Chương 4: Dòng Côn Luân không băng
Mùa xuân năm ấy, các nhà
lãnh đạo Trung Quốc nhận thấy sự uy hiếp nghiêm trọng đến từ các thế lực thù
địch quốc tế, liền không ngừng tiến hành điều chỉnh lại toàn bộ chiến lược quân
sự như mở rộng quân đội, chuẩn bị tác chiến, đào hầm, trữ lương đồng thời huy
động nhân dân tích cực tham gia các cuộc diễn tập phòng không, chống chiến
tranh hạt nhân, và chiến tranh hóa học.
Đợt về thăm nhà, có người
báo cho tôi một tin nội bộ, rằng vấn đề của gia định tôi sẽ chóng được các ban
ngành cấp trên làm sáng tỏ, chứng minh ông nội tôi không phải là địa chủ mà chỉ
là thành phần trung nông, như vậy việc thả bố mẹ tôi xem ra chỉ là chuyện một
sớm một chiều. Lúc bấy giờ quân Giải phóng đang trưng binh ồ ạt, một ông bạn
chiến đấu cũ của bố tôi cho tôi nhập ngũ theo kiểu "lính chạy cửa
sau".
Chú Trần, đồng đội cũ của
bố tôi, là tham mưu trưởng của một phân khu quân đội. Năm xưa binh đoàn số 9
tham chiến ở Triều Tiên, cao nguyên Cãi Mã băng tuyến phủ dầy, mười mấy vạn
quân tình nguyện bao vây sư đoàn hải quân lục chiến số một tinh nhuệ nhất quân
đội Mỹ. Không quân Mỹ thả xuống chiến trường một lượng lớn bom lân tinh, bom
napan, biến bầu trời đêm thành sáng rực như ban ngày. Bất chấp tấm bình phong
hỏa lực xây bởi làn mưa bom bão đạn của quân Mỹ, quân tình nguyện vẫn phát động
những cuộc tấn công như vũ bão, hết trận này đến trận khác...
Trong cuộc chiến khốc liệt
ấy, bố tôi chẳng quản cái lạnh hơn âm hai mươi độ, lao vào đống binh sĩ thiệt
mạng cõng chú Trần đang bị thương nặng chạy ra, đến khi tới trung tâm cứu hộ,
cơ thể của hai người đã bị dính chặt bởi máu và nước đông cứng, y tá cũng phải
dùng kéo cắt vào da thịt hai người mới tách họ ra được. Tình nghĩa của hai
người họ chẳng thể chỉ dùng bốn chữ anh em sinh tử mà so sánh được, vả lại vấn
đề của bố mẹ tôi cũng sắp được giải quyết ổn thỏa, nên giờ có sắp xếp cho tôi
vào quân ngũ đối với tham mưu trưởng của một phân khu kể ra cũng chẳng khó khăn
gì.
Chú Trần hỏi tôi muốn làm
lính gì, tôi bảo muốn làm không quân, nghe nói phi công có chế độ ăn uống tốt.
Chú mới gõ vào đầu tôi: "Lái máy bay đâu có dễ thế! Mày vào đội quân dã
chiến cho chú, rèn luyện tử tế vài năm, rồi chú điều mày vào làm trong cơ quan
quân khu". Tôi nghe thấy bảo phải làm việc trong cơ quan thì bảo thôi, thà
cứ ở bộ đội cơ sở còn hơn, chỉ ngồi trong văn phòng tôi chẳng quen được.
Tôi cứ định quay lại trại
Cương Cương chào tạm biệt Tuyền béo với cả Yến Tử, nhưng vì thời gian không cho
phép, đành phải viết cho hai người họ bức thư vậy, trong lòng vẫn cảm thấy áy
náy không yên, mình thì nhập ngũ làm bộ đội, bỏ mặc bạn tốt lao động nơi núi
rừng hẻo lánh, nói thế nào thì cũng vẫn có cảm giác không thể cùng chung hoạn
nạn với bạn bè. Có điều cảm giác ấy chỉ ba tháng sau là bay biến, khi ấy tôi
mới biết quãng thời gian làm thanh niên trí thức ở Nội Mông mới dễ chịu biết
bao!
Tôi được ban trưng binh
biên vào một sư đoàn đang sắp chuyển thành bộ đội thiết giáp, chẳng ngờ ma xui
quỷ khiến thế nào, vừa mới tới trại huấn luyện tân binh chịu khổ được ba tháng,
Quân ủy Trung ương lại hạ lệnh điều đơn vị chúng tôi tới binh trạm đạo 62 ở dãy
Côn Luân trên cao nguyên Thanh Tạng, cả sư đoàn đều đổi thành bộ đội công trình.
Thực ra việc này không có
gì là lạ, tình hình lúc bấy giờ, bộ đội cả nước đều phải đào hầm, xây dựng
những kiến trúc phòng kháng hạ tầng như hầm phòng không, hầm chứa đạn dược, hầm
che chiến lược, vân vân, toàn quân hầu như không có người lính nào không đào
hầm cả, chỉ khác ở chỗ: đơn vị của tôi sẽ chuyển từ đào hầm nghiệp dư thành đào
hầm chuyên nghiệp. Nhiệm vụ của chúng tôi thuộc loại Cơ mật cấp I, xây dựng một
căn cứ khổng lồ ở tận sâu trong lòng núi Côn Luân, tuy không ai thông báo rõ
cho các chiến sĩ về mục đích sử dụng của căn cứ này, nhưng những người có đầu
óc một chút chắc đều có thể đoán ra được cả. Trong quân đội có những điều lệ
bảo mật, nên mọi người ngày thường không bao giờ đả động chuyện này. Cũng có
lời đồn rằng hoàn thành nhiệm vụ này xong, chúng tôi sẽ lại được biên trở về
làm quân dã chiến.
Núi Côn Luân hay còn gọi là
Côn Luân Ô Khẩu, cao 4767 mét so với mực nước biển, theo cách nói của địa chất
học thì núi này thuộc loại "địa mạo hoang mạc băng tích nhiều năm",
tạo nên bởi các lớp nham tầng chuyển hóa từ những hợp chất phân hủy từ thời cổ
đại. Sư đoàn chúng tôi từ trên xuống dưới, ngoài biết đào chiến hào ra, thì
chẳng có kiến thức gì về việc thi công các công trình xây dựng, vậy nên quân
đội đã đặc phái rất nhiều kĩ sư, kĩ thuật viên đến làm công tác chỉ đạo hướng
dẫn, đồng thời tiến hành bồi dưỡng cấp tốc cho các cán bộ chỉ huy và các chiến
sĩ trong vòng năm tháng. Phân đội của tôi được giao phó phái một tiểu đội đi
tiên phong xuống miền Nam ,
vượt qua "Bất Đông Tuyền" (suối không đóng băng) rồi tiến vào tận
trong dãy núi Côn Luân rộng lớn, nhiệm vụ của chúng tôi là phải đi tìm địa điểm
ẩn mật thích hợp cho việc xây dựng công trình.
"Bất Động Tuyền"
nằm ở bờ bờ phía Bắc sông Côn Luân, còn được gọi là suối Côn Luân, những tấm đá
hoa cương quây thành vách, nước suối trong vắt không ngừng tuôn trào hàng vạn
năm nay, dù là mùa đông băng giá vẫn không hề đóng băng, cũng không ai biết
suối này bắt nguồn từ đâu cả. Cấp trên có lệnh cấm không cho binh lính được tắm
rửa ở đây, bởi dân Tạng bản địa coi con suối này là suối thần, thường xuyên bái
lậy. Hồi trước khi Tây Tạng vừa giải phóng, đại quân từng đi ngang qua đây, khi
ấy vẫn chưa có quy định gì hết, có ba chiến sĩ tự xuống suối tắm, nhưng đều
chết đuối cả, nguyên nhân cái chết nghe nói là do trong nước có lượng diêm tiêu
và lưu huỳnh rất lớn, mộ của ba chiến sĩ ấy ở bính trạm cách đây không xa, trạm
tiếp tế cuối cùng của chúng tôi cũng được đặt ở chỗ ấy.
Cuối cùng chúng tôi cũng
tiến vào dãy Côn Luân, dường như mọi người đầu xuất hiện phản ứng cao nguyên
nghiêm trọng. Mặt người nào người ấy đều tím bầm lại, mắt mũi tối sầm, đầu óc
dường như sinh ảo giác. Dãy Côn Luân sừng sững muôn núi ngàn khe, tựa những con
rồng khổng lồ xám bạc cuồn cuộn phóng mình về phía trước, tiểu đội chục người
của chúng tôi trông chẳng khác gì một mống kiến nhỏ xíu lạc lõng giữa mạch núi
hùng vĩ vô biên này.
Trên đường hành quân, tôi
chợt nhớ tới cuốn sách cũ ông nội để lại, trong sách có ghi năm ngàn ngọn núi ở
Côn Luân là long mạch cổ của toàn thiên hạ, những mạch núi này từ thời thái cổ
đến nay đã vùi náu vô số bí ẩn bên trong, tương truyền lăng tháp của vị vua anh
hung Kasar và cánh cửa lớn thông tới Ma quốc trong thần thoại Tây Tạng đều ở cả
trong dãy núi hung vĩ này.
Nhiệm vụ của đội tiên phong
là phải tìm được điểm thi công thích hợp, ngoài đám lính chúng tôi còn có hai
kiến trúc sư, một kĩ sư đo vẽ và một kĩ sư thăm dò địa chất, sau khi để xe lại,
chúng tôi đi bộ trong núi đã được chẵn hai ngày, buổi chiều hôm thứ hai khi mọi
người dựng lều lán nghỉ ngơi, bầu trời dầy đặc những áng mây trì, thi thoảng có
vài bông tuyết lất phất, xem chừng đến tối thế nào cũng đổ một trận tuyết lớn.
Bốn kĩ sư đều là loại trí
thức đeo kính, họ không thích ứng được với môi trường khắc nghiệt trên cao
nguyên, vừa đặt lưng xuống lều đã thở hổn hà hổn hển, nghe tiếng thở ấy mọi
người đều lấy làm lo lắng thay cho thân thể còm cõi của bọn họ.
Chính trị viên dẫn đội,
tiểu đội trưởng và nhân viên y tế vội pha thuốc hạ sốt cho họ uống, khuyên họ
nên ăn một chút, vì càng không ăn sẽ càng thấy thiếu ô xi.
Anh em lính tráng đều thân
thể cường tráng, khi nhập ngũ đều phải rèn luyện mỗi ngày chạy việt dã năm cây
số ở trường huấn luyện tân binh, nên khả năng thích ứng với môi trường rất
mạnh, lúc này về cơ bản ái nấy đều đã dần thích ứng với môi trường thiếu dưỡng
khí này rồi. Mọi người dùng antraxit đặc chế đốt lửa trại, ngồi quây quanh đống
lửa sưởi ấm, sau đó ăn mỳ nửa sống nửa chín với lương khô, vùng này quá cao,
nước đun không thể sôi, nên mì cũng chỉ có thể nấu chín được một nửa.
Mấy chiến hữu tôi chơi
tương đối thân có "anh Đô" người vùng Đông Bắc Hắc Long Giang, Cả Oa
người Tây Tạng và cậu giao liên Tiểu Lâm người Cát Lâm mới mười sáu tuổi. Mấy
người chúng tôi sùm sụp vài ba miếng là hết tô mì, sau đó khề khà mấy hơi rồi
đi nghỉ, cảm giác ăn một bữa trên cao nguyên còn tốn sức hơn hành quân việt dã
dưới đồng bằng nhiều.
Tiểu Lâm nghỉ một lúc rồi
bảo tôi: "Anh Nhất! Anh nhập ngũ ở thành phố, hiểu rộng biết nhiều, anh kể
chuyện gì cho bọn tui nghe đi chớ!" anh Đô cũng hùa theo: "Trời ơi,
tui thấy thằng cha Nhất nó kín tiếng quá trời quá đất à, lát nữa còn phải họp
tiểu đội, đằng nào cũng không được nghỉ sớm, thôi cứ kể chuyện cho anh em nghe
đi mừ!".
Cả Oa nói tiếng phổ thông
không được sõi, nhưng nghe hiểu được, cậu ta cũng muốn nói gì đó, mấp máy một
hồi rồi cứ ngây ra chẳng nhớ định nói gì, đành chỉ thẳng vào tôi rồi trỏ trỏ,
tôi đoán anh chàng đại khái bảo tôi kể đi, cậu ta cũng muốn nghe.
Tôi bèn le lưỡi đáp:
"Không khí loãng thế này mà mọi người vẫn có hứng thú được cơ à? Được rồi,
các đồng chí đã muốn nghe thì tôi đành tán gẫu một đoạn vậy, lát nữa họp mà
tiểu đội trưởng gây khó dễ cho tôi thì mọi người phải nói đỡ cho đấy nhé!".
Tại sao tôi lại nói vậy,
bởi vì tay tiểu đội trưởng nay thường ngày cứ ngứa mắt với tôi, hắn nhập ngũ
dưới quê, phục dịch như nàng dâu hầu nhà chồng trong quân đội năm năm mới lên
được chức tiểu đội trưởng tép riu, nên đặc biệt khó chịu với loại "lính
chạy cửa sau" con em cán bộ cấp cao như tôi. Mỗi lần họp tiểu đội là hắn
bắt tôi phát biểu đầu tiên, rồi những nhằm những chỗ sơ hở của tôi để phê bình
chỉ trích, chuyện này dường như đã thành quy luật, làm tôi tức điên cả người
lên, chẳng muốn nhắn lại nữa.
Nhưng giờ kể chuyện gì mới
được nhỉ? Số sách tôi đã đọc cộng lại chưa đến mười cuốn, trong đó Tuyển tập
Mao chủ tịch bốn cuốn, Những lời bác Mao dạyTự điển một cuốn, rồi Mặt trời đỏ
cũng coi là một cuốn, Quân cận vệ thanh niên tính là cuốn nữa. Nhưng mấy quyển
đó tôi kể hết cả rồi, còn có cuốn Bí thuật phong thủy nữa, có điều tôi nghĩ họ
nghe cũng chẳng hiểu. một cuốn,
Tôi vắt óc nghĩ, cuối cùng
nhớ ra một cuốn sách tôi mượn của Điền Hiểu Manh hồi còn đi tham gia lao động ở
Nội Mông, đó là cuốn sổ chép tay ghi lại những truyền thuyết dân gian, nội dung
chủ yếu kể về tổ chức và hoạt động của Đảng Hoa Mai 1, ngoài ra còn có không ít
những câu chuyện kỳ quái hồi bấy giờ, trong đó câu chuyện Một trăm bộ ba mỹ
nhân đã để lại trong tôi ấn tượng rất sâu sắc.
Câu chuyện xảy ra trên một
chuyến tàu từ Bắc Kinh về Nam Kinh, cô sinh viên Triệu Bình Bình bắt chuyến tàu
này về Nam Kinh thăm nhà, người khách ngồi đối diện với cô là một anh sĩ quan
quân Giải phóng khôi ngô tuấn tú, chẳng biết vô tình hay hữu ý, hai người họ
bắt chuyện với nhau. Triệu Bình Bình bị phong độ ngời ngời và cách nói chuyện
hết sức có duyên của chàng sĩ quan trẻ hút mất hồn, qua câu chuyện, cô biết
hoàn cảnh gia đình anh sĩ quan rất tốt, lại được học hành cẩn thận, Triệu Bình
Bình thậm chí còn mơ tưởng mình được gả cho đối phương nữa. Chẳng mấy chốc,
đoàn tàu đã tới ga Nam Kinh, anh sĩ quan mời Triệu Bình Bình tới quán ăn gần ga
ngồi nói chuyện, trong bữa ăn anh ta chạy đi gọi điện một lát, quay lại liền
đưa cho cô một bức thư nhờ gủi về nhà. Nghe anh ta nói có nhiệm vụ khẩn cấp
phải gấp về đơn vị, không thể về nhà luôn được, Triệu Bình Bình liền nhận lời
ngay không chút do dự, hai người quyến luyến nhau mãi rồi mới chia tay.
Ngày hôm sau, Triệu Bình
Bình đưa thư tới nhà anh sĩ quan, đón tiếp cô là một bà già, bà mở thư ra đọc
rồi nhiệt tình mời Bình vào nhà ngồi chơi uống nước. Triệu Bình Bình uống vài
ngụm trà, nói chuyện với bà già mấy câu, đột nhiên cảm thấy hoa mắt choáng
váng, ngã lăn ra đất.
Một xô nước lạnh thấu xương
dội thẳng vào người khiến Bình Bình bừng tỉnh, cô phát hiện mình bị lột trần,
trói trên một chiếc ghế băng, bốn bức tường xung quanh treo đầy da người. Mấy
người đang đứng vây xung quanh cô là mụ già ban nãy và mấy tên đàn em vạm vỡ.
Mụ lấy bức thư ra giơ trước mặt Triệu Bình Bình cho cô xem, trong thư chỉ viết
một câu duy nhất: "Đã đưa đến tấm da mỹ nhân thứ một trăm, xin kiểm tra
lại". Mụ già cười lạnh lùng, nói: "Mày chết đến nơi rồi, để tao nói
cho mày được chết minh bạch, bọn tao là đội đặc vụ bí mật, lột lấy da bọn con gái
chúng mày để nhét thuốc nổ vào, tất cả một trăm bộ da người cuối cùng cũng đủ
số rồi". Nói đoạn liền rút ra một con dao nạo sáng loáng đưa cho một tên
đàn em, dao nạo là loại dao đặc chế, chuyên dùng để lột da, gã to con kia đưa
con dao cắt xuống đầu Triệu Bình Bình trong tiếng kêu gào thảm thiết của cô...
Tôi đang kể lên hứng, thì
bị tiểu đội trưởng chạy lại ngắt lời: "Đừng kể nửa! Đừng kể nửa! Hồ Bạt
Nhật! Đồng chí chị bịa chuyện vợ vẩn gì thệ! Mọi người họp giờ đây! Đồng chị
thịch lặm mồm thì lạt tui cho đồng chị phạt biệu trược, được phỏng!".
Tôi vội đứng nghiêm, bắt
chước giọng của tiểu đội trưởng trả lời: "Không được! Không được! Sao lại
là tui nọi trược! Nếu có nọi, cũng phại đện lượt tay Cạ Oa, mọi người đều bình
đẳng mợi là nguyên tặc xá hội chủ nghỉa chự!".
Tiểu đội trưởng lại nói:
"Đồng chị Nhật! Sao đồng chị lại nọi năng như vậy? Tui đề nghị đồng chị
không được bặt chược cạch tui nọi! Tui là tiểu đội trưởng, tui bảo đồng chị
phạt biểu đồng chị phải phạt biểu chự, không cọ chủ nghỉa bình quân tuyệt đội gì
hệt!".
Tôi nhìn đám đồng đội ngồi
quanh, ai cũng đều ra vẻ rất nghiêm túc đợi nghe tôi phát biểu. Cả Oa nhân lúc
tiểu đội trưởng không chú ý, còn lè lưỡi trêu tôi nữa. Mấy ông tướng này thật
chẳng trượng nghĩa gì cả. Giờ chỉ còn cách tự cứu lấy mình mà thôi:" Báo
cáo tiểu đội trưởng! Hôm nay chúng ta thảo luận về vấn đề gì vậy? Đồng chí còn
chưa nêu rõ, đồng chí bảo tôi phát biểu thế nào?
Lúc bấy giờ, chính trị viên
bước lại, chính trị viên Lý Kiện, năm nay ngoài ba mươi tuổi, thân hình trung
đẳng, con người nho nhã, cũng là một người lính lão luyện nhiều năm, anh đối
đãi với anh em binh lính rất tốt, không làm bộ làm tịch bao giờ, anh nói với
mọi người: "Các đồng chí đang họp à? Tôi đến dự thính một lúc!".
Tiểu đội trưởng vội chạy
đến chào chính trị viên, anh chỉ huơ huơ tay tỏ ý mọi người cứ tiếp tục, đừng
vì mình mà ảnh hưởng đến cuộc họp.
Trình độ của thằng cha tiểu
đội trưởng này thực ra rất kém, thấy có chính trị viên ngồi bên cạnh liền trở
nên căng thẳng, chẳng biết phải nói gì, có lẽ hắn nghĩ có lẽ hát một bài thì
tương đối đơn giản, liền bảo với mọi người: "Cạc đồng chị! Chụng ta cùng
hạt một bài ca Cách Mạng để cổ vú y chị nào! Cạc đồng chị thậy cọ được không?"
Đám chiến sĩ chúng tôi liền
đồng thanh trả lời: "Được!". Chính trị viên ngồi bên cạnh suýt nữa sặc
cười, vội giả vờ ho để che giấu.
Tiểu đội trưởng không thấy
có gì buồn cười cả, nghiêm mặt giơ hai tay lên làm động tác chỉ huy giàn nhạc:
"Cạc đồng chị! Tui mào trược, nào... Nụi Nhị Lang... hai... ba!"
"Núi Nhị Lang à núi
Nhị Lang, trập trùng muôn trượng vẫn vang ca. Ơi quân giải phóng mình gang
thép, xông pha khí thế rõ ngang tàng. Mặc gió táp tuyết giăng muôn lối, xây
đường lên Tây Tạng thênh thang!".
Tuyết rơi ngày một lớn,
tiếng đồng ca của mười mấy chiến sĩ vang vọng trong những áng tuyết rãi đầy
trời đất Côn Luân, cũng chẳng biết là những bông tuyết ngập trời, những dãy núi
bạt ngàn dội vang tiếng quân ca hào sảng, hay là tiếng quân ca điểm xuyến cho
vẻ thê lương tĩnh mịch của dãy Côn Luân, nhất thời cả những kĩ sư công trình
nằm trong lều trại cũng đều bị lôi cuốn bởi tiếng hát vang trời này, họ quên
hết cả phản ứng cao nguyên, dõi mắt nhìn theo những dãy núi trải dài tít tắp
trong tiếng quân ca, sóng lòng dồn dập vỗ về...
--------------------------------
1 Đảng Hoa Mai: một trong
những đảng phái chống phá Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong thời kỳ cách mạng Văn
hóa. Cuốn sách tác giả kể trên quả thực được phát tán và lưu truyền trong xã
hội bấy giờ.
Chương 5: Bọ lửa
Sáng sớm ngày thứ ba, phân
đội đã tới Sông Băng, nghe đồn rằng gần đó có một bồn địa nhỏ địa thế rất
trũng, đây cũng là điểm đến của chuyến đi lần này. Vì là nhiệm vụ cơ mật, chúng
tôi không thể tìm người bản địa dẫn đường ( mà thực ra chẳng ai biết đường cả)
, đàng phải dựa vào chiếc bản đồ quan dụng thô sơ, tìm kiếm đích đến qua những
đường mực lằng nhằng như chữ viết tháu trên bản đồ.
Sông Băng hợp bởi ba nhánh,
độ chênh lệch mực nước rất lớn, lòng sông gần như dốc đứng, chỗ cao nhất phải
hơn sáu ngàn mét so với mực nước biển, hàng vạn năm băng tuyết không tan; đoạn
giữa sông dài nhất, toàn bộ đều là mặt băng trơn bóng như gương, dày hàng trăm
mét, đoạn dưới lại thấp hơn cả độ cao trung bình của cao nguyên Thanh Tạng, tựa
như vết nứt rách sâu vào mặt đất, hơi đất ám áp nơi đây đã hình thành nên một
dải thực vật xanh mướt hiếm thấy. Ở nơi thấp nhất, phản ứng cao nguyên cũng
giảm nhẹ đi phần nào, nếu muốn đi sâu nữa vào trong dãy Côn Luân, nhất định
phải đi qua hẻm núi phía dưới dòng Sông Băng này.
Trước khi khởi hành, các
kiến trúc sư đã cảnh báo mọi người, hành quân phía dưới sông băng không được
phát ra bất kỳ tiếng động gì lớn, nếu không sẽ khiến tuyết lở chôn sống mọi
người bên dưới.
Cả đoàn ai nấy đều chẳng
dám thở mạnh, nhưng đến giữa đường rốt cuộc vẫn xảy ra chuyện. Đoạn đường đi từ
Sông Băng xuống dưới hẻm núi, một anh kiến trúc sư đến từ Bắc Kinh đã sơ ý
trượt chân ngã xuống Sông Băng, đến khi chúng tôi tìm xuống được ốc đảo bên
dưới thì chỉ thấy thi thể dập nát của anh sóng soài trên đất. Lạc Ninh, cô kỹ
sư thăm dò địa chất, là người cùng đơn vị với anh ta, thấy thảm trạng ấy không
kìm lòng được định khóc thét lên.
Một anh chuyên gia địa chất
họ Vương đã kịp thời lấy tay bịt miệng cô ta lại, rồi nói nhỏ:" Đừng khóc
ra tiếng!"
Lạc Ninh vùi đầu vào ngực
chuyên gia Vương, khóc nấc lên từng hồi đau khổ. Chính trị viên là người đầu
tiên ngả mũ, cúi đầu mặc niệm trước thi thể của người đồng đội, sau đó cả tôi
và Cả Oa thu nhặt xác của anh kiến trúc sư lại, bọc vào một cái túi đem chôn
đi. Anh chàng kiến trúc sư này ở cùng chúng tôi chưa đến ba ngày, tôi chỉ biết
anh là người Bắc Kinh, còn chưa kịp hỏi tên thì anh đã lẳng lặng ra đi như vậy.
Anh Đô lấy xẻng công binh
nhè nhẹ đào xuống lớp đất, chưa được vài nhát, bỗng nhiên từ trong hố đất bay
vụt ra một quả cầu lửa màu lam to bằng quả bóng rổ, lượn hai vòng trên không
rồi bỗng chốc lao vào giữa mọi người, các thành viên vội vàng tránh né.
Quả cầu lửa rơi xuống mặt
đất, ngọc lửa màu xanh lam dần dần tắt ngúm, nhìn kỹ hóa ra là con bọ có hình
dáng quái dị, toàn thân trong suốt như pha lê đỏ, đôi cánh càng trong veo lóng
lánh, có thể nhìn xuyên qua lớp vỏ trong suốt ấy thấy mớ nội tạng lờ lờ bên
trong, dường như trong đó còn ẩn hiện một ngọn lửa bập bùng, trông quái dị và
thần bí đến khó tả.
Cả đoàn nhìn nhau, đều muốn
hỏi đây là loại côn trùng gì, nhưng chẳng ai đưa ra được đáp án, đại khái là
một loài còn chưa được phát hiện. Chuyên gia Vương tò mò lại gần, di di ngón
tay chỉnh lại cặp kính cận nặng đang gá trên sống mũi, thích thú đưa hai ngón
tay nhón lấy con bọ đỏ như cục lửa, cẩn thận đưa lên nhìn cho kĩ, nhưng đúng
lúc ấy, ngón tay tiếp xúc với con bọ bỗng bị cháy bùng lên một ngọn lửa xanh
lè, trong giây lát, ngọc lửa bừng bừng đã nuốt trọn toàn thân anh ta.
Chỉ nháy mắt chuyên gia
Vương đã nổi đầy những vết phỏng lớn, liền sau đó liền cháy tan luôn, cặp kính
cận trên sống mũi bị đốt đến biến dạng rơi xuống đất, anh đau đớn ngã gục
xuống, nằm giãy giụa trên dưới đất.
Chúng tôi muốn cứu người
thì đã quá muộn, tiếng kêu gào thảm thiết của chuyên gia Vương đã quằn quại
trong đống lửa ma vang vọng khắp cả khe núi, ai nghe thấy cũng đều không rét mà
run, hơn nữa nhìn bộ dạng này chắc anh còn chưa tắt thở ngay được.
Có người định dùng xẻng hất
đất lên người anh để dập lửa, nhưng diện tích bị bỏng trên người anh đã lên tới
một trăm phần trăm, độ bỏng thuộc loại cực nặng, dù tạm thời dập tắt được lửa
trên người, nhưng ở tận sâu trong núi Côn Luân thiếu thốn thuốc men này, chỉ e
khó mà sống thêm được một hai giờ, vậy có khác nào khiến anh phải chịu thêm dày
vò đâu?
Cảnh tượng một người bị
thiêu sống thực quá tàn khốc, Lạc Ninh không dám nhìn lâu, vội ngoảnh mặt đi,
nét mặt cô đờ ra, bịt chặt hai tai, miệng há hốc, chẳng rõ là định khóc hay
định gào lên nữa. Tiếu Lâm là người nhỏ tuổi nhất, cũng sợ co rúm mình lại nấp sau
lưng anh Đô, người run lên bần bật.
Tiểu đội trưởng rút súng,
định giúp chuyên gia Vương kết thúc sự đau khổ này, quả thực chẳng người nào
nhẫn tâm nhình anh quằn quại thêm nữa, vả lại cứ để cho anh gào thét như thế,
chắc chắn sẽ làm lở tuyết mất.
Chính trị viên giữ chặt lấy
cánh tay đang định bóp cò của tiểu đội trưởng, rồi nói khẽ:" Không thể bắn
được! Dùng lưỡi lê! Để tôi!"
Trên đỉnh núi có hàng vạn
tấn băng tuyết, bất kỳ một tiếng động nào lớn đều có khả năng dẫn đến hậu quả
tai hại. Bây giờ việc duy nhất chúng tôi có thể làm giúp chuyên gia Vương,
chính là đâm một nhát xuyên thẳng vào tim, để cho anh nhẹ nhõm ra đi.
Tình thế không thể chậm
trễ, chính trị viên đón lấy cây súng bắn tự động kiểu 56 đã lắp lưỡi lê từ tay
một chiến sĩ, nói khẽ một câu xin lỗi rồi nhắm mắt đâm thẳng lưỡi lê vào ngực
chuyên gia Vương, cuối cùng anh cũng ngừng la hét những tiếng xé ruột xé gan,
nằm im bất động, nhưng ngọn lửa trên mình vẫn tiếp tục bùng cháy.
Chính trị viên vừa định rút
lưỡi lê ra, ngọn lửa màu xanh lam ma quái đột ngột sáng bừng lên, bất ngờ bám
vào lưỡi lê, chạy dọc lên theo thân súng.
Ngọn lửa lan đi quả thực
quá nhanh, thậm chí chỉ chưa đầy một cái chớp mắt, mọi người còn chưa kịp nhìn
rõ xem rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì thì toàn thân chính trị viên đã bị ngọn
lửa nuốt chửng.
Cũng giống như chuyên gia
Vương, chính trị viên kêu gào giãy giụa thảm thiết, thường ngày mọi người dều
biết anh quá rõ, anh tuyệt đối là một người đàn ông cứng rắn, tuy bề ngoài có
vẻ nho nhã yếu ớt, nhưng thực ra nghị lực và khả năng nhẫn nại của anh đều so
được với tiêu chuẩn của quân nhân chuyên nghiệp ưu tú nhất, chẳng biết bị ngọn
lửa quái dị kia thiêu đốt đau đớn đến mức nào mà khiến cho anh kêu lên thảm
thiết đến thế!
Tiểu đội trưởng rưng rưng
nước mắt, giơ cây súng lên, giờ bất kể băng tuyết có sụt lở hay không, thực sự
không ai nỡ thấy chính trị viên chịu khổ thêm nữa, đúng vào khoảnh khắc tiểu
đội trưởng định bóp cò súng, chính trị viên đang chìm trong ngọn lửa bỗng kêu
lên: "Tôi ra lệnh... các đồng chí không được nổ súng... mau đưa mọi người
rời khỏi đây ngay!"
Tuy toàn thân đâu đớn đến
khó thể chịu đựng, nhưng chính trị viên vẫn giữ được sự tỉnh táo,ý thức được
rằng tiếng kêu thảm thiết của mình có thể sẽ khiến tuyết lở, để không kêu nữa,
anh liền quay lưỡi lê đang nung đỏ rực trong ngọn lửa xọc thẳng vào tim mình.
Một lúc lâu sau, cơ thể anh chỉ còn lại một đống tro mịn.
Những thành viên còn lại
đều đau khổ lặng nhình cảnh trắng liệt bi thảm ấy, người nào người nấy đều nắm
chặt nắm tay, nghiến răng nén lòng giữ cho nước mắt không tuôn trào ra, có
người còn cắn môi đến chảy máu.
Trong khen núi lặng ngắt
như tờ, tầng không xanh ngắt trên đầu soi lên mặt băng, khiến người ta có ảo
giác rằng thế giới này hình như có hai bầu trời giống nhau, chẳng thể phân biệt
nổi đâu là trên, đâu là dưới, cảnh đẹp lung linh như chốn thần tiên như lại
ngập tràn không khí kinh hãi dị hùng.
Trên mặt đất lúc này có hai
đống tro, chỉ mấy phút trước, họ vẫn còn nói cười vậy mà giờ đây đã hóa thành
một nắm đất bụi, cháy đến nỗi một mảnh xương cũng không còn. Nếu không tận mắt
chứng kiến tất cả chuyện này, hỏi ai có thể tin rằng trên đời này lại xảy ra
những chuyện như thế?
Đột nhiên, trong đống tro
tàn của cái xác chuyên gia Vương, quả cầu lủa xanh ngắt lại bay ra, nó lơ lửng
dừng lại trên không trước mặt mọi người, tựa hồ đang chọn mục tiêu công kích
tiếp theo, tốc độ của nó cực kỳ nhanh, trong phạm vi tần công của nó không ai
chắc chắn mình có thể thoát được. Trong không khí vang lên những tiếng dao động
nhè nhẹ, có lẽ chính là tiếng vỗ cánh của con bọ quái đản này.
Giờ phân đội đã mất đi ba
người, mà toàn là những thành viên quan trọng, chính trị viên và hai chuyên gia
đã hy sinh, còn lại hai kỹ sư, một người là Lạc Ninh, kỹ sư đo vẽ, một người
nữa học Lưu, kỹ sư của Viện Địa trắc Thượng Hải, xem chừng nhiệm vụ lần này khó
mà hoàn thành được.
Chính trị viên không còn
nữa, các chiến sĩ mất đi người lãnh đạo, nhưng dường như tất cả mọi người khi
đối với khối cầu lửa quái dị này, trong lòng đều có chung một suy nghĩ:"
Thà bị tuyết chôn sống còn hơn để cái thứ của nợ này đốt thành tro."
Có mấy người không nhịn
được nữa đã giơ súng ngắm thẳng vào con bọ đang lơ lửng trên không, tiểu đội
trưởng bỗng tiến lên một bước nơi: "Các đồng chị!Đồng chị chính trị viên
đá hi sinh!Giờ tôi là đội trưởng! Tôi ra lệnh cho toàn bộ cạc đồng chị phải
sộng sọt trở về, được phỏng?"
Tôi biết đội trưởng định
làm gì, anh ta muốn hy sinh để những người khác tranh thủ được chút thời gian
quý báu rút ra khỏi nơi này. Tôi kéo tay tiểu đội trưởng lại, nghẹn ngào
nói:"Không được! Tiểu đội trưởng chưa phải là Đảng viên, sao lại là anh
đi? Nệu làm thì để tui làm cho!"
Tiểu đội trưởng đẩy tay tôi
ra, mắng:" Cại cậu Nhật này! Cậu còn chưa phải Đoàn viên nứa là. Tui bảo
cậu đừng cọ giả cại giọng tui, sao cậu cự không nghe thệ?". Nói vừa dứt,
tiểu đội trưởng đã lao thẳng ra chỗ quả cầu lửa lơ lửng trên không.
đội trưởng vừa lao ra vài
bước thì liền đứng khựng lại, một cảnh không thể tưởng tượng diễn ra trước mắt
chúng tôi, con bọ quái đản đang cháy rừng rực kia bỗng chốc tách ra làm ba con,
mỗi con to y như con đầu tiên.
Ba quả cầu lửa xanh rờn,
một quả phi thẳng vào tiểu đội trưởng, hai khối còn lại bay vọt vào trong đám
người chúng tôi như hai tia chớp, ngoài tiểu đội trưởng, ông Triệu đầu bếp và
cậu giao liên Tiểu Lâm cũng bị hỏa cầu bắn phải, khắp mình lưa cháy bùng bùng,
họ cùng gào lên thảm thiết, giãy đạp, lăn tròn trên mặt đất hòng dập tắt ngọn
lửa đang thiêu đốt thân thể mình.
Một chuyện khủng khiếp đã
xảy ra, ban nãy khi đối mặt với quả cầu lửa, mấy người đều căng thẳng quá độ,
nên đã mở hết chốt bảo hiểm súng máy, đạn trong băng đã đẩy hết cả lên nòng,
Tiểu Lâm mới có mười sáu
tuổi, cậu ta không có dũng khí đối mặt với cái chết và tâm lý vứng vàng như
chính trị viên hay tiểu đội trưởng, ngọn lửa dữ như con ác ma đã thiêu cháy lý
trí của cậu. Trong cơn đau đớn vì bị ngọn lửa cắn xé, khẩu súng trong tay Tiểu
Lâm cướp cò, chỉ nghe "đoàng, đoàng, đoàng...", trong tiếng súng nặng
nề, đã có ba người trúng đạn ngã xuống trong vũng máu.
Sự tình phát triển theo
hướng tồi tệ nhất, chính trị viên thà tự sát cũng không cho phép chũng tôi nổ
súng, vậy mà cuối cùng vẫn có người nổ súng. Bị bọ lửa quái dị này tấn công tuy
cũng đáng sợ, cũng không kinh khủng bằng tiếng súng làm tuyết lở, tuyết lở cũng
tức là họa từ trời xuống, cả đoàn bấy nhiêu người đừng hòng ai sống sót. Gào ầm
gào ĩ ở bên hẻm núi dưới sông Băng thì tỉ lệ tuyết lở cũng chỉ có ba mươi phần
trăm, nhưng nổ súng thì hai trăm phần trăm là sẽ dẫn đến hậu quả đáng sợ nhất.
Thấy Tiểu Lâm mất trí để
súng cướp cò, đạn bay loạn xạ ngộ sát ba người đồng đội khác, tôi không kịp
nghĩ nhiều, vội cắn răng nâng súng lên tay nổ liền ba phát, bắn ngã Tiểu Lâm,
tiểu đội trưởng và lão Triệu đang quằn quại trong đau đớn trong ngọn lửa.
Tiếng đạn ra khỏi nòng vọng
vang trong hẻm núi, hẻm núi này vốn hẹp, cộng thêm những vách băng trơn nhẵn
như gương của Sông Băng nơi đây chẳng khác nào một hộp cộng hưởng thiên nhiên,
tiếng súng, tiếng gào thét, tiếng khóc lóc, tất cả những âm thanh ấy dấy lên
từng đợt từng đợt, ngân mãi không ngừng.
Tôi vãn chưa thể thoát khỏi
sự đau khổ dằn vặt khi chính tay giết chết đông đội, trong đầu toàn là những
nét cười, điệu nói của họ khi còn sống, đầu óc cũng trở nên mơ hồ, bỗng nhiên
cảm thấy trên đầu lạnh ngắt, mới định thần lại, đưa tay sờ thử, hóa ra là một
bông tuyết rơi xuống trán.
Lúc ấy trời quang mây tạnh,
mặt trời treo trên bầu trời không rọi xuống những tia nắng chói mắt, thời tiết
này không thể nào có tuyết rơi được. Vừa chạm phải bông tuyết, lòng tôi như
trùng xuống, trong đầu lóe ngay ý nghĩ:" Tuyết lở rồi!"
Bấy giờ trong thi thể bốc
cháy của ba người đồng đội, lần lượt bay ra ba quả cầu lửa màu xanh, đến lúc
này thì chẳng phải kiêng kị nổ súng làm gì nữa, Cả Oa bắn súng giỏi nhất đội,
anh nâng sút lên chẳng cần ngắm đã bắn liền ba phát, mỗi phát đều trúng ngay
giữa quả cầu, con bọ bên trong nhỏ hơn đường kính viên đạn rất nhiều, thế nên
tất cả đều bị bắn cho tan xác, ngọn lửa theo đó mà tắt ngúm.
Trải qua cuộc đụng độ ngắn
ngủi mà tàn khốc này, tiểu đội chúng tôi tám chiến sĩ, cộng thêm thiểu đội
trưởng, chính trị viên, cả thảy mười người, giờ chỉ còn ba chiến sĩ là tôi, Cả
Oa, Đô Con với hai tri thức là anh Lưu và Lạc Ninh.
Những hạt tuyết rơi xuống
ngày một nhiều hơn, bầu trời vang lên những tiếng động rầm rầm, cả khe núi như
đang rung chuyển, tôi vội ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy từ xa những tảng tuyết
cuốn thành giông bão, như ngọn sóng thần trắng xóa ôm kín đất trời cuồn cuộn đổ
về khe núi chứng tôi đang đứng.
Anh Đô bỗng kéo tôi
gọi:" Hồ Bát Nhất! Mẹ kiếp! Lúc nào rồi mà còn trơ mắt ra nhìn! Mau chuồn
thôi!"
Vị trí chúng tôi đang đứng
ở giữa khe núi, tuyết lở chắc chắn sẽ lấp bằng cả hẻm núi này, căn bản không
thể chạy đi đâu được cả, nhưng đến giây phút sinh tử, con người tự trong bản
năng đều muốn giãy giụa tranh đấu một lần cuối cùng.
Lạc Ninh đã sợ hãi ngất xỉu
từ lâu, Anh Đô vác cô lên vai, tôi và Cả Oa vừa lôi vừa kéo anh Lưu, chạy về
phía bên kia sông Băng, chỉ mong trước khi lũ tuyết ập xuống có thể trèo lên
mấy dốc núi tương đối cao phía trước, tranh thủ nắm lấy cơ hội sống sót cuối
cùng.
Trong giây phút tuyệt vọng
nhất, chúng tôi cũng không vất súng lại, súng là một phần cuộc sống của quân
nhân, vất súng đi đồng nghĩa với vứt bỏ danh dự của quân nhân, còn những thứ
khác thì chẳng lo được, máy móc thiết bị đều bỏ lại cả, ngày cả ba lô trên
người cũng định cởi ra bỏ lại, nhưng cuống quá nên chẳng kịp, năm kẻ sống sót
dắt kéo lẫn nhau bỏ chạy thục mạng.
Cơn lũ tuyết ập đến quá
nhanh, thể như rời non lấp biển, khe núi bị năng lượng do tuyết lở chấn động,
nhất thời rung chuyển ầm ầm.
Trước kia tôi nghe người ta
kể chuyện tuyết lở, nhưng cũng không thể nào hình dung được, trong cõi trời đất
này lại có một cơn sóng khổng lồ màu trắng bạc ghê gớm đến thế trong khoảnh
khắc, ai nấy đều nản lòng, cho dù có chắp thêm hai chân nữa cũng chẳng thể nào
thoát nổi.
Chương 6: Lầu
ma chín tầng
Có điều trời không tuyệt
đường người, những chấn động dự dội do tuyết lở gây ra đã khiến triền núi dốc
ngược trước mặt chúng tôi nứt ra một khe hở lớn hướng thẳng xướng dưới.
Cơn lũ tuyết mù mịt trên
trời đã đổ ập xuống, mọi người chẳng kịp đắn đo, liền gắng sức lao vào khe nứt
trong núi đá, độ dốc bên dưới rất lớn, chẳng ngờ khoảng cách trên dưới lại khác
xa đến vậy, năm người cuộn lại với nhau ngã lăn xướng dưới, lộn nhào mấy vòng
rơi xướng đáy một cái hang lớn.
Ngay sau đó, một khối
tuyết lớn cũng ập xuống bịt kín khe nứt, vô số bông tuyết tung lên xối xả,
khiến ai nấy đều ho lên sặc sụa. Tiếng uỳnh uỳnh trên đầu mãi lâu sau mới yên
trở lại, nghe những tiếng động ấy, không biết bên trên đã có mấy vạn tấn tuyết
trút xuống nữa.
Trong hang tối mịt chẳng
thể nhận ra thứ gì, mọi người coi như thoát chết, mãi lâu sau mới có người cất
tiếng, nghe rõ là giọng vùng Đông Bắc, thoạt nghe đã biết ngay là anh Đô:
"Người nào còn thở được thì gắng ới lên một tiếng! Hồ Bát Nhất, Cả Oa, anh
Lưu, cô Lạc! Mọi người ở đấy cả chứ?"
Tôi cảm thấy toàn thân
xương cốt rã rời, đau đến nói chẳng ra hơi, chỉ ê ê vài tiếng ra hiệu mình vẫn
còn sống.
Cả Oa đáp lại một tiếng,
rút đèn pin soi chung quang, Lạc Ninh ngồi trên đất, đôi mắt ngây dại, hình như
không bị thương gì, anh Lưu nằm bên cạnh cô, hai mắt nhắm nghiền hôn mê bất
tỉnh, chân trái của anh đã gãy, nửa khúc xương trắng hếu chọc cả ra ngoài.
Khe núi chúng tôi rơi vào
vừa sâu vừa hẹp, ngoài vùng đèn pin soi được đều là một bóng tối đen như hũ
nút, bị hạn chế tầm nhìn, nên chẳng biết phía xa kia địa hình thế nào.
Anh Đô đưa tay thử hơi
thở của kỹ sư Lưu, rồi lập tức run rẩy thõng xuống: "Thôi rồi! Tắt thở
rồi!"
Tôi trườn người qua sờ
vào động mạch cổ của anh, đúng là đã chết rồi, tim cũng ngừng đập, đành thở dài
bảo anh Đô: "Mình chôn anh ấy đi thôi!"
Tôi lấy xẻng công binh ra
định đào hố, Cả Oa đứng cạnh vội ngăn lại, chỉ xuống dưới đất, lắp bắp:
"Bọ, lửa!" Cả Oa nhắc nhở, tôi mới nhớ ra lúc nãy vì muốn đào hố chôn
xác người kỹ sư bị ngã chết, kết quả là đào ra được một con bọ quái quỷ, cả đội
mười bốn người, vậy mà chỉ trong vài phút kinh hồn khiếp vía ấy đã chết mất
mười người, xem ra đất đai nơi này không thể tùy tiện đào bới được, có trời mới
biết dưới đó cá cái quỷ gì.
Nhưng dẫu thế nào cũng
chẳng thể để thi thể đồng đội phơi ra bên ngoài như thế này được, đành phải áp
dụng biện pháp chiết trung vậy. Tôi cầm đèn pin soi cho Cả Oa và anh Đô đi nhặt
đá vụn chung quanh mang về đắp lên xác anh Lưu, coi như dựng một ngôi mộ đá thô
sơ cho anh vậy.
Trong khi suốt quá trình
đó, Lạc Ninh từ đầu chí cuối cứ ngồi bất động một chỗ, lặng nhìn ngôi mộ đá của
anh Lưu, cuối cùng chẳng thể cầm lòng hơn, khóc òa lên nức nở, nỗi đau đè nén
trong lòng bấy lâu trào dâng lên như nước vỡ bờ.
Tôi định khuyên giải cô,
nhưng quả thực cũng không biết phải nói gì nữa, bị tiếng khóc của cô làm xúc
động, mũi tôi cũng thấy cay cay, lòng như dao cắt, nhớ lại tối qua cả đội cùng
ngồi quây quần quanh lửa trại hát vang khúc quân ca, tiếng ca ấy cơ hồ vẫn còn
văng vẳng bên tai, vậy mà hôm nay hầu hết đồng đội đã mãi mãi ngủ yên dưới dòng
sông Côn Luân lạnh giá.
Tôi dìu Lạc Ninh đứng
dậy, cùng cúi đầu mặc niệm anh Lưu và những đồng đội khác. Thời đó, bất kể là
trường hợp nào cũng phải trích dẫn lời trong Tuyển tập Mao Trạch Đông, tôi cất
giọng đọc trước: "Khắp trời rải trắng, trong tuyết hành quân lòng sốt
sắng."
Ba người còn lại cùng
đồng thanh tiếp lời: "Chóp mũ non cao, vượt ải tung bay ngọn cờ đào. Duy
kẻ hy sinh chí khí lớn, dám xoay nhật nguyệt đổi trời nao!"
Nói đoạn, mọi người cùng
giơ tay phải tuyên thệ: "Các chiến hữu, các đồng chí, xin hãy yên lòng ra
đi, con người ta có cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng cũng có cái chết nặng hơn
núi Thái, cái chết vì lợi ích của nhân dân là cái chết nặng hơn núi Thái, các
anh đã hy sinh cho lợi ích của nhân dân. Chúng tôi nhất định sẽ kế thừa ý chí
của các bậc tiền bối cách mạng, nhất định sẽ nối gót bước tiếp con đường cách
mạng đã nhuộm đỏ máu các đồng chí, tiến hàng triệt để công cuộc Đại Cách mạng
Văn hóa của giai cấp vô sản, thắng lợi cuối cùng vĩnh viễn thuộc về giai cấp
công nông binh chúng ta!"
Lúc ấy tôi vẫn là tân
binh, chưa từng tham gia lễ truy điệu đồng đội bao giờ, chẳng biết nên nói thế
nào mới phải, chỉ nhớ trong các cuộc họp người ta đều nói như vậy, mà trong
tình huống bấy giờ, cũng chẳng cần biết có thích hợp hay không nữa rồi.
Một lúc rất lâu sau, mọi
người mới bình tĩnh lại, xử lý qua loa các vết thương trên người, cũng may chỉ
toàn thương nhẹ, không ảnh hưởng gì tới việc đi lại. Chúng tôi ăn vài miếng
bánh khô rồi tụm lại bàn xem tiếp theo nên làm gì. Thoát ra từ khe núi bị tuyết
lấp kín là điều không thể, tôi đoán cả khe núi lúc nãy có lẽ đã bị tuyết lấp
phẳng, giờ chỉ còn cách tìm đường ra khác mà thôi.
Cả Oa vỗ vỗ vào túi đạn
rỗng trên mình tỏ ý đạn không còn nhiều nữa, lúc vào núi, vì phải mang theo
nhiều thiết bị cho nên chúng tôi chỉ được phân đạn dược theo định mức thấp
nhất, mỗi người chỉ trang bị có ba băng đạn, dù sao thì cũng không phải nhiệm
vụ chiến đấu, vùng này cũng không có thổ phỉ gì. Vừa nãy khi tuyết lở bọn tôi lại
vất một phần đạn dược, giờ mỗi người chỉ còn lại tầm hai mươi viên, tổng cộng
còn có hai quả lựu đạn nữa. Dưới đất chắc chẳng có thú dữ, đạn nhiều cũng chẳng
để làm gì, đủ phòng thân là được.
Nhưng lương khô thì đã
hết sạch, thứ ăn được thì vừa nãy ăn cả rồi, trong hai ngày tới nhất thiết phải
nghĩ cách tìm được lối ra, nếu không cũng sẽ chết đói ở đây mất. Điều may mắn
duy nhất trong nỗi bất hạnh chính là trên người Lạc Ninh vẫn còn một chiếc la
bàn.
Độ sâu của khe nứt này
quá sức tưởng tượng của chúng tôi, sau khi đi một đoạn về hướng Nam thì hết
đường, vết nứt chuyển sang hướng Bắc, theo cảm giác thì hình như chúng tôi đang
đi phía dưới Sông Băng.
Trong bóng tối, chúng tôi
đi độ mười tiếng đồng hồ, càng đi địa thế càng dốc xuống, không gian cũng mỗi
lúc rộng ra, Lạc Ninh dùng máy đo khí áp đo thử, đổi chỉ số khí áp ra thành độ
cao so với mặt nước biển tương đương thì chỉ có hơn bốn trăm mét, xấp xỉ với
vùng Tứ Xuyên và thấp hơn rất nhiều so với độ cao hơn bốn nghìn mét của cao
nguyên Thanh Tạng, nếu cứ đi xuống dưới nữa thế này, sợ rằng sẽ đi vào tâm trái
đất mất.
Địa thế cuối cùng cũng
bằng phẳng lại, bên tai loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy xiết, dường như
cách đây không xa có một con sông ngầm lớn. Tôi thấy có lẽ đường không dốc nữa,
liền lấy đèn pin soi khắp chỗ xem liệu có đường nào lên trên không, bỗng nhiên
phát hiện ra ánh sáng đèn pin gặp phải vách đá, lóe lên những tia phản quang
yếu ớt, như soi vào vô số mảnh gương vỡ vậy.
Lạc Ninh kinh ngạc thốt
lên: "Là mi ca đấy!"
Ba chúng tôi thấy Lạc
Ninh bảo là mi ca cũng chẳng biết là thứ gì, nhưng nghe giọng cô dường rất kinh
hãi, nên đều ngỡ có chuyện khẩn cấp, vội vã chạy lên trên che chắn cho cô,
chúng tôi rút cây súng trường tự động kiểu 56 trên lưng xuống với tốc độ nhanh nhất
có thể, mở chốt an toàn lên đạn tanh tách, chuẩn bị ngắm bắn.
Lạc Ninh ngạc nhiên hỏi:
"Mấy anh làm gì vậy?"
Tôi vừa giương súng phòng
bị, vừa hỏi lại Lạc Ninh: "Mi ca gì? Con nào? Ở đâu?"
Lạc Ninh trả lời:
"Không phải là con gì, ý tôi bảo rằng chung quanh đây toàn là các tinh
thể, mi ca và thạch anh thông thường đều xuất hiện ở cùng một địa tầng, a, quả
nhiên cũng có thạch anh này!"
Tuy Lạc Ninh chủ yếu phụ
trách công việc đo vẽ bản đồ, nhưng thường xuyên làm việc cùng đội thăm dò địa
chất, kiến thức của cô về các khoáng chất cũng không ít, tinh thể tựa như những
mảnh thủy tinh xung quanh chúng tôi là một loại tinh thể monoclinic, chỉ xuất
hiện trong lớp nham tầng song chất từ thời thái cổ, có rất nhiều ở lòng đất
vùng Hà Bắc. Nhưng loại mi ca ở đây hình trụ lục giác, lại có màu sắc rất đậm.
Chất lượng hơn hẳn loại hàng nội địa, chỉ nhìn màu sắc mi ca, có thể biết vị
trí chúng tôi đứng hiện giờ đã sâu đến mức khó có thề tưởng tượng nổi rồi.
Lạc Ninh bị cuốn hút bởi
những khối mi ca hiếm có, xem hết khối này đến khối khác, tôi tiện tay nhặt một
khối nhỏ lên xem, nhưng chẳng thấy nó có chỗ nào giá trị hết.
Lúc ấy bỗng dưng nghe
thấy tiếng anh Đô gọi Cả Oa: "Cả Oa! Mày làm gì thế? Mau đứng dậy đi!"
Tôi liền soi đèn pin,
thấy Cả Oa đang bò rạp người trên mặt đất, dập đầu vái lạy theo kiểu người
Tạng, thằng nhóc này làm gì vậy nhỉ? Đập đầu lạy ai? Tôi lại soi đèn lên phía
trước mặt cậu ta, không khỏi thở hắt ra một hơi lạnh toát.
Trong lòng đất ai ngờ lại
sừng sững một ngôi tháp gỗ hình chữ "kim" (... ) ghép bởi hàng ngàn
cây gỗ lớn, trên tháp lấp lánh muôn vàn tia sáng đỏ, mượn nguồn ánh sáng yếu ớt
ấy, có thể thấy nền tháp rộng gần hai trăm mét, đầm bằng đất và đá; thân tháp
dựng bằng gỗ bách ngàn năm, cả thảy có chín tầng, mỗi tầng đều chất đầy những
bộ hài cốt khô đét mặt trang phục cổ quái, già trẻ gái trai có đủ, trên mỗi cây
gỗ lại khắc đầy những văn tự kỳ bí của người Tạng. Đây là một ngôi mộ sao? Quy
mô lớn như vậy, là ai đã dựng nó dưới lòng đất này chứ?
Lạc Ninh từ nãy tới giờ
vẫn mải xem xét mi ca, nghe thất chúng tôi xì xào, cũng chạy tới gần xem sao.
Tôi huơ tay tỏ ý bảo anh
Đô đừng nói xen vào, tiếp tục hỏi Cả Oa: "Đây là tháp gì vậy? Những chữ
viết trên kia cậu đọc hiểu không?"
Cả Oa lắc đầu lia lịa.
Tôi nói tiếp: "Dớ
dẩn thật! Không hiểu thì dập đầu làm gì? Thấy nhiều xương cốt quá nên sợ ngây
ra hả?"
Mặt Cả Oa đầy vẻ hoảng
loạn, cậu ta run run nói bằng thứ tiếng phổ thông không mấy sõi: "Nhât bảo
Oa noi, Oa không biêt nói, cư bắt Oa noi, đây.. là... là... lầu ma... chin...
chín tầng."
Nửa câu trên tôi nghe
không hiểu lắm, nhưng bốn chữ cuốn cùng thì nghe rất rõ ràng, lại hỏi dồn:
"Lầu ma chín tầng nào? Dùng để làm gì? Chẳng phải là để chôn người chết
sao?"
Chưa đợi Cả Oa trả lời,
Lạc Ninh đã rón rén chạy từ chân tháp lại, rồi ra hiệu cho chúng tôi không được
lên tiếng, sau đó chỉ về phía ngọn tháp sau lưng khẽ bảo: "Chớ có kinh
động đến chúng."
Tôi nhìn vẻ mặt nghiêm
trọng của Lạc Ninh, biết rằng chắc gặp phải rắc rối rồi, nhưng không biết cô
định nói đến thứ gì, nên bèn hạ giọng hỏi: "Kinh động cái gì? Xác chết
trong tháp ư?"
Lạc Ninh vô cùng căng
thẳng đáp: "Không, là lũ bọ lửa, chúng ngủ trong xác chết, nhiều không đếm
xuể!"
Nghe Lạc Ninh nói vậy tôi
mới phát giác, hóa ra những điểm sáng đỏ chi chít trên thân tháp chính là do lũ
bọ trong suốt kia phát ra.
Tuy nói rằng tôi ít nhiều
cũng có khí phách không biết sợ của một quân nhân cách mạng, nhưng hễ nghĩ đến
con bọ lửa cổ quái kia, trong lòng tôi lại cảm thấy hoảng sợ vô cùng. Cái loại
sinh vật nằm ngoài thường thức này thực sự quá khó đối phó, nỗi sợ mà cảnh
tượng thảm khốc trong khe núi để lại trong tôi quả thực quá đỗi ghê gớm.
Tôi ra hiệu cho cả bọn
lặng lẽ rút về đường cũ. Nhưng mới được vài bước, Cả Oa bỗng hẫng chân ngã
xuống một cái rãnh.
Cái rãnh này khuất mắt,
lại song song với đường chúng tôi đi, cho nên lúc vào đây chẳng ai phát hiện ra
cả. Rãnh tuy chỉ sâu hơn một mét, nhưng Cả Oa vẫn kêu lên một tiếng khe khẽ,
tôi vội nhảy xuống dìu cậu ta lên, chỉ thấy Cả Oa ôm chân, vẻ mặt hết sức đau
đớn.
Bấy giờ Lạc Ninh và anh
Đô cũng theo nhau xuống dưới rãnh, đèn pin vừa soi tới, liền phát hiện ra Cả Oa
bị một khúc xương nhọn sắc đâm thủng cả giày lẫn chân, máu chảy xối xả. Dưới
rãnh, khắp nơi toàn xương động vật trắng nhờ chồng chéo lên nhau, số lượng quá
nhiều, khó mà tính được. Xem ra cái rãnh chắc là hố tuẫn táng trâu, ngựa, dê
chó gì đó.
Để khỏi kinh động đến lũ
bọ lửa trong tháp, anh Đô lấy tay bịt miệng Cả Oa lại không để cậu ta kêu thành
tiếng, tôi rút phăng khúc xương ra khỏi chân Cả Oa, Lạc Ninh liền lấy thuốc Vân
Nam bạch dược trong túi cấp cứu rắc lên vết thương, rồi lấy bông băng giúp Cả
Oa cầm máu.
Trên tay tôi dính đầy máu
chảy ra từ chân Cả Oa, tiện tay bèn quệt luôn vào bộ quân trang mấy cái, trong
đầu chợt nghĩ ra một ý nghĩ, cái hố tuẫn táng trâu ngựa này rõ ràng rất quái
lạ, nó không phải hình trón cũng chẳng phải hình vuông mà lại đào thành một cái
rãnh dài, thông thẳng đến tòa tháp gỗ nơi đặt thi thể, hình dạng như vậy thật
khớp với loại bố cục được đặt tên là "Nhiếp" được nhắc đến trong
Phong thủy bí thuật, nếu thực là thế thì ở vị trí song song với rãnh này hẳn
còn một rãnh tuẫn táng khác có quy mô tương tự.
Hai rãnh tuẫn táng song
song, kẹp chặt ngôi mộ kết cấu tháp gỗ, tạo thành thế "lưỡng long tranh
châu", theo lý đó mà suy đoán thì rãnh bên kia hẳn tuẫn táng nhũng đồ dùng
thường nhật của chủ mộ. Có điều không biết hai rãnh tuẫn táng này là do thiên
nhiên hình thành hay do con người tạo ra nữa, nhưng xem chừng khả năng thứ nhất
có vẻ nhiều hơn.
Tiếng nước chảy gần đây
nghe rất lớn, dựa theo tiếng nước chảy mà phán đoán thì khả năng nó nằm ở hướng
Tây Bắc, cũng có nghĩa là phía sau lầu ma chín tầng có một con sông ngầm dưới
đất, bởi "rồng" không thể rời khỏi nước được.
Nếu quả thật mọi việc như
tôi dự đoán thì bản đồ khu vực dưới lòng đất này sớm đã nằm gọn trong đầu tôi
rồi, chỉ có điều phải tìm ra nốt cái rãnh tuẫn táng thứ hai mới có thể chứng
thực được những suy đoán của tôi mà thôi.
Anh Đô hẩy vai tôi gọi:
"Nhất! Có chuyện gì thế?"
Tôi đang bần thần, bị hẩy
một cái liền định thần lại, vội hỏi Lạc Ninh: "Kỹ sư Ninh, cô có thể tính
ra được vị trí chúng ta đang đứng hiện giờ không? Đại khái nó nằm ở chỗ nào
trong bản đồ vậy?"
Lạc Ninh lấy la bàn ra
tham chiếu với bản đồ rồi tính toán một lúc, cô trầm ngâm giây lát rồi trả lời:
"Chúng ta đã đi một mạch về hướng Bắc phải mười mấy giờ đồng hồ rồi, dựa
theo tốc độ của chúng ta thì chắc đã vượt qua Sông Băng trên đầu từ lâu, có lẽ
đã sắp ra khỏi dãy Côn Luân rồi."
Tôi nói ra những suy nghĩ
vừa rồi, đoạn nói: "Bây giờ nếu đi ngược trở lại, chỉ có thể về tới chỗ
khe núi bị tuyết bịt kín, và nếu tôi đoán không nhầm, chúng ta đi men theo con
sông ngầm này, chắc sẽ tìm được đường ra. Nhưng làm như vậy thì phải mạo hiểm
đi qua bên dưới lầu ma chín tầng, là phương án tìm ra sự sống trong cái chết."
Bốn người bàn bạc một
hồi, cảm thấy nếu làm vậy tuy đầy rẫy nguy hiểm, nhưng cũng đáng để mạo hiểm
một lần, có điều tôi quyết định phải đi tìm rãnh tuẫn táng thứ hai trước đế
chứng thực cái đã.
Trước khi hành động, tôi
hỏi Cả Oa, rốt cuộc lầu ma chín tầng là gì.
Cả Oa nói tiếng phổ thông
rất vất vả, lắp bắp mãi cuối cùng tôi mới hiểu được phần nào, ở Huyết Vị, quê
nhà cậu ta, cũng có một di tích giống y như tòa lầu ma chín tầng này, tương truyền
"lầu ma chín tầng" chính là kiểu lăng tẩm quàn cữu của các vua chúa
Ma quốc thời cổ đại, khi Ma quốc diệt vong, ngôi mộ đó đã bị vị vua anh hùng
Kasar phá hủy, ngày nay trên cao nguyên Tây Tạng chỉ còn lại một đống khung gỗ
đổ nát và bản trường ca truyền miệng của mục dân, đời đời ca tụng chiến công
lừng lẫy như mặt trời của đức vua Kasar.
Mỗi khi mục dân người
Tạng đi qua di tích này, họ đều phải rạp người vái lạy, ngâm hát sử thi. Điều
này hoàn toàn không phải vì sợ hãi lăng tẩm của vua chúa Ma quốc, mà để bày tỏ
lòng tôn kính với vua Kasar. Cả Oa còn nói mấy chuyện liên quan đến tôn giáo,
nhưng tôi không hiểu lắm, lũ bọ như thứ lửa ma kia có phải là những vong linh
đang yên nghỉ trong mộ hay không cũng khó mà biết được.
Tôi để ba người bọn Lạc
Ninh ở nguyên chỗ cũ, một mình bò lên trước, cách rãnh tuẫn táng trâu ngựa độ
hơn trăm mét quả nhiên có một rãnh tuẫn táng khác đầy những ủng da cổ, đồ đồng,
đồ trang sức, thú gỗ, thẻ gỗ ghi văn tự cổ của người Tạng, người Mông, lương
thực và một lượng lớn những đồ gấm lụa tùy táng.
Xem ra tôi suy đoán quả
không sai, dòng sông ngầm phía sau lầu ma chín tầng chắc chắn thông ra bên
ngoài, liền lẳng lặng quay lại rãnh tuẫn táng động vật gọi ba người kia tiếp
tục lên đường.
Tôi đi trước mở đường,
anh Đô vác súng theo sau, thứ đến là Cả Oa, vết thướng ở chân cậu ta không nhẹ,
Lạc Ninh phải đi phía sau dìu cậu ta.
Lầu ma chín tầng rất lớn,
hang động ngầm này vốn dĩ rất rộng, nhưng tòa lầu này và hai dải mi ca hai bên
gần như đã chặn tắc con đường đi về phía Bắc, hai mé bên cạnh chỉ còn lại hai
khe rất hẹp, miễn cưỡng có thể lách qua.
Chúng tôi đi qua bên dưới
tòa tháp trong một nỗi lo nơm nớp, nhìn những con bọ lập lòe như những đốm lửa
trong tháp, cảm giác tim mình như muốn bắn ra khỏi lồng ngực, quãng đường dưới
chân tháp chỉ vẻn vẹn hai trăm mét, nhưng bước nọ cách bước kia sao mà xa xôi
đến thế!
Chương 7: Kỳ
nhông chúa
Khó khăn lắm mới lách qua
được lầu ma chín tầng, đi chưa được hai trăm bước, bỗng cảm thấy dưới chân mềm
nhũn, dường như giẫm phải một con vật gì rất lớn, tôi lấy đèn pin ra soi, thấy
dưới chân là một con bò sát khổng lồ xưa nay chưa thấy bao giờ, nó thè cái lưỡi
dài, màu da rất giống màu đất, trông hơi giống một con thạch sùng khổng lồ,
hình dáng hao hao cá sấu, nhưng lại không có lớp da thô ráp, miệng nó không
nhọn như miệng thằn lằn mà lại tròn tròn, lưỡi giống lưỡi rắn vừa đỏ vừa dài,
đầu lưỡi tẽ đôi, khắp mình đen kịt mọc đầy những vệt tròn lớn màu trắng, dựa
vào hình dạng bên ngoài mà hình dung, về cơ bản có thể nói nó là một con ếch
rất lớn mọc thêm một cái đuôi dài thượt.
Cả đời tôi chẳng sợ trời
cũng chẳng sợ đất, duy có hơi ngại những thứ ghê tởm thế này, tôi giật bắn cả
mình, co người nấp sau lưng anh Đô, anh cũng đã thấy con vật quái dị này, cảm
giác của anh có lẽ cũng gần giống tôi, giật bắn một cái, có lẽ người bạn duy
nhất có thể dựa vào của người lính chính là cây súng, anh Đô phản ứng theo bản
năng, giương súng lên bắn "pằng pằng" vài phát, con bò sát co giật
mấy cái rồi chết tươi.
Lúc này, Lạc Ninh ở phía
sau chạy tới xem xác con vật dưới đất, thở dài một tiếng nói: "Đây là loài
kỳ nhông sống ở dưới đất, chủ yếu ăn côn trùng và phù du, không làm hại người."
Tôi không hề thương tiếc
con vật vừa chết, nhưng chỉ lo vừa rồi anh Đô hấp tấp nổ súng không biết liệu
có đánh thức những con bọ đang ngủ im trong tháp kia hay không, Con bà nó!
Người ta gặp phải vận xui, thì dẫu có ăn bánh đúc vẫn cứ hóc xương như thường,
lũ bọ trong lầu ma chín tầng hẳn đã bị tiếng súng đánh thức, vô số quả cầu lửa
xanh trong tức khắc sáng bừng lên như những ngọn đèn.
Cả không gian dưới lòng đất
bị ánh lửa chiếu xanh rờn, tháp gỗ cũng bùng cháy, ngọn lửa mỗi lúc lớn dần, hàng
trăm quả cầu lửa lao về phía chúng tôi, lửa lớn như vậy nhưng chúng tôi không
hề thấy nóng bức, ngược lại còn cảm thấy lạnh run người, răng va vào nhau cầm
cập.
Anh Đô thấy tình hình không
hay liền rút hai quả lựu đạn găm trong thắt lưng, định kéo chốt ném cho nổ tan
đám cầu lửa, tôi vội giữ tay anh lại: "Ném một quả thôi, giữ lại một quả
để làm phát hy sinh danh dự, tôi không muốn bị đám lửa ma này thiêu sống đâu."
Loại lựu đạn cán gỗ của
chúng tôi được trang bị theo quy chế của lính bộ binh, bên trên dùng vỏ sắt bọc
lấy đầu hình trụ tròn, phía dưới là tay cầm bằng gỗ, sau khi giật chốt sức ép
của thuốc nổ bên trong sẽ làm bắn văng các mảnh vỡ của vỏ sắt sát thương kẻ
địch, uy lực cũng không mạnh lắm.
Anh Đô giữ lại một quả, tôi
cầm một quả, thấy có khá nhiều quả cầu lửa xông tới, liền rút chốt bảo hiểm,
ném vù quả lựu đạn đang bốc đầy khói trắng đi.
Quả lựu đạn nổ làm bốc lên
một quầng khói trắng, mười mấy quả cầu lửa bay phía trước bị mảnh lựu đạn bắn
trúng, rơi xuống ràm rạp rồi tắt lịm, nhưng còn nhiều cầu lửa hơn ở phía sau
vẫn tiếp tục ùn ùn bay tới.
Lạc Ninh chạy trước, ba
người chúng tôi đệm gót phía sau, vừa rút lui vừa dùng súng trường bán tự động
bắn tỉa, mỗi người hơn hai mươi viên đạn, chưa quá hai phút đã bắn hết nhẵn.
Muốn đối phó với thứ cầu
lửa tạo nên bởi những con bọ kinh dị này, chỉ có thể dùng súng, vì chỉ cần tiếp
xúc với chúng, ắt sẽ bị thiêu cháy toàn thân. Súng mà chẳng có đạn thì còn
chẳng tiện bằng que cời lò nữa.
Anh Đô vất súng, lấy quả
lựu đạn cuối cùng ra, nói lớn: "Hồ Bát Nhất! Đến lúc rồi, kéo chốt được
chưa?"
Tôi và Lạc Ninh dìu Cả Oa,
bốn người vây thành một vòng quanh quả lựu đạn trong tay anh Đô, tôi nhìn chăm
chăm vào quả lựu đạn trước mặt, chỉ cần anh Đô kéo chốt, sau mấy giây tất cả sẽ
ngọc nát đá tan chết cùng một lượt.
Giây phút cuối cùng rốt
cuộc cũng đến!
Lúc bấy giờ tôi không được
nghĩ đến quá nhiều chuyện khác, một đám cầu lửa đã bay tới mỗi lúc một gần,
không có thời gian mà nghĩ, hai là vì tôi sợ rằng nghĩ quá nhiều đến chuyện
sinh ly tử biệt sẽ khiến mình mềm yếu đi. Tôi luôn muốn được trở thành một anh
hùng chiến đấu như Dương Căn Tư, có điều không chết chiến trường, ngược lại lại
kết liễu cuộc đời một cách không minh bạch trong lòng đất núi Côn Luân này, quả
thực tôi không cam tâm chút nào, tôi cố dằn lòng, đang định bảo anh Đô giật
chốt quả lựu đạn.
Lạc Ninh vốn đã nhắm tịt
mắt chờ chết, nhưng như nghĩ ra điều gì, bỗng dưng đứng phắt dậy giữ tay chúng
tôi lại: "Mấy anh nghe tiếng nước chảy vang thế này, chắc đây rất gần sông
ngầm, mau nhảy xuống đó đi!"
Từ nãy tới giờ chỉ mải bắn
súng, rồi lại chuẩn bị giật lựu đạn tự sát, tất cả đều đã quên béng mất chuyện
sông ngầm, trong lúc hoảng loạn cũng chẳng nghe thấy tiếng nước chảy rì rầm
nữa, Lạc Ninh vừa dứt lời, mọi người mới nhớ ra vẫn còn đường sống, nếu có thể
nhảy xuống sông trước, thì dẫu đám cầu lửa có ghê gớm, thì cũng chẳng thể làm
gì được chúng tôi.
Nói thì chậm nhưng lúc đó
quả thật rất nhanh, vô số những quả cầu lửa xanh lè đã gần trong gang tấc, bốn
kẻ sống sót may mắn khát khao sự sống chạy thục mạng tới chỗ có tiếng nước chảy.
Nghe tiếng nước, xem ra con
sông cũng chỉ cách chúng tôi mười mấy mét, chúng tôi chạy dăm bước tới tận cùng
hang núi, ngay ở chỗ ngoặt, trước mắt liền hiện ra một dòng thác lớn, bên dưới
có một hồ nước ngầm thiên nhiên khá lớn.
Tôi còn chưa kịp nhìn kỹ,
bỗng thấy sau lưng nóng rát, đau cháy gan cháy ruột, nghĩ chắc đã bị cầu lửa
thúc vào lưng, chỉ cần dính phải một ngôi sao hỏa con con này, ngọn lửa lập tức
sẽ nuốt trọn toàn thân, trong khoảnh khắc sống chết ấy còn kịp đắn đo gì nữa,
tôi vội nhún người nhảy ùm xuống hồ.
Trong cơn hoảng loạn chỉ
thấy ba người bạn còn lại cũng bị dính lửa, kêu rú lên rồi lần lượt nhảy xuống
nước. Tôi ngụp hẳn xuống nước, những ngọn lửa xanh lét trên mình lập tức bị
nước hồ dập tắt.
Thủy hỏa tương khắc, những
con bọ còn lại hình như cũng biết đến sự lợi hại của nước hồ, chỉ lờn vờn cách
mặt hồ hai ba mét, không dám lao xuống tấn công.
Tôi nhô đầu lên lấy hơi,
thấy anh Đô cũng nhô lên, duy chẳng thấy Lạc Ninh và Cả Oa đâu, tôi lo họ không
biết bơi, dẽ chừng chết đuối dưới hồ, bèn hít một hơi thật sâu lặn xuống nước
tìm cứu, đúng lúc ấy Lạc Ninh đỡ Cả Oa nổi lên.
Hóa ra Cả Oa từ bé tới giờ
chưa từng bơi bao giờ, sau khi nhảy xuống hồ liền bị sặc nước ngất đi, vừa hay
Lạc Ninh nhìn thấy, bèn lặn xuống cứu cậu ta lên, cũng may thời gian bị chìm
dưới nước không lâu, Cả Oa ho ra vài hụm thì tỉnh lại.
Phong tục ở Tây Tạng là
không được xuống hồ bơi tắm, vậy nên Cả Oa cứ không ngớt lẩm bẩm tụng kinh
thỉnh cầu Phật tổ thứ tội.
Khoảng không trên mặt hồ
được vô số quả cầu lửa chiếu sáng như ban ngày, bốn người chúng tôi chụm lại
một chỗ, lúc bấy giờ đương vào đầu xuân, nhưng nước ngầm ở đầy không hề lạnh
giá, ngược lại chúng tôi còn thấy trên mình lăn tăn hơi ấm, đây chắc là một hồ
nước nóng hình thành bởi tác động của địa nhiệt.
Anh Đô chửi: "Khốn
nạn, mất súng, chìm xuống đáy hồ rồi!"
Tôi nhắc: "Chúng ta
hết đạn rồi, có súng cũng vô dụng, giờ hãy mau nghĩ cách tìm đường thoát khỏi
đây, anh cúi đầu thấp xuống đi, bọn bọ lửa bay xuống bây giờ."
Anh Đô không tin đám bọ
toàn thân đều là lửa kia có thể bay xuống hồ, nhe răng ngoác miệng ra cười ngất
ngưởng, nhưng nụ cười của anh lập tức đờ ra, cả ngàn quả cầu lửa xanh rực đang
dần tụ lại tạo nên một ngọn lửa khổng lồ, vù một tiếng cả quầng lửa lăng mạnh
xuống hồ anh Đô vội hớt hải lặn sâu xuống nước.
Tôi hít một hơi đang định
lặn xuống, thì thấy Cả Oa đang trơ ra như phỗng, cậu ta bẩm sinh đã sợ nước hồ,
không dám lặn xuống lẩn trốn, tôi đành cưỡng ép dìm đầu cậu ta xuống, lôi ngược
bả vai cậu ta lặn xuống một quãng nước sâu.
Đường kính của quả cầu lửa
phải đến mười mấy mét, vừa chạm tới mặt hồ đã khiến hơi nước bốc lên nghi ngút.
Quả cầu lửa tuy lớn, nhưng mặt hồ còn rộng hơn, thủ đoạn tấn công kiểu tự sát
của lũ bọ cảm tử trở nên vô hiệu, lần lượt chết chìm trong làn nước.
Đáy hồ vốn dĩ tối om, nhưng
có ánh lửa bên trên chiếu sáng nên miễn cưỡng có thể nhìn rõ hoàn cảnh trong
khoảng mười mấy mét dưới mặt nước. Ở quãng nước sâu có vô số cá lớn nhởn nhơ
bơi lượn, những con cá này hoàn toàn khác với những loài trước kia tôi đã thấy,
râu chúng rất dài, trông giống y như cá hồi chó, do sống lâu trong môi trường
không có ánh sáng, thành ra mắt chúng đã thoái hóa, chỉ còn lại hai chấm trắng
mà thôi.
Tôi bị hình dạng kỳ quái
của lũ cá làm giật bắn mình, uống phải mấy ngụm nước, quay lại thấy Cả Oa đang
giãy giụa loạn xạ, chắc cậu ta không thể nín được lâu hơn, muốn vùng ngoi lên
lấy hơi, vừa hay lúc đó đáy hồ bỗng nhiên tối mờ đi, tôi đoán rằng lũ bọ kia đã
chết gần hết, liền lôi Cả Oa ngoi lên mặt hồ.
Trên mặt hồ xác bọ nổi lềnh
phềnh, không có ánh sáng lửa khắp nơi chỉ rặt một màn đêm thăm thẳm, tôi hét
gọi anh Đô: "Đô ơi! Anh có đèn pin không?"
Anh Đô đáp: "Mất tiêu
cả rồi, chẳng còn gì cả, giờ phải vừa đi vừa mò đường rồi!"
Bỗng nhiên phía trước lóe
sáng... hóa ra Lạc Ninh ngoi dưới hồ lên, một tay vuốt nước trên mặt, tay kia
cầm chiếc đèn pin quân dụng hình cái nạng: "Hai chiếc cuối cùng ở trên
người tôi rồi, may là cứ để trong túi, không bị rớt xuống đáy hồ."
Mọi người lôi kéo lẫn nhau
bò lên trên bờ, ai nấy đều cảm thấy vừa mệt vừa đói, chẳng còn hơi sức mà đi
nữa, mười mấy tiếng đồng hồ không ăn gì, đừng nói là tấm thân bằng xương bằng
thịt, dẫu có là mình đồng da sắt đi nữa e cũng khó mà gắng chịu được hơn.
Anh Đô liền nhảy lại xuống
hồ, lấy lưỡi lê xiên về một con cá, cạo vảy qua loa, cắt thành mấy lát rồi ăn
luôn, tôi nếm trước một miếng, mùi vị thịt cá sống cũng tạm được, không quá
tanh, chỉ hơi hơi đắng, nhai thêm vài miếng lại thấy rất thơm. Chỉ có Cả Oa là
nói thế nào cũng không chịu ăn.
Ba người ăn tươi nuốt sống
cả một con cá lớn, thấy vẫn chưa đã, vậy là anh Đô lại lặn xuống hồ bắt thêm,
Lạc Ninh kiểm tra lại vết thương trên chân Cả Oa, còn tôi đi quanh bờ hồ một
vòng, tìm xem có chỗ nào có thể thoát ra được hay không. Thác nước chảy mạnh
như vậy, hồ nước này chắc phải có chỗ phân dòng.
Dòng thác cũng cao đến mấy
chục mét, theo ước đoán của Lạc Ninh, hệ thống này có lẽ là một nhánh dưới đất
của sông Nhã Lỗ Tạng Bố, hơn nữa trong lòng đất sâu có thể còn có núi lửa, cho
nên nước hồ mới ấm như vậy.
Tôi cầm đèn pin của Lạc
Ninh, tìm được chỗ thoát nước, nước hồ xuôi theo đây mà chảy ra ngoài, đường
nước chảy ra thực tế là một cái hang cao bảy tám mét, ngập kín nước, không có
đường đi, muốn tiến lên thì chỉ còn cách bơi ra mà thôi.
Tôi trở lại chỗ Lạc Ninh,
kể lại tình hình cho cô nghe, bản đồ và la bàn của Lạc Ninh đều rơi mất cả, giờ
chỉ có thể dựa vào trực giác mà suy đoán thôi, Lạc Ninh nhiều năm theo ngành đo
vẽ, kinh nghiệm phong phú, cô đoán vị trí hiện nay của chúng tôi cách Bất Đông
Tuyền không xa lắm, dòng suối ấy ngay cả trong tiết đông buốt giá cũng không
đóng băng, chứng tỏ dưới đất có dung nham, vấn đề là đi đường nào mới có thể
quay lên mặt đất, cứ lượn lờ mãi dưới lòng đất cũng chẳng phải cách hay, hiện
giờ phương án khả thi chỉ còn có cách bơi dọc theo con sông, bởi nơi đâu có
sông, sẽ không bao giờ có đường cùng.
Anh Đô tiu nghỉu quay trở
lại, lần này anh không bắt được cá. Chúng tôi không muốn nấn ná lại lâu hơn, ba
người biết bơi bèn khoác Cả Oa ở giữa, xuôi theo hướng nước chảy, bơi vào sâu
trong hang.
Con sông ngầm này không
rộng, nhưng sức nước bên dưới rất lớn, theo đà sóng nước xối đẩy, chúng tôi vừa
lướt vừa bơi chẳng hề phí sức, chỉ có điều nhiệt độ nước tăng lên đáng kể, đâu
đâu cũng ngửi thấy mùi lưu huỳnh, tuy bơi trong nước, nhưng vẫn thấy miệng khô
lưỡi rát
.
Anh Đô bắt đầu nôn nóng,
vừa bơi vừa làu bàu: "Lần này chắc chúng ta đã phạm sai lầm của chủ nghĩa
manh động cánh tả rồi, sao bơi mãi vẫn không thấy lối ra nhỉ? Chỗ này nước chảy
xiết lắm, cả chỗ để đứng nghỉ lấy hơi cũng không có, thế này thà bơi ngược cho
rồi."
Tôi liền phê bình ngay:
"Từ nãy tới giờ anh làm gì thế? Đã bơi quãng xa như vậy rồi mới hỏi cờ đỏ
còn phất được bao lâu, hay là anh nghi ngờ thắng lợi cuối cùng của cách mạng
chúng ta? Vạn lý Trường chinh mới tiến được một bước, anh đã bắt đầu dao động
rồi sao? Nghiến răng kiên trì cho tôi!"
Anh Đô giảo biện: "Sao
lại nói vậy chớ? Chẳng phải là tôi muốn giữ gìn một phần sức mạnh cho cách mạng
đấy sao? Cứ đâm đầu theo cậu ấy à, lúc đó mà gây tổn thất cho cách mạng thì
trách ai?"
Chuyện của chúng tôi vừa
nói được một nửa, Lạc Ninh chợt kêu lên thất thanh: "Các anh nhìn xem,
đằng sau có phải có con gì không? Hình như là... thủy quái!"
Tôi cũng nghe thấy phía sau
có tiếng động lạ trong nước, quay đầu lại soi đèn pin, chỉ thấy bọt sóng tung
tóe, một bóng đen khổng lồ trong nước đang nhanh chóng tiến lại gần, phạm vi
chiếu sáng của đèn pin không lớn, chẳng thể nhìn rõ được xem rốt cuộc nó là thứ
gì, có điều "kẻ tới chẳng lành, kẻ lành chẳng tới", chúng tôi liền
rút dao găm chuẩn bị ứng chiến.
Sức mạnh của sóng ngầm và
nước chảy mỗi lúc lớn hơn, căn bản không thể dừng lại, chúng tôi không thể tự
chủ để mặc cho nước sông xối về phía trước, con quái vật khổng lồ phía sau vẫn
bám sát theo như hình với bóng.
Phần lớn cơ thể của nó vẫn
ở trong nước, làm dấy lên hết đợt sóng này đến sóng khác, hang động này quá
tối, chỉ nghe được tiếng chứ không thấy được gì, dựa vào âm thanh mà đoán, con
vật này ít ra cũng phải dài tầm bảy tám mét.
Đến đoạn cuối cùng của dòng
sông ngầm, nước càng chảy gấp, bốn chúng tôi sợ bị nước cuốn đi mỗi người một
nơi, ôm chặt lấy nhau thành một khối, quay tít mấy vòng giữa dòng nước rồi rơi
ra khỏi một miệng hang.
Bên dưới là một con sông
ngầm cực lớn, nhiệt độ nước rất cao, vô số những nhánh sông nhỏ như con sông
chúng tôi vừa bơi qua ban nãy tuôn thẳng xuống dưới từ vách núi như những vòi
nước cùng chảy về con sông cái này. Hai bên còn có rất nhiều những miệng đá nhô
ra, không ngừng phun ra những luồng hơi nóng trắng xóa, giữa kẽ đá còn có một
chút dung nham đỏ đục, xem ra đây có lẽ chính là dải núi lửa trong lòng đất mà
Lạc Ninh từng nói.
Nhiệt độ nước sông quá cao,
trong dòng nước xiết, chúng tôi dốc sức vùng vẫy bò lên một tảng nham thạch lớn
rìa sông, nhận ra ngay cả tảng đá này cũng nóng ấm, ánh lửa của dòng dung nham
gần đó có thể chiếu sáng, nên tôi tắt đèn đi, tiết kiệm chút pin quý báu, tôi
hỏi mọi người: "Các cậu có nhìn rõ không? Rốt cuộc vừa rồi là cái gì ở sau
lưng chúng ta vậy? Cái đầu to quá!"
Anh Đô và Lạc Ninh đều
không nhìn rõ, cùng lúc lắc đầu, thảm nhất là Cả Oa, uống đầy một bụng nước,
bụng trướng lên căng tròn, vừa định mở miệng, chưa kịp nói gì đã hộc ra vài
ngụm nước, cậu ta vừa xoa bụng vừa nói: "Tôi thây cái con đo, no bam theo
chung ta, rơi xuông giưa sông rồi."
Để đề phòng bất trắc, anh
Đô cầm dao đứng dậy xem xét tình hình dưới lòng sông cạnh đó: "Thủy quái
nào đâu? Chẳng có gì hết trơn à!" Anh vừa nói dứt câu, đang định trở lại,
bỗng từ dưới sông một cái lưỡi đỏ sọc chừng hơn hai mét vươn lên, cuốn ngay lấy
hai chân anh Đô, giật cho anh ngã nhào rồi kéo xuống nước.
Cũng may Cả Oa nhanh tay
nhanh mắt, đâm ngay lưỡi lê vào cái lưỡi đỏ dài, con quái vật bị đau, liền
buông anh Đô ra, trợn trừng hai con mắt như hai chiếc đèn lồng đỏ lên, bò lên
bờ.
Hình dạng của nó giống y
con kỳ nhông ban nãy bị anh Đô bắn chết, đầu giống ếch, thân hình như con cá
sấu không da. Chỉ có điều con kỳ nhông này thực sự quá lớn, dài những mười mấy
mét, trên mình lấp lánh lớp vảy sặc sỡ, quất mạnh đuôi một cái, chăm chú nhìn
chúng tôi một cách dữ tơn.
Tôi hỏi Lạc Ninh: "Kỹ
sư Lạc này, cô chắc là nó không sát hại con người chứ? Con này sao to thế?"
Sắc mặt Lạc Ninh bợt bạt,
run rẩy nói: "Đấy... đấy là tôi nói con trước... còn... con này... nó
là... con... kỳ nhông chúa, rất hung hãn... Thời kỳ băng hà đã... đã tuyệt
chủng rồi... ai ngờ nó còn ở đây?"
Ai cũng không thể ngờ ở nơi
cách biệt với thế giới bên ngoài này lại tồn tại một con mãnh thú vốn đã tuyệt
chủng từ thời cổ đại.
Sinh vật sống dưới lòng đất
như kỳ nhông đều là động vật máu lạnh, nhiệt độ quá cao khiến con kỳ nhông chúa
trước mặt chúng tôi trở nên cực kỳ dữ tợn, hơn nữa vừa rồi Cả Oa lại đâm một
nhát vào lưỡi nó, mùi máu tanh trong miệng khiến nó nảy sinh ham muốn tấn công
mãnh liệt, huống hồ cũng chẳng biết con kỳ nhông bị chúng tôi bắn chết lúc nãy
có phải là con cháu thân thích gì của nó hay không nữa, tóm lại là oán thù đã
kết, đôi bên phải quyết một phen sống mái ở đây.
Tôi đưa mắt ra hiệu, anh Đô
và Cả Oa hiểu ý, liền lần lượt đánh quặt sang hai bên con kỳ nhông chúa, tổ
chiến đấu ba người hợp thành thế đánh khép gọng kìm kẹp nó lại.
Con quái vật gầm lên điên
cuồng, nhe nanh giơ vuốt trước mặt ba bọn tôi, chẳng đợi chúng tôi động thủ, nó
đã quét ngang cái đuôi khổng lồ, lật ngửa Cả Oa xuống đất, cuộn lấy cậu ta, rồi
há to cái miệng đẫm máu định cắn lấy, loài kỳ nhông vốn không có răng, nhưng
trong miệng to tướng của con kỳ nhông chúa này trên dưới lại đều có ba hàm răng
sắc nhọn, để nó cắn cho một phát, thì còn gì là người nữa. Tôi và anh Đô thấy
tình thế khẩn cấp, vội bỏ nhào tới, hai người hợp sức, một trên một dưới banh
miệng con kỳ nhông ra, dẫu thế thế nào cũng không để nó cắn xuống, nếu không
đầu Cả Oa chắc chắn đi tong.
Cả Oa lúc ấy trở nên dũng
mãnh phi thường, từ bụng trở xuống tuy bị đuôi con kỳ nhông chúa cuốn chặt,
nhưng tay thì vẫn không ngừng, cậu ta thấy con quái vật có lớp da thô dày,
chẳng sợ lửa nước, đành dùng lưỡi lê chọc mạnh vào miệng nó.
Con kỳ nhông bị thương
trong miệng, vừa thất kinh vừa phẫn nộ, lấy sức rùng mình một cái, hất văng ba
kể bám trên người xuống đất, sức lực của con quái vật này thật ghê gớm, tôi bị
hất trúng vào một tảng đá, khí huyết nhộn nhạo, mắt nổ đom đóm, anh Đô bị hất
rơi xuống sông, nhưng lại bò lên ngay lập tức, khắp mình hơi nước bốc nghi
ngút, bị nước nóng dưới sông làm phỏng, kêu lên oai oái.
Chỉ dựa vào ba lưỡi lê mà
muốn đánh vật với con kỳ nhông to lớn này, chẳng khác nào lấy trứng chọi đá,
bốn người chúng tôi liền hét lên một tiếng rồi cùng bỏ chạy, con kỳ nhông chúa
ở phía sau đeo đuổi không buông.
Dưới đất toàn nham thạch và
tro than, giẫm lên vừa mềm vừa trơn, chạy cực kỳ tốn sức. Để thoát khỏi con
quái vật phía sau, chúng tôi giẫm lên những tảng nham thạch bên lòng sông, treo
lên chỗ dốc đứng, dùng cả tay lẫn chân, càng trèo càng cao. Tôi leo lên giữa
chừng, thì nghe tiếng anh Đô vọng xuống, nhắc tôi cẩn thận. Tôi liền cúi đầu
xuống nhìn, chỉ thấy con kỳ nhông chúa đang bò trên vách núi như một con thằn lằn
khổng lồ, bám đuổi sát ngay sau lưng, khoảng cách giữa nó với tôi chỉ còn không
đầy ba mét, cái lưỡi dài thườn thượt của nó cũng sắp liếm đến mông tôi rồi. Tôi
định nhảy xuống thoát thân, nhưng đã trèo lên quá cao rồi, không chắc sẽ nhảy
đúng xuống sông, chỉ cần sai sót một chút, rơi vào tảng đá nào thì thê thảm
lắm, tôi chửi lớn một tiếng, một tay rút lưỡi lê, chuẩn bị liều mạng một phen,
dẫu có chết cũng phải lôi con quái vật này làm đệm lưng.
Lạc Ninh đột ngột nhớ ra gì
đó, nằm úp mặt vào vách núi hét vọng xuống: "Đồng chí Nhất! Lựu đạn!"
Những người khác cũng cùng
lúc sực nhớ, đúng rồi, chúng tôi vẫn còn một quả lựu đạn chưa dùng đến, bấy giờ
còn giắt trong thắt lưng vũ trang của anh Đô, lựu đạn tay nắm gỗ của Trung Quốc
chế tạo toàn là loại chống nước, một số binh lính đóng ở hồ Thanh Hải còn
thường xuyên dùng loại lựu đạn này đánh cá nữa, vừa nãy tuy mọi người đều ngâm
mình trong nước, nhưng lựu đạn chắc cũng không bị ẩm. May mà có Lạc Ninh nhắc
nhở.
Anh Đô vội rút ngay quả lựu
đạn ra: "Nhất! Bắt lấy này!" Nói đoạn liền ném xuống cho tôi theo
phương xeo xéo.
Tôi lập tức ngậm ngay lưỡi
lê vào miệng, tay phải hươ ra bắt lấy quả lựu đạn, ngón tay cái đẩy nắp bảo
hiểm ra, há miệng cho lưỡi lê rơi xuống, rồi lấy răng cắn dứt vòng chốt, dây
dẫn lửa của quả lựu đạn lóe cháy, kêu xì xì, bốc ngút khói trắng.
Tôi ngoảnh xuống nhằm đúng
miệng con kỳ nhông chúa ném lựu đạn vào, nó nào biết lựu đạn là thứ gì, chỉ
thấy một thứ đen sì bay xuống, liền dùng lưỡi cuốn lấy rồi bỏ vào miệng theo
thói quen săn mồi hàng ngày, một tiếng "bụp" vang lên, quả lựu đạn đã
nổ bung trong khoang miệng nó, lớp da con kỳ nhong chúa tuy rắn chắc, nhưng da
thịt trong khoang miệng lại rất mềm, quả lựu đạn làm đầu nó vỡ toét từ trong ra
ngoài, rơi xuống dưới vách đá, thân xác to lớn giẫy giụa vài nhát rồi lật ngửa
cái bụng trắng ởn ra nằm chết đứ đừ trên tảng đá ven sông.
Tôi thở hắt một hơi, khắp
người ướt sũng mồ hôi, vừa nãy cũng không thấy sợ lắm, giờ chân tay mới mềm oặt
cả ra, vừa cúi nhìn xuống liền cảm thấy đầu óc quay cuồng.
Bỗng nhiên, vách núi rung
chuyển dữ dội, nước sông phía dưới cuồn cuộn dâng cao, trong không khí rặt mùi
lưu huỳnh, từng con sóng nóng bỏng từ dưới bắn xối lên.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét