Chương 39: Linh
hồn khắc trên đá
Minh Thúc kể cho chúng tôi nghe chuyện quá khứ của A Hương, vô tình
nhắc tới phương pháp mà bố mẹ ruột cô bé đã sử dụng. Bọn họ học được cách này
trong các văn tự mật của Tây Tạng, như vậy chắc chắn có liên quan đến Luân Hồi
tông. Khi Anh quốc xâm lược Tây Tạng từng cướp đi rất nhiều văn vật trân quý,
kinh văn của Luân Hồi tông có thể đã bị tuồn ra hải ngoại từ thời đó, cuốn kinh
ghi chép về Băng xuyên thủy tinh thi trong tay Minh Thúc cũng có số phận như
vậy, chuyện này không lấy gì làm lạ.
Minh Thúc tuy là kẻ có tâm cơ, song lại
không biết nguồn cơn của bí mật "con mắt", đến khi kể lại những
chuyện này mới nhận ra cuốn thư tịch cổ viết về bí thuật khai thiên nhãn ấy có
thể liên quan đến thành Ác La Hải. Cách thức khai thiên nhãn "tĩnh
tức" thần bí này rất có khả năng năm xưa đã được Ma quốc dùng để tuyển
chọn Quỷ mẫu, tuy nhiên sau khi Ma quốc diệt vong, tụng thờ phụng con mắt không
còn dễ thấy trên đất Tạng nữa. Đúng sai quả thực khó xác định, nhưng có thể
phỏng đoán rằng, bí thuật này ít nhất đã từ vùng Kelamer lưu truyền ra bên
ngoài.
Tôi cảm thấy hết sức bái
phục sự tinh nhạy của Shirley Dương. Chắc hẳn cô đã tóm được manh mối nào đó
rồi, sở dĩ vừa nãy hỏi Minh Thúc về quá khứ của A Hương chính là để tìm hiểu bí
mật ẩn chứa trong bức tượng này từ một góc độ khác. Gân máu trên đồng tử của A
Hương dường như đồng nhất với totem con mắt ở đây, giữa chúng hẳn phải có một
mối liên hệ vi tế nào đó. Ký hiệu con mắt trên cửa đá, các cột đá trong hẻm núi
dưới lòng đất, những căn phòng đá âm u lạnh lẽo này, và cả chuyện A Hương chỉ
vào tường nói bên trong có một người đàn bà nữa... lần rõ hết những đầu mối
này, có lẽ sẽ biết được chân tướng sự việc.
Mặc dù chúng tôi đồ rằng
nơi đây có lẽ được dùng để nhốt và sát hại những bé gái không có quỷ nhãn,
nhưng ngay từ đầu tôi đã có một nghi vấn lớn, cho đến tận bây giờ vẫn chưa kịp
nói với Shirley Dương. Đó là nếu như chỉ là muốn giết người, hà tất phải tốn
công sức xây dựng một công trình đồ sộ như vậy, lẽ nào cũng phải đợi sang thu
mới chém tử tù giống như các vương triều ở Trung Nguyên trước đây? Hình như
hoàn toàn không cần thiết phải làm như thế. Pho tượng khổng lồ này e rằng phải
mất ít nhất mấy trăm năm mới hoàn thành, rốt cuộc được dùng để làm gì chứ?
Sa vào cảnh cùng đường
tuyệt lộ, nhưng tôi vẫn mong sự việc có cơ xoay chuyển, chỉ cần làm rõ không
gian nơi đây là nơi nào, có lẽ chúng tôi vẫn có thể tìm ra được một con đường
sống. Mặc dầu tôi biết trừ phi là xuất hiện kỳ tích, bằng không đừng móng có
đường thoát thân, song cảm giác ngồi chờ chết quả thực không dễ chịu chút nào.
Tiếng sột soạt xè xè của lũ rắn độc trườn lên các phiến đá vẳng tới, không đầy
nửa tiếng nữa chúng sẽ ập vào đây thôi. Nơi này chỉ có một lối vào, tuy đã có
phiến đá chặn rồi, trong một thời gian ngắn chúng sẽ không thể vào được, nhưng
chúng tôi không ăn không uống gì liệu có thể cầm cự được bao lâu?
Mọi người nghe thấy tiếng
rắn ở tầng dưới, trong lòng đều khó tránh khỏi hoảng hốt. Minh Thúc chẳng còn
tâm trạng nào để kể tiếp chuyện của A Hương nữa. Tôi khuyên lão, ta đã chặn kín
đường vào rồi, lũ rắn độc kia không thể leo lên ngay được đâu, bác cứ kể tiếp
chuyện A Hương hai lần khóc ra máu thế nào đi, cô bé vừa nãy cũng khóc ra máu,
liệu có điều gì tương đồng trong đó không?
Minh Thúc nghe tôi nói vậy
cảm thấy cũng có lý, bèn kể tiếp, nhưng việc đó cho đến tận giờ anh vẫn thường
xuyên gặp trong ác mộng đó! Hồi xưa kiếm được món tiền lớn, định mua lấy một
ngôi nhà cho ra hồn, nhắm được một ngôi, hoàn cảnh địa điểm đều rất tốt, hình
thức cũng cầu kỳ, giá cả lại phải chăng, sắp mua đến nơi rồi, cả nhà cùng tới
đó xem lại dắt cả hai thằng con trai và con bé Hương đi cùng, không ngờ con bé
vừa thấy ngôi nhà đó, mắt bỗng chảy ra máu.
Minh Thúc biết hễ A Hương
nhìn thấy nơi nào âm khí nặng nề là sợ hãi run rẩy, vậy là chần chừ do dự mãi,
gác chuyện mua nhà lại mấy hôm, trong mấy ngày đó sai người đi tìm hiểu nội
tình, mới hay chủ nhà là một bà góa cực giàu, đã sống mười mấy năm ở đó, rất ít
khi ra khỏi nhà, nói chung cũng bình an vô sự, nhưng thời gian trước, bà ta bị
đột tử, trong nhà cũng không có ai thân thích, mấy con mèo bà ta nuôi cũng tự
dưng chết vô duyên vô cớ. Cả người lẫn mèo khi chết đều bị chảy máu thất khiếu,
mà lại không phải vì trúng độc, nguyên nhân tử vong phía cảnh sát cũng không
công bố ra ngoài.
Còn lần khác, Minh Thúc mua
một chiếc bình sứ, lòng trắng trong suốt, bóng lanh trơn tru, nền men trắng ánh
lên những gợn vàng, hoa văn trang trí là hình tám con thú dưới biển, mặt trong
nắp còn có một số ấn hoa đặc biệt. Chiếc bình này được ngư dân vớt dưới biển
lên, qua tay nhiều người rồi mới lưu lạc tới Hồng Kông, bề mặt bị nước biển ăn
mòn tương đối nghiêm trọng, đôi chỗ có san hô bám, vẻ đẹp vốn có của chiếc bình
đã bị che lấp, chẳng còn đáng giá mấy, chỉ là bên trong có rất nhiều mảnh sọ
người mà thôi. Dân trong nghề đều biết Minh Thúc chủ yếu buôn bán "cốt
cổ", rất thích những loại xác cổ bán chạy, phân vân khôn biết lão có mua
những mảnh sọ người này không, bèn đem đến cho lão xem. Minh Thúc cũng chưa
thấy thứ này bao giờ, cái bình vớt dưới biển lên, đựng đầy xương sọ người để
làm gì? Xem ra đây cũng phải là món đồ cách đây mấy trăm năm, không rõ gốc gác
thế nào, chưa thấy bao giờ nên không thể nói gì chắc chắn, nhưng cũng vì nó
không giá trị mấy nên trả mấy người đó vài đồng rồi giữ đồ lại. Lão vừa về đến
cửa, A Hương nhìn thấy đã lại chảy máu mắt. Lão nhớ tới chuyện lần trước, đâm
ra cũng chẳng dám vào nhà, định mau chóng tìm chỗ nào đó ném cái bình đi cho
xong, nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn là thứ phải mất tiền mua, vứt đi thì hơi tiếc,
thôi thì bán lại bằng giá cũng được. Vậy là lão tới tiệm đồ cổ của một người
quen. Chủ tiệm là một người rất có kinh nghiệm, vừa thấy lão ôm cái bình sứ
bước vào, suýt nữa thì đánh đuổi, kéo ngay lão ra một nơi thanh vắng chôn cái
bình đi, rồi mới bảo: "Ông đem bán cái của nợ này hco tôi, định hại cả nhà
tôi hả? Biết đây là cái gì không? Kẻ chịu hình phạt tùng xẻo theo luật Đại
Minh, sau khi bị ngàn vạn mũi dao cắt róc, ngay xương cốt cũng không được giữ
lại. Bọn đồ tể ở Bộ Hình được lệnh giã nát xương ra thành bụi rồi hất đi, Như
vậy tức là sau khi đã róc sạch thịt, lại còn dùng búa đập nát xương cốt người
ta, nghiền ra tro bụi. Các đao phủ ở Bộ Hình phần nhiều nối nghề gia truyền,
chỉ truyền cho con trai chứ không truyền cho con gái. Trong nghê có một quy
định rất bí mật là sau khi hành hình tùng xẻo, đao phủ sẽ trộm giữ lại chiếc
đầu lâu tử tội, cất vào trong một chiếc bình sứ đóng chặt lại, đợt sau khi ông
ta chết đi, con cháu mới vứt bình sứ xuống biển. Vì sao lại làm như vậy? Đao
phủ Bộ Hình sao lại thờ đầu lâu của những kẻ tử tội? Những việc này giờ chẳng
thể nào khảo chứng được, thậm chí mãi sau khi Dân quốc tiến hành tử hình bằng
súng, việc này được truyền ra, mọi người mới biết. Cái bình ông mua này, trong
đó chưa đựng bao môi oán hờn của con người sau khi chịu đại hình, hung khí rất
nặng, rất dễ gây ra tai họa đẫm máu, ai lại dám bày biện ở trong nhà?"
Tôi gật đầu, hiểu rồi, bên
trong tượng thần chắc chắn từng có rất nhiều người chết, vả lại chết rất thảm
thương. Ngẫm lại, ban nãy A Hương quả thực có những biểu hiện rất kỳ dị, cô bé
bảo mỗi bức tường đá trong lòng pho tượng, từ tầng thứ ba trở đi, dường như đều
găm một người phụ nữ. Một người nếu bị khiếp hãi quá nhiều lần, tinh thần sẽ
suy sụp, hoặc không như vậy thì sẽ dần trở nên trơ dại. Tôi quan sát những bức
tường đá màu đen xung quanh, nếu đúng như những gì A Hương nói, thì riêng chỗ
chúng tôi đang đứng hiện nay, chẳng biết rốt cuộc có bao nhiêu tử thi bên
trong? Tôi chỉ mới nghĩ vậy thôi mà cũng đã thấy ngạt thở.
Tuy nhiên điều khiến tôi
cảm thấy kỳ quái nhất là, các hang đá bên trong pho tượng liền nhau, tạo thành
một thể thống nhất, không phải xây bằng cách ghép đá phiến thành từng tầng, bên
trong tường không thể nào có thi thể người chết được, mà các mặt tường đen sì
như mực, chẳng hề thấy có hình dáng của người nào. Tôi càng nghĩ càng thấy cổ
quái, bèn thò tay ra sờ vào vách tường sau lưng. Nếu như nói trong đây có người
phụ nữ bị xử tử, thì liệu cô ta được cất ở đâu trong này?
Tôi vừa sờ nhẹ đã lập tức
cảm thấy trên mặt tường có rất nhiều vết đục đẽo nông, tựa như vết khắc một
loại ký hiệu nào đó. Đá ở đây đều màu đen, nếu chỉ nhìn bằng mắt, hoặc không cố
ý tìm kiếm, căn bản chẳng thể nào phát hiện ra trên tường có các vết đục đẽo
loằng ngoằng này. Tôi lập tức thông báo phát hiện mới cho mọi người biết, xem
chừng các vách tường ở đây quả thực có vấn đề.
Minh Thúc nghe tôi nói thế
lập tức phấn chấn tinh thần, vội hỏi trên tường liệu có khắc bản đồ thông đạo
bí mật nào không? Tôi không trả lời, lúc này cần phải tỉnh táo và có lý trí
chứ. Đứng trên đỉnh đầu pho tượng như trên chóp một tòa tháp cao tầng, diện
tích chật hẹp, tiến thoái lưỡng nan, lấy đâu ra thông đạo bí mật nào mà tẩu
thoát được? Nhưng các ký hiệu khắc trên tường có khả năng chuyển tải thông tin
nào đó liên quan đến việc đuổi rắn cũng nên. Chúng tôi biết rõ khả năng này
không hề lớn, mà dẫu có vậy đi nữa cũng chưa chắc đã dễ hiểu được, nhưng dù sao
cũng có thêm mấy phần hy vọng được sống sót.
Để cho những vết chạm khắc trên
tường đen hiện ra, Shirley Dương vun một ít tro bụi trăng trắng ở xung quanh,
bôi lên tường. Các đường nét màu trắng dần dần hiện lên, rất không ngay ngắn,
nguệch ngoạc, chỉ là một số hình phác kỳ dị; đôi chỗ vết khác đã bị mài mòn,
hết sức mờ nhạt, duy nhất còn một hình có thể nhận ra được, là hình một người
phụ nữ đang đứng khắc trên tường, dường như những ký hiệu trên những bức tường
này đều ro phụ nữ khắc ra.
Vết khắc trên bức tường này
mờ quá, chúng tôi đành tìm bức tường khác kiểm tra xem sao. Trên mỗi bức tường
xem ra đều có các ký hiệu và hình vẽ tương tự. Dựa vào thủ pháp cũng như độ đậm
nhạt, có thể thấy rõ ràng hình khác không phải do một người tạo ra, có vẻ cũng
không cùng một thời kỳ, nhưng nội dung ghi chép phần lớn tương đồng, khác biệt
rất ít, khắc đi khắc lại cùng một sự việc.
Sauk hi xem xét bốn năm bức
tường trong hang đá, cuối cùng mọi người cùng nhìn ra được hết nội dung trên
đó. Có thể nói rằng, các bức khắc đá nơi đây là do những người phụ nữ khác nhau
khắc nên, chứng cứ liên quan quả thực không có gì, đều chỉ là chúng tôi suy
đoán chủ quan cả mà thôi. Bọn họ có lẽ chính là những cô gái không có "quỷ
nhãn". Bị cầm tù ở đây, mỗi người đều khắc lên tường sự việc có ấn tượng
sâu sắc nhất đối với họ lúc còn sống để làm dấu hiện tìm lại mình ở kiếp sau.
Rồi họ tự chọc thủng đôi mắt, lấy máu chảy từ mắt ra bôi lên những ký hiệu,
hình vẽ mà mình đã khắc. Sau khi đi nốt chặng đường làm kiếp người trong hang
động này, thi thể các cô gái thủng hai mắt đều bị trói lên cột đá trong sơn
cốc, đợi đến khi lũ rắn ập tới ăn thịt thì họ trở thành vật tế của tôn giáo.
Shirley Dương như đắn đo
điều gì đó, tay sờ nhẹ lên vách tường có khắc linh hồn của những người con gái
bất hạnh. Minh Thúc thấy bức khắc đá trên tường chỉ ghi chép về sự tàn nhẫn đẫm
máu của bọn thống trị tôn giáo thời cổ đại mà không hề có bất kỳ thông tin nào
giúp chúng tôi thoát nạn thì rầu rĩ, bồn chồn đi đi lại lại trong hang đá.
Shirley Dương bỗng nhiên
thốt lên một tiếng 'ấy", rồi nói: "Lạ thật! Trong một số nét chạm
khắc ẩn chưa một ký hiệu đặc biết... rất lẩn khuất, ký hiệu này giống như là...
"
Tôi đang định hỏi Shirley
Dương xem rốt cuộc cô phát hiện ra điều gì, thì Tuyền béo đột nhiên kêu lớn:
"Không xong rồi! Mau chạy lên trên thôi, các phiến đá không ngăn được lũ
rắn độc!" Tôi nghe cậu ta kêu liền quay ra nhìn, thì thấy mấy tấm đá lớn
chặn ở lối vào đột nhiên sụt xuống. Con rắn lớn cầm đầu phun ra chất dịch màu
đỏ, vừa rơi xuống là thấy những đám nấm độc màu đỏ héo rất nhanh mọc lên liền,
sau khi héo, thứ nấm độc này ăn mòn đá cực nhanh. Không biết bắt đầu từ lúc
nào, những tảnh đá kia đã bị mủn vỡ cả ra, một lô lốc rắn độc lũ lượt trườn
lên. Một con rắn đen tương đối nhỏ cong mình lại bắn vụt tới với tốc độ nhanh
nhất, giống như tia chớp đen chém vụt xuống. Tuyền béo nhanh tay nhanh mắt,
nhìn thế xông xáo cua con rắn ngay từ trên không, vung tay phang xẻng công binh
ra. Chiếc xẻn thép cứng chắc đón đầu đập thẳng, vang lên thứ tiếng như đập vào
mạt sắt, xương đầu con rắn lập tức vỡ vụn, cái mắt thịt đen ở đỉnh đầu cũng nát
bét, chất độc màu đen bắn tóe ra. Tuyền béo vội lùi lại phía sau tránh, nước
đen bắn xuống đất làm bốc lên những làn khói độc.
Mọi người mắt cắt không còn
giọt máu. Lũ rắn đen ồ ạt tuôn lên càng lúc càng nhiều, tuy biết rõ phía trên
cũng là nơi cùng đường tuyệt lộ, song nước đã đến chân, chúng tôi cũng đành
phải rút lên trên đã. Đột nhiên tôi phát hiện ra Shirley Dương vẫn chăm chú
nhìn ký hiệu trên tường, trông thần cả mặt, không hề biết xung quanh có sự việc
gì đột ngột xảy ra. Tôi cuống quýt chạy qua kéo tay cô, vừa lôi vừa chạy.
Shirley Dương bị tôi đánh động mới sực định thần, vừa chạy vừa nói: "Đó là
một lời nguyền rủa, là lời nguyền rủa thành Ác La Hải của những cô gái... "
Chương 40: Chết
vì đôi mắt
T ôi kéo tay Shirley Dương chạy, song cô nàng vẫn lưu luyến không
chịu rời những ký hiệu trên vách tường, nói đó là lời nguyền rủa ác độc của
những kẻ tử vì đạo dành cho thành Ác La Hải. Tôi nói với Shirley Dương, lúc này
làm gì có thì giờ mà để ý đến những thứ đó, chậm nửa bước thôi là bị lũ rắn cắn
chết ngay, muốn nói gì thì đợi khi leo lên trên kia rồi hẵng nói.
Tranh thủ thời gian ngắn
ngủi lúc lũ rắn tranh nhau trườn vào, tôi và mọi người phía sau chạy ngay lên
tầng chóp. Ở trên cao gió lạnh thổi thốc vào mặt, không còn đường nào rút lui
nữa. Tuyền béo gồng mình, dốc hết sức nạy một tảng đá trên vách tường tụt
xuống, vần về phía cửa lên.
Trong chớp mắt, đúng lúc
tảng đá sắp bịt chặt cửa hang, hai con rắn đen bắn vọt như hai mũi tên bật khỏi
cung, lớp vảy đen cứng chắc xé không khí, phát ra tiếng "vút vút"
nghe vừa trầm vừa thanh. Loài rắn đen này chỉ ngắn một mẩu, cực kỳ mạnh mẽ, với
sức bật của cơ thể, nó có thể bay xa hàng mấy mét trên không trung, trông ghê
gớm vô cùng. Đèn chiếu lóe lên một cái, con rắn độc đã bay tới trước mặt.
Phần đỉnh đầu pho tượng
chật hẹp, năm người đã tản ra xung quanh, tôi lo nếu nổ súng sẽ ngộ sát quân
mình, vả lại nếu không thể cùng lúc bắn chết hai con rắn bằng một phát súng, để
cho hai con quái xà nhanh như chớp này có cơ hội, mấy người chúng tôi chắc chắn
sẽ gặp thương vong. Trong tình hình khẩn cấp, đành phải giơ cái ba lô dưới đất
lên làm lá chắn, chặn ở trước mặt, miệng hai con rắn cùng lúc đớp vào ba lô,
tôi không đợi cho chúng kịp nhả mồm rơi xuống, liền từ trên cao quăng luôn ba
lô đi. Chiếc ba lô treo hai con rắn đen rơi thẳng vào bóng đen, mãi mâu sau,
mới nghe thấy tiếng chạm đất vẳng lên.
Tuyền béo lúc này đã đẩy
được tảng đá chặn kín lối vào, thấy tôi vứt ba lô xuống dưới, cuống quýt giậm
tay giậm chân: "Ôi giời ôi Nhất ơi, ba lô của cậu còn cái quái gì đâu, sao
không vứt? Lại vứt ba lô của tôi là sao? Giờ thì hay ho rồi, một ít mai rùa,
dược phẩm cấp cứu, bình ô xy, mặt nạ phòng độc, lại còn cả nửa con cá chưa ăn
hết, giờ thì toi cả rồi... Nhưng nếu chúng ta còn xuống đó được, có khi còn cơ
hộ lượm lại cũng lên." Nói đoạn liền bảo tôi giúp cậu ta đẩy tất cả các
tảng đá có thể đẩy được ở xung quanh, đem chất ở lối vào. Dù chỉ chống chọi
được mấy phút cũng là tốt rồi, cứ nghĩ đến cái lũ rắn độc hung hãn kia, là thấy
chân mềm oặt cả đi, loài rắn đen có thể giết người trong nháy mắt này chính là
sự uy hiếp lớn nhất mà chúng tôi từng gặp trong đời.
Tuy đã tạm thời chặn được
khí thế hung hăng của lũ rắn, song hoàn cảnh của chúng tôi chưa hề có biến
chuyển, vẫn đứng ở một nơi cao ngút hiểm trở, dẫn là kẻ gan hùm gan sói cũng
không thể không thấy kinh hãi. Tuyền béo đành chỉ chăm chăm nhìn xuống chân,
không dám ngẩng đầu lên trên. Shirley Dương ngây nhìn những bức tường đổ xung
quanh. A Hương tỉnh dậy sau cơn ngủ mê, cũng nhắm chặt mắt, không rõ vì sợ độ
cao hay là sợ nhìn thấy pho tượng khổng lồ chất chứa lời ai oán của những kẻ tử
đạo. Minh Thúc thì mặt như đưa đám, quỳ trên mặt đất, nhắm chặt mắt, mồm lẩm
bẩm niệm kinh: "Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát...
"
Shirley Dương ngây ra một
lúc, rồi quay lại bảo tôi rằng cô phát hiện ra hai ký hiệu nhãn cầu rạn nứt
trên nhiều bức tường đá ở tầng dưới. Người Ma quốc sùng bái đôi mắt, trong tất
cả các totem của họ, dẫu có con mắt nhỏ máu đi nữa, thì đó cũng đều là một hình
thức giải thoát linh hồn nhờ dòng máu chảy ra từ đôi mắt, tuyệt đối không thể
có nhãn cầu bị rạn nứt, bởi nó tượng trưng cho sự hủy diệt và kiệt quệ sức
mạnh. Có lẽ cũng giống như với hệ thống thần quyền của các tôn giáo khác trên
thế giới, ở mạt kỳ của chính quyền tôn giáo, con người dưới ách thống trị thần
quyền đã bắt đầu nghi ngờ tín ngưỡng họ hằng đeo đuổi, cảm thấy nghu thức kết
liễu sinh mạng kia không có bất kỳ giá trị gì. Tuy nhiên tôn giáo vẫn chiếm địa
vị thống trị tuyệt đối, sự xuất hiện ý chí cá nhân trong hoàn cảnh này thực sự
hết sức đang thương. Những phụ nữ bị số phận đẩy vào bước đường cùng kia, trước
khi chết đã lén khắc lên đá các ký hiệu nguyền rủa, vì nét khắc đều màu đen nên
không hề bị phát hiện, càng về sau, người khắc lời nguyền trước khi chết càng
nhiều. Thành Ác La Hải dưới hồ phong hóa rõ ràng bị hủy diệt bởi một trận sụt
lở đất quy mô lớn, trong khi ký hiệu nhãn cầu rạn nứt này lại được ngầm khắc
trong lòng tượng thần Đại hắc thiên Kích Lôi sơn, vị thần khống chế sức mạnh
của tất cả các loại khoáng thạch. Điều này chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi
sao? Hay chính là sự ứng nghiệm của những lời nguyền rủa? Vương quốc thần quyền
cổ xưa này bắt nguồn từ sự sùng bái đôi mắt, e rằng cuối cùng cũng bị hủy diệt
bởi đôi mắt.
Tôi nói, vừa nãy cô toàn
nghĩ những điều này à? Lắm lúc tôi cũng chẳng biết là cô khôn hay dại, tính
mạng của chúng ta sẽ là chỉ còn mười mấy phút nữa thôi, thế mà cô còn nghĩ đến
những điều này để làm gì cơ chứ. Cho dù lời nguyền không ứng nghiệm, thì với sự
thống trị thần quyền ở thành Ác La Hải, gieo gió ắt sẽ gặt bão, bọn chúng hoành
hành ở miền Bắc đất Tạng bao nhiêu năm, di hại thậm chí còn kéo dài đến tận
ngày nay, cho nên thành cô này bị hủy diệt bởi thiên thai hay nhân họa gì thì
cũng đâu có lạ. Song giờ tôi chỉ mong sao có trận động đất nữa, trước khi chết
cũng có thể lôi lũ rắn độc xuống làm đệm lót lưng, đã chết thì cùng chết cả cho
sướng.
Shirley Dương nói:
"Vâng, có anh là nghĩ thoáng được như thế thôi. Vậy tôi hỏi anh, nếu chúng
ta chẳng thể sống được bao lâu nữa, thì liệu anh có lời nào muốn nói với tôi
không?"
Tôi quan sát ba người còn
lại, bắt đầu cảm thấy sự xuất hiện của họ hơi thừa, đành phải nói với Shirley
Dương rằng: "Thì trong trường hợp này tôi còn nói được gì chứ? Điều tôi
không cam tâm nhất là ý chí của tôi không sắt đá, không chống lại được sự quyến
rũ của đô la và người đẹp, để cô thu phục rồi đấy. Vốn dĩ cũng chẳng sao cả,
sau khi tôi từ Thiểm Tây về, đã định không làm cái nghề Mô kim này nữa rồi, sau
này có thể chung sống hòa thuận với nhân dân Mỹ, nghiên cứu cổ phiếu tiền tệ gì
đó, rồi bon chen trở thành ông trùm tiền tệ ở phố Wall, giao du với đủ những
loại người từ đại gia dầu khí, xã hội đên cho tới thầy tu, chuột cống chuột chù
chơi tuốt... "
Shirley Dương nói:
"Càng nói càng chẳng ra đâu vào đâu, chắc thành thói quen mất rồi, thôi
tôi cứ nói với anh chuyện thành Ác La Hải vậy!" Tự dưng cô hạ thấp giọng
xuống nói với tôi, "Totem nhãn cầu trong thành Ác La Hải, phần lớn là số
lẻ, song con mắt rạn nứt trên vách tường ở đây đều là một đôi, tôi có cảm giác,
sự rạn nứt ở đây chính là ám thỉ Đại hắc thiên Kích Lôi sơn, còn hai con mắt
lần lượt ám chỉ hai vụ tai nạn lớn xảy ra ở thành Ác La Hải đang nguyền rủa.
Nơi đây quả thực đã từng xảy ra một tai họa thảm khốc, nhưng đó là tai họa đầu
tiên hay tai họa thứ hai thì chẳng thể nào biết được."
Shirley Dương không hề lo
lắng đến sự sống còn của chúng tôi, trực giác nhạy bén của cô dường như đã phát
giác ra một số biến đổi lạ lùng xuất hiện trong làn không khí, có le tình hình
sẽ có biến chuyển. Đôi mắt của A Hương chính là nhân tố mấu chốt, từ sau khi
đôi mắt cô bé phát hiện ra những lời oán nguyền ẩn giấu trong pho tượng - nói
là phát hiện, chứ nói thực ra phải bảo rằng đôi mắt của cô bé đã làm sống dậy
những ký ức bi thảm của pho tượng khổng lồ này mới đúng. Từ lúc đó trở đi, bầu
không khí nới đây mới trở nên mỗi lúc một kỳ quái, có khi vụ tai nạn thứ hai
sắp xảy ra cũng nên, có thoát ta khỏi đây được không, thì phải xem xem liệu có
nắm bắt được cơ hội lần này hay không.
Tôi biết Shirley Dương mang
trong mình dòng máu rất đặc biệt, dường như cô có cảm giác hết sức vi tế đối
với những sự việc sắp sửa diễn ra, cô nàng đã nhận thấy chúng tôi còn hy vọng
sống sót, lòng tôi cũng thấy hy vọng theo, huống hồ tôi cũng là người kiên trì
đến cùng. Vậy là tôi lại đứng dậy quan sát địa hình xung quanh nhiều lần, nhưng
quan sát xong, lại càng lạnh toát đến cùng cực trong lòng, bất chấp có bản lĩnh
cao siêu đến mấy, nếu không mọc được cánh, thì chắc chắn không còn đường để
thoát. Vừa mới trút bỏ được lời nguyền như cơn ác mộng trong Quỷ động, ai đời
tránh được vỏ dưa thì lại dính ngay vỏ dừa, số phận của chúng tôi sao lại đen
đủi đến thế cơ chứ? Sao không thể giống như câu thơ "một khi thoát khỏi
lưỡi câu, cá bơi đi mất, chẳng bao giờ về"? Phần dưới chân pho tượng thần
hơi chếch về phía núi Kích Lôi sơn, nửa đầu pho tượng dựa vào vách núi dốc
đứng, hai cánh tay cong gấp găm vào lòng núi, pho tượng trở nên rất nhỏ so với
toàn bộ vách núi dựng đứng. Lúc này chúng tôi đã đến tầng trên cùng, nhìn xuống
thấy mặt đất cũng xô lệch, chẳng biết pho tượng này là do cố ý tạo ra hình dạng
như vậy, hay do thiết kế sai sót khiến nó nghiêng vẹo cả đi.
Tôi cũng chẳng còn tâm trí
đâu ngẫm nghĩ về nhưng điều này nữa, quay ra nhìn mấy người còn lại, ai nấy đều
chán nản, nghĩ bụng lần này chết chắc rồi, những dẫu chết cũng không khom lưng
uốn gối, liền nói với mọi người: "Hỡi các đồng chí! Thật đáng tiếc, chúng
ta lại không thể chờ đến ngày thắng lợi, song mưu sự tại nhân, thành sự tại
thiên, sống chết có số cả rồi, chúng ta cũng đã dốc hết sức mình, nhưng cuối
cùng vẫn thiếu một chứ may mắn, tôi thấy lần này chết thì chết, chấp nhận số
phận thôi. Bây giờ cá nhân tôi tỏ rõ thái độ trước, lát nữa lũ rắn độc bò lên,
tôi sẽ trực tiếp nhảy xuống dưới, quyết không chần chừ, tôi thà thịt nát xương
tan, chứ nhất quyết không thể để lỹ rắn xơi tái được, cho nên đến lúc đó mọi
người đừng ai ngăn tôi!"
Tuyền béo sợ nhất là chết
nhảy từ trên cao xuống, những lời này chắc chắn sẽ không thể được nói ra trực
tiếp từ mồm cậu ta, nghe tôi bảo định nhảy từ độ cao mấy chục mét xuống, liền
bất chấp bất trách nói: "Này tư lệnh Nhất, nếu nói lâm nguy mà không nao
núng ấy, thì cậu vẫn kém tôi một bậc đấy nhé, rắn rết còn chưa xuất hiện, mà
cậu đã sợ xanh mắt thế rồi, cậu tưởng nhảy xuống kia là dũng cảm lắm à? Đúng là
cái dũng của bọn thất phu, sao cậu không hiểu được điều này nhỉ? Cậu nhảy xuống
thì người cậu nát bét, cậu tưởng lũ rắn tha cho cậu á? Còn lâu ấy, chúng vẫn
đớp loạn xạ lên xác cậu, rồi nuốt cậu vào bụng như thường thôi, đằng nào cậu cũng
bị rắn cắn, sao lại cứ phải tỏ ra mình có thể nhảu được xuống dưới kia? Tôi
thấy chúng ta cứ ngồi cả lại ở đây, trưng mấy tấm thân hôi rình này ra, lũ rắn
có xông đến, con nào thích căn cứ để nó cắn, như thế mới thể hiện được rõ khí
phách, cốt cách, nguyên tắc của Mô kim Hiệu úy chúng ta."
Tôi và Tuyền béo đôi co vài
câu. Ba người còn lại tưởng rằng chúng tôi đã không còn lo lắng cho cái chết
sắp đến nữa. Thực ra chỉ có bản thân chúng tôi hiểu rõ, thể hiện ra như vậy là
bởi trong lòng đã trống rông, không còn chỗ bấu víu nữa rồi. Tôi đã cảm nhận
được tâm trạng tuyệt vọng đang hiện trên khuôn mặt mỗi người mỗi lúc một rõ
nét. Minh Thúc đột nhiên kinh hãi thốt lên: "Thôi chết rồi! Những tảng đá
này toi rồi... Hồ đại nhân! Mau nghĩ cách gì đi!"
Tuy mọi người đều biết
chuyện này sớm muộn gì cung xảy ra, song không ai tránh khỏi nặng lòng. Trên
mảng tường vỡ được đẩy ra bịt chặt lối lên xuất hiện một cái bóng màu đỏ sậm
rất lớn, giống như vũng máu bẩn từ trong lòng đá thấm ra. Trong bầy rắn đen
phía dưới có một con to nhất, rớt dãi nó nhả ra rất độc, khi tiếp xúc với không
khí sẽ lập tức biến thành một thứ kiểu như nấm độc, nom hình dạng giống như
loài nấm đỏ, sau mấy giây sẽ khô héo, biến thành một nhúm tro màu đỏ sẫm đen,
gần giống như axit sunfuric, có thể ăn mòn, làm thủng lỗ lớn trên tường đá.
Tuyền béo nói với tôi:
"Nhất này, cậu mà muốn nhảy lầu thì phải tranh thủ lúc này đi!" Tôi
chửi mấy câu, mẹ kiếp sao rớt dãi của con rắn kia nhiều thế hả trời? Rồi nói
với Tuyền béo: "Có chết cũng phải chém mấy con xuống làm đệm lót lưng chứ!"
Nói đoạn, tôi, Tuyền béo và Shirley Dương đều chĩa lòng súng về chỗ lũ rắn vừa
đột nhập, mấy phát đạn cuối cùng đã lên nòng, dẫu chết cũng phải hạ sát con rắn
đầu đàn đã.
Tiếng sột soạt phát ra từ
lũ rắn bỗng dưng im bặt. Có lẽ chúng đã tản ra trước để có một khoang trống,
đợi sau khi ván đá sụp xuống, sẽ ồ ạt xông lên như nước thủy triều. Hơi thở của
chúng tôi cũng trở nên gấp gáp theo, mắt vằn tia đỏ căng ra nhìn chằm chằm vào
lối lên. Cả người lẫn rắn đều giống như những mũi tên đã bị kéo căng trên dây
cung, lăm lăm trong thế tấn công, Giây phút này im ắng đến lạ thường, sơn cốc
dưới lòng đất lạnh căm căm, ngùn ngụt mùi lưu huỳnh, cả không gian dường như
đông kết lại.
Sự căng thẳng không những
tràn ngập bầu không khí, mà khiến cả thời gian dường như cũng trôi chậm lại.
Đang trong lúc tất thảy tựa như ngưng nghỉ này, một chuỗi âm thanh kỳ quái
"rắc rắc rắc" đột ngột vang lên. Âm thanh đó thoạt đầu còn nhỏ, mấy
giây sau đã dội lên dày đặc. Chúng tôi đứng trên đỉnh đầu pho tượng, cảm giác
cả vòm trời đất đều bị thứ âm thanh này bao bọc, sự tập trung của mọi người lập
tức bị phân tán, chẳng ai biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, song đều nghe thấy
như có gì rất đỗi quen thuộc
Tình cảnh của chúng tôi đã
thảm hại lắm rồi, dẫu có việc gì xảy ra bây giờ đi nữa thì tình thế cũng chẳng
thế nào xấu hơn được. A Hương nãy giờ đã sợ chết khiếp đột nhiên mở miệng nói:
"Ngọn núi kia... ngọn núi kia đang lung lay!"
Dưới ánh đèn pin, tôi thấy
vài viên đá cuội trên đỉnh đầu pho tượng rung ring, vội giơ đèn pin mắt soi
chĩa thẳng cột sáng về phía vách đá dốc đứng phía trên pho tượng khổng lồ. Cùng
với những âm thanh vang dội phát ra trong lòng núi, trên bề mặt mạch thủy tinh
xuất hiện vô số kẽ nứt kéo dài, từ lòng núi như có vô số con rồng giơ nanh
vuốt, quẫy mình thoát ra.
Minh Thúc nói: "Thôi
toi rồi, toi rồi... vốn dĩ ở nơi phía Bắc, màu đen, có khi còn gặp nước đắc
Trung đạo, giờ núi này sập xuống, thì chúng ta... có mà hạ thổ xuống âm phủ thì
có."
Tôi nghĩ bụng: "Thôi
rồi, xem chừng cuối cùng chúng ta chết vì núi lở, chứ không phải chết trong
miệng rắn, tuy là cũng chết cả thôi, song như vậy coi như ông trời còn đoái
thương chúng ta chán, so với việc bị rắn cắn để rồi thi thể đen ngòm thì chết
như thế này còn sướng hơn nhiều."
Những tiếng đứt gãy lớn
diễn ra trong lòng núi tức thời lại biến thành từng đợt sấm nổ đùng đục, mọi
người ai nấy hồn phiêu phách lạc, cơ hồ như năng lượng trong mạch khoáng thủy
tinh ở Kích Lôi sơn đã chất chứa quá lâu, lúc này đang được xả ra cho bằng hết.
Shirley Dương vội nói với
mọi người: "Không... không phải là núi lở đâu, nước ở hồ dưới lòng đất sắp
xối lên đấy! Mọi người phải mau chóng tìm lánh vào chỗ nào có thể cố định được
cơ thể ấy, bám chắc vào! Chớ có lỏng tay!"
Tiếng sấm nổ trong lòng núi
dội vang khắp nơi, giọng nói của Shirley Dương dường như bị chìm nghỉm, Shirley
Dương phải nói đến lần thứ hai tôi mới nghe rõ, sau đó lập tức hiểu ngay nước
mà cô nói là từ đâu đến. Quan sát địa hình nơi đây, thấy khoảnh hồ thẳng phía
trên đàn tế cách pho tượng này không xa, có thể chúng tôi ở lại trong đàn tế
quá lâu, trận rung của mạch thủy tinh dữ dội và kéo dài đã khiến rất nhiều thủy
tinh rơi gãy, lớp đá còn lại chẳng thể nào chịu được áp lực của hồ nước, tuy
vẫn có thể chống đỡ được trong một khoảng thời gian nhất định, song vỏ núi đã
xuất hiện những vết rạn nứt hình mai rùa, địa hình sơn cốc lại quá thấp, nước
hồ ở trên cao không chảy về phía Đông sẽ chảy xối vào nơi này, sau đó sẽ xảy ra
hiện tượng khủng khiếp, nước hồ chảy dốc ngược theo hướng Tây Bắc, toàn bộ nước
chứa trong hồ sẽ giống như cột nước cao áp, bắn vọt ra từ các khe đá nứt vỡ.
Mọi người lập tức dựa chặt
lưng vào bức tường đổ bên mình. Minh Thúc nép bên người tôi, vẫn không quên
hỏi: "Nếu nước hồ xối ra chúng ra sẽ không chết đúng rồi? Gặp nước đắc
Trung đạo mà."
Tôi chửi lão: "Nước
nước cái quái gì, cho dù nước trong hồ có nhiều hơn nữa, cũng không thể nhấn
chìm sơn cốc này được, chúng ta bị nước xối đi, cũng có khác gì nhảy từ trên
cao này xuống."
Trong tiếng sấm nổ dồn dập,
lũ rắn ở tầng dưới đã phá được phiến đá bịt lối lên, những tảng đá mủn nát như
bùn, một con rắn đen bắn vọt lên không trung, nhảy ra trước tiên. Tuyền béo một
tay bám chặt bức tường, tay còn lại gương súng lên, tì vào vai, bắn một tay.
Tiếng súng vừa vang lên, con mắt thịt trên đỉnh đầu con rắn đã bị bắn thủng.
Con rắn chết rơi xuống, lũ
rắn đen phía dưới hơi hỗn loạn, thế tấn công chững lại. Tôi cũng giương khẩu
M1911 nhằm vào lỗ hổng trên mặt đất bắn hai phát, song mỗi người còn lại chỉ
còn lại mười mấy viên đạn, với cục diện này, nhiều nhặn lắm chỉ có thể duy trì
được một hai phút mà thôi. Mùi lưu huỳnh trong không khí chẳng biết xộc lên từ
lúc nào đã bắt đầu nồng nặc, chắc chắn là do núi Kích Lôi sơn rung chuyển,
khiến cho phần đáy của sơn cốc xảy ra phản ứng dây chuyền, dải dung nham chưa
hoàn toàn chết hẳn cũng lại phập phồng sống lại. Lũ rắn độc sợ nhất thứ mùi
này, cho nên đều gắng thục mạng trườn ra phía ngoài. Tuy chúng tôi nổ súng bắn
chết vài con, song những con còn lại vẫn chen chúc trườn đạp lên nhau, tức khắc
lại ùn ùn xối lên trên.
Đúng lúc chúng tôi không
còn cách nào khống chế được lũ rắn, đột nhiên tiếng sấm nổ trong Kích Lôi sơn
lặng ngắt đi, toàn bộ quả núi và mặt đất dưới kia vẫn tiếp tục rung nhẹ. Dải
sơn cốc khổng lồ tối om dưới lòng đất chìm trong cái yên tĩnh chết choc, ngay
cả lũ rắn độc dường như cũng cảm nhận được sắp sửa có chuyện gì đó xảy ra, nhất
thời quên rằng phải tiếp tục bò lên. Mọi sinh vật, kể cả năm người chúng tôi
đều rơi vào trong nỗi khủng hoảng miên man vô tận.
Sự tĩnh mịch ngắn ngủi
nhưng dường như lại kéo dài dằng dặc này diễn ra ước chừng khoảng mấy giây,
ngay sau đó là ba tiếng đá nổ rung trời. Trong lòng Kích Lôi sơn bắn phọt ra ba
cột nước lớn, hai cột nước phun từ chỗ gần ngực pho tượng, cột nước còn lại
phun thẳng vào sơn cốc dưới lòng đất. Ba dòng nước giống như ba con rồng bạc khổng
lồ, đường kính đều to cỡ bụng pho tượng, cuốn theo đá vụn từ vỏ núi và những
làn hơi bốc ngụt trời xối đến.
Pho tượng thần màu đen vốn
dĩ đầu nặng chân nhẹ, tuy cao lớn nhưng bên trong lại rỗng, thành thử dòng nước
vừa xối ra liền bắt đầu lung lay. Hai cánh tay cắm vào lòng núi của pho tượng
dần dần tách ra khỏi vỏ núi. Đối mặt với các biến đổi này của tự nhiên, sức
người trở nên vô cùng bé nhỏ, chúng tôi cùng gắng bám chặt vào bức tường đổ
trong cơn rung chuyển dữ dội. Tôi hoàn toàn không ngờ rằng chuyến đi Tây Tạng
lần này cuối cùng mình lại chết vì nước. Khi bị dòng nước xối tới, pho tượng
khổng lồ này ắt sẽ đổ xuống hẻm núi dưới kia, chúng tôi chắc chắn sẽ chết,
nhưng lúc này ngoài việc cố gắng neo chặt thân thể mình thì cả bọn đều không
còn biết phải làm thế nào khác nữa.
Lũ rắn độc cung khiếp hãi
trước sự rung chuyển của pho tượng, hoặc giả chúng cũng giống như chúng tôi,
khó có thể hành động trong cơn rung chuyển như động đất này. Nhưng mọi người
đều lo cho sự sống còn của mình, chẳng hơi đâu mà để ý đến lũ rắn nữa, dẫu có
bị rắn cắn cũng chẳng dám lỏng tay. Đột nhiên chẳng biết ai đó bỗng hét lên:
"Đổ rồi!"
Pho tượng quả nhiên không
rung nữa, mà đổ dần về phía núi Kích Lôi ở đối diện với tốc độ chậm chạp lạ
thường. Tôi cảm giác tim gan phèo phổi của mình cũng dần dần đảo lộn theo pho
tượng. Bỗng tôi phát hiện A Hương đổi trọng tâm không đúng, vả lại cô bé chỉ có
một cánh tay có thể sử dụng, cho nên đã lăn từ bên rìa một bức tường thấp
xuống, tôi cũng chẳng có cách nào buông tay, mà chỉ vươn một tay ra thì không
đủ dài để với tới cô bé, vậy là đành phải đưa chân ra chặn lại.
A Hương cũng nhanh nhẹn,
liền ôm chặt lấy chân tôi, bấy giờ mới từ từ trôi xuống. Lúc này pho tượng thần
đã nghiêng theo một góc độ hết sức quái chiêu lại dừng đột ngột, không tiếp tục
đổ về phía trước nữa, hình như đã bị mắc vào một chỗ nào đó trên vách núi. Tôi
nhân cơ hội này túm lấy A Hương, rồi nhìn xuống phía dưới pho tượng, bất chợt
cảm thấy váng cả đầu.
Pho tượng vốn dĩ đã không
đứng song song với sơn cốc mà hơi lệch đi một tý, lúc này phần gáy đổ nghiêng
vừa vặn chống lên vách đá phía Đông. Trên vách đá có rất nhiều hóa thạch của
sinh vật cổ lộ ra ngoài, dưới sức nặng của pho tượng, đá tảng nứt vỡ rơi xuống
rầm rầm. Pho tượng không những tiếp tục phải hứng chịu sự tấn công dữ dội của
dòng nước ngầm, lại còn gánh cả sức nặng đổ nghiêng của chính nó, lung lay như
sắp sụp, bất cứ lúc nào cũng có khả năng đổ sập xuống theo vách đá dốc đứng.
Tình thế nguy hiểm vô cùng,
tôi nóng bừng cả người, mồ hơi vã ra như tắm, vả lại không khí đã trở nên ô
trọc, xung quanh sương khói mù mịt ẩm ướt... Không đúng, không phải là sương
khói, mà là hơi nước, dung nham trong lòng đất đã bùng lên, nước hồ xối xuống,
bị đun sôi sục, nếu lỡ rơi xuống đó thì mẹ kiếp, có khác quái gì con lợn luộc,
giở đi giở lại một cái là chín ngay.
Shirley Dương giơ ngón tay
lên chỉ: "Mọi người nhìn kìa! Đầu kia là gì vậy?" Tôi
nhìn theo hương ngón tay cô, tuy hơi nước mờ mịt khắp nơi, nhưng ở khoảng cách
rất gần nên có thể nhìn thấy thấp thoáng phía bên kia có một cái bóng trắng vắt
ngang giữa hai vách đá dốc đứng trong sơn cốc. Sơn cốc này vốn dĩ đen ngòm,
nhưng những dòng dung nham từ kẽ nứt trên vách đá bên dưới chảy ra đã sáng bừng
một sắc đỏ sậm hắt lên.
Tôi
gắng sức mở to mắt nhìn cho rõ, nhưng càng cố nhìn càng mờ, như như đó là một
cây cầu trắng bắc trên vách núi. Tuy điều này rất khó xảy ra, nhưng thôi mặc kệ
hết đi, lũ rắn bị hơi nóng hun cho sắp điên hết cả, trong chốc lát thôi sẽ bò
lên khắp đỉnh đầu pho tượng, mặc kệ đầu kia là thứ gì, cứ leo qua đó đã rồi hẵng
tính, bằng không chỉ lát nữa thôi, không chết vì rắn cắn thì cũng chết vì bị
luộc chín.
Chúng tôi
vịn vào bức tường đổ gãy trên đỉnh đầu pho tượng, lần tới phía trước quan sát. Hóa
ra ở chỗ tiếp giáp giữa đầu và vai pho tượng với vách đá có một bộ xương sống
hóa thạch khổng lồ, cột sống dài và hai đầu xương lồng ngực uốn cong găm vào
vách núi, ở giữa có một đốt xương dài lủng lẳng giữa chừng không.
Pho
tượng đè lên khiến vách đá không ngừng sụt xuống, trông chừng sắp đổ, tôi vội
vẫy mọi người mau chóng leo lên phía trên bộ xương hóa thạch, rồi đẩy luôn
Shirley Dương và Minh Thúc lên trước. Tay A Hương bị trọng thương mà bắt cô bé
leo lên bộ xương lửng lơ giữa trời là điều không thể, buộc phải có người cõng
mới được. Tuyền béo thì lại sợ độ cao, nếu để cậu ta cõng A Hương, có khi cả
hai người cùng rớt xuống dưới, thôi thì tôi đành cõng cô bé, đồng tời dùng dây
thắt nút khóa chặt lại vậy. Sau khi chuẩn bị xong, tôi liền thúc Tuyền béo leo
mau lên. Tuyền béo quay lại thấy lũ rắn độc đang ùn ùn lao ra, phía dưới lại có
dòng nước sôi sùng sục, chết kiểu nào cũng không lấy làm dễ chịu, đành hạ quyết
tâm, nghiến răng nhắm mắt bám vào bộ xương hóa thạch leo lên.
Tôi
cõng A Hương leo lên sau cùng, quay đầu lại quan sát một lượt, con rắn lớn lòng
thong dãi đỏ đã đè lên những con khác để trườn lên tầng chóp. Thì ra bầy rắn
chần chừ không dám đùn lên là bởi chúng đều muốn tránh hơi nước nóng bốc ngùn
ngụt ở dưới, cuối cùng thì con rắn đầu đàn cũng tranh bò lên trước. Tôi giơ
súng bóp cò không đắn đo, bắn hết năm phát đạn còn lại, trong tình thế hỗn loạn
cũng chẳng có thì giờ để ý xem bắn trúng hay không, tiện tay ném luôn súng rồi
leo lên khung xương hóa thạch trắng ởn.
Vừa
leo lên tôi đã có cảm giác bộ xương này không hề chắc chắn, phía dưới những con
sóng nước nóng cuộn chảy, vừa leo thân hình vừa lắc lư run rẩy, dường như chỉ
hơi dùng sức một chút, bộ xương có thể rã tan bất cứ lúc nào. Năm người cùng bò
lên một lúc quả thực có hơi quá nhiều, nhưng đã quá muộn, không thể nào bò lên
lần lượt từng người nữa. Tôi đành bảo A Hương nhắm mắt, đừng nhìn xuống dưới,
ngay bản thân tôi cũng cảm thấy hoa mắt, đành nghiến răng lại, không nghĩ bất
cứ điều gì nữa, cứ cắm đầu cắm cổ bò tới.
Bộ
xương hóa thạch khổng lồ hình như găm vào trong một khe núi chạy vắt ngang. Tôi
thấy chỗ này rất quen, có vẻ như chính là nơi chúng tôi nhìn thấy bầy địa quan
âm trắng xuất hiện rồi biến mất, ý nghĩ này chỉ thoáng vụt qua trong đầu. Tuyền
béo ở phía dưới di chuyển chậm chạp, tôi ở phía sau lại không dám đẩy, nhưng
làn hơi nóng bốc lên ngùn ngụt cùng bộ xương hóa thạch lỏng lẻo dường như đã
vượt qua ngưỡng chịu đựng tâm lý của mọi người.
Một
lúc hơi nước bắt đầu yếu đần, nước hồ chắc đã chảy xuống gần hết, mồm miệng tôi
khô rát, đầu óc cũng mụ mị, hoàn toàn ở trong trạng thái quán tính của ý thức,
cứ thế bò theo từng đốt một trên bộ xương khổng lồ. Bỗng nhiên nghe thấy tiếng
súng nổ vang phía trước, tôi sực tỉnh khỏi cơn hoang mang, ngẩng đầu nhìn. Shirley
Dương đang giương súng bắn những cái bóng trắng. Thì ra lúc chúng tôi sắp dịch
chuyển về phía kẽ núi vắt ngang, bọn địa quan âm chui ra khỏi hang, lũ lượt tới
gặm bộ xương hóa thạch, có lẽ chúng lo bầy rắn sẽ bò qua. Tiếng sung khiến bầy
địa quan âm rối loạn, khá nhiều con rớt từ trên vách đá xuống, những con còn
lại không chết thì cũng chuồn hết vào hang đá mất tăm mất tích.
Shirley
Dương và Minh Thúc lần lượt leo vào trong kẽ nứt tương đối an toàn trên vách
đá, Tuyền béo còn cách đó một quãng, tôi bị kẹt phía sau cậu ta, muốn nhanh
cũng không nhanh được. Bỗng dưng sau lưng tôi vang "rầm" một tiếng,
pho tượng khổng lồ cuối cùng cũng đổ sập, làm bắn lên vô số bọt nước bỏng giãy,
bộ xương hóa thạch cũng súyt chút nữa là bung ra. Chợt thấy Shirley Dương đứng
đối diện liên tục vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi. Tôi quay đầu lại nhìn, giật
mình kinh hãi súyt lỏng tay ngã xuống. Con rắn lớn máu me đầy mình từ trong
đống đổ nát đã bò lên bộ xương hóa thạch, ngoài ra còn có mấy con rắn đen nữa,
nhưng con rắn to kia dường như đã bị điên, nó cắn chết mấy con đứng chặn trước
mặt, hất xuống dưới, trường lên nhanh như một cơn lốc màu đen.
Shirley
Dương định nổ súng tiếp ứng, nhưng góc đứng không thuận, không thể bắn trúng nó
được. Tôi không thể không réo giục Tuyền béo, song cậu ta lại run lẩy bẩy, bò
chậm hơn rùa. Con rắn đã sắp bò tới nơi. Tôi thấy khẩu súng giắt sau thắt lưng
Tuyền béo, liền rút luôn ra. Súng ống đã lên sẵn đạn, tôi định xoay người lại
bắn, song vì trên lưng lại cõng A Hương, động đậy rất dễ mất trọng tâm, đành
một tay víu chặt thắt lưng của Tuyền béo, cõng A Hương đeo mình lủng lẳng giữa
lưng chừng không, tay còn lại bóp cò nổ súng, bắn liền mấy phát. Con rắn sắp bò
tới nơi bị đạn bắn trúng bụng, cái đuôi quấn vào khung xương rời ra, trượt rơi
xuống hẻm núi.
Cánh
tay túm Tuyền béo vừa tê vừa mỏi, tôi vội quăng súng đi, dùng hai tay giữ chặt
sợi thắt lưng của Tuyền béo. Tuyền béo bị sức nặng của tôi và A Hương kéo
xuống, súyt sùi bọt mép, đột nhiên không hiểu lấy đâu ra sức lực vô cùng, cứ
như vậy lôi hai người treo lủng lẳng, từng bước leo lên rìa đá. Shirley Dương ở
phía đối diện cũng kịp thời tiếp ứng. Tôi cõng A Hương leo lên rìa núi, rồi nằm
sấp bên cạnh Tuyền béo, ngoài thở hồng hộc, chẳng thể nhúc nhích động đậy gì
nữa. Còn A Hương thì đã bị hơi nóng hun cho oặt oẹo cả ra.
Nằm
một lúc lâu, Tuyền béo mới lật người, nhả ra một câu: "Đây là xương hóa
thạch của con gì thế... Mẹ kiếp, rắn chắc quá cơ!"
Khắp
người tôi rệu rã, từng đốt xương đau nhưng nhức, một lúc lâu sau mới hồi lại,
vừa rồi quả là nguy hiểm quá, thật không ngờ có thể sống sót mà rời khỏi pho
tượng thần.
Minh
Thúc nói: "Tuy chúng ta tránh được cả kiếp nạn thủy hỏa rồi, nhưng giờ lại
gặp kiếp nạn thổ này, vách đá này trên dưới cách nhau quá xa, mà ta có phải là
khỉ đâu, chôn chân ở đây thì cũng có khác nào chờ chết?"
Tôi
nói: "Không hẳn, sau khi nhìn thấy bầy địa quan âm, tôi dã nghĩ ngay tới
cách thoát thân, chỉ có điều chúng ta lúc đó không thể mọc cánh bay sang đây
được, thê nên tôi cũng dập tắt ý nghĩ ấy luôn. Nhưng cuối cùng lại gặp nước và
sống sót, vớ vẩn thế nào lại đến được nơi đây, chỗ này chắc chắn có đường trở
về đấy. Bọn địa quan âm ưa nơi ấm áp, sợ lạnh, giỏi đào hang, bất kể là đất hay
đá đều không thể ngăn được chúng, vả lại bọn này không chỉ hoạt đồng ở dưới
đất, phạm vi của chúng phần nhiều là ở những khu vực có nhiều suối nước nóng,
hang là để vận chuyển thức ăn nên thường đào rất rộng. Tuyền béo chui vào cũng
chẳng vấn đề gì, chúng ta có thể thoát ra theo đường ấy."
Minh
Thúc nghe vậy thì cả mừng: "Vừa nãy tuy thấy ở đây có một số hang động,
nhưng bên trong lại chia thành hàng ngàn hàng vạn hang ốc, cứ như mê cung ấy,
dẫu có kim chỉ Nam, vào trong đó thế nào cũng bị lệch hướng, không thể thoát ra
được, lẽ nào chú Nhất lại có thể tìm được đường ra?"
Tôi
còn chưa kịp đáp, đã nghe Tuyền béo cướp lời: "Ở những chốn thâm sơn cùng
cốc mà bọn tôi ngày xưa phải đi cải tạo ấy, có không biết bao nhiêu hang hốc do
bọn địa quan âm này đào ra. Vì hàng của bọn chúng rộng nên lũ chó săn thích
nhất là chui vào bắt địa quan âm ăn cho đỡ thèm, mấy năm gần đây chắc là bắt
xơi hết rồi. Những hang này đều được đào từ ngoài vào trong, loài động vật này
có thói quen như vậy, bác cứ nhìn cái vết móng tay tam giác trên vách hang là
có thể đoán được hướng đi của hang, nhưng mặc kệ đi, càng chú đến phương
hướng lại càng dễ lạc đường ấy chứ."
Đã có đường thoát rồi, mọi
người đều không chần chừ thêm, liền chui vào trong "hang quan âm"
giống như mê cung, dần dần dốc lên cao, giữa đường có đói thì tóm mấy con địa
quan âm ăn thịt, lần mò trong hang độ chừng nửa ngày, cuối cùng cũng chui ra
khỏi mê cung dưới lòng đất.
Bên ngoài ánh sao lấp lánh,
đang là giữa đêm, chúng tôi nhận thấy nơi đây nằm trong một sơn cốc, địa thế
không cao lắm. Xa xa bóng núi mông lung, tiếng suối rừng thê lương quá độ, giữa
những vách núi dốc đứng chỉ có một dải trời vắt qua như sợi chỉ, tựa như sơn
cốc dưới lòng đất được chuyển lên trên này vậy. Địa hình ở đây chật hẹp hơn, oi
bức hơn, nhưng lại khiến người ta có cảm giác như đã từng bắt gặp nơi tương tự
ở đâu đó rồi. Trên mặt đất rải rác những bộ xương thú hoang trắng ởn. Mọi người
nhìn xung quanh, còn đang phán đoán xem đây là chỗ nào, thì tôi đột nhiên sực
nghĩ ra, đây chính là một trong hai rãnh tuẫn táng, là Tàng cốt câu thứ hai,
chúng tôi chỉ cần đi thẳng một mạch về phía Tây, là có thể tập hợp với đoàn bò
Yak ở lều rồi.
Chương 41:
Ban nhạc Bremen
Tháp táng trong lăng tẩm của Ma quốc xưa nay đều dựa theo quy mô mà
bố trí hay rãnh tuẫn táng, như hình lưỡng long hí châu vậy, trong rãnh có rất
nhiều xương thú làm vật tuẫn táng, cho nên người dân vùng Kelamer gọi là Tàng
cốt câu. Không ngờ chúng tôi đi tới sông băng Long đỉnh thông qua một Tàng cốt
câu, cuối cùng khi bò ra khỏi mặt đất, lại ở trong một Tàng cốt câu khác. Có
điều nơi đây ấm áp, tài nguyên phong phú, thảm thực vật rậm rạp, rất hiếm thấy
ở vùng núi Kelamer này.
Ánh sao lung linh giăng đầy
trời, địa hình trong sơn cốc nhấp nhô lồi lõm, sâu trong rừng tùng bách mọc
dày, che khuất ánh sao, dưới màn đêm tĩnh mịch, không khó trong vùng sơn dã trở
nên trong trẻo lạnh mướt đến lạ, chỉ một cái hít thở, không khí lạnh mát đi vào
tận phổi. Tôi hít thở hai hơi thật sâu, lúc ấy mới cảm nhận được niềm vui sướng
sau khi thoát chết, mấy người còn lại cũng đều phấn khởi vô cùng, bao tâm l
căng thẳng, lo âu, khủng hoảng khi chờ đợi cái chết đến gần giờ đây đều tan
biến sạch.
Nhưng lại có câu thất
thường như thời tiết, chẳng ai ngờ, trên đỉnh sơn cốc chợt có đám mây đen thổi
qua, tụ lại một chỗ với dòng lưu khí bốc lên, trong nháy mắt mưa lớn liền ập
xuống. Vùng núi Côn Luân này, môi ngọn núi đều có bốn mùa, cách mười dặm là
trời đất khác biệt, trên đỉnh núi có tuyết rơi, có khi dưới chân núi thì mưa
đổ, trong khi sườn núi có thể mưa đá, bão giật cùng lúc ấy. Chúng tôi thậm chí
còn chưa kịp oán trách ông trời, thì đã bị mưa trút ướt sũng.
Tôi vuốt nước mưa trên mặt,
quan sát địa hình xung quanh. Sơn cốc này tĩnh mịch thâm u, bao năm nay chẳng
có người vãng lai, quá nửa di tích cổ xưa đã chẳng còn tồn tại, nhưng các đồi
đá, khe đá hình thành trong thời kỳ núi lửa hoạt động mạnh mẽ từ xa xưa, sau
bao năm ròng rã hứng chịu mưa gió xâm thực, nay vẫn trơ trơ còn đó. Cách chúng
tôi không xa có một cửa hang ăn chênh chếch vào trong vách đá, phía trên lồi,
phía dưới lõm, đúng là một chỗ tránh mưa qua đêm lý tưởng.
Tôi hô mọi người mau chóng
nấp vào hang đó tránh mưa. Vì ngại trong sơn động có thể có thú hoang, Tuyền
béo vác súng trường chạy tới trước do thám. Minh Thúc và A Hương cũng lấy tay
che đầu, chạy theo phía sau.
Tôi để ý thấy Shirley
Dương không hề sốt sắng, mặc cho nước mưa rơi trên người, cô vẫn bước đi thong
thả, dường như đang hưởng thụ, bèn hỏi cô nàng đang nghĩ gì mà đi chậm rãi thế,
không sợ ngấm mưa à.
Shirley Dương bảo rằng chui
trong hang cả ngày trời, khắp người toàn là bùn đất bẩn thỉu, tiếc là giờ không
có gương, chứ nếu không mọi người tự soi mình, chắc chẳng nhận ra nổi bản thân
nữa ấy chứ, thà cứ để nước mưa xối vào người một lát, chốc nữa vào trong động
sẽ đốt lửa lên ngay, không lo cảm lạnh đâu.
Nghe cô nói vậy, tôi mới
nhận thấy đúng là năm con người chui ra khỏi lòng đất, khắp mình mẩy đều bẩn
thỉu, người không ra người, ngợm không ra ngợm, quả thực giống như một lô đồ
cổ. Có điều nơi đây tuy khí hậu ấm áp hơn, nếu ngấm mưa lâu vẫn rất dễ bị cảm
lạnh, nên tôi vẫn bảo cô mau vào sơn động tránh mưa cái đã, đừng đắc ý vì vừa
thoát chết, cũng đừng vì sạch sẽ nhất thời, ngộ nhỡ lát nữa sướng quá hóa rồ,
nhiễm lạnh mà rồi sinh bệnh ra thì chẳng hay hớm chút nào.
Tôi dắt Shirley Dương đi
phía sau ba người còn lại, vừa vào trong động đã ngửi thấy mùi lưu huỳnh thoang
thoảng. Trong động có vài hố màu trắng, xem ra nơi đây trước kia từng có địa
nhiệt, tuôn ra mấy suối nước nóng, giờ đã cạn khô cả rồi, tuy mùi không được dễ
chịu cho lắm, nhưng cũng không lo có thú hoang xuất hiện.
Trong sơn cốc có rất nhiều
cành lá khô, tôi và Tuyền béo ra cửa hang, chỗ không bị mưa ươt, nhặt vừa một
đống ôm về, chất ở trong hang đốt lửa, lôi mấy con địa quan âm béo còn thừa ra
nướng. Thịt địa quan âm giống như thịt chuột đồng, có mỡ có nạc có ba chỉ,
nướng ăn rất hợp, chưa được bao lâu, sắc thịt đã chín vàng, mỡ rỏ xuống kêu
tanh tách. Không có gia vị gì khác, cho nên khi ăn vẫn có mùi tanh của đất,
nhưng quen rồi thì lại cảm thấy thơm ngon vô cùng.
Lửa mỗi lúc một cháy to, ai
nấy đều thấy ấm áp, thần kinh căng thẳng lúc nãy mới hoàn toàn được thả lỏng,
bao nhiêu mệt mỏi đau rã tích lại từ mấy ngày trước đều xả hết ra, khắp cơ thể
từ trong ra ngoài đều cảm thấy rệu rã vô cùng. Tôi gặm nửa cái đùi địa quan âm,
còn chưa nhai hết đống thịt trong mồm, súyt nữa thì đã ngủ gật. Tôi ngáp một
hơi, đang định nằm xuống ngủ, chợt phát hiện ra Shirley Dương đang ngồi đối
diện nhìn, như có lời muốn nói.
"Sang Mỹ với tôi nhé?" Shirley Dương đề nghị.
Việc này Shirley Dương đã nói nhiều lần, từ đầu chí cuối tôi vẫn chưa hứa
hẹn gì, bởi khi ấy sống chết còn khó lường, hôm nào cũng sống trong sự thấp
thỏm sợ hãi, ngày nào cũng như ngày tận thế, nhưng lúc này thì khác, chúng tôi
đã thoát khỏi lời nguyền ác mộng, tôi phải cho cô một câu trả lời. Tôi cũng
từng nhiều lần tự hỏi lòng mình, đương nhiên tôi muốn đi Mỹ, nhưng không phải
vì nước Mỹ tốt đẹp, mà chỉ bởi vì tôi cảm thấy tôi và Shirley Dương không thể
xa nhau được nữa.
Nhưng tôi và Tuyền béo đến tận lúc này vẫn khố rách áo ôm, dẫu có dốc cả
đáy hòm ra cũng chẳng gom góp được vài đồng, qua đó rồi thì sống thế nào đây? Những
chiến hữu đã hy sinh của tôi, đại đa số đều ở những vùng quê nghèo, toàn người
già và trẻ nhỏ, gia quyến của họ về sau lấy ai săn sóc? Đương nhiên, Shirley
Dương sẽ có thể giải quyết nhiều vấn đề khó khăn về mặt tài chính của chúng tôi
mà không hề do dự gì, nhưng tự lực cánh sinh mới là nguyên tắc của tôi. Trước
nay tôi làm chuyện gì cũng không hề chần chừ lúng túng, nhưng lần này thì không
thể không suy nghĩ cho kỹ được.
Vậy là đành bảo Shirley Dương cho tôi một chút thời gian để suy nghĩ đã. Nếu
đi Mỹ, thì bí thuật phong thủy tôi nghiên cứu nửa đời sẽ chẳng có đất dụng võ. Ngay
từ khi tôi mới tới khu chợ đồ cổ Phan Gia Viên, tôi đã muốn đổ một cái đấu lớn,
phát đại tài, bằng không cái ngón tầm long quyết của Mô kim Hiệu úy chẳng phải
chỉ là học suông thôi sao? Biết bao lầu rồng điện ngọc chúng ta đã ra vào như
đi chợ, nhưng lại chẳng lần nào mò được thứ gì đáng đồng tiền bát gạo đem về,
điều này nói thì hay, nhưng nghe lại dở. Hiện giờ việc xuất ngoại ở nước chúng
tôi rất hot, đi nước ngoài xem ra rất thời thượng, ai cũng nghĩ vắt óc để chạy
ra nước ngoài, bất kể là nước nào, cho dù là sang những nước ở thế giới thứ ba
họ cũng tranh nhau đi, ai cũng nghĩ cứ ra được nước ngoài trước đã rồi tính
tiếp. Chúng tôi đương nhiên muốn đi Mỹ, nhưng thời cơ lúc này còn chưa chín
muồi cho lắm.
Tuyền béo đứng bên cạnh nói: "Đúng rồi, năm xưa tư lệnh Nhất từng nói
hùng hồn rằng mục tiêu của đời hắn là phải đổ được một cái đấu thật lớn, nhưng
đến giờ lời vẫn bên tai, vòng vo tam quốc mãi, đấy là lý tưởng tối cao của
chúng tôi, không hoàn thành tâm nguyện này, bọn tôi đúng là ăn ngủ cũng không
ngon."
Minh Thúc nghe thấy chúng tôi nói vậy, dường như thấy lại có kế hoạch lớn
gì đó, cuống quýt nói: "Các chú có lẫn không thế hả? Còn chưa thoát khỏi
núi Côn Luân, đã định lên kế hoạch gì vậy? Nhất định phải cho anh đi cùng đấy
nhé, anh có thể cung cấp vốn và tất cả các thứ cần dùng. Tuy lần này chúng ta
lỗ sạch, nhưng đánh bạc thắng thua là chuyện thường tình mà, anh tin thực lực
của chú Nhất, chúng ta nhất định sẽ có một vụ làm ăn lớn đấy!"
Tôi không chịu được bèn nói với lão: "Thôi bác đừng có té nước theo
mưa nữa được không hả? Bác không thấy ba vị đổ đấu vĩ đại đang ngồi đây bàn bạc
quên mình vì con đường phía trước của ngành đổ đấu đây sao? Đêm nay sẽ là một
đêm không ngủ đấy!"
Minh Thúc vừa mất vợ, vừa hao binh tổn tướng, lúc này đương nhiên không
chịu bỏ qua bất kỳ cơ hội kiếm chác nào, đành cười trừ nói với tôi: "Anh
đương nhiên biết chú Nhất là người làm được đại sự, nhưng mà một hảo hán cũng
phải có ba trợ thủ, ngoài chú Béo và tiểu thư Shirley Dương ra, anh cũng có thể
giúp chú những chuyện lặt vặt đấy chứ. Chỗ anh còn có một thông tin cực kỳ có
giá trị nhé, mọi người đã nghe nói đến mộ vua Hami ở Tân Cương chưa? Nghe nói
trong mộ vua Hani có bộ kinh sách bằng vàng ròng, mỗi một tờ đều được làm bằng
vàng, bên trong lại khảm vô số bảo thạch, đọc mỗi dòng kinh văn là có thể khiến
trăm hoa tàn úa lại được hồi sinh, đọc hai dòng kinh văn là có thể khiến cho...
" Lão vừa nói vừa nhắm mắt, lắc lư cái đầu, hết sức say sưa, cứ như đã sờ
tận tay bộ kinh bằng vàng kia rồi ấy.
Shirley Dương thấy Minh Thúc làm gián đoạn câu chuyện giữa tôi và cô, chủ
đề càng nói càng xa, nếu cứ nói tiếp, có lẽ sẽ bàn sang chuyện đi Thiên Sơn đổ
đấu vua Hami cũng nên, đoạn bèn hắng giọng, đưa sự chú ý của tôi từ câu chuyện
của Minh Thúc quay lại chủ đề cũ. Cô nói: "Lúc ở trên đỉnh đầu tượng thần
Kích Lôi sơn, rõ ràng anh đã nói là không muốn làm cái nghề đổ đấu này nữa,
muốn cùng tôi sang Mỹ, giờ còn chưa qua một ngày, anh lại chạy làng thế nhỉ. Nhưng
tôi chẳng giận anh làm gì, bởi tôi hiểu bụng dạ của anh, đường về còn rất dài,
sau khi về đến Bắc Kinh, anh phải cho tôi một câu trả lời rõ ràng đấy! Tôi hy
vọng những lời tôi khuyên anh trước đây không phải là công cốc... Anh có biết
câu chuyện về ban nhạc Bremen không nhỉ? Tôi nghĩ câu chuyện này có rất nhiều
điểm tương đồng với những trải nghiệm của chúng ta."
Tôi và Tuyền béo nhìn nhau ngơ nhác, xưa nay nào đã ai nghe nói đến
"ban nhạc Bán-dế-mèn" nào, Shirley Dương lại nói rằng cuộc trải
nghiệm của chúng tôi cũng giống như ban nhạc ấy chứ? Rốt cuộc cô nàng định nói
gì nhỉ? Tôi quả thực không thể nghĩ ra giữa "Mô kim Hiệu úy" và
"ban nhạc Bán-dế-mèn" có mối liên hệ gì? Chẳng lẽ có một toán người
vừa đổ đấu vừa ca hát? Thế rồi bèn hỏi Shirley Dương xem "ban nhạc
Bán-dế-mèn" là thế nào?
Shirley Dương nói: "Không phải là Bán-dế-mèn, mà là Bờ-rê-men là một
địa danh của nước Đức. Đây là một câu chuyện đồng thoại, có bốn con vật trong
chuyện là lừa, chó, mèo và gà, chúng đều cảm thấy áp lực cuộc sống quá lớn, và
quyết định lập thành ban nhạc đến Bremen diễn xuất, đồng thời cho rằng ban nhạc
của chúng chắc chắn sẽ được mọi người nơi đó chào đón, từ đó sẽ được sống một
cuộc sống hạnh phúc. Trong tâm tưởng của chúng, điểm đến cuối cùng của chuyến
du lịch chính là Bremen, là chốn lý tưởng của chúng."
Tôi và Tuyền béo cùng lúc lắc đầu: "Cách ví von này rất không thỏa
đáng, sao lại đem chúng tôi so sánh với những con vật trong câu chuyện đồng
thoại được chứ?"
Shirley Dương nói: "Các anh cứ nghe tôi kể hết chuyện đã nào, ban nhạc
Bremen mà chúng lập nên, kỳ thực cho đến cuối cùng cũng chưa tới được Bremen,
bởi trên đường tới Bremen, chúng đã dùng trí thông minh bắn chết kẻ xấu xa
trong căn nhà nhỏ của người thợ săn, sau đó liền ở lại đó sống một cuộc sống
hạnh phúc. Tuy ban nhạc Bremen chưa từng tới Bremen, nhưng trên chặng đường du
lịch đó, chúng đã tìm ra những thứ chúng hy vọng có được, và hoàn thành giá trị
tự thân của mình."
Tuyền béo vẫn chưa hiểu, nhưng về cơ bản tôi đã hiểu ý của Shirley Dương
định ám chỉ thông qua câu chuyện này. "Ban nhạc Bremen" chưa từng đặt
chân tơi Bremen, và những "Mô kim Hiệu úy" chưa từng phát tài thông
qua việc trộm mộ, là chúng tôi đây, quả thực có thể nói là rất giống nhau. Có
lẽ trên chặng đường lãng du, chúng tôi đã có được rất nhiều thứ qúy báu, giá
trị của chúng thậm chí còn vượt hẳn mục tiêu vĩ đại "phát đại tài"
kia, đích đến không quan trọng, quan trọng là quá trình đi tới đích, chúng ta
thu hoạch được những gì.
Nghe xong câu chuyện về ban nhạc Bremen, tôi trầm ngâm một hồi lâu, đột
nhiên mở miệng hỏi Tuyền béo: "Vì sao chúng ta phải đi đổ đấu? Ngoài vì
cần tiền ra, còn nguyên nhân nào khác không?"
Thấy tôi hỏi vậy, Tuyền béo ngây người, nghĩ một lúc lâu sau mới trả lời:
"Đổ... đổ đấu? Làm vậy là vì... vì ngoài đổ đấu ra, hai ta chẳng thể làm
gì khác, chẳng biết làm gì khác!"
Sau khi nghe lời này của Tuyền béo, tôi bỗng thấy hụt hẫng, trong lòng rỗng
tuyếch, chẳng muốn nói gì hơn nữa. Những người khác sau khi ăn uống xong, cũng
đã dựa vào vách hang nghỉ ngơi, tôi cứ trằn trọc khó ngủ, cảm giác như bị chạm
phải một ẩn ức trong lòng, đó là một sự nhìn nhận kỹ càng đối với số phận của
bản thân.
Hoàn cảnh của tôi và Tuyền béo tương tự như nhau, đều xuất thân trong gia
đình quân nhân, đều trải qua sự cướp bóc sạch trơn của mười năm Cách mạng Văn
hóa, những năm tháng đó chính là giai đoạn quan trọng nhất hình thành nên thế
giới quan, giá trị quan của một đời người, quan niệm Cách mạng vô tội, tạo phản
có lý hết sức thâm căn cố đế, giáo viên trong trường học đều bị phê phán, đánh
đập, việc học về cơ bản bị bỏ bẵng, cần có văn hóa thì lại không có văn hóa,
cần có kỹ thuật sản xuất thì lại chẳng lấy đâu ra kỹ thuật sản xuất. Đây không
những là nỗi đau của hai chúng tôi, mà còn là nỗi đau chung của cả một thời
đại. Sau đó hưởng ứng theo lời hô hào "thênh thang trời đất rèn trái tim
hồng", chúng tôi tới vùng núi hẻo lánh ở Nội Mông lao động, lao vào thực
tế để cảm nhận thế nào là "thênh thang trời đất" kho chạy quanh một
trăm dặm cũng không hề thấy có bóng dáng người nào. Tôi cũng còn coi như may
mắn, đi về quê, lên núi lao động ngốt một năm rồi được sung quân, còn Tuyền béo
nếu không kiên quyết không tin vào cái chỉ tiêu về thành phố gì gì ấy, nếu
không cuốn gói chạy về, thì chẳng biết cậu ta còn phải ở trên núi bao nhiêu năm
nữa.
Nhập ngũ là mơ ước từ nhỏ của tôi, nhưng tôi sinh ra chẳng gặp thời, đành
đêm đêm nằm mơ được tham gia đại chiến thế giới thứ ba. Tôi nhập ngũ thoắt một
cái đã mười năm, năm hai mươi chín tuổi mới được làm đại đội trưởng. Bờ cõi dấy
lên khói lửa, chính là thời cơ lớn cho tôi kiến công lập nghiệp, nhưng vì nhất
thời xốc nổi trên chiến trường, tiền đồ của tôi bỗng tan thành mây khói. Một
người sống trong quân ngũ mười năm, một khi rời khỏi quân đội, chẳng khác nào
mất đi tất cả. Sau khi đất nước cải cách mở cửa, biết bao sự vật cho đến những
giá trị quan hệ mới đều ồ ạt du nhập vào Trung Quốc, tôi thậm chí rất khó thích
ứng với sự chuyển biến này, muốn học cách đi buôn, nhưng lại phát hiện ra bản
thân mình không hề có tố chất đấy, dần dà cũng chẳng có lý tưởng hay sự theo
đuổi nào hết, cứ dật dờ qua ngày rồi chờ chết.
Cho mãi đến khi tôi và Tuyền béo quen biết Răng Vàng, bắt đầu đời Mô kim
Hiệu úy, bấy giờ tôi mới tìm thấy mục tiêu để phấn đấu. Đối với tôi, "Đổ
một đấu lớn, phát đại tài" có lẽ chỉ là một ý nghĩ dùng để tự kỷ ám thị mà
thôi, bởi như Tuyền béo nói, ngoài việc đổ đấu ra, chúng tôi không biết làm gì
khác. Tôi chỉ hy vọng có thể sống cho có ý nghĩa một chút, chứ không muốn sống
hoài sống phí trong sự bình thường đến nhạt nhẽo, đến Mỹ rồi, vẫn có thể tiếp
tục phấn đấu, tranh thủ kiếm nhiều tiền, khiến cuộc sống của những người cần
tôi giúp đỡ nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tôi chưa bao giờ suy nghĩ kỹ về cuộc đời như lúc này, nhất thời những ý
nghĩ dồn dập như sóng triều, tuy nhắm mắt mà không hề buồn ngủ, bên tai vẫn
văng vẳng nghe thấy tiếng mọi người thở mệt, chẳng lâu sau ai nấy đều lần lượt
chìm vào cõi mơ. Tiếng mưa bên ngoài đã dứt, tôi bỗng nghe thấy có người rón
rén đi ra ngoài.
Tôi nằm yên không nhúc nhích, khẽ mở mắt ti hí nhìn ra ngoài, thấy đống lửa
đã tắt một nửa, Minh Thúc đang lẳng lặng đi ra ngoài cửa hang. Tay lão xách túi
hành lý của tôi, bên trong có chưa một ít thịt còn thừa lại, mất bộ quần áo,
mấy viên pin khô... Nếu muốn ra khỏi chốn thâm sơn, ít nhất cũng phải trang bị
những thứ này. Tôi lập tức nhảy phắt dậy, tóm chặt lấy cổ tay lão, thấp giọng
hỏi: "Nửa đêm canh ba, bác định đi đâu thế? Đừng có nói là bác muốn đi thả
buồn nhé, đi nặng hay nhẹ cũng không cần phải đem theo ba lô làm gì; nếu muốn
lên đường đi về thì sao không bảo tôi một câu, tôi còn tiễn bác đi một đoạn
chứ!"
Hành động của tôi hết sức đột ngột, Minh Thúc sut nữa thì thót tim ra khỏi
cổ: "Anh... anh... anh... già cả rồi, đâu dám phiền Hiệu úy đại nhân đưa
tiễn gì chứ?"
Tôi nói với lão, bác là bậc
tiền bối, tôi lẽ nào lại dám không đưa tiễn? Rốt cuộc là bác muốn đi đâu? Minh
Thúc giậm chân nói: "Điều này... quả thực là dài lắm, nói không hết nhẽ...
" Nói đoạn, trên mặt lộ ra vẻ buồn bã, mặt mày ủ rũ khẽ tiếng nói với tôi:
"Thực không dám giấu gì chú, lần này có thể sống sót chui ra khỏi lòng
đất, anh thấy thật giống như một giấc mơ, quay lại ngâm về những việc trong quá
khứ, cảm thấy đời người sao giống như một giấc mộng, vừa đau khổ vừa ngắn ngủi,
lần này thập tử nhất sinh, cuối cùng lại một lần nữa được làm người, có thể nói
là mọi việc anh đều nhìn thoáng ra cả rồi. Anh có dự định sẽ vào chùa làm lạt
ma, tụng kinh niệm Phật, sống đến cuối đời, sám hối những tội nghiệt đã tạo ra
trong kiếp này. Nhưng lại sợ A Hương đau lòng, thế nên không để con bé buồn là
hơn, bèn dùng hạ sách này, định ra đi không từ biệt. Anh nghĩ có chú Nhất ở
đây, chắc chắn con bé A Hương sẽ có nơi nương tựa, các chú không phải mất công
chăm lo cho anh nữa, anh già rồi, như chiếc la trước gió, cứ để cho anh bay
theo gió đi vậy!"
Tôi suýt nữa tức điên vì
lão, cái trò này nếu lão giở ra lần đầu, có khi tôi tưởng thật, nhưng tôi quá
hiểu cái toan tính của lão rồi. Thằng khọm này thấy tôi hình như sắp đồng ý
theo Shirley Dương sang Mỹ, chín phần mười là không làm nghề đổ đấu nữa, trước
mặt chỉ có một con đường là Tàng cốt câu, ra khỏi đây không khó, lão định giở
trò ve sầu thoát xác, bỏ trốn chạy làng đây, lão còn nợ tôi cả một gian đồ cổ,
sao có thể để lao chạy thế này được. Vậy là tôi cướp ba lô trong tay lão lại,
nói: "Người xuất gia tứ đại giai không, nhưng bác đừng có vội bỏ đi không,
lúc trước ở Bắc Kinh đã giao hẹn sẵn rồi, cả cái giá đồ cổ trong nhà bác, bao
gồm cái miếng nhuận ngọc được ngậm trong miệng Dương quý phi để giải khát, sẽ
đều thuộc về tôi. Gì thì gì cứ về Bắc Kinh tính xong nợ nần rồi bác muốn đi đâu
thì đi, lúc ấy bác làm đạo sĩ cũng được, làm lạt ma cũng xong, chẳng liên quan
gì đến tôi hết, nhưng trước đó, chúng ta phải luôn bên nhau, không được rời
nhau nửa bước."
Chương 42: Hoàn
thành tâm nguyện
Tôi thấy những người còn lại lúc này đều ngủ lịm đi, mọi người quả
thật đã quá mệt, không nhất thiết phải kinh động đến họ vì trò khôn vặt này của
Minh Thúc. Thế rồi không để lão kịp phân bua, tôi giằng lại ba lô, đặt xuống
đất rồi nằm gối lên, bảo lão nếu muốn ra đi cũng được, nhưng cấm đem đi bất kỳ
thứ gì, bởi chúng tôi cũng cần phải dùng, nếu không đi nữa thì mau chóng tìm
lấy một chỗ mà nghỉ cho lại sức, đừng có đánh thức mọi người.
Lão bất lực, đành quay trở
lại, ngồi bệt xuống đất rồi nhỏ giọng nói :" Chú Nhất này ... cho anh nói
thêm một câu nữa nhé! Không đổ cái đấu của vua Hami, thì thật tiếc cho ngón
nghề Mô kim Hiệu úy! Anh em ta hợp tác đi, chắc chắn có thể làm lớn được. Chú chớ
thấy anh có tuổi mà coi thường, xưa nay có nhiều lão tướng càng già càng dẻo
dai chú ạ, nước Triệu có Liêm Pha thông binh pháp, nhà Hán có Mã Viện vỗ yên
muôn nhà..."
Tôi bĩu môi, nhắm mắt ngủ,
không để ý đến lão nữa. Lão tự cảm thấy vô duyên, muốn chuồn cũng không chuồn
được, khó tránh khỏi ngượng ngùng, cũng đành nằm ra đất ngủ luôn.
Giấc ngủ lần này quả giống
như câu thơ "một giấc mơ mòng trời đất rộng, con hồn phiêu lãng chốn quê
xưa", cũng chẳng biết đã ngủ bao lâu, chỉ biết cuối cùng bị Shirley Dương
đánh thức. Sắc trời đã sáng, thời tiết trong núi biến đổi thất thường, nhân lúc
trời cao mây nhạt, cần phải khởi hành rời khỏi sơn cốc này cho nhanh, dải núi
lửa trong lòng đất sôi sục lạ thường, mùi khí lưu huỳnh trong sơn cốc đậm đặc
hơn nhiều so với ban đêm, tuy khó có thể đoán liệu có nguy hiểm gì xảy ra
không, nhưng nơi này hẳn không thể ở lại lâu.
Đồ đạc chúng tôi cũng không
còn lại gì, chẳng cần phải thu xếp nhiều, Tuyền béo cõng A Hương lên, mọi người
bắt đầu khởi hành.
Sau khi ra khỏi lòng đất, chiếc
đồng hồ chịu nước Citizen đã hỏng, kim chỉ Nam trên mặt đồng hồ cũng mất tác
dụng, loại đồng hồ đa chức năng này, tuy có thể thích ứng hoàn toàn với môi
trường tự nhiên khốc liệt ở nơi hoang dã, nhưng lại có một nhược điểm, tức là
chỉ có thể chống nước mà không chống được hơi. Đồng hồ cơ tinh xảo sợ nhất là
hơi nước, hơi nước bốc lên do nhiệt độ cao rất dễ thâm nhập vào trong đồng hồ
bịt kín, áp suất bên trong đồng hồ chỉ biến đối một chút, sẽ khiến các linh
kiện chi tiết lỏng ra và rời rạc. Thiết bị định vị không thể hoạt động, nhưng
may mà hướng đi của Tàng cốt câu hết sức rõ rệt, chỉ có điều sau khi rời khỏi
đó đến vùng núi cao, lại cần phải dựa vào kinh nghiệm sinh tồn ở nơi hoang dã
để lần tìm phương hướng.
Đoàn người đi về hướng Tây,
ra khỏi sơn cốc, còn phải đi vòng qua sông băng Long đỉnh mới có thể đến được
rãnh tuẫn táng thứ hai, đàn bò Yak có lẽ đã ở đó đợi chúng tôi. Chúng tôi tuy
đã cố gắng chọn đi vào những nơi thấp trũng, nhưng chỗ này so với mặt nước biển
vẫn rất cao, nhiệt độ cũng mỗi lúc một thấp, trong khu rừng cổ rậm rạp bị hai
mặt sông băng kẹp giữa, khắp nơi đâu đâu cũng là đá vụn, đi bên trong cứ như đi
trong dòng sông toàn đá và cây.
Giữa những tảng đá lởm chởm
trên cao, thỉnh thoảng lại thấy những bông tuyết liên nở rộ, tươi đẹp trắng
ngần, tỏa hương thơm ngát. Thực ra hoa tuyết liên không quý hiếm như trong lời
đồn đại ở thế gian, có bán đầy ở các chợ gần sông băng, các nhà sư kiêm thầy
thuốc bản địa toàn dùng làm dược thảo, chỉ có băng tâm tuyết liên mới là thứ
siêu phàm, nhưng cực kỳ hiếm thấy.
Đi được nửa ngày đường,
những đám mây trên bầu không mỏng dần, ngọn núi tuyết thần bí, trong lúc vô ý,
đã vén tấm mạng che mặt thần bí lên. Chúng tôi ngẩng đầu nhìn lên cao, mấy ngọn
núi tuyết lớn vây quanh sông băng Long đỉnh giống như chiếc mũ miện bạc đội
trên đầu thần nữ, tỏa ra ánh sáng chói mắt. Những ngọn núi sừng sững hiên
ngang, ngạo nghễ nhìn bầu trời xanh ngắt, dáng dấp uy nghi trác tuyệt. Một rừng
tháp băng lung linh ở sườn núi giống như những viên kim cương khảm quanh ngân miện,
đó là thế giới của những áng lưu ly, nếu mây không thưa mỏng, chắc chắn không
thể nào nhìn thấy cảnh sắc mê ly huyền ảo này. Dưới sông băng là rừng đá hình
thành bởi vô số tảng đá hình thù kỳ lạ chi chít, kéo dài và nối liền với khu
rừng rậm cổ xưa ở nơi đất trũng.
Dòng nước tan ra từ sông
băng chảy ngầm xuống bên dưới khu rừng, phát ra những tiếng róc rách có nhịp
điệu, tựa như ngón tay ngọc ngà của tiên nữ đang khẽ gảy dây đàn, tuôn chảy
những chuỗi âm thanh dìu dặt, vang động lòng người. Tuy chúng tôi vừa lạnh vừa
đói, hít thở cũng khó khăn, nhưng khi chiêm ngưỡng cảnh sắc đẹp như cõi tiên
này, cũng không thể không cảm thán rằng, có thể sống sót mà đến được nơi đây,
quả thực là quá hạnh phúc.
Đến bìa rừng, mọi người đã
cảm thấy gần kiệt sức, Tuyền béo thở hồng hộc, mặt đỏ bừng, đành phải đặt A
Hương xuống, không nghỉ một lúc e là không nhấc nổi chân nữa. A Hương lại càng
mệt hơn, thở hổn hển. Tôi biết đây không phải mệt, mà là phản ứng thiếu oxy xảy
ra do vận động quá độ khi ở trên cao nguyên, nếu dọc đường đi, độ cao so với
mực nước biển không ngừng tăng lên, thì hơi thở khong bao giờ đều đặn được,
thôi thì đành nghỉ tại chỗ cho đến khi phản ứng cao nguyên giảm bớt đi vậy,
song nếu không có bình dưỡng khí thì e là A Hương không thể chịu đựng hơn nữa.
Tôi cũng thấy tức ngực, khó
chịu, nhìn rừng núi mênh mông rợn ngợp trải dài ra phía xa, thật chẳng biết
phải cuốc bộ bao lâu nữa, trong lòng đang thấp thỏm, đột nhiên phát hiện ra ở
dốc núi phía xa có mấy bóng người. Tôi tưởng ánh sáng bạc hắt ra từ ngọn núi
tuyết khiến mình hoa mắt, liền dụi mắt liên hồi để nhìn cho kỹ, đúng rồi, tôi
không hề nhìn nhầm, đích thực là có người, những người khác cũng đều đã nhìn
thấy, nom vóc dáng và cách ăn vận của họ, chắc chắn là mấy tay cửu vạn người
bản địa đã cùng chúng tôi tới đây.
Bốn người họ không hề phát
hiện ra chúng tôi, hình như đang lễ bái, cả bốn liên tục dập đầu trước ngọn núi
thần đã tan hết mây khói. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được đàn bò Yak, ai nấy
bất giác phấn chấn hẳn lên, cùng dìu dắt nhau, vừa vẫy tay tri hô vừa đi về
phía mấy anh cửu vạn. Sau khi tới gần, họ cũng phát hiện ra chúng tôi, đều mừng
rơn khôn tả, rồi chỉ trỏ về phía núi tuyết, bảo chúng tôi cũng quay lại nhìn
xem.
Tôi nhìn theo hướng tay của
họ, ở một chỗ rất cao, có hơn mười con bò Yak hoang to lớn chắc nịch, giống như
những tảng đá đen khổng lồ, đang từ từ chuyển động, bước đến ven trời. Chúng to
gấp đôi bò Yak thông thường, là loài động vật hàn đới điển hình, chịu lạnh rất
giỏi, số lượng cực kỳ ít ỏi, chỉ lai vãng ở những vùng núi cao hiếm người đặt
chân tới, sức sống cực kỳ mãnh liệt, được người bản địa coi là thần linh, là
tượng trưng của sức mạnh cát tường vô lượng. Ngày thường một con còn khó gặp,
lần này lại nhìn thấy cả đàn, có được điềm báo tốt lành này, chẳng trách họ lại
phấn khởi đến thế.
Đàn bò Yak này, con lớn
phải dài tới gần bốn mét, trông hùng dũng uy nghi, cặp sừng to chắc đầy khí
thế, trên mình phủ một lớp lông đen vừa dày vừa dài, đám lông ở bụng còn dài
chấm đất. Chiếc lưỡi mọc đầy gai cùng với sừng và móng là ba thứ vũ khí đặc hữu
của chúng, ngay cả gấu ngựa Tây Tạng và bầy sói cũng đều không dám chọc đến.
Dường như đàn bò Yak hoang này đang giẫm lên băng tuyết đi về phía thung lũng
bên kia núi.
Nhìn đoàn bò Yak chậm rãi
bước đi ở ven trời, người ta bất giác nảy sinh lòng kính sợ trước thiên nhiên
và sự sống. Cùng tận mắt nhìn thấy từng con bò Yak to lớn mà trầm mặc dần dần
biến mất sau sườn núi tuyết, những đám mây ven núi lại một lần nữa khép lại,
gói ngọn núi bạc vào trong, chúng tôi bỗng thấy hụt hẫng trong lòng, cứ ngây ra
nhìn những áng mây, mãi một lúc lâu sau mới định thần lại.
Do nhiệt độ lòng đất cao
vọt lên, tầng mây bao quanh đỉnh núi tuyết bị đẩy ra, ngọn núi mới hiện nguyên
hình, có được cơ duyên ngàn năm khó gặp này cần phải rập đầu lễ bái, mấy tay
cửu vạn trông coi lều đều tới cầu xin núi thần phù hộ, không ngờ lại gặp được
thêm đàn bò Yak cát tường, ai nấy đều sung sướng vô cùng. Mấy ngày hôm trước ở
sông băng xuất hiện đợt rét ẩm, sau đó tuyết lở, bọn họ hết sức lo ngại, lúc
này thấy chúng tôi bình an trở về, ai nấy đều không ngừng lắc ống kinh, mở
miệng ra là ca tụng ơn đức nhân từ của đức Phật. Còn về cái chết của anh
Xư-chê, bọn họ tuy tiếc thương, nhưng quan niệm về sự sống và cái chết của dân
du mục bản địa hoàn toàn khác chúng tôi, cho rằng có thể chết dưới núi tuyết
thần thánh, như vậy công đức sẽ được viên mãn, huống hồ anh ta lại giết được
vua sói trắng, hóa thân của yêu ma núi Côn Luân, kiếp sau chắc chắn anh Xư-chê
sẽ trở thành hộ pháp Chang-chu của đức Phật ( Chang-chu: tức là con chim ưng,
có tiếng kêu như tiếng rồng), mong linh hồn anh luôn phù hộ cho vùng Kelamer
vĩnh viễn không phải chịu sự uy hiếp của bầy sói.
Trong lều có đầy đủ trang
bị và dược phẩm, tình trạng trầm trọng của A Hương giờ đã ổn, cô bé nằm sấp
trên lưng bò Yak thở bình oxy hai ngày, tạm thời có thể coi như không còn nguy
hiểm. Shirley Dương bảo sẽ đưa cả A Hương sang Mỹ, để sau này Minh Thúc khỏi
bán cô bé đi, ở Mỹ có thể phẫu thuật mắt, để cô bé về sau có thể sống cuộc sống
của người bình thường.
Chúng tôi dỡ lều, cưỡi bò
Yak lên đường, cuối cùng cũng ra khỏi dải núi lởm chởm cao ngút của dãy
Kelamer, trở về đồng cỏ hoang lạnh. Người dân du mục thấy đoàn chúng tôi trở
về, liền làm bánh nếp, đun trà bơ, lát sau đã lục tục dọn cơm cho mọi người
dùng bữa. Tuy không thịnh soạn như bữa cơm lúc chưa vào núi, nhưng cũng đầy đủ
và ngon miệng. Chúng tôi ăn thịt dê xé phay trước, sau đó là món bánh bao vỏ
mỏng thịt nhiều kiểu Tây Tạng, món cơm trộn đường trắng và nho khô, sau cùng
mỗi người uống một bát sữa chua lớn.
Đã bao ngày nay chúng tôi
chưa được ăn bữa cơm nào ra hồn, nên ai nấy đều phồng mang trợn mắt ăn ngấu ăn
nghiến, cuối cùng no kềnh bụng ngồi xuống cũng khó, vậy mà vẫn luyến tiếc nhìn
dân du mục dọn cơm thừa canh cặn, xong xuôi còn hỏi người ta :" Sáng mai
mấy giờ dùng bữa ạ?". Đương nhiên, kẻ mở mồm ra hỏi những câu ấy chủ yếu
là tôi, Tuyền béo và cả Minh Thúc, Shirley Dương nào có thô tục như thế, A
Hương cũng chẳng ăn nhiều, chỉ uống hai bát sữa chua.
Đến tối, tôi kể cho Thiết
bổng Lạt ma những gì kinh qua trong chuyến đi vào núi lần này. Lạt ma nghe xong
cảm khái nói :" Cát tường đây mà! Các cuộc kỳ ngộ nhiều không đếm xuể, quả
thực là thành công rực rỡ. Đây không chỉ là số phận của các con, mà cũng là sự
phù hộ của đức Phật, thân này là thứ chứa đựng bể khổ, nó giống như kẻ thù địch
của ta, nếu có duyên, dùng thân này vào việc thiện, thời có thể tạo thành căn
cơ cát tường ..."
Thiết bổng Lạt ma không
hiểu gì về Mộc trần châu, thế là tôi lại kể qua loa cho thầy nghe. Thực ra ngọc
Mộc trần châu chính là Mật phượng hoàng, Mật tông Tây Tạng cũng có thuyết phong
thủy, giống như lý thuyết phong thủy ở Trung Nguyên, song cách dùng từ thì khác
xa, cũng giống như vùng núi Kelamer, Mật tông gọi nơi đó là thần cung Phượng
hoàng, là đất của chim Phượng hoàng; phong thủy Thanh Ô thì gọi là Long đỉnh,
xương sống của trời đất, là nơi âm dương hội tụ.
Sau khi Ma quốc diệt vong,
mật Phượng hoàng được đưa vào vùng Trung Nguyên, các vương công quý tộc biết
thuật bói toán thời nhà Chu đốt mai rùa xem bói, đoán được rằng đây là một món
thần khí tượng trưng cho sự trường sinh luân hồi, lại nói nó có nguồn gốc từ
vùng đất Phượng hoàng, song làm thế nào để sử dụng được một cách chính xác thì
không thể nào bói được ra manh mối, chỉ có một số ít người nắm được mười sáu
chữ quẻ Thiên mới thấy được sự kỳ bí ảo diệu bên trong. Đồ hình Thập lục tự đã
thất truyền từ lâu, chúng tôi cũng chỉ có thể dựa vào một số dự đoán để tưởng
tượng ra nội dung trong đó. Từ sau thời Tần Hán, một số người thuộc giai cấp có
đặc quyền đã lưu giữ long cốt dị văn chứa Phượng minh Kỳ Sơn, điều này có thể
xuất phát từ sự hướng vọng trường sinh bất tử và mong đến một ngày có thể phá
giải được bí mật trong đó.
Song mật Phượng hoàng kỳ
thực là món đồ tế của Ma quốc dùng để cúng Quỷ động, vị trí địa lý của Phượng
hoàng thần cung rất đặc biệt, bên trong có hai ao nước, nếu giải thích theo
thuật âm dương phong thủy thì chính là hai chấm tròn nhỏ màu đen - trắng trong
hình tròn Thái Cực, giữa hình tròn Thái Cực có một đường phân chia hai nửa đen
trắng, âm dương; hai bên đen trắng tượng trưng cho thể âm dương thống nhất,
trong bên trắng có một chấm tròn đen, và ngược lại, trong bên đen có một chấm
tròn trắng. Ao nước trong thần cung Phượng hoàng chính là tượng trưng cho hai
chấm tròn này, nếu dùng màu sắc tương phản che lên hai điểm này, khi ấy âm và
dương không còn dung hòa trong nhau nữa, mà bị chia tách ra rõ rệt.
Tôi cho lạt ma xem ký hiệu
con mắt sau lưng, nó đã chuyển từ màu đỏ sang màu đen, chứng tỏ thông đạo giữa
không gian hiện thực và không gian số ảo đã bị cắt đứt hoàn toàn, coi như đã
thoát được sự ràng buộc gây chết người của Quỷ động. Song khi chúng tôi rời
khỏi đàn tế, lại đúng lúc đuổi theo A Hương, quá vội vã cho nên quên lấy lại
mật Phượng hoàng, giờ quay lại đã là điều không thể, đây cũng là một điều vô
cùng đáng tiếc.
Thiết bổng Lạt ma nói, hóa
ra mật Phượng hoàng chính là viên Luân Hồi châu mà áng thơ Chế địch Bảo châu
Đại vương nhắc đến. Chế địch Bảo châu chính là viên Luân Hồi châu của vị vua
anh hùng, giống như bảo châu Ma ni có Phật pháp vô biên, có thể khắc chế được Ma
quốc. Trời vô biên vô tận, đất vô phép vô tắc, dư độc của Ma quốc đến nay còn
chưa tẩy sạch, chư pháp biến ảo, nhân thế vô thường, những gì các con đã làm có
thể coi là một thiện quả vô lượng vậy.
Lạt ma nói sau này ông còn
phải đi vòng quanh hồ để hoàn thành tâm nguyện, rồi lại hỏi tôi xem có dự định
gì. Tôi nói tôi đang tính có khi xuất ngoại, nói đến đây, lại nghĩ tới việc lạt
ma tuổi đã cao, tâm nguyện của ông là được chết trên đường đi vòng quanh hồ
chầu bái, đường lên Tây Tạng vạn dặm xa xôi, đời này e rằng chẳng còn cơ hội
gặp lại nhau nữa, nghĩ vậy tôi lại thấy hơi cay mắt.
Sáng sớm hôm sau, Shirley
Dương bàn với Thiết bổng Lạt ma, cô muốn quyên góp một ít tiền cho ngôi chùa
gần Kelamer để xây tượng Phật kim thân, cầu phúc cho những người đã khuất. Tôi
biết Shirley Dương tin Chúa chứ không tin Phật, cô làm vậy phần lớn là nghĩ cho
chúng tôi, bởi khi đổ đấu tôi và Tuyền béo đều đã phá hoại rất nhiều môn quy,
nếu không phải vì mệnh lớn, chắc đã chết ngỏm từ lâu rồi, vậy nên lấy làm cảm
kích vô cùng.
Thiết bổng Lạt ma đưa chúng
tôi vào trong một ngôi chùa gần đó. Chùa này rất nhỏ, chỉ một lối vào ra, xung
quanh chất một số đống đá khắc kinh, tên là Bạch La Mạn Già, cũng có liên quan
đến truyền thuyết của bản địa. Tiền điện thờ tượng Kim cang Bất động của đức
Phật hồi tám tuổi, hậu điện có những bức bích họa có từ thời Đường, trước kia
nơi đây cũng từng một thời vàng son. Trong bích họa có vẽ cung điện của Long
vương, tẩm cung của ma nữ La Sát, mật đạo của rồng ma, sơn cốc nơi quỷ dữ náu
mình ... Tất cả đều là yêu ma quỷ quái bị Kim cang Bất động trấn phục, hai bên
điện đều có tượng thần tầm hương, phụ trách việc dùng âm nhạc kỳ diệu phát ra
từ đàn tỳ bà để cúng dường thần thánh.
Theo những gì người bản địa
kể lại thì vì nơi đây hẻo lánh, thưa người, cho nên hương hỏa trong chùa này
mới nguội lạnh, trăm ngàn năm trôi qua trong chớp mắt, quy mô hiện giờ chỉ còn
lại một phần ba so với thời xưa, mà cũng đã cũ nát hết rồi. Rất lâu về trước,
vốn dĩ nơi đây có ba gian Phật điện, còn thờ cúng cả Kim cang Thời luân và Kim
cang Thắng lạc nữa.
Shirley Dương xem xét xong
lập tức quyết định quyên góp một khoản tiền để dựng lại ngôi chùa Kim cang trên
Kelamer trở về dáng mạo năm xưa. Thiết bổng Lạt ma bảo Shirley Dương chắc chắn
là Lamo ( tiên nữ) trên cao nguyên tuyết hạ phàm, công đức xây dựng chùa chiền,
sau này ắt có phúc báo. Trong kinh Phật nói người có phúc đẳng đệ nhất trên thế
gian, thảy có bốn loại phúc báo, loại thứ nhất là đại phú, vàng bạc châu báu,
của cải điền sản nhiều vô kể; loại thứ hai dáng mạo trang nghiêm đoan chính,
thảy có ba mươi hai tướng ...
Tôi nghĩ bụng thôi chẳng
cần cái phúc báo ba mươi hai tướng làm gì, nếu mọc ra ba mươi hai khuôn mặt
thật, cho dù một ngày thay đổi một bộ mặt, hơn cả tháng cũng chẳng mặt nào
trùng lặp, đến người quen còn chẳng nhận ra ấy chứ. Nhưng e rằng đây chỉ là một
sự ví von, Phật đường là chốn trang nghiêm, tuy tôi không coi trọng bất kỳ thứ
gì, nhưng cũng không dám tùy tiện hỏi thất lễ như vậy.
Trước khi ra về, Minh Thúc
lại đòi ở lại chùa làm lạt ma, tôi và Tuyền béo không cho lão phân bua, cứ xách
nách lôi về. Tôi đột nhiên có một dự cảm không mấy tốt lành, bèn hỏi lão
:" Các món đồ cổ trong căn nhà ở Bắc Kinh của bác, chắc không phải toàn là
đồ rởm chứ? Bằng không sao bác cứ định chạy làng thế nhỉ? Tôi nói cho bác biết
Hồng Kông sớm muộn gì cũng sáp nhập về với Tổ quốc, bác quên cái mùa xuân ấy
đi, coi như bác ôm quả bom nổ chậm rồi, chạy đi đâu cũng không thoát đâu!".
Lão nói :" Có lẫn
không thế hả chú, anh đây làm ăn buôn bán xưa nay đều thật thà thẳng thắn,
không bao giờ có cái chuyện chơi hàng lởm đâu, bằng không sao ai cũng gọi anh
một cách kính cẩn là Minh Thúc cơ chứ? Minh tức là minh bạch rõ ràng, làm gì có
chuyện khuất tất, không dám nhìn mặt ai? Vừa nãy là anh đột nhiên nhìn thấu cõi
hồng trần, nên mới muốn xuất gia, quyết không phải muốn chạy làng tránh nợ
đâu!".
Tôi và Tuyền béo lập tức
nói cho lão biết, nhìn thấu cõi hồng trần thì quá tốt, vụ làm ăn này bác lỗ
chổng vó lên rồi, vốn dĩ chúng tôi cũng không nỡ tịch thu hết đồ của bác, song
nếu bác đã nhìn thấu cõi hồng trần, quyết tâm nhảy ra ngoài tam giới, không
dính gót trong cõi ngũ hành, thì những món đồ ngoài thân kia, đương nhiên cũng
chẳng dính dáng gì đến bác nữa, chúng tôi không cần phải đắn đo, dằn lòng làm
gì nữa, vừa khép giúp bác xử lý sạch sẽ, giúp bác sớm thành chính quả. Nói đoạn
mặc kệ nét mặt khổ sở không nói được lời nào của lão, cứ thế vừa xách vừa xốc,
lôi lão quay về.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét