấy giây cuối cùng, toàn bộ tòa thành trống rỗng không một bóng người, mọi điều
này liệu có liên quan gì đến tai họa hủy diệt Ác La Hải không? Đó là tai họa
kiểu gì, mà lại có một sức mạnh khủng khiếp đến như vậy?
Nghĩ đến những thứ ăn vừa
nãy, có khi là một nồi thịt bò đã hầm mấy nghìn năm rồi, chúng tôi không sao
tránh khỏi lợm giọng. Mọi hiện tượng trong tòa thành này quả thực rất khó hiểu,
thôi thì cứ rút ra bên ngoài cho an toàn đã, đợi đến sáng sớm mai hẵng tiến vào
tòa thành chính trông như tổ ong kia. Thế rồi tôi và Tuyền béo gọi mọi người,
cùng mang đồ đạc men theo đường cũ quay lại.
Tôi ngẩng đầu lên nhìn bầu
không, màn đêm đã buông xuống từ lâu, nhưng ánh sáng trong thành Ác La Hải vẫn
giống như lúc tôi vừa phát hiện, vẫn như dưới sắc chiều bảng lảng, tuy đèn đuốc
thắp sáng khắp nơi, mà lại có vẻ mơ hồ mờ mịt vô cùng, có lẽ ngay cả ánh sáng
của thời khắc tòa cổ thành bị hủy diệt cũng vĩnh viễn ngưng đọng. Nếu không
phải A Hương đã xác nhận, tôi chắc chắn sẽ cho rằng đây là tòa thành ma.
Chương 23: Tuyến
X
Tôi vừa đi vừa kể sơ lược tình hình trong lò mổ cho Shirley Dương. Cô
cho rằng tòa thành này không chỉ đơn giản là mất tích ở ngoài quỹ đạo thời
gian, ví như thịt bò hầm chín trong nồi kia, quả thực vừa nhừ vừa ngon, ăn cho
bằng hết, nó cũng không xuất hiện lại lần nữa, tất cả mọi thứ trong thành đều
bị ngưng đọng ở một khoảnh khắc nào đó, nếu không chịu ảnh hưởng của ngoại lực
thì sẽ vĩnh viễn không xảy ra bất kỳ sự biến đổi nào. Ngoài ra còn có một điểm
rất dễ bỏ sót, mọi sự vật trong Ác La Hải hoàn toàn không chỉ trong trạng thái
bất động, chỉ có thể nói rằng nó vĩnh viễn bảo lưu một hình thái đặc biệt, chứ
không phải do thời gian ngưng chảy, cho nên tạm thời phải phủ định giả thiết về
sự hỗn loạn của thời gian và không gian ở đây. Để cho tiện gọi tên, tạm thời ta
hãy gọi khoảng khắc tựa như vĩnh hằng ở thành Ác La Hải này là "tuyến
X", "X" là một ẩn số chưa biết.
Muốn giải bài toán
"tuyến X", nhất định phải làm rõ xem vào khoảnh khắc cuối cùng ở
thành Ác La Hải đã xảy ra chuyện gì. Muốn vậy có lẽ phải đợi sau khi trời sáng,
thì mới có thể tìm thấy được chân tướng sự việc ở sâu bên trong nó. Những việc
kỳ quái trong thành khiến đầu tôi quay như chong chóng, nhưng nghe Shirley
Dương phân tích, thấy tư duy của cô hết sức mạch lạc, thôi thì ở đời người giỏi
hơn người là chuyện thường, có điều ở đời này hình như tôi có tố chất làm lãnh
đạo, ấy thế nên cũng chẳng cần đến một cái đầu như của nhân viên tham mưu làm
gì.
Chúng tôi từ vòng ngoài
tường thành leo trở lên dải nham thạch xanh lục ven hồ, quay đầu lại nhìn thành
Ác La Hải trong đêm. Tòa thành im lìm nằm lún dưới đất, đèn vẫn thắp lấp lánh,
ánh sáng vẫn chập choạng như buổi hoàng hôn, xem ra đến sáng sớm mai, thì chắc
vẫn vậy mà thôi.
Chạy đi chạy lại một hồi,
Minh Thúc và A Hương đều đã mệt rã rời. Trong rừng lại có giao long ra vào,
chúng tôi không dám xuống dưới đó, đành phải tìm lấy một chỗ kín gió trên dải
nham thạch nghỉ ngơi, chuẩn bị để sớm mai sẽ tiến vào thành tìm hiểu chân tướng
sự việc.
Đêm đó, mọi người thay
phiên nhau trực. Ngày hôm sau, trời vừa sáng, tôi phát hiện Shirley Dương đã
dậy từ lâu, đang chăm chú lật giở tấm bản đồ Kinh Thánh chúng tôi phát hiện
được ở miếu Luân Hồi. Tầng mây trên đỉnh đầu, rất dày, ánh nắng len qua kẽ mây
rọi xuống không đủ sáng, cả vùng rừng vây bọc giữa những dãy núi cheo leo hiểm
trở vẫn hết sức tối tăm, thành Ác La Hải nằm dưới chân dải nham thạch tựa như
tách biệt hẳn với thế giới, vẫn y nguyên như vậy, ánh đèn lấp lánh, im ắng đến
kỳ lạ, toàn bộ dựng lại trên "tuyến X".
Shirley Dương bảo rằng cô
có dự cảm, nếu như hôm nay không tìm ra bí mật của "tuyến X", e rằng
mọi người sẽ vĩnh viễn không rời khỏi sơn cốc đằng sau Cánh cửa tai họa này,
nơi đây đã là chốn cùng đường tuyệt lộ rồi.
Tấm bản đồ trong tay
Shirley Dương rách tơi rách tả, cha sứ Bồ Đào Nha trộm biết được điều cơ mật
của Luân Hồi tông định bụng đi khai quật kho báu, kế hoạch còn chưa thực hiện
được thì đã bị giết chết trong xung đột tôn giáo rồi. Chúng tôi mãi cũng không
sao phân biệt nổi được địa hình vẽ trong bản đồ rốt cuộc là "vùng đất chim
đại bàng" hay là "Phượng Hoàng thần cung". Tôi bèn hỏi Shirley
Dương, có phát hiện gì mới không?
Shirley Dương đáp:
"Đem so với địa hình quanh đây, có thể đoán rằng bản đồ trong Kinh Thánh
chính là bản đồ Thần cung Phượng Hoàng - thành Ác La Hải, có điều cố gắng hết
sức cũng chỉ phục nguyên được chưa tới ba mươi phần trăm, chắp vá chỗ này một miếng,
chỗ kia một miếng, chẳng liền mạch nhau... Tuy nhiên nếu thời gian cho phép,
tôi có thể căn cứ theo tình hình nơi đây, bổ sung thêm những phần thiếu khuyết,
hoàn chỉnh lại nó."
Nếu như có tấm bản đồ thành
cổ, dù chỉ là một góc để tham chiếu, thì cũng đã là một sự giúp ích quá lớn đối
với chúng tôi rồi. Tôi liền lấy lại tinh thần, rồi gọi Tuyền béo, Minh Thúc, A
Hương từng người dậy, chia số thức ăn còn lại không lấy gì làm nhiều nhặn cho
mọi người, coi như bữa sáng. Ăn xong bữa này, sẽ không còn chút lương thực dự
trữ nào nữa, nêu như không xuống hồ bắt cá, thì chỉ còn cách vào thành ăn thịt
bò mà thôi.
Khi tiến vào thành lần hai,
Minh Thúc bàn với tôi, hay là không vào thành nữa, chi bằng trèo đèo lội suối
tìm lối thoát thân còn hơn, tòa thành cổ quái như vậy, hà tất phải mạo hiểm tấm
thân vàng ngọc. Tôi giả vờ không nghe, bụng nghĩ tôi, Tuyền béo và Shirley
Dương vì muốn tìm cho ra căn nguyên của mật Phượng hoàng nên mới cố gắng vất vả
như thế, khó khăn lắm mới tìm được tới đây, sao dễ dàng bỏ qua được, có chết
chết ở sa trường, không thèm chết trên đường tháo thân. Tôi liền lập tức rảo
bước, tranh lên trước tiến vào thành.
Ngoài những thứ bị chúng
tôi đụng chạm vào, những thứ khác ở đây không hề suy suyển, ngay cả làn sương
mỏng mờ trong thành cũng không có gì thay đổi gì, Tuyền béo liền lao ngay vào
lò mổ, cắt mấy miếng thịt bò "tươi mới" thật lớn để dự trữ. Đêm qua
vốn định đợi đến lúc trời sáng, nhìn cho rõ kết cấu của tổ ong sừng sững kia đã
rồi mới vào trong tìm hiểu cho cặn kẽ, nhưng trong thành trời vẫn chạng vạng
như vậy, ngước đầu nhìn lên, đèn đuốc trong tòa thành chủ giống như hàng trăm
ngàn con đom đóm lặng lẽ bám lên tổ ong. Tổ ong chỉ lộ ra nửa trên, còn phần
lớn phía dưới thì bị vùi sâu trong đất. Theo cách nhìn nhận về giá trị của
người Ma quốc thì cơ quan quyền lực trọng yếu đều phải xây ở dưới đất, cho nên
chúng tôi đi quanh chân thành, tìm một dộng huyệt lớn nhất theo đó tiến vào tổ
ong. Bên trong động huyệt chằng chịt, kết cấu phức tạp, giống hệt như tổ ong,
mọi người không khỏi nghi ngờ không rõ cư dân sống trong đây là người hay sâu
bọ.
Nhớ hồi khoảng cuối những
năm sáu mươi đầu bảy mươi, nhân dân cả nước tiến hành đào hố sâu, tích trữ
lương thực số lượng lớn, loại kiến trúc phòng bị ấy tôi cũng
đã đào rồi, song so với đào
thành Ác La Hải này, thật chẳng khác nào múa rìu qua mắt thợ. Có rất nhiều động
huyệt hình thành một cách tự nhiên, còn nếu chỉ dựa vào sức
người và máy móc, thật khó
tưởng tượng ra nổi người xưa có thể tạo ra loại công
trình này.
Chúng tôi tìm tới một con
đường lớn thông thẳng xuống đất, thông đạo này và hang hốc ở hai bên đều có đèn
đuốc chiếu sáng. Cứ đi về phía trước một quãng, Shirley Dương lại lấy bút ghi
lại địa hình lên giấy, tốc độ vẽ phác của cô nàng cực nhanh, cứ vừa đi vừa vẽ,
không hề tốn chút thời gian nào, vẽ ra một bản đồ tuyến đường giản đơn mà có
tác dụng thiết thực. Tôi chốc chốc lại dùng đèn pin mắt sói soi vào các nhà
hang ở hai bên, phần lớn đều không có đèn và trống trơn, trong một số hang, ở
những chỗ ẩm thấp còn nhung nhúc gián to hơn con chuột túm tụm lại với nhau,
lấy báng súng đập chúng cũng không chết, càng đi sâu xuống phía dưới, số lượng
nhà hang càng giảm, nhưng diện tích càng rộng thêm.
Dưới cùng tòa thành tổ ong
là hai cánh cửa đá lớn khép hờ, hai bên tả hữu của thông đạo là hai cửa hang,
trên cửa hang lần lượt găm hai khối bảo thạch một xanh một trắng, dùng đèn pin
soi vào bên trong, thì thấy hang bên trái rộng chừng mấy mươi mét vuông, vòm
rất cao, trong sâu có một bức tượng đầu quỷ mặt mũi xấu xí gớm ghiếc, dưới cổ
khắc một hàng bọ thất tinh, bốn góc hang thắp đèn mỡ bò, ánh sáng yếu ớt, ở
giữa đặt tế phẩm là một con bò đen, một con ngựa trắng luộc, mọi thứ trong hang
bên kia đại loại cũng như thế.
Shirley Dương giở tấm bản
đồ cổ ra, một mảnh có vẽ hai địa điểm là "băng cung" và "hỏa
cung", hoàn toàn khớp với nơi này, nhưng chỗ đáng lẽ ra phải đánh dấu là
bên trong cánh cửa đá lớn ở tận cùng thông đạo lại đã bị tổn hoaị, chỉ nhìn
được vài hình vẽ từa tựa xương động vật ở viền chỗ rách trên bản đồ. Còn nhớ
trong Hắc hổ huyền đàn của Luân Hồi tông, tầng dưới cùng khối đá thủy tinh cũng
có hình vẽ tương tự vậy, liệu những xương cốt này có liên quan gì đến sự mất
tích của cư dân thành Ác La Hải không? Tôi đẩy cánh cửa đá ở tận cùng thông đạo
ra một cách đầy hồ nghi. Vừa bước vào liền lập tức cảm thấy lạnh buốt đến tận
tim phổi, nghĩ bụng trong này tà khí nặng quá,vừa ẩm vừa lạnh, hoàn toàn khác
với mấy tầng trên. Trước mắt tôi là một gian thần điện dát vàng nạm ngọc, tuy
có nhiều đèn đuốc, nhưng lại hết sức tối tăm, điện đường sâu hun hút, thành thử
không nhìn rõ được bên trong như thế nào.
Lúc này Shirley Dương và
Tuyền béo cũng tiến vào theo. Tôi đang định tiếp tục tiến lên, thì phát hiện ra
Minh Thúc và A Hương đứng ở bên ngoài không chịu vào. Tôi liền gọi bọn họ:
"Vào đi thôi! Còn đứng đấy chờ cái gì?"
A Hương nấp sau lưng Minh
Thúc khẽ thì thầm gì đó vào tai lão, nghe xong, vẻ mặt lão hoảng loạn vô cùng.
Tôi thấy lạ, bèn quay lại hỏi xem họ định giở trò gì. Minh Thúc đột nhiên rút
súng lục ra chĩa vào tôi: "Đứng yên, cấm quay lại, quay lại tôi bắn đấy!
Có ... có thứ gì bám trên lưng chú".
Tôi dùng chân, đứng cách bố
con Minh Thúc độ bảy tám bước chân, đối diện với nòng súng của Minh Thúc. Tôi
hiểu rồi, chắc chắn A Hương nói là tôi bị thứ gì đó ám vào người, tôi với em
này không thù không oán, em không thể nào ám hại tôi được, Lẽ nào vì tôi không
đồng ý lấy em? Tuy nhiên A Hương dường như rất tốt bụng, chắc không đến nỗi hãm
hại tôi như thế, nhưng mà cũng mấy ai đoán đúng suy nghĩ của đàn bà đâu. Đầu óc
tôi bắt đầu rối loạn, nhưng rồi đột nhiên nghĩ, chẳng lẽ trên người tôi quả
thực có thứ gì đó? Sao tôi không cảm nhận thấy nhỉ?
Tôi lập tức tụng ra một
đoạn trong Mao tuyển: "Tác phong luôn gắn lý luận với thực tiễn, là tác
phong có mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân, và là tác phong tự phê
bình." Chẳng làm sao cả, mình vẫn là mình, yên tâm đi.
Minh Thúc lại nói với tôi:
"Chú Nhất ạ! Giao tình giữa chú và anh không bạc, anh thấy chú tiền đồ
rộng mở, cho nên mới có ý hứa gả A Hương cho chú. Nhưng mà bây giờ thì chú quả
thực có vấn đề đấy. A Hương không nhìn nhầm đâu."
Thành Ác La Hải này vượt xa
so với điều thường thức và những gì con người ta có thể tưởng tượng ra được,
việc gì cũng có thể xảy ra, vả lại tôi biết, sau khi vợ, thằng vệ sĩ cho đến
thằng lái xe của Minh Thúc chết, lão thành ra con chim sợ cành cong, vì sự an
toàn của bản thân mình, chắc chắn lão dám nổ súng.
Có điều khi lão giơ súng
lên, Tuyền béo và Shirley Dương đứng sau tôi cũng giơ hai khẩu súng trường thể
thao lên nhằm thẳng vào đầu lão. Tôi huơ tay về phía sau, bảo họ bình tĩnh, nếu
một bên không nhẫn nhịn được mà nổ súng trước, bất kể là ai đổ máu ở đây, thì
đều là việc huynh đệ tương tàn đáng sợ nhất.
Minh Thúc vừa nãy quả thực
đã quá mức căng thẳng, lúc này cái đầu được mệnh danh là "Tiểu Gia
Cát" của lão dần hồi phục, đương nhiên đã thấy rõ thế cục, chỉ cần lão chỉ
hơi có động tác gì lệch lạc, Tuyền béo và Shirley Dương chắc chắn sẽ không chần
chừ gì mà tặng cho đàu lão hai cái lỗ đạn. Lão muốn rút súng về, nhưng lại cảm
thấy hơi cấn cá, định nói lảng đi, lắp ba lắp bắp nói chẳng ra hơi, mãi lâu sau
mới giải thích rút súng ra là định bắn cái thứ trên lưng tôi. Chứ trên đời này
làm gì có chuyện bố vợ bắn con rể.
Nòng súng của Tuyền béo và
Shirley Dương đã khiến tuyến phòng ngự tâm lý của lão tan rã, có cho ăn gan
hùm, gan báo, cũng không dám nổi súng. Thế rồi tôi trực tiếp hỏi A Hương rốt
cuộc có chuyện gì, rốt cuộc nhìn thấy trên lưng tôi có thứ gì?
A Hương nói: "Anh Nhất
ơi, em sợ lắm, vừa nãy quả thực em nhìn thấy trên lưng anh có thứ gì đó màu
đen, nhưng không rõ là thứ gì, hình như là một vòng xoáy màu đen".
"Vòng xoáy màu
đen?" Lẽ nào lời nguyền trên lưng tôi đã bắt đầu chuyển biến? Nhưng vì sao
A Hương lại không thấy thứ ấy trên lưng của Shirley Dương và Tuyền béo? Tôi vội
chỉ tay vào sau cổ mình hỏi A Hương: "Ở đây á?"
A Hương lắc đầu:
"Không phải, ở trong ba lô của anh cơ... giờ vẫn còn anh ạ!"
Tôi vội dỡ ba lô sau lưng
xuống, phát hiện hai lớp khóa đã mở ra, hình như trong thông đạo, Tuyền béo có
móc thám âm trảo trong ba lô của tôi ra, định dò xem phía sau cửa đá có cơ quan
cạm bẫy gì không, quên chưa kéo khóa lại. Mắt của A Hương chỉ có thể nhìn thấy
những chỗ không bị che khuất, dù là không nhìn thẳng hay không có ánh sáng.
Nhưng mà trong ba lô của tôi thì có thể có gì được kia chứ?
Tôi đổ toàn bộ đồ đạc ra A
Hương chỉ vào một vật rồi nói: "Chính nó..."
Lúc này Shirley Dương cũng
bước tới nhìn: "Mật Phượng hoàng?' Viên ngọc này vốn dĩ gắn liền với đầu
lâu của Hiến Vương thành một khối, sau đó được chúng tôi đem về Bắc Kinh, đã
qua bàn tay bóc tách khéo léo của người thợ mà vẫn khó phục nguyên được hình
dạng cũ. Lúc này nhìn lại thì phát hiện lớp ngọc thạch phủ bên ngoài đang dần
dần tan rã, lộ ra viên ngọc bên trong, bản thân nó vốn đã có một năng lượng thu
hút khí hỗn độn, thứ A Hương nhìn thấy có lẽ là vật này.
Xem ra mật Phượng Hoàng
chắc chắn co chịu ảnh hưởng nào đó trong tòa thành cổ thần bí này, e là liên
quan tới "tuyến X" khiến thời gian ngưng lạ kia. Có viên ngọc này
trong tay, có lẽ chúng tôi sẽ có chìa khóa mở ra cánh cửa đã khép lại vô số
những điều bí mật cổ xưa.
Tuyền béo thấy chúng tôi
không có điều gì bất trắc, liền thừa cơ chạy tới giải trừ vũ khí của Minh Thúc,
tiện tay tước luôn chiếc đồng hồ vàng Thụy Sĩ và viên ngọc nhuận phế của lão.
Minh Thúc lần này coi như nằm trong tay Tuyền béo, không dám ho he nửa lời.
Tôi và Shirley Dương quan
sát mật Phượng hoàng một lượt. Rồi tôi gói viên ngọc lại cẩn thận, giải thích
qua với Minh Thúc và A Hương, đại loại đây là một vụ hiểu lầm, trong thành Ác
La Hải này đến một bóng ma còn chẳng có, chớ lo lắng làm gì, nếu vẫn không yên
tâm, định chia đội, thì xin cứ thự nhiên, ai cũng có chân cả, không ai ngăn cản
ai hết.
Sau đó chúng tôi cùng tiến
vào đại điện phía sau cửa đá, trên mỗi cây trụ đá đều có đèn, mấy trăm tấm da
người bị căng ra dán kín tường. Trước đây, những bích họa chúng tôi từng thấy
đều vẽ trên tường, hoặc trên đá gạch, còn ở nơi đây, những sự kiện quan trọng
trong thành đều được dùng bốn màu đỏ, trắng, đen, xanh xăm trên da người. Đây
cũng chính là những hình vẽ có nội dung duy nhất chúng tôi thấy trong thành Ác
La Hải.
Trong điện còn có một số đồ
tế cỡ lớn, sâu cuối điện là một số tượng nữ khỏa thân. Shirley Dương chỉ nhìn
qua một lượt rồi nói: "Thông tin ghi chép trên những tấm da người này hết
sức quan trọng. Tuy không thể hiểu hết những ký hiệu này, nhưng nếu kết hợp
những sự kiện trọng đại của Ma quốc ghi chép trong điện với phần nội dung liên
quan tới cuộc chiến với Ma quốc trong trường thi Thế giới Chê địch Bảo châu
Hùng sư Đại vương, chúng ta có thể hiểu được giai đoạn lịch sử cổ xưa ít người
biết đến kia, đồng thời cũng có thể giải được phần lớn bài toán khó chúng ta
đang vướng mắc."
Lượng thông tin chúng tôi
nắm được tuy không ít, nhưng cho đến giờ bất quá cũng chỉ vài mảnh vụn vặt khó
lắp ghép, chỉ Shirley Dương mới có thể tính toán vận dụng, về phương diện này
thì tôi cũng chẳng giúp đỡ gì được nhiều, chỉ có thể giúp cô nàng đưa ra vài
chủ ý.
Thế rồi tôi bảo Minh Thúc
và A Hương nghỉ ngơi, Tuyền béo phụ trách nướng thịt bò cho mọi người ăn đỡ
đói, tôi và Shirley Dương ra phân tích những bức tranh trên da người kia, lần
gỡ từng mối một.
Ác La Hải là tòa thành
chính của Ma quốc, có thể chế chính quyền hoàn toàn khác với các quốc gia khác.
Vào thời kỳ thịnh trị nhất, phạm vi thống trị của Ma quốc bao trùm khắp quanh
vùng núi Côn Luân, không đời nào có vua, mà trực tiếp do chủ thần "di cốt
của thần Rắn" mà quốc gia này thờ cúng thống lĩnh, tất cả các quyết sách
trọng đại, đều do thày cúng trong nước tiến hành tế lễ xuơng của thần Rắn, sau
đó xem bói mà định ra. Thời kỳ xa xưa ấy, xem bói là hoạt động hết sức nghiêm
túc và trọng đại, không thể dễ dàng cử hành, phải cách mấy năm, thậm chí mười
mấy năm mới có một lần.
Ma quốc không có vua, đây
là nguyên nhân khiến trong thành không có hoàng cung mà chỉ có thần điện. Cái
gọi là thành viên hoàng thất, đều là một số thầy mo nắm quyền phát ngôn, nhưng
địa vị của những người này ở trong nước cũng phải xếp sau vị trí thứ năm.
Người Ma quốc cho rằng,
xương của thần Rắn có vị trí tối cao; đứng ngay sau Tà thần này là động huyệt
mai táng xương cốt của nó; thứ nữa, là con "Tịnh kiến A Hàm" (Rắn mắt
lớn) có cục thịt màu đen trên đầu.
Hình ảnh xuất hiện nhiều
nhất trong tranh chính là Quỷ mẫu được thường xuyên nhắc tới trong truyền
thuyết Ma quốc. Tôn giáo của Ma quốc cho rằng, mỗi đời Quỷ mẫu đều là chuyển
kiếp tái sinh, và không bao giờ để lộ mặt mũi, mãi mãi phải che kín, là bởi đôi
mắt của các mụ là "Ma nhãn" có thể đương đầu với "Phật
nhãn". Phật nhãn vô biên, Ma nhãn vô giới, có điều không hẳn dời Quỷ mẫu
nào cũng có thể cóđược con mắt yêu mị này.
Đứng dưới Quỷ mẫu mới là
mấy thầy chủ tế nắm được một vài tà thuật, đại khái là hình thái nguyên thủy
của trùng thuật. Đương nhiên trùng thuật thời ấy, còn xa mới tạp như ở thời kỳ
Hiến Vương, không thể hại người cũng như trở nên vô hình, chủ yếu là dùng trong
những cuộc cúng tế trọng đại.
Phong tục chôn cất của
người Ma quốc cũng rất đặc biệt, chỉ có thầy chủ tế trở lên mới có tư cách được
chôn vào lầu ma chín tầng. Phần mộ cổ Ma quốc tôi thấy trong di tích chùa Đại
Phượng hoàng ở núi Côn Luân chắc là một huyệt mộ mai táng Quỷ mẫu đầu tiên được
coi là con gái của Tà thần "Niệm hung hắc nhan" đã được táng trong
tháp ma ở sông băng Long đỉnh. Tên gọi này được nhắc đến nhiều lần trong truyền
thuyết về Cách Tát Nhĩ Vương.
Trong một số trường cảnh
miêu tả chiến tranh, thậm chí còn có thể thấy sự tham gia của những bầy dã thú
như sói, trong đó con sói trắng, có lẽ chính là Thủy tinh tự tại sơn, tuy nhiên
địa vị của vua sói trắng và bọ ma tá phủ rất thấp, chỉ tương đương với yêu nô
mà thôi. Những truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền từ thời kỳ đó về cơ bản đều
khoa trương và thần thánh hóa các đặc điểm của bộ lạc, muông thú, phong cho
chúng thành thần linh của núi sông ao hồ, không khác gì tuyền thuyết trước thời
Hạ, Thương ở Trung Quốc.
Trong tuyền thuyết về Cách
Tát Nhĩ Vương có đoạn kể rằng, do "yêu ma phương Bắc" (Ma quốc) xâm
lược, ba nước Lĩnh địa, Nhung địa và Gia địa từng nhiều lần đối mặt với nguy cơ
diệt chủng, cuối cùng trên cao nguyên xuất hiện một vị Chế địch Bảo châu Đại
vương, lại có thêm Liên Hoa Sinh Đại sư hiệp trợ, thống lĩnh liên quân ba nước,
giẫm gót tiến vào miền tuyết trắng phương Bắc để giết yêu diệt ma, san bằng
luôn Ma quốc. Ma quốc đột nhiên suy yếu, rất có khả năng là do thành Ác La Hải
đã xảy ra một tai họa hủy diệt.Song trên những tấm da người lại không hề thấy
ghi chép về sự việc này.
Tôi và Shirley Dương đang
xem xét, thì Tuyền béo vẫy tay gọi: "Có manh mối rồi thì lo gì không tìm
ra, ăn cơm xong hãy nói tiếp đi."
Tôi cũng cảm thấy cơn đói
bụng đang quặn lên, bèn tạm gác mấy việc này, chạy ra ăn cơm đã. Ngoảnh nhìn
thì vẫn thấy Shirley Dương đang bần thần ngắm mấy tấm da người cuối cùng, phải
gọi mấy lần cô nàng mới quay ra.
Nhưng Shirley Dương không
tới lấy thịt bò Tuyền béo nướng, mà đi thẳng ra chỗ A Hương, điệu bộ hờ hững,
vừa như vô tình vừa lại cố ý, lấy tay gạt tóc A Hương ra, nhìn vào sau gáy. Sắc
mặt của cô nàng thoáng đổi, rồi lại đến kiểm tra sau gáy Minh Thúc. Lão ta
không biết cô nàng định làm gì, nhưng cũng đành để yên cho Shirley Dương xem.
Tôi vừa thấy vẻ mặt Shirley
Dương và đôi môi bặm chặt, liên biết rằng có việc chẳng lành. Trước khi Shirley
Dương phán đoán và đưa ra kết luận về một chuyện hệ trọng, cô nàng đều có cử
chỉ quen thuộc này. Quả nhiên Shirley Dương nói với tôi: "Tôi nghĩ chúng
ta bị đôi mắt của A Hương đánh lừa rồi, tòa thành này quả thực là chân thực,
nhưng đây không phải thành Ác La Hải, mà là Quỷ động không đáy..."
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét