Chương 34: Kẻ
địch tàng hình
Con giao long vằn chắc đã chui vào hang đàn tế từ một cống nước
khác, dải thủy tinh như vách băng ngăn cản đường tấn công của nó, phần nữa cơ
thể nặng nề khiến nó khó mà phóng qua được vách băng cao hơn mấy mét. Nó từ
trong khe hở giữa hai tảng thủy tinh lớn nhao ra, mõm kẹt bên ngoài, tứ chi to
ngắn giãy đạp điên cuồng phía sau, nhưng không thể phá vỡ được khối thủy tinh
đang cản bước.
Phàm những động vật sống
lâu năm đều ưa thích "nội đan", đặc biệt là loài thủy tộc, giao long,
cá, sò, ba ba. Những viên châu ngọc trơn nhẵn tròn bóng chính là thứ nội đan
chúng thích nhả nuốt nhất dưới ánh trăng. Theo ghi chép trong thư tịch cổ, có
rất nhiều quan điểm cho rằng đây là một biểu hiện thông linh, thu nạp khí tinh
hoa.
Tôi vận hết sức, gắng với
cuốc chim ra mới chặn được đôi nhãn cầu thủy tinh sắp sửa rơi xuống nước, song
trời đất mênh mông mà oan gia ngõ hẹp, hoàn toàn không thể ngờ rằng con giao
long vằn chộp ngay cơ hội đó há mõm hút mạnh, luồng hơi tanh ngấy trùm lên nhãn
cầu thủy tinh, cuốn hai viên ngọc lăn vào trong miệng nó. Mặc dù tôi nóng ruột
như thiêu, nhưng cũng biết bây giờ để nhãn cầu rơi vào mồm nó thì quá dễ, lấy
ra mới khó. Con giao long nhòm ngó ngọc quý từ lâu, chẳng biết đã tranh đấu bao
nhiêu năm với con cá già râu trắng chỉ vì cái thứ này, một khi bị nó nuốt vào
rồi thì đừng hòng mà lấy ra được.
Hai con giao long thì một
đã bị tảng đá ngàn cân đè chết trong di tích thành cổ, nhưng chúng tôi cũng
chẳng có cách nào đối phó với con còn lại này. Cái ngữ này da thịt rắn chắc,
lại khỏe kinh dị, súng đạn cũng bó tay. Tôi chịu không thể nhúc nhắc gì được
trên mặt thủy tinh trơn bóng, chỉ biết trơ mắt nhìn, tuyệt vọng đến cùng cực.
Trong khoảnh khắc con giao
long hút nhãn cầu thủy tinh vào mồm, tôi nghe thấy sau lưng có tiếng nháo nhác,
chắc là do Minh Thúc và Tuyền béo đã dắt A Hương trên cầu nhảy xuống, giẫm lên
đống xác khô chồng chất, cả người lẫn xác lăn nháo nhào. Tôi còn chưa kịp quay
lại xem rốt cuộc có chuyện gì xảy ra thì đã bị húc mạnh vào lưng, cũng chẳng rõ
bọn Tuyền béo lăn vào hay là mấy cái xác bị bọn họ đạp phải văng ra. Cú huých
vừa rồi rất mạnh, cả người tôi tức thời bị xô trượt về phía trước.
Tôi nằm sóng soài trên mặt
thủy tinh, hoàn toàn bất lực không điều khiển được thân mình, vừa vặn chúc đầu
về phía cái miệng to tướng của con giao long vằn, trong chớp mắt khoảng cách đã
chỉ còn mặt đối mặt, mà vẫn không ngừng trượt tới. Mùi tanh tưởi từ miệng con
giao long phả thốc vào mặt tôi, xộc lên tận óc, hàm răng nhọn hoắt lởm chởm của
nó gí sát khiến tôi ớn hết cả người. Nhưng đúng lúc ấy đột nhiên tôi nhìn thấy
hai viên ngọc tròn nhẵn từ từ lăn trong mồm con giao long, trông như sắp rơi
tọt xuống cổ họng. Con quái vật tham lam thành bản tính, thấy tôi tự mò đến,
đương nhiên chẳng thể bỏ qua, liền ngoác mõm hết cỡ, chuẩn bị đớp đầu tôi nuốt
một thể với đôi ngọc nhãn cầu.
Tôi không dám nghĩ đến hậu
quả, chỉ dựa vào dũng khí nhất thời đột ngột trào lên, nhân lúc cơ thể trượt về
phía trước liền thuận tay tóm lấy chiếc cuốc chim leo núi bên cạnh, tức tốc
văng lên, dựng thành cột chống, nhét thẳng vào giữa mồm con giao long. Miệng
con quái tức thời bị gang ra, không tài nào ngậm lại được. Đầu tôi đụng phải
lợi của con giao long, chiếc mũ leo núi kêu đánh cộp một tiếng. Tôi một tay đẩy
hàm trên của con vật, tay kia thò hẳn vào miệng nó, tóm hai viên nhãn cầu, rồi
rụt tay lại trong chớp mắt. Cái miệng khổng lồ của con giao long bập mạnh
xuống, chiếc cuốc chim leo núi chống trong miệng nó bị nhổ phụt ra, rơi bắn
xuống quãng nước phía xa.
Bấy giờ tôi mới thấy kinh
hãi, chỉ chậm nửa giây thôi là đi đứt cánh tay. Tôi xòe bàn tay ra nhìn, hai
vật thể tròn xoe tuy bị dịch vị, nước bọt và máu bao phủ nhầy nhụa nhưng vẫn lộ
ánh đỏ sậm bên trong. Đây không phải thứ gì khác, chính là nhãn cầu của xác
thủy tinh được Luân Hồi tông đặt ở hồ phong hóa để cúng tế thành Ác La Hải. Lúc
trước, chúng tôi đã đoán có khả năng bộ óc của Quỷ mẫu được chôn dưới tòa thành
ảo, còn đôi mắt thì đặt trong thần điện dưới nước của di chỉ thành cổ, hoặc giả
ở một nơi nào đó dưới đáy hồ. Vì tranh đoạt thứ được chúng coi là nội đan, đôi
giao long vằn đã không ngừng tấn công bầy cá ở hồ phong hóa, nhưng không ngờ
con cá râu trắng bị trọng thương đã nhả nhãn cầu ra trong động này. Rõ ràng
thần may mắn đã không rời bỏ chúng tôi, giờ phút này hai món tế phẩm đã nằm gọn
trong tay tôi rồi.
Tôi còn chưa kịp ngẫm lại
cú mạo hiểm thò tay vào mồm giao long cướp viên nhãn cầu, thì phát hiện ra con
giao long ở sau kẽ đá đang nổi con thịnh nộ điên cuồng, hiển nhiên nó không thể
chấp nhận được hành vi cướp đoạt của tôi. Nó lùi về phía sau vài thước, rồi lao
lên húc mạnh đầu vào hai tảng đá thủy tinh lớn chặn đường. Tảng đá quặng sáng
như gương này gắn liền với lớp mạch thủy tinh bên dưới rất vững chắc, mặt ngoài
thì trơn bóng lạ thường, con quái khó mà đủ sức công phá. Nhưng cái khe này có
hình tam giác ngược, dưới hẹp, trên rộng, con giao long vằn trông vậy mà lại
chui vào được phần khe tương đối rộng bên trên, cơ thể to chắc của nó vừa quẫy
vừa lách, trông chừng có khả năng sẽ bò ra được.
Tôi ngầm thấy bất ổn, quyết
định phải mau chóng rời khỏi đống xác khô chất cao như núi này quay trở về đàn
tế, lập tức nhét luôn hai món tế phẩm vào túi đeo trên người. Đồng thời lúc này
tôi mới nhận ra tiếng sấm trầm đục nổ uỳnh uỳnh trên đầu đã dứt từ khi nào
không rõ, trong hang động chỉ còn lại tiếng thở hổn hển của người và mãnh thú.
Bất ngờ có tiếng súng vang lên, hóa ra Tuyền béo nhìn thấy tình hình nguy ngại,
đã nổ súng chi viện. Đạn tuy bắn trúng đầu con giao long vằn, nhưng chẳng gây
được thương tích gì, chỉ khiến nó càng thêm thịnh nộ mà thôi.
Tôi nhân lúc nó còn chưa
lách ra khỏi kẽ đá, vội bấm chân vào mặt nham thạch kết tinh, mượn sức lùi về
phía sau, lúc chạm vào đống xác khô chồng chất đằng sau mới phát hiện ra kẻ
đụng vào tôi lúc nãy chính là Minh Thúc. Lão lăn từ trên đống xác xuống bên
cạnh tôi, vẻ mặt tả tơi não nuột, bị con giao long hung dữ làm cho sợ xanh mắt,
chẳng biết xoay xở thế nào. Tôi thấy vậy bèn tóm lấy cánh tay lão, hùng hục leo
lên đống xác khô.
Tuyền béo đứng phía trên
không ngừng nổ súng, Shirley Dương cũng muốn xuống tiếp ứng, song đứng trên
đống xác quả thực rất khó hành động, càng cố dùng sức lại càng chẳng ăn thua.
Một lúc chợt nghe thấy tiếng Shirley Dương hét lên đầy lo lắng :" Cẩn thận
đằng sau kìa..."
Tôi chẳng cần quay đầu lại
cũng biết có việc không hay. Chắc chắn con giao long vằn đã chui ra. Một khi
đụng độ với nó, bất kể là bị cắn hay bị húc, chết là cái chắc. Tuy nhiên nhưng
đống xác này rất lộn xộn, khó mà leo lên, tôi đành thôi không cố nữa, mà kéo
tay Minh Thúc lăn sang mé bên, thì phát hiện ra ở đó lại có một tảng nham thạch
kết tinh như vách băng có thể tạm thời lẩn tránh được.
Lúc này Minh Thúc cũng đã
định thần lại, cùng tôi lẩn ra phía sau tảng đá thủy tinh lớn. Chúng tôi còn
chưa đứng vững, con giao long đã húc mạnh vào tảng đá. Cái húc như cú chạm của
quả lắc đồng hồ ngàn cân, rầm một tiếng ầm vang xong là có cả loạt tiếng uỳnh
uỳnh không ngớt vọng lại. Chúng tôi đều cảm giác như mình mẩy rệu rã, đầu óc
quay cuồng, trước mắt nhòa nhạt hết cả đi, phải mấy giây sau mới bình thường
trở lại.
Tảng đá thủy tinh che chắn
chúng tôi hứng chịu cú húc như trời giáng, trong khoảnh khắc chúng tôi đang
thất thần, con giao long lại tiếp tục mở đợt tấn công thứ hai. Lần này tôi rút
kinh nghiệm, mau chóng rời lưng khỏi tảng đá kết tinh, quay người lại nhìn xem
sao, thì thấy tảng thủy tinh trong suốt to lớn đã bị rạn mấy vệt lớn, cùng lắm
sau hai cú huých nữa, con giao long có thể sẽ phá vỡ tường xông vào.
Tôi thấy mình đã sa vào
bước đường cùng, bốn phía không lối thoát, trước mặt sau lưng là những mạch
thủy tinh đâm lởm chởm, bên tay phải đống xác khô chồng chất, tụt xuống dễ, leo
lên thì khó, trong lúc cấp bách lại càng nan giải, bên tay trái là một cống
nước cách con cá già đang thoi thóp không xa, nhưng trong tình thế này mà nhảy
xuống nước há chẳng phải tự tìm đến cái chết hay sao.
Minh Thúc lại bắt đầu hoảng
loạn :" Ôi Nhất ơi, không chặn nổi nữa đâu, mau thoát thân thôi..".
Tôi nom cử chỉ của lão, lần này chắc không phải là diễn kịch nữa. Đột nhiên lão
ba chân bốn cẳng chạy, chúi đầu vào một cái hang thủy tinh rất nông, có thể nói
là một cái hốc bị ăn mòn trên bề mặt thủy tinh, chỉ to cỡ thùng nước. Lão khọm
chui vào được nửa người là đã chạm tới đáy cái hốc, hai chân và mông còn lộ cả
ra ngoài, miệng lẩm bẩm :"Chỗ này đủ an toàn rồi,động não một chút là mọi
việc sẽ OK thôi". Nhưng lão cũng lập tức phát hiện ra nửa thân dưới còn
thò ra ngoài, không biết là vì lẩm cẩm hay sáng suốt mà lại tự an ủi mình rằng
:" Cùng lắm là bỏ bố nó chân đi".
Shirley Dương dắt A Hương,
cùng Tuyền béo từ trên đống xác khô leo xuống tập trung lại với tôi. Trông dáng
vẻ và thần sắc bất an của họ, e là đã không thể nấn ná lâu hơn được nữa ở khu
vực đàn tế và cầu đá. Tôi nãy giờ không theo dõi được rốt cuộc là chuyện gì đã
xảy ra phía trên đầu mình, nhưng cuối cùng mọi người đã tập hợp lại được một
chỗ, tiến hay lui cũng dễ trông chừng nhau hơn.
Chúng tôi thấy Minh Thúc đã
bắt đầu nói nhảm, đang định kéo lão ra khỏi hốc thủy tinh thì khối tinh thể
đằng sau lưng đột nhiên sụp xuống. Con giao long sau cú húc thứ ba rốt cuộc đã
húc đổ khối thủy tinh dày gần nửa mét. Mọi người cuống cuồng sấp người né
tránh. Con giao long theo quán tính lao vụt lên, băng qua đầu chúng tôi, đâm
thẳng vào vách thủy tinh đối diện. Lại một tiếng rầm lớn vang lên, hạt thủy
tinh vỡ vụn bắn tung tóe. Cơ thể dị hợm của con giao long rơi uỵch xuống đất,
lăn hai vòng sang mé bên rồi mới dừng lại.
Sau lưng tôi là một đầm
nước. Tôi thấy quả này chuột chạy cùng sào rồi, có mọc thêm cánh cũng chẳng
thoát được, liền quyết sống mái với con quái một phen. Nghĩ đoạn tôi liền rút
khẩu MI911 ra định bắn, bất thình lình lại thấy con giao long đột nhiên giãy
mạnh trên mặt đất, những tiếng xương cốt răng rắc gãy nát vang lên, từ lỗ mũi
và mắt nó tứa ra một dòng máu tươi. Con mãnh thú hung dữ bậc nhất trong phút
chốc không ngờ đã nằm đơ ra giống như một đống thịt mềm nhũn.
Tất cả chúng tôi đều đứng
ngây người, không ai dám tin sự việc diễn ra trước mắt là thật. Nội tạng và
xương cốt của con giao long đã nát bét, thân thể bên ngoài tuy không có vết
tích gì, nhưng đã biến dạng không còn trông ra cái gì nữa. Mọi thứ diễn ra chỉ
trong vòng một hai giây, cơ thể con vật vâm váp nhường ấy, không thể chỉ vì va
đập vài cái mà đã nát nhừ, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?Nếu như nó bị thứ gì đó
tấn công, sao chúng tôi lại không nhìn thấy chứ? Nghĩ đến đây, tự dưng tôi ớn
lạnh, lẽ nào đó là kẻ địch vô hình mà người trần mắt thịt không nhìn thấy?
Chẳng lẽ "Đại hắc thiên" trong dải đá quặng là có thật sao?Ngay cả
con giao long cũng bị nó giải quyết nhanh gọn trong chớp mắt, vậy thì việc xử
lý mấy con người này có khác nào một cái búng tay chơi.
Cả lũ chúng tôi ai cũng
sững sờ, nhưng rất nhanh chóng phát hiện ra lớp thủy tinh bên dưới thi thể nhát
nhũn của con giao long đã chuyển thành màu đen. Cái sắc đen quánh ấy cho dù ở
trong môi trường thiếu sáng vãn cứ hiện lên rõ mồn một, giống như một dòng mực
tàu chảy trong dải đá thủy tinh, đang từ từ tiến gần lại chỗ chúng tôi.
Quá nửa lớp thủy tinh trong
hang động đã chuyển sang màu đen, những phần chưa bị nhuốm sắc chẳng còn lại là
bao, bên trong mỗi lúc một mờ mịt, "Đại hắc thiên" quả nhiên đã hiện
ra. Tuy chúng tôi không biết nó là thứ gì, cũng chẳng rõ rốt cuộc nó làm thế
nào mà giết chết con giao long, song ai cũng hiểu chỉ cần chạm vào thủy tinh
đen là đã cầm chắc chết mà chẳng biết vì sao mình lại chết, giống như con giao
long xấu số kia.
Minh Thúc náu mình dưới hốc
chỉ thò chân ra ngoài, cách dải thủy tinh đã dần dần nhuốm đen gần nhất. Tôi và
Tuyền béo thấy tình hình không ổn liền chia nhau tóm lấy chân lão lôi ra.
Shirley Dương cũng kéo A Hương rồi cùng rút lại phía sau ẩn náu. Có điều bốn
phương tám hướng chỗ nào cũng giống như bị loang mực, vây bủa trùng trùng như
vậy thì làm gì còn đường nào thoát thân?
Chúng tôi không có bất kỳ
sự lựa chọn nào khác đành nhảy xuống chỗ có con cá già râu trắng. Đây là một
đầm nước nhỏ nhưng rất sâu. Trong tinhf trạng thiếu dưỡng khí, không ai có thể
bơi xuống dưới, mà dù cho có bình dưỡng khí thì cũng chẳng biết mạch nước trôi
chảy về đâu, rất có thể sẽ bị lạc không tìm được lối ra, cuối cùng sẽ chết vì
thiếu oxy, nhất thời tiến thoái lưỡng nan, đành phải đạp nước nổi người lên.
Trong khoảnh khắc mọi người nhảy xuống nước, toàn bộ hang động đã bị thứ vật
chất tựa như mực tàu trong lớp thủy tinh kia nuốt trọn.
Chúng tôi bất lực nhảy
xuống nước, chẳng rõ vì sao thứ vật chất kia hình như chỉ có thể ở trong tinh
thể và nham thạch, không lan được xuống nước. Vậy là dưới hồ nước tạm coi như
tương đối an toàn. Nhưng xét toàn cục, chúng tôi không có lương thực lại chẳng
có đường lui, bị vây khốn thế này, liệu có thể chịu đựng được bao lâu, sống
thêm một hai tiếng thì có nghĩa lý gì?
Không khí im lìm chết chóc
bao phủ cả lòng hang hắc ám, chưa đến nửa phút sau, giơ bàn tay lên là không
còn thấy năm đầu ngón tay nữa. Chúng tôi bật đèn gắn trên mũ leo núi, cột sáng
của ngọn đèn chìm trong bóng đen rợn ngợp, tuy chỉ yếu ớt như ánh đom đóm nhưng
trong cảnh cùng đường tuyệt vọng cũng khiến con người ta cảm thấy yên tâm hơn.
Tôi nhìn xung quanh để chắc
chắn chất đen trong dải thủy tinh sẽ không lan xuống nước, rồi cười khổ, quả
này vui rồi, tốn bao công sức mới tìm được mật Phượng hoàng và nhãn cầu thủy
tinh, cứ ngỡ có thể dỡ bỏ được cái gánh nặng to kềnh này rồi, nhưng lại chậm
một bước, giờ thì canh nguội cơm vữa cũng đành chịu, chưa đến ngày mai chắc sẽ
chết trương cả với nhau thôi.
Tuyền béo càu nhàu nói,
muốn trách thì phái trách Minh Thúc, làm mất thì giờ của mọi người, chúng ta
thực hiện xóa bỏ giai cấp, cho nên càng không thể tha cho lão, phí tổn thất
tinh thần lão nợ ta dẫu có xuống âm tào địa phủ vẫn phải trả. Nhất, cậu thấy
món nợ này ta phải giải quyết thế nào?
Minh Thúc sợ tôi và Tuyền
béo vô cùng, bất lực đành cầu xin Shirley Dương giúp đỡ. Shirley Dương bảo
chúng tôi :" Thôi được rồi, hai anh đừng dọa bác Minh nữa, bác ấy có tuổi
rồi, cũng chẳng dễ dàng gì, mau nghĩ cách thoát thân thôi, cũng không thể nói
ngâm mình vữa trong nước cho đến tận mai như anh Nhất nói được..."
Tôi đang định trả lời thì A
Hương đột nhiên kinh hãi thốt lên "ối giời ôi". Hóa ra trong cơn
hoảng loạn ban nãy, chẳng hiểu ai đã đá văng một cánh tay khô xuống nước, lúc
này nó trôi đến bên A Hương, khiến cô em giật nảy mình.
Tôi vớt cánh tay khô bập
bềnh trên mặt nước lên, nói với A Hương :" Em Hương này, cái thứ này tốt
đấy, em xem tuy nó khô đét ra rồi nhưng da thịt nào có bị tan, chứng tỏ đây là
cương thi, em mang về Hồng Kông luộc lên mà ăn, tác dụng tốt lắm!"
Shirley Dương và những
người còn lại đều lắc đầu không tin, giờ là lúc nào mà còn bụng dạ nói năng
hươu vượn. Tuyền béo bảo :"Nhất ạ, giờ coi như tôi thật sự phục cậu rồi,
trước đây tôi cứ cảm thấy hai ta to gan lớn mật như nhau thôi, song trong tình
huống này rồi mà cậu vẫn còn cợt nhả được?Thái độ này của cậu quả thạt chẳng
phải ai cũng có đâu, song cậu hươu vượn gì thì hươu vượn, chứ nói nhảm thì
không được, ấm đầu hay sao mà muốn ăn cả cương thi?"
Tôi nói với bọn họ, các vị
đúng là chẳng biết gì, thịt cương thi là vị thuốc đấy, trong cổ thư có ghi chép
rõ ràng, đặc biệt có thể trị liệu vết thương ở chỗ tàn khuyết trên cơ thể, năm
xưa Hà Nam Đào sa quan 1 - thuộc hạ của Lưu Dự - đổ đấu của hoàng đế Tống Triết
Tông, thấy ngài vua đã biến thành cương thi, da thịt trắng sạch long lanh như
đẫm nước, thế là mỗi người xẻo một miếng thịt để khi nào bị thương do đao tên
thì sắc uống, ngay người nước ngoài cũng phải thừa nhận rằng xác ướp có giá trị
dược liệu rất lớn, vậy thì sao lại bảo tôi nói năng hươu vượn được?
Tôi vốn dĩ nói một cách vô
tâm, chủ đích là muốn mọi người bớt căng thẳng, nhưng Shirley Dương lại như
nghĩ ra điều gì đó, liền đón lấy cánh tay khô tôi đang cầm, nói :" Có cách
rồi, có lẽ chúng ta còn có cơ hội quay trở lại đàn tế bên trên!"
Shirley Dương nói,
"Đại hắc thiên" trong truyền thuyết cổ là một loại tà linh có thể
khống chế đá quặng, song A Hương lại không nhìn thấy trong động này có thứ gì
nhơ bẩn, còn về cái chết của con giao long kia, dường như nó bị giết bởi sự
cộng chấn của một dạng "thứ thanh" hoặc "rung rạn tinh
thể". Cái thứ mang tên Kích lôi sơn Đại hắc thiên chắc chắn hình thù như
bóng đêm và có liên quan đến âm thanh, nhất định là lợi dụng một loại âm thanh
nào đó ta không nghe thấy để giết người, rất có thể đó chính là"rung chấn
tinh thể". Nếu có thể chất xác khô thành một đống, rồi giẫm lên đó tiến
vào đàn tế, không tiếp xúc với đá quặng trong động, hẳn có thể triệt tiêu được
rung chấn tới mức không còn lực sát thương nữa. Lúc trước chúng ta đứng bên
trên nhìn xuống dải thủy tinh, bao gồm cả cây cầu, đâu đâu cũng nhuốm màu đen
cả nên mới chạy từ trên đống xác khô xuống, giờ nghĩ lại, có lẽ đống xác đó mới
lại là nơi an toàn nhất.
Nghe Shirley Dương nói
xong, tôi và Tuyền béo bàn bạc một hồi, cả hai đều nghĩ nếu cứ ngâm mình trong
nước đợi cái chết đến từ từ thì chẳng bằng mạo hiểm thử xem sao, may ra thì có
con đường sống sót. Tuy nhiên đống xác khô ở cách chúng tôi một quãng, đành
phải dùng cách làm ban nãy, nối các dây chịu tải lại, một đầu buộc cuốc chim
leo núi, quăng ra xa kéo lại, biến những cái xác bị móc mắt thành gạch lót
chân, miệng không ngớt lầm rầm cầu khấn mong họ chớ quở trách vì đắc tội, có điều
lát sau lại nghĩ chắc gì bọn họ thông hiểu ngôn ngữ của chúng tôi, nên đành mặc
kệ, cứ tiếp tục kéo đống xác lại, trải thành từng lớp dày. Chiêu này hết sức
khả thi, chỉ có điều tốn sức, lại không được sơ suất dù chỉ tí chút, kẻo mà
chạm phải mặt thủy tinh chắc chắn sẽ tèo đời.
Chúng tôi đang vội xê dịch
những cái xác, thì lại nghe thấy những tiếng nứt gãy răng rắc vọng xuống từ
phía trên vốn đang yên ắng. Mọi người đều bất giác ngơi tay, bên trên tối om
không thấy gì, nhưng nghe âm thanh vọng xuống thì có vẻ như dải thủy tinh lởm
chởm trên đỉnh đầu đang rạn nứt, và sẽ sập xuống trong giây lát.
--------------------------------
1 Một chức danh trộm mộ ở Trung
Quốc thời xưa.
Chương 35: Huyết
tế
D ải tinh thể trong hang động lởm chởm chọc xuống, không phải hình
dùi đục thì cũng là hình lăng giác, các mạch liên tiếp tựa như tầng tầng lớp
lớp giáo mác sắc nhọn treo ngược trên đỉnh đầu, một khi rơi xuống thì có khác
nào đao to kiếm nặng từ trên trời xỉa xuống đâu. Nghe thấy những tiếng nứt vỡ
inh tai, ai nấy đều hết sức kinh sợ.
Trong một phút bần thần,
trước mắt hoa hết cả lên, chỉ thấy mười mấy mét phía trước tựa như có một vệt
sao băng rơi, một ngon thủy tinh cứng chắc cắm phập xuống đất, trong khoảnh
khắc từ trên đỉnh hang rơi xuống, nó trở lại sáng bóng long lanh đến kỳ lạ.
Ngọn thủy tinh sắc nhọn mang theo một âm thanh xé không khí, cắm thẳng xuống
mặt đất, sau một tiếng vang lớn, ánh huỳnh quang phát ra lập tức lại bị bóng
đen nuốt gọn.
Tiếng ngọn thủy tinh rơi
phập khiến chúng tôi định thần lại sau giây lát bàng hoàng sửng sốt. Thì ra ban
nãy "Đại hắc thiên" không ngừng phát ra những tiếng sấm nổ trầm đục
là nó đang tích lũy năng lượng rung chấn thủy tinh trong lòng tinh thể. Giờ đây
lớp thủy tinh trong hang đàn tế đã quá tải, bắt đầu nứt rạn, những ngọn thủy
tinh nhọn hoắt chi chít bên trên sẽ liên tiếp rơi gãy, ngoài chỗ trốn trong
lòng núi ngọc ra, không còn bất kỳ đâu an toàn nữa, vả lại nếu không có xác khô
đệm bên dưới, chỉ cần giẫm chân ra ngoài là sẽ chết chắc.
Tất cả chúng tôi lâm vào
tình thế trốn cũng không được mà không trốn cũng không xong, những ngọn giáo
bằng thủy tinh kia phi xuống không có bất cứ quy luật nào, không chạy thì thôi,
chứ mà hễ chạy là chạy vào chỗ chết ngay, hơn nữa cũng không thể nào nhìn cho
rõ rồi mới trốn được, các ngọn tinh thể sắc nhọn lao vút như những tia chớp,
tốc độ quả thực kinh người.
Sau khi ngọn thủy tinh đầu
tiên lìa ra, tiếp sau đó trong bóng đen trên đỉnh đầu lại có ánh sáng lạnh lẽo
lóe lên, mấy tia sáng buốt tựa như sao băng rớt xuống. Tôi vừa vặn nhìn thấy
một tia xuất hiện ngay trên đỉnh đầu Tuyền béo, còn chưa kịp tri hô bảo tránh
đã nghe "roẹt" một tiếng, vệt sáng cắm thẳng trước mặt Tuyền béo rồi.
Đống xác khô dưới chân Tuyền béo căn bản không thể đỡ được tảng thủy tinh to cỡ
nửa cái mặt bàn, lại vừa mỏng vừa sắc như một lưỡi dao. Ngọn thủy tinh hình
lăng giác nhọn sắc phập vào đống xác khô mà không hề ngừng lại, xuyên lút xuống
dưới, mất tăm mất tích.
Tim tôi thiếu chút nữa thì
nảy vọt ra ngoài, chỉ thấy Tuyền béo vẫn bàng hoàng đứng im tại chỗ. Ngọn thủy
tinh gần như rơi sát mặt cậu ta, đèn gắn trên mũ leo núi đã bị cắt lìa. Tuyền
béo đưa tay sờ lên đầu, há miệng cười, may quá, cái đầu vẫn còn.
Song mặt Tuyền béo hình như
thiếu thứ gì đó, nụ cười của cậu chàng trông ngờ nghệch cả đi, tôi thấy cậu ta
vô sự, đang định quay người lại bảo Shirley Dương mau tránh đi, mới đột nhiên
phát hiện ra trên mũi Tuyền béo rỉ ra một chút máu tươi, rồi máu chảy xối ra
như suối, đầu mũi đã bị cắt mất một miếng thịt lớn. Cũng may đống xác nghiêng
nghiêng, để giữ thăng bằng Tuyền béo hơi ngả người về phía trước, chứ nếu đứng
thẳng người, có khi bụng cậu ta cũng bị xoẹt mất một miếng, lúc ấy thì e là sổ
gan lòi ruột. Tuyền béo không thấy đau, mãi đến khi nhận ra máu chảy xối xả mới
biết mũi mình bị thương, liền gào ầm ĩ lăn vào trong đống xác khô ở chỗ thấp
hơn, lôi luôn cả Minh Thúc đang đứng sau lưng xuống theo.
Tôi định lao ra giúp, nhưng
vừa dợm bước lên nửa bước, lại có một cây thủy tinh đa giác phi thẳng xuống
trước mặt, cách chưa đến nửa mét. Đống xác khô được rải thành bốn tầng dẫn lên
cầu đá bị những ngọn thủy tinh cắm phập xuống trông như xâu kẹo hồ lô, nửa sau
của cây thủy tinh phải dài tới bốn, năm mét, đã chặn cả lối đi. Tiếng sấm trên
đỉnh đầu mỗi lúc một mau, ngọn thủy tinh rơi xuống mỗi lúc một nhiều, cũng may
tôi vừa phát hiện ra ở những chỗ có thủy tinh chuẩn bị rơi, mạch tinh thể sẽ
phát ra tiếng rắc rắc liên hồi, vậy nên chỉ cần bình tĩnh thì cũng không đến
nỗi không tránh được. Thế nhưng tôi cũng biết rõ rằng đây mới chỉ là bắt đầu
thôi, những ngọn thủy tinh kia mới đang khởi động, cứ đà này, chỉ trong chốc
lát nữa chúng sẽ phi như hàng vạn mũi tên, mặt đất sẽ không còn chỗ để đặt chân.
Tuyền béo ngã xuống đống
xác ở tầng dưới đã leo lên, mặt mũi be bét những máu, vừa ôm mũi vừa chửi luôn
mồm, than rằng khuôn mặt phúc hậu tướng đại phát của cậu ta thế là toi rồi. Tôi
vội gọi Minh Thúc và A Hương, bảo lấy ít bột mai rùa trong ba lô của Tuyền béo
ra giúp cậu ta bôi vào mũi. Minh Thúc không dám giở trò gì nữa, vội kéo A Hương
và Tuyền béo lánh vào trong góc chết dưới cầu, liệu thương cho cậu ta.
Tôi thấy chỗ họ tương đối
an toàn, định bảo Shirley Dương qua đó tránh tạm. Shirley Dương thấy những cụm
thủy tinh trong động rung mạnh, nếu có lớp thủy tinh lớn hơn nữa bong ra, đừng
nói là đống xác khô dưới cầu, mà ngay cả lòng núi ngọc cũng không an toàn nữa,
chỉ còn cách lập tức đem mật Phượng hoàng và mắt thủy tinh mang ký ức của Quỷ
mẫu đặt vào đàn tế thì mới ngăn được Đại hắc thiên. Thời gian để giải thích lôi
thôi không còn nữa, chỗ Shirley Dương đứng cách hồ đàn tế đã rất gần, tôi đành
phải bảo cô nàng mạo hiểm thử xem sao. Tôi quăng túi hành lý có chứa đồ tế ra.
Shirley Dương đón lấy, đầy vài cái xác khô gần mình về phía trước. Chỗ cô đứng
cách khu hồ trông như hai hốc mắt chỉ có mười mét. Tôi tưởng Shirley Dương định
đứng đấy ném luôn nhãn cầu vào đàn tế. Diện tích hai khoảnh hồ rất nhỏ, tôi tin
tưởng Shirley Dương sẽ không mạo hiểm vô ích, làm như vậy nhất định có cái lý
của cô, nhưng suy cho cùng được mất đều trông vào phút này, tôi cũng không khỏi
toát mồ hôi thay cho cô.
Nhưng Shirley Dương không
hành động ngay từ khoảng cách xa như vậy, rõ ràng là cô vẫn không chắc chắn.
Thoạt tiên cô dùng đèn pin mắt sói soi rõ vị trí khoảnh hồ, rồi đẩy tiếp mấy
cái xác khô về phía trước. Vừa lúc đó lại có một khối thủy tinh phía trên đỉnh
rơi xuống, đập trúng pho tượng đá cách cô trong gang tấc, bụi thủy tinh bắn
tung tóe. Tảng đá thủy tinh rơi xuống dưới cầu, còn pho tượng lung lay đổ đánh
rầm xuống, chặn đứng lối tiến lên của Shirley Dương.
Tôi đứng phía sau hoàn toàn
quên đi mối nguy hiểm rình rập bên mình, vô cùng căng thằng theo dõi nhất cử
nhất động của Shirley Dương. Chỉ thấy cô đứng từ bên này pho tượng đá chăm chú
nhìn sang hồ nước bên kia một lát, lưng và vai nhô lên vài lần trông vừa làm
vài động tác hít thở thật sâu. Trong tiếng sấm dày đặc tựa như có cơn dông bão
lớn trên đỉnh động, Shirley Dương vẫn hoàn toàn tập trung, xác định vị trí
tương phản của mật Phượng hoàng và mắt thủy tinh so với nghi thức vẽ trong bích
họa, rồi vung tay ném chúng xuống hồ nước.
Mật Phượng hoàng và mắt
thủy tinh lần lượt tượng trưng cho hai dạng năng lượng của thế giới quỷ động,
còn hai hồ nước hình hốc mắt trong long chu kia là nơi giao hòa của âm dương
sinh tử, trời người hợp nhất, và cũng chính là điểm giao thoa giữa dây và cung
trong "vũ trụ toàn tức luận". Cái khí âm dương sinh tử ở nơi tận cùng
của long mạch giống như hai xoáy nước đều tập trung ở đây, năng lượng tương
phản có thể hiện thực hóa vật chất trong Quỷ động, khiến nó dừng lại một cách
chân thực ở thế giới của chúng ta, cũng đồng nghĩa với việc cắt đứt đường thông
đạo của không gian số ảo trong Quỷ động, lời nguyền phía sau lưng coi như chấm
dứt, sẽ không ai còn bị quỷ động hút dần hồng cầu, mặc dù dấu ấn bị coi là vật
tế của Quỷ động này thì cho đến chết cũng sẽ không biến mất.
Đại đa số những điều cơ mật
trong tôn giáo cổ xưa này đều rất khó lý giải, thêm nữa tất cả cũng chỉ là ức
đoán không căn cứ, việc đến nước này thực cũng chưa chắc ăn tí nào. Tôi thấy
Shirley Dương cuối cùng cũng ném mật Phượng hoàng và mắt thủy tinh xuống hồ,
vậy mà không hề cảm thấy nhẹ nhõm giải thoát chút nào, trái lại trong lòng bỗng
thấy hụt hẫng khó tả. Shirley Dương quay lại nhìn tôi, ý như muốn nói khi nãy
quá căng thẳng, người hơi run. Lúc này khói đen xối từ dải tinh thể trong hang
động đã bớt dần, ánh huỳnh quang lạnh lẽo bắt đầu le lói trở lại, các chấn động
ngưng lại, mặc dù vẫn có một vài ngọn thủy tinh có nguy cơ rơi còn treo lơ lửng
ở trên cao.
Sự im ắng lúc này khiến tôi
có đôi chút chưa quen, tôi lau những vạt mồ hôi lạnh đang chảy trên trán, nói
với Shirley Dương :" Cũng coi như xong rồi nhỉ? Chúng ta đã kiên trì đến
phút chót, vượt qua được bóng đêm trước buổi bình minh, xui xẻo nửa đời người,
cuối cùng cũng coi như đã nhìn thấy ánh sáng thắng lợi được một lần".
Vẻ rầu rĩ từ đầu tới giờ
trên gương mặt Shirley Dương lúc này đã tan biến như làn khói đen trong dải
thủy tinh, tuy khóe mắt cô long lanh nước nhưng đó chỉ là nước mắt chảy vì rũ
bỏ được gánh nặng :" Ừm, cuối cùng thì cũng kiên trì được đến cuối cùng,
cám ơn Chúa đã cho tôi quen anh, nếu không tôi quả thực không dám tưởng tượng
nổi mình phải đối diện với tất cả những việc này thế nào, giờ chúng ta có thể
nghĩ đến việc nhà thế nào rồi.."
Lời nói chưa dứt đã bị
tiếng súng nổ trên cầu cắt ngang, trong tiếng súng trường còn văng vẳng tiếng
tri hô của Tuyền béo và Minh Thúc. Tôi nghĩ thôi lại bỏ mẹ rồi, chẳng rõ chuyện
gì đã xảy ra. Sắc mặt Shirley Dương cũng thay đổi, không xong rồi, lẽ nào đã
làm sai phương thức cúng tế? Lại có biến cố gì đây?
Chúng tôi không dám lần
khân nghĩ ngợi, cũng chẳng cần phải giẫm lên xác mò mẫm đi nữa, tức tốc lần
theo tiếng súng chạy thục mạng về chỗ đống xác dưới cầu. Khi chạy tới nơi,
thình lình có một thứ trong suốt như khối mạt băng từ trên đống xác tím đen
nhào tới, như thể tảng thủy tinh trong suốt bỗng nhiên có sự sống. Tôi cứ tưởng
mắt mình hoa, nhìn kỹ lại quả thực có một thứ trong suốt đang lao tới phía
chúng tôi, chỉ có thể thấy đại khái vóc dáng của nó vừa bẹp vừa dài, tốc độ di
chuyển rất nhanh. Tôi lập tức giương khẩu MI911 lên bắn luôn, nhưng sau khi nổ
súng, trên đống xác khô chẳng để lại dấu vết gì, cái thứ trông như ma quỷ ấy
trong nháy mắt đã mất tăm mất tích.
Tôi và Shirley Dương bất
chợt đồng thanh hỏi nhau :"Cái gì vừa hiện ra vậy?". Bỗng nhiên tôi
cảm thấy phía sau có tiếng vang khe khẽ, chẳng kịp quay lại nhìn đã ngã bổ
chửng xuống đống xác. Chỉ cảm thấy sau lưng bị một lô xích xông lưỡi dao cùng
lúc chém tới, áo bị rách mất một mảnh, mắt hoa lên, một đống vật chất trong suốt
mơ hồ từ phía sau ập tới chớp nhoáng, tiến vào gần vùng đá thủy tinh rồi thì
như bốc hơi, không còn nghe bất kỳ tiếng động nào nữa.
Cái thứ trong suốt mơ hồ ấy
không chỉ có một, ở mé bên cũng xuất hiện hai ba cái tương tự, nhìn không rõ
nên rất khó ngắm cho chuẩn xác, mà đạn thì có hạn, không chắc chắn không thể
bắn bừa được, đành phải rút ngay về phía sau. Biết đâu đứng trên cây cầu hẹp
lại có thể bắt gọn được mục tiêu.
Tôi và Shirley Dương theo
đường cũ rút về trước cửa hang đàn tế ở tận cùng cây cầu đá. Tiếng súng của
Tuyền béo và Minh Thúc đã dứt, chẳng biết bọn họ có gặp gì bất trắc không, còn
chúng tôi thì không sao thoát thân khỏi chốn này được, càng nghĩ trong lòng lại
càng thêm lo lắng.
Đột nhiên Shirley Dương bảo
tôi mau bắn lên phía trên đỉnh đầu.
Hóa ra lúc này đã xuất hiện
mười mấy vật thể lờ mờ trong suốt bám sát chúng tôi leo lên cầu đá, hình dạng
trông vừa giống rắn lại vừa giống cá. Tôi lập tức hiểu ý Shirley Dương, không
dám chần chừ, giương súng bắn thẳng vào dải thủy tinh trên cao, khiến mấy ngọn
thủy tinh vốn đã lung lay ào ào phi xuống, tiếng rơi rầm rầm nặng trịch ầm
vang, trên mặt đất xuất hiện mấy mảng máu nhơ loang lổ, mà vẫn không nhìn ra
được đám kia là cái thứ gì. Hơn nữa mấy phát súng vừa rồi còn gây ra một chuỗi
phản ứng dây chuyền, khiến hàng đống đá thủy tinh rơi rào rào xuống lòng thông
đạo, bịt cả lối quay về.
Tuy nhiên trước mắt chúng
tôi cũng chưa hơi đâu mà để tâm đến chuyện đó. Lại chợt nghe thấy tiếng Tuyền
béo đứng phía dưới gọi lên, tôi đáp trả một tiếng, xem xung quanh không có động
tĩnh gì, liền cùng Shirley Dương tìm đường đi xuống, thấy mũi Tuyền béo dán
băng dính, vết máu nhòe nhoẹt trên mặt vẫn chưa khô, Minh Thúc và A Hương cũng
ở đây cả.
Tình cảnh bọn Tuyền béo lúc
nãy cũng giống tôi và Shirley Dương, nhờ có A Hương nhìn thấy trước nên mới đối
phó được. Phát súng của họ đã cứu mạng tôi và Shirley Dương, bởi vì lúc đó
chúng tôi hoàn toàn không phòng bị gì, giờ nghĩ lại mới thấy quá may, sóng to
gió lớn đã qua, suýt nữa lật thuyền trong khe hẻm, song rốt cuộc vật thể kia là
thứ gì?
Tuyền béo mũi bị dán chặt,
thành thử giọng nghe ồm ồm, chỉ vào một đống be bét máu thịt, hóa ra cậu ta đã
dùng cả súng lẫn xẻng đập chết mấy con trông giống như .... cá, vừa đá đá vào
vừa nói :" Mẹ kiếp trông hơi giống người các vị ạ, các vị ra xem xem nó là
người hay là cá nào?"
Tôi nghe lấy làm lạ
:"Nửa giống người lại nửa giống cá? Chẳng phải quái ngư thì cũng là quái
nhân, không phải nữa thì là người cá, mà sao màu sắc nó trông như kính mờ thế
này nhỉ?". Tôi ngồi xổm xuống lật cái đống Tuyền béo vừa giết, do máu me
be bét dính khắp toàn thân, nên có thể nom ra được hình dạng nó. Con vật dài
hơn một mét, đầu phẳng dẹp, cũng không biết do sinh ra đã thế hay tại bị Tuyền
béo đập bẹp, phần giữa cơ thể to thô, đuôi dài nhỏ, khắp mình phủ kín vảy li ti
trong suốt như thủy tinh phát ánh dạ quang nhờn nhợt. Nếu thân mình nó không
chảy be bét máu thế này, quả thực rất khó nhìn rõ được trong hang động toàn thứ
ánh sáng kỳ dị thế này. Tôi sờ vào đám vảy, ngón tay lập tức bị cứa cho một
miếng, xem ra vảy của nó còn sắc hơn cả lưỡi dao. Con vật không có chân, hai
bên thân có thứ gì đó vừa tựa vây cá vừa giống hai cánh tay có cả bàn tay, nhìn
chẳng khác gì bàn tay người, nhưng tỉ lệ quá bé so với thân hình, cả cánh tay
chỉ có độ dài cỡ bàn tay của người bình thường mà thôi.
Tôi nhìn đi nhìn lại mấy
lần, rồi nói với mọi người :" Trông con này hơi giống cá cóc mọi người ạ,
lẽ nào đây lại là loài lưỡng thế 'diệt đăng ngân oa oa', tương truyền có khả
năng tắt đèn kỳ dị, cực kỳ hiếm có, thân hình to như đứa trẻ sơ sinh, chuyên ăn
rắn con và tép. Ngày xưa các nhà giàu có, quan to có quyền thế thường thích
nuôi một con sống trong bồn lưu ly bằng ngọc, tối đến nó làm tắt hết đèn trong
phủ, quý hiếm như vậy, có nó bày trong nhà còn khoe khoang hơn cả bày viên dạ
minh châu. Có điều sau khi bị bắt về, cùng lắm nó chỉ sống được mấy chục ngày,
chết đi lại gây oán khí rất nặng, nếu không có thứ gì trấn trạch người thường
chẳng ai dám nuôi trong nhà. Tuy nhiên tôi chưa từng nghe nói loài vât này có
thể trực sát thương con người".
Shirley Dương lắc đầu tỏ ý
không tin là vậy, rồi dùng dao lính dù nạy cái mồm to của con vật ra. Trong mồm
con vật không có lưỡi, mà lồi lõm rất nhiều những mấu xương nổi gồ lên, lạ chi
chít hàng trăm cái ông hút thịt, xem ra nó chyên hút tinh huyết để sống.
Shirley Dương nói có thể
các nô lệ là vật tế sẽ khi bị móc mắt đã bị lũ này hút hết máu. Chẳng rõ tế máu
có phải là một phần của nghi thhức tế nhãn cầu trong Quỷ đông hơn nữa.
Minh Thúc nói chen vào
:"Loài này quả thực rất giống 'diệt đăng ngân oa oa'. Cách đây mấy năm tôi
có mua được hai con, nhưng đều là tiêu bản. Về sau đem bán lại cho một người Ấn
Độ, quả thực cũng chưa nhìn vào mồm nó bao giờ".
Tôi ngẩng đầu bảo lão
": Vừa nãy bác khong cắm đầu cắm cổ chạy tháo thân, xem ra chẳng uổng công
chúng tôi giúp bác, tinh thần giác ngộ của bác có phần nâng cao, tôi thấy linh
hồn bác đã thoát khỏi bóng đêm trở về bình minh ánh sáng rồi đấy".
Rốt cuộc thì đại sự đã
xong, tôi cũng thấy nhẹ cả người, đang muốn đá đểu Minh thúc thêm mấy câu,
nhưng nói đến đó thì chợt phát hiện ra bên cạnh chỉ có Tuyền béo, SHirley Dương
mà thiếu mất một người. A Hương biến mất tăm không thấy đâu cả. Tôi vội đứng
dậy nhìn quanh. Đống xác khô ở đây hồi nãy đã bị chúng tôi chuyển lên trên cầu,
thủy tinh lộ ra lác đác bên dưới cùng với một hàng vết chân vấy máu.
Chương 36: Hướng
Tây Bắc chếch Bắc
C húng tôi chỉ chăm chú xem con cá chết dưới đất mà không biết A
Hương mất tích tự lúc nào. Chỉ chắc chắn một điều là cô bé không hề cầu cứu hay
giằng co quẫy đạp gì, bằng không thế nào cũng có người nhận ra. Mọi người cùng
hết sức lo lắng, ai nấy đều cảm thấy lần này lành ít dữ nhiều, e là A Hương đã
bị lũ quái hút máu vật tế thần kia cuỗm đi mất rồi.
Nhìn lại hàng vết chân thì
thấy dấu máu còn mới, mà chỉ là vết chân của một người, chắc chắn là của A
Hương, tất cả có chừng mười mấy dấu, đến chỗ xác khô chất đống thì mờ hẳn.
Nếu cô bé bị con gì đó bắt
đi, chắc cũng chưa quá lâu, lúc này đuổi theo có lẽ vẫn còn cơ hội cứu được.
Chúng tôi không dám chần chừ chút nào, cuống quýt theo dấu chân băng qua đống
xác, thấy bên dưới cũng có dấu chân máu, xem chừng là cô bé đi ra phía sau đàn
tế. Chúng tôi ba chân bốn cẳng chạy theo hướng đó, vòng qua núi ngọc, thấy giữa
dải thủy tinh phía sau núi có một cái hang, chẳng biết là thông tới đâu, một
bóng người mảnh dẻ đi vụt vào bên trong.
Tuy bóng người chỉ thoáng
vụt qua, nhưng trông vóc người và màu quần áo, tám chín phần chắc chắn là A
Hương. Xung quanh cô bé dường như không có thứ gì khác, cô bé chảy bao nhiêu
máu như thế, rốt cuộc tới đây một mình làm gì? Tôi bắt đầu ngờ vực, liền bước
chậm lại, song Shirley Dương lại rảo bước chạy lên, đuổi theo A Hương, trong
khi Minh Thúc cũng lớn tiếng gọi tên cô bé.
Ban đầu nơi đây toàn mây
mù, những chấn động của núi Kích Lôi đã làm khói đá tan hết, nhưng vì chúng tôi
mải tháo chạy, không phát hiện ra phía sau đàn tế còn có một cái hang. Đến bây
giờ, dải thủy tinh phía trên lại từ từ phả sương mỏng nhàn nhạt, khói đá hư ảo
mịt mùng, không khí tĩnh mịch kỳ dị bao trùm khiến mọi thứ đều lờ mờ không rõ,
còn khe núi bên rìa hang nhìn càng thêm sâu hoắm. Trực giác mách bảo tôi, sơn động
này không phải là một nơi bình thường, mạch thủy tinh thưa dần, ánh huỳnh quang
mờ nhạt, phảng phất có hơi thở của thần chết. Song tôi thấy Shirley Dương đã
rảo bước chạy vào bên trong nên không đắn đo suy nghĩ nhiều, chỉ hơi chần chừ
một chút rồi cũng giơ đèn pin mắt sói chạy theo cô vào trong sơn động.
Mọi người cùng chạy cả vào,
đuổi được mấy bước lại thấy có bóng người, chính là A Hương. Cô bé có vẻ đang
bị mộng du, hoàn toàn không biết gì, đôi mắt thất thần nhìn chăm chăm về phía
trước, máu từ lỗ mũi không ngừng tuôn, cũng chẳng hề có phản ứng trước sự có
mặt của chúng tôi, cứ từng bước đi sâu vào trong hang động.
Tôi đưa tay định kéo A
Hương lại, nhưng Minh Thúc vội can :" Chớ! Chớ kinh động đến con bé, chú
Nhất! Hình như A Hương mắc phải chứng ly hồn rồi. Cái chứng này bắt buộc phải
để tự tỉnh lại, chỉ cần chạm vào là hồn phách nó không quay về nữa đâu. Trước
đây nó chưa bị thế này bao giờ, hay là bị trúng tà rồi?"
Tôi nhất thời không dám
manh động, nhưng mũi A Hương vẫn không ngừng chảy máu. Do mất máu quá nhiều,
sắc mặt cô bé đã bợt đi, trông không ra vẻ người nữa, nếu cứ tiếp tục mặc kệ,
chỉ riêng chảy máu thôi cũng đã đủ giết chết cô bé rồi. Shirley Dương nói
:" Những thứ có mùi diêm tiêu phục hồi tri giác cho người bị chứng tâm
thần phân lập được đấy", rồi liền lấy Bắc địa huyền chu ra. Đúng lúc đó
thì phát hiện A Hương đã nắm trong tay một mảnh thủy tinh vỡ sắc nhọn, đang từ
từ đưa lên tự đâm vào mắt.
Shirley Dương vội bôi ngay
Bắc địa huyền chu lên mũi A Hương. Cô bé hắt một hơi mạnh, người mềm nhũn ngã
lăn ra đất. May mà phát hiện kịp thời, tôi và Shirley Dương vội dìu cô bé ngồi
dậy, để ngửa đầu, ấn chặt lấy xương xoăn ở gốc hai cánh mũi để cầm máu. Nhưng
rốt cuộc cô bé bị làm sao vậy? Vì sao tự mình đi vào hang động này? Vì sao lại
muốn chọc mù mắt mình? Lẽ nào trong động có thứ gì đó khiến cô bé mất thần trí?
Shirley Dương nói với tôi,
chắc chắn A Hương không thể tiếp tục đi nữa đâu, tốt nhất là để cô bé nghỉ lại
ở đây một lúc đã. Tôi gật đầu đồng ý, cứ nghỉ nửa tiếng đã, không đi được cũng
không sao, tôi và Tuyền béo dẫu có phải khiêng phải vác cũng sẽ đưa cô bé trở
về. A Hương cũng coi như may chán, tôi xin Tuyền béo mấy miếng mai rùa rồi dùng
đá giã nhuyễn ra, bảo Shirley Dương đút cho A Hương uống. Mai rùa thiêng giá
trị liên thành này chẳng khác nào linh đan diệu dược bổ huyết dưỡng thần. Tuyền
béo không khỏi xót của, vốn tất cả chẳng có bao nhiêu, A Hương lại vớ bở cả,
giờ chỉ còn lại mỗi một miếng to bằng lòng bàn tay, nghĩ đi nghĩ lại, món nợ
này chắc hẳn sẽ tính cho Minh Thúc, bắt lão phải viết giấy nợ, về là phải trả,
đừng hòng chạy làng. Sau đó Tuyền béo ra lôi hai con cá quái dị vừa chết vào,
đói mờ mắt rồi thì cũng chẳng kén cá chọn canh nữa, nghĩ bụng nghi thức giết
người cúng tế đã bỏ đi hàng bao năm rồi, cái thứ này chắc cũng chẳng hút máu
người giống như tổ tiên nó đâu, dùng dao cạo vảy rồi nướng trên lửa cũng đủ ăn
cho đỡ đói.
Tôi dùng đèn pin soi xung
quanh quan sát địa hình. Sơn động này rất hẹp, cũng không sâu lắm, chúng tôi
đuổi tới chỗ A Hương đã gần đến kịch đường rồi, giơ đèn pin mắt sói lên có thể
nhìn thấy tít cuối hang. Chỗ đó có một bức tường lớn xây bằng đá, chân tường có
ba cửa hang rất thấp, còn trên bờ tường dày nặng khắc một totem hình nhãn cầu
nhỏ máu, ánh mắt vô cùng tà ác.
Mọi người nhìn thấy con mắt
nhỏ máu, đều quay sang nhìn nhau, im lặng hồi lâu. Cả bản đồ trong cuốn Kinh
Thánh mà vị cha cố người Bồ Đào Nha vẽ trộm trong miếu Luân Hồi cũng không thấy
có nơi này, tất cả các truyền thuyết được ghi chép lại đều nói đàn tế bên dưới
thành Ác La Hải chỉ có một con đường duy nhất, vậy phía sau bức tường này là
nơi nào? Con mắt nhỏ máu kia ngụ ý điều gì?
Shirley Dương nói con mắt
chảy máu này chắc đối ứng với con mắt nhắm ở trước cửa địa đạo trắng, các totem
nhãn cầu muôn hình muôn vẻ ở rất nhiều nơi trong thành Ác La Hải, theo tôi
thấy, tất cả các hình nhãn cầu trên cửa đá đều có tác dụng cảnh báo hoặc phân
chia khu vực, song hình mắt nhắm thì dễ lý giải, còn hình mắt nhỏ máu thì lại
có thể lý giải rất nhiều cách, khả năng lớn nhất là có tác dụng cảnh cáo, chỉ
rõ rằng sau tường này là vùng cấm địa, khu vực bí mật còn quan trọng hơn cả đàn
tế.
Tôi đi tới trước bức tường
đá ở tận cùng động huyệt để quan sát. Từ ba cửa hang ở phần dưới bức tường có
mùi tanh ngấy lùa ra, lấy tay quệt thử, thấy có cả chất gì lầy nhầy, trên phiến
treo những mảnh thủy tinh như hình vảy cá. Dường như sau khi hoạt động tế lễ
hoàn thành, những con cá hút máu đều từ trong này chui ra, sau bức tường này có
lẽ có nước. Bức tường có các vân đá không đều đặn, chứng tỏ trước đây nó đã
từng bị phá ra rồi xây sửa lại, hoặc giả ngay từ đầu vốn là một cửa đá chứ
không phải tường, vì một nguyên nhân nào đó đã bị bít lại.
Một lúc sau, thần trí A
Hương đã hồi phục đôi chút, sắc mặt vẫn trắng bệch đến rợn người, cơ thể hết
sức yếu ớt, nói cũng khó khăn. Shirley Dương hỏi cô bé vừa nãy xảy ra chuyện gì
vậy, có biết mình đã làm gì không?
A Hương thoạt tiên lắc đầu,
sau đó như nhớ ra, nói khi em ở dưới chân cầu, đột nhiên cảm thấy rất sợ, trong
đầu chỉ có một ý nghĩ là làm sao phải mau chóng rời khỏi đây, vĩnh viễn không
muốn nhìn thấy những cái xác khô kia nữa, lẩn thẩn thế nào lại tự mình đi vào
đây, không thể hiểu nổi vì sao lại làm như vậy.
Minh Thúc nói :" Con
gái tôi mà thấy thứ gì có âm khí nặng là chảy máu mũi ngay, lần này cũng vậy
thôi. Suy cho cùng con bé vẫn còn nhỏ, có những việc nó không biết tốt xấu ra
sao, còn chúng ta bôn ba sóng gió nhiều rồi, tất sẽ hiểu được sự lợi hại. Nơi
này xem ra không tiện ở lâu, mọi người cứ nghe theo lời tôi, ta men theo đường
cũ quay trở ra là ổn nhất".
Tôi ngẫm nghĩ một lát, nếu
theo đường cũ, cùng lắm là quay lại được đảo núi lửa nằm giữa lòng hồ. Ở đó tuy
có mấy con sông ngầm, song về cơ bản vẫn có thể coi là cùng đường mạt lộ, vả
lại dòng sông ngầm chảy gấp, đem theo người bị thương chắc chắn không có đường
ra, còn phía sau bức tường này tuy có thể có nguy hiểm, nhưng nhất định có cơ
hội tìm thấy lối ra, có khi lại liên quan đến Quỷ động, nhổ cỏ phải nhổ tận
gốc, không kết liễu triệt để, e rằng về sau sẽ không bao giờ có ngày nào yên
thân.
Tôi xem kim chỉ Nam trên
đồng hồ đeo tay, bức tường không nằm trùng khớp với địa đạo màu trắng chạy theo
hướng từ Đông sang Tây mà theo hướng Tây Bắc chếch Bắc. Có được phương vị rồi
tôi lập tức hạ quyết tâm, nhưng trước tiên vẫn phải trưng cầu dân ý cái đã.
Shirley Dương nói, con
đường tới đây đã bị khá nhiều tảng thủy tinh rơi xuống chặn kín, muốn đi về
theo lối cũ đâu có dễ, mìn ống chỉ còn hai thanh, có cho nổ mìn cũng không phá
nổi đâu. Ngoài ra còn một sự lựa chọn khác, có thể leo lên nổ mìn ống trên đỉnh
hang, khiến nước hồ bên trên đổ xuống. Sau khi hang ngập nước, ta có thể bơi
lên. Có điều chúng ta đều đã mệt rồi, ngâm mình trong nước lâu e là sẽ nguy
hiểm đến tính mạng đấy.
Minh Thúc nghe vậy bắt đầu
do dự, cực lực theo chủ trương phải quay lại hồ ngầm. Lão vốn là người cuồng
tín, đương nhiên không chịu đi vào nơi có âm khí nặng nề. Lão nói với tôi
:" Có lẫn không thế chú Nhất, sư huynh của chú chẳng phải bảo lần này
chúng ta gặp nước sẽ đắc Trung đạo đấy sao? Anh thấy điểm này quả là quá chính
xác, phía sau bức tường này có nước hay không chúng ta chẳng ai biết được, làm
sao có thể bỏ ngoài tai vờ như không biết những lời chỉ giáo của cao nhân đây?"
Trong bụng tôi thầm chửi
lão khọm già Hồng Kông cứ thích cái kiểu trống đánh xuôi kèn thổi ngược, nhưng
làm gì được lão đây? Nếu cứ làm theo tôi bỏ mặc lão ở lại thì một người tin vào
Chúa trời như Shirley Dương chắc chắn sẽ không đồng ý, còn nếu mang theo, tuy
tinh thần lão ta đã hồi phục đôi phần, nhưng cái bệnh đa nghi kia chẳng biết sẽ
tái phát lúc nào. Tôi lại chợt nghĩ, loại người như lão này cũng có nhược điểm,
chính là cái sự mê tín quá mức của lão, sao tôi không lợi dụng nhược điểm này
khiến lão tin chắc rằng đây chính là con đường duy nhất có thể sống sót?
Nghĩ đến đây tôi bèn nói,
gặp nước đắc Trung đạo đương nhiên là không sai. Chúng ta dọc đường tới đây,
chưa từng rơi vào bước đường cùng, cũng đều nhờ vào nước mà hóa giải được muôn
sự khốn đốn. Song nước trong Kinh Dịch ngũ hành bát quái không chắc đều chỉ
nước chảy trong hồ, nó cũng ám chỉ phương vị. Theo ngũ hành thì phương Bắc
tượng trưng cho nước, thủy sinh số một, thành số sáu, Bắc chính là nước.
Điều này rõ ràng không
thuyết phục được Minh Thúc, bởi lão căn bản không thể nào hiểu được. Chính tôi
thực ra cũng chẳng hiểu lắm, có điều tôi nghiên cứu bí thuật phong thủy, đương
nhiên không bao giờ tách khỏi ngũ hành bát quái. Tuy không được sâu sắc như
Trương Doanh Xuyên, nhưng những nguyên lý tương sinh tương khắc trong ngũ hành
tôi cũng đều biết cả, đương nhiên trong đó cũng có một số điều là tôi hóng được
trong lần nói chuyện với anh Trương. Vậy là tôi bốc phét cho Minh Thúc nghe một
hồi :" Số trong ngũ hành bát quái, thảy xuất xứ từ Hà đồ, Hà đồ là gì vậy?
Năm xưa họ Phục Hy làm vua thiên hạ, cũng tức là hồi Phục Hy làm lãnh đạo ấy,
ông ta rầu rĩ, ngày nào cũng rầu rĩ. Mọi người nghĩ mà xem, cán bộ lão thành
hồi đó làm gì có chuyện tham ô hủ bại như bây giờ, ai cũng đều có trách nhiệm
cả, cả ngày nghĩ cho nước cho dân. Có một hôm ông ta ngồi dưới cây táo bên bờ
sông, suy ngẫm chuyện quốc gia đại sự..."
Tuyền béo đang chất lửa
nướng cá, nghe tôi nói đến đây, liền chõ mồm vào :" Nhất ơi là Nhất, cậu
kể cái chuyện mà đến tôi còn biết thế à, có phải là có quả táo rơi xuống, rơi
trúng đầu ông ta, khiến ông ta nổ đom đóm mắt, rồi ngộ ra đồ hình thái cực bát
quái không?"
Tôi bảo Tuyền béo đã không
biết thì đừng có nói xen được không? Để quả táo rơi vào đầu, là Newton, Phục Hy
ngồi dưới gốc cây táo rầu rĩ, đang lo nghĩ cho vận mệnh của thần dân nước ông
ta. Thời đại nguyên thủy hồng hoang đó có rất nhiều tai họa, quần chúng nhân
dân đều sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, vả lại nhận thức của nhân loại về vũ
trụ và thế giới tự nhiên bấy giờ hết sức hạn hẹp. Phục Hy liền đứng bên sông
cầu khấn, hy vọng có thể có được sự chỉ thị nào đó từ đấng toàn năng, làm sao
để có thể khiến trăm họ tránh được tai nạn mà an cư lạc nghiệp.
Bấy giờ dưới sông có một
con long mã nhảy vọt lên, trên lưng có cõng một bức họa, thế là Phục Hy liền
dựa vào bức họa đó vẽ ra bát quái. Cũng có người nói thứ con long mã cõng trên
lưng là một cái mai rùa khổng lồ, hoặc có lẽ bản thân long mã chính là một con
rùa già, trên mai của nó có những vằn vết kỳ diệu hình thành một cách tự nhiên.
Bất kể truyền thuyết nói thế nào, tóm lại, đó chính là Hà đồ, Phục Hy dựa vào
hình dạng trong họa đồ vẽ ra bát quái, đây là nhận thức sớm nhất về vũ trụ của
loài người trên thế giới, đạo trời thảy ở trong đó. Theo ghi chép, đồ hình
trong tấm họa đồ con long mã cõng trên lưng có một chấm trắng, sáu chấm đen ở
gần đuôi; bảy chấm đen, hai chấm trắng ở gần đầu ... không cái nào giống cái
nào, trong Hà đồ tổng cộng có năm mươi lăm chấm đen trắng, trắng hai mươi lăm
chấm gọi là thiên số, đen ba mươi chấm gọi là địa số. Màu trắng biểu thị dương,
toàn là số lẻ: một, ba, năm, bảy, chín; màu đen biểu thị âm, là các số chẵn: hai,
bốn, sáu, tám, mười. Đồng thời trong Hà đồ còn coi một, hai, ba, bốn, năm là
sinh số; sáu, bảy, tám, chín, mười là thành số, giữa chúng có mối quan hệ tương
sinh tương khắc, trong năm phương vị mỗi phương vị đều có một số lẻ một số
chẵn, đều lấy hai con số có ý nghĩa tượng trưng phối hợp với nhau, dùng để biểu
thị vạn vật trong thế gian đều do âm dương hỗn hợp mà thành, có ý rằng thái cực
xuyên thấu trời đất, nếu không phải trời sinh đất thành, thì ắt là đất sinh
trời thành.
Cho nên mới nói phương Bắc
là nơi khí dương được sinh ra, sinh số một, thành số sáu, gọi là thiên nhất
sinh thủy, địa lục thành chi, quy luật của vạn vật tự nhiên đều nằm ở trong đó,
cho nên tôi nói đi về hướng Bắc, nhất định có thể gặp nước mà đắc Trung đạo là
vì thế.
Shirley Dương nghe tôi nói
liền buột miệng khen :" Không ngờ anh còn biết mấy cái thứ loằng ngòa
loằng ngoằng này, trước đây tôi cứ tưởng anh ngoài xem phong thủy ra, chỉ biết
mỗi việc đếm tiền".
Tôi thấy ngay cả Shirley
Dương cũng khen tôi có học vấn, trong lòng tự nhiên thấy đắc ý, miệng suýt
không kéo khóa, song vẫn khiêm tốn nói rằng, thực ra những thứ tôi biết nhiều
lắm, chẳng qua thường ngày mọi người không cho tôi cơ hội thể hiện thôi, giờ
nói như vậy mọi người yên tâm rồi chứ, mọi lý thuyết nêu ra trên đời này đều dựa
vào hiện thực khách quan, cho nên tôi mới dám nói phía Bắc chắc chắn là cửa
sống. Ngoài ra còn có một nguyên nhân rất quan trọng khác, Mô kim Hiệu úy có
một quy định cổ xưa là: vào cổ mộ mò vàng, ắt phải thắp đèn ở góc Đông Nam, bởi
Đông Nam là phương vị của họa và việc, họa tức là tai nạn, việc tức là làm
việc, đèn sáng lên, ắt tiềm ẩn tai họa, góc Tây Bắc là con đường sống; Tây Bắc,
Đông Bắc và Bắc là ba cửa khai, hưu, sinh, trong tám trạm thì chỉ có ba cửa này
là cửa cát môn, điều này ngay cả Tư Mã Thiên cũng đã từng nhắc tới, ông ta nói
:" Kẻ làm việc đa phần ở Đông Nam, kẻ thu công thường ở Tây Bắc".
Cũng như vậy, trong con mắt của những người tinh thông thuật âm dương phong
thủy, từ trước tới nay sinh sự ở phương Nam mà thu công ở phương Bắc, xét từ
góc độ phương vị chiến lược thì các vùng Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc chiếm ưu thế
chiến lược tuyệt đối, phương Bắc chủ sinh thủy, thuộc loại hình thế thiện hoạt.
Một bài diễn thuyết ngắn
gọn khiến Minh Thúc tâm phục khẩu phục, thấy rõ chắc chắn phải đi về hướng Bắc,
muốn sống thoát khỏi đây, thì chỉ có một con đường đó thôi. Thế là mọi người
lại nghỉ ngơi chỉnh đốn một lát, rồi chui vào trong cửa hang thấp ở tận cùng
sơn động. Trước khi rời khỏi đây, tôi còn ngắm lại đôi mắt rỏ máu trên tường
đá, xem hình con mắt này có liên quan gì đến việc A Hương định dùng mảnh thủy
tinh chọc vào mắt mình không? Trong lòng tôi vẫn có chút lo lắng không yên,
thực ra mấy lời luyên thuyên bảo phương Bắc sinh nước vừa nãy chẳng qua là để
tung hỏa mù thôi, bản thân tôi chẳng có niềm tin gì, nhưng cũng chẳng còn đường
nào khác, hy vọng rằng cách này có thể khiến chúng tôi sống sót trở về.
Vừa thoát khỏi hang động
thấp tè, trước mắt đột nhiên rộng mở, một hẻm núi hùng vĩ hiện ra, vách đá hai
bên phẳng như gọt, tràn ngập tử khí. Địa hình chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ ở gần
quanh dựa vào ánh sáng yếu ớt phát ra từ dải đá quặng này, còn những nơi cao và
xa hơn thì chỉ rặt một màu đen kìn kịt. Chúng tôi tiến về phía trước mấy chục
mét thì phát hiện ra cơ man xương cốt hóa thạch của động vật khổng lồ chồng
chất ngổn ngang trong hẻm núi, cái đầu lâu hình tam giác gần chỗ tôi đứng nhất,
cũng chỉ nhỏ hơn căn nhà dân chút xíu. Ở chỗ gần sát rìa sơn cốc, vô số hài cốt
hóa thạch đã dính liền vào nham thạch, chỉ có những thanh xương sống dài chứng
tỏ rằng những tảng đá này từng có sự sống.
Tuyền béo cõng A Hương đang
hôn mê bất tỉnh, nói với chúng tôi :" Chẳng phải bảo người Ma quốc thờ rắn
sao? Ở đây có xương cốt của con rắn lớn như thế, tôi thấy chúng ta phải đề
phòng hơn, không chừng còn có con sống đấy!"
Shirley Dương nói, những
xương cốt trong hẻm núi này không giống xương rắn, mà giống như xương của cá
voi long vương gì đó, ít nhất cũng chết cách đây mấy trăm ngàn vạn năm rồi. Tôi
cũng đồng ý với cách nhìn nhận của Shirley Dương, cô nói rất đúng, rắn thì làm
sao có khúc xương sườn to như vậy được, trông như cả cái khung tàu ấy. Tất cả
các xương cốt ở đây đều là hóa thạch, không có xương thời cận đại, cho nên
không phải lo đâu, có điều chúng ta vẫn chưa biết người thành Ác La Hải làm gì
ở trong đây, điểm này cần phải đề phòng đấy.
Chúng tôi đang định qua đó
dò đường thì A Hương đột nhiên nói với tôi, mé bên phía sau có thứ gì đó khiến
em cảm thấy rất nhức đầu. Chúng tôi vội ngoái lại nhìn, rồi bất giác
"ồ" lên một tiếng đầy kinh ngạc. Chẳng ai ngờ rằng chính ở chỗ chúng
tôi chui ra lại có một pho tượng khổng lồ màu đen khoét vào trong thân núi tựa
như pho Lạc Sơn Đại Phật. Ánh huỳnh quang lấm chấm trên thân núi ánh lên dáng
vóc cao ngút đen tối của pho tượng, tựa như một bóng đen bặm trợn, quay lưng về
phía chúng tôi. Kỳ lạ nhất là pho tượng cao mấy chục mét này hơi ngả người về
phía trước, mặt và hai tay găm vào núi, tư thế giống như đang cúi mình nhòm vào
trong núi, nét tạc đá không hề tinh xảo phức tạp, chỉ phô ra một dáng vóc đại
khái chứ không có bất kỳ trang trí hay hoa văn nào khác.
Mọi người ai nấy đều có một
nghi vấn, không biết đây có phải là hình tượng chân thực của Đại hắc thiên Kích
Lôi sơn không? Đây rốt cuộc là nơi nào?Chúng tôi lập tức phát hiện ra, phía
trước và phía sau pho tượng khổng lồ đều có mặt giống nhau, không phân biệt đâu
là ngực đâu là lưng, mà cũng chỉ có hai cánh tay chứ không có chân, ở vị trí
tiếp giáp giữa pho tượng và mặt đất có một cửa hang cao hơn một trượng, bên
trong dường như có một không gian nào đó, trước cửa có mấy cây trụ đá đã đổ sập.
Tuyền béo nói, thật chẳng
dễ dàng gì giữ được tòa kiến trúc hoàn hảo thế này, chẳng bằng cứ tiến vào xem,
tìm ít đồ đáng tiền rồi hẵng lo chuyện quay về, bằng không chuyến này đi lỗ vốn
mất.
Tôi cũng định vào đó xem
sao, cứ mải ngẩng đầu lên nhìn pho tượng, chân giẫm phải một vật ngáng đường,
suýt thì ngã. Hóa ra trong hẻm núi này còn có rất nhiều cột trụ bằng đá, dưới
chân chúng tôi có một cây đổ xuống, quá nửa còn chưa lún sâu vào đất bùn.
Shirley Dương quan sát cột đá dưới chân, bỗng nhiên nói đã biết đây là đâu rồi,
nhưng cô không nói thẳng ra mà lại bảo với A Hương :" Để chị kiểm tra mắt
em được không?"
Chương 37:
Hang rắn
H ẻm núi trong lòng đất tựa như tầng cuối cùng của địa ngục, đâu đâu
cũng thấy xương cốt lởm chởm của sinh vật thời tiền sử, các cột đổ gãy rải rác
so với những bộ xương này đều ít ỏi chẳng nhằm nhò gì, vả lại phần lớn đều vùi
vào trong lớp đất màu xám, cho nên lúc mới vào đây chẳng ai phát hiện ra kiến
trúc do con người tạo dựng, mãi đến khi A Hương chỉ vào pho tượng thần màu đen
khổng lồ ở sau lưng, chúng tôi mới để ý thấy xung quanh còn có rất nhiều cột đá.
Trên các cột đá đều có đục
lỗ mũi trâu, có cái còn giữ lại được vòng đá to cỡ cổ tay, ngoài ra thứ bắt mắt
nhất chính là totem con mắt khắc ở từng khấc trên cột. Những totem này chúng
tôi đã thấy quá nhiều lần rồi, chẳng có gì mới mẻ cả, và ở đây có nhìn nó lần
nữa thì cũng chẳng cảm thấy gì bất ngờ. Totem con mắt, ngoài hai cái hình dạng
hết sức đặc biệt ở hai đầu đàn tế ra, một đầu là con mắt nhắm, một đầu là con
mắt rỏ máu, còn lại đều như nhau cả, con mắt trên cột đá này thuộc loại tương
đối phổ thông, tôi không thấy có điểm nào đặc biệt.
Nhưng Shirley Dương quan
sát hình con mắt trên những cây cột đá này xong thì hình như phát hiện có điều
gì đó dị thường, cứ đòi phải xem kỹ mắt của A Hương. Để A Hương khỏi căng
thẳng, Shirley Dương đã dùng một giọng nhẹ nhàng xin xỏ, chẳng khác gì lúc nói
chuyện bình thường.
A Hương gật đầu đồng ý, nét
mặt vẫn hết sức sợ hãi, đại loại cũng cảm thấy khó hiểu, không biết kiểm tra
mắt nghĩa là thế nào? Chỉ thấy Shirley Dương nín thở, đứng sát vào A Hương,
chăm chú nhìn vào đôi mắt của em ấy, kiểu như lục tìm gì đó.
Tôi hiểu Shirley Dương, mặc
dù cô chỉ nói qua loa đại khái, nhưng chắc chắn có vấn đề gì đó chúng tôi chưa
ý thức được. Hành động của cô em A Hương này quả thực cũng rất bất thường, đang
yên đang lành tự dưng mắc chứng ly hồn, cầm thủy tinh sắc đi đâm vào mắt mình.
Có khi đúng như Minh Thúc nói, A Hương bị trúng tà rồi, càng có khả năng đôi
mắt của em có mối liên hệ nào đó với thành Ác La Hải, liệu đây có phải là một
Quỷ mẫu yêu phi bên cạnh chúng tôi không nhỉ?
Tôi đoán già đoán non, tính
đi tính lại, nhưng có vẻ chẳng đúng được điều gì. Thấy Shirley Dương chăm chăm
nhìn vào mắt A Hương, tôi và Tuyền béo túm tụm lại xem, nhìn mãi cũng chẳng
phát hiện được cái gì khác lạ cả.
Cuối cùng Shirley Dương
dường như đã tìm ra đáp án trong mắt A Hương, thoạt tiên cô nàng bảo A Hương
chớ lo lắng, không có việc gì xảy ra đâu, sau đó bảo chúng tôi xem con mắt trên
cột đá, tuy trông nó cũng chẳng khác gì những hình vẽ khắc trong thành Ác La
Hải, nhưng có một chi tiết hết sức độc đáo, đó là hình con mắt ở đây có một
ngấn tròn màu đỏ hằn lên, bao quanh đồng tử. Shirley Dương bảo chúng tôi nhìn
vào mắt của A Hương xem thử, mắt của cô bé cũng xuất hiện tình trạng tương tự.
Lúc này tôi mới để ý đến sự
khác biệt tinh tế mà mình đã bỏ qua. Nếu quan sát kỹ đồng tử của A Hương sẽ
nhận ra bên trong quả thực có một ngấn máu giống như đường gân đỏ bao quanh con
ngươi trắng, cực kỳ mỏng mảnh, không nhìn kỹ chắc chắn không thấy được. Nếu A
Hương không chạy vào sơn động, có lẽ chúng tôi cũng không phát hiện ra chỗ này.
Đôi mắt của A Hương sao mà giống totem nhãn cầu ở đây như thế, vậy là cô bé cố
ý dẫn dụ chúng tôi vào sơn động này hay sao? Có điều, trước mặt A Hương, tôi
không dám nói ra những lời này.
Shirley Dương biết sự việc
vừa rồi rất dễ khiến mọi người ngờ vực, thế nào cũng nghi ngờ A Hương. Cô vốn
chẳng tin vào những chuyện chuyển kiếp, nên giải thích rằng luồng điện sinh học
của cơ thể người phát ra từ đôi mắt đại loại chỉ có 7%, cực kỳ yếu, song thể
chất của mỗi người khác nhau, khả năng cảm ứng đối với dòng điện sinh học này
cũng khác nhau. Đôi mắt của A Hương có thể tiếp nhận được dòng điện từ một số
sự vật khác hơn so với người thường, như thế quả thực rất đặc biệt, nhưng trên
thế giới cũng có không ít người sở hữu năng lực này. Chính vì thế từ trong tiềm
thức A Hương mới bị dẫn đến đây, totem trên cây cột này chính là chứng cớ xác
đáng nhất.
Minh Thúc nghe xong vội
nói, không có chuyện gì tốt cả thế, chúng ta mau đi về hướng Bắc thôi, sớm rút
khỏi đây, mặc kệ những thứ ma quỷ đi ...
Lão đang nói dở chừng, A
Hương bỗng nhiên lên tiếng :" Không tích sự gì đâu cha ạ, không có đường
để đi đâu, phía sau có rất nhiều rắn độc đang đuổi đến, chúng ta sẽ chết hết
thôi, con... con sợ rắn lắm, con không muốn bị rắn cắn chết đâu ... hu hu..."
vừa nói nước mắt vừa lã chã rơi xuống.
Lời của A Hương khiến mọi
người đều giật mình, sao bảo có rắn là có rắn ngay? Nghĩ đến những con rắn đen
trong địa đạo trắng ở núi Kích Lôi, tự dưng lạnh cả xương sống. Nếu như gặp đàn
rắn ấy trong hẻm núi này thì chẳng có chỗ nào để mà tránh, chạy thẳng về phía
trước cũng không ổn, có mỗi hai chân làm sao chạy nhanh bằng lũ rắn đen xuất
quỷ nhập thần ấy kia chứ, hai bên vách núi lại sắc phẳng như dao cắt, ngay cả
khỉ vượn e cũng chẳng leo được.
Từ sơn động phía Đông và các
kẽ núi trên mạch thủy tinh nham thạch đã vang lại tiếng trườn của bầy rắn, mặt
Minh Thúc biến sắc, giật cánh tay tôi liên tục nói :" Chú Nhất này! Lần
này thì trông chờ vào chú cả đấy, may mà ban đầu nghe lời chú đi về hướng Bắc,
phía Bắc có nước, có nước là có đường sống, chứ vừa nãy mà không nghe chú, quay
về đường cũ, thì giờ chắc là nằm trong bụng rắn cả rồi, chúng ta mau chạy về
hướng Bắc đi thôi!". Nói đoạn, liền kéo tôi chạy.
Tôi vội kéo tay lão lại nói
:" Đừng có hoảng! Phía trước hoang vu mịt mùng, chạy ra đấy chết là chắc.
Tôi thấy trước mắt cứ vào trong pho tượng đen tránh đi cái đã, bịt chặt cửa
hang chặn lũ rắn lại, rồi nghĩ cách khác thoát thân!"
Tiếng trườn của lũ rắn nghe
xôn xao như dòng nước thủy triều, chưa thấy bóng dáng chúng đâu, chỉ riêng âm
thanh đã đủ khiến người ta sợ vỡ mật rồi. Không chần chừ được nữa, tôi bảo
Tuyền béo cõng A Hương, còn mình kéo Minh Thúc, sải bước chạy vào trong cửa
hang phía dưới pho tượng đen. Lòng pho tượng đã bị khoét rỗng, rất tối tăm,
chúng tôi dùng đèn pin chầm chậm lia ra xung quanh, thấy có những kiến trúc
bằng gỗ và đá phân thành rất nhiều tầng, xem ra có thể leo thẳng lên đầu pho
tượng.
Bầy rắn đen đã gần áp sát
đến nơi, không còn thì giờ quan sát tình hình trong này nữa, Tuyền béo đặt A
Hương xuống đất, cùng tôi và Minh Thúc ra khuân hai phiến đá lớn, chặn cửa
hang, sau đó vẫn chưa hết căng thẳng, chân ai cũng mềm nhũn ra. Trước đây tôi
và Tuyền béo vẫn hay ra đồng bắt rắn, nhưng loài rắn đen này không những số
lượng nhiều mà còn di chuyển nhanh như chớp, độc tính lại vô cùng đáng sợ, dính
phải là chết ngay.
Chúng tôi còn lo lòng pho
tượng còn có kẽ hở nào khác, mọi người bàn bạc một hồi, cùng nghĩ cứ leo lên
phía trên là hơn vì xét một cách tương đối thì bên trên an toàn hơn một chút.
Để tiết kiệm nguồn sáng, cả đoàn chỉ bật một chiếc đèn pin và một đèn gắn trên
mũ leo núi. Leo lên trên rồi mới phát hiện ra trong này không hề bảo đảm chút
nào, vì lòng pho tượng khổng lồ có rất nhiều căn phòng đá rải rác, hình dáng
tổng thể gần giống thành Ác La Hải, như một tổ ong, tuy kết cấu thì không phức
tạp đến vậy. Các gian buồng tựa như hốc đá trong này nhỏ đến tội nghiệp. Tôi
nghĩ đây có lẽ không phải nơi dành cho người ở, thực sự là quá chật hẹp o bế,
nếu người sống trong đây, chắc ở được dăm hôm thì chết vì ngột ngạt.
Khắp nơi bụi đất phủ kín,
không khí bí bách, nếu cả năm người chúng tôi ở lâu một nơi chật hẹp thế này,
chắc chắn sẽ tức ngực vì thiếu oxy.
Mãi đến khi leo lên tầng
bốn mới cảm thấy có gió mát thổi vào, đường đi rất tối tăm, chúng tôi cứ lựa
men theo dòng khí lạnh mát, được một lúc thì gặp cửa hang rộng chừng một mét
vuông, chính là lỗ thông gió của phần bụng và chân tượng. Bức tượng gần như đen
tuyền nên đứng phía dưới không thể nhìn thấy nơi này, nếu không có các cây cột
đá đổ gãy, thậm chí cũng chẳng dễ dàng gì mà phát hiện ra lối vào ở chân tượng.
Tôi nhoài người ra khỏi cửa
hang đó, từ trên cao nhìn xuống, dưới ánh đèn huỳnh quang chập chờn, hàng mấy
lớp rắn đen ngoằn ngoèo chuyển động tụ tập cả lại trong khu vực phía dưới tượng
thần, con to thì bằng cỡ cánh tay, con nhỏ thì trông như lá liễu, trên đầu đều
có một con mắt thịt màu đen. Trong bầy rắn đó, có con nằm cuộn mình lại trông
rất biếng nhác, có những con giằng co nhau, phả ra những tiếng xè xè, số lượng
mỗi lúc một nhiều, nhìn cả đống rắn nhung nhúc, khiến người ta cảm thấy lợm
giọng.
Shirley Dương thấy vậy liền
bảo chúng tôi :" Hành động của những con rắn này rất lạ, hình như chúng bò
tới đây không phải để tấn công chúng ta, mà như chúng đang chờ đợi chuyện gì đó
thì phải".
Tuyền béo đặt A Hương
xuống, thở hổn hển nói :" Tôi thấy bọn nó đang đợi ta xuống dưới làm cơm
đấy". Đoạn giơ đồng hồ lên xem thời gian, rồi lại nói :" Đấy, đến bữa
rồi mà!". A Hương nghe Tuyền béo nói mà sợ hết hồn, ngồi trên mặt đất run
lẩy bẩy. Minh Thúc thấy tình hình phía dưới cũng mất hồn mất vía, hỏi tôi giờ
phải làm thế nào, chẳng còn gì ăn nữa rồi, nước trong bình thì gần hết, chẳng
thể nào cứ nấp mãi trong pho tượng được, vả lại căn phòng đá này trông mà nổi
da gà, ngay cả A Hương cũng nói rằng chỗ này khiến nó đau đầu, chúng ta lần này
lâm vào bước đường cùng thật rồi, có mọc cánh cũng chẳng bay ra được.
Lòng tôi cảm thấy rất bất
an, chắc chắn không thể thoát ra ngoài được, trong khi kiến trúc trong bụng
tượng thần màu đen này lại không giống như nơi dành cho con người ở, có trời
mới biết nơi đây có thứ gì. Tuy nhiên tình thế lúc này cần phải trấn an tinh
thần mọi người đã, tôi bèn viện lấy một cái cớ làm ổn định lòng dân, nói
:" Thực ra không chỉ có phương Bắc thuộc hành thủy, trong ngũ hành thì màu
đen cũng tượng trưng cho nước, pho tượng thần khổng lồ này đen tuyền, đương
nhiên cũng thuộc hành thủy, cho nên tôi nghĩ mọi người trốn cả vào trong đây,
chắc chắn không nguy hiểm đến tính mạng đâu!".
Nói đến đó, tôi bỗng nhiên
nghĩ ra vài biện pháp, liền bảo mọi người :"Vừa nãy dưới chân hẻm núi,
chúng ta đã nhìn thấy một lớp kén núi lửa, trên mặt đất có rất nhiều bọc lớn
nổi phồng, có lẽ đó là do ngọn núi trước đây đã từng phun nham thạch, nhiệt độ
cũng cao hơn hẳn so với những chỗ khác. Những dấu vết này chứng tỏ nơi đây có
một dải núi lửa. Chúng ta phát hiện ra một ngọn núi lửa đã tắt ở lòng hồ, như
thế không có nghĩa là cả dải núi lửa này đều đã tắt. Lũ rắn thích những nơi
lạnh ẩm, đều bò ra từ sơn động phía Đông, tuyệt đối không dám đến gần phía Bắc,
vì càng đến gần phía Bắc mùi lưu huỳnh càng đậm đặc. Chỉ cần chúng ta nghĩ cách
cắt đuôi chúng, thoát ra được chừng một hai dặm là có thể an toàn vượt qua nguy
khốn rồi. Tôi thấy có thể dùng vật liệu trong này để nhóm lửa xua chúng
đấy".
Minh Thúc thấy tôi nói có
rất nhiều chỗ hớ, bèn nói :" Không đúng, rắn ở đây đen tuyền cả, xem chừng
cũng đều thuộc thủy. Anh đây tuy không hiểu Dịch số, song cũng biết thủy khắc
hỏa, cho nên tuy lũ rắn thích nơi lạnh ẩm, chúng vẫn dám kéo đến đây, ngoài ra
chúng ta gặp nước thì có đường sống, sao lại dám đốt lửa nhỉ? Làm vậy có khác
nào phạm vào điều cấm kỵ trong ngũ hành tương khắc?"
Tôi nghĩ bụng thằng khọm
Hồng Kông này sao mà đáng ghét thế không biết, lại dám gân cổ tranh luận với
tôi về nguyên lý tương sinh tương khắc trong ngũ hành, cái lẽ ngũ hành cũng
giống như cái bánh xe, nói thế nào cũng tròn trịa hết, dẫu vô lý đùng đùng ông
Nhất đây vẫn nói cho xuôi được, ông lại chịu thua mày ư? Vậy là lại nói với lão
:" Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh
kim, thiên ngũ sinh thổ, ngũ vị ngũ hình đều là ngũ hợp, cho nên trong Hà đồ,
số dương - số lẻ là mục, số âm - số chẵn là phi, mà trong đại số thời âm dương
đổi vị, cho nên nói phi lấy ngũ mà thành. Người hiện đại chỉ biết thủy khắc
hỏa, mà không biết thủy là mục của hỏa, hỏa là phi của thủy, người thời nay chỉ
biết thủy vượng ở phương Bắc, hỏa dấy ở phương Nam, mà không biết lẽ hưng suy
trong ngũ hành có liên quan tới tinh tuế, bác chỉ biết thủy khắc hỏa, chứ không
biết nếu hỏa thịnh thì thủy suy, cũng như vậy, vượng hỏa cũng có thể át suy
thủy, điều này chứng tỏ bác chẳng hiểu gì về phép cổ, chúng ta ở đây là vượng
thủy, những con rắn kia là suy thủy, cho nên chúng ta vượng thủy có thể mượn
hỏa để đẩy lui suy thủy. Song hỏa này không thể vượng hơn thủy của ta được,
bằng không chúng ta sẽ gặp nguy hiểm".
Minh Thúc nghe xong mắt
tròn mắt dẹt, đờ ra một lúc rồi mới nói :" Ôi ... cao ... siêu quá! Thế
nên anh mới hay nói với A Hương, sau này có lấy chồng thì phải lấy Mô kim Hiệu
úy ... bằng không thì toàn thằng đụt cả!".
Shirley Dương bỗng nhẹ hươ
tay, ra hiệu mọi người chớ nói chuyện nữa, ngoài kia bắt đầu có động tĩnh.
Chúng tôi lập tức cảnh giác cao độ.
Mọi người rón rén túm tụm
cả lại bên cửa hang dõi xem động tĩnh bên dưới. Shirley Dương không bảo chúng
tôi nhìn xuống lũ rắn phía dưới, mà chỉ lên vách đá phía trên cao kia. Trên đó
chẳng biết từ lúc nào đã có một chuỗi tựa như những ngọn đèn trắng nhỏ đung
đưa, số lượng không hề ít. Tuy nhiên khoảng cách quá xa, mạch thủy tinh đã thưa
dần, ánh huỳnh quang lại mờ nhạt u ám, quả thực cũng không nhìn rõ. Tôi mạnh
tay dụi mắt, vẫn thấy lờ mờ, xem ra lại không còn giống như đèn, mà tựa như có
vô số người tí hon mặc áo trắng xếp hàng vậy. Rồi đột nhiên bóng trắng trước
mắt lay một cái, từ dốc đá tương đối trơn nhẵn trên vách núi có mấy cục to tròn
trắng xóa lăn tới tận chân núi.
Bầy rắn dưới đất lũ lượt
trườn về phía những vật thể màu trắng đó. Chúng tôi cách mặt đất chỉ có mười
mấy mét, nên nhìn tương đối rõ. Những khối tròn to kia là những hình cầu dính
nhơm nhớp, lũ rắn đen tranh nhau len vào quanh khối cầu, vây chặt lấy, rồi nằm
im bất động. Đột nhiên có rất nhiều thứ màu đỏ tươi từ trong vật thể trắng trồi
ra, giống như những bông hoa đỏ đột ngột nở xòe, rồi thẫm tối đi và tan trong
chớp mắt. Mọi người càng nhìn càng lạ, tiếp tục chăm chú quan sát tiếp thì thấy
trong khung xương hóa thạch găm vào dải nham thạch có một con rắn đen to gấp
đôi đồng loại nằm cuộn tròn, chẳng biết là từ kẽ đá nào trườn ra, lưỡi thè lè
đỏ sậm. Toàn thân nó phủ kín vảy đen lóng lánh, sắc màu xán lạn, mồm há ngoác
ra, rớt dãi ròng ròng chảy xuống. Lập tức trên tảng đá chỗ đó mọc lên một cây
nấm độc bé xíu màu đỏ tươi, rồi chớp mắt đã khô héo, liên tục mọc lên chết đi,
thế mới hay độc tính của con rắn này thuộc loại cùng cực, vượt ra ngoài sức
tưởng tượng của con người. Con rắn lớn từ trên báng xương trườn xuống, luồn vào
giữa đám vật thể màu trắng, nuốt từng cái một, lũ rắn đen còn lại lẳng lặng
cung phụng cạnh bên, không dám làm kinh động, chừng như phải đợi đại ca ăn xong
mới được phép ăn phần thừa còn lại. Tuyền béo lấy làm lạ hỏi :" Kia là cái
gì thế nhỉ? Trứng gà à?". Tôi nhìn không rõ lắm, nhưng đoán các vật thể
trắng to tròn kia có lẽ là trứng của con vật nào đó, có thể là của loài kiến
trắng khổng lồ, dính kèm bên trong nhiều xác côn trùng và động vật. Tôi nhìn
lại chỗ có một hàng người tí hon màu trắng trên cao, đã đoán ra được sự tình,
chắc phải đúng đến chín phần mười rồi, bèn nói với mọi người :" Hóa ra
trên kia là lũ địa quan âm, thảo nào bọn rắn đen lại gắng chịu tới chỗ khô nóng
này. Quả đúng như lời Tuyền béo nói, chúng đến để ăn tối, ăn no rồi sẽ giải tán
thôi, mọi người gắng nhẫn nại đợi cơ hội đi! Loài địa quan âm này bản tính tàn
nhẫn giảo hoạt, lại hết sức tham lam, thích dự trữ thức ăn, dù không ăn cũng
phải cất đồ ăn vào phía sâu trong này, không ngờ lại bổ béo cho lũ rắn".
Mọi người nghe tôi nói vậy
mới thấy nhẹ lòng. Lũ rắn mò tới đây vậy là không phải vì chúng tôi, chắc cũng
không phát hiện ra chỗ chúng tôi ẩn náu, lát nữa thôi là có thể thoát hiểm rồi.
Nhưng A Hương đột nhiên lại mở miệng :" Không phải đâu, chúng đã thấy em
rồi ... em có thể cảm nhận được điều này". Nói xong cúi đầu im lặng, tỏ ra
hết sức ủ rũ, bất lực.
Tôi thấy A Hương nói rất
nghiêm túc, cũng biết những việc thế này cô bé không dám đùa cợt đâu, nghĩ đến
những dòng rớt dãi đỏ tươi kịch độc chảy ra từ miệng con rắn lớn, trán tôi bắt
đầu vã mồ hôi. Tôi lại ngó ra ngoài cửa hang nhìn trộm một cái, thì thấy con
rắn to nhất đàn quấn tròn mình trên hóa thạch cá voi đang nhìn thẳng về phía
cửa hang, ngóng đầu thè lưỡi.
Tôi vội co rụt người lại,
thôi đúng rồi, con rắn phía dưới kia chắc chắn đã phát hiện được sự tồn tại của
chúng tôi, chỉ không biết vì chúng định phát động tấn công sau khi đã ăn hết
trứng kiến, hay tượng thần này là khu vực cấm nên chúng không dám tiến vào. Tôi
bảo Tuyền béo ở lại cửa hang theo dõi động tĩnh của lũ rắn; còn tôi, Shirley
Dương và Minh Thúc phải tranh thủ thời gian làm vài cây đuốc.
Tôi chui vào một căn buồng
đá bên cạnh cửa hang, giơ đèn pin lên soi, định tìm xem có thứ gì đựng dầu
không. Tuy đã trải qua bao nhiêu năm, nhưng dầu mỡ bò Yak và dầu thông của
người Tạng cổ vẫn được bảo quản đến tận bây giờ, có lẽ còn có thể cháy tốt. Vừa
nãy khi leo lên đây, chúng tôi đã trông thấy trong này có bát đèn, nơi đây
không có ánh sáng mặt trời, nếu không có đèn nữa thì quả thật rất bất bình
thường.
Mang tâm lý cầu may, tôi
cầm đèn pin soi khắp một lượt. Phòng đá ba bề bốn bên trống hươ trống hoác, chỉ
thấy trong góc có một chiếc mặt nạ cổ bằng ngọc không có lỗ mắt. Shirley Dương
cũng phát hiện ra một vật tương tự ở trong căn phòng đá khác. Tôi hỏi Shirley
Dương liệu đây có phải mặt nạ của Quỷ mẫu Ma quốc không, lẽ nào công trình
khổng lồ này là cho Quỷ mẫu ở?
Shirley Dương nói :"
Không đâu! Địa vị của Quỷ mẫu trong Ma quốc rất cao, chắc chắn mụ ta sống trong
thần điện của thành Ác La Hải, nơi đó bị phá hủy hoàn toàn rồi. Tôi thấy môi
trường ở đây rất kém, bảo là nhà tù cũng chẳng quá đáng đâu, hơn nữa hình con
mắt cũng rất đặc biệt, giống y như mắt của A Hương, mắt kiểu này chắc không
phải là mắt quỷ. Mấy đời Quỷ mẫu mới có một người thực sự nhìn thấy Quỷ động,
tôi nghĩ không biết liệu nơi đây có phải dùng để ... giam cầm những kẻ có đôi
mắt không phù hợp yêu cầu không? Trên cột đá phía dưới kia có lỗ mũi trâu và
vòng đá, rõ ràng là dụng cụ để hành hình. Những người bị gạt ra có thể đều bị
nhốt trong đó cho rắn ăn thịt".
Tôi gật đầu :" Nếu nói
như vậy, thì nơi này quả thật rất giống nhà lao. Có điều về điểm này, tôi còn
có một điểm nghi vấn rất lớn nghĩ mãi vẫn chưa thông ...". Vừa nói đến đây
thì thấy Tuyền béo đang nhô ra cửa hang rụt cổ vào hỏi rối lên :" Đuốc
điếc thế nào rồi? Tôi thấy lũ rắn đã bắt đầu trườn về phía chúng ta rồi đấy,
phải mau đốt lửa lên thôi!". Tuyền béo không đợi tôi trả lời, đột nhiên hạ
thấp giọng nói với tôi và Shirley Dương :" Nhìn kìa, trông con ranh kia
đang làm cái trò gì thế?". Tôi quay đầu lại nhìn A Hương. Cô bé đang đứng
ở một góc tối, quay lưng về phía chúng tôi, mặt đối diện với bức tường đen, tay
chạm nhẹ lên đó, toàn thân run lẩy bẩy. Đột nhiên cô bé quay đầu lại nhìn chúng
tôi, hai dòng máu đen ngòm chảy dài trên gò má, tay từ từ đưa lên trỏ vào tường
nói :" Ở đây có một người đàn bà!".
Chương 38: Thiên
nhãn
T ượng thần màu đen trên thực tế là một tảng đá khổng lồ cao như núi,
ruột khoét rỗng, bên trong không có chút ánh sáng nào do cấu tạo từ nham thạch
đen tuyền. Shirley Dương giơ đèn pin mắt sói lên, soi ngược về phía thông đạo.
Luồng sáng hẹp chiếu đến góc cuối, soi rõ A Hương đang cúi đầu, mặt nhìn vào
vách tường. Trước đó không ai để ý đến hành động của A Hương, giờ mới thấy cô
bé đứng im lìm như con ma, hình như lại mắc chứng ly hồn, ai nấy không khỏi hết
sức lo lắng, đồng thời trong lòng lại có thêm tâm lý cảnh giác.
Shirley Dương chưa kịp cất
giọng gọi, A Hương đã xoay người, quay mặt về phía chúng tôi. Tất cả chúng tôi
suýt kêu lên thất thanh, chỉ thấy trên gò má A Hương có hai dòng máu đen tuôn
chảy như hai hàng nước mắt, đôi mắt tuy mở to nhưng đã không còn sự sống.
Shirley Dương thấy A Hương
chảy máu mắt, vội chạy tới kiểm tra vết thương cho cô bé. A Hương lại đột nhiên
giơ tay chỉ vào bức tường phía sau mình nói :" Ở kia có một người đàn bà,
bà ta ở trên tường ... Không chỉ ở chỗ đó, mỗi bức tường trong hang đá này đều
có một người đàn bà". Vừa nói người vừa lắc lư như sắp ngã.
Shirley Dương bước tới dìu
A Hương, lau vết máu trên mặt cho cô bé, kiểm tra kỹ tình hình vết thương ở
vùng mắt nhưng vì trong hang tối om nên không nhìn rõ, hỏi có đau không thì cô
bé trả lời là không đau, may mà mắt A Hương chưa mù, mọi người biết vậy mới thở
phào nhẹ nhõm. Minh Thúc đang đi tìm nhiên liệu ở vách tường kế bên, nghe tiếng
liền chạy tới, nhìn A Hương thở dài não nuột, bảo chúng tôi nơi này âm khí quá
nặng, A Hương hễ nhìn thấy thứ gì không sạch, mắt và mũi đều sẽ chảy máu vô
duyên vô cớ, song chảy máu ở tuyến lệ là chuyện vô cùng hi hữu, mấy năm gần đây
mới xảy ra hai lần, một lần đi đến căn nhà ma ám đệ nhất Hồng Kông, còn một lần
nữa là nhìn "đồ cổ" vớt được ở Nam Hải. Hai lần đó do A Hương có
những biểu hiện hết sức dị thường cho nên Minh Thúc đắn đo mãi, cuối cùng quyết
định không nhúng tay vào. Sau này mới biết cả hai việc kia đều liên quan đến vô
số án mạng kỳ quái khó hiểu, lão không tham gia vào vụ đó, kể cũng là cao số.
Bây giờ ở trong lòng pho tượng thần A Hương lại có biểu hiện kỳ dị như vậy,
chắc chắn không thể ở lâu nơi đây được, không tìm cách đi sớm e là không khỏi
xảy ra án mạng.
Minh Thúc nói đến đó thì
lại nhớ tới lũ rắn độc kéo đến hàng đàn, nhất là con rắn to nhả dãi rớt đỏ
choét kia, cảm thấy quá rùng rợn, cân nhắc một chút thì thấy rõ ràng nơi này
tuy âm khí lấn át, nhưng ít nhất cũng chưa đến nỗi có con quỷ dữ nào từ trong
tường nhảy bổ ra đòi mạng, nên lại quay ngoắt lại bảo màu đen vượng thủy, lúc
này ắt phải tin vào lời của chú Nhất, không thể tin A Hương được, cứ ở lại nơi
này là thỏa đáng nhất.
Tuyền béo đang kiểm tra đạn
trong súng, nghe thấy Minh Thúc khuyên mọi người mau chóng rời khỏi chỗ này,
liền nói :"Tôi vừa thấy lũ rắn ngoài kia bắt đầu tràn vào trong đây rồi
đấy, mặc xác là đi về hướng Bắc hay hướng Tây, muốn rút thì phải rút mau lên,
còn muốn ở lại thì phải mau chóng tìm chỗ nào có thể vừa tấn công vừa phòng thủ
ấy, cho nó dễ xoay xở, chuyển sang đánh du kích mới thắng được".
Tôi nói :" Giờ mà lao
bừa xuống thì khác nào chui đầu vào chỗ chết. Bất kể là đi theo hướng nào, chắc
chắn đều không thoát được, ta có chạy nhanh nữa cũng không cắt đuôi được lũ rắn
đen kia đâu, cái núi đá này lại chẳng biết có bao nhiêu lỗ hổng, tuy ta bịt kín
được lối vào, nhưng không biết liệu có đường vào khác hay không nữa, có điều ở
đây chật hẹp nên lại dễ thủ khó công, chắc có thể chống chọi được một
lúc". Tôi biết rõ là chuột chạy cùng sào, song trước mắt quả thực không
còn cách nào khả thi hơn.
Shirley Dương cũng công
nhận rằng tình hình trước mắt chỉ có thể cố thủ chứ không thể tháo chạy, mà
cũng chẳng cần bàn đến tốc độ, nói riêng về địa hình nơi đây thôi, chỗ có thể
lui thì trống hốc trống hoác, chẳng có gì che chắn, nếu bỏ chạy thì tuyệt đối không
còn đường sống. Đương nhiên nếu bị vây khốn ở đây thì chẳng qua cũng chỉ là
chết sớm hay muộn thôi, cho nên phải tranh thủ lợi dụng hết số thời gian ngắn
ngủi này, xem xem quanh đây có thể tìm thấy thứ nào xua được rắn hay không,
nhân đó đột phá vòng vây mà thoát ra.
Trong lúc bàn bạc kế sách,
mọi người cũng không ngơi tay mà liên tục chuyển ra mọi thứ có thể bịt các cửa
vào, càng làm càng thấy rợn người, bởi lẽ trong này có quá nhiều lỗ hổng, không
thể nào bịt kín cho hết được. Tiếng rắn trườn phía dưới mỗi lúc một gần, mọi
người chẳng còn cách nào khác đành tiếp tục rút lên phía trên, đồng thời nghĩ
đủ mọi cách để giảm tốc độ của chúng.
Chúng tôi vội vã leo lên,
cứ qua được một tầng lại đẩy đá phiến ra bịt chặt lối thông xuống dưới, cuối
cùng cũng leo tới tầng chóp. Từ trên nhìn xuống mới thấy địa thế nơi đây hiểm
trở đến cùng cực, chỗ chúng tôi đang đứng là một thông đạo hẹp, hai bên đều có
ba hang đá thấp nhỏ. Con đường đi lên này độc đạo, trên cùng lộ thiên, phần đầu
của pho tượng này chỉ có một nửa, phần từ mũi trở lên chẳng rõ là vì lâu năm
nên đã sạt lở, hay làm sao, chỉ biết giờ chẳng còn nữa. Leo lên khỏi thông đạo
là có thể thấy các vách đá lởm chởm sắc như dao gọt. Pho tượng khổng lồ vốn cực
kỳ cao lớn, nhưng ở trong cái vực sâu dưới lòng đất này lại trở nên bé nhỏ hết
mức. Chúng tôi đứng trên đỉnh đầu pho tượng trông lại càng giống như những con
kiến bé tí xíu. Tôi và Tuyền béo leo ra chỗ lộ thiên trên nửa đầu pho tượng.
Vừa nhìn xuống dưới, Tuyền béo suýt thì ngất. Những dòng khí u ám trong sơn cốc
luân chuyển gây ra một thứ âm thanh thút tha thút thít, không trung phảng phất
mùi lưu huỳnh quái lạ, tình thế như trong cơn ác mộng khiến người ta sợ run.
Tôi cũng không dám nhìn tiếp xuống nữa, vội kéo Tuyền béo cùng trở lại tầng
dưới.
Shirley Dương sắp xếp cho A
Hương ở một góc, ngồi trên đống hành lý để nghỉ ngơi, thấy tôi và Tuyền béo
xuống, liền hỏi chúng tôi trên kia có đường rút lui hay không. Tôi lắc đầu, có
đứng một lát trên đó thôi mà đã thấy tim đập thình thịch rồi, đừng nghĩ tới
chuyện thoát thân làm gì. Tuy nhiên Minh Thúc đang đứng bên cạnh, để lão khỏi
khủng hoảng, tôi cũng không nói thẳng ra, chỉ bảo chỗ chúng ta đứng đây có thể
nói là tận cùng rồi, may mà phần đầu pho tượng hẹp lại, chỉ cần bịt kín đường
lên là được, pho tượng này quá cao, phía ngoài lại rất dốc, lũ rắn không thể bò
từ bên ngoài vào đây đâu.
Cũng may là trong hang đá
mỗi tầng đều có vài phiến đá đen sì, trông như ván quan tài, cũng chẳng biết
dùng để làm gì, cứ tìm mấy miếng vừa vừa đậy lên lối vào, rồi lại khiêng vài khối
đè lên, xem ra cũng đủ an toàn. Lũ rắn độc kia tuy hung dữ, nhưng cũng không
thể nào cắn người qua vách đá được.
Sau khi đã kiểm tra nhiều
lần để chắc chắn không còn kẽ hở nào nữa, mọi người mới ngồi quây lại bên nhau.
Vì mỗi tầng đều có sắp đặt chướng ngại vật, một lô một lốc rắn độc kia muốn bò
lên ít nhất cũng phải mất một hai tiếng, và đây có thể cũng chính là những giây
phút cuối cùng của chúng tôi, muôn vàn ý nghĩ ào ạt ập tới cứ như những ngọn
thủy triều. Pho tượng thần khổng lồ cao mấy chục mét này có tất cả bao nhiêu
tầng chúng tôi đã không thể nào đếm nổi nữa, nhưng đứng từ góc độ chiến thuật
mà nói, để chặn đứng sự tấn công ồ ạt của lũ rắn, thì tầng trên cùng này mới là
nơi an toàn nhất, vững chãi nhất; còn ở khía cạnh khác, ở đây lại quá chật hẹp
rất khó bề xoay xở. Lũ rắn kia một khi ồ ạt tiến vào đây, chúng tôi chỉ có hai
con đường, một là để chúng ăn thịt, hai là nhảy xuống tự sát; cho dù là cách
chết nào đi nữa cũng không dễ chịu chút nào.
Tôi thực không ngờ đến phút
chót lại sa vào bước đường cùng cầm chắc cái chết. Từ khi tôi đi làm cái nghề
đổ đấu này đến giờ, tuy có vô số lần trải nghiệm mạo hiểm, song xét toàn diện
thì lần này là gian nan khổ sở nhất, không thức ăn nước uống, thiếu thốn đạn
dược, vách đá xung quanh dựng đứng, không có cách nào leo xuống, hàng vạn con
rắn bâu nhâu rình phía dưới, dù cũng le lói nghĩ ra vài khả năng để sống sót,
nhưng suy cho cùng chắc chỉ còn nước mọc thêm cánh mới có thể thoát thân.
Mà Minh Thúc là loại người
nào kia chứ, lúc nãy tôi vừa mới nói với Shirley Dương mấy lời, tuy không hề
nói thẳng là đã tuyệt đường rút lui, vậy mà lão ta cũng hiểu rõ, cứ lắc đầu một
cách bất lực lèm bèm nói xem ra "thiên cơ" vẫn rất đỗi thần diệu,
trăm đường tránh không khỏi số, ông trời đã bắt lão Lôi Hiển Minh này phải chết
ở núi "Kích Lôi Đại hắc thiên" rồi.
Tôi và Tuyền béo bảo Minh
Thúc, bác đừng có ủ rũ như thế, khí khái hùng hổ ép chúng tôi đi lúc ban đầu đi
đâu cả rồi? Lẽ nào bác lại bị tâm thần phân liệt thật? Lúc nhát thì nhát hơn
thỏ đế, lúc bạo thì có khi sẵn sàng chọc chết cả ông giời chỉ vì mạng sống của
mình ấy chứ. Bác nói xem bác sống bao năm rồi, cái chuyện sống chết sao bác
không nhìn thoáng ra được nhỉ? May mà A Hương không giống bác. Thôi thì bác làm
gương cho bọn sinh sau đẻ muộn chúng tôi có được không? Bác phải biết là có
hàng bao ánh mắt ngưỡng mộ đang khẩn khoản nhìn bác ấy chứ.
Biểu hiện trong đàn tế của
Minh Thúc từ lúc trước vẫn khiến tôi và Tuyền béo trong lòng còn tức điên, tuy
tình thế khó khăn,song một khi có cơ hội, tất lẽ dĩ ngẫu là phải tranh thủ nói
đểu lão ta cho đã miệng. Nhưng còn chưa đợi hai chúng tôi kịp nói câu chốt hạ,
Shirley Dương đã ngắt lời, hỏi Minh Thúc :" Thân thế của A Hương rất đáng
thương, bác liệu có thể kể cho chúng tôi nghe chuyện của cô bé không? Trước đây
cô bé sống thế nào? Cả chuyện bác vừa nói nữa, hồi ở Hồng Kông, A Hương từng
hai lần chảy máu mắt ấy, cụ thể là thế nào?"
Shirley Dương nhắc tới
chuyện đó, tôi cũng cảm thấy hết sức kỳ lạ, liền ngoảnh ra nhìn A Hương, thấy
cô bé gục đầu vào vai Shirley Dương, ngủ mê mệt, chắc là vì mất máu. Sau khi từ
hồ phong hóa tiến vào đàn tế, tinh thần của cô bé luôn trong trạng thái ủ ê u
uất, lúc này mọi việc vừa ngưng lại là ngủ luôn. Quả thực cô bé cũng cần phải
nghỉ ngơi cho tốt, nhưng hình như ngay cả trong mơ, cô bé cũng không ngừng run
rẩy.
Minh Thúc thấy Shirley
Dương đả động đến vấn đề đó, không thấy khó xử gì, có điều đang lúc tính mạng
của mọi người như ngàn cân treo sợi tóc, lấy đâu tâm trạng kể lể cơ chứ. Tuy
nhiên đến cuối cùng lão vẫn kể về quá khứ của A Hương.
Trước đây, có người đã tìm
thấy trong văn tự mật của Tây Tạng những ghi chép về phương pháp khai thiên
nhãn, tức là đem bé gái sơ sinh đặt trong môi trường hoàn toàn cách ly với thế
giới bên ngoài, không để cô bé nhìn thấy mắt của bất kỳ người hay động vật nào,
hạn trong mười năm, nghe nói đứa trẻ được nuôi dưỡng như vậy có thể nhìn thấy
sự chân thực của "thần linh".
Những người tin thuyết này
cũng có kiến giải của riêng mình. Họ quan niệm phương pháp cổ xưa thần bí này
không phải vô căn cứ, bởi từ lâu đã có nhà khoa học chỉ ra rằng, tất cả các
loài động vật có vú, các loài cá, loài chim, loài lưỡng thê, loài bò sát trên
thế giới đều có con mắt thứ ba, nhìn bên ngoài không thấy được. Tại vị trí vùng
thượng bộ thần kinh của thùy não có tuyến quả thông, ở các loài động vật có
xương sống, vị trí này phần lớn nằm ở dưới da phần chóp sọ. Tuyến quả thông hết
sức nhạy cảm với những biến đổi của nhiệt lượng ánh sáng và các dòng sóng điện
sinh học vi tế, do nằm gần thần kinh thùy não cho nên ở những người có tuyến
quả thông phát triển độ nhạy cảm đối với sự vật xung quanh phải cao gấp mấy lần
người bình thường. Tương truyền những người có mắt âm dương, hoặc được khai
thiên nhãn, nếu không phải do bẩm sinh thì cũng là do sống sót sau khi bị bạo
bệnh hoặc gặp tai nạn khủng khiếp; thứ nữa chỉ còn nhờ vào phương pháp cổ xưa
thần bí này: thông qua sự tĩnh tâm cao độ trong mười năm để khai thiên nhãn.
Bố mẹ đẻ của A Hương rất
tin vào thuyết này, vậy là lẳng lặng đem con gái ruột của mình ra làm thí
nghiệm, từ khi mới sinh đã đem con bé đặt vào trong một môi trường cách ly, tất
cả những người tiếp cận đều phải đeo một loại kính đặc biệt, bằng cách đó họ tránh
không cho cô bé nhìn thấy mắt của bất kỳ sinh vật nào. Cho đến khi được gần
mười năm, cha mẹ ruột cô bé chết vì tai nạn, A Hương không có người thân nào
khác, Minh Thúc lúc đó có rất nhiều tiền, để che giấu những vụ làm ăn phi pháp,
lão phải dựng cho mình một hình ảnh tốt đẹp với xã hội, nên thường xuyên làm từ
thiện; việc nhận nuôi A Hương cũng là một trong số các hoạt động đó. Không ngờ
sau đó có mấy lần A Hương đã cứu cái mạng già của lão, lần nguy hiểm nhất là ở
nơi được gọi là "ngôi nhà ma ám đệ nhất Hồng Kông", và một lần khác
liên quan đến "bình xương người Nam Hải".
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét