Chương 10 : Đôi
mắt bản năng
Lạt ma đột nhiên biến sắc mặt, chỉ kêu lên một tiếng :" Không
xong rồi", liền ngã bật ngửa ra sau. Tôi nhanh tay nhanh mắt, vội đỡ lấy
lưng ông, ngoảnh lại nhìn thì đã thấy lạt ma mặt mày vàng vọt, hơi thở thoi
thóp, tôi lo tính mạng ông gặp nguy hiểm, liền vội bắt mạch, vừa bắt cổ tay,
phát hiện ra mạch tượng của ông lúc ẩn lúc hiện, tựa hồ bất cứ lúc nào cũng có
thể về chầu Tây thiên cực lạc.
Tôi hoàn toàn không hiểu
"thân trung ấm" là gì, dường như không phải ma quỷ ám vào, nhất thời
cũng không biết phải làm thế nào mới được.
Minh Thúc đứng đối diện với
chúng tôi nói :" A Đông làm sao lại chết được? Lẽ nào các người mưu sát
nó?". Vừa nói vừa đánh mắt cho tên thủ hạ Peter Hoàng, tỏ ý bảo hắn bảo vệ
mình.
Tuyền béo đứng cạnh hiểu
lầm, tưởng Minh Thúc bảo Peter Hoàng động thủ, liền rút con dao lính dù ra, phi
lên phía trước, định hạ lão. Peter Hoàng cũng rút dao găm lao ra đứng chặn
trước mặt Minh Thúc như một tòa tháp sắt.
Trong tòa cổ lũy, nhất thời
rặt mùi đao kiếm, không khí căng thẳng tựa như có một thùng thuốc nổ khổng lồ,
chỉ cần hơi có một tia lửa là sẽ bùng nổ. Hàn Thục Na lo cô con gái nuôi bị
thương, vội kéo A Hương ra xa.
Thấy Tuyền béo và Peter
Hoàng lăm lăm con dao sắp lao vào nhau, tôi thầm nghĩ nếu động thủ, thì bọn tôi
cũng chẳng bị thiệt, đối phương có một lão khọm và hai ả đàn bà, cho dù Peter
Hoàng có tài cán đến mấy, sức của hắn cũng chỉ là đội viên du kích quèn thôi.
Tuyền béo xử lý hắn chắc chắn không thành vấn đề, chỉ có điều chớ xảy ra án
mạng là được.
Shirley Dương tưởng tôi sẽ
khuyên giải, song thấy tôi cứ tưng tửng, như muốn xem trò hay ho, bèn lấy tay
đẩy tôi. Tôi giật mình tỉnh ra, chẳng hiểu làm sao, từ đầu chí cuối tôi đều
không coi hội Minh Thúc là người bên mình, song giả như có chuyện xảy ra thật,
thì cả hai bên cũng đều chẳng có ích lợi gì.
Vậy là tôi đành lên tiếng
:" Các đồng chí! Mong các đồng chí bình tĩnh lại một chút, đây chỉ là hiểu
lầm thôi, việc gì cũng có thể bình tĩnh bàn bạc trong hòa bình cả mà".
Đoạn tôi liền kể lại việc A Đông vào di tích vương thành ăn cắp tượng Phật mắt
bạc, bị tôi và Tuyền béo phát hiện, và cái chết thảm thương của hắn.
Minh Thúc liền xuống nước
:" Chú Nhất nói có lý lắm, có việc gì thì cứ bàn với nhau. Thằng ranh A
Đông là thằng tham lam ngay đến cả cái lợi nhỏ bằng đầu con ruồi, nó đáng chết
từ lâu rồi, chớ vì nó mà làm tổn thương hòa khí ...". Ngừng vài giây lão
lại nói tiếp :" Việc cấp bách trước mắt là vị lạt ma này sắp tịch rồi, mau
hỏa táng thi thể ông ta, bằng không chúng ta đều chuốc vạ theo đấy. Tôi đọc
trong cuốn cổ kinh kia, có một phần viết về 'thân trung ấm' đấy".
Minh Thúc bảo chúng tôi,
các cậu không hiểu thằng A Đông này đâu,chớ thấy nó thường làm những việc lén
lút, bẻ khóa nạy cửa, song nó nhát hơn thỏ đế, nó có biến thành ma cũng không
dám làm khó các vị đâu, nhưng vấn đề là cái "thân trung ấm" chắc chắn
đã bị thứ gì đó ám vào, bởi quá trình trung ấm trong cuốn kinh miêu tả rất
khủng khiếp, phải trải qua bảy bảy bốn mươi chín ngày, trong thời gian đó, sẽ
nhìn thấy nữ thần màu trắng đầu gấu mình người, tay cầm xác người làm gậy, hoặc
bưng một chiếc bát làm bằng sọ người bên trong đựng đầy máu, đại loại thế, tóm
lại rất kinh khủng. Thân trung ấm một khi tan ra, sẽ biến thành cái gì
"cấu" ấy, không đốt nó, nó sẽ hại chết người khác.
Về chuyện này thì Minh Thúc
cũng chỉ biết qua loa đại khái thôi, tuy lão ta cả ngày giở xem cuốn cổ kinh
của Luân Hồi tông ấy, nhưng toàn xem nội dung liên quan đến Băng xuyên thủy
tinh thi, những phần khác thì đều đọc lướt qua, vả lại những đoạn viết về
"thân trung ấm" trong cuốn kinh thư cũng không được tường tận lắm cho
cam.
Tôi cúi đầu kiểm tra tình
trạng của Thiết bổng Lạt ma, phát hiện trên mống mắt lạt ma dường như hằn lên
vài đường huyết quản màu đen, banh mắt ông ra xem, thì thấy đầy những gợn đen,
giống như những tia máu đỏ xuất hiện trong mắt khi thiếu ngủ, song tia máu
trong mắt của ông lại toàn một màu đen. Quan sát kỹ hơn nữa, phát hiện ra những
tia máu đen trong mắt ông đã kéo dài ra cả phần mặt, huyết quản dưới da và các
dây thần kinh đều biến thành màu đen kéo dài đến tận cánh tay.
Mọi người thấy tình trạng
của lạt ma đều bất giác toát mồ hôi lạnh, thứ gì lại ghê gớm đến thế? Giờ phút
này Thiết bổng Lạt ma đã bất tỉnh nhân sự, không thể nói cho chúng tôi biết
phải đối phó với tình hình này thế nào.
Lúc này trong đám chúng
tôi, hình như chỉ có Shirley Dương là hiểu được một số sự tình của Mật tông,
song khi hỏi ra, Shirley Dương cũng không rõ phải cứu lạt ma thế nào. "
Thân trung ấm" là bí mật bất truyền của Mật tông, chỉ có một số nhà sư ở
Sikkim nắm bắt được sự ảo diệu thực sự bên trong, chỉ e cho dù Thiết bổng Lạt
ma thần trí tỉnh táo cũng chưa chắc đã có cách giải quyết.
Lòng tôi như lửa đốt, lẽ
nào lại trơ mắt ra nhìn lạt ma chết đi hay sao? Ông vì giúp đỡ chúng tôi nên
mới chẳng ngại ngàn dặm xa xôi đến đây, ông mà có gì bất trắc ... thì thà để
tôi chết thay ông cho xong.
Shirley Dương khuyên
:" Bình tĩnh đã anh Nhất! Có khi A Hương có thể giúp chúng ta đấy. Tôi
nghĩ có khả năng A Hương có con mắt bản năng, hãy để cô bé xem thử tình hình
bên trong của lạt ma, không chừng có thể tìm ra cách giải quyết".
Hai hôm trước, trên đường
đi, Thiết bổng Lạt ma có nói với chúng tôi, cô bé A Hương này có " đôi mắt
bản năng". Trong Phật giáo Mật tông, các lạt ma cho rằng, đôi mắt có thể
phân làm sáu cảnh giới, loại thứ nhất là mắt của người thường, chỉ những người
trần mắt thịt, có thị lực bình thường. Loại mắt thứ hai gọi là "bản
mục", tức đôi mắt bản năng. Đó là đôi mắt sở hữu trực giác nhạy bén như
mắt các loài động vật hoang dã, do không dính phải sự ô nhiễm của thế tục, cho
nên phạm vi quan sát rộng hơn rất nhiều so với mắt của loài người, phạm vi này
không phải chỉ độ sâu của thị lực, mà là chỉ khả năng có thể nhìn được một vài
thứ người thường không nhìn thấy. Thứ đến là "thiên nhãn" có thể nhìn
thấy rõ quá khứ và vị lai cho đến nhiều đời nhiều kiếp của chúng sinh. Loại thứ
tư gọi là "pháp mục", như mắt của Bồ Tát và A La Hán, có thể nhìn
thấu sự việc của hàng trăm kiếp trước sau. Loại thứ năm là "thánh
nhãn", có thể nhìn thấu việc của hàng triệu kiếp trước sau. Cảnh giới tối
cao là " Phật nhãn", vô biên vô tận, có thể nhìn thấu cõi vĩnh hằng
vô thủy vô chung.
Tôi nghe Shirley Dương
nhắc, mới nhớ ra lúc này có lẽ chỉ có A Hương là chiếc phao cứu sinh duy nhất,
bèn lập tức trưng ra bộ mặt hòa nhã thân thiện của chú bộ đội giải phóng, ôn
tồn niềm nở nhờ A Hương giúp xem rốt cuộc Thiết bổng Lạt ma thế nào rồi.
A Hương nấp sau Minh Thúc
nói :" Cháu chỉ thấy một bóng người đầy máu, trông như anh A Đông, đang bị
thứ gì đó màu đen quấn chặt vào với sư phụ lạt ma, chỗ tay phải là chằng chịt
nhất". A Hương cùng lắm cũng chỉ thấy có vậy, hơn nữa nhìn lâu sẽ bị đau
đầu, nên không dám nhìn nhiều.
Tôi bĩu môi, thế thì nói
làm gì? Thứ gì màu đen? Nói thế thà không nói còn hơn, song lại không thể ép A
Hương, đành ngoảnh đầu tìm Shirley Dương bàn cách đối phó. Shirley Dương vén
ống tay áo Thiết bổng Lạt ma lên, xem xét tay phải của ông, đoạn nói với tôi
:"Ban nãy khi đang xem tấm da còn nguyên cả lông của người rừng, ngón tay
lạt ma đã bị một chiếc dằm trong mớ lông tóc đâm phải. Lúc ấy chúng tôi đều
không để ý, lẽ nào đây không phải là do ' thân trung ấm' tác quái, mà là tấm da
còn cả lông kia có vấn đề?"
Tôi nghe vậy lại càng cảm
thấy lạ hơn, bèn ngồi xổm xuống quan sát ngón tay lạt ma, ngón giữa của ông quả
nhiên bị rách một lỗ nhỏ, song không chảy máu, bèn vội nói với Tuyền béo
:" Mau vào phòng đốt ngay miếng da kia đi, cái thứ ấy quái gở lắm".
Tuyền béo hùng hục chạy vào
trong phòng chúng tôi, thoắt đã quay trở ra :" Mất rồi, vừa nãy rõ ràng
còn ở trong phòng, lẽ nào nó có chân tự chạy đi à? Chỉ còn lại vài sợi lông của
người rừng thôi..."
Mọi người nhìn nhau thất
sắc, tôi nói với Shirley Dương :" Có khả năng chúng ta nhìn lầm chăng, đó
vốn dĩ không phải là da người rừng Himalaya, mà là da cương thi sau khi đã xảy
ra thi biến, nói không chừng là da của cha cố người Bồ Đào Nha kia cũng nên. Có
điều nếu đấy là lông da của hắc hung thì có thể chúng ta vẫn còn một tia hy
vọng cứu sống được lạt ma".
Từ xưa tới nay, bài học đầu
tiên mà các Mô kim Hiệu úy phải học là làm thế nào đối phó với cương thi và thi
độc. Chúng tôi chưa từng gặp phải cương thi, nhưng trước khi rời Bắc Kinh, tôi
và Răng Vàng cùng lão thầy bói mù họ Trần đã chuyện trò hồi lâu trong quán bánh
bao. Lão có nói đến rất nhiều sự vật mà tôi hiếm khi nghe thấy, hiếm khi nhìn
thấy, ví như một vài công dụng của móng lừa đen ...
Lão mù họ Trần tuy hay
khoác lác, nhưng cũng có chuyện không phải là bịa đặt lung tung. Ngày thường
thì chẳng thắp hương, đến khi có vạ lại nương cửa chùa, thôi thì đành phải thử
xem sao. Mấy cái móng lừa đen của chúng tôi vẫn là do Yến Tử kiếm cho từ hồi
còn đổ đấu ở Hắc Phong Khẩu kia. Trong thôn có rất nhiều lừa, bấy giờ cả thảy
chuẩn bị được tám chiếc, sau đó cứ dùng cái nào rồi lại vứt đi cái đấy, cũng
chẳng bổ sung thêm nữa. Độ từ Vân Nam trở về đã đánh mất bảy chiếc,
chỉ còn một cái dự trữ để lại nhà ở Bắc Kinh, lần này cũng may Tuyền béo cầm đi.
Tuyền béo lần mò túi hành
lý một hồi, mới tìm ra chiếc móng lừa đen đưa cho tôi. Tôi lấy tay tâng chiếc
móng lên hai phát, có tác dụng gì không cũng chẳng rõ, cứ tạm thời thử xem sao
đã, nếu không được, thì âu cũng là ý trời.
Tôi đang định động thủ, lại
bị Shirley Dương ngăn lại :" Anh định cho người sống ăn móng lừa đen à?
Tuyệt đối không thể làm vậy, như vậy sẽ mất mạng đấy, cần phải áp dụng biện
pháp y học hiệu quả để chữa trị cho lạt ma mới được".
Tôi nói :" Tôi đố cô
tìm ra được một tay dân du mục nào trong vòng tám trăm dặm quanh cái di tích Cổ
Cách này đấy, lại còn đi đâu tìm bác sỹ nữa chứ? Cái cách này của tôi tuy nhà
quê, nhưng cũng có lai lịch của nó, vả lại đâu phải nhét hết cả cái móng lừa
này vào bụng lạt ma Ake. Trước mắt cứu người là quan trọng, không có thì giờ
nói kỹ cho cô biết, nếu như không mau chóng trừ khử thứ da lông của hắc hung
đi, không những tính mạng lạt ma không giữ được, mà còn chết nhiều người hơn
nữa đấy".
Câu nói cuối cùng của tôi
khiến mọi người đều câm lặng, bầu không khí bỗng chốc trở nên căng thẳng, rồi
đột nhiên cũng không biết là ai phát hiện ra, hét lớn, bảo mọi người xem khuôn
mặt lạt ma. Ngoài tòa cổ lũy hoang phế, mưa đã ngớt từ lâu, song tiếng sấm trầm
đục vẫn vang lên đùng đùng, như chưa từng dứt. Đống lửa trong căn buồng đá mãi
không có ai bỏ thêm phân trâu khô vào nên đã sắp tắt, ánh lửa lay lắt hắt lên
mặt Thiết bổng Lạt ma, mọi người nhìn xuống, ai nấy đều lạnh toát người, cơ thể
của lạt ma đã cứng đơ, trên mặt mọc ra một lớp lông đen cực mịn.
Vốn dĩ là một người sống
đang yên đang lành, giờ phút này bỗng giống như một cỗ cương thi đang xảy ra
thi biến.
Tôi nói với mọi người
:" Bình tĩnh! Mới bắt đầu thôi, vẫn kịp cứu. Mọi người mau đốt một đống
lửa nhỏ hơn một chút .... cho tôi một bát nước sạch, một cọng rơm chừng hai
mươi centimet, càng nhanh càng tốt".
Minh Thúc cũng biết Thiết
bổng Lạt ma là nhân vật quan trọng trong chuyến đi này, có ông, vô số vấn đề
liên quan đến phong tục tập quán Tây Tạng cổ xưa đều có thể lần ra được hết,
lạt ma lại tinh thông y lý Tạng dược, được ông giúp đỡ, khi đến Kelamer tìm lầu
ma chín tầng trên Long đỉnh, ắt sẽ đỡ tốn công tốn sức hơn nhiều. Xét việc công
việc tư, đều không thể không cứu, đoạn liền đẩy Peter Hoàng và Hàn Thục Na vào
giúp.
Tôi kiểm tra lại bàn tay
phải của lạt ma, tình hình ở chỗ đó nghiêm trọng nhất, sưng phù lên tới cùi
chỏ, cái lỗ nhỏ bị rách trên ngón tay đã to bằng hạt đậu, nửa cánh tay đã
chuyển thành màu tím đen, dùng tay ấn nhẹ, da thịt giống như bùn nhão, như thể
rữa từ trong ra ngoài vậy.
Thấy tình hình lạt ma nguy
trong gang tấc, tôi nắm chặt móng lừa đen trong tay, trong lòng thầm suy tính,
nếu có thêm vài chiếc nữa thì tốt, một chiếc móng lừa đen quả thực quá ít. Vừa
nãy tuy nói với mọi người là vẫn còn kịp cứu lạt ma, song giờ xem ra, một phần
mười cũng không chắc chắn, nhưng nếu không làm gì cả, thì chỉ còn biết trơ mắt
nhìn ông dần dần chết đi...
Tôi đang cân nhắc mặt lợi
mặt hại, thậm chí hơi do dự chưa quyết, Shirley Dương đã bước lên vỗ nhẹ vào
vai :" Chuẩn bị xong cả rồi, nhưng mà trên cao nguyên Thanh Tạng tìm đâu
ra cọng rơm cơ chứ, anh hướng đạo Zhaxi gỡ cái ống hút thuốc của anh ta ra rồi
đây, anh xem có dùng được không?"
Tôi đón lấy cái ống hút
trên tay Shirley, là chiếc ống hút thuốc lào bằng đồng, nhỏ dài rỗng ruột, vừa
vặn rất hợp dùng. Tôi đưa lạt ma ra cạnh đống lửa nhỏ mọi người vừa đốt, đổ đi
nửa bát nước, rồi đặt phía dưới tay phải lạt ma, sau đó rút dao, cắt ra vài lát
mỏng móng lừa đen vừa già vừa dai.
Tuyền béo cũng thấy hoài
nghi, nói :" Nhất này, chú lạt ma còn chưa tắt thở, cậu thực sự định coi
chú ấy là bánh tông để đối phó đấy à?"
Minh Thúc cũng hỏi :"
Móng lừa đen có thể trị bệnh được sao?"
Tôi chép miệng, nói với mấy
người đang vây xem xung quanh :" Các đồng chí đừng có lắm mồm nữa được
không? Trên đời này vật nọ khắc vật kia, cái lẽ tạo hóa nó vậy. Thiết bổng Lạt
ma đương nhiên không phải cương thi, song tình hình của ông hiện giờ chừng như
đang bị khí độc của thây ma ám vào, chỉ có cách đốt móng lừa đen cho phả ra
khói đặc, xông vào vết thương mới có thể cứu chữa được. Các người nếu có cách
gì khác thì mau mau nói ra, nếu không có thì đừng quấy rầy việc tôi cứu
người".
Shirley Dương, Tuyền béo và
bọn Minh Thúc cảm thấy khó hiểu, mấy cái miệng đồng thanh hỏi :" Xông khói
á?"
Tôi không tranh luận với họ
nữa, trước tiên nhấc trong đống lửa ra một cục phân trâu khô đang cháy bừng
bừng, sau đó đặt mấy lát móng lừa đen lên trên đốt, móng lừa đen gặp lửa, quả
nhiên tức khắc bốc lên không ít khói xanh. Nói ra cũng thấy lạ thật, loại khói
này không phải màu đen cũng không phải màu trắng, lởn vởn nhè nhẹ, khói dần dần
bốc lên trong đống lửa, ngoài một mùi lá cây mục cổ quái, cũng không có mùi vị
gì khác lạ, ai nấy đều nước mắt cay xè.
Tôi hươ hươ tay, bảo mọi
người lùi lại phía sau mấy bước, đừng vây chặt như thế, để khỏi bị hun hỏng
mắt, sau đó ngâm ngón tay giữa của lạt ma vào trong bát nước, khiến máu mủ ven
vết rách tan ra.
Tôi đột nhiên nghĩ ra, ngón
tay giữa của con người thuộc tâm, nếu âm khí từ xác chết ám vào tâm mạch, thì
dẫu tìm ra móng lừa của Trương Quả Lão trong Bát tiên, sợ cũng không cứu được
tính mạng lạt ma mất thôi.
Tôi cho thêm một vài lát
móng lừa nữa, thấy khói càng lúc càng dày, tôi bèn ngậm ống hút, hút lấy khói
đang bốc lên phả vào vết thương trên ngón tay ông. Chưa tới nửa phút, thì thấy
vết rách trên ngón tay kia nhỏ ra từng giọt nước, chảy đầy ra cả một bát. Tôi
thấy quả nhiên có hiệu quả kỳ diệu, trong lòng mừng rỡ, rối luôn tiết tấu hô
hấp, miệng lập tức nuốt vào một luồng khói lớn, ho sặc sụa, nước mắt nước mũi
đầm đìa, lồng ngực cảm thấy hết sức tởm lợm, đầu óc quay cuồng xoay chuyển, thế
là vội giao ống hút cho Tuyền béo, bảo cậu ta tạm thời thay chân.
Tôi chạy ra cửa nôn thốc
nôn tháo, hít thở vài hơi thật sâu không khí sau mưa, lúc ấy mới thấy đỡ hơn
phần nào, đợi khi tôi quay vào trong căn buồng đá, ngón tay lạt ma đã không còn
chảy nước nữa, vết thương dường như có vật gì đó ở bên trong chẹt lại, bật đèn
pin soi vào, dưới da hình như có một vật thể màu đen.
Shirley Dương vội tìm cái
nhíp, khử trùng qua rồi kẹp lấy vật thể ấy, nhè nhẹ gắp ra, vừa nhìn thì thấy
chính là một cuộn lông tóc kết thành búi, không hiểu vì sao lại chui vào trong
đó được. Lại dùng móng lừa đen hun khói, rồi vết thương lại chảy nước, một lúc
sau lại lấy bên trong ra được một búi lông tóc rối bời nữa.
Tôi thấy mỗi lần gắp ra
được một ít lông đen, lông trên mặt lạt ma dường như lại bớt đi được một phần,
lạy trời lạy Phật, xem chừng cuối cùng cũng cứu được, chỉ cần mau chóng dọn
sạch toàn bộ số lông đen của cương thi trước khi dùng hết nửa chiếc móng lừa
đen còn lại, chắc chắn là có thể cứu được lạt ma.
Tính mạng của lạt ma giữ
được rồi, mối lo nơm nớp cuối cùng cũng được thả lỏng, tôi châm một điếu thuốc,
vừa hút vừa ngồi nhìn Shirley Dương và mọi người tiếp tục cứu chữa. Lúc này
Minh Thúc tranh thủ chạy lại hỏi han, lão muốn tìm hiểu một chút, vì sao khi
đối phó với cương thi, móng lừa đen lại có công hiệu kỳ lạ như vậy. Không lâu
nữa cả đoàn thám hiểm sẽ tiến vào Kelamer ở núi Côn Luân, chắc nên bổ sung một
số móng lừa để phòng những lúc cần thiết, sau khi về Hồng Kông, cũng sẽ đặt ở
nhà một trăm cái.
Những điều tôi biết về móng
lừa đen, đầu tiên là thông qua những câu chuyện ông nội tôi kể. Bấy giờ ông nội
tôi thường xuyên kể chuyện thế này, giả như một chàng trai nọ, hay đi đêm, nửa
đường nghỉ lại trong một ngôi miếu cổ hoang tàn không một bóng người, ban đêm
ngủ được nửa chừng, thì từ trên trời ngoài kia, có một con cương thi bay vào,
loại đó gọi là cương thi bay, cương thi ôm một cô gái, có lẽ đã bắt từ nơi khác
về đem vào miếu định ăn thịt, uống máu. Anh chàng này kiến ngãi dũng vi, nhét
móng lừa đen vào mồm cương thi, cương thi toi đời. Chàng trai và cô gái vừa
nhìn thấy nhau liền nảy sinh lòng luyến ái, sau đó chuyện gì phải xảy ra thì
xảy ra.
Sau này khi đã lớn hơn, tôi
chẳng còn hứng thú với những câu chuyện ngớ ngẩn ấy nữa, ông tôi bắt đầu kể cho
tôi một số câu chuyện ông đã thực sự trải qua, hoặc là những truyền thuyết dân
gian, song ông cũng không biết tường tận lắm về lai lịch của móng lừa đen, chỉ
biết đó là thứ đồ nghề chuyên dụng của các Mô kim Hiệu úy làm nghề trộm mộ, có
thể đối phó với cương thi trong mả hoang mộ cổ. Cương thi đã có từ lâu, truyền
thuyết liên quan rất nhiều, sở dĩ nó có thể bắt được người sống, hoàn toàn là
bởi đám lông mịn mọc trên mình, nói theo quan điểm của Shirley, có khả năng đó
là một dạng biến đổi xảy ra do vi khuẩn xác chết gặp phải sự kích thích như
điện sinh học vậy. Song có đúng vậy không, chúng tôi cũng chẳng thể nào biết,
chỉ biết rằng có một số thứ được dùng để khắc chế thi biến, đều có hiệu quả rất
tốt, chứ không chỉ riêng thứ này.
Minh Thúc sực hiểu ra
:" À, chú kể như vậy là anh hiểu ngay, cũng giống như Mao sơn thuật dùng
gỗ đào, còn Mô kim Hiệu úy các chú thì chơi móng lừa đen, nói theo kiểu lần
trước ấy, đúng là giết trâu chọc tiết lợn, mỗi người có mỗi cách khác nhau".
Tôi nói :" Trí nhớ của
bác đúng là không tồi, kỳ thực chúng ta đồng chí mà không đồng đạo. Đều có chí
ở việc đổ đấu phát tài, song thủ pháp kỹ thuật sử dụng thì muôn vàn khác biệt,
cũng như cái ngón nghề cõng xác chui lỗ của tổ tiên nhà bác, chẳng phải trước khi
ra khỏi nhà phải lạy con mèo sứ hoa mười ba ria, lại phải mang theo ba cặp
trứng gà rồi mới dám động thủ đó hay sao?"
Trước kia tôi chỉ là hạng
ếch ngồi đáy giếng, tưởng là móng lừa đen chỉ có thể đút vào miệng cương thi,
thực ra còn nhiều cách dùng khác mà nghe tôi cũng chưa từng nghe tới nữa. Mãi
về sau, mới nghe lão mù họ Trần nói cho biết các cách dùng của mấy thứ như móng
lừa đen này trong quán bánh bao ở Bắc Kinh.
Tương truyền thời xưa, có
một Mô kim Hiệu úy đang hành nghề ở núi Nhạn Đăng. Bỗng trời đổ mưa, sấm chớp
ầm ầm, trong núi nứt ra một cái khe, thò vào nhìn, trông hang động như một căn
nhà, không ngờ lại là một cổ mộ, dựa theo kinh nghiệm của ông ta, bên trong ắt
có của báu. Thế rồi vị Mô kim Hiệu úy ấy ròng dây thừng leo xuống, thấy trong địa
cung dưới đất có một cỗ quan tài vô cùng lớn, bật nắp ra nhìn, xác chết nằm bên
trong râu trắng dài chấm bụng, dung mạo khôi vĩ, nhìn là biết không phải kẻ tầm
thường. Vị Mô kim Hiệu úy này lấy được trong miệng xác chết một viên ngọc, và
một thanh kiếm cổ trong quan tài. Đang định xem tiếp, thì bỗng một luồng gió
núi thốc tới, quan tài và địa cung bèn biến hết thành tro bụi, chỉ còn sót lại
hai chữ Hán cổ "Đại Nghiệp" có thể nhận ra được trên tấm bia đá trong
huyệt, từ đó có thể phán đoán, đây có lẽ là mộ cổ thời Tùy.
Mô kim Hiệu úy thấy trong
mộ không còn vật gì khác, bèn để thanh kiếm cổ lại, gói viên ngọc đem đi, lúc
ra khỏi mộ, gót chân sơ ý giẫm phải một vật cứng, lúc ấy cảm thấy hơi đau,
nhưng không lưu ý, sau khi về nhà, dùng nước ấm rửa chân, thì thấy ngoài vết
xước có mọc lên bọng nước nhỏ, dần cảm thấy vừa ngứa vừa đau, cả bắp chân bắt
đầu chuyển sang màu đen thối rữa. Vừa may lúc ấy ông ta lại có một người bạn
già đến thăm, người bạn này là y sư, nắm trong tay nhiều phương thuốc bí
truyền, thấy vết thương trên chân của vị Mô kim Hiệu úy, liền biết là do lông
tóc của xác chết cứa vào, vội sai người đi tìm cứt chó đen, mà chỉ cần loại đã
khô mà ngả sang màu trắng, nhưng tìm khắp nơi mà không thấy, đang lúc rối rít
tít mù, thì phát hiện trong nhà Mô kim Hiệu úy có một chiếc móng lừa đen. Trong
cổ phương có ghi rằng, vật này cũng có công hiệu đối với những thứ tà khí, ma
chướng, vậy là ông ta liền đốt cho bốc khói rồi đem hun, sau đó lấy được rất
nhiều lông tóc màu trắng tựa như sợi râu ra khỏi vết thương. Từ đó về sau mật
phương này mới bắt đầu được các Mô kim Hiệu úy sử dụng.
Tôi kể cho Minh Thúc những
điều này, chủ yếu muốn phân tán sự chú ý của mình đi, bởi vì tính mạng của Lạt
ma ngàn cân treo sợi tóc khiến áp lực tâm lý của tôi hết sức nặng nề, nếu như
móng lừa đen không đủ dùng thì cũng biết phải làm thế nào, những ý nghĩ bi quan
như vậy, đến nghĩ tôi cũng chẳng dám nghĩ nữa.
Bấy giờ Shirley Dương dường
như phát hiện ra lạt ma có điều gì đó không ổn, vội quay đầu lại gọi tôi
:" Anh mau lại đây xem, đây là cái gì?"
Chương 11 : Tiến
Vào Kemaler
L òng tôi trĩu xuống, vội dập tắt đầu thuốc, chạy qua xem sao. Cái
móng lừa đen vừa vặn dùng hết, Shirley Dương đang nhổ một cái gai thịt màu đen
trong ngón tay của lạt ma ra, không rõ là vật gì. Da dẻ lạt ma đã trở lại bình
thường, song sắt mặt mỗi lúc một xanh xao, thử dò hơi thở của ông, tuy yếu ớt,
những vẫn bình ổn, nhưng có giữ được tính mạng hay không thì chưa thể nói chắc
được.
Tôi nhặt chiếc gai thịt
dưới đất lên xem, phía sau còn có vài cục thịt màu đen bé xíu, đây có lẽ chính
là cái dằm đã đâm vào tay lạt ma. Vật này chẳng lành, giữ lại ắt không may,
liền tiện tay vứt vào trong đống lửa đốt đi, cả đống lông tóc đen hôi thối nồng
nặc cũng không giữ lại một sợi nào, tất cả đều thiêu hủy sạch.
Cuối cùng, tôi lại gọi A
Hương lại, xem trên mình lạt mà còn có chỗ nào bất thường không, xong xuôi hết
cả mới yên tâm.
Đêm hôm đó tôi không hề
chợp được mắt, ngày hôm sau Thiết bổng Lạt ma mới tỉnh lại, trông ủ dột rã rời,
trong một đêm tựa hồ già đi hai chục tuổi, cánh tay phải đã hoàn toàn không thể
cử động. Thị lực ông hình như cũng bị ảnh hưởng nặng, cái chính là khí huyết
suy kiệt, không nhúc nhích được. Với tình trạng sức khỏe hiện giờ của lạt ma,
nếu muốn hồi phục lại, ít nhất cũng phải hơn một năm. Như vậy, ông thực sự
không thể tiếp tục tiến vào vùng cao như khe Kelamer trong núi Côn Luận được
nữa.
Lạt ma cũng biết đây là ý
trời, cho dù có gắng gượng đi, cũng sẽ trở thành gánh nặng cho người khác.
Nhưng điều ông lo lắng nhất, chính là việc tìm một người hát sử thi thiên bẩm
khác quả thực quá khó, cuối cùng ông đã bàn với tôi, hãy cứ để ông cùng chúng
tôi đi tới Kelamer, nhưng ông sẽ không vào núi, mà ở cửa núi đợi chúng tôi quay
lại. Ngoài ra trong thời gian chúng tôi chuẩn bị, ông sẽ cố gắng dùng tiếng Hán
thuật lại một số nội dung liên quan đến Ma quốc trong trường thi Thế giới Chế
định Bảo châu Hùng sư Đại vương cho Shirley Dương nghe. Cũng may Shirley Dương
có khả năng nghe qua là không bao giờ quên, chắc chắn nhớ được phần lớn, đến
khi tìm tháp ma Ma quốc trong Phượng hoàng thần cung, có lẽ sẽ dùng đến.
Để lạt ma có thể nghỉ thêm
vài ngày, tôi bảo Minh Thúc mang theo người của lão ta đến vùng Gazebochinh gần
Kelamer trước, trang thiết bị cũng sắp được vận chuyển tới đó. Gần đó là vùng
bình nguyên hoang dã và khu không người, có rất nhiều bọn săn trộm. Ngoài việc
mua vũ khí đạn dược từ tay chúng ra, đội tiên phong còn có nhiệm vụ tìm hướng
dẫn viên thích hợp, thuê cửu vạn, tóm lại công tác chuẩn bị còn rất nhiều việc
phải làm. Tôi, Tuyền béo và Shirley Dương, đợi sau khi bệnh tình của lạt ma
thuyên giảm rồi sẽ lên đường. Cách núi Côn Luân vẫn còn xa, mà đã có một người
chết, một người bị thương, điều này như phủ một bóng đen u ám lên con đường
phía trước của chúng tôi.
Minh Thúc kiên quyết phản
đối, cho rằng nếu hành động thì cùng hành động, không thể chia đôi đường được.
Tôi biết lão khọm Hồng Kông này chắc chắn sợ chúng tôi bỏ rơi lão để làm một
mình, song nói thế nào lão cũng không chịu nghe, đành phải đẩy Tuyền béo đi
cùng hội của lão, coi như làm con tin, lúc ấy lão khọm mới yên tâm.
Tôi sợ Tuyền béo không
chịu, đành gạt cậu ta, bảo phái cậu ta đi làm trưởng quan liên lạc, bốn người
bọn Minh Thúc sẽ do cậu ta chỉ huy, Tuyền béo vừa nghe thấy được làm lãnh đạo,
liền mừng ra mặt đồng ý ngay. Kiến thức của Minh Thúc về hàng hải rất rộng,
song vào núi đổ đấu, cần vật tư gì, cần hướng đạo ra làm sao thì lão ta chẳng
biết mô tê gì, Peter Hoàng tuy có tham gia chiến tranh du kích trong rừng mấy
năm, song hắn căn bản không hiểu đổ đấu nghĩa là gì, mà từ trước đến giờ cũng
chưa đến Đại lục, cho nên đám người họ đương nhiên sẽ đều nghe theo Tuyền béo
hết.
Trước khi dẫn bọn Minh Thúc
xuất phát, Tuyền béo nắm chặt bàn tay tôi nói: "Nhất này, tình bạn giữa
tôi và cậu lâu nay đã chẳng thể nào đong đếm được, chỉ biết nó cao hơn núi, sâu
hơn biển. Lần này tôi dẫn bộ đội vào khai phá căn cứ địa mới trước, lâu ngày
nàng dâu cũng trở thành mẹ chồng, chức vụ phó tư lệnh của béo tôi đây cuối cùng
cũng được về đúng chỗ, song lại không nỡ chia tay các cậu, trong lòng không
biết là nên vui hay nên buồn, tóm lại cảm xúc phức tạp, quả thực không biết nói
gì hơn."
Tôi nói với Tuyền béo:
"Nếu quả thực không biết nói gì hơn, thì cớ sao mà... mẹ kiếp nói lắm thế?
Đoàn chúng ta trước giờ quan quân bình đẳng, cậu đừng diễn cái bộ quan cách với
hội Minh Thúc, đương nhiên lão khọm Hồng Kông ấy mà dám giở trò thì cậu cũng
không cần khách sáo làm gì!" Sau khi dặn dò một hồi, chúng tôi mới tiễn họ
lên đường.
Đợi đến khi Thiết bổng Lạt
ma có thể cử động, đầu tiên sẽ phải làm pháp sự độ vong cho A Đông, sau đó tôi
và Shirley Dương sẽ cùng ông cưỡi bò Yak đi từ từ đến Semge zangbo đáp xe ô tô.
Dọc đường Thiết bổng Lạt ma
không ngừng kể cho Shirley Dương những bài sử ca về đền Ma quốc, Shirley Dương
vừa nghe vừa ghi chép vào sổ, đi như vậy nên chúng tôi đến Gazebochinh muộn hơn
hội Tuyền béo hai mươi ngày. Tuyền béo và Minh Thúc ngóng đợi đã lâu, thấy cuối
cùng chúng tôi cũng đến, lập tức sắp xếp cho chúng tôi nghỉ ngơi ăn cơm.
Chúng tôi tá túc trong một
ngôi nhà dân du mục. Trước khi ăn cơm tối, Minh Thúc báo cho chúng tôi tình
hình chuẩn bị đến đâu. Trong số dân du mục ở đây có một người đàn ông tên là
Xư-chê, chưa đến bốn mươi, một người đàn ông Khang Ba điển hình, rất thông minh
nhanh nhẹn, tên của anh ta có nghĩa là "Mồng Một". Bọn Minh Thúc thuê
Xư-chê làm hướng đạo, bởi anh ta là người duy nhất trong vùng từng vào Kelamer.
Ngoài ra còn có mười lăm con bò Yak, sáu con ngựa, và năm người cửu vạn.
Từ Gazebochinh tiến vào
Kelamer, phải đi băng qua vùng bình nguyên hoang dã có rất nhiều khe hẻm, điều
kiện giao thông kém, gần đó chỉ có một chiếc xe tải kiểu cũ, truyền động hai
bánh, lái vào rồi thì đừng hòng ra được. Dải bình nguyên hoang dã kia ngay đến
cả bọn săn trộm cũng không muốn tới, cho nên muốn thồ một đống vật tư lớn như
vậy vào, chỉ còn cách dùng bò Yak mà thôi. Trang thiết bị vận chuyển từ Bắc
Kinh đến đều ra Răng Vàng đặt mua theo lời dặn dò của Shirley Dương, nay đã
chuẩn bị xong xuôi, bất cứ lúc nào cũng có thể xuất phát.
Tôi hỏi Minh Thúc vũ khí
thì thế nào, chúng ta không thể chỉ mang theo mỗi hai cây súng Remington với
hơn bảy mươi viên đạn được, vào núi Côn Luân cơ mà, dã thú ở đó nhiều lắm.
Minh Thúc dẫn tôi và
Shirley Dương ra phía sau căn lều nhà người dân du mục, Tuyền béo và Peter
Hoàng đang ở bên trong kiểm tra súng ống, ngắn dài có cả. Súng lục thì kiểu
loại tương đối đồng nhất, đều là của bọn săn trộm đánh hàng từ khu vực Đông Nam
Á sang, có khả năng là đồ của quân đội Mỹ sót lại. Súng lục bán tự động M1911
của Mỹ, kiểu dáng hơi cũ, song đường kính nòng súng đủ lớn, sử dụng loại đạn 45
ACP, tính năng ổn định, có thể coi là kinh điển trong kinh điển của súng lục
quân dụng dùng trong quân đội Mỹ, một kiệt tác của John Browning, là loại vũ
khí phòng thân tuyệt đối hữu hiệu.
Súng trường thì hơi kém
hơn, chỉ có hai cây súng thể thao nòng nhỏ kiểu dáng khác nhau, không có cái
nào cầm sướng tay, nhưng cộng thêm hai khẩu Remington thì cũng đủ dùng, suy cho
cùng chỉ là đi đổ đấu thôi, không phải đi đánh trận.
Tôi lại xem tiếp các trang
thiết bị khác, quả thực đều đã đủ cả, không những có quần áo Allison của đoàn
leo núi Mỹ, thậm chí ngay cả thiết bị lặn cũng đã được đưa đến. Hệ thống nước
ngầm do tuyết tan dưới chân núi Côn Luân hình thành rất chằng chịt phức tạp,
những thứ này chuẩn bị trước vẫn hơn, cái quan trọng nhất vẫn là những khí giới
truyền thống như móng lừa đen, gạo nếp, thám âm trảo... , cái gì không mua được
trên thị trường thì đều được đặt làm cả, có những thứ này, thấy tự tin hơn
nhiều.
Tôi để lại một ít tiền, nhờ
dân bản địa chăm sóc cho lạt ma, đợi sau khi chúng tôi ra khỏi Kelamer, sẽ đón
ông đi. Nếu sau hai tháng vẫn không thấy quay lại, thì nhờ họ đưa lạt mà về
chùa nào đó gần đây để dưỡng bệnh. Dân Tây Tạng có đức tin hết sức kiền thành,
cho dù tôi không nhờ vả, họ cũng sẽ chăm sóc tốt cho lạt ma.
Tôi thấy mọi thứ đã được
chuẩn bị xong xuôi, bèn quyết định sớm mai lên đường.
Đêm hôm ấy, Minh Thúc mời
mọi người tập trung ăn cơm, nơi đây nằm ở giao điểm giữa ba vùng Thanh Hải, Tây
Tạng, Tân Cương, nét văn hóa ẩm thực cũng hòa trộn đặc điểm của ba vùng. Bữa
tối của chúng tôi hết sức thịnh soạn, lưỡi bò Yak trộn nguội, trùng thảo xào
thịt, bánh bao Tây Tạng, phổi nhồi, lòng nhồi, cơm rưới sữa bò, sườn cừu nướng,
gân dê xào nhân sâm, tsamba bơ, ai nấy đều uống rất nhiều rượu ủ từ men lúa mì
Thanh Khoa.
Minh Thúc uống hơi lâng
lâng, nói mấy câu không ăn nhập gì, lại còn nói là hy vọng đây không phải bữa
tối cuối cùng. Nghe lão nói thế, cả đoàn đều mất hứng, ăn nhanh cho xong bữa
rồi về đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi
bèn từ biệt Thiết bổng Lạt ma, chuẩn bị tập hợp xuất phát. Thiết bổng Lạt ma
quàng lên vai tôi một dải khăn hatha: "Bồ Tát phù hộ, mong mọi người trên
đường tới Phượng hoàng thần cung may mắn bằng ăn." Tôi ôm chặt lấy lạt ma,
định nói gì với ông, song trong lòng xúc động vô cùng, không thốt lên được lời
nào.
Đoàn người lùa lũ bò ngựa
đi về hướng Tây Bắc. Vùng cao nguyên phía Bắc Tây Tạng ở sâu trong lục địa, khí
hậu lạnh khô, nhiệt độ và lượng mưa biến đổi theo đồ thị hình sin, mùa đông
lạnh mà dài, mùa hè mát mà ngắn. Thời tiết lúc này đã cuối hè, là thời điểm
nhiệt độ không ổn định nhất trong năm.
Bình nguyên hoang vu này
chính là vùng heo hút không người được gọi là "Chiho", tuy không có
con người sinh sống, nhưng sinh vật sống hoang dã trong tự nhiên thì khá nhiều,
chim thú từng đàn, thú hoang chốc chốc lại xuất hiện rồi biến mất tăm, ngọn núi
đằng xa trải dài tít tắp. Phía sau núi nối liền với bầu trời xanh ngắt, còn
phía trước núi là một khoảng trắng xóa, song vì khoảng cách quá xa, nên nhìn
không rõ là tuyết, hay là những đám mây đùn lại phía chân trời, chỉ cảm giác
nơi đây không gian ngợp mắt, toát ra một vẻ thần bí khó hình dung được.
Đi được năm ngày, thì hết
khu vực hoang nguyên, đương nhiên, vùng núi sắp sửa tiến vào còn hoang vu heo
hút hơn cả vùng hoang nguyên chúng tôi vừa vượt qua. Trước cửa núi có một cái
hồ, trong hồ có rất nhiều chim nước cổ đen, không có người kinh động mà chúng
bỗng kết thành một bầy lớn bay về phương Nam . Lũ chim này không phải loài
chim di cư theo mùa, chúng rời khỏi hồ, có thể do tuyết lở trong núi khiến
chúng kinh hãi; còn một nguyên nhân nữa, có thể là dấu hiệu trước của một đợt
rét ẩm sắp đến. Có tay cửu vạn mê tín nói rằng đây là tín hiệu không mấy tốt
lành, khuyên chúng tôi quay lại, song chúng tôi đã quyết ý đi, không gì lay
chuyển được.
Tôi và anh hướng đạo Xư-chê
bàn bạc với nhau một chút, nơi đây so với mực nước biển đã rất cao, nếu tiếp
tục leo lên núi, trong đoàn sẽ có người không thể chịu được. Trong núi này,
sông băng cổ nhiều không đếm xuể, tuyết lại tích tụ một lượng lớn, đi trong sơn
cốc rất dễ khiến gây ra tuyết lở, song anh Xư-chê từ nhỏ đã theo sư thầy vào
núi Kelamer hái thuốc, hết sức thông thạo vùng này, biết rõ ở chỗ nào là đất
trũng, hố sâu, có thể đi qua an toàn, bèn bảo mọi người tạm thời ở cửa núi nghỉ
ngơi một lát, hai mươi phút sau sẽ dẫn đoàn đi vào "Tàng cốt câu" 1.
Dọc đường Shirley Dương chỉ
chăm chú chỉnh lý lại tư liệu truyền miệng của Thiết bổng Lạt ma, đồng thời
tranh thủ phục chế tấm bản đổ Kinh Thánh của cha cố Bồ Đào Nha, cuối cùng cũng
tìm ra được một ít manh mối. Lúc này nghe nói bước tiếp theo sẽ đi qua
"Tàng cốt câu" gì đó, cô liền hỏi anh Xư-chê, nơi ấy vì sao lại có
tên là "Tàng cốt câu"? Cất giấu xương cốt của ai? Mạch núi này gọi là
Kelamer, có nghĩa là gì?
Anh Xư-chê nói: "Tàng
cốt câu có xương người hay không thì không rõ. Sở dĩ gọi như thế bởi đó là nơi
muông thú tự sát, hàng năm đều có vô số dê vàng, bò rừng, gấu ngựa Tây Tạng
chạy tới đó tự sát. Xương thú hoang chất đầy đáy khe. Người cam đảm lắm cũng không
dám tới đó ban đêm. Còn tên Kelamer, có nghĩa là biển tai họa, còn vì sao lại
đặt cho nơi ấy cái tên không may mắn như vậy, thì dẫu là người du mục có chòm
râu dài nhất chăng nữa, cũng không thể biết đâu."
Tôi và Shirley Dương nhìn
nhau, đều định tìm câu trả lời từ nét mặt đối phương, song cô nàng cũng giống
tôi, chẳng thể nào tưởng tượng ra chân tướng ẩn chứaa sau câu chuyện cổ xưa
này. Hiện tượng động vật hoang dã kéo bầy kéo lũ tự sát tập thể cũng có ở nhiều
nơi trên thế giới, nhiều nhất là sinh vật dưới biển, song xưa nay dường như
chưa từng nghe thấy có chuyện đủ các loại động vật kéo đến một nơi cùng tự sát.
Vả lại ở nơi đất Tạng sùng bái núi cao hồ rộng này, sao lại lấy cái tên không
hề may mắn "vùng biển tai họa" để đặt tên cho vùng núi này cơ chứ?
Những điều này quả thực có đôi chút khó hiểu.
Anh Xư-chê giải thích,
truyền thuyết Tàng cốt câu đã được bô lão của bao nhiêu đời trước kể lại, mỗi
khi mặt trăng tròn như cái chậu, các loài thú hoang trong núi sẽ ngước nhìn mặt
trăng và nhảy từ trên cao xuông xuống khe núi ngã chết, lấy cái chết của chúng
để làm nguôi đi cơn thịnh nộ của thần linh; còn có truyền thuyết khác kể thế
này, phàm là những con vật nhảy xuống khe sâu mà chết, đều có thể thoát khỏi
vòng súc sinh, đầu thai làm người.
Song cho đến nay, những
người còn sống vẫn chưa ai thấy có con thú hoang nào nhảy xuống khe cả, cũng
chẳng rõ truyền thuyết xa xưa kia là thật hay giả, những ở Tàng cốt câu vẫn còn
có thể thấy vô số xương cố thú hoang, đến đêm sẽ có lửa ma trơi lập lòe, hơn
nữa địa hình nơi đây cũng khá phức tạp, nối liền với dòng sông băng cổ xưa ở
Thần loa câu. Chỗ bốn ngọn núi tuyết vây quanh mà các vị muốn tìm, chính là ở
sông băng trong Thần loa câu, tới đó, ước chừng phải đi hơn năm ngày đường nữa.
Địa hình Thần loa câu phức
tạp hiếm thấy, miền cao nguyên phía Bắc Tây Tạng này đất rộng người thưa, môi
trường sống khắc nghiệt, các cùng lân cận quanh khu vực Kelamer dường như đều
là khu vực không người ở, phần lớn hiếm thấy dấu chân con người đặt tới. Bản
thân anh Xư-chê cũng mới chỉ đi qua Thần loa câu hái thuốc, còn như vào sâu hơn
nữa thì cũng chưa từng. Kelamer có nhiều núi tuyết và sông băng cổ, song có bốn
ngọn núi tuyết vây quanh thì chỉ có sông băng ở Thần loa câu, việc mà anh
Xư-chê có thể làm, cũng chỉ là dẫn chúng tôi tới chỗ ấy mà thôi.
Đoàn thám hiểm nghỉ độ nửa
tiếng ở cửa núi, sau đó tiếp tục hành trình. Những người thể lực kém, hô hấp
khó khăn đều cưỡi trên lưng ngựa, anh Xư-chê đeo lại súng săn và dao găm Tây
Tạng, rồi rút ra một túi da đựng đầy rượu Thanh Khoa, tu ừng ực mấy ngụm, sau
đó vung roi da lên trời phất liền ba phát, để báo với sơn thần, đoạn nói với
mọi người: "Muốn vào Tàng cốt câu, phải vượt qua dốc Cả-chinh trước đã, đi
thôi!" Nói đoạn, một tay lắc ống chuyển kinh, một tay quất roi da, đi tiên
phong dẫn đường vào núi.
Đoàn người ngựa còn lại đi
phía sau anh, rẽ nganh quẹo phải một hồi, cuối cùng cũng đã tới dốc Cả-chinh,
địa danh tuy có chữ dốc, song đem so với những núi cao vách đá cheo leo thì
cũng không hề thua kém là bao. Nơi đây mây mù giăng kín, đám đàn ông Khanh Ba
bọn anh Xư-chê không thấy làm sao, nhưng Minh Thúc thì dường như không thể chịu
đựng được nữa. Trước kia, những người ở nội địa đi lên đây, không thích ứng
được với phản ứng cao nguyên, ở trên này quá sáu mươi ngày là chết, bởi khí áp
nơi đây khiến quả tim dần dần to ra, sau một thời gian dài sẽ vượt qua ngưỡng
chịu đựng của cơ thể, về sau tuy có thể thông qua các liệu pháp y học giảm nhẹ
tình trạng này, nhưng vẫn rất nguy hiểm.
Trước đó, tôi cứ thấy là
lạ, theo lý mà nói thì hạng người như lão Minh, tiền đã quá đủ tiêu, sao lại nỡ
vác cái thân già vào núi Côn Luân, cố sống cố chết tìm cho ra cái Băng xuyên
thủy tinh thi kia. Sau hỏi Hàn Thục Na mới biết, hóa ra sản nghiệp hiện nay của
lão này chỉ còn lại ngôi nhà ở Bắc Kinh và mấy món đồ cổ kia thôi, gia tài đã
bị hai thằng quý tử ở Hồng Kông chơi bạc thua sạch rồi, lại còn ôm về một món
nợ rõ lớn nữa. Lão muốn nhân lúc chân tay còn hoạt bát, làm thêm một vụ lớn,
bằng không sau này chầu trời, hai thằng con trai và cô con gái nuôi của lão chắc
phải ăn cá gỗ mất. Sau khi biết chuyện này, tôi cũng có đôi phần thông cảm với
lão.
Tôi lo tiếp tục đi lên cao
nữa, có khi xảy ra sự chẳng lành với Minh Thúc và A Hương, liền chạy đuổi theo
anh Xư-chê phía trước, hỏi xem phải đi bao xa nữa mới tới Tàng cốt câu.
Anh Xư-chê đột nhiên dừng
bước, vẫy tôi, chỉ xéo xuống phía dưới, ra hiệu bảo tôi qua đó xem xem. Tôi
nhìn theo hướng anh chỉ, đúng lúc đó một làn gió núi thổi bạt đi những đụn mây
đang phủ xung quanh, bên dưới lộ ra một cái khe sâu hút, từ trên cao nhìn xuống
chỉ thấy một màn sương mênh mông, trải dài vô tận. Chưa nói việc từ trên này
nhảy xuống, chỉ nhìn thôi, đã có cảm giác khiếp hãi, nếu mây mù trên đỉnh núi
dày hơn nữa, người không am thuộc địa hình nơi đây chắc chắn sẽ tiếp tục đi về
phía trước, rồi hẫng chân ngã xuống khe sâu phía dưới kia tan xương nát thịt.
Phía dưới chính là Tàng cốt
câu, vị trí chúng tôi đang đứng là nơi vô số thú hoang nhảy xuống tự tử trong
truyền thuyết, người bản địa gọi là Yểm thú đài.
Anh Xư-chê đưa túi da đựng
rượu Thanh Khoa cho tôi, bảo tôi uống lấy vài ngụm, xua cái rét của gió núi đi,
đoạn nói với tôi: "Từ giờ tôi gọi chú là Tu-chí được không, tu-chí trong
tiếng Tạng có nghĩa là Kim Cang dũng cảm, chỉ có những dũng sĩ chân chính mới
dám đứng trên Yểm thú đài nhìn xuống Tàng cốt câu. Chú em Tu-chí này, chú cừ
lắm đấy!"
Tôi uống hai hụm rượu, há
miệng cười với anh Xư-chê, nghĩ bụng ông anh chưa biết thôi, vừa nhìn xuống
dưới kia, bụng dạ thằng em đây đã lộn tùng phèo lên rồi. Bây giờ phải đi đường
vòng xuống dưới, vẫn có thể ra khỏi Tàng cốt câu trước khi trời tối. Chúng tôi
đang định xua đàn bò Yak, thì gió lại nổi lên, những đám mây dày hơn trên đỉnh
đầu từ từ dạt ra, một ngọn núi tuyết sừng sững cao ngất xuất hiện giữa biển mây
bát ngát. Ngọn núi tuyết màu bạc như ở trên trời này, gần tới mức cơ hồ có thể
chạm tay được, chẳng trách người dân bản địa nói rằng: "Lên tới dốc
Cả-chinh, vươn tay tóm trời cao."
Anh Xư-chê và năm người cửu
vạn đều đã nhìn quen, còn đám người từ nội địa đến ít khi thấy núi tuyết chúng
tôi thì đều đứng ngây ra nhìn, bồi hồi một lúc, cho tới mãi khi dải mây khác
trôi tới che khuất ngọn núi tuyết mới dùng dằng bước đi, vừa đi vừa ngoái cổ
lại nhìn.
Đứng trước lối vào Tàng cốt
câu, tôi xem lại đồng hồ. Do tính toán tốc độ đi không chuẩn, nên giờ không kịp
băng qua khe sâu này trước khi trời tối. Xem chừng chỉ còn cách dựng trại qua
đêm ở ngoài khe, đợi sáng sớm hôm sau hẵng khởi hành.
Song lối vào Tàng cốt câu
cũng cao trên bốn nghìn năm trăm mét so với mặt nước biển, ban nãy khi qua dốc
Cả-chinh, một số người thể lực kém đã có phản ứng cao nguyên rất mạnh, uống
thuốc rồi mà cũng không đỡ hơn là bao, buộc phải tìm nơi nào đó thấp hơn để họ
nghỉ một đêm, nên chỉ còn cách tiến vào Tàng cốt câu thôi.
Anh Xư-chê nói, những
chuyện kiểu như ở đây có thú hoang tự sát hay có ma đều là truyền thuyết từ xa
xưa rồi, nói thực tôi cũng không tin, nhưng chúng ta tiến vào khe này khi trời
tối thì vẫn nguy hiểm đấy. Nơi đây tuy không lo tuyết lở, song trên vách núi
hai bên đều có những tảng đá lỏng lẻo, dù chỉ một viên nhỏ rơi xuống, trên đầu
có đội nồi sắt cũng sẽ bị xuyên thủng, đó là một chuyện; thứ hai là trong đâu
từng có hàng ngàn hàng vạn dã thú chết đi, xương trắng chồng chất, lân tinh lập
lòe, bò Yak và ngựa dễ bị kinh sợ. Cái giống bò Yak này, tuy thường ngày trông
có vẻ thật thà đôn hậu, song chúng mà điên lên, ở nơi chật hẹp như Tàng cốt câu
này, cả bọn sẽ bị chúng giẫm chết hết đó.
Tôi trông nhà Minh Thúc ba
người nằm sấp trên lưng ngựa, cảm thấy hơi khó xử, cuối cùng vẫn là Shirley
Dương nghĩ ra được một giải pháp dung hòa, để cho bò Yak ở phía trước, người
ngựa ở phía sau. Trong Tàng cốt câu có không ít cây khô, dựng trại phía sau cây
sẽ bớt nguy hiểm, sau đó mấy người lại thảo luận tiếp một số chi tiết khác,
cuối cùng quyết định tiến vào khe sâu dựng trại.
Sau khi tiến vào Tàng cốt
câu cao chưa đến ba nghìn mét so với mặt nước biển, những người hô hấp khó khăn
cuối cùng cũng có cơ hội thở đều. Ở đây sở dĩ gọi là "khe" chứ không
phải "thung lũng" là bởi địa hình quá chật hẹp, hai bên đều là vách
núi thẳng đứng như dùng dao dùng rìu cắt phạt, ngẩng đầu ngước nhìn lên trên,
chỉ thấy bầu trời như một sợi chỉ dài. Trong khi núi, đâu đâu cũng thấy cỏ mọc
tùm lum, đá nhô lởm chởm, xem trong đó quả nhiên có vô số xương tàn, đa số là
sừng trâu và sừng dê, những thứ này dẫu trăm ngàn năm cũng không thể mục được.
Nghe nói môi trường bên
Thần loa câu thông với nơi này lại hoàn toàn không giống ở đây. Ở đó rừng
nguyên sinh rậm rạp, thực vật quý hiếm sinh sôi, đặc biệt trong núi có rất
nhiều cây thuốc, cho nên còn có một cái tên là Dược Sơn.
Đi chừng một phần tư quãng
đường, màn đêm bắt đầu buông xuống, nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm ra nơi thích
hợp để dựng trại, lũ bò Yak đã bắt đầu bực bội. Để an toàn, chúng tôi đành tìm
đến nơi có mấy cây khô tập trung gần đấy rồi dừng lại dựng lều, đun nước nấu
cơm.
Mọi người ngồi quay bên
đống lửa ăn cơm nhắm rượu. Anh Xư-chê hứng chí kể cho cả đoàn nghe một câu
chuyện dân gian Tây Tạng. Tôi ăn vội vài miếng, rồi rời khỏi chỗ lửa trại, một
mình ngồi ở gốc cây cách đấy không xa hút thuốc.
Hút chưa được hai hơi, đã
bị Shirley Dương tới giật và giẫm tắt: "Hút thuốc trên cao nguyên rất nguy
hiểm đến sức khỏe, không cho hút nữa. Tôi có việc cần tìm anh bàn bạc đây!"
Tôi vốn định nói với
Shirley Dương là sao cô cứ cướp giật y như bọn phát xít vậy, nhừng liền dập tắt
ý nghĩ đó, bởi từ khi tiến vào Tang cốt câu, tôi có một cảm giác rất kỳ lạ.
Nhất định Shirley Dương cũng thấy có vết tích nào đó bất bình thường, cho nên
mới tới tìm tôi bàn bạc. Việc này can hệ đến sự an toàn và tính mạng của mọi
người, tốt nhất là không đùa cợt, nói vào việc chính quan trọng hơn.
Quả nhiên Shirley Dương đến
tìm tôi vì việc này. Chính là số lượng lớn hài cốt của thú hoang trong khe sâu
khiến cô chú ý. Những chiếc sừng trâu, sừng dê cho đến xương sọ gấu vỡ vụn, trông
ra niên đại cách nay gần nhất cũng đến hai ba trăm năm, nếu quả đúng như trong
truyền thuyết, vậy thì vì sao những năm gần đây không còn có thú hoang nhảy
xuống khe này tự sát nữa.
Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi
mới nói, truyền thuyết từ thời xưa, có thể chỉ giữ được cái bóng của chân tướng
thôi, không thể coi là việc có thật được. Những con thú hoang nhảy trên vách
xuống tìm cái chết, có thể đã bị bầy soi bao vây, cũng có thể vì bị một yếu tố
tự nhiên nào đó cám dỗ. Những việc đó tuy không thể lý giải, song quả thực là
có tồn tại trên thế giới này, có điều tôi nghĩ chắc nó không xảy ra ở đây.
Nửa cuốn tàn thư ông nội
tôi để lại cho tôi là sách do một cao thủ Mô kim cuối đời Thanh viết ra, bên
trong cũng lại có đoạn nhắc tới bố cục kết cấu của lầu ma chín tầng ở Tây Tạng.
Có lẽ trong những năm tháng trước đây, cũng từng có Mô kim Hiệu úy đổ đấu lầu
ma chín tầng rồi. Loại mộ táng dưới hình thức tháp ma này, chắc chắn sẽ có hai
rãnh tuẫn táng hình con rồng có quy mô như nhau. Tàng cốt câu mà chúng ta đang
ở bên trong đây có lẽ chính là một trong hai rãnh đó, dư nghiệt Luân Hồi tông
của Ma quốc, có thể từng là nơi diễn ra những lễ tế bí mật hiếm người biết đến.
Tôi đá nửa khúc cây khô có
hình đầu người mặt quỷ ba mắt hết sức mờ nhạt ở cạnh chân. Ít nhất nó cũng là
thứ có mấy trăm năm tuổi, sắp phong hóa hết rồi. Từ lúc vào Tàng cốt câu, tôi
đã thấy mấy chỗ có ký hiện totem kiểu thế này, đây có thể coi là tin vui đối
với chúng tôi, chứng tỏ khoảng cách từ chỗ chúng tôi hạ trại cho tới Phượng
hoàng thần cung đã không còn xa nữa.
Tôi đang cùng Shirley Dương
tìm hiểm bố cục của rãnh cúng tế này và vị trí cảu tháp ma, bỗng có tiếng hô
thất thanh của đám người đang ngồi vây bên đống lửa vọng đến, nghe có vẻ hết
sức hoảng hốt và hỗn loạn. Tôi vội quay đầu lại nhìn, cảnh tượng trước mắt thật
khiến người ta không dám tin là thật, trong ánh trăng mờ ảo, một con gấu ngựa
Tây Tạng thân hình to lớn vô cùng, đang nhe răng giơ vuốt nhảy từ độ cao hơn
nghìn mét xuống. --------------------------------
1 Tức "khe hẻm giấu xương cốt"
Chương 12 : Hoảng
hốt
G ấu ngựa Tây Tạng có hơi khác so với gấu thường, so mặt mũi chúng có
đôi phần giống mặt ngựa, nhìn rất xấu xí hung dữ, nên mới có tên gọi như vậy.
Con gấu ngựa rơi từ phía trên đỉnh đầu chúng tôi xuống đang khua khoắng móng
vuốt dưới ánh trăng, lộn nhào đụng vào tảng đá nhô ra trên vách núi.
Tàng cốt câu vốn là một khe
nứt ra từ dốc Cả-chinh, vách núi hai bên chật hẹp lại dốc đứng, khiến con gấu
ngựa đụng vào tảng đá bên này bị hất chếch đi, văng xuống lùm cây gai cằn cỗi
mọc trên vách núi bên kia. Sức rơi của vật nặng nghìn cân mạnh phải biết, lập
tức khiến bụi cây khô gãy gục, con gấu bị cành cây chọc thủng một lỗ lớn ở
bụng, còn chưa rơi xuống đất mà ruột đã lòi ra, uỳnh uỵch lăn tiếp, cuốn theo
không ít đá vụn và cành khô.
Người ngồi phía dưới đều
ngây ra kinh hãi, quên mất phải né tránh.
Trong khoảnh khắc đứng tim
ấy, may có người chợt hét lớn: "Mau nấp ra phía sau! Áp sát lưng vào vách
núi, chớ cử động!" Tuyền béo, Xư-chê và Peter Hoàng mới giật mình nhớ ra,
vội kéo ba người nhà Minh Thúc và đám cửu vạn chân tay đang mềm oặt đi vì run
sợ, nháo nhào chạy ra phía sau cây cổ thụ bên rìa vách núi náu mình.
Gần như cùng lúc, con gấu
ngựa cũng đập mình xuống đáy khe. Tôi với Shirley Dương đang ngồi cách đó khá
xa mà vẫn cảm thấy một luồng gió thổi thốc vào mặt. con gấu thân thể nặng nề
giống như một quả bom tấn, làm mặt đất xung quanh rung chuyển mấy chập. Quay
lại nhìn, thì thấy nó đã nát bét, biến thành một mớ máu thịt hỗn độn.
Tiếp đó, từ trên cao đá vụn
lở lại trút xuống ào ào, sức mạnh đúng như a Xư-chê miêu tả, một viên đá từ độ
cao nghìn mét lao xuống, dù chỉ bé bằng cái móng tay, cũng đủ để đập chết
người. Mọi người nép chặt vào vách núi phía sau mấy câu cổ thụ, không dám cựa
quậy, cũng đã hết chỗ tránh rồi, chỉ còn biết cầu xin Bồ Tát phù hộ mà thôi.
May là chỗ con gấu ngựa
nhảy xuống tự sát cách chúng tôi khá xa, không có ai thương vong. Tất cẩ đều
không biết rốt cuộc là chuyện gì xảy ra, lẽ nào truyền thuyết xa xưa đã thành
sự thật? Hay phương thức tế lễ kia đã lại được khôi phục? Nhưng Luân Hồi tông
đã diệt vong mấy trăm năm trước, đâu còn tồn tại trên đời nữa, con gấu ngựa Tây
Tạng này...
Đá vụn trên cao rơi xuống
thưa dần, may là đàn bò Yak và ngựa đều không kinh hãi bỏ chạy, mà trái lại đều
tròn mắt ngây ra.
Đúng lúc chúng tôi tưởng
mọi chuyện đã kết thúc, Tuyền béo lại bất ngờ chỉ tay lên cao nói: "Ối mẹ
ơi, đội cảm tử quân... lại tới rồi!"
Tôi còn chưa kịp ngẩng đầu
lên nhìn, đã lại có một con thú hoang rơi sập xuống, chiếc sừng cắm phập vào
lưng một con ngựa của chúng tôi với đà lao khủng khiếp. Con ngựa lập tức gẫy
xương gục chết. Định thần lại mới nhìn rõ, vừa rơi xuống chết chính là một con
dê núi Côn Luân sừng dài cổ trắng.
Sau đó lại liên tiếp có
mười mấy con dê khác từ trên đỉnh khe lao xuống, khiến lũ ngựa nhất loạn kinh
hoảng, bắt đầu có mấy con hí vang, giật đứt dây thừng nhốn nháo phi qua đám bò
Yak, men theo dài khe ngoằn ngoèo, điên cuồng lao về phía trước.
Lũ bò Yak phản ứng chậm
chạp hơn cũng đã nổi điên, hùng hục chạy theo đám ngựa lồng. Tiếng vó ngựa vó
bò lộp cộp, cùng tiếng rống hỗn loạn mỗi lúc một xa trong khe sâu hun hút, chỉ
còn vọng lại những âm thành rầm rập trầm đục.
Đám anh Xư-chê vốn định ăn
cơm uống rượu xong mới dỡ hành lý xuống, thành ra đồ đạc thiết bị vẫn còn nằm
cả trên lưng bò, mà quan trọng nhất chính là nước gừng tươi. Không có nước gừng
thì không thể đục băng được. Mặc dù chúng tôi có thuốc nổ để phòng xa, nhưng
dùng thuốc nổ trên sông bằng có khác nào tự tìm đến cái chết.
Ngoài ra đối với người Tây
Tạng, bò Yak rất quý. Nhà anh Xư-chê thuộc hàng khá giả trong vùng mà bất quá
cũng chỉ có ba con bò Yak và hơn hai mươi con dê; một lúc mất cả mười mấy con
bò, tổn thất thật vô cùng lớn.
Chúng tôi thấy bên trên
không còn thú hoang nhảy xuống nữa, bèn bất chấp nguy hiểm, chia làm hai đội,
tôi và anh Xư-chê, cộng thêm Tuyền béo, nắm chắc vũ khí, lập tức xuất phát đuổi
theo đàn bò phía trước, những người còn lại thu dọn hành trang, rồi theo sau.
Chúng tôi men theo Tàng cốt
câu khúc khuỷu tiến về phía trước, dưới đất lổn nhổn dấu chân bò ngựa giẫm đạp
giày xéo, lẫn lỗn không ít xương khô vùi lấp trong bùn đất bị hất tung lên.
Những mảnh xương đã mục ruỗng từ lâu, thi thoảng lại phát ra ánh lân quang như
ngọn lửa ma trơi. Thật không khó tưởng tưởng ra cảnh đem rùng rợn xa xưa trong
khe này với xương trắng chồng chất khắp nơi và ánh lửa ma trơi lập lòe. Hai bên
khe cỏ dại mọc um tùm cao quá nửa thân người, lác đác lẫn với cây khô và dây
leo, quanh cảnh quả hết sức tiêu điều lạnh lẽo.
Chúng tôi rượt đuổi một
chặng khá xa, xung quanh không có động tĩnh gì, không nghe có tiếng vó bò vó
ngựa, cũng không thấy ánh đèn của người phía sau, đành dừng lại nghỉ. Anh
Xư-chê rút túi da đựng rượu ra, ba người lần lượt uống mấy ngụm lớn cho thêm
phần can đảm, Tuyền béo lại rít một hơi thuốc phả ra một vòng khói.
Tôi hỏi anh Xư-chê xem
chuyện con gấu ngựa và lũ dê sừng dài nhảy xuống khe tự sát là thế nào, bao năm
nay có xảy ra đâu, sao lại xảy ra vào đúng lúc chúng ta tới.
Anh Xư-chê lắc đầu:
"Tôi cũng gần mười năm nay không tới đây rồi, người khác lại càng không.
Trước kia ngoài nghe kể những truyền thuyết xa xưa, quả thực chưa ai tận mắt
chứng kiến, không rõ vì sao chúng ta với tới lại đột nhiên bắt gặp sự việc quái
đản này."
Ba người chúng tôi bàn bạc
hồi lâu, rồi lại theo khe núi đi tới tìm đàn bò Yak và ngựa. Chúng tôi cũng
biết trong thời gian ngắn không thể đuổi kịp nữa, lại e cách đoàn người phía
sau quá xa, vạn nhất có sự biến gì thì không kịp tiếp ứng nên đành đi chậm lại.
Phía trước mặt mỗi lúc một
um tùm rập rạp, anh Xư-chê đột nhiên dừng lại, cảnh giác chỉ tay vào lùm cỏ dại
bên đường. Một mùi rất lạ bốc lên, từa tựa mùi xác rữa lẫn mùi thú rừng hôi
hám, tanh sặc sụa.
Tuyền béo vác súng trường
thể thao, tôi cầm khẩu Remington, trong tay Xư-chê là cây súng săn anh vẫn quen
dùng, đều đã sẵn sang vào tư thế chiến đấu, chuẩn bị vạch cỏ dại ra xem bên
trong có gì.
Còn chưa đợi chúng tôi áp
sát, từ lùm cỏ đột nhiên vọt ra một con sói cái, từ trên cao vồ xuống, định
đánh cú bất ngờ, động tác vừa nhanh vừa mạnh mẽ. Anh Xư-chê đi đầu động tác còn
nhanh hơn, không cần nổ súng, rút ngay con dao Tây Tạng ra chém
"xoẹt" một phát, bổ thẳng giữa mũi con sói cái, xẻ toác đôi đầu nó
ra. Con sói chết ngay tại trận.
Tôi và Tuyền béo đều tấm
tắc khen ngợi đao pháp thật tuyệt, vừa nhanh lại vừa chuẩn.
Anh Xư-chê cười ha hả nói,
năm xưa tôi là đội trưởng đội diệt sói của làng Kelamer, không phải tự nhiên có
được cái chức đấy đâu, con sói này định đánh úp chúng ta, hôm nay cho nó xúi
quẩy.
Đanh thao thao bất tuyệt
bỗng anh Xư-chê dừng chuyện, giương súng lên, xem ra vẫn chưa hết sói phía sau
lùm cỏ. Chúng tôi cùng chĩa súng gạt cỏ dại um tùm ra, chỉ thấy trên vách núi
lộ ra một của hang lớn, bên trong lúc nhúc một lũ lông lá. Ánh trăng mờ ảo soi
vào, thì ra là một ổ sói con đang sợ hãi co rúm lại với nhau. Có thể con sói mẹ
hồi nãy bị đàn bò Yak lồng lên làm cho kinh hãi, lại thấy người đi qua, mới lao
ra định sát thương con người để bảo vệ đàn con.
Anh Xư-chê xưa nay luôn kè
kè bịch rượu, giờ này đã ngà ngà hơi men, máu sát sinh bốc lên, liền rút con
dao Tây Tạng định chui vào trong hang đâm chết hết lũ sói con kia.
Tuyền béo ban nãy khi con
sói mẹ bất ngờ đánh úp vốn chưa kịp thể hiện gì, vội chạy lên trước, ngăn anh
Xư-chê: "Giết gà cần gì dao mổ trâu chứ. Xử lý lũ sói con này đâu cần phải
tốn sức thế? Các vị cứ xem béo tôi đây!" Nói rồi moi trong ngực áo ra một
túm nhỏ chập ba kíp mìn, lấy điếu thuốc ngậm trên mồm châm lửa, vung tay ném
vào hang.
Chúng tôi vội tránh sang
bên, mấy giây sau đã nghe nổ ầm trong hang, khói bốc ra ngùn ngụt.
Đợi khói tan hết, chúng tôi
nhảy vào hàng càn quét trận cuối cùng, con sói nào chưa chết thì bồi thêm một
nhát dao cho chết hẳn, kế đó mới để ý quan sát lòng hang rộng phát choáng, la
liệt mảnh đồ đồng. Xem ra đây chính là nơi hành lễ bí mật trong Tàng cốt câu,
nhưng vì sau này bị bầy sói chiếm cứ, thành ra rất nhiều dấu vết và vật dụng đã
bị phá hủy cả, không cách nào nhận ra được nữa. Ngoài ra, trong hang còn có rất
nhiều xương động vật, một số còn mới, đang bị gặm nham nhở, chứng tỏ bọn sói đã
dựa vào địa hình đặc biệt trong Tàng cốt câu này để sinh tồn. Do không quen
rượt đuổi săn mồi trên cao nguyên, chúng nghĩ ra cách dồn con mồi chạy tới đỉnh
dốc Cả-chinh. Ở đây, nếu không biết trước, đứng từ xa sẽ rất khó phát hiện ra
trên dốc núi có một rãnh sâu, đã lao tới đó có muốn dừng lại thì cũng muộn rồi.
Bầy sói từ vùng thảo nguyên bị đuổi về vùng núi này, cơ bản là đã sa vào bước
đường cùng, thật không ngờ lại biết lợi dùng nơi tế lễ cổ xưa kia để sống sót.
Ra khỏi hang sói, Tuyền béo
và anh Xư-chê cao hứng bàn luận hết sức sôi nổi. Có lẽ khi lũ sói đói dồn bầy
dê sừng dài lên núi, con gấu ngựa xấu số lẩm cẩm thế nào đã bị cuốn theo thôi,
chứ con gấu to vật đó mà lâm vào bước đường cùng, nổi điên lên thì mười mấy con
sói đói chưa chắc đã làm gì được nó. Nhưng đấy là nói khi cùng đường mạt lộ
thôi, còn bình thường e là nó cũng muốn tránh bầy sói, chẳng qua hôm nay gặp
vận xúi quẩy mới rơi xuống khe sâu, thân mình giập nát thành nhân bánh thịt gấu.
Tôi cũng định chõ mồm góp
chuyện vài câu, nhưng sực nghĩ không biết cả đàn sói vây đuổi thú rừng trên dốc
Cả-chinh này có bao nhiêu con, sợ là nhất định sắp từ phía sau quành về Tàng
côt câu rồi. Vì theo lời anh Xư-chê, phía trước Tàng cốt câu liền với sông băng
cổ Thần loa câu, địa hình dốc đứng, chỉ duy nhất có thể đi vào theo đường này,
nên để quay về tha lũ dê ngã chết đàn sói không thể đến từ hướng trước mặt
chúng tôi được.
Lũ bò Yak và ngựa ở phía
trước vậy là sẽ không bị bầy sói tập kích, song đám người đi phía sau chúng tôi
thì không có sự chuẩn bị gì. Tôi từng đương đầu với sói dữ Tây Tạng, cái ngữ ấy
xuất quỷ nhập thần, quả thực hết sức giảo hoạt, nếu bọn Minh Thúc mà bị chúng
đánh lén, thì khó đảm bảo không có thương vong. Tôi nói suy nghĩ này với Tuyền
béo và anh Xư-chê, cả ba lập tức quyết định quay lại. Suy cho cùng thì mạng
người là quan trọng, tạm thời mặc xác lũ bò Yak kia vậy.
Tuy nhiên mới đi được một
đoạn liền thông thấy ánh đèn thấp thoáng, thì ra hội Shirley Dương đã đuổi kịp
chúng tôi. Bọn họ từ xa nghe tiếng nổ, tưởng chúng tôi gặp phải nguy hiểm gì,
nên vội chạy tới tiếp ứng.
Tôi thấy cả hai nhóm đã tập
hợp lại một chỗ, bấy giờ mới yên tâm. Nhưng anh Xư-chê đột nhiên lại giương
súng, thì ra là có mấy con sói dữ xuất hiện. Chúng dừng lại ở khoảng cách nằm
ngoài tầm súng, không tiến lên nữa. Trong bóng đêm, chỉ thấp thoáng thấy đôi
mắt xanh lè và những cái bóng lờ mờ.
Những người có vũ khí đều
lăm lăm súng, chuẩn bị bắn. Tôi vội ngăn lại: "Bọn sói đang thăm dò hỏa
lực đấy. Chúng ta chỉ có hai cây súng trường có thể bắn mục tiêu ở cự ly xa,
hẵng khoan nổ súng vội, đợi chúng tiến sát lại gần rồi cùng lia cho một loạt
thì hơn!" Dù sao chúng tôi cũng khá đông, súng ống lại nhiều, cứ cho là lũ
soi quanh vùng này có tập hợp hết lại, bất quá cũng chỉ mấy mươi con, chỉ cần
sớm đề phòng thì cũng không cần phải sợ chúng.
Đúng lúc ấy, đằng xa đột
nhiên nổi lên một cái bóng trắng, lông tóc lất phất trong gió đêm. Tôi sững
người, lập tức nhớ đến cái đem ở ngôi miếu nát trong chùa Đại Phượng Hoàng,
cảnh tưởng ác chiến với bầy sói vẫn còn sờ sờ trước mắt, tựa như mới xảy ra
ngày hôm qua. Mẹ kiếp, không phải oan gia không đối đầu thế này. Vậy là cách
đúng mười năm, ở chốn sâu trong núi Côn Luân giáp ranh giữa ba vùng Tây Tạng,
Thanh Hải, Tân Cương này, lại gặp phải con sói chúa lông trắng, không ngờ nó
vẫn còn sống. Vừa nãy chúng tôi giết bao nhiêu sói con như thế, hận thù đôi bên
ắt hẳn càng thêm sâu sắc.
Tôi khẽ hỏi Tuyền bèo:
"Cậu nổ súng từ khoảng cách này liệu có chắc ăn không? Giết giặc trước hết
phải nhắm tướng mà diệt, cậu bắn chết con sói chúa, những con còn lại sẽ không
thể uy hiếp chúng ta được. Tốt nhất làm sao nổ được một phát khử nó luôn ấy."
Tuyền béo cười đáp:
"Chuyện vặt! Tư lệnh Nhất đợi lột lấy tấm da lông trắng nhé!" v ừa
nói dứt lời liền giương cây súng trường trong tay ngắm thật chuẩn, ngón tay đặt
sẵn sàng lên cò súng.
Tôi khấp khởi mừng thầm,
phen này nếu trừ khử được nó tại đây, cũng coi như trị khỏi được một khối tâm
bệnh của tôi. Nhưng đúng lúc Tuyền béo đang rê súng theo mục tiêu, chuẩn bị bóp
cò, thì con sói trắng đã kịp lánh vào góc chết của đường đạn, cả bầy sói cũng
theo đó lẩn mất trong bóng tối. Tuyền béo tức tối chửi đổng một tiếng, đành hạ
súng xuống.
Lũ sói biết nếu lao từ
trong cái khe chật hẹp kia ra chắc chắn sẽ dính đạn, nên lẳng lặng rút lui.
Nhưng tôi biết tỏng bọn chúng cực kỳ căm hận, bỏ đi lúc này chỉ là tạm thời
tránh đi mà thôi, nhất định vẫn luôn rình rập chờ cơ hội để tấn công không chút
do dự.
Chúng tôi có muốn cũng
không truy đuổi được, cả đoàn đành tiếp tục tiến lên, trước mắt phải lo tìm lũ
bò ngựa đã chạy mất hút đã. Lòng vòng trong Tàng cốt câu mãi, ai nấy mệt mỏi rã
rời, cuối cùng cũng tìm thấy lũ bò Yak đang gặm cỏ trên dốc núi bên cửa khe.
Anh Xư-chê và năm gã cửu
vạn thấy đàn bò Yak bình yên vô sự thì mừng phát điên, quên cả mệt nhọc, vội
vội vàng vàng chạy thẳng lên sườn núi, bọn tôi từ từ đi phía sau. Bất chợt cả
đám đều sững người, cảnh tượng trước mắt e là còn ly kỳ hơn cả lúc con gấu ngựa
rơi uỳnh uỵch từ trên trời xuống, sáu người nằm bên cạnh đàn bò chính là hội
anh Xư-chê. Bọn họ dường như kinh hãi quá độ, nên đều ngã lăn cả ra đất, toàn
thân run lẩy bẩy.
Người khác thì đã đành, còn
một tay cứng cỏi vung dao chém sói chẳng chút cau mày như anh Xư-chê làm sao
phải kinh sợ đến mức ấy được? Trông thế nằm của bọn thì thì không phải ngã xiên
xẹo loạn xà ngầu, mà cùng châu đầu về một hướng, úp mặt sát đất, toàn thân run
lẩy bẩy, tôi càng cảm thấy kỳ lạ, lẽ nào không phải vì sợ hãi quá độ mà dang
sụp lại ai đó? Có điều từ lúc mấy người này phăm phăm chạy lên sườn núi đến giờ
bất quá cũng chưa tới một phút, thoắt một cái như vậy, thì có thể xảy ra chuyện
gì kia chứ?
Tôi vừa đi tới vừa nghĩ
mông lung, cảm thấy thật vô cùng khó hiểu, vừa kịp bước ra khỏi khe sâu chật
hẹp. Chỉ thấy trên bầu trời phía Bắc lóe lên hai quầng sáng trắng mờ ảo, lấp
lánh rung rinh. Quầng sáng kỳ dị viền khít lấy đỉnh núi tuyết sáng bạc, ánh
sáng thần thánh tựa hai vầng nhật nguyệt lồng vào nhau cùng rọi khắp bầu trời.
Đây hẳn là ánh Phật quang nghìn năm mới xuất hiện một lần trên núi ngọc ở Côn
Luân chỉ ai có cơ duyên mới được gặp mà tôi đã từng nghe nói đến từ rất lâu rồi.
Tôi choáng ngợp trước cảnh
tượng thần thánh này, nên tuy không phải là người theo đạo Phật, cũng muốn lập
tức quỳ xuống tham bái. Lúc những người ở phía sau lục đục lên tới nơi, còn
chưa kịp nhìn cho rõ, thì ánh sáng thần kỳ đã lẩn mất vào màn đêm, thành ra bọn
Minh Thúc chỉ được thoáng thấy một tẹo, cứ đấm ngực giậm chân tiếc rẻ vì không
lên kịp.
Shirley Dương cũng có
thoáng thấy, liền bảo với mọi người chớ tiếc nuối làm gì, không phải là Phật
quang nghìn năm mới xuất hiện một lần đâu, chỉ là hiện tượng phóng điện đồng bộ
xảy ra trong tầng mây, là do mây dưới núi tuyết quá dày, ban đêm dễ xảy ra hiện
tượng đó, chứ Phật quang nghìn năm mới xuất hiện một lần làm gì gặp dễ dàng như
vậy được.
Nhưng hội anh Xư-chê vẫn
đinh ninh đó là ánh Phật quang thần thánh, cứ hễ trông thấy là được cát tường
như ý. Anh Xư-chê bảo chúng tôi, ở Kelamer rất hay thấy những ánh Phật quang
nhỏ thế này, còn đúng là ánh Phật quang rực rỡ ngàn năm mới xuất hiện thì phải
ở núi tuyết Kawaboge Vân Nam, quê nhà xa xôi của anh mới có. Nghe nói ánh Phật
quang đó từng xuất hiện trong có mấy giây cách đây cả nghìn năm về trước, và đã
được vẽ trong bức Thập tướng tự tại đồ 1 còn lưu truyền đến giờ. Có vị Phật
sống đã tiên đoán rằng, hiện tượng này sẽ xuất hiện trong mười năm sắp tới đây,
khi ấy sẽ rất đông tín đồ chẳng quản vạn dặm xa xôi nườm nượp tìm tới chân núi
chầu bái.
Riêng đám cửu vạn, vừa nãy
được sụp lạy Phâth quang, giờ đều tỏ ra phấn khích, hoan hỉ hết sức, tíu tít
chạy đi dồn bò ngựa, kiểm lại trang thiết bị, may cũng không tổn thất mấy, xong
xuôi cả đoàn lại đi tiếp. Đến lúc trời sáng thì tìm được một chỗ tương đối bằng
phẳng ở sườn núi để dựng trại, nghỉ ngơi một ngày một đêm cho hồi phục tinh
thần khí lực, chuẩn bị tiến vào sông băng Thần loa câu.
Lũ sói dữ kia mãi chẳng thấy
tăm hơi đâu, những e là vẫn lảng vảng theo dõi, cho nên chúng tôi một giây cũng
không được lơi là khinh suất, nhất là khi đang sắp sửa tiến vào một nơi nguy
hiểm và thần bí bội phần, Thần loa câu. Sông băng cổ trong Thần loa câu có độ
cao tương đối không lớn so với mực nước biển độc nhất vô nhị trên thế giới, nơi
thấp nhất chỉ có hai nghìn tám trăm mét. Dòng sông băng len lỏi giữa hai ngọn
núi tuyết lớn, khu vực hạ lưu ăn sâu chừng vài cây số vào vùng rừng nguyên sinh
rậm rạp, cây cối cao chọc trời, kỳ hoa dị thảo nhiều vô số kể, có thể nói là cả
một nguồn tài nguyên động thực vật phong phúc của dải núi cao hàn đới.
Tiến vào khu rừng rập ở
Thần loa câu thì tình trạng thiếu ô xy trên cao nguyên không là chuyện phải lo,
những cũng không vì thế hết khó khăn. Nơi nay căn bản không có đường đi, bò Yak
và ngựa không theo sông băng đi xuống được, lại còn có đoạn phải vượt qua một
dốc băng lớn nữa.
Xem ra chỉ có cách dựng
trại ở đây, dự tính ban đầu chỉ để hai tay cửu vạn ở lại trông nom, những người
còn lại vác vật dụng tiến vào sông băng, nhưng do vẫn còn mối lo bị sói dữ tấn
công, nên đành tăng số người ở lại trông coi lên, bằng không sẽ chẳng có cách
nào bảo vệ được lều trại và bò ngựa.
Tôi cũng không định để hội
anh Xư-chê vào núi, vì trước mắt còn chưa biết sẽ đối mặt với những nguy hiểm
gì, quả thực không muốn liên lụy đến người khác. Nhưng sau khi được chiêm
ngưỡng ánh Phật quang, đức tin càng được củng cố, anh ta cứ nhất mực muốn đi theo
giúp sức, cho rằng khai quật lầu ma của Ma quốc là một việc tích góp công đức,
nếu như thành công, thì thôi không định đưa thằng út ở nhà vào chùa làm lạt ma
tu hành nữa. Chúng tôi bàn bạc hồi lâu, cuối cùng đành bảo năm người cửu vạn ở
lại trông nom bò ngựa. Bọn họ ai cũng có súng săn, và đều là những tay bắn sói
cừ khôi. Ngoài ra chúng tôi còn để lại cho họ thêm một ít kíp thuốc nổ.
Tám người còn lại lập thành
một đội, mặc quần áo lặn ở trong, khoác áo leo núi ra ngoài, đội mũ léo núi,
phân chia vũ khí đạn dược. Hai cây súng trường thể thao giao cho Tuyền béo và
Shirley Dương. Tôi và Peter Hoàng dùng súng Remington, anh Xư-chê dùng súng
săn. Ngoại trừ A Hương, mỗi người còn nhận một khẩu M1911, đeo thêm các thiết
bị thiết yếu, sửa soạn xong là xuất phát ngay.
Cửa sông băng Thần loa câu,
người bản địa gọi là dốc băng lớn, lúc xuống thì rất dễ, chủ yếu là những đoạn
dốc khoảng bốn mươi đến sáu mươi độ, cứ bám dây thừng, như đứng trên cầu trượt
trượt xuống là được, có điều quay lên e là sẽ tốn không ít sức lực.
Anh Xư-chê đưa chúng tôi
đến chỗ xuống dốc dễ nhất. Dốc băng lớn trông thoai thoải phẳng lì, nhưng bên
dưới có rất nhiều kẽ và hố, vô ý xui xẻo giẫm vỡ lớp băng mỏng ở bề mặt rơi
xuống là chết toi. Chỉ có một vùng nhỏ hẹp mà năm xưa an Xư-chê theo các nhà sư
vào Thần loa câu hái thuốc phát hiện ra là tương đối an toàn.
Chúng tôi thả ba sợi dây
cáp dài xuống dốc băng. Anh Xư-chê dẫn đầu trượt xuống, mọi người lần lượt theo
sau, rất nhanh chóng xuống được Thần loa câu bên dưới dốc băng một cách thuận lợi.
Tôi giương ống nhòm quan
sát xung quanh, chỉ thấy núi rừng bạt ngàn, mênh mông vô tận. Dải sông băng này
chắc chuộc loại hình phức hợp, gồm dòng chính là một sông băng cổ, cộng thêm
các dòng mới hình thành về sau do tuyết lở ở những thời kỳ khác nhau. Toàn bộ
dải sông băng có rừng rậm bao bọc, phân cách, hang băng, rãnh băng, khe băng
cho đến thác băng ở đây nhiều vô số kể, trong khoảng rừng có độ cao so với mực
nước biển thấp hơn nữa, băng tan chảy thành suối, có trời mới biết tháp ma được
chôn ở đâu.
Tuy không phải khắp nơi đều
dễ có tuyết lở nguy hiểm, nhưng dù sao cũng không thể gây tiếng động quá lớn,
làm kinh động sơn thần trên núi tuyết, anh Xư-chê nhắc mọi người nên khóa hết
chốt an toàn của vũ khí, tuyệt tối không ai được phép nổ súng, nếu có thú rừng
tấn công, chúng ta sẽ dùng vũ khí lạnh mà đối phó.
Chúng tôi theo sông băng
tiến vào rừng, vừa đi vừa quan sát địa hình. Mãi một vài trăm năm về trước,
Luân Hồi tông còn thường xuyên phái người tới đây cử hành tế lễ, có lẽ vẫn còn
dấu tích. Theo cuốn kinh mật truyền của Luân Hồi tông, điểm tế lễ có lẽ nằm ở
nơi có bốn ngọn núi tuyết chầu quanh, chính là Phượng hoàng thần cung mà phong
thủy Mật tông nhắc đến.
Chúng tôi đi trong rừng đã
được hai hôm, hôm nay vẫn cứ thế đi tiếp. Dọc đường anh Xư-chê kể cho mọi người
nghe truyền thuyết về Thần loa câu, và những chuyện anh gặp phải năm xưa khi
tới đây hái thuốc. Theo truyền thuyết của nhà Phật, thuở xưa nơi đây vốn là một
vũng biển ăn sâu vào đất liền, dưới đáy có con ốc khổng lồ thành tinh, có phép
thần thông, khiến bao sinh linh phải chịu cảnh lầm than, mãi đến khi Phật tổ
dùng Phật pháp đội đáy biển thành núi cao, mới có thể hàng phục được nó. Con
yêu tinh ốc biển bằng lòng quy y cửa Phật, cuối cùng trở thành một vị hộ pháp
thần, cái bỏ trút lại của nó chính là sông băng Thần loa câu này.
Truyền thuyết này không
được ghi chép trong bất kỳ kinh thư nào, có thể chỉ chuyện bịa đặt của cổ nhân,
nhưng tính chất rất giống các truyền thuyết Phật giáo khác. Đạo Phật là một tôn
giáo bao dung nhất, bất kể là yêu nghiệt ác ma gì, chỉ cần buông lưỡi dao sát
sinh, lập tức có thể thành Phật, cho nên các truyền thuyết trong kinh Phật kể
rất nhiều chuyện thu nạp ma quỷ làm hộ pháp thần.
Vẫn đang chuyện trò, thì
trước mặt xuất hiện một thác băng lớn, anh Xư-chê làm hiệu bảo dừng lại, chỉ
tay nói: "Cái mỏm băng phía trước, nằm dưới chân thác kia kìa, mười mấy
năm trước tôi đứng ở đó trông lên đã phát hiện ra một cây linh chi trân châu có
tám mươi tám vị, bèn cố trèo thác băng để hái, nhưng địa hình nơi đây hiểm trở,
chẳng những không ngắt được cây linh chi,, còn suýt bị ngã chết đấy. Nơi có bốn
ngọn núi tuyết chầu quanh mà mọi người muốn tìm, chính là ở trước mặt đó. Hồi
tôi lên hái thuốc đã nhìn tận mắt, xung quanh vừa khéo có bốn ngọn núi tuyết
khổng lồ. Núi tuyết ở Kelamer rất nhiều, đằng Đông đằng Tây nhìn đâu cũng thấy,
nhưng liền kề với nhau thì không dễ kiếm ra đâu, cứ như tôi đã thấy đã biết,
thì chỉ có chỗ này là có địa hình như thế thôi. Có điều năm xưa tôi cũng chưa
dám vào thung lũng, vì truyền thuyết kể đấy chính là nơi ở giữa biển tai họa,
mấy người chúng ta muốn tiến vào cần phải hết sức thận trọng mới được."
Tôi cũng nhìn ra khí tượng
nơi đây quả không tầm thường, riêng lớp tuyết tích tụ đến hơn ngàn vạn tấn trên
kia đã khiến người ta cảm thấy ớn lạnh. May mà dải rừng kẹp giữa hai dòng sông
băng rất rộng, chỉ cần vòng qua thác băng, đi theo đường rừng, không xảy ra
chuyện gì bất trắc phải gây kinh động thì chắc sẽ không gặp tuyết lở.
Đi hết khu rừng là một dải
sông băng uốn lượn, dốc dần lên cao, xem ra mấy nghìn mấy vạn năm trước chỗ này
không phải chốn núi cao hồ băng gì, mà là một thung lũng lớn. Vùng đất quả
nhiên có bốn ngọn núi tuyết cao ngất vây quanh, làm thành một dải trập trùng,
chính là Long đỉnh nằm trên sông lưng của trời đất, tháp ma thờ cúng Tà thần
rất có khả năng đã đóng băng ở lòng sông.
Mọi người thấy cuối cùng
cũng có manh mối, tinh thần phấn chấn hẳn, hăm hở bước nhanh, muốn tranh thủ
tìm thấy lầu ma chín tầng trước khi trời tối. Mặt sông bằng trơn dị thường,
giống y một tấm gương. Peter Hoàng từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ chỉ ở phương
Nam, chưa bén mảng đến nơi băng tuyết như thế này bao giờ, cứ hễ đi nhanh tí
tẹo là lại ngã phệt xuống, sợ là sắp nứt xương cụt đến nơi, miễn cưỡng nhờ
Tuyền béo và anh Xư-chê dìu đi.
Cả đoàn vẫn đang tiến lên,
bỗng tôi điểm quân số thấy thiếu mật Hàn Thục Na, ở đây khe băng, hố băng, hang
băng nhan nhản, nếu quả thực rơi xuống đó thì phiền phức lắm. Rơi xuống hang
băng còn có thể cứu, chứ lọt vào khe băng thì không cách nào leo lên được, mà
trên băng không có vết chân, theo dấu lần lại đường cũ vô cùng khó. Ở bên dưới
mấy ngọn núi tuyết, càng không dám gọi to tên chị ta, cho dù là A Hương cũng
không có khả năng nhìn xuyên qua băng được.
Mọi người đành bảo Peter
Hoàng đứng yên tại chỗ để ý xem sao, còn tất cả tản ra, theo hướng cũ quay lại
kiểm tra, ngoặt đi ngoặt lại hai lần mới phát hiện ra một hố băng bị giẫm vỡ,
bên dưới là hang băng hình cái đấu (chỉ khe băng kẹp dưới sông băng, hình như
cái đấu). Tôi dùng đèn pin mắt sói chiếu vào, thấy hang băng sâu chừng bảy tám
mét, Hàn Thục Na nằm phía dưới, hôn mê bất tỉnh. Chúng tôi khẽ tiếng gọi tên
chị ta, nhưng không thấy có phản ứng gì.
Không ai biết chị ta đi
đứng thế nào mà lại rẽ vào chỗ này, Minh Thúc thấy vợ ngã xuống hang, sống chết
còn chưa biết thế nào, cứ bấn loạn hết cả lên. Tôi trấn an lão, bảo chớ lo
lắng, chỗ này không sâu, trên người Hàn Thục Na có đồ bảo hộ, cùng lắm là ngất
đi do quá sợ hãi, để từ từ kéo chị ta lên, đâu rồi khắc vào đó.
Tôi soạn dây thừng chuẩn bị
đu xuống, Shirley Dương ném một cây pháo sáng cho tôi nhìn rõ địa hình, tránh
giẫm vỡ kẽ băng thông với hố này. Không ngờ cây pháo sáng vừa bùng lên giữa ba
bề bốn bên quanh vách băng, tất cả nhìn xuống, cùng thốt lên một tiếng "ối
trời". Hóa ra, vách băng có không biết bao nhiêu người mặc cổ phục chết
cứng trong đó, cùng một tư thế cúi đầu, đứng thành vòng tròn vây quanh, nom như
vẫn còn sống sờ sờ, lẳng lặng nhìn Hàn Thục Na hôn mê bất tỉnh.
Thứ chúng tôi có thể thấy
được, chỉ nằm ở lớp băng ngoài cùng, sâu bên trong không biết còn có bao nhiêu
thây ma đông cứng nữa.
--------------------------------
Nguyên chú: theo giáo lý
của Phật giáo Tây Tạng, Thập tượng tự tại đồ là một dạng bức vẽ có sức mạnh cực
kỳ thần bí, được cấu thành bởi bảy chữ Phạn và mặt trăng, mặt trời cũng với
mười loại ký hiệu hình tròn... Năm sắc màu trong bức họa tượng trưng cho năm
nguyên tố cơ bản trong vũ trụ: đất, nước, gió, lửa, không khí; mười ký hiệu kia
lại tượng trung cho các bộ phận của cơ thể người và các bộ phận của thế giới
vật chất; tất cả năm trong một hệ thống quan hệ biện chứng hết sức phức tạp.
Chương 13 : Xác
ướp Kim Thân Tuyết Sơn
C húng tôi đứng cả trên mặt sông dòm vào, xem ra cái hang này không
tự nhiên hình thành, các xác chết đóng băng xếp trong đó tư thế đều bí hiểm,
đầu cúi mắt nhìn xuống hơi xéo góc. Tuyền béo thấy thế cười xỉa nói: "Chết
đến đít rồi mà vẫn không quên liếc xuống đất tìm ví tiền."
Tôi xua tay về phía mọi
người, ra hiệu chớ bàn luận, phải cấp tốc cứu Hàn Thục Na lên đã, nói thế nào
thì nói, tà khí dưới hang chắc hết sức nặng nề, chẳng phải là nơi đất lành chim
đậu gì đâu.
Thế là mấy người cuống quýt
thòng dây, tôi cầm cây đục băng, theo dây trượt xuống, Shirley Dương trượt bám
theo. Hai chúng tôi không bận tâm đám người chết trong vách băng xung quanh,
lập tức kiểm tra tình hình Hàn Thục Na, bên ngoài không có thương tích gì ghê
gớm, chỉ thấy mặt xước nhẹ dăm vết do trượt trên băng cứng, và ngất lịm đi thôi.
Tôi lấy một viên tiêu thạch
1 ra, đưa qua mũi Hàn Thục Na, chị ta lập tức hắt hơi, bừng tỉnh. Tôi hỏi chị
ta có bị thương ở đâu không, chị ta lắc đầu. Thì ra ban nãy dây giày tuột, chị
ta cúi xuống thắt lại, xong xuôi thì mọi người đã đi được một quãng, lúc ấy ai
nấy hết sức vui mừng vì cuối cùng cũng tìm được Long đỉnh, nên nhất thời không
phát hiện ra có người rớt đoàn. Hàn Thục Na cố chạy đuổi theo, chẳng may đi
chệch khỏi tuyến đường an toàn, giẫm vỡ vỏ băng ngã xuống dưới. Trong hang tối
om, chị ta bật đèn pin lên soi, định phát tán tín hiệu cầu cứu, nhưng còn chưa
kịp mở miệng thì phát hiện ra xung quanh toàn xác ướp cổ. Tuy chị ta hàng ngàng
tiếp xúc với không ít cổ thi, song tình huống lúc này quá đặc biệt, không hề
được chuẩn bị tâm lý, mới sợ quá ngất lịm đi.
Tôi thấy Hàn Thục Na không
bị thương, vậy là yên tâm, liền chiếu đèn pin xung quan sát những thi thể trong
hang băng, thấy rất khác với những người đồng chúng tôi đã gặp trong thiên cung
ở mộ Hiến Vương. Những thi thể này dường như là người đang sống thì bị đóng
băng cứng trong hang, nên nhìn rất sống động, sâu bên trong là từng lớp từng
lớp những cỗ cổ thi đứng cúi đầu, nhiều khó đếm xuể, số lượng nhất định không
dưới vài chục cỗ, trang phục trên người đều của thời cổ, nhưng không phải phục
sức của người Ma quốc.
Shirley Dương móc chốt vào
người Hàn Thục Na, chuẩn bị bảo bọn Minh Thúc, Tuyền béo kéo lên. Còn đang lúi
húi cài cài móc móc, bỗng cả hai hét lên một tiếng kinh hoàng, nhảy giật về phía
sau, cứ như nhìn thấy rắn độc dưới chân vậy.
Tội vội cúi đầu, rọi đèn
pin trên mặt băng nhẵn bóng. Dưới lớp băng hiện lờ mờ một cái bóng đen nằm co
tròn, nhìn thoáng cứ ngỡ là con tôm hùm đông lạnh siêu đại.
Tôi bảo Shirley Dương:
"Sợ cái gì chứ? Chỉ là người chết đóng băng thôi mà, nhưng sao tư thế kỳ
dị nhỉ?"
Shirley Dương nhún vai nói:
" Tôi đã kịp thấy gì đâu, vừa rồi là bị chị Thục Na làm cho giật mình đấy
chứ."
Hàn Thục Na nói:
"Thoạt nhìn thấy cái bóng ấy, người co tròn, tôi nghĩ ngay đến hình dạng
của thai nhi, nhưng lại nghĩ, trên đời này làm gì có cái thai nhi nào to thế,
nên mới hãi quá nhảy dựng cả lên."
Tôi bảo Hàn Thục Na cứ lên
trước, chị ta ở dưới này cũng vô tích sự, chỉ tổ làm vướng chân. Chị ta lên
được trên rồi, tôi và Shirley Dương ở dưới hố băng trao đổi qua dăm câu, đoán
đây có thể là huyệt mộ của giáo chủ Luân Hồi tông. Sông băng chôn tháp ma thờ
Tà thần chắc chắn là thánh địa trong mắt tín đồ Luân Hồi tông đời sau. Nhiều
đời tông chủ và tín đồ của giáo phái này, sau khi chết đi đều được táng ở đây.
Hang băng này chính là một trong những ngôi mộ táng đó. Cái bóng đen co quắp
bên dưới kia, có lẽ là một vị giáo chủ, còn đám người vây xung quanh đây đều là
tín đồ bị tuẫn táng. Trong lòng sông băng lượn quanh lầu mà chín tầng không
biết còn có bao nhiêu hang mộ như thế này nữa, có khi phải khai quật thi thể
của lão giáo chủ dưới đống băng này lên, xem đống đồ bồi táng của lão có tiết
lộ thông tin gì không.
Hai chúng tôi bàn xong thì
trèo khỏi hang băng, nói lại kế hoạch với mọi người. Vị trí chúng tôi đang đứng
lúc này có thể nói là chỗ hợp lưu của bốn dòng sông băng xuất phát từ bốn ngọn
núi tuyết, hình thành nên một dải băng vừa rộng lại vừa dày, địa hình khá gồ
ghề lồi lõm, rãnh băng khe băng đan xen chằng chịt. Khi xây dựng tháp ma, trong
Mật tông thậm chí còn chưa định hình hệ thống lý luận phong thủy, e là không áp
dụng được thuật phân kim định huyệt, thà đào bừa xác lão giáo chủ Luân Hồi tông
này trước, dựa vào đó xem xem tháp ma quả thực nằm chỗ nào, còn hơn đi tìm rờ
rẫm như mò kim đáy bể thế này.
Đám Minh Thúc không có kinh
nghiệm về mặt này, đương nhiên tôi nói sao thì răm rắp nghe vậy. Sắp xếp xong
xuôi, bọn tôi cắm cái cán cờ cạnh hang băng vừa rồi làm mốc, dựng lều ngay tại
chỗ. Peter Hoàng và anh Xư-chê lĩnh nhiệm vụ canh gác, đề phòng lũ sói đánh úp.
Minh Thúc và Hàn Thục Na lo cơm nước cho cả đoàn. Ăn cơm xong, tôi dắt A Hương,
cùng Shirley Dương và Tuyền béo xuống lại hang băng tiến hành khai quật.
Trời đã ngả chiều muộn,
trong rừng cây phía xa vẳng tới những tiếng hú ai oán của bầy sói hoang, xem
chừng con sói chúa đã tập hợp được bầy, có thể kéo đến đây bất cứ lúc nào. Tôi
nghe tiếng sói tru, chợt nhớ đến y tá Cơ Ma, căm giận sôi gan. Tôi dặn dò anh
Xư-chê và Peter Hoàng đề phòng cẩn thận, rồi mới chuyển khí giới xuống hang
băng.
Minh Thúc ngồi bên trên
treo một cây đèn huỳnh quang cho sáng. Lão này là tay lái buôn cổ thi lõi đời,
thấy dưới lớp băng cổ có cỗ thây ma tư thế quái dị như vậy, nhất định hiếu kỳ,
chắc đang nghĩ không chừng đào được một Băng xuyên thủy tinh thi giá trị liên
thành khác cũng nên, cùng Hàn Thục Na ngồi chằm chằm theo dõi.
Dắt theo A Hương bên cạnh
quả thực tiện hơn thắp nến nhiều, có điều A Hương nhát gan, đề phòng cô bé sợ
quá á khẩu, chúng tôi vẫn dựa theo lệ cũ, thắp một cây nến mỡ bò ở góc Đông Nam
hang băng.
Theo chỉ đạo của tôi, Tuyền
béo rót nước gừng vào cái bình phun, xịt đẫm xuống mặt băng, xong rồi thì từ từ
ngồi đợi cho nước gừng ngấm.
Những thây ma đông cứng
trong vách cúi đầu chòng chọc nhìn chúng tôi chuẩn bị đục băng, không khác gì
một đám đông tò mò, nhưng trông hết sức lạnh lẽo vô hồn. Tuyền béo bực mình
chửi: "Con bà nó chứ, thật là khó chịu, hay ta kiếm tấm vải che lại, tôi
nổi hết gai ốc lên rồi đây này."
Tôi bảo Tuyền béo:
"Cậu là đàn bà con gái hay sao mà sợ bị người khác nhìn, cứ xem như đám tử
thi kia không tồn tại là được chứ gì... " Tôi mồm thì nói vậy, chứ trong
bụng cũng cảm thấy hang băng này tà mị vô cùng, xưa nay chưa gặp kiểu bồi táng
thế này bao giờ, chủ mộ đã không có áo quan, lại nằm co y như con tôm đông
lạnh, quả thực rất khó nói trước lát nữa rốt cuộc đào được thứ gì.
Shirley Dương có lẽ thấy
tôi hơi băn khoăn, liền nói: "Trong Luân Hồi tông duy trì rất nhiều truyền
thống tà giáo của Ma quốc. Sử thi về Anh hùng vương có nói Ma quốc là một đất
nước sùng bái hang động và vực sâu, đám xác bồi táng quanh vách hang này đều
như trong tư thế cúi nhìn xuống vực sâu, đại khái chắc có liên quan đến tín
ngưỡng tôn giáo của họ, không cần phải lấy làm lạ."
Đợi một lúc, thấy nước gừng
đã thấm khá sâu, chúng tôi bèn dùng cây dùi đục băng thọc xuống. Nước gừng vốn
là khắc tinh của băng, dẫu có là băng đen đông tụ từ hàng vạn năm trước cũng
phải bở ra, nữa là lớp băng không dày này lắm, nên chẳng mấy chốc chúng tôi đã
đục được một ô vuông vắn, nhấc nắp ra, bên dưới không có băng đóng cứng, mà đến
một lớp bong bóng cá gói thi thể bên trong.
Nhìn thấy cỗ thi thể, mọi
người đều cảm thấ có đôi phần kỳ lạ, A Hương thì sợ quá run lẩy bẩy, Shirley
Dương phải ôm chặt lấy, hỏi xem có phát hiện ra thứ gì không. A Hương lắc đầu,
chỉ nói nổi là khủng khiếp quá mà thôi.
Tôi quay đầu lại nhìn cây
nến, thấy vẫn cháy bình thường, xem ra không có vấn đề gì, bấy giờ mới nín thở
xem xét thi thể đã lộ ra dưới lớp băng. Lúc trước khi chưa phá vỡ mặt băng, chỉ
thấy cái bóng lờ mờ màu đen, giờ nhìn kỹ lại, thì ra là một thây ma to lớn,
trắng toát, không phải là loại lông trắng mọc tua tủa như bị thi biến, mà tựa
như là bọc trong một lớn kén dày cứng, đôi chỗ hơi bong tróc có ánh vàng chóe
lộ ra, cứ như bên trong là một khối vàng ròng vậy.
Tư thế hay tay ôm đầu gối,
thân mình co tròn như vậy rất có thể liên quan đến tôn chỉ của Luân Hồi tông,
cho rằng người ta sau khi chết đi lại đầu thai, nên thi thể mới phải bó tròn
lại như thai nhi trong bụng mẹ.
Minh Thúc ở bên trên cũng
nhìn thấy rất rõ, hí hửng: "Ồ, là xác ướp Tuyết sơn, khá lắm, khá lắm, cỗ
xác ướp kim thân Tuyết sơn này phải hơn triệu tệ đấy... tiếc là niên đại gần
quá, cổ hơn một chút nữa cũng chẳng thua kém Băng xuyên thủy tinh thi mấy đâu."
Tôi ngẩng đầu lên hỏi lão:
"Xác ướp kim thân Tuyết sơn gì?" Đối với thể loại cổ vật này, bọn tôi
đều không am hiểu bằng vợ chồng Minh Thúc.
Minh Thúc lúc này cũng đã
leo xuống hố băng để nhìn cho rõ hơn. Lão giơ kính lúp soi đi soi lại hồi lâu,
lại thò tay sờ cái vỏ kén màu trắng bao bọc thi thể, rồi liếm ngón tay bảo:
"Không sai, chắc chắn là xác ướp kim thân Tuyết Sơn rồi!"
Phương thức xử lý thi thể
kiểu này hết sức lằng nhằng, đầu tiên phải nắn xác chết theo một tư thế đặc
biệt, rồi đặt vào quách đá, đổ ngập muối, để yên chừng ba tháng cho muối ngấm
hẳn, thi thể cạn kiệt nước, sạch hoàn toàn cặn bã, bấy giờ liền tiếp tục phết
một lớp vật chất tựa như bùn, chế từ đàn gỗ, hương liệu, bùn và các loại dược
liệu khác.
Dần dần, vật chất này trở
nên đông kết, cứng chắc, những chỗ khuyết lõm hoặc nhăn nhúm, như mắt, má, hoặc
thậm chí là dạ dày bên trong, sẽ tự trương nở theo tỉ lệ tự nhiên, khiến thi
thể lấy lại được vẻ đầy đặn hài hòa, thì dùng sơn nhũ vàng quét khắp lượt, đây
chính là kim thân, xong xuôi lại phủ thêm lượt muối nữa. Chỉ những người kẻ
thân phận hết sức cao quý mới có tư cách hưởng kiểu đãi ngộ này mà thôi.
Tôi và Tuyền béo thộn mặt
ra nghe, không ngờ gói bánh tông mà có thể rắc rối phức tạp đến vậy. Minh Thúc
bảo chúng tôi chuyển cái xác ướp lên, nhưng sờ tay vào mới thấy nó dính chắc
vào băng, chịu không dịch chuyển được, lấy đèn pin rọi sâu vào, có vẻ láo nháo
tựa như bên dưới có rất nhiều thứ, nhưng cách lớp băng không nhìn ra được.
Tôi bèn lôi bình xịt ra,
phun tiếp nước gừng, đợi một lúc, đoán chừng đủ lâu, khoan phụp xuống. Không
ngờ từ lỗ băng vỡ dưới mũi khoan phụt lên một luồng lửa lớn màu xanh lam, kèm
theo tiếng rít chói tai, vọt thẳng lên trời.
Theo kinh sách Luân Hồi
tông miêu tả, thì ngọn lửa xanh lam không giống lửa thường, Luân Hồi tông gọi
là "Vô lượng nghiệp hỏa", chính là ngọn lửa hung ác có thể thiêu rụi
cả linh hồn trong truyền thuyết. Thật không ngờ, bên dưới xác ướp kim thân
Tuyết sơn này lại giấu một cạm bẫy cổ xưa, tàn ác đến thế.
Cũng may Tuyền béo nhanh
tay nhanh mắt, đúng khoảnh khắc ngọn lửa phụt lên, kịp đẩy Minh Thúc sang một
bên, tôi và Shirley Dương cũng giật A Hương ngược ra phía sau tránh. Mọi người
co cụm lại trong góc hố băng, chỉ thấy đầu lưỡi khô rát, dường như nước trong
cơ thể đang bốc hơi với tốc độ khủng khiếp.
Trong hố băng chật hẹp,
tiếng rít chói tai của ngọn lửa nghe càng kinh hồn táng đởm. Tất cả mấy người
chúng tôi đều trở nên bất động, chỉ mong sau ngọn lửa quỷ quái này mau mau biến
đi, nếu để kéo dài thêm chốc nữa, không khí tươi mới không tràn được xuống
hang, người ở đây cũng chẳng thể gắng gượng được bao lâu.
Tiếng rít của Vô lượng
nghiệp hỏa cuối cùng cũng dứt, mọi người quay ra nhìn nhau, may không ai bị
thương, chỉ có Minh Thúc không đội mũ leo núi, trong cơn hoảng loạn đã vô ý
cụng đầu vào vách băng, phúc bảy mươi đời nhà lão là không hề hấn gì.
Xác ướp kim thân trong hố
băng đã bị Vô lượng nghiệp hỏa thiêu rụi chỉ còn một nấm tro đen sì, sau cơn
hoảng hồn chẳng ai còn tâm trí nào nhìn đến nữa, chợt phía trên có tiếng hô
hoán, nghe giọng thì hẳn là anh Xư-chê.
Hay đàn sói nhân lúc tối
trời đã mò đến, nhưng sao không thấy ai nổ súng? Tôi không nghĩ ngợi nhiều nữa,
leo vội lên, liền thấy Peter Hoàng và anh Xư-chê đang luống cuống cấp cứu cho
Hàn Thục Na. Tôi lại gần nhìn, rùng mình lạnh toát cả người, khuôn mặt Hàn Thục
Na đã bị ngọn lửa đốt trụi. Có lẻ lúc đấy chị ta đang khom người cúi xem, vừa
vặn lúc ngọn lửa bắn phụt lên, cả khuôn mặt coi như hứng trọn, mũi, mắt đều
không còn, môi cũng mất, giữa khối tro than đen sì chỉ còn lại hai hàm răng
trắng ởn và cái lưỡi đen kịp bên trong, trông phát hãi.
Hàn Thục Na nằm vật bất
động trên mặt sông băng, anh Xư-chê nhìn tôi lắc đầu, xem ra chị ta đã chết tại
chỗ rồi.
Tôi thấy Hàn Thục Na chết
thê thảm, trong lòng cũng nặng trĩu, liền lấy một tấm thảm đạy cái xác lại,
tránh để Minh Thúc khỏi nhìn thấy, e sẽ không chịu đựng nổi.
Bấy giờ Minh Thúc cùng mấy
người còn lại mới lục tục leo lên, đưa mắt nhìn chúng tôi, lại nhìn thi thể đắp
thảm nằm dưới đất, đang định hỏi vợ đâu, thì phát hiện ra mớ tóc xoăn lòa xòa
bên dưới tấm thảm. Hàn Thục Na bị thiêu rụi mặt mày, nhưng ngọn lửa còn chừa
lại mái tóc. Minh Thúc vừa nhác thấy, hiểu ngay đã xảy ra việc gì, thân mình
lảo đảo, suýt ngã ngất. Peter Hoàng vội đỡ lấy lão ta.
Tôi đánh mắt về phía
Shirley Dương, bảo đưa A Hương vào lều trước. Tuy không biết tình cảm của A
Hương đối với mẹ nuôi thế nào, song cô bé này gan thỏ đế, nhìn thấy các xác
không có khuôn mặt kia chắc chắn sẽ sợ hãi mà đổ bệnh.
Tôi không nỡ nhìn Minh Thúc
đau thương quá độ, nhưng cũng chẳng thể nghĩ ra cách nào an ủi lão ta, đành kéo
anh Xư-chê ra một bên bàn bạc, xem liệu có thể dắt lão, A Hương, Peter Hoàng về
trước hay không. Ở sông băng Long đỉnh này, bất trắc rình rập từng bước, bọn họ
mà cứ tiếp tục đi với bọn tôi, khó có thể đảm bảo sẽ không xảy ra tai ương gì
nữa.
Anh Xư-chê tỏ ra khó xử
nói, người an hem Tu-chí này, lúc này có muốn đi cũng không đi được nữa rồi.
Chú xem mây trên trời dày đặc thế kia, lúc mới đến cửa vào Kelamer chúng ta đã
trông thấy lũ chim nước cổ đen kia nháo nhác bay đi, e là đợt rét ẩm sắp ập tới
thật rồi. Ở vùng núi tuyết này, trên mỗi ngọn đều có đủ bốn mùa, thời tiết thay
đổi cực kỳ đột ngột, không dự đoán được, trong năm chỉ có ngày nào gió nhẹ,
không mưa không tuyết mới tiến vào nổi sông băng. Quãng tháng Năm là thích hợp
nhất, nay là trung tuần tháng Chín, bình thường thì là khoảng thời gian thuận
lợi đấy, những thời tiết trên núi tuyết khó lường, nói thay đổi là thay đổi
luôn, sợ không đầy hai tiếng nữa tuyết lớn sẽ xuống mất.
Nơi đây tuy không đến nỗi
gặp phải cảnh tuyết giăng mù trời mù đất kín cả đường đi, nhưng sông băng ở
Long đỉnh địa hình lại vô cùng phức tạp, thời viễn cổ có thể từng là một hồ
nước khổng lồ giữa núi, cho nên mới có tên là biển tai họa. Sau đó trải qua
cuộc vận động tại sơn, hình thành nên dãy núi Himalaya, khiến độ cao so với mực
nước biển tăng lên, nhiệt độ sụt xuống, cả một vùng hồ rộng lớn biến thành sông
băng, lâu lâu lại có tuyết lở khiến sông băng ngày một dày thêm, địa hình ngày
một thêm phức tạp.
Vào mùa hè, băng tan ra
đang kể, mặt băng mỏng đi ở nhiều chỗ, nên Hàn Thục Na mới giẫm vỡ một hố băng.
Vào mùa lạnh, nhiệt độ xuống thấp, tình huống ấy sẽ không xảy ra. Còn ở thời
điểm này, trên mặt băng có không biết bao nhiêu kẽ băng, hố băng, rãnh băng
đang rình rập.
Đi trên sông băng, nếu chưa
có tuyết thì còn ổn, nhưng một khí trong núi xuất hiện đợt rét ẩm, tuyết lớn đổ
xuống, chỉ không đến hai ba tiếng đồng đồ sẽ phủ dày khắp nơi, chẳng may thụt
ngã vào những chỗ băng yếu thì toi đời. Anh Xư-chê dù có kinh nghiệm mấy, cũng
không dám dẫn đoàn mạo hiểm đi vào lúc này, huống hồ lũ sói cũng theo vào núi,
lỡ xảy ra chuyện, bọn chúng chắc chắn sẽ thừa cơ đục nước béo cò, thành ra muốn
quay lại cũng phải đợi sau khi qua đợt tuyết, sông băng cứng chắc mới có thể đi
được.
Tôi đang bàn bạc với anh
Xư-chê, chợt có thứ gì lành lạnh táp vào mặt, thì ra tuyết đã rơi. Tôi vội quay
lại tập hợp mọi người, nói rõ tình hình trước mắt. Nếu ai muốn quay trở lại, ít
nhất phải đợi sau hai ngày nữa, riêng tôi, Tuyền béo và Shirley Dương đã quyết
đi bằng mọi giá rồi, không bới cho cái tháp tà ma của Ma quốc chống ngược lên
giời, bọn tôi quyết không dừng, đừng nói là có mưa tuyết, có mưa dao đi nữa
cũng không rút lui.
Minh Thúc nước mắt giàn
giụa, tuôn ra toàn những câu đại loại như lão với Hàn Thục Na yêu nhau thực
lòng, lúc khốn khó hiểm nguy cũng chưa từng xa lìa, cơn tỉnh cơn say đều má ấp
môi kề. Tôi và Tuyền béo tưởng lão này còn đau lòng quá độ nên bắt đầu nói
nhảm, đang định cất lời khuyên lơn, bảo lão nghỉ ngơi cho lại sức, nào ngờ đến
đó thì nghe lão nói đốp một câu: "Làm gì có chuyện không trộm được gà mà
phải tốn thóc, lần này sống chết gì tôi cũng phải cố đi, không moi được Băng
xuyên thủy tinh thi nhất định sẽ không về!" Đoạn lão quay sang dặn dò
chúng tôi, nếu lão có mệnh hệ gì, bọn tôi cũng phải hứa dắt A Hương trở về an
toàn.
Tôi thấy Minh Thúc u mê cố
chấp quá, chẳng biết nói lại thế nào, nghĩ bụng mình với Tuyền béo, Răng Vàng,
thằng nào cũng thế thôi, nhiều khi hỏng việc không phải vì không đủ mưu trí,
cũng không phải vì không đủ to gan, kỳ thực chẳng qua là vì thấy cái lợi mà mê
mụ đầu óc. Cái đạo lý này bọn tôi đều biết, nhưng cứ rơi vào hoàn cảnh đó là
quên tiệt, suy cho cùng thì bọn tôi đều là người trần mắt thịt, làm gì có đôi
mắt Phật nhìn thấu cõi vô thủy vô chung, mà trước đây lại còn nghèo rớt nữa.
Chúng tôi bàn bạc xong thì
trời đã gần trưa, tuyết bắt đầu rơi lớn, tiếng hú của bầy sói lởn vởn xa xa
trong gió tuyết. Chúng tôi đặt thi thể của Hàn Thục Na cạnh trại, đắo một tấm
thảm, Tuyền béo và Peter Hoàng lo đi đục băng làm gạch, chất quanh lều để chắn
gió và đề phòng lũ sói tấn công.
Tôi và Shirley Dương lại
leo xuống hố băng, hy vọng kiếm được chút manh mối để xác định vị trí lấu ma
chín tầng, những mong có thể quật được nó trước tối mai.
Trong mồ mả của Ma quốc đều
có một loại bọ trong suốt mà Mật tông gọi là tá phủ, kẻ nào tiến lại gần sẽ bị
Vô lượng nghiệp hỏa thiêu thành tro bụi. Tuy nhiên trước khi lên Tây Tạng,
chúng tôi đã sớm nghĩ ra cách ứng phó rồi. Trên cao nguyên khí hậu khô lạnh,
nước trong bình sẽ đóng băng rất nhanh, căn bản không thể sử dụng được, nhưng
đổ nước gừng vào bình xịt khí áp thì có thể đủ sức dập tắt những ngọn lửa tá
phủ ma quái.
Riêng cột lửa màu xanh lam
khổng lồ xuất hiện trong hang băng đặt kim thân của giáo chủ Luân Hồi tông này
khiến chúng tôi hoàn toàn bất ngờ. Shirley Dương xem xét một lúc, đoán đây có
thể là một cái bẫy cổ xưa, Luân Hồi tông không biết sử dụng lửa ma của Ma quốc,
chỉ là phỏng theo Vô lượng nghiệp hỏa đó chế tạo một cái máy phun lửa nhân tạo
mà thôi. Phía dưới xác kim thân là một không gian kín, nhồi một lượng lớn các
loại mật dược. Trong môi trường tuyệt đối kín bưng, năm này qua năm khác, mật
dược quyện dần với không khí tù đọng tạo nên một dạng khí đặc biệt, nếu xác ướp
kim thân Tuyết sơn bị xâm phạm, môi trường kín bị phá vỡ, thứ khí nén kia phụt
ra sẽ thành một luồng lửa cực kỳ nóng. Chủ mộ thà để cho thân xác mình bị thiêu
ra tro, còn hơn bị người bên ngoài vào quấy nhiễu.
Sâu tít trong hang, sau bức
tường băng bị lửa làm tan chảy, còn một hang băng lớn hơn nữa. Chúng tôi phát
hiện ra một gian phòng khuất, xem chừng chính là nơi cất đồ bồi táng của chủ
mộ. Ở chính giữa gian phòng có đặt một tòa tháp ba tầng, tượng trưng cho ba cõi
trên trời, dưới đất, nhân gian, chiều cao một mét rưỡi, chất liệu bằng vàng
ròng, khảm vô số ngọc trai, trông long lánh rực rỡ đến chói cả mắt.
Shirley Dương đặt mấy ống
đèn huỳnh quang chiếu sáng ở bốn góc, tôi dùng thám âm trảo cạy cửa tháp. Tầng
giữa tòa tháp có hơn mười hộp báu hộ thân kiểu như hộp Ka U2, và rất nhiều các
loại châu báu như san hô trắng đỏ, vân thạch, mã não... Tầng dưới tượng trưng
cho mặt đất, để những thứ như lương thực, lá chè, muối, quả khô, thảo dược.
Tầng trên cùng có một bộ áo bào dệt bằng sợi vàng, và những bức tượng điêu khắc
tinh xảo.
Chúng tôi thấy bức điêu
khắc có quét sơn màu trên đỉnh tháp nhìn tương tự như bức bích họa mắt bạc
trong hang miếu Luân Hồi ở di tích Cổ Cách, cũng vẫn dùng các con thú kỳ dị để
biểu thị tọa độ phương vị, ở giữa có một cô gái xiêm y trong suốt gần như lõa
thể, đó chắc là Băng xuyên thủy tinh thi. Dựa vào vị trí đặt tòa tháp bồi táng,
so với những gì miêu tả lại trong cuốn cổ kinh, thì tháp ma thờ Tà thần nằm
phía Tây của hố băng này, không ngoài bán kính ba mươi mét. Trên sông băng Long
đỉnh, ít nhất cũng phải có hơn một trăm, thậm chí mấy trăm khu huyệt mộ của các
đời giáo chủ Luân Hồi tông, lăng mộ mà chúng tôi phát hiện ra đây chỉ là một
trong số đó mà thôi. Các huyệt mộ đều được sắp xếp theo bản đồ tinh tú của Mật
tông, vây quanh lầu ma chín tầng từ thời Ma quốc truyền lại. Không cần phải tìm
nhiều nữa, có vật tham chiếu này, kết hợp với những ghi chép trong cổ kinh,
ngày mai chắc chắn có thể tìm thấy mục tiêu cuối cùng.
Trên vách tường trong căn
phòng băng này có khắc rất nhiều hình tượng ác quỷ, xem chừng của nả trong tháp
đều đã bị nguyền rủa. Tôi thì nghĩ thiên hạ có câu: "Nam Xang thóc lúa đầy
đồng, Bụt no Bụt chẳng mơ mòng oản chiêm", cứ khuân tất đống châu báu
trong này đi cũng chẳng sao cả, có điều còn việc lớn trước mắt, tâm trạng nào
mà để ý đến những thứ xanh đỏ tím vàng, thành ra tôi và Shirley Dương để các thứ
yên vị ở đó, lại leo trở lên mặt sông băng.
Tôi sắp đặt để mọi người
được luân phiên nghỉ ngơi, tôi và anh Xư-chê sẽ trực ca đầu tiên. Hai chúng tôi
dựa lưng vào vách băng, vừa để ý quan sát động tĩnh xung quanh, vừa làm vài
ngụm rượu cho nóng người. Vừa mới hồi nãy bọn sói hãy còn lởn vởn, bây giờ gió
tuyết mù mịt thiên địa thế này, anh Xư-chê nói nếu đêm nay chúng mà không tấn
công, thì chắc đã lủi vào rừng trốn bão tuyết rồi.
Tôi thấy anh Xư-chê rành rẽ
bản tính của loài sói, lại nghe nói anh từng làm đội trưởng đội diệt sói của
làng Kelamer, không khỏi nổi cơn tò mò, bèn mở lời ướm hỏi.
Anh Xư-chê bèn kể chuyện
hồi xưa, trước khi giải phóng, tổ tiên nhà anh ta đều làm việc cho đầu mục. Dạo
anh còn bé tí, năm lên bảy tuổi, có lần bầy sói cắn chết liều mấy mươi con dê,
chuyện này hết sức bất thường, gã đầu mục ngờ có kẻ nào đắc tội với sơn thần,
mới đem ông nội anh ra lột da, rồi bắt cả anh đi tế thần, cả nhà anh vì thế
phải chạy trốn xa cả ngàn dặm tới tận Kelamer sinh sống. Trên đường trốn chạy,
cha anh bị đoàn người ngựa đuổi theo giết chết.
Anh Xư-chê kể ngắt quãng,
nói được một đoạn lại dừng lại trầm ngâm hồi lâu, tôi thấy anh không muốn nói
nữa, cũng không gặng hỏi. Lúc này đêm đã về khuya, tuyết phủ trên mặt đất mỗi
lúc một dày, trong ánh lửa bập bùng, có thể nhìn thấy không xa trên mặt tuyết
có một chỗ hơi nhô lên, đó chính là nơi đặt thi thể Hàn Thục Na. Bỗng nhiên cái
khối tuyết nhô cao đó khẽ nhích động, tôi vội lăm lăm súng, giơ đèn pin ra soi,
bụng bảo dạ e là có con sói đói nào mò đến trộm ăn xác chết, nhưng ngay lập tức
nhận ra không phải vậy. Hàn Thục Na đang chân tay cứng đơ chầm chậm bò ra khỏi
đống tuyết, ánh sáng đèn pin xuyên qua màn đen phập phù gió tuyết, vừa vặn soi
lên bộ mặt không còn mảnh da nào, đen ngòm như tro than, chỉ thấy nổi rõ hai
hàm răng trắng ởn của chị ta. --------------------------------
1 Kali nitrat. 2 Ka U hay còn gọi
là Ghau: một lại hộp nhỏ, bên trong có đặt tượng Phật, hoặc các mẩu giấy có
chép kinh văn, hoặc mảnh áo, hạt xá lị của Phật... Người Tây Tạng thường đeo
trên cổ để cầu nguyện.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét