Chương 34: Xoáy
nước đen
C húng tôi nhìn xoáy không chớp mắt vào bộ áo đang treo cao, cái đầu
người trên đó bỗng lặng lẽ xoay lại phía chúng tôi rồi bật cười nham hiểm. Tôi
và Shirley Dương tuy kinh hãi nhưng cũng không đến nỗi luống cuống tay chân.
Nghe nói quỷ dữ không biết
rẽ ngang đi vòng, các nhà giàu thường xây bình phong để chắn hung thần quỷ dữ
là thế. Trong gian hậu điện toàn đá và bích họa, cùng lắm là quần nhau với mụ
ta vài vòng, dù sao giờ cũng đang ban ngày ban mặt, chúng tôi cũng không lo hết
đường tháo chạy. Nghĩ đến đây, tôi bèn lấy cái móng lừa đen ra, gọi to :"
Hôm nay ông Nhất mời mày ăn chân giò quay, nhìn đây!". Dứt lời, tôi liền
lia luôn vào cái đầu trong bóng tối.
Cái móng lừa đen chuyên trị
quỷ nhập tràng và ác ma bay lên kèm theo một làn gió mạnh. Tôi vừa dùng sức nên
cái đèn pin mắt sói trong tay kia cũng khó giữ nổi ổn định, cột ánh sáng đung
đưa văng đi, vòm mái hậu điện lập tức tối om. Chỉ nghe thấy tiếng
"phịch", một vật rất to rơi xuống đúng vào đỉnh bức tường bích họa bên
cạnh tấm bia tôi và Shirley Dương đang ngồi.
Tôi vội chiếu đèn sang nhìn
xem là thứ quỷ dữ gì, hóa ra nó là một con quái nửa sâu nửa người đang nằm trên
vách tường dẩu môi về phía chúng tôi. Con quái vật nửa sâu nửa người to gấp đôi
lúc mới rời cơ thể mẹ. Vừa rồi lũ chúng bị thuốc trừ sâu ở cung Lăng Vân và
trên sạn đạo đẩy lui về hang hồ lô, nhưng có lẽ mấy tuyến chặn sâu bọ trong
quần thể kiến trúc mộ Hiến vương chủ yếu nhằm chặn chuột, mối, kiến, lại trải
qua thời gian quá lâu, nên khi lũ quái vật to xác này đã thích ứng thì thuốc
không còn mấy tác dụng nữa.
Chẳng biết con quái trùng
này lủi vào điện từ lúc nào, vừa khéo bị dính đòn của cái móng lừa đen đánh quỷ
tôi lia ra, nên rớt ngay xuống bờ tường.
Cái móng lừa đen tôi luôn
mang bên mình này là nhờ Yến Tử kiếm cho ở Nội Mông, mang bên người đã hơn một
năm, chẳng khác viên bi sắt là mấy, ném bừa ném bậy thế nào táng trúng mắt trái
con quái thai khiến mắt nó lõm hẳn xuống, chảy ra khá nhiều chất nước màu lục,
làm nó đau đớn kêu loạn cả lên.
Tôi và Shirley Dương chiếu
đèn pin lên con quái vật trên bờ tường, ngẫu nhiên lại phát hiện thấy trên đỉnh
điện còn có một bộ trang phục nữa, kiểu dáng cũng rất cổ quái. Có lẽ đó là bộ
áo giáp da của người man di miền Tây Nam, gồm cả áo lẫn mũ, bên trong không có
xác, phía trên lại không có đầu, gắn trên đó là cái mũ bằng sừng bò, không thấy
trong mũ có đầu người hay không.
Vậy là trong hậu điện này
không chỉ có bộ áo phù thủy màu đỏ, chẳng rõ chủ nhân của những bộ trang phục
này là người như thế nào, có lẽ họ đã bị Hiến vương giết để tế trời.
Nhưng không để chúng tôi
nghĩ ngợi cho rõ nguồn cơn sự việc, con quái vật một mắt kia đã nhảy vọt sang
chỗ chúng tôi ngồi. Shirley Dương chĩa khẩu súng ngắn kiểu 64 bắn liền ba phát,
khiến nó rớt ngay xuống đất. Tuyền béo chạy đến bồi thêm vài phát nữa.
Tuyền béo ngẩng lên gọi
chúng tôi :" Còn nhiều lắm đang chạy vào đây đấy! Mẹ kiếp, chúng định xơi
tái bọn ta rồi ...". Nói đoạn cậu ta lại tiếp tục bóp cò. Cung điện tối om
bỗng lập lòe những tia lửa đạn bay khắp nơi.
Shirley Dương nói :"
Tại sao chúng đuổi bám ta vào tận đây được, chẳng lẽ chúng biết đánh hơi như
chó sao? Bọn này lớn nhanh như thế, chắc chắn có liên quan đến môi trường đặc
biệt trong hang hồ lô, cho nên nếu rời sào huyệt chúng không thể sống được lâu
đâu".
Tôi vội xuống khỏi tấm bia
để lấy súng máy, bèn vừa tụt xuống vừa nói với Tuyền béo và Shirley Dương
:" Nhân lúc chúng vào chưa nhiều ta tiêu diệt sạch luôn, rồi đóng chặt cửa
ở ngoài hành lang hậu điện lại. Trong môi trường có hàm lượng oxy bình thường
bọn côn trùng to xác này không thể sống lâu đâu. Chúng ta chỉ cần cầm cự một
thời gian là ổn!"
Có đến vài chục con quái
thai đã lặng lẽ bò vào hậu điện, tuy chưa phải là nhiều nhưng vẫn khó mà diệt
sạch ngay một lúc được. Chúng tôi đành lợi dụng đám bia đá và bích họa rải rác
trong gian điện để quần thảo với chúng.
Tôi và Tuyền béo quay lưng
vào nhau cùng bắn tỉa lũ quái thai xông đến. Tuyền béo đang hết sức bận rộn đối
phó với kẻ đich vẫn quay sang nói với tôi :" Tư lệnh Nhất! Đạn của chúng
ta không nhiều đâu, bắn dè sẻn thôi".
Nghe Tuyền béo nói đạn
không còn nhiều nữa, tôi đâm ra hơi cuống, khẩu "máy chữ Chicago"
đang tỉa lia lịa thành ra không chuẩn xác nữa, một con quái thai vừa bị ăn ba
phát đạn trúng lưng, đột nhiên chạy nhào vào góc chết sau bức tường bích họa,
mấy phát súng bắn với theo của tôi toàn trúng vào tường, bụi bắn tung tóe.
Tôi thầm nhủ giết được một
con là bớt được một con, bèn truy kích không tha, chạy sang phía lưng bức tường
bích họa. Thấy con quái vật bị trọng thương ấy đang ngồi trên nắp cái đỉnh đồng
đen nhìn chằm chằm vào tôi gầm ghè, cái mồm bốn môi há to gào rú cho dịu cơn
đau bị ăn đạn tan xương nát thịt.
Con quái thai thấy tôi đuổi
đến nơi, liền như hóa điên, hai chân nhún thật mạnh đạp vào cái nắp đỉnh rồi
nhào sang phía tôi. Sức mạnh của nó thật ghê gớm, cú nhún đạp bật cái nắp đỉnh
bay ra phía sau, sau lưng tôi là bức tường bích họa chẳng thể tránh đi đâu
được, đồng thời tôi cũng biết cú vồ đó cực kỳ hung hiểm, vì con quái vật này đã
dồn tất cả sức lực còn lại vào cái mồm, chuẩn bị liều chết với tôi.
Đã thế tôi càng không né
tránh, giương súng định kết liễu nó ngay trên không trung, nào ngờ vừa bóp cò
thì súng bị hóc đạn. Đúng là ghét của nào trời trao của ấy, súng Mỹ tuy lợi hại
thật nhưng đây là đồ cũ tồn kho, dùng cho đến giờ mới bị hóc đã là quá tốt rồi.
Tôi định quay báng súng nện vào con quái vật đang lao đến, nhưng nó lao quá
nhanh quá mạnh, mùi tanh thối xộc vào mũi, cái mồm quái dị đầy gai răng đã áp
sát mặt tôi.
Tôi đành đưa ngang khẩu
M1A1 chặn vào cổ nó, nào ngờ sức mạnh ghê gớm của nó không hề giảm sút, xô tôi
ngã ngửa xuống nền đất. Tôi liền nhân đà đó đạp một cú vào bụng con quái vật
đang lao đến, khiến nó bật lùi lại phía sau, đập đầu vào bức tường bích họa,
máu đen bắn tung tóe trên mặt tường trắng.
Thấy con quái vật chưa chết
hẳn, tôi định bước đến nện báng súng cho bẹp nát đầu nó bỗng thấy phía sau lưng
có tiếng kim loại kêu lốc cốc như tiếng một cái bánh xe to đang lăn về phía
mình.
Nghĩ bụng xe lửa khốn kiếp
ở đâu ra thế, không dám chủ quan, tôi vội lăn sang một bên né tránh, cái nắp
đỉnh màu đen lăn qua sát ngay lưng tôi. Con quái thai vừa rơi trên tường bích
họa xuống đang lóp ngóp bò dậy bị cạnh của cái nắp đỉnh lăn trúng, kèm theo một
tiếng "bục" nặng nề như quả dưa hấu bị rơi từ trên lầu xuống đất, bức
tường bích họa bị một đám máu đen bắn lên nhòe nhoẹt. Con quái vật đã bị nắp
đỉnh nghiền nát như bùn, cái đầu cũng thế, không phân biệt nổi đâu là đầu đâu
là tường nữa, nó chỉ còn lại hai chi trước vẫn giơ lên không ngừng giật cục.
Tục ngữ có câu " gậy
ông đập lưng ông", con quái vật này chắc hẳn kiếp trước không chịu làm
việc thiện, nay chỉ cốt nhào đến cắn tôi, rồi lại bị chính cái nắp đỉnh mà nó
đạp văng xuống nghiền nát đầu.
Tiếng súng trong điện vẫn
vang lên không ngớt, Tuyền béo và Shirley Dương đã giải quyết xong hơn chục con
quái thai to nhất, đang tiêu diệt nốt mấy con còn lại. Tôi thấy chỗ mình đã tạm
an toàn, liền thở phào, nhân đấy rút luôn ổ đạn, lấy viên bị hóc ra, vì nó mà
tôi suýt nữa bỏ mạng.
Kế đó, tôi định sang hỗ trợ
Tuyền béo và Shirley Dương, song vừa đứng thẳng dậy tôi liền nhìn thấy một cảnh
tượng khó hình dung nổi. Trong cái đỉnh đen sáu chân bị văng mất nắp kia có một
đám trăng trắng bùng nhùng, tất cả đều là thi thể lõa lồ, có thể nhận ra đủ mọi
lứa tuổi già trẻ gái trai, ít nhất phải có mười bảy mười tám thi thể.
Đám xác chết này chồng chất
trong một thứ mỡ đông đặc màu trắng, trong suốt như thịt bì nấu đông, thành thử
trông rất giống người bị chế thành thây sáp, vết máu trên thi thể hãy còn đỏ
thắm. Tôi thầm nghĩ :" Có lẽ Shirley Dương nói đúng rồi, quả nhiên là để
nấu xác người tế trời. Có lẽ những cái xác này vốn là chủ nhân của các bộ quần
áo cổ quái treo trên vòm mái. Rất có thể họ là những người có địa vị tring đám
dân man di bị Hiến vương bắt làm tù binh, không chừng là thân quyến của man di
vương".
Ngay từ thời nhà Hạ, Thương
đã có những ghi chép về chuyện dùng đỉnh nấu người để tế trời đất thần linh,
chẳng những vậy người bị nấu đều không phải nô lệ bình thường, nếu không sẽ bị
coi là bất kính với thần linh. Xem ra, quả nhiên trước khi kịp tổ chức nghi
thức cưỡi rồng bay lên trời thì Hiến vương đã chết, cho nên "cái nồi
lớn" này vẫn chưa được dùng đến.
Tôi lại thầm nghĩ liệu
tiếng cười ghê rợn của quỷ dữ ở góc điện lúc nãy có phải là muốn ngăn cản chúng
tôi mở nắp đỉnh ra hay không? Lẽ nào trong cái đỉnh này có thứ gì đó mờ ám?
Toàn là xác chết lõa lồ ngâm trong mỡ gân bò và máu tươi, nghĩ đến đã thấy lợm
giọng, bố ai thèm xem làm gì!
Tử trạng của những cái xác
dân man di này rất quái đản, tôi không muốn nhìn thêm nữa, định xoay người bước
đi, nhưng chưa kịp cất bước bỗng thấy một luồng hơi nóng bỏng bốc ra từ cái
đỉnh đen ấy. Sáu chân đỉnh là sáu con thú trông như sáu con hỏa kỳ lân, từng
cặp đối xứng nhau, mặt hướng về tâm, cả sáu cái mồm đang phì phì phun lửa. Bề
mặt thân đỉnh đen cũng lập tức bốc cháy dữ dội, xác chết nằm trong đỉnh bị lửa
và dầu sôi đun nóng, bắt đầu tan nhanh, không khí trong điện cực kỳ tởm lợm.
Trong phút chốc, cái đỉnh
đen sáu chân biến thành một quả cầu lửa khổng lồ, ngọn lửa ngùn ngụt chiếu sáng
khắp gian điện. Chúng tôi nhìn rõ hơn chục bộ trang phục kỳ dị treo trên vòm
mái, không bộ nào giống bộ nào, hơn nữa những trang phục cổ xưa này không có vẻ
gì là chuẩn bị cho người sống mặc cả.
Tôi chẳng thiết nhìn kỹ làm
gì nữa, vội gọi Tuyền béo và Shirley Dương mau rời khỏi đây. Trong đỉnh đồng
rất có thể có chất kali nitrat, chỉ cần bật nắp ra là lập tức bùng cháy, vốn
được chuẩn bị để đốt khi Hiến vương làm lễ tế trời trên khuyết đài, bây giờ lại
bị cháy trong điện này. Vật liệu chủ yếu của cung Lăng Vân là gỗ nam mộc và
gạch ngói, vì được dùng xây cất bên trên long huân rất khô ráo nên chỉ trong
thời gian rất ngắn, đã bị nung nóng nứt ra kêu toang toác, thiên cung này sắp
biến thành hỏa cung đến nơi rồi.
Trong điện vẫn còn sót bốn
năm con quái vật, Tuyền béo và Shirley Dương đang chiến đấu với chúng quanh các
tấm bia ở góc điện, ngọn lửa bùng cháy bất ngờ, cả hai đều kinh sợ tái mặt bèn
vội chạy theo tôi, xông ra phía hành lang ngắn trước cửa điện, nếu chỉ chậm trễ
một lát chỉ e đã bị nướng thui rồi.
Nhưng nào ngờ chưa kịp ra
khỏi điện, mái che hành lang ngắn ấy bất ngờ sập xuống rầm rầm, bịt chặt lối
đi. Lúc này chẳng rõ nên lấy làm may hay nên oán thán nữa? Nếu chúng tôi chạy
nhanh hơn mấy bước chắc hẳn đã bị hàng vạn tấn đá đè cho xương thịt nát bét.
Nhưng lúc này lửa đang lan đến, hết đường thoát thân, chỉ lát nữa thôi cả bọn
cũng sẽ chết cháy ở đây.
Nếu dùng các thứ chúng tôi
hiện có để mong dập lửa e chỉ là ảo tưởng. Làn hơi nóng bỏng trong điện táp vào
mặt, cảm giác như lông mi lông mày sắp bị lửa đốt đến nơi. Tuyền béo cuống
cuồng xoay người bốn phía. Tôi ngăn Tuyền béo lại, rồi nói với cậu ta và
Shirley Dương :" Đừng hoảng! Mở bi đông rót nước lên đầu cho ướt tóc đi!"
Tuyền béo nói :" Thế
khác nào giữ đầu mà bỏ đít? Vả lại chỉ có tí nước thì ăn thua gì ... lại cái gì
nữa thế?"
Tuyền béo đang nói dở thì
đột nhiên phía trong tường điện "rầm" một tiếng inh tai, chúng tôi
vội quay đầu lại, nhìn thấy trên tường đã thủng một lỗ to, con rồng thủy ngân
đầu nghển lên trong bức vẽ Hiến vương thăng thiên trên bức tường ở chính điện
không ngờ đã chui qua bức tường ngăn của hậu điện.
Cái đầu rồng thò vào hậu
điện đang ồng ộc phun ra rất nhiều thủy ngân, dưới nền nhà lập tức có vô số hạt
thủy ngân to nhỏ đủ cỡ đang lăn tròn. Tôi cuống quýt cứ như lửa đang bốc lên
tận nóc, vội nói với Tuyền béo và Shirley Dương :" Không thể ra phía cửa
điện được, trên mái điện là xà dọc xà ngang bằng gỗ nam mộc và ngói lưu ly,
chúng ta hãy trèo lên bia đá rồi phá mái nhà mà thoát ra".
Tuyền béo cũng quên béng
chứng sợ độ cao của mình, liền chỉ tay vào tấm bia ở góc tường :" Tấm bia
kia cao nhất, ta trèo lên vai nhau nhảy lên đó, mau lên mau lên, kẻo muộn khắp
người sẽ lốm đốm thủy ngân mất thôi!". Tôi và Shirley Dương không dám nán
lại, vội nhón chân tránh thủy ngân dưới đất chạy đến tấm bia cao to ở góc nhà,
công kênh giúp nhau trèo lên.
Phía trên tấm bia này là bộ
áo phù thủy màu đỏ nửa trên có cái đầu phụ nữ trát đầy son phấn, nửa dưới trống
không, chỉ nơi này là có thể với lên xà gồ trên nóc điện.
Tôi hơi có chút do dự, tuy
chưa nhìn rõ tại sao mụ ấy lại cười được, cũng chẳng rõ đó là xác chết hay là
ma, nhưng vẫn cho rằng cái xác phụ nữ bê bết phấn son này chẳng phải là thứ hay
hớm gì.
Đang nghĩ vậy tôi chợt thấy
từ ba bức tường bích họa khác ló ra ba cái đầu thú, cũng đều có cơ quan để phun
thủy ngân ra. Mặt nền của đại điện lập tức bị thủy ngân phủ khắp. Giờ thì dẫu
trên vòm mái có quỷ dữ thật cũng mặc, tôi đành đưa tay ra để Tuyền béo kéo lên
đỉnh tấm bia.
Lúc này Shirley Dương đã
dùng mỏ vuốt hổ ngoắc lên thượng lương của mái nhà, đu lên xà ngang bằng gỗ nam
mộc rồi dòng dây thừng ròng rọc xuống. Lớp thủy ngân trên sàn điện đã rất dày,
tôi và Shirley Dương dùng ròng rọc rút Tuyền béo đưa lên. Tôi lên sau cùng.
Cúi nhìn xuống dưới kia
thấy thủy ngân sóng sánh đã dâng cao đến già nửa mét, và đang nhanh chóng dâng
lên nữa, đám lửa cháy ở cái đỉnh sáu chân đã dịu đi phần nào. Ánh sáng chiếu
vào thủy ngân hắt lên vô số gợn sóng rung rinh khiến điện đường hết sức diễm lệ
trong ánh sáng lại càng trở nên quái dị bội phần.
Vì lửa cháy quá dữ nên
không khí trong điện loãng đi, mấy con quái thai còn sót trong điện đều nhoài
ra trên nền mà quẫy đạp, thủy ngân ngập kín một nửa thân, đang giãy giụa khổ
sở. Chúng tôi khỏi cần ra tay vì chúng cũng chẳng còn sống được mấy chốc nữa.
Thủy ngân bị lửa nhiệt độ
cao đốt nóng, bốc lên một mùi khé mũi, cực kỳ khó chịu, ngửi nhiều có thể trúng
độc, nhưng cũng không đến nỗi mất mạng ngay. Thấy Tuyền béo lên được xà ngang
rồi, tôi cũng không dám chậm trễ, vội buộc ngay dây thừng leo núi chuyên dụng,
lắp ròng rọc rồi rút người lên.
Lên đến nơi tôi mới nghĩ
đến bộ áo dài phù thủy đang treo trên nóc, ngoảnh nhìn sang từ phía cây xà gồ
chính, chiếc áo phù thủy màu đỏ thùng thình lặng lẽ treo dưới một cây xà ngang
cách tôi không đầy một mét, ánh sáng nhộn nhạo hắt vào, trông bộ áo ấy như có
sự sống, đung đưa khe khẽ.
Shirley Dương nói nó rất
giống kiểu vu y mà mụ thầy mo người man di mặc. Mặc dù trước đây chưa từng thấy
thứ như thế bao giờ, nhưng tôi biết hễ có liên quan đến hoạt động cúng tế của
Hiến vương thì nhất định phải có trang sức hình con mắt, mà trên tấm áo dài đỏ
này lại không thấy, còn nếu đây là vu y, thì chắc chắn thuộc về một nhân vật
quan trọng nào đó trong đám dân man di bị Hiến vương đồ sát.
Lúc này cả ba chúng tôi đều
đã ở trên cây xà lớn cao nhất trên đỉnh mái điện, bên dưới kia thủy ngân không
ngớt dâng lên, gỗ trong đại điện vừa bị lửa thiêu cho một chập, giờ lửa đã tắt
nhưng chúng vẫn nở ra vì nóng, phát ra những tiếng nứt tanh tách. Ngồi trên cây
cầu độc mộc có thê bị gãy bất cứ lúc nào này, ba chúng tôi đều không hẹn mà
cùng nghĩ đến một điều: trên bộ vu y kia chẳng phải có cái đầu người sao?
Khi nãy chiến đấu với bọn
quái thai hung dữ, lại chỉ chú ý tránh thủy ngân và lửa, từng phút từng giây đều
hiểm nguy đến tính mạng, chúng tôi đã tạm quên tiếng cười nham hiểm ghê rợn
phát ra từ cái đầu phụ nữ này, bây giờ mới nghĩ lại. Lửa trong điện đã tắt
ngúm, khu vực giữa các xà gỗ trên nóc điện tối đen như mực, những bộ quần áo cổ
quái treo phất phơ lơ lửng, bật đèn gắn trên mũ lên, chỉ thấy chập chờn mờ ảo
chẳng khác gì các u linh ngàn năm đi đòi mạng đang quanh quẩn trên vòm mái.
Gần nhất là bộ vu y phụ nữ
đỏ thắm như máu, nhìn khuôn hình trong bóng tối thấy nửa thân trên đúng là có
thứ gì đó nhưng phần đầu bị một thanh xà che khuất nên nhìn không rõ.
Tôi vẫy tay ra hiệu với
Tuyền béo và Shirley Dương ở phía sau, bảo đừng hành động gì. Thủy ngân bên
dưới chưa thể dâng đầy cả hậu điện trong chốc lát, tôi lần đi trên thanh xà đến
gần để xem xem có phải bên trong bộ vu y có quỷ dữ mụ mo của dân man di không.
Mụ mo tức nữ phù thủy có
thể dùng cách uống thuốc để rơi vào trạng thái ảo giác, giao lưu với thần linh.
Tuy gọi là "mụ" nhưng không nhất thiết phải là phụ nữ có tuổi, mà
cũng có thể là cô gái trẻ. Những phù thủy này có địa vị rất cao trong cộng đồng
dân man di, mượn danh nghĩa thần linh, có toàn quyền phát ngôn, muốn nói gì thì
nói.
Tôi bảo Tuyền béo đưa cho
chiếc cuốc chim, thoáng nhìn lớp thủy ngân, rồi nín hơi, bò trên xà ngang đến
gần bộ áo. Đó là một cái đầu phụ nữ bê bết máu me, mặt bị tóc che kín, ở giữa
chỉ hở ra một kẽ nhỏ. Cái đầu gục xuống bất động
Tôi không thể hiểu nổi
tiếng cười nham hiểm đáng sợ lúc nãy đã phát ra như thế nào, là quỷ nhập tràng
hay là quỷ dữ? Nghe nói quỷ nhập tràng khi bị lửa đốt cũng phát ra tiếng rên bi
ai như tiếng cú mèo kêu, nhưng lúc nãy chúng tôi lại nghe thấy tiếng cười, một
thứ tiếng cười rin rít ghê lạnh và nham hiểm. Mẹ kiếp, phải nhìn thật rõ mới
được! Nếu là có ma, thì nhân thể phá thủng mái ngói lưu ly cho ánh mặt trời
chiếu vào tiêu diệt hồn phách của nó luôn. Còn nếu không thể tra rõ là gì, tốt
nhất cứ gí bật lửa đốt luôn bộ áo quái dị này để trừ hậu họa.
Lúc này trong điện tối om
nhưng ngoài kia vẫn đang là ban ngày. Nghĩ đến đây tôi thấy có thêm can đảm, bèn
nhích lại gần thêm nửa mét nữa. Ở chỗ này có thể nhìn thấy khuôn mặt của mụ đàn
bà mặc áo phù thủy. Da mặt mụ ta trắng bệch đáng sợ, không phải màu trắng vì
hết máu của mặt người chết, mà là do phết một lớp phấn trang điểm rất dày, hai
má bôi son đỏ hồng, đôi môi đỏ mím chặt lại.
Nhưng tôi vẫn chưa nhìn
thấy đôi mắt mụ ta. Khi định cầm cuốc chim ngoắc cái đầu lên để nhìn cho rõ,
chợt nghe thi thể đó bỗng phát ra một tràng cười âm hiểm " hi hi hi ... he
he he ... khè khè khè khè ...". Trong bóng tối im lặng như tờ, tiếng cười
ấy khiến máu người ta sắp đóng băng đến nơi!
Tuy đã có chuẩn bị tâm lý
nhưng tôi vẫn giật nảy mình vội lùi ngay lại phía sau, chẳng ngờ bị mất thăng
bằng, thân mình chao đi, ngã nhào khỏi cây xà gồ chính, may sao đã có dây bảo
hiểm nên không đến nỗi chạm người xuống thủy ngân dưới nền điện.
Vào cái khoảnh khắc bị rớt
xuống ấy, thấy ánh đèn chiếu loang loáng trên thủy ngân, tôi bỗng nảy ra một ý
nghĩ. Trong hậu điện của cung Lăng Vân có rất nhiều chỗ kỳ quái, nhất là cơ
quan phun thủy ngân đột nhiên xuất hiện kia, tuy lối ra đã bị bịt kín nhưng mái
vòm này dù không cần đặt thuốc nổ để phá, người ta vẫn dễ dàng dỡ mái để thoát
thân. Thế thì chốt lẫy phun thủy ngân có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ nó không dùng để
đối phó với kẻ xâm nhập, liệu có phải lượng lớn thủy ngân ấy dùng để chôn vùi
một bí mật nào đó cất giấu trong hậu điện này?
Chương 35: Cung
Lăng Vân,Điện Hội Tiên
Đ ứng bên dưới tòa điện tráng lệ như cung điện nhà trời ấy, cảm thấy
bản thân mình sao mà quá bé nhỏ. Cung điện là loại kiến trúc đặc thù ngưng kết
tất cả các phong cách cổ điển cùng toàn bộ tinh túy của kỹ thuật kiến trúc
Trung Quốc., trực tiếp phản ánh quan niệm về chính trị và luân lý của các bậc
đế vương. Ngay từ thời nhà Hạ đã có những khuôn mẫu của cung điện, rồi phát
triển cực thịnh vào thời Tùy - Đường. Các thời đại tiếp theo như Minh - Thanh
cũng không thể vươn xa hơn, chẳng qua chỉ tinh xảo tỉ mỉ hơn về mặt chi tiết mà
thôi.
Nước Điền cổ đại tuy ở miền
Tây Nam hoang vu khuất nẻo, là một nước lạc hậu, nhưng vốn là một phần của nước
Tần. Trước thời Hán Vũ đế, vương quyền luôn nằm trong tay người Tần. Khu mộ
Hiến Vương này đương nhiên không nằm ngoài khuôn khổ chung của quy tắc kiến
trúc Tần - Hán, hình thức và bố cục đều theo kiểu Tần, nhưng việc sử dụng vật
liệu kiến trúc lại hấp thụ vô số kinh nghiệm tiên tiến của thời nhà Hán.
Bên dưới chính điện là bậc
thang ngọc gồm chín mươi chín bậc, ứng với chín mươi chín vì tinh tú, vì lí do
địa hình nên bậc ngọc tuy khá rộng nhưng lại rất dốc, đoạn dưới cùng vừa khéo
trải vào vùng ánh sáng của những dải cầu vồng rồi cứ thế lên cao dần, dẫn thẳng
đến cửa điện. Đại điện do một trăm sáu mươi cây cột gỗ nam mộc chống đỡ, khắp
chốn là tầng tầng lớp lớp trụ dọc xà ngang vàng son đủ màu, bên trên là gạch
Tần ngói Hán, cực kì xa hoa. Tất cả đều khớp với lời miêu tả trong trấn lăng
phả, ở cái chốn cao vút hiểm trở, vách đá đan xen từng lớp này, các tầng cung
điện đều đóng nêm bám sát vào vách đá dựng đứng, rồi dần dâng cao, nằm giữa
khói mây hư ảo, trông như lúc nào cũng chực rơi xuống dưới. Ba chúng tôi nhìn
mà mắt hoa lòng sợ. Đi theo sạn đạo bậc đá hõm vào vách núi bước lên thềm ngọc,
phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy nhô cao trên đỉnh núi là những nóc vàng phủ trên
lầu gác, bên những cổ đạo chênh vênh trên vách đá là những thác nước buông rèm,
quanh hồ nước toàn những cây cổ thụ cùng dây leo kì dị giăng khắp, bốn bề bên
dưới ngập ánh cầu vồng rực rỡ lung linh, từ thung lũng xa xa vẳng lại tiếng
chim hót, quả thật là một cảnh tượng thoát tục cách biệt trần thế. Nếu trước đó
chưa thấy những sự vật rùng rợn ẩn sâu trong thung lũng, có khi chúng tôi còn
cho rằng đây đúng là một nơi tiên cảnh cũng nên.
Nhưng giờ thì mặc cho cảnh
tượng cung trời điện ngọc này thần kỳ tới nhường nào, cảm giác trước tiên vẫn
là bên trong nơi đây đang toát ra một luồng tà khí, cho dù có được điểm tô ra
sao, xa hoa thế nào, nó vẫn là một tòa cung điện dành cho người chết, một ngôi
mộ lớn. Mà để xây cất nên ngôi mộ này, đã có không biết bao nhiêu người phải bỏ
mạng. Xưa vẫn có câu rằng: "Muôn người khốn khổ đốn cây, để cho một kẻ đủ
đầy lên tiên".
Bậc thềm bạch ngọc treo
chơi vơi trên hồ nước thung sâu, vừa dốc vừa trơn, có thể là do lệch trọng tâm,
cả tòa cung điện nghiêng ra phía hồ nước vài độ, trông có vẻ như bất cứ lúc nào
cũng có thể lật nhào xuống vực sâu dưới kia. Từ lúc trên sạn đạo, Tuyền béo đâm
sợ tái mặt, không dám ho he nửa lời, lúc này ở trên cao ngất, bước trên những
bậc đá bạch ngọc cực kì nguy hiểm, cậu ta lại càng hồn bất phụ thể, tôi và
Shirley Dương đàng phải dìu cậu ta chầm chậm đi lên, hai mắt cậu chàng nhắm tịt
híp cả lại.
Lên đến tận cùng bậc thang
ngọc, tôi bỗng nhận ra rằng không khí ở đây hoàn toàn khác với bên dưới. Bên
dưới long huân, ngập ngụa ẩm ướt, còn thiên cung nơi chúng tôi đang đứng lại
khô ráo thoáng mát lạ thường. Không ngờ chỉ ở hai chốn cao thấp khác nhau mà độ
ẩm lại chênh lệch nhiều như thế, có lẽ là vì long huân đã chặn giữ hết hơi nước
lại trong môi trường trong đục không tách biệt bên dưới, cho nên mới giúp quần
thể cung điện này bền vững cho đến tận ngày nay, trông vẫn như vừa xây cất
xong. Thật xứng danh là một tiên huyệt huyền diệu cao siêu bậc nhất, hình thế
thần tiên của long huân quả là khác hẳn chốn phàm trần.
Đoạn thềm ngọc này vốn rất
khó đi, chúng tôi lại phải dìu Tuyền béo thành thử bước đi càng khó khăn. Ba
chúng tôi vừa lết vừa bò, chật vật mãi mới lên được bậc thềm cao nhất. Tôi bảo
Shirley Dương đưa tôi chiếc ô Kim Cang, rồi bước đến trước cửa điện, cạnh cửa
có một tấm bia đá, bên dưới tấm bia là một con quái thú đang quỳ, thể hiện thế
cưỡi mây cõng bia, bia khắc mấy chữ đại tự, nét bút chằng chịt rối mù, tôi
chẳng đọc được chữ nào, chỉ biết đây có thể là chữ theo thể Cỏ Triện mà thôi.
Tôi đành bảo Shirley Dương
đến đọc. Cô nhìn một lượt, rồi chỉ tay vào từng chữ đọc luôn: Huyền chi hựu
huyền, chúng diệu chi môn, Lăng Vân thiên cung, Hội Tiên bảo điện." Thì ra
minh lâu của ngôi mộ cổ này có tên gọi hẳn hoi, gọi là "cung Lăng
Vân", còn gian điện gác đầu tiên thì gọi là "điện Hội Tiên".
Tôi không nhịn được bật
cười giễu cợt: "Lão Hiến Vương mê thành tiên đâm ra điên bố nó rồi, chắc
nghĩ xây cung điện trên vách núi cao chót vót là có thể mời được thần tiên
xuống giao lưu, cùng lão đánh cờ, gảy đàn, rồi truyền cho lão phép trường sinh
bất từ đây!"
Shirley Dương nói: "Có
vua chúa nào không ham sống lâu? Tuy nhiên kể từ sau thời Tần Thủy Hoàng và Hán
Vũ Đế, các bậc quân vương đời sau phần nhiều đều hiểu rằng đó chỉ là giấc mơ hư
ảo, sinh lão bệnh tử là quy luật của tự nhiên, dẫu là chân mệnh thiên tử cao
quý cũng khó bề đi ngược ý trời. Nhưng mặc dù hiểu ra điều này, họ vẫn hi vọng
sau khi chết được hưởng vinh hoa phú quý như lúc còn sống, cho nên mới coi
trọng việc sắp đặt lăng mộ như thế."
Tôi bảo Shirley Dương:
"Nhưng nếu bọn họ không phóng đãng xa xỉ vô độ hòng thực hiện tham vọng
thì trên đời này làm gì có Mô kim hiệu úy nữa?" Miệng vừa nói chân tôi đã
giơ lên đạp cánh cửa điện. Cửa chỉ khép hờ không khóa nhưng rất nặng nề, đạp
liền ba cái mới chỉ hé ra tí xíu, khó lách người qua được, bên trong tối om
không nhìn thấy gì hết.
Tuy nói rằng theo kinh
nghiệm trước đây, trong minh lâu hiếm khi có cơ quan hay ám khí gì, nhưng tôi
vẫn không muốn mạo hiểm vô ích, cánh cửa vừa hé tôi vội nép người sang một bên,
mở ô Kim Cang ra chắn, chờ một lát, không thấy trong điện có động tĩnh gì, tôi
mới đẩy cánh cửa mở ra rộng hơn.
Tôi gật đầu ra hiệu với
Tuyền béo và Shirley Dương rằng có thể tiến vào, ba chúng tôi cầm vũ khí và đèn
chiếu, cùng hợp sức đẩy cánh cửa mở hẳn ra. Tuy đang là ban ngày nhưng ánh sáng
chỉ chiếu được đến cửa, phía sâu bên trong cung điện thênh thang vẫn tối đen âm
u, đành rọi đèn pin dò đường vậy.
Vừa bước qua bậu cửa gỗ gụ
cao rộng, tôi đã thấy vài chục pho tượng cỡ lớn sắp thành hai hàng ngay sau cửa
vào, đầu tiên là hai tượng sư tử bằng đồng để trị tà, cao hơn đầu người, trông
rất uy vũ. Bên trái là con sư tử đực tì chân lên một quả cậu vàng, tượng trưng
cho quyền lực tối cao thống nhất vũ trụ, con bên phải là sư tử cái, chân tì lên
một con sư tử con, tượng trưng con cháu sinh sôi tiếp nối vô tận.
Sư tử đăt trên bệ đồng,
trên bệ khắc các hình phượng hoàng và mẫu đơn, cả ba hợp lại tượng trưng cho
"vua", vua của loài thú, vua của loài chim và vua của các loài hoa.
Người ta thường thấy sư tử
đá, còn sư tử đồng thì ít thấy chứ không phải là không có, cho nên cũng không
có gì quá bất thường, lạ ở chỗ đôi sư tử đồng này không bày ngoài cửa điện mà
lại đặt ở hai bên sau cửa, không rõ nguyên nhân gì nhưng vẫn rất khác thường.
Phía tiếp sau sư tử đồng
lần lượt xếp từng cặp giải trãi, hống, voi, kỳ lân, lạc đà, ngựa, tiếp đó là
tượng võ tướng, văn thần, đại công thần cả thảy 36 pho 1. Tư thế và trang phục
của các pho tượng người đều rất lạ, họ đang thực hiện một nghi thức kỳ quái nào
đó chứ không phải tư thế bá quan đứng chầu trên kim điện. Đám tượng đồng bao
gồm cả thú lẫn người tựa như tinh tú chầu nguyệt, cùng canh giữ ngai vàng cho
vua ngự ở tít sâu bên trong.
Tuyền béo nói: "Sao
cung điện này lại khác minh lâu ở Thập tam lăng ta từng tham quan thế nhỉ?
Trong thập tam lăng có cung điện nhưng lại không có những tượng người tượng thú
kì quái này."
Tôi nói với Tuyền béo:
"Có gì lạ đâu? Họ đều mong sau khi chết vẫn được hầu hạ như khi còn sống,
triều đại khác nhau hình thức khác nhau nhưng tôn chỉ mục đích cũng chỉ là một.
Hồi chúng ta đi Thiểm Tây đổ ... à du lịch, đã từng nhìn thấy vô số những mảnh
ngói lớn rải rác khắp khu lăng nhà Hán, đó đều là vết tích còn lại các cung
điện thuộc về phần mộ nhà Hán đã sập đổ. Cột gỗ xà gỗ không chịu nổi sức tàn
phá của ngàn năm, đã tan nát cả rồi, nhưng gạch ngói thì vẫn tồn tại được đến
ngày nay."
Thứ gọi là "triều đại
khác nhau, hình thức thể chế cũng khác" chẳng qua chỉ là cách nói của tôi
để tự an ủi mình, còn đám tượng đồng đang đứng sừng sững nơi đây có ý nghĩa ra
sao, tôi hoàn toàn không hiểu, tuy nhiên tôi không muốn chuyển cái tâm lý ngờ
vực này thành áp lực đối với Tuyền béo và Shirley Dương. Mong sao chỉ là tôi cả
nghĩ mà thôi.
Shirley Dương thấy cảnh tượng
phi thường trong gian đại điện này, cũng nói nước Điền cổ ở miền biên viễn Tây
Nam mà lăng mộ vua đã bề thế nhường này, so ra với mộ Đường Thái Tông, Hán Vũ
Đế đại diện cho chế độ trung ương tập quyền, báu vật trong đó phải tính bằng
đơn vị ngàn tấn, không biết là quy mô còn hoành tráng cỡ nào. Chỉ tiếc rằng
những khu mộ ấy đã bị tàn phá từ lâu, những người thời nay vĩnh viễn không có
cơ hội được nhìn thấy nữa, chỉ còn cách suy ngẫm tưởng tượng vậy thôi.
Tôi nói với Shirley Dương:
Không hẳn là tất cả các mộ vua chúa đều bề thế như mộ Hiến vương này đâu. Lão
già Hiến vương ấy căn bản không nghĩ cho người đời sau, mà có khi suốt đời chỉ
theo đuổi mục đích sau khi chết được chôn ở long huân để thành tiên thôi ấy
chứ."
Bởi lẽ cung Lăng Vân là
phần được xây cất trên mặt đất của địa cung ngôi mộ, chứ không phải là nơi đặt
quan quách, cho nên chúng tôi vẫn thấy người nhẹ nhõm chứ không căng thẳng như
khi bước vào huyền cung. Trong điện này tĩnh lặng lạ thường, càng không có động
tĩnh gì không khí lại càng toát lên vẻ âm u đáng sợ.
Lòng bàn tay tôi bắt đầu
nhớp mồ hôi. Nơi này ít ra cũng phải hai ngàn năm không có ai bước vào, vậy mà
không hề có mùi ẩm mốc, mọi vật đều bị một lớp bụi dày bao phủ. Bụi cũng là từ
gạch ngói bên trên rơi xuống chứ không có chút bụi tạp của thế giới ngoài kia,
như thể che phủ đi hai ngàn năm lịch sử.
Bảo tọa được nạm vàng khảm
ngọc đặt ở tận cùng trong điện Hội Tiên, phía trước có một khoảnh ao kim thủy
ngăn cách, nhưng lại không thấy có cầu bạch ngọc nối liền. Ao kim thủy khá
rộng, nước đã khô cạn từ lâu, từ chỗ chúng tôi chiếu đèn pin qua, chỉ thấp
thoáng có một con rồng ngọc đỏ nằm cuộn bên trên bảo tọa, không nhìn rõ có
tượng Hiến vương ngồi đó hay không.
Tuyền béo thấy thế bèn mạt
sát: "Người làm lãnh đạo rồi đều thích xa rời quần chúng chang? Lão ta
ngồi xa thế kia thì còn nghị sự triều chính cái mẹ gì được? nào, ta vào tận nơi
xem sao!" Tuyền béo xách khẩu "máy chữ Chicago" nhảy xuống ao
Kim Thủy đã cạn nước, sâu hơn một mét.
Tôi và Shirley Dương cũng
nhảy xuống theo, thấy trong hồ có con thuyền gỗ được tạo hình như chiếc lá sen,
hóa ra trước kia muốn đi qua hồ thì phải ngồi thuyền. Xem ra Hiến vương cũng là
tay chơi đây.
Chưa lên tới bờ bên kia ao,
chúng tôi đã không nén nổi hiếu kì, bèn chiếu đèn pin mắt sói lia khắp phía
trước, hình như trên bảo tọa của Hiến vương không có tượng, nhưng phía sau
trông không bình thường chút nào. Ba chúng tôi càng nhìn càng thấy kì lạ, bèn
vội leo lên ngay, trong lòng tôi bỗng thấp thỏm không yên: "Với đầu óc
liệu sự như thần của Hồ Bát Nhất ra, lẽ nào ta lại hiểu sai ý nghĩa của thiên
băng? Xem chừng thiên băng không hề liên quan gì đến chuyện máy bay rơi, vậy
thi thể Hiến vương có còn trong mộ hay không?"
--------------------------------
1 Giải trãi, hống, kỳ lân: các dị
thú trong truyền thuyết.
Chương 36: Hậu
điện
C on rồng ngọc màu đỏ cuộn mình nằm trên bảo tạo, khi chiếu đèn pin
vào, thân rồng lập tức cuồn cuộn sắc màu, ánh đỏ nhấp nhóa, thì ra bên trong
toàn là thủy ngân. Nhưng "con rồng thủy ngân: này chưa hẳn là lạ, điều
thật sự thu hút chúng tôi là nửa thân trước của nó.
Đầu rồng chìm hẳn vào vách
đá, phần tròn nằm trên bảo tạo chỉ là một phần nhỏ của thân rồng, bao gồm cả
đuôi. Đuôi rồng và hai chân sau gác trên lưng ngai của bảo tọa, trông có phần
uể oải. Già nửa thân rồng phía trước uốn lượn chìm nổi trên vách đá phía sau
bảo tọa, hòa nhập với các nét vẽ màu trên vách thành một thể thống nhất, khiến
cả bức bích họa có cảm giác lập thể rất rõ rệt, cấu tứ kì lạ và kỹ thuật tinh
xảo đều đạt đến đỉnh cao. Người ta thường nói: "rồng thần thấy đầu chẳng
thấy đuôi", nhưng con rồng này lại chỉ thấy đuôi mà không thấy đầu, cứ như
thể con rồng ngọc thủy ngân này đang sống dậy bay vào bức bích họa trên tường.
Bức bích họa cỡ lớn kết hợp
với thân rồng ấy diễn tả cảnh tượng Hiến vương hóa thành tiên bay lên trời.
Trong tranh, mây tiên bồng bềnh trải rộng, khói thơm uốn lượn, núi non giăng
giăng cùng những cung điện ẩn hiện trong mây, sương mờ nắng tỏa, tất cả đều
tràn ngập linh khí. Con rồng ngọc đỏ đang ngẩng đầu hướng lên biển mây, bầu
trời rẽ ra một khe màu đỏ, nửa đầu rồng đã chui vào trong đó, thân rồng nối
liền với bảo tọa trong cung điện Lăng Vân, một ông vua đang được các bề tôi
tung hô, chân giẫm trên lưng rồng, nhẹ bước trên không trung.
Ông vua này chắc là Hiến
vương, chỉ thấy thân hình cao lớn hơn hẳn người thường, trên mình khoác một bộ
áo dài da trăn cổ tròn, lưng thắt đai ngọc, đầu đội mũ vàng, trên mũ gắn một
hạt ngọc trông tựa như mắt người, rõ ràng đó chính là Mộc trần châu.
Ông ta để râu ba chòm dài,
khó nhận ra tuổi tác, vẻ mặt không đến nỗi quá hung ác, không giống với tưởng
tượng của chúng tôi cho lắm. Tôi vẫn nghĩ bạo chúa là phải phì nộn, râu xoăn
vểnh chéo, nhưng hình ảnh Hiến vương ở đây lại rất trang nghiêm hiền hòa, đại
khái chắc hẳn đã được người ta mỹ hóa lên rồi.
Phía trên vẽ một ông già
cưỡi hạc tiên, râu tóc bạc trắng, miệng hé mỉm cười chắp hai tay nhìn xuống bên
dưới, sau lưng có vô số vị tiên thanh tao thoát tục, tuy tư thế khác nhau nhưng
đều tỏ ra rất kính cẩn ngênh đón Hiến vương bước trên thân rồng lên thiên đình.
Tôi nhìn mà không khỏi tặc
lưỡi trầm trồ, thì ra "thiên băng" tức là nói về cảnh tượng đắc đạo
thành tiên chứ không chỉ một người nào đó tiến vào minh điện ở huyền cung. Sự
kiện này hết sức bí mật, ngoại trừ những người thân tín của Hiến vương còn
không chắc khó mà biết được.
Ở chính giữa phía dưới bức
bích họa còn có hai bức tranh nhỏ, đều mô tả các đồ cúng tế khi Hiến vương lên
trời, có vô số thi thể đang bị thiêu đốt trong đỉnh đồng, cảnh tượng thê thảm
rùng rợn nên chúng tôi cũng không nhìn kỹ.
Tuyền béo nói: "Cứ như
bức họa này diễn tả, thì Hiến vương đã thành tiên lên trời tiêu diêu hưởng lạc
từ lâu, xem ra quả này chúng ta vồ hụt mất rồi, mười phần chắc tám là bên trong
địa cung trống rỗng chẳng có gì. Theo tôi chi bằng ta cứ đục lấy con rồng kia,
đốt cháy thiên cung, xong xuôi sớm quay về kiếm người mua bán quách nó đi kiếm
một khoản kếch sù, rồi thì thích ăn thì ăn thích uống thì uống."
Shirley Dương nói:
"Không đúng. Đó chỉ là sự thèm khát viển vông của Hiến vương lúc sinh
thời, trên đời này làm gì có chuyện người phàm hóa thành tiên?"
Tôi cũng đồng ý với Shirley
Dương: "Chúng ta đã lên đến đỉnh mộ Hiến vương, sao có thể không vào địa
cung đổ đấu được? Hơn nữa hai người có thấy viên ngọc đính trên mũ Hiến vương
không? Nó chính là �Mật phượng hoàng� có thể cứu mạng chúng ta đấy!"
Ba chúng tôi bàn bạc chốc
lát rồi quyết định phải lục soát cái cung Lăng Vân này đã, rồi thăm dò xem cái
lỗ thủng dưới hồ nước có phải là cửa vào địa cung hay không, sau đó sẽ ra tay
ngay trong đêm. Dù sao cũng cần phải mắt thấy tay sờ tận nơi, cứ phải lục tung
minh cung dưới kia, nếu vẫn không thấy Mộc trần châu thì là vận số không may,
lúc ấy bỏ cuộc cũng không muộn, cái này gọi là "gắng hết phận sự, chấp
nhận mệnh trời".
Trước thời Tần, cung điện
là kiến trúc hạt nhân tập hợp các hoạt động cũng tế và chính trị; đến thời Tần,
cung điện mới trở thành kiến trúc độc lập cho hoàng đế cư ngụ, phía trước làm
nơi thiết triều, phía sau làm nơi nghỉ ngơi.
Minh lâu xây bên trên mộ
vua chúa đế vương, trong đó hậu điện là tế đường chứ không phải nơi để ngủ, bên
trong thường có rất nhiều văn bia bích họa ngợi ca công đức của nhà vua để
người đời sau lễ bái chiêm ngưỡng.
Chúng tôi đều chưa được
nhìn cung điện nhà Tần ra sao, nhưng có lẽ cung Lăng Vân na ná như cung A Phòng
thời Tần, mặc dù quy mô thua xa cung A Phòng "cháy liền ba tháng chưa
tắt", nhưng về hình thức có lẽ cung Lăng Vân này nhỉnh hơn một chút. Trong
các vị đế vương thời cổ, Tần Thủy Hoàng là người đầu tiên đắm đuối với việc
luyện đan tu tiên, nhưng có lẽ ông ta nằm mơ cũng không thể ngờ rằng cấp dưới
của mình có thể xây cất một tòa thiên cung hoành tráng hơn cả Tần lăng để làm
phần mộ.
Kế hoạch đã định, chúng tôi
bèn đi ngay vào hậu điện. Tôi đi sau cùng, không cưỡng lại được mà ngoái đầu
nhìn đám tượng người thú ở chính giữa đại điện, lòng vẫn thấy ngờ vực cứ cảm
giác như có điều gì đó bất ổn, đám tượng ấy toát lên một vẻ không hài hòa khó
có thể nói lên thành lời.
Quay đầu lại tôi thấy
Shirley Dương đã dừng bước đợi mình, nhìn thần sắc thì biết hóa ra cô nàng cũng
đang nghĩ giống tôi, chỉ hiềm lúc này vẫn chưa cảm nhận ra bất ổn ở chỗ nào.
Tôi lắc đầu với Shirley Dương, ý bảo tạm thời đừng nghĩ nhiều nữa, cái gì phải
đến sẽ đến. Đoạn chúng tôi sánh vai bước về phía hậu điện.
Đi qua một đoạn hành lang
ngắn là đến hậu điện còn tối om âm u hơn nữa. Đọc các câu chữ khắc trên vách
hành lang, biết rằng nửa phía sau này gọi là điện Thượng Chân, trong điện dựng
vô số bia đá và có tám bức bích họa riêng biệt. Điện đường khá sâu nhưng vì
chứa quá nhiều bia đá nên trông hơi tức mắt, tuy nhiên bố cục vẫn rất hợp lý,
tám bức tường tô bích họa được xếp theo hình bát quái cửu cung, gạch xây tường
thảy đều rất lớn, bích họa đều nền trắng, vẽ ba màu.
Ngoài việc mô tả một vài
cảnh chiến tranh, thì hầu như cứ mỗi viên gạch là một bức tranh nhỏ, hoặc vẽ
một hai người, hoặc vẽ hai ba động vật hay kiến trúc, khí giới, thể hiện mọi
phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự, tôn giáo, dân tộc
của nước Điền cổ xưa trong thời Hiến vương trị vì.
Có lẽ chúng sẽ là một kho
tàng vô giá đối với các học giả nghiên cứu lịch sử, nhưng đối với dân mò vàng
đổ đấu như tôi thì chẳng được việc gì ra hồn, chúng tôi chỉ mong tìm thấy ở đây
một số thông tin về tình hình địa cung của mộ Hiến vương, nhưng lúc nay mắt đã hoa
cả lên, nhìn cứ thấy rối tinh rối mù.
Có đến không dưới một nghin
tranh vẽ trên tám bức bích họa, cùng với số lượng văn bia trong điện, tất cả là
một bộ bách khoa toàn thư lịch sử về nước Điền cổ đại. Tôi soi đèn pin rồi chọn
bức bích họa lớn nhất, nhìn lướt một lượt, rồi nhờ Shirley Dương giải thích mấy
câu, cũng hiểu được đa phần là thế nào.
Bích họa này toàn thể hiện
cảnh chiến tranh, diễn tả hai cuộc chiến do Hiến vương chỉ huy, lần thứ nhất
giao chiến với nước Dạ Lang, vào thời Hán, nước Dạ Lang và nước ĐIền đều bị coi
là man di miền Tây Nam, lần thứ hai là sau khi Hiến vương thoát ly hệ thống cai
trị của nước Điền, tàn sát dân man di địa phương dưới núi Già Long.
Cả hai cuộc chiến đều toàn
thắng, giết được vô số quân địch, bắt được nhiều tù binh, thu được cơ man là
chiến lợi phẩm. Khi đó, cả hai đối thủ đều đang ở thời kỳ cuối chế độ nô lệ,
phương thức sản xuất rất lạc hậu và nguyên thủy, kỹ thuật luyện đồng còn thua
xa nước Điền kế thừa được kỹ thuật của người Tần, cho nên đánh một trận là tan
ngay, không phải đối thủ của nước Điền.
Trong đám tù binh có rất
nhiều nô lệ, chính họ đã trở thành lực lượng chủ yếu để xây cất khu lăng mộ.
Bích họa và văn bia đương nhiên rất ngợi ca những công tích này.
Nhưng vẫn không thấy bích
họa miêu tả tí gì về địa cung của vương mộ. Có một bức bích họa toàn miêu tả
nghi thức tế lễ với các nội dung xin chỉ thị của thần linh, bói toán, làm phép
phù thủy, cảnh tượng đều rất quái dị. Shirley Dương giơ máy ảnh chụp lại toàn
bộ bích họa này, nói rằng biết đâu mai kia khi cần khám phá bí mật về Mộc trần
châu, chúng sẽ được việc.
Thấy hậu điện chỉ rặt những
thứ này, Tuyền béo chưng hửng vô vị, bèn xách súng, bật đèn pin đi vào phía
trong xem sao, bỗng thấy thứ gì đó ở ngay giữa khu vực các bức bích họa vây
quanh, bèn gọi tôi và Shirley Dương đến xem.
Thì ra ở chính giữa nền
điện đường là một cái đỉnh đồng to, sáu chân, bên trên có nắp, hai bên vai có
hai vòng đồng lớn. Sáu chân đỉnh là hình sáu con thú thần đang khom chân xuống,
trông vững chãi, cổ kính, cơ bắp rắn chắc, có vẩy quanh mình, đang há mồm rỗng
lên, xét về tạo hình rất giống loài kỳ lân.
Cái đỉnh to khác thường,
không hiểu tại sao lại bị quết lên tuyền một màu đen kịt, không có hoa văn
trang trí gì. Trong cung điện tối om, chúng tôi chỉ chú ý đến đám văn bia và
bích họa, cho đến khi Tuyền béo bước đến gần mới phát hiện ra, nếu không sẽ khó
mà nhận thấy vì nó bị lẫn trong bóng tối.
Tuyền béo gõ báng khẩu súng
M1A1 vào, thân đỉnh liền phát ra một âm thanh nặng nề trầm đục. Cậu ta hỏi tôi
và Shirley Dương: "Hay là vì họ chôn quá nhiều đồ tùy táng, địa cung không
chứa nổi nên mới đặt tạm ở đây? Ta cứ mở ra xem cũng chẳng sao nhỉ!"
Shirley Dương nói:
"Chắc đây là cái đỉnh khổng lồ để nấu các thi thể dùng trong lễ cũng tế,
miệng đỉnh đến giờ vẫn bịt kín chứng tỏ Hiến vương không hề hóa xác thành tiên,
xác ông ta vẫn nằm trong quan quách đặt dưới địa cung, nếu không thì khỏi cần
bịt kín miệng đỉnh làm gì!"
Tôi nói với Shirley Dương
và Tuyền béo: "Có ma mới biết cái này dùng vào việc gì! Nếu dùng để nấu
người, trâu bò dê cừu làm vật cúng tế người ta phải dùng vạc chứ không dùng
đỉnh. Vả lại, có khi cái thứ này cũng không phải đỉnh vạc gì hết, vì đỉnh sao
lại có sáu chân?"
Ba chúng tôi mỗi người một
ý, không ai thuyết phục được ai, bèn nhất trí mở ra nghiên cứu xem sao. Tôi lục
ba lô Tuyền béo lấy thám âm trảo ra, cạo bỏ lớp sơn đỏ gắn trên miệng đỉnh.
Nhìn thấy trên lớp sơn có đóng dấu, hình một phạm nhân bị xích vào xương quai
xanh, chứng tỏ chưa từng bị mở ra bao giờ.
Sau khi cạo hết lớp sơn đỏ,
tôi chọc mũi dùi ngắn của thám âm trảo vào để thử xem sao, thấy nắp đỉnh đã
lỏng ra, bèn gọi Tuyền béo đến giúp. Hai chúng tôi nắm vòng đồng, cánh tay vừa
mới dùng sức, bỗng từ phía sâu trong cung điện đầy tử khí này vọng ra một tràng
tiếng cười khách khách he hé... Nghe biết là tiếng phụ nữ, nhưng tiếng nghe gian
tà lạnh lẽo, tuyệt đối không có ý tốt, như băng như sương, dường như có thể
khiến tim người ta trở nên giá buốt.
Trong cung điện im ắng tịnh
không bóng người này sao lại có tiếng cười của phụ nữ được cơ chứ? Ba chiếc đèn
pin mắt sói của chúng tôi lập tức rọi vào phía trong, tiếng cười ghê lạnh lập
tức im bặt, chỉ còn lại góc tường trống trải, không thấy gì hết.
Ba chúng tôi kinh hãi không
nói lên lời, ngay Shirley Dương cũng bắt đầu vã mồ hôi, một lát sau mới hỏi:
" Vừa nãy là tiếng gì thế?"
Tôi chỉ biết lắc đầu không
nói. Cái loại thập thà thập thò chắc chẳng tử tế gì! Nghĩ đến đây tôi bèn thò
tay mở khuy túi xách đưng chiếc móng lừa đen và gạo nếp.
Tuyền béo cũng bắt đầu thấy
căng thẳng, bởi lão thầy bói mù chúng tôi gặp tại Thạch Bi Điếm ở Thiểm Tây từng
khoác lác nhoen nhoẻn về các chiến tích đổ đấu anh hùng của lão ngày xưa, chúng
tôi tuy không coi đó là thật nhưng vẫn còn nhớ rành rọt mấy câu. Theo lão thì
đólà những câu mà bọn trộm mộ coi là khuôn vàng thước ngọc: "Ấn Phát khưu,
bùa Mô kim, phòng được thân khó tránh ma thổi đèn, quan tài chìm, quách đồng
đen, ngoài người cao số chớ lại bên, huyệt táng dọc, mộ hình hòm, Ban Sơn, Xả
Lĩnh chạy lom khom, xác áo đỏ, thây mặt cười, thà nghe ma khoc hơn ma cười."
Về sau tôi có hỏi Shirley
Dương, hóa ra mấy câu này không phải lão mù phịa ra, mà đúng là được lưu truyền
từ thời xưa, nói về một vài tình huống đáng sợ hơn cả quỷ nhập tràng. Câu cuối
nói rằng khi đào mộ tìm báu vật nếu thấy xác chết mặc áo thuần một màu đỏ, hoặc
trông mặt có nét cười thì đều là điềm dữ, bản mệnh không đủ vững e khó mà sống
nổi. Hiện tượng ma quỷ khóc có thể thấy ở nhiều nơi, có người nghe nhầm tiếng
sói hú thành tiếng ma khóc cũng chẳng sao, nhưng đáng sợ nhất là nghe thấy
tiếng cười của quỷ dữ trong mộ, chỉ có quỷ dữ mới biết cười.
Có điều chúng tôi đã chuẩn
bị tâm lý từ trước. Các Mô kim hiệu úy thời xưa gọi các thứ chẳng lành gặp phải
trong mộ là "hắc tinh". Thuật tướng số lại gọi hắc tinh là "quý
tinh". Ai gặp phải hắc tinh chân hỏa tam muội trên vai lập tức tắt ngúm,
nguy hiểm chẳng khác gì đi cầu độc mộc qua vực sâu vạn trượng, khó mà giữ được
mạng sống.
Giờ cả ba đều đã chuẩn bị
chu toàn, dù gặp quỷ dữ cũng có thể chống đỡ vài hiệp, bèn định thần lại, tạm
không đụng đến cái đỉnh đồng màu đen vôi, tay cầm khí giới, chia ba ngả tiến
vào bủa vây chỗ lúc nãy phát ra tiếng cười.
Những hàng bia đá dựng đầy
trong điện hết lớp này đến lớp khác, nơi này mà để chơi trốn tìm chắc hợp lắm,
nhưng để có thể nhìn rõ các sự vật cách xa mươi mét thì rất vướng mắt. Chúng
tôi chỉ thấy góc tường trống trải và lát nền đá, chứ không có gì khác. Cung
điện lại im lặng như cõi chết. Nếu tiếng cười ghê lạnh lúc nãy không còn văng
vẳng bên tai, có lẽ chúng tôi sẽ cho rằng mình đã nghe nhầm.
Shirley Dương hỏi tôi:
"Anh Nhất từng khoác lác với tôi là đã đi đổ đấu rất nhiều kia mà? Tôi
không giàu kinh nghiệm như anh, nhưng nếu gặp quỷ dữ trong mộ thì anh cho rằng
nên đối phó ra sao?"
Tôi cũng đã mất tự chủ,
nghĩ rằng mình bị cô em người Mỹ kia châm chọc: "Chúng tôi ngày trước nếu
gặp tình huống bí bách thì phát động quần chúng ở địa phương, biến các nhân tố
bất lợi thành có lợi, sức sáng tạo của quần chúng nhân dân là vô cùng vô tận,
họ nhất định sẽ nghĩ ra cách."
Tuyền béo không hiểu, bèn
hỏi tôi: "Tư lệnh Nhất ạ, ở chốn mồ hoang rừng vắng này chỉ có ba chúng
ta, lấy đâu ra quần chúng nhân dân?"
Tôi đáp: "Cậu tưởng
cậu là ai? Thế cậu chẳng phải quần chúng thì là gì? Bây giờ tôi cử cậu lục soát
hậu điện của thiên cung, hãy nghĩ mọi cách để điều tra rõ cái tiếng cười kia,
dù nó là quỷ dữ hay mèo cái động đực, cậu cứ việc xử lý! Tôi sẽ tiếp tục tra
xét cái đỉnh đồng, tham mưu trưởng Shirley đứng giữa tiếp ứng để cả hai bên đều
không bị hỏng việc. Có lẽ đó là kế điệu hổ ly sơn của địch, chúng muốn phân tán
sức chú ý của chúng ta đang nhằm vào chiếc đỉnh đồng này."
Tuyền béo chẳng dại tí nào,
vội nói: "Chi bằng hai chúng ta đổi việc, tôi dôc sswcs xử lý cái đỉnh
đồng. Cậu còn lạ gì tôi, đối với những thứ mắt không thấy, tay không sờ được,
người anh em này vai u thịt bắp, ít sáng tạo lắm... "
Thằng béo này một mực khiêm
nhường, nhưng tôi mặc kệ, quay sang xử lý cái nắp đỉnh. Vừa xoay người bỗng lại
nghe thấy tiếng phụ nữ cười rùng rợn ở chỗ góc điện vừa nãy. Ba chúng tôi hoảng
sợ lùi ngay lại một bước. Lưng tôi tựa vào một tấm bia, vội bật ngay đèn gắn
trên mũ leo núi lên, một tay cầm khẩu M1A1, tay kia sờ túi sẵn sàng lấy các vật
trấn tà ra.
Tiếng cười gian ác buốt giá
phát ra rồi im bặt. Chỗ góc ấy có thứ khỉ gì vậy? Đây đã là chỗ cùng cực của
điện đường, không có gian ngách nào gọi là mật thất đường ngầm gì hết. Tôi đánh
bạo bước lên, giậm chân thình thịch trên nền đá. Không thấy một dấu hiệu gì. Mẹ
kiếp, gặp ma rồi! Nơi hậu điện này lẽ nào có âm hồn không tan của vợ Hiến
vương? Bà ta định làm gì đây?
Shirley Dương và Tuyền béo
đứng phía sau tôi cũng rất kinh hãi. Điện đường tuy rộng rãi nhưng chỉ có một
lối ra, không thông khắp bốn bề, mà đây là nóc minh lâu chứ không phải cung
điện thật sự. Nói cho đúng hơn là: nhìn từ bên ngoài thì thấy lớp nọ chồng lớp
kia, lại còn lắm tầng, ngỡ là có hàng ngàn cửa ra vào, thực ra cấu trúc bên
trong rất đơn giản, chỉ là một nơi để tế lễ.
Trong một không gian có hạn
như thế này thì tiếng cười phát ra từ đâu? Càng không nhìn thấy gì lại càng
chưng hửng, chẳng thà giao đấu với con trăn to, hay đàn cá ăn thịt người, tuy
nguy hiểm nhưng cũng đươch đọ sức cho đã đời, còn giờ đây tuy yên tĩnh nhưng
lại khiến người ta thấy lo lắng bất an vô cùng. Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại:
"Huyệt thần tiên sao lại có quỷ dữ? Nhưng có thể là còn có khu vực nào đó
âm dương không rạch ròi nên mới có quỷ dữ."
Tôi bèn dứt khóa đứng lên
vai Tuyền béo rồi trèo lên đỉnh tấm bia đá để từ trên cao nhìn xuống tìm kiếm,
vừa cưỡi lên đỉnh tấm bia chưa kịp nhìn xuống liền thấy một quầng ánh đỏ lấp
lóa chao đi chao lại trên đầu. Tôi lập tức ngẩng đầu bật đèn lên, chỉ thấy bên
trên là một phụ nữ mặc một chiếc áo dài tay thụng đang lẳng lặng chờn vờn trên
đỉnh vòm điện đường. Đỉnh vòm rất tối, tôi chỉ nhìn thấy nửa thân dưới, nửa
trên bị khuất trong bóng tôi. Không rõ là dùng thừng treo cổ hay là bị treo
kiểu gì. Lúc nãy chúng tôi chỉ chú ý đến chỗ góc tường chứ không hề nhìn lên
vòm mái.
Quá bất ngờ trước cảnh
tượng đó, tôi khó tránh khỏi rùng mình kinh hãi. Nếu hai đùi không kẹp chặt tấm
bia đá thì chắc chắn phải ngã đâm đầu xuống đất, tôi vội nhoài người ra, hai
tay bám chặt đỉnh tấm bia. Cũn may là đời này tôi cũng đã trải qua ối chuyện
lớn, tố chất tâm lý tương đối vững vàng, đổi lại mà là Tuyền béo chắc đã sợ mất
vía ngã lăn xuống rồi.
Tuyền béo và Shirley Dương
ngẩng lên nhìn tôi hành động bên trên, đương nhiên cũng thấy người phụ nữ áo đỏ
trên đầu, nhưng vì đứng thấp hơn nên nhìn không rõ mấy. Tuy vậy cả hai cũng tái
mặt, lại lo thay cho tôi, không ngừng thúc giục tôi leo xuống trước đi đã.
Nhưng tôi không xuống ngay
mà ngược lại còn ngẩng đầu lên quan sát. Vừa thoáng nhìn tôi đã toát mồ hôi đầm
đìa. Chỉ thấy bên trong bộ áo dài đỏ ấy... không có chân, chỉ là bộ áo trống
không, nó áp sát với chỗ tường trên cao của gian đại điện, hình như chỉ có bộ
áo treo trên đó, vậy xác đâu rồi?
Bộ áo dài đỏ tươi ấy rất
khác với các kiểu áo dài thời cổ mà tôi biết, không giống kiểu áo người Hán,
chắc là áo để liệm cho phụ nữ nước Điền. Bộ áo đỏ thắm không hề động đậy, tiếng
cười quái dị cũng không thấy nữa.
Tôi tả ngắn gọn tình hình
phía trên với Tuyền béo và Shirley Dương. Shirley Dương muốn được nhìn rõ hơn,
liền trèo lên đỉnh tấm bia, ngồi phía trước tôi để nhìn bộ áo treo lửng lơ.
Shirley nói: "Bộ áo này thật kì quái, cách may cũng rất phức tạp, cứ như
áo của các bà đồng cốt người dân tộc thiểu số, hoặc là... vu bào của đám phù
thủy man di vẫn mặc!"
Tôi hỏi Shirley Dương:
"Vậy là không phải áo mặc cho người chết? Nhưng tiếng cười đã phát ra từ
đó kia mà?"
Shirley Dương nói:
"Chưa thể xác định được. Ta phải xem cho kỹ đã. Bên
trên tối quá, anh chiếu đèn pin lên thử xem!"
Tôi
lấy chiếc đèn pin mắt sói chiếu được xa hơn đèn gắn trên mũ ra, bật công tắc. Một
luồng sáng vàng da cam lập tức rọi lên. Lúc này chúng tôi mới nhìn rõ nửa trên
của chiếc áo dài đỏ.
Phía
bên trên ấy không phải là không có gì, ở chỗ cổ áo dựng hơi cáo có một cái gì
đó, tôi vừa thoạt nhìn đã không kìm được thốt lên: "Một cái đầu
người!" Có lẽ cái xác phụ nữ này có nửa trên, nhưng phần còn lại đã bị bộ
áo dài che mất. Bộ áo rộng thùng thình nên không nhân ra bên trong lồi lõm ra
sao, chỉ có cái đầu lâu trên phần vai là nhìn thấy rõ.
Hình
như cái xác phụ nữ ấy biết chúng tôi đang chiếu đèn vào mặt nó, cái đầu hơi
động đậy rồi ngoảnh sang phía chúng tôi. Khuôn mặt được trang điểm rất đậm,
miệng phát ra tiếng cười ghê lạnh chói tai: "He he he he... "
Chương 37: Lửa
nung
C húng tôi nhìn xoáy không chớp mắt vào bộ áo đang treo cao, cái đầu
người trên đó bỗng lặng lẽ xoay lại phía chúng tôi rồi bật cười nham hiểm. Tôi
và Shirley Dương tuy kinh hãi nhưng cũng không đến nỗi luống cuống tay chân.
Nghe nói quỷ dữ không biết
rẽ ngang đi vòng, các nhà giàu thường xây bình phong để chắn hung thần quỷ dữ
là thế. Trong gian hậu điện toàn đá và bích họa, cùng lắm là quần nhau với mụ
ta vài vòng, dù sao giờ cũng đang ban ngày ban mặt, chúng tôi cũng không lo hết
đường tháo chạy. Nghĩ đến đây, tôi bèn lấy cái móng lừa đen ra, gọi to :"
Hôm nay ông Nhất mời mày ăn chân giò quay, nhìn đây!". Dứt lời, tôi liền
lia luôn vào cái đầu trong bóng tối.
Cái móng lừa đen chuyên trị
quỷ nhập tràng và ác ma bay lên kèm theo một làn gió mạnh. Tôi vừa dùng sức nên
cái đèn pin mắt sói trong tay kia cũng khó giữ nổi ổn định, cột ánh sáng đung
đưa văng đi, vòm mái hậu điện lập tức tối om. Chỉ nghe thấy tiếng
"phịch", một vật rất to rơi xuống đúng vào đỉnh bức tường bích họa
bên cạnh tấm bia tôi và Shirley Dương đang ngồi.
Tôi vội chiếu đèn sang nhìn
xem là thứ quỷ dữ gì, hóa ra nó là một con quái nửa sâu nửa người đang nằm trên
vách tường dẩu môi về phía chúng tôi. Con quái vật nửa sâu nửa người to gấp đôi
lúc mới rời cơ thể mẹ. Vừa rồi lũ chúng bị thuốc trừ sâu ở cung Lăng Vân và
trên sạn đạo đẩy lui về hang hồ lô, nhưng có lẽ mấy tuyến chặn sâu bọ trong
quần thể kiến trúc mộ Hiến vương chủ yếu nhằm chặn chuột, mối, kiến, lại trải
qua thời gian quá lâu, nên khi lũ quái vật to xác này đã thích ứng thì thuốc không
còn mấy tác dụng nữa.
Chẳng biết con quái trùng
này lủi vào điện từ lúc nào, vừa khéo bị dính đòn của cái móng lừa đen đánh quỷ
tôi lia ra, nên rớt ngay xuống bờ tường.
Cái móng lừa đen tôi luôn
mang bên mình này là nhờ Yến Tử kiếm cho ở Nội Mông, mang bên người đã hơn một
năm, chẳng khác viên bi sắt là mấy, ném bừa ném bậy thế nào táng trúng mắt trái
con quái thai khiến mắt nó lõm hẳn xuống, chảy ra khá nhiều chất nước màu lục,
làm nó đau đớn kêu loạn cả lên.
Tôi và Shirley Dương chiếu
đèn pin lên con quái vật trên bờ tường, ngẫu nhiên lại phát hiện thấy trên đỉnh
điện còn có một bộ trang phục nữa, kiểu dáng cũng rất cổ quái. Có lẽ đó là bộ
áo giáp da của người man di miền Tây Nam, gồm cả áo lẫn mũ, bên trong không có
xác, phía trên lại không có đầu, gắn trên đó là cái mũ bằng sừng bò, không thấy
trong mũ có đầu người hay không.
Vậy là trong hậu điện này
không chỉ có bộ áo phù thủy màu đỏ, chẳng rõ chủ nhân của những bộ trang phục
này là người như thế nào, có lẽ họ đã bị Hiến vương giết để tế trời.
Nhưng không để chúng tôi
nghĩ ngợi cho rõ nguồn cơn sự việc, con quái vật một mắt kia đã nhảy vọt sang
chỗ chúng tôi ngồi. Shirley Dương chĩa khẩu súng ngắn kiểu 64 bắn liền ba phát,
khiến nó rớt ngay xuống đất. Tuyền béo chạy đến bồi thêm vài phát nữa.
Tuyền béo ngẩng lên gọi
chúng tôi :" Còn nhiều lắm đang chạy vào đây đấy! Mẹ kiếp, chúng định xơi
tái bọn ta rồi ...". Nói đoạn cậu ta lại tiếp tục bóp cò. Cung điện tối om
bỗng lập lòe những tia lửa đạn bay khắp nơi.
Shirley Dương nói :"
Tại sao chúng đuổi bám ta vào tận đây được, chẳng lẽ chúng biết đánh hơi như
chó sao? Bọn này lớn nhanh như thế, chắc chắn có liên quan đến môi trường đặc
biệt trong hang hồ lô, cho nên nếu rời sào huyệt chúng không thể sống được lâu
đâu".
Tôi vội xuống khỏi tấm bia
để lấy súng máy, bèn vừa tụt xuống vừa nói với Tuyền béo và Shirley Dương
:" Nhân lúc chúng vào chưa nhiều ta tiêu diệt sạch luôn, rồi đóng chặt cửa
ở ngoài hành lang hậu điện lại. Trong môi trường có hàm lượng oxy bình thường
bọn côn trùng to xác này không thể sống lâu đâu. Chúng ta chỉ cần cầm cự một
thời gian là ổn!"
Có đến vài chục con quái
thai đã lặng lẽ bò vào hậu điện, tuy chưa phải là nhiều nhưng vẫn khó mà diệt
sạch ngay một lúc được. Chúng tôi đành lợi dụng đám bia đá và bích họa rải rác
trong gian điện để quần thảo với chúng.
Tôi và Tuyền béo quay lưng
vào nhau cùng bắn tỉa lũ quái thai xông đến. Tuyền béo đang hết sức bận rộn đối
phó với kẻ đich vẫn quay sang nói với tôi :" Tư lệnh Nhất! Đạn của chúng
ta không nhiều đâu, bắn dè sẻn thôi".
Nghe Tuyền béo nói đạn
không còn nhiều nữa, tôi đâm ra hơi cuống, khẩu "máy chữ Chicago"
đang tỉa lia lịa thành ra không chuẩn xác nữa, một con quái thai vừa bị ăn ba
phát đạn trúng lưng, đột nhiên chạy nhào vào góc chết sau bức tường bích họa,
mấy phát súng bắn với theo của tôi toàn trúng vào tường, bụi bắn tung tóe.
Tôi thầm nhủ giết được một
con là bớt được một con, bèn truy kích không tha, chạy sang phía lưng bức tường
bích họa. Thấy con quái vật bị trọng thương ấy đang ngồi trên nắp cái đỉnh đồng
đen nhìn chằm chằm vào tôi gầm ghè, cái mồm bốn môi há to gào rú cho dịu cơn
đau bị ăn đạn tan xương nát thịt.
Con quái thai thấy tôi đuổi
đến nơi, liền như hóa điên, hai chân nhún thật mạnh đạp vào cái nắp đỉnh rồi
nhào sang phía tôi. Sức mạnh của nó thật ghê gớm, cú nhún đạp bật cái nắp đỉnh
bay ra phía sau, sau lưng tôi là bức tường bích họa chẳng thể tránh đi đâu
được, đồng thời tôi cũng biết cú vồ đó cực kỳ hung hiểm, vì con quái vật này đã
dồn tất cả sức lực còn lại vào cái mồm, chuẩn bị liều chết với tôi.
Đã thế tôi càng không né
tránh, giương súng định kết liễu nó ngay trên không trung, nào ngờ vừa bóp cò
thì súng bị hóc đạn. Đúng là ghét của nào trời trao của ấy, súng Mỹ tuy lợi hại
thật nhưng đây là đồ cũ tồn kho, dùng cho đến giờ mới bị hóc đã là quá tốt rồi.
Tôi định quay báng súng nện vào con quái vật đang lao đến, nhưng nó lao quá
nhanh quá mạnh, mùi tanh thối xộc vào mũi, cái mồm quái dị đầy gai răng đã áp
sát mặt tôi.
Tôi đành đưa ngang khẩu
M1A1 chặn vào cổ nó, nào ngờ sức mạnh ghê gớm của nó không hề giảm sút, xô tôi
ngã ngửa xuống nền đất. Tôi liền nhân đà đó đạp một cú vào bụng con quái vật
đang lao đến, khiến nó bật lùi lại phía sau, đập đầu vào bức tường bích họa,
máu đen bắn tung tóe trên mặt tường trắng.
Thấy con quái vật chưa chết
hẳn, tôi định bước đến nện báng súng cho bẹp nát đầu nó bỗng thấy phía sau lưng
có tiếng kim loại kêu lốc cốc như tiếng một cái bánh xe to đang lăn về phía
mình.
Nghĩ bụng xe lửa khốn kiếp
ở đâu ra thế, không dám chủ quan, tôi vội lăn sang một bên né tránh, cái nắp
đỉnh màu đen lăn qua sát ngay lưng tôi. Con quái thai vừa rơi trên tường bích
họa xuống đang lóp ngóp bò dậy bị cạnh của cái nắp đỉnh lăn trúng, kèm theo một
tiếng "bục" nặng nề như quả dưa hấu bị rơi từ trên lầu xuống đất, bức
tường bích họa bị một đám máu đen bắn lên nhòe nhoẹt. Con quái vật đã bị nắp
đỉnh nghiền nát như bùn, cái đầu cũng thế, không phân biệt nổi đâu là đầu đâu
là tường nữa, nó chỉ còn lại hai chi trước vẫn giơ lên không ngừng giật cục.
Tục ngữ có câu " gậy
ông đập lưng ông", con quái vật này chắc hẳn kiếp trước không chịu làm
việc thiện, nay chỉ cốt nhào đến cắn tôi, rồi lại bị chính cái nắp đỉnh mà nó
đạp văng xuống nghiền nát đầu.
Tiếng súng trong điện vẫn
vang lên không ngớt, Tuyền béo và Shirley Dương đã giải quyết xong hơn chục con
quái thai to nhất, đang tiêu diệt nốt mấy con còn lại. Tôi thấy chỗ mình đã tạm
an toàn, liền thở phào, nhân đấy rút luôn ổ đạn, lấy viên bị hóc ra, vì nó mà
tôi suýt nữa bỏ mạng.
Kế đó, tôi định sang hỗ trợ
Tuyền béo và Shirley Dương, song vừa đứng thẳng dậy tôi liền nhìn thấy một cảnh
tượng khó hình dung nổi. Trong cái đỉnh đen sáu chân bị văng mất nắp kia có một
đám trăng trắng bùng nhùng, tất cả đều là thi thể lõa lồ, có thể nhận ra đủ mọi
lứa tuổi già trẻ gái trai, ít nhất phải có mười bảy mười tám thi thể.
Đám xác chết này chồng chất
trong một thứ mỡ đông đặc màu trắng, trong suốt như thịt bì nấu đông, thành thử
trông rất giống người bị chế thành thây sáp, vết máu trên thi thể hãy còn đỏ
thắm. Tôi thầm nghĩ :" Có lẽ Shirley Dương nói đúng rồi, quả nhiên là để
nấu xác người tế trời. Có lẽ những cái xác này vốn là chủ nhân của các bộ quần
áo cổ quái treo trên vòm mái. Rất có thể họ là những người có địa vị tring đám
dân man di bị Hiến vương bắt làm tù binh, không chừng là thân quyến của man di
vương".
Ngay từ thời nhà Hạ, Thương
đã có những ghi chép về chuyện dùng đỉnh nấu người để tế trời đất thần linh,
chẳng những vậy người bị nấu đều không phải nô lệ bình thường, nếu không sẽ bị
coi là bất kính với thần linh. Xem ra, quả nhiên trước khi kịp tổ chức nghi
thức cưỡi rồng bay lên trời thì Hiến vương đã chết, cho nên "cái nồi
lớn" này vẫn chưa được dùng đến.
Tôi lại thầm nghĩ liệu
tiếng cười ghê rợn của quỷ dữ ở góc điện lúc nãy có phải là muốn ngăn cản chúng
tôi mở nắp đỉnh ra hay không? Lẽ nào trong cái đỉnh này có thứ gì đó mờ ám?
Toàn là xác chết lõa lồ ngâm trong mỡ gân bò và máu tươi, nghĩ đến đã thấy lợm
giọng, bố ai thèm xem làm gì!
Tử trạng của những cái xác
dân man di này rất quái đản, tôi không muốn nhìn thêm nữa, định xoay người bước
đi, nhưng chưa kịp cất bước bỗng thấy một luồng hơi nóng bỏng bốc ra từ cái
đỉnh đen ấy. Sáu chân đỉnh là sáu con thú trông như sáu con hỏa kỳ lân, từng
cặp đối xứng nhau, mặt hướng về tâm, cả sáu cái mồm đang phì phì phun lửa. Bề
mặt thân đỉnh đen cũng lập tức bốc cháy dữ dội, xác chết nằm trong đỉnh bị lửa
và dầu sôi đun nóng, bắt đầu tan nhanh, không khí trong điện cực kỳ tởm lợm.
Trong phút chốc, cái đỉnh
đen sáu chân biến thành một quả cầu lửa khổng lồ, ngọn lửa ngùn ngụt chiếu sáng
khắp gian điện. Chúng tôi nhìn rõ hơn chục bộ trang phục kỳ dị treo trên vòm
mái, không bộ nào giống bộ nào, hơn nữa những trang phục cổ xưa này không có vẻ
gì là chuẩn bị cho người sống mặc cả.
Tôi chẳng thiết nhìn kỹ làm
gì nữa, vội gọi Tuyền béo và Shirley Dương mau rời khỏi đây. Trong đỉnh đồng
rất có thể có chất kali nitrat, chỉ cần bật nắp ra là lập tức bùng cháy, vốn
được chuẩn bị để đốt khi Hiến vương làm lễ tế trời trên khuyết đài, bây giờ lại
bị cháy trong điện này. Vật liệu chủ yếu của cung Lăng Vân là gỗ nam mộc và
gạch ngói, vì được dùng xây cất bên trên long huân rất khô ráo nên chỉ trong
thời gian rất ngắn, đã bị nung nóng nứt ra kêu toang toác, thiên cung này sắp
biến thành hỏa cung đến nơi rồi.
Trong điện vẫn còn sót bốn
năm con quái vật, Tuyền béo và Shirley Dương đang chiến đấu với chúng quanh các
tấm bia ở góc điện, ngọn lửa bùng cháy bất ngờ, cả hai đều kinh sợ tái mặt bèn
vội chạy theo tôi, xông ra phía hành lang ngắn trước cửa điện, nếu chỉ chậm trễ
một lát chỉ e đã bị nướng thui rồi.
Nhưng nào ngờ chưa kịp ra
khỏi điện, mái che hành lang ngắn ấy bất ngờ sập xuống rầm rầm, bịt chặt lối
đi. Lúc này chẳng rõ nên lấy làm may hay nên oán thán nữa? Nếu chúng tôi chạy
nhanh hơn mấy bước chắc hẳn đã bị hàng vạn tấn đá đè cho xương thịt nát bét.
Nhưng lúc này lửa đang lan đến, hết đường thoát thân, chỉ lát nữa thôi cả bọn
cũng sẽ chết cháy ở đây.
Nếu dùng các thứ chúng tôi
hiện có để mong dập lửa e chỉ là ảo tưởng. Làn hơi nóng bỏng trong điện táp vào
mặt, cảm giác như lông mi lông mày sắp bị lửa đốt đến nơi. Tuyền béo cuống
cuồng xoay người bốn phía. Tôi ngăn Tuyền béo lại, rồi nói với cậu ta và
Shirley Dương :" Đừng hoảng! Mở bi đông rót nước lên đầu cho ướt tóc đi!"
Tuyền béo nói :" Thế
khác nào giữ đầu mà bỏ đít? Vả lại chỉ có tí nước thì ăn thua gì ... lại cái gì
nữa thế?"
Tuyền béo đang nói dở thì
đột nhiên phía trong tường điện "rầm" một tiếng inh tai, chúng tôi
vội quay đầu lại, nhìn thấy trên tường đã thủng một lỗ to, con rồng thủy ngân
đầu nghển lên trong bức vẽ Hiến vương thăng thiên trên bức tường ở chính điện
không ngờ đã chui qua bức tường ngăn của hậu điện.
Cái đầu rồng thò vào hậu
điện đang ồng ộc phun ra rất nhiều thủy ngân, dưới nền nhà lập tức có vô số hạt
thủy ngân to nhỏ đủ cỡ đang lăn tròn. Tôi cuống quýt cứ như lửa đang bốc lên
tận nóc, vội nói với Tuyền béo và Shirley Dương :" Không thể ra phía cửa
điện được, trên mái điện là xà dọc xà ngang bằng gỗ nam mộc và ngói lưu ly,
chúng ta hãy trèo lên bia đá rồi phá mái nhà mà thoát ra".
Tuyền béo cũng quên béng
chứng sợ độ cao của mình, liền chỉ tay vào tấm bia ở góc tường :" Tấm bia
kia cao nhất, ta trèo lên vai nhau nhảy lên đó, mau lên mau lên, kẻo muộn khắp
người sẽ lốm đốm thủy ngân mất thôi!". Tôi và Shirley Dương không dám nán
lại, vội nhón chân tránh thủy ngân dưới đất chạy đến tấm bia cao to ở góc nhà,
công kênh giúp nhau trèo lên.
Phía trên tấm bia này là bộ
áo phù thủy màu đỏ nửa trên có cái đầu phụ nữ trát đầy son phấn, nửa dưới trống
không, chỉ nơi này là có thể với lên xà gồ trên nóc điện.
Tôi hơi có chút do dự, tuy
chưa nhìn rõ tại sao mụ ấy lại cười được, cũng chẳng rõ đó là xác chết hay là
ma, nhưng vẫn cho rằng cái xác phụ nữ bê bết phấn son này chẳng phải là thứ hay
hớm gì.
Đang nghĩ vậy tôi chợt thấy
từ ba bức tường bích họa khác ló ra ba cái đầu thú, cũng đều có cơ quan để phun
thủy ngân ra. Mặt nền của đại điện lập tức bị thủy ngân phủ khắp. Giờ thì dẫu
trên vòm mái có quỷ dữ thật cũng mặc, tôi đành đưa tay ra để Tuyền béo kéo lên
đỉnh tấm bia.
Lúc này Shirley Dương đã
dùng mỏ vuốt hổ ngoắc lên thượng lương của mái nhà, đu lên xà ngang bằng gỗ nam
mộc rồi dòng dây thừng ròng rọc xuống. Lớp thủy ngân trên sàn điện đã rất dày,
tôi và Shirley Dương dùng ròng rọc rút Tuyền béo đưa lên. Tôi lên sau cùng.
Cúi nhìn xuống dưới kia
thấy thủy ngân sóng sánh đã dâng cao đến già nửa mét, và đang nhanh chóng dâng
lên nữa, đám lửa cháy ở cái đỉnh sáu chân đã dịu đi phần nào. Ánh sáng chiếu
vào thủy ngân hắt lên vô số gợn sóng rung rinh khiến điện đường hết sức diễm lệ
trong ánh sáng lại càng trở nên quái dị bội phần.
Vì lửa cháy quá dữ nên
không khí trong điện loãng đi, mấy con quái thai còn sót trong điện đều nhoài
ra trên nền mà quẫy đạp, thủy ngân ngập kín một nửa thân, đang giãy giụa khổ
sở. Chúng tôi khỏi cần ra tay vì chúng cũng chẳng còn sống được mấy chốc nữa.
Thủy ngân bị lửa nhiệt độ
cao đốt nóng, bốc lên một mùi khé mũi, cực kỳ khó chịu, ngửi nhiều có thể trúng
độc, nhưng cũng không đến nỗi mất mạng ngay. Thấy Tuyền béo lên được xà ngang
rồi, tôi cũng không dám chậm trễ, vội buộc ngay dây thừng leo núi chuyên dụng,
lắp ròng rọc rồi rút người lên.
Lên đến nơi tôi mới nghĩ
đến bộ áo dài phù thủy đang treo trên nóc, ngoảnh nhìn sang từ phía cây xà gồ
chính, chiếc áo phù thủy màu đỏ thùng thình lặng lẽ treo dưới một cây xà ngang
cách tôi không đầy một mét, ánh sáng nhộn nhạo hắt vào, trông bộ áo ấy như có
sự sống, đung đưa khe khẽ.
Shirley Dương nói nó rất
giống kiểu vu y mà mụ thầy mo người man di mặc. Mặc dù trước đây chưa từng thấy
thứ như thế bao giờ, nhưng tôi biết hễ có liên quan đến hoạt động cúng tế của
Hiến vương thì nhất định phải có trang sức hình con mắt, mà trên tấm áo dài đỏ
này lại không thấy, còn nếu đây là vu y, thì chắc chắn thuộc về một nhân vật
quan trọng nào đó trong đám dân man di bị Hiến vương đồ sát.
Lúc này cả ba chúng tôi đều
đã ở trên cây xà lớn cao nhất trên đỉnh mái điện, bên dưới kia thủy ngân không
ngớt dâng lên, gỗ trong đại điện vừa bị lửa thiêu cho một chập, giờ lửa đã tắt
nhưng chúng vẫn nở ra vì nóng, phát ra những tiếng nứt tanh tách. Ngồi trên cây
cầu độc mộc có thê bị gãy bất cứ lúc nào này, ba chúng tôi đều không hẹn mà
cùng nghĩ đến một điều: trên bộ vu y kia chẳng phải có cái đầu người sao?
Khi nãy chiến đấu với bọn
quái thai hung dữ, lại chỉ chú ý tránh thủy ngân và lửa, từng phút từng giây
đều hiểm nguy đến tính mạng, chúng tôi đã tạm quên tiếng cười nham hiểm ghê rợn
phát ra từ cái đầu phụ nữ này, bây giờ mới nghĩ lại. Lửa trong điện đã tắt
ngúm, khu vực giữa các xà gỗ trên nóc điện tối đen như mực, những bộ quần áo cổ
quái treo phất phơ lơ lửng, bật đèn gắn trên mũ lên, chỉ thấy chập chờn mờ ảo
chẳng khác gì các u linh ngàn năm đi đòi mạng đang quanh quẩn trên vòm mái.
Gần nhất là bộ vu y phụ nữ
đỏ thắm như máu, nhìn khuôn hình trong bóng tối thấy nửa thân trên đúng là có
thứ gì đó nhưng phần đầu bị một thanh xà che khuất nên nhìn không rõ.
Tôi vẫy tay ra hiệu với
Tuyền béo và Shirley Dương ở phía sau, bảo đừng hành động gì. Thủy ngân bên
dưới chưa thể dâng đầy cả hậu điện trong chốc lát, tôi lần đi trên thanh xà đến
gần để xem xem có phải bên trong bộ vu y có quỷ dữ mụ mo của dân man di không.
Mụ mo tức nữ phù thủy có
thể dùng cách uống thuốc để rơi vào trạng thái ảo giác, giao lưu với thần linh.
Tuy gọi là "mụ" nhưng không nhất thiết phải là phụ nữ có tuổi, mà
cũng có thể là cô gái trẻ. Những phù thủy này có địa vị rất cao trong cộng đồng
dân man di, mượn danh nghĩa thần linh, có toàn quyền phát ngôn, muốn nói gì thì
nói.
Tôi bảo Tuyền béo đưa cho
chiếc cuốc chim, thoáng nhìn lớp thủy ngân, rồi nín hơi, bò trên xà ngang đến
gần bộ áo. Đó là một cái đầu phụ nữ bê bết máu me, mặt bị tóc che kín, ở giữa
chỉ hở ra một kẽ nhỏ. Cái đầu gục xuống bất động
Tôi không thể hiểu nổi
tiếng cười nham hiểm đáng sợ lúc nãy đã phát ra như thế nào, là quỷ nhập tràng
hay là quỷ dữ? Nghe nói quỷ nhập tràng khi bị lửa đốt cũng phát ra tiếng rên bi
ai như tiếng cú mèo kêu, nhưng lúc nãy chúng tôi lại nghe thấy tiếng cười, một
thứ tiếng cười rin rít ghê lạnh và nham hiểm. Mẹ kiếp, phải nhìn thật rõ mới
được! Nếu là có ma, thì nhân thể phá thủng mái ngói lưu ly cho ánh mặt trời
chiếu vào tiêu diệt hồn phách của nó luôn. Còn nếu không thể tra rõ là gì, tốt
nhất cứ gí bật lửa đốt luôn bộ áo quái dị này để trừ hậu họa.
Lúc này trong điện tối om
nhưng ngoài kia vẫn đang là ban ngày. Nghĩ đến đây tôi thấy có thêm can đảm,
bèn nhích lại gần thêm nửa mét nữa. Ở chỗ này có thể nhìn thấy khuôn mặt của mụ
đàn bà mặc áo phù thủy. Da mặt mụ ta trắng bệch đáng sợ, không phải màu trắng
vì hết máu của mặt người chết, mà là do phết một lớp phấn trang điểm rất dày,
hai má bôi son đỏ hồng, đôi môi đỏ mím chặt lại.
Nhưng tôi vẫn chưa nhìn
thấy đôi mắt mụ ta. Khi định cầm cuốc chim ngoắc cái đầu lên để nhìn cho rõ,
chợt nghe thi thể đó bỗng phát ra một tràng cười âm hiểm " hi hi hi ... he
he he ... khè khè khè khè ...". Trong bóng tối im lặng như tờ, tiếng cười
ấy khiến máu người ta sắp đóng băng đến nơi!
Tuy đã có chuẩn bị tâm lý
nhưng tôi vẫn giật nảy mình vội lùi ngay lại phía sau, chẳng ngờ bị mất thăng
bằng, thân mình chao đi, ngã nhào khỏi cây xà gồ chính, may sao đã có dây bảo
hiểm nên không đến nỗi chạm người xuống thủy ngân dưới nền điện.
Vào cái khoảnh khắc bị rớt
xuống ấy, thấy ánh đèn chiếu loang loáng trên thủy ngân, tôi bỗng nảy ra một ý
nghĩ. Trong hậu điện của cung Lăng Vân có rất nhiều chỗ kỳ quái, nhất là cơ
quan phun thủy ngân đột nhiên xuất hiện kia, tuy lối ra đã bị bịt kín nhưng mái
vòm này dù không cần đặt thuốc nổ để phá, người ta vẫn dễ dàng dỡ mái để thoát
thân. Thế thì chốt lẫy phun thủy ngân có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ nó không dùng để
đối phó với kẻ xâm nhập, liệu có phải lượng lớn thủy ngân ấy dùng để chôn vùi
một bí mật nào đó cất giấu trong hậu điện này?
Chương 38: Cửa
sổ nhà trời
T ôi rơi khỏi thanh xà, bị sợi dây bảo hiểm treo lơ lửng như những bộ
quần áo trống không kia, đầu lộn xuống đít chổng lên trời. Đang nghĩ đến chuyện
cơ quan phóng thủy ngân ở hậu điện có khả năng là để bảo tồn một bí mật nào đó,
bỗng thấy lưng mình thắt lại một cái, Shirley Dương và Tuyền béo đang nắm sợi
dây thừng, từ từ kéo tôi lên lại thanh xà chính.
Bộ não tôi vận hành cực
nhanh, thấy thủy ngân đang dâng lên mỗi lúc một nhiều, đã ngập cả thân đỉnh
đồng sáu chân, chẳng mấy chốc sẽ ngập hết đám tường bích họa và các tấm bia đá.
Có lẽ nơi đặt cơ quan hễ đụng đến là kích hoạt phun trào thủy ngân chính là nơi
cất giấu cái bí mật ấy, chắc chắn nó nằm ở một nơi nào đó trong những bức bích
họa, bia đá và cái đỉnh đồng. Cụ thể là ở đâu nhỉ?
Có lẽ vì thân thể lộn phộc
máu chảy ngược, cảnh tượng trong điện nhìn cũng khác hẳn với khi nhìn thẳng,
đầu óc tôi giờ tỉnh táo lạ thường, ngẩng đầu một cái là thấy mặt nền cung điện.
Từ vị trí lửng lơ này, nổi bật nhất là những bức tường bích họa được sắp xếp
theo hình bát quái cửu cung. Trong đó có một bức bắt mắt nhất, mặt tường trắng
nhòe nhoẹt máu thịt của con quái thai bị nắp đỉnh đồng cán chết, vừa đen vừa
xanh, cứ như bị té mực lên vậy. Cái nắp đỉnh nặng nề xô vào đã làm lõm một lỗ,
xung quanh đầy vết rạn.
Tám bức tường đều có rất
nhiều bích họa, vẽ chi chít các loại nghi thức phù thủy cổ quái của nước Điền.
Duy chỉ có mỗi một bức, chính là bức bị cái nắp đỉnh đập vào, tường vừa vỡ là
lối vào điện liền bị bít kín, lại có thủy ngân trong miệng con rồng ồng ộc phun
ra. Điều đó chứng tỏ trong bức tường này cất giấu một thứ quan trọng, hễ bị
ngoại lực tác động, nó sẽ kích thích hệ thống cơ quan cạm bẫy trong cung điện,
không né tránh kịp sẽ bị thủy ngân chôn vùi, toàn thân xám đen chết luôn. Nếu
người xâm nhập có thể linh hoạt nhanh nhẹn thoát lên nóc điện, chỉ ít phút sau
thủy ngân chảy ngập hậu điện, cũng rất khó mà phát hiện ra trong bức tường đó
ẩn chứa cái gì.
Sở dĩ không bố trí theo
kiểu bịt kín hẳn luôn có thể là vì để sau này còn phải lấy vật đó ra. Nhưng tại
sao khi chôn cất Hiến vương không mang nó xuống huyền cung dưới đất luôn mà lại
cất giấu ở minh lâu? Việc cấp bách lúc này là phải lấy cái vật trong đó ra
trước khi thủy ngân dâng ngập vết hõm nứt trên bức tường.
Tôi không nghĩ ngợi gì
nhiều, chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi lập tức dựa vào trực giác của Mô kim
Hiệu úy nhận định rằng trong bức tường đó có cất giấu một vật. Gọi là
"trực giác", chẳng qua là từ một số ký ức rời rạc trong óc và những
thông tin cảm nhận được, tổng hợp lại, bỏ qua các bước tư duy logic, trực tiếp
phản hồi vào dòng suy nghĩ, độ chính xác của nó quyết định bởi kinh nghiệm,
hiểu biết và năng lực phán đoán của từng cá nhân.
Lúc này tôi mặc xác mình
đang treo lơ lửng trên không, lập tức gọi to :" Ở ngay trong bức tường
này!". Tôi bất ngờ hét to khiến Tuyền béo và Shirley Dương đang kéo dây
thừng lôi tôi lên xà gỗ giật bắn mình. Cả hai đều lấy làm khó hiểu, đồng thanh
hỏi :" Cái gì trong tường?"
Tôi nhận thấy hơi thủy ngân
trong điện dần dần đậm hơn, không thể nán lại lâu thêm được nữa mà lúc này lại
càng không có thời gian nói tỉ mỉ, bèn bảo họ đừng kéo tôi lên vội. Tôi muốn
được thả xuống gần chỗ tường bích họa bị vỡ xem xem có thể moi cái vật đó ra
hay không, ngoài ra còn nhắc Tuyền béo bật lửa đốt bỏ bộ vu y ma quỷ kia đi,
tôi nhấn mạnh dù bộ áo đỏ cổ quái đến mấy cũng mặc kệ, cứ đốt phăng đi. Đồng
thời, bảo Shirley Dương tranh thủ thời gian trèo lên chỗ cao nhất để phá mái
ngói.
Shirley Dương và Tuyền béo
chưa biết tôi định làm gì, nhưng ba chúng tôi đã sát cánh bên nhau lâu rồi nên
cũng hiểu nhau khá rõ, đều biết hẳn là tôi phải có lý do nào đó, sau khi thoát
ra sẽ nói cũng không muộn, liền chia nhau trên xà nhà làm phần việc của mình.
Đang ở trong bóng tối,
không nhận ra độ cao nên Tuyền béo vẫn hành động bình thường được. Tôi thấy cậu
ta bạo dạn bước trên xà gỗ đến gần bộ vu y treo nơi góc điện, tay run run lấy
bật lửa ra. Gặp phải loại thô lỗ hung ác như thằng béo này, e quỷ thần cũng
phải kiêng nể ba phần. Vậy là tôi cũng không nhìn cậu ta nữa, tự mình nới ròng
rọc ở lưng ra,đạp vào một tấm bia, đẩy người chao đến gần bức tường bích họa.
Khi chao đến chỗ thấp nhất,
thậm chí cái mũ leo núi gần như áp sát mặt thủy ngân trên nền điện, hai tay tôi
vồ lấy bức tường bích họa rồi nhanh chóng bám lên trên nửa mét. Kỹ thuật tinh
luyện thủy ngân thời Tần - Hán phát triển rất cao cũng chính là nhờ những nỗ
lực không ngừng trong việc luyện đan tìm kiếm trường sinh bất tử của Tần Thủy
Hoàng và Hán Vũ Đế.
Quả nhiên trong chỗ thủng
trên bức tường bích họa bị nắp đỉnh đập vào lộ ra một nửa cái hộp ngọc có mấy sợi
vàng quấn bên ngoài, lớp thủy ngân liên tục dâng cao sắp ngập đến vết nứt trên
tường, đang gấp gáp tôi không nhìn kỹ nữa, vội đảo người trở lên, cố chịu đựng
cái mùi thủy ngân hắc đến điếc mũi, nhanh chóng ra tay bổ cuốc chim vào tường,
cái trò phá tường dỡ tường này thì tôi đã thạo từ cái thời làm lính công binh
rồi.
Tường xây toàn bằng gạch
mộc nhào cỏ nên không kiên cố là mấy. Cái hộp ngọc này khá lớn, phải bổ một
khoảng tường rộng mới moi được nó ra. Tôi còn đang mải đục tường bỗng nghe thấy
"rầm" một tiếng ở phía trên đầu, khá nhiều mảnh gạch ngói rơi xuống,
ánh mặt trời chói mắt rọi vào cung điện u ám.
Tôi ngẩng đầu nhìn lên, thì
ra Shirley Dương đã mở được một ô trên mái cung điện. Mái ngói lưu ly này không
dày nên không cần đến thuốc nổ, dùng luôn xẻng công binh và cuốc chim cũng phá
dỡ được một ô to. Ánh dương chiếu xiên vào đại điện, vừa khéo rọi đúng vào bộ
vu y treo nơi góc xà, đúng lúc ấy Tuyền béo cũng vừa châm lửa đốt. Bộ vu y đỏ
thắm như nhuốm máu tươi bốc cháy rơi xuống, biến thành đám tro, chỉ loáng cái
đã bị thủy ngân dìm ngập.
Thấy hai người kia đều đã
xong việc, tôi cũng dốc toàn lực để dỡ nốt hai viên gạch cuối cùng rồi nhấc cái
hộp ngọc ra, cầm trên tay thấy cũng không nặng lắm, giờ không có thời gian mà
đoán mò xem bên trong chứa vật gì, tôi kẹp cái hộp ngọc vào nách rồi đẩy ròng
rọc kéo người lên xà gỗ. Mấy cái đầu thú trong điện vẫn không ngừng phun thủy
ngân, đã ngập qua cái hốc trên tường bích họa, nếu vừa rồi chỉ chậm nửa phút e
vĩnh viễn không còn cơ hội lấy được cái hộp ngọc này.
Lên được cây xà chính rồi,
tôi lập tức cùng Tuyền béo nhanh chóng bám vào các thanh gỗ chui qua lỗ thủng
trên mái, thoát ra khỏi thiên cung đầy rẫy nguy hiểm.
Bên ngoài mặt trời đã xế.
Do đặc điểm về địa hình, nên ban ngày ở đây thời gian chiếu sáng rất ngắn, mặt
trời vừa xế bóng lập tức bị núi cao che khuất, thung lũng dần chìm trong bóng tối.
Đứng trên mái ngói lưu ly trơn nhẵn nhìn xuống long huân ở dưới cung điện, thấy
bảy sắc cầu vồng khi có đủ ánh sáng mặt trời lúc này đã biến thành một làn sáng
vàng hơi tối, hồ nước hình cái phễu giờ không thể nhìn rõ mặt nước nữa, dường
như nó đã hòa làm một với cái xoáy nước đen ở đáy hồ sâu thẳm.
Hồi tưởng lại tình cảnh
trong thiên cung vừa rồi, điều khiến tôi thấy khó hiểu nhất vẫn là đám tượng
thú tượng người bằng đồng. Còn những bộ trang phục cổ quái treo đầy trên nóc
điện, tiếng cười chói tai của người phụ nữ trắng bệch như sáp, dòng thủy ngân
phun ra, cái hộp ngọc cất trong tường bích họa ... đều không đáng bận tâm. Óc
tôi choán đầy hình ảnh những pho tượng đồng với các tư thế và phục sức rất khác
thường, hẳn phải có chuyện rất khác lạ chi đây nhưng tôi nghĩ không ra, và càng
nghĩ lại càng không lần ra một chút xíu manh mối nào.
Bị Shirley Dương khẽ đẩy
một cái, tôi mới ra khỏi trạng thái trầm tư mà định thần lại, bèn đưa cái hộp
ngọc vừa moi được bên trong bức tường ra cho Tuyền béo và Shirley Dương xem,
đồng thời kể tóm tắt tình hình lúc đó.
Bên ngoài hộp ngọc được
quấn mấy vòng sợi bằng vàng, chất ngọc thuần phác xa xưa, hơi lấm chấm đỏ,
thoạt nhìn biết ngay là cổ vật vài nghìn năm trước. Nó là hình hộp chữ nhật
dẹt, có lẽ không phải để chứa Mật phượng hoàng. Cất giấu kín đáo trong hậu điện
thiên cung, bên trong chắc không phải một vật tầm thường. Tôi muốn mở xem ngay
nhưng nắp hộp đậy rất chặt, nếu không có dụng cụ đặc biệt để mở, chắc chỉ còn
cách đập hộp ra mà xem vậy.
Shirley Dương nói :"
Hộp ngọc không đáng gì, thứ bên trong mới là quan trọng. Chi bằng chờ khi nào
trở về đã rồi hãy xem. Bây giờ thời gian đang gấp gáp, chẳng cần thiết cứ phải
xem cho sớm làm gì".
Tôi gật đầu nói
"phải" và giao cho Tuyền béo gói lại cho kỹ rồi cất vào ba lô của cậu
ta. Tôi hỏi :" Lúc đốt cái áo đỏ ấy, cậu có thấy điều gì khác lạ không?"
Tuyền béo cất cái hộp đi,
rồi đặt chiếc ba lô cỡ đại sang bên cạnh, sau đó trách tôi :" Vẫn dám thản
nhiên hỏi thăm nhau nữa kia đấy? Cái áo chết tiệt ấy thật quái dị, nếu tôi non
gan một chút chắc lúc này cậu đã phải đi lượm thây cho tôi rồi! Lần sau nếu lại
có cái việc mất mạng kiểu ấy thì cậu tự đi mà làm nhé! Ngay lão thầy bói mù
cũng bảo cậu cao số ..."
Trời sắp tối. Bước tiếp
theo, chúng tôi sẽ xuống đáy hồ xác định rõ vị trí đường dẫn đến mộ Hiến vương.
Tôi bèn vừa cùng Shirley Dương sắp xếp các trang bị vừa hỏi Tuyền béo :"
Thì lão mù cũng đã xem cho cậu rồi còn gì? Lão ta bảo cậu là Lã Bố - Lã Phụng
Tiên thời Tam Quốc đầu thai chuyển kiếp, dũng mãnh địch nổi muôn người, còn có
thứ gì dọa nổi cậu được? Cậu nói kỹ xem, cái xác phụ nữ chỉ có nửa thân trên
trong bộ áo ấy trông ra sao?"
Tuyền béo đang đứng ở chỗ
cao nhất trên nóc thiên cung nhìn xuống thung lũng đen ngòm bên dưới, thấy ngói
dưới chân rất trơn nên hơi hoảng, nghe tôi hỏi vậy buột miệng nói luôn :"
Cổ quái cái gì, mả mẹ nó chứ! Chẳng qua chỉ là một bộ gọng hình cái đầu, bề mặt
bịt tấm da, với một bộ tóc giả trùm lên. Tôi nút kín lỗ tai nên không nghe thấy
tiếng ma cười, rồi làm theo lời cậu dặn, kéo cái thứ ấy lại, đốt sạch cả đầu
lẫn áo!"
Tôi lấy làm lạ :" Thế
thì tiếng ma cười rợn tai kia ở đâu ra? Hay là có hồn ma nhập vào bộ áo ấy?"
Tuyền béo nghiến răng rin
rít khẽ nói với tôi :" Cậu chưa lại gần nhìn đó thôi, cái đầu bịt da người
vẽ nền trắng môi son, chẳng khác gì mặt người chết! Giờ nghĩ lại mà thấy run cả
chân, nếu còn có hồn ma gì nữa tôi giờ này lấy đâu ra mạng mà đứng đây nói
chuyện với cậu nữa hử? Theo tôi, tiếng cười ma quái ấy là do đầu lâu có mấy cái
lỗ, bị gió nhẹ trên vòm mái thổi qua, vòm mái làm toàn bằng gỗ nam mộc cỡ đại,
có thể phát ra tiếng vi vu khiến chúng ta nghe nhầm. Cậu đừng nghĩ lung tung
nghi thần nghi quỷ làm gì!"
Tôi nghe Tuyền béo kể lại
toàn bộ quá trình, nhất thời cũng không biểu lộ gì, chỉ yên lặng suy tư :"
Thằng béo này vốn lẩn thà lẩn thẩn, nói năng cũng chẳng ra đâu vào đâu, tuy cậu
ta đã đốt bộ vu y rồi, nhưng vẫn chẳng thể yên tâm được. Tiếng cười quỷ dữ ấy
ghê rợn quá, tòa thành ma quỷ ở Tân Cương cũng có tiếng gió rít kỳ dị nhưng
không tởm lợm như ở đây. Thề có Mao chủ tịch rằng bộ áo và cái đầu người ấy
không thể đơn giản như vậy, giờ đang lâm vào cảnh hiểm nguy, làm việc gì cũng
phải hết sức thận trọng, vẫn nên thử cậu ta xem sao rồi mới yên tâm được, chứ
chỉ cần một sơ suất, sau này lại phải ân hận".
Tôi lo Tuyền béo đã bị
trúng tà, nên muốn dùng vật trấn tà để thí nghiệm với cơ thể cậu ta. Mặt trời
giờ đã ngả về Tây, sắp khuất sau quả núi lớn bên kia, nếu muốn ra tay cần phải
làm ngay trong ít phút nữa.
Tôi sắp xếp các phương án
trong đầu, rồi đặt các thứ đang cầm trong tay xuống, đứng lên mái ngói lưu ly
giả vờ vặn hông vươn vai cho giãn gân cốt, rồi thừa thế vòng ra sau lưng Tuyền
béo.
Nào ngờ điệu bộ hơi vụng về
quá, mặc dù Tuyền béo tuy chẳng phát hiện ra, vẫn đang nhai sô cô la cho đỡ
đói, nhưng Shirley Dương lập tức nhận ra tôi có vẻ bất thường. Cô nàng hỏi
:" Anh lên cơn rồ à? Sao lại vươn vai đúng vào cái lúc này? Ngói lưu ly
trơn lắm, phải coi chừng đấy!"
Tôi nháy mắt với Shirley
Dương ra ý đừng nói thêm gì nữa, thầm nghĩ :" Mọi ngày cô tinh quái khôn
ngoan lắm kia mà, sao hôm nay lại thộn thế? Lát nữa cô sẽ rõ Nhất tôi đây liệu
việc như thần, cô sẽ phải phục sát đất cho mà xem!"
Shirley Dương tuy không
hiểu tại sao tôi nháy mắt, nhưng cũng rất nhạy bén liền im bặt, cúi xuống tiếp
tục thay pin cho chiếc đèn pin mắt sói.
Tuyền béo đang ngồm ngoàm
đầy mồm sô cô la và thịt bò khô, ngoảnh lại nhìn tôi, miệng lúng búng hỏi
:" Tư lệnh Nhất chắc đau lưng từ lúc ngã trên xà gồ xuống à? Tôi bảo, mình
ba mươi cả rồi, có còn được như xưa nữa đâu, làm gì cũng từ từ thôi. Lúc nào về
bảo lão mù tẩm quất cho. Lão ấy mát tay ra phết đấy, hồi trước lão chặt cho tôi
sướng cả lưng ..."
Tôi vội nói luôn :" Ba
mươi là rất già hay sao? Cậu chớ có quên, người cách mạng mãi mãi trẻ trung! Vả
lại tôi không bị sái hông, tôi đứng trên cao này nhìn bao quát núi sông tươi
đẹp của tổ quốc, lòng tôi rạo rực phấn chấn, cho nên mới đứng lên định làm bài
thơ kỳ niệm".
Tuyền béo bật cười phun cả
các thứ trong miệng ra :" Cậu đừng làm khổ chúng tôi nữa! Biết có dăm ba
cái chữ mà cũng đòi làm thơ cơ đấy? Thôi bố nghỉ đi cho khỏe, lấy lại tinh thần
lát còn xuống huyền cung mò minh khí".
Thấy thần thái của Tuyền
béo vẫn bình thường, tôi cũng yên tâm hơn, nhưng đã đứng lên rồi tốt nhất cứ
nên làm theo phương án đã định, thừa còn hơn thiếu, chung quy lại vẫn chỉ có
lợi chứ không có hại gì.
Thế là tôi vừa ba hoa liến
thoắng vừa bước trên mái ngói lưu ly đến sau lưng Tuyền béo :" Tư lệnh
Tuyền béo đừng nên nhìn vấn đề mới bằng con mắt cũ, thời xưa đã có rất nhiều
thi nhân vốn là những gã ham chơi lêu lổng chữ nhất bẻ đôi cũng không biết,
nhưng cũng vẫn để lại bao vần thơ trác tuyệt cho ngàn đời sau đấy thôi? Tôi
thừa nhận hồi bé tôi không ham học như cậu, vì hồi đó tôi còn mải hưởng ứng các
lời kêu gọi và hàng ngày luôn quan tâm đến việc lớn của đất nước, nhưng tình
yêu nồng nàn của tôi đối với giang sơn tươi đẹp của tổ quốc đảm bảo không hề
thua kém cậu ..."
Tôi cứ thế mà nói, rồi lần
đến sau lưng Tuyền béo. Mồm vẫn nói, tay thò vào túi đeo nắm một nắm gạo nếp
to. Đó là gạo nếp chuẩn bị từ năm ngoái, để đã lâu, màu gạo đã đục, nhưng dùng
để đuổi tà ma thì gạo nếp quá đát vẫn cứ tốt như thường.
Tôi ném mạnh vào lưng Tuyền
béo như tiên nữ rắc hoa. Tuyền béo đang ngồi nói chuyện với tôi, giật mình vì
bất chợt bị ném gạo vào lưng, vội quay đầu lại hỏi tôi :" Ông ăn no rửng
mỡ à? Vừa nói là làm thơ kia mà, sao lại rắc gạo? Định bắt chim cho vào địa
cung đo chất lượng không khí chắc?"
Shirley Dương ngồi bên cũng
nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lùng. Thấy gạo nếp không xua được ác ma nào ra khỏi
người Tuyền béo, tôi đành giải thích :" Tôi vốn đã nghĩ ra mấy câu rất cao
siêu, có thể nói là thiên cổ tuyệt cú, nhưng chợt nhớ ra cậu béo vừa nãy đã
đụng vào cái mớ áo xống quỷ quái kia, nên muốn giúp hắn ta xua tan uế khí. Theo
quy tắc cổ truyền, khi làm việc này không được nói trước, phải làm trong lúc
người kia không hay biết mới có tác dụng. Làm sạch các uế khí xúi quẩy rồi chắc
chắn sau này cậu sẽ thăng quan phát tài, tiền đồ rộng mở. Cậu xem đấy, vì tiền
đồ của cậu mà mấy vần thơ để đời của tôi đã quên trên chín tầng mây mất rồi!
Bây giờ có nghĩ nữa cũng không thể nghĩ ra, hết hứng rồi".
Tôi phịa ra một lô lý do,
tạm xua tan sự ngờ vực của Tuyền béo và Shirley Dương, nhưng cũng chẳng rõ họ
có cho là phải không. Khi tôi định tiếp tục lấp liếm cho yên bỗng nhiên Shirley
Dương chỉ lên bầu trời nói với chúng tôi :" Các anh nhìn mây kìa, kỳ lạ
quá!"
Tuyền béo ngẩng nhìn, cũng
lấy làm lạ thốt lên :" Tư lệnh Nhất , chắc không phải là Long Vương xòe
cánh đấy chứ?"
Bầu trời xa xa, nơi vẫn còn
ánh sáng, một đám mây đen trải dài, trông như một con rồng đen vắt ngang không
trung, lại giống như một dải thiên hà màu đen treo ở chân trời, dần dần hòa vào
vùng trời trên núi đã tối sầm ở bên này làm một, thiên cung và thủy long huân
trong sơn cốc lập tức bị bóng đen che phủ.
Bình thường, ở những nơi
hoang dã không khí trong lành, hoặc ở trên núi cao không khí loãng, nếu trời ít
mây, vào ban đêm có thể nhìn thấy dải Ngân Hà sáng lấp lánh. Nhưng so với dải
Ngân Hà trên bầu trời sao thì dải "hắc hà" đang bao trùm trên đầu
chúng tôi lúc này lại âm u lạnh lẽo, toát lên một vẻ bất thường. Khu lăng mộ
trong u cốc vốn yên tĩnh, giờ đây lại càng tối đen im ắng, chúng tôi như đang ở
trong minh cung u tối dưới lòng đất.
Tôi nói với Tuyền béo và
Shirley Dương :" Hiện tượng thời tiết này cũng được chép trong sách phong
thủy cổ xưa, hắc khí nối tiếp giăng qua ngân hán, điềm này gọi là lợn đen vượt
thiên hà, bí thuật thiên tinh gọi đó là điềm mưa lấn cõi, sách " Thanh
trúc địa khí luận" nói rằng ' Lợn đen qua sông, đất này ắt có thây ma tác
quái, khí thây ma lấy âm xối dương, che khuất trăng sao ' ".
Tuyền béo không hiểu, liền
hỏi tôi :" Nếu nói vậy thì đây chẳng phải là điềm tốt lành, nhưng là điềm
mưa hay là khí thây ma? À, điềm mưa là gì? Có chặn đường kiếm ăn của chúng ta
không vậy?"
Tôi nói với cậu ta :"
Điềm mưa hay vũ hậu tức là nước lũ dâng cao. Chúng ta đến được đây, đêm nay sẽ
bắt tay vào đào mộ Hiến vương nhưng lại gặp phải thời tiết xấu trăm năm mới gặp
một lần, chẳng rõ điều này có liên quan đến việc Hiến vương cải tạo bố cục địa
hình ở đây không? Có lẽ trong những năm qua nơi đây thường xảy ra hiện tượng dị
thường này, cơn mưa lớn này cứ ậm ạch không chịu trút xuống, sớm muộn gì cũng
sẽ gây nên biến cố lớn, biết đâu chẳng bao lâu nữa thiên cung sẽ bị nước lũ
nhấn chìm. Chúng ta đừng chần chừ nữa, lập tức xuống hồ ngay thôi!"
Trong lúc nói chuyện thì
trời đã đen kịt, xòe bàn tay không nhìn thấy ngón. Ba chúng tôi vội bật đèn gắn
trên mũ leo núi, lúc này mới có chút ánh sáng, bèn chia nhau mang các trang bị
khí giới, vẫn xếp súng, thuốc nổ và các vật kỵ nược vào trong túi ba lô, sau đó
thả dây thừng từ chỗ mé điện xuống, ngắm chuẩn bậc đá sạn đạo, tụt xuống dần.
Trời tối đen, chúng tôi dò dẫm đi từng bước một, gặp chỗ sạn đạo bị đứt gãy thì
bám dây leo mà xuống. Trong bóng đen vô tận này, ba luồng sáng đèn pin thật
chẳng thấm tháp gì, chỉ tạm đủ để nhìn dưới chân mà thôi, cách xa năm sáu mét
là không thấy gì hết nữa.
Chúng tôi lần mò trong bóng
tối, rồi cũng đi đến kịch đường sạn đạo, nhưng đoán rằng lúc này cũng mới chỉ
năm giờ chiều là cùng. Bầu trời hình tròn trên cái phễu và cảnh vật xung quanh
cũng đã nhập làm một cùng bóng tối. Con lợn đen này qua sông nhanh thật!
Tôi chợt nhớ ra hôm nay là
ngày mười chín tháng Bảy. Thế này quả thật không may rồi.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét