Chương 6: Hồ tiên
nữ
Tôi đưa mắt nhìn bọn Shirley Dương, cô nhún vai, cũng chẳng còn cách
nào khác, Tuyền béo thì chẳng mảy may bận tâm, cảm thấy càng đông càng vui,
Răng Vàng nhếch mép lộ cái răng vàng ởn của hắn vào mặt tôi, ý rằng mấy của nợ
này coi như các cậu phải tự đèo bòng thôi.
Tôi thầm nghĩ mả mẹ thằng
khọm Hồng Kông, định đưa cả nhà đi nghỉ mát chắc, từ vợ đến con, cả thằng bảo
kê cũng có mặt tề tựu, đương tính xem phải tìm lời thoái thác thế nào, để cho
lão khọm quên cái mùa xuân ấy đi, lắm thầy thối ma, lắm thằng tham gia càng
thêm rối, hàng bao người đi như vậy, thế nào cũng xảy ra chuyện.
Bấy giờ Minh Thúc đưa tất
cả thành viên còn lại trong đoàn đi lần này ra mắt, giới thiệu từng người một
cho cả hai bên. Mụ vợ Hàn Thục Na của lão ta thì chúng tôi quen biết rồi, mụ
này rất quyến rũ, chẳng trách lão lại say như điếu đổ. Răng Vàng mở miệng chào
bà Minh, Hàn Thục Na vội nói chớ có gọi như thế, nghe già lắm, mọi người với
nhau xưng hô thế nào chẳng được, miễn trang trọng đi, cứ như trước là được.
Sau đó Minh Thúc lại giới
thiệu cô con gái nuôi A Hương. Cô bé trông rất nhát, có khi còn chưa đầy hai
mươi tuổi, thấy người lạ là không dám nói chuyện. Minh Thúc bảo A Hương là trợ
thủ đắc lực nhất của lão ta, có thứ gì không sạch sẽ là con bé phát hiện ra
ngay.
Tôi tò mò hỏi việc này là
thế nào, chẳng lẽ cô bé có "mắt âm dương" hay là có "thiên
nhãn" chắc?
Minh Thúc đắc ý kể cho
chúng tôi biết, khi vừa được sinh ra, bố mẹ A Hương đã đem cô bé bỏ vào trong
lồng kính có thiết bị làm sạch không khí hoàn toàn cách biệt với thế giới bên
ngoài, cho đến tận năm cô bé hai mươi tuổi mới thôi. Làm như vậy là để tránh
cho cô bé không phải chịu sự ô nhiễm và ảnh hưởng của không khí, khiến hệ thần
kinh của cô bé trở nên hết sức mẫn cảm, có thể cảm nhận được một số thứ mà
người bình thường không thể nhận biết.
Về sau A Hương trở thành
trẻ mồ côi, Minh Thúc liền nhận cô bé về nuôi. A Hương đã cứu mạng lão ta không
chỉ một lần, cho nên được lão nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, đặc biết
là khi tiếp xúc mới những thứ âm khí nặng nề như quan tài, xác khô, lão ta toàn
phải mang cô theo mình. Shirley Dương đứng bên cạnh bảo tôi, lão này không nói
bừa đâu, ở Mỹ có một giáo phái, người trong phát đều hành sự như vậy. Cô bé tên
A Hương này có lẽ sẽ giúp được chúng ta, nhưng mà tốt nhất đừng đưa cô bé đi
Tây Tạng, người có sức khỏe tốt còn cảm thấy khó chịu trước phản ứng cao
nguyên, A Hương mỏng manh như vậy, chỉ e xảy ra việc ngoài ý muốn.
Minh Thúc muốn đưa ai đi
cùng, tôi quả thực chẳng có cách nào can thiệp, bèn nhỏ giọng nói với Shirley,
xem ra lão đã dốc hết cả vốn liếng vào vụ khai quật Băng xuyên thủy tinh thi
lần này, lại đem tính mạng của cả gia đình ra đanh cược, ý muốn nhất định phải
thành công rồi. Có khuyên chắc cũng không được đâu, dẫu lời lẽ có hay đến mấy
cũng khó mà lay chuyển được kẻ cố chấp, ta gắng chăm lo cho họ một chút, cứ tận
lực mà làm, cuối cùng sống hay chết, liệu có vác được Băng xuyên thủy tinh thi
hay không, đành trông chờ vào số mệnh của họ thôi.
Sau cùng lão giới thiệu cho
chúng tôi vệ sĩ của lão ta, Peter Hoàng, người Campuchia gốc Hoa. Trong những
năm chiến tranh ở Campuchia, gã ta lưu lạc từ vung Tam Giác Vàng đến khu vực
Malacca làm hải tặc. Về sau gặp bão, được Minh Thúc cứu về, từ đó gã liền làm
vệ sĩ riêng cho lão. Trông dáng vẻ gã chừng hơn bốn mươi tuổi, da rất đen, mặt
lạnh như tiền, ánh mắt dữ tợn, nhìn là biết chẳng phải hạng hiền lành lương
thiện gì. Nổi bật nhất là thể hình, hoàn toàn khác với dáng vẻ gầy nhỏng của
người Đông Nam Á, trông gã ta vạm vỡ vô cùng, như một cái thùng sắt di động vậy.
Tuyền béo vừa nhìn thấy
Peter Hoàng thì khoái chi, nói với Minh Thúc: "Tên mà chẳng giống người tí
nào, sao không gọi là Peter Hắc nhỉ? Mà có bọn tôi đi theo tháp tùng bác còn lo
cái lỗi gì, chẳng cần đến vệ sĩ, một sợi lông cũng không mất của bác đâu."
Minh Thúc nói: "Cái
thằng béo cậu chỉ thích đùa, anh ta họ Hoàng, sao lại gọi là Peter Hắc được? Mà
các chú chớ có coi thường, con người này đối với anh đây một mức trung thành,
hết sức đáng tin cậy, vả lại từng tham gia chiến tranh thật, giết người không
chớp mắt."
Tuyền béo nói với lão:
"Cho anh ta mau về vườn đi thôi, mấy ngón võ của hội du kích ấy đáng kể
gì, đồng chí Hồ Bát Nhất của chúng tôi đây, năm xưa còn chỉ huy cả một tiểu
đoàn quân chính quy, còn cả tôi nữa, bác nghe nói đến sự tích của Tuyền béo này
chưa? Thành viên chủ chốt của quân cộng hòa Bắc Ireland , năm xưa tôi ở... "
Tôi vội ngắt lời Tuyền béo,
không để cậu ta tiếp tục ba hoa bốc phét, rồi nói với Minh Thúc, thành viên và
lộ trình đều đã xác định rõ rồi, vậy mỗi người chúng ta chia nhau ra chuẩn bị thôi,
hội nhà bác phải đi bệnh viện kiểm tra sức khỏe xem sao, nếu không vấn đề gì
thì sau năm ngày nữa ta khởi hành.
Minh Thúc nói OK, lộ trình
và trang thiết bị đều do chú Nhất đây toàn quyền phụ trách, chú bảo xuất phát
lúc nào thì xuất phát lúc ấy, suy cho cùng trong đoàn chúng ta, chỉ có chú am
hiểu đất Tạng nhất thôi.
Tôi dẫn bọn Tuyền béo tạm
biệt ra về. Ngay sau khi về nhà, tôi liền thu dọn đồ đạc, chuẩn bị một mình đi
Tây Tạng trước, tới ven hồ Lhamo Lhatso tìm Thiết bổng Lạt ma, nhờ ông tìm giúp
một hướng dẫn viên hiểu rõ phong tục và môi trường địa lý Tây Tạng, tốt nhất là
một người hát sử thi thiên bẩm, nếu không thể tìm được một người kiêm được cả
hai việc ấy, thì tìm ha người cũng được.
Tôi giao phó nhiệm vụ dẫn
đoàn vào đất Tạng cho Shirley Dương. Cô nàng tuy chưa lên cao nguyên Thanh Tạng
bao giờ, nhưng từng đi thám hiểm ở những vùng có môi trường tự nhiên khắc nhiệt
như Sahara, Taklamakan, rừng Amazon... , tố chất tâm lý vững và kinh nghiệm đều
không có vấn đề gì cả. Chúng tôi bàn bạc suốt một hồi, quyết định Shirley Dương
sẽ dần đoàn tới sông Sư Tuyền họp mặt với tôi. Cố gắng mang vác gọn nhẹ, những
trang thiết bị hỗ trợ thì tạm thời để lại Bắc Kinh cho Răng Vàng trông coi, khi
nào tìm ra manh mối tháp mộ trong di tích Cổ Cách giữa hai ngọn Kangrinpoche và
Sengezangbu, Răng Vàng sẽ phụ trách vận chuyển các thứ ấy tới địa điểm chỉ định.
Sau khi trở về từ Vân Nam,
Shirley Dương trông gầy đi, mắt gợn những vân đỏ. Trong thời gian này, chúng
tôi đều lao tâm khổ tứ, đi lại vất vả, vừa từ Vân Nam về không lâu, giờ lại đi
Tây Tạng, người thường thực sự khó mà chịu nổi. Tôi khuyên Shirley Dương không
cần phải lo lắng quá, Tây Tạng không nguy hiểm lắm, trang thủ mấy ngày trước
khi lên đường nghỉ ngơi cho khỏe, sớm muộn thì thời gian cũng sẽ trả lời cho chúng
ta thôi.
Shirley Dương nói:
"Tôi không lo việc đi Tây Tạng có nguy hiểm hay không, cái chính là mấy
ngày nay tôi đang phân vân, sau khi kết thúc vụ Quỷ động không đáy thì đi đâu
làm gì, anh mà muốn tiếp tục làm cái nghề đổ đấu thì tôi tuyệt đối không bằng
lòng đâu, nghề này quá nguy hiểm. Anh Nhất ạ, anh cũng nên lo nghĩ việc sau này
đi, chúng ta cùng quay về Mỹ được không?"
Tôi nói đi Mỹ thú vị gì
đâu, lại chẳng biết tiếng, mùi vị của cà phê cô pha cũng na ná như mùi thuốc
bắc, bắt tôi ngày nào cũng uống thì tôi xin chịu. Song nếu cô cứ bắt tôi đi
bằng được thì tôi cũng hết cách, thôi thì cứ đi thử mấy năm xem sao đã, nếu
thấy không quen thì tôi về, điều tôi đau đầu nhất là Tuyền béo, chẳng biết phải
làm thế nào, bỏ mặc cậu ta một mình ở lại Bắc Kinh, chắc chắn sẽ chuốc vạ vào
thân.
Tuyền béo nói xen vào:
"Tôi bảo này Nhất ạ, cậu nói thế nào ấy nhỉ, cứ làm như cậu giác ngộ hơn
tôi nhiều lắm ấy, vạ cậu chuốc vào còn nhiều hơn tôi nhiều, về điểm này, cậu
không cần khiêm tốn đâu. Hai người đi Mỹ, chẳng lẽ tôi lại không đi? Chúng ta
đến địa bàn của tham mưu trưởng Shirley, chẳng lẽ cô ấy lại không nỡ cho được
một con xe hay sao, tôi thấy con xe của gã cảnh sát trưởng Hunter rất ổn, chắc
là Mercedes Benz hả. Tôi nào có yêu cầu cao gì đâu, lái con Benz đấy là được
rồi, Detroit, San Francisco, eo biển Đông Tây gì thì ta cũng đi cho mở mắt, hợp
tác cùng giai cấp vô sản ở Mỹ, đại đoàn kết nhân dân thế giới muôn năm!"
Tôi nói với Tuyền béo:
"Cảnh sát Mỹ không đi xe Đức, đến điều này còn chẳng biết, với cái tố chất
của cậu, cậu đi Mỹ có khác nào đi gây thêm phiền nhiễu cho nhân dân Mỹ chứ?"
Ba người chúng tôi bàn tán
trêu chọc nhau một hồi, tâm lý cũng thoải mái lên nhiều.
Ngày hôm sau tôi một mình
khăn gói đi Tây Tạng trước.
Ở Trung Nam bộ Tây Tạng,
giữa dãy Himalaya và Nyenchen Tanglha có rất nhiều hồ to nhỏ chi chit, số lượng
phải đến hàng nghìn, chỉ cần hơi lớn một chút thì đều được người dân Tạng coi
là hồ thần, nếu cạnh hồ còn có núi tuyết, vậy càng thần thánh hơn nữa. Trong
tên của những hồ này, đều có một chữ "co", tương đối nổi tiếng có hồ
Ngangla Ringco, hồ Tangra Yumco, hồ Namco, hồ Dagze Namco vân vân, nhiều không
kể xiết, mỗi hồ đều có vô số những câu chuyện truyền thuyết thần kỳ, hồ Tiên Nữ
mà ông bạn già Thiết bổng Lạt ma của tôi đang trú ngụ, chính là một trong những
hồ này.
Xuống xe ở Hese, hướng Nam
không còn đường đi, chỉ có thể bộ hành, hoặc bỏ tiền thuê ngựa của dân du mục
mà cưỡi. Nơi đây không phải vùng núi, nhưng độ cao so với mặt nước biển cũng
gần bốn nghìn năm trăm mét, nhờ dân du mục dẫn đường, tôi không ngừng đi về
phía Nam, đến nơi phân nhánh của dòng Bocang zangbo. Trong tiếng Tạng
"zangbo" có nghĩa là sông.
Đây là lần đầu tiên trong
đời, tôi tiến sâu vào trung tâm đất Tạng, ánh nắng cao nguyên khiến người ta
chóng mặt, trời xanh đến nỗi như sắp rỏ nước xuống. Hướng dẫn viên kiêm chủ
ngựa tôi thuê là một người dân tộc Tạng trẻ tuổi, tên là Vượng Đôi. Vượng Đôi
đưa tôi tới một vùng đất cao, chỉ xuống hai cái hồ lớn xanh như ngọc bích, nói:
"Cái hồ to bên trái, là hồ Yongma zhozhaco, hồ Long Cung; còn hồ bên phải,
nhỏ hơn một chút, là hồ Tiên Nữ Lửng Lơ Bên Trời."
Bấy giờ bầu trời sáng
trong, nước hồ xanh ngắt, song biếc lăn tăn in bóng núi tuyết, ráng mây, quanh
hồ còn thấp thoáng dáng dấp những rặng núi xa. Qua cuốn Đại Đường Tây Vực ký,
có thể thấy cao tăng Đường Huyền Trang hết sức xúc động trước cảnh đẹp này, ông
gọi hai khoảnh hồ nhìn sát nhau này là "Tây Thiên Dao Trì song bích".
Súc vật do con người nuôi
dưỡng không được vào thánh địa, tôi và Vượng Đôi tìm chỗ dốc đi bộ đến bên hồ.
Vượng Đôi bảo tôi ở đây có một truyền thuyết, kể rằng dưới đáy hồ có cung điện
của Quang tài Long vương, chất chưa vô số châu báu quý hiếm, người có duyên chỉ
cần đi một vòng quanh hồ, nhặt một con cá nhỏ, một viên đá nhỏ, hoặc chỉ cần
một sơi lông của con chim nước nào đó trong hồ, là có thể được Quảng tài Long
vương ban phước, cả đời tiền của dồi dào.
Những những kẻ hành hương
đến chốn thánh địa này đều thích đi vòng quanh hồ Tiên Nữ hơn, bởi tương truyền
dòng nước xanh biếc trong hồ là nước mắt của tiên nữ, không những có thể làm
tiêu tan mọi vết nhơ nhuốc, bệnh tật nơi người trần, mà còn có thể gội sạch làm
tham sân si, đố kị, khiến tâm hồn con người trở nên thuần khiết. Rặng núi tuyết
đối diện với hai khoảnh hồ chính là tượng trưng cho sự quảng đại vô biên của
Phật pháp.
Tôi nói với Vượng Đôi,
chúng ta hãy tới gội sạch tâm hồn trước đi, dạo quanh hồ Tiên Nữ một vòng, tiện
thể tìm Thiết bổng Lạt ma trong số những tín đồ đang dạo quanh hồ. Hai người
cất bước đi men theo bờ hồ, chúng tôi không có ý đến chốn thánh địa này chầu
bái, cho nên không cần phải đi một bước, rập đầu một lần. Đi ven hồ, chốc chốc
lại có thể nhìn thấy hài cốt của những tín đồ kiền thành, họ đã hòa lẫn cơ thể
mình vào vùng đất thánh.
Từ phía xa, một dáng người
lom khom xuất hiện trong tầm mắt của chúng tôi. Nhìn chiếc thiết bổng hộ pháp
màu đen nổi bật phía sau lưng liền có thể đoán ngay được người ấy là ai, song
cử chỉ của ông lúc này rất kỳ cục, rõ ràng không phải nghi thức đi vòng quanh
hồ mà chúng tôi vẫn thấy, ngay cả người Tạng như Vượng Đôi cũng chưa từng thấy
động tác như thế, dường như ông đang tiến hành một nghi thức cổ xưa thần bí nào
đó vậy.
Đi vòng quanh núi hoặc
quanh hồ, là phương thức sùng bái có một không ai trong cuộc sống ở vùng nóc
nhà thế giới đặc thù này, là một dạng tín ngưỡng sùng bái tự nhiên cho rằng vạn
vật hữu linh, và là hình thức biểu hiện có tính kế thừa từ tôn giáo nguyên thủy
của dân tộc Tạng. Động tác thông thường có thể phân làm hai dạng, dạng thứ nhất
phổ thông nhất, là đi bách bộ; dạng thứ hai thì kiền thành hơn, hai tay đeo tấm
gỗ, giơ cao quá đầu, sau đó thu về trước ngực, toàn thân đổ xuống, trán chạm
đất, rạp người vái lạy, dùng cơ thể mình đo từng chút một chiều dài của núi
thần hồ thánh, mỗi một vòng đi quanh, tội nghiệt sẽ được tiêu trừ, công đức sẽ
được tích lũy, nếu như chết trên đường đi quanh hồ, thì đó cũng là thuận theo
tạo hóa.
Cử chỉ của Thiết bổng Lạt
ma không giống như đang đi quanh hồ, mà khiến tôi nhớ đến động tác nhảy đồng
vùng Đông Bắc. Hồi còn đi cải tạo ở Nội Mông, mấy trò lên đồng của bà cốt hay
saman tôi đều đã thấy, phải chăng lạt ma đang tiến hành nghi thức đuổi tà?
Nhưng ở chốn đất thánh này làm gì có tà ma? Nghĩ đến đây tôi liền rảo bước tiến
lên.
Thiết bổng Lạt mà cũng nhận
ra tôi, liền ngừng động tác, bước lại gặp mặt. Xa nhau hơn mười năm, lạt ma
dường như không mấy thay đổi, chỉ là quần áo đã cũ kỹ hơn. Tôi kể với lạt ma
tình hình hiện tại của hai chiến hữu. Ông nghe xong liền cảm khái không nguôi:
"Phàm người đụng độ với yêu ma trong mộ, có thể sống sót đã là Phật tổ
khai ân rồi, mong rằng trong những năm ta còn sống, có thể tích góp thật nhiều
công đức ở bên hồ, cầu phúc cho bọn họ."
Mấy năm gần đây lạt ma
không hề rời khỏi hồ Lamlaco, hàng ngày đều đi quanh hồ tụng kinh, cơm ăn áo
mặc đều cậy nhờ những tín đồ tới ven hồ chầu bái bố thí cho. Kỳ thực những tín
đồ hành hương tới đây chầu bái, trên đường cũng nhận của bố thí, bố thí các
thánh đồ cũng là một cách tích góp công đức.
Tôi hỏi vừa nãy lạt ma đang
làm gì, Thiết bổng Lạt ma liền kể lại ngọn nguồn, thì ra ông đang cầu xin ý chỉ
của đức Dược Vương Bồ Tát. Bởi vì có hai tên săn trộm từ nội địa đến đây đi
săn, song hai người này đều là lính mới,, rình năm ngày liền cũng chẳng thấy có
con vật nào ra hồn, cuối cùng bắt gặp một con thú nhỏ xưa nay chưa từng thấy,
liền nổ súng bắt chết ngay tại trận, tranh thủ lúc nó còn tươi, lột da luộc lên
ăn.
Sau khi ăn xong, hai kẻ đó
lập tức đau bụng, lăn lộn ra đất, khi người Tạng phát hiện ra thì mép đã sùi
bọt trắng, bất tỉnh nhân sự rồi. Nơi đây vốn dĩ không có bệnh viện gì, chỉ có
Dược sư Lạt ma trong chùa Tây Tạng phụ trách khám bệnh cho người dân, Thiết
bổng Lạt ma tuy là lạt ma hộ pháp, nhưng thời trẻ từng giữ chức Dược sư Lạt ma,
thường xuyên chữa bệnh cho dân chúng cùng kẻ đến chầu bái ven hồ, cho nên người
dân Tây Tạng mới thỉnh ông đến cứu người.
Thiết bổng Lạt ma nghe nói
là bọn săn trộm, vốn định để mặc, nhưng đức Phật từ bi, thấy người sắp chết
không thể không cứu, bèn nhận lời, dặn dò người dân đưa hai kẻ đó đến đây, đồng
thời tụng niệm thần chú "Cam chu nhĩ" cầu xin đức Dược Vương Bồ Tát
chỉ cho phương pháp cứu người.
Chúng tôi đang nói chuyện,
thì sáu người dân Tạng đã cõng hai tên săn trộm tới. Lạt ma lệnh cho đặt hai kẻ
đó nằm thẳng xuống đất, chỉ thấy hai người mặt vàng như nghệ, hơi thở thoi
thóp, khóe miệng không ngừng sùi ra bọt trắng, bụng trướng to kềnh. Theo tôi
thì triệu chứng này không lấy gì làm lạ, thường thì khi ăn phải đồ bẩn, hoặc
ngộ độc thực phẩm ác tính thì đều có phản ứng như vậy, tình trạng hết sức nguy
hiểm, cần phải đưa vào viện cấp cứu ngay, không biết mất viên thuốc Tây Tạng
của Thiết bổng Lạt ma liệu có chữa trị được cho họ hay không.
Lạt ma xem xét chứng trạng
của hai người này, lập tức cau mày, nói với người dân bản địa: "Một kẻ ăn
quá nhiều, không cứu được nữa, kẻ còn lại cứu được, các người ra ven hồ thánh,
tìm lấy ít vảy trên xác cá đã thối rữa về đây!"
Người dân liền theo lời dặn
của lạt ma, chia nhau ra ven hồ tìm kiếm. Khi ấy, bọt mép trắng phớ sùi ra
trong mồm một trong hai tên săn trộm đã chuyển sang màu đỏ tía, chỉ trong chốc
lát đã tắt thở. Lạt ma vội nhờ hai chúng tôi cạy miệng của tên còn lại ra, đổ
thuốc và nước vào cho hắn nuốt xuống. Người đó thần trí hoảng hốt, gắng gượng
cũng chỉ uống được một nửa.
Loại thuốc Tạng này có hiệu
quả kỳ diệu là giữ lấy mạng sống cho người ta, sau khi uống lập tức nôn thốc
nôn tháo, miệng hộc ra toàn nước đen. Tên săn trộm vừa được cứu sống, tuy ruột
vẫn đau như cắt, nhưng ý chí đã hồi phục, lạt ma liền hỏi rốt cuộc hắn ăn phải
thức gì.
Tên săn trộm kể hắn cùng
với tên đồng bọn đã chết kia, ở trong nội địa nghe nói là tới Tây Tạng săn bắt,
chỉ cần đem bán bộ da thú thôi cũng kiếm được khối tiền, thế nên đầu óc mụ mị
cả đi, cũng muốn đến kiếm lấy một món hời. Song hai tên đều không có kinh
nghiệm, những chỗ không người muôn thú nhiều thì lại không dám mạo hiểm tiến
vào, đành loanh quanh dưới chân núi tuyết đợi vận may, bắn được con gấu ngựa
Tây Tạng cũng tốt.
Cứ như vậy đi năm ngày trời
mà chẳng săn bắt được gì, ngược lại lương khô mang theo đã ăn hết cả, đành
chuẩn bị khăn gói quay về. Nào ngờ vừa định rời đi, liền thấy một con mèo rừng
màu đen, cỡ như con sơn dương, trông rất xấu xí, lại chẳng hề sợ người, đến nối
lúc đầu cứ lầm là một con báo. Hai người cậy sung đạn nhạy bén, bắn liền mấy
phát, giết con vật tại chỗ. Đúng lúc bụng đói cồn cào, liền mặc xác thịt mèo có
ngon không, cứ lột da, bắc nồi luộc ăn nửa con, thớ thịt thô dày, có luộc thế
nào cũng không chín nổi, cho nên đành phải ăn thịt tái.
Tên săn trộm nước mắt nước
mũi đầm đìa, nói rằng hai anh em, tuy nhất thời có ác niệm, muốn săn trộm kiếm
tiền, nhưng suy cho cũng ngoài con mèo đen này ra cũng chưa săn được con vật
nào khác, cầu xin lạt ma phát lòng từ bi, cứu lấy tính mạng, sau này nhất định sẽ
sửa sai, làm lại từ đầu. Hắn đang câu được câu mất kể lại sự tình, cơn đau bụng
dữ dội lại ập đến, một lần nữa hắn lại lịm đi trong cơn sống dở chết dở.
Tôi còn nhớ hồi ở núi Côn
Luân có nghe được một truyền thuyết của đất Tạng, con mèo rừng lớn màu đen ấy
không phải là mèo, mà là linh hồn của người vừa chết đi hóa thành, đương nhiên
không thể ăn được. Tôi hỏi lạt ma xem phải làm thế nào, liệu người này có cứu
được không?
Lạt ma nói: "Thứ họ ăn
phải chừng là loài chuột xạ trên tuyết. Loài này có thể ăn được, nhưng họ ăn nó
sớm quá. Người Tạng không bao giờ ăn động vật giết trong ngày hôm ấy, bởi vì
linh hồn của chúng còn chưa hoàn toàn thoát ra khỏi xác, ăn vào sẽ có kết cục
không tốt. Ta trước kia hầu hạ Phật sống, từng học được một mật phương, còn như
có hiệu nghiệm hay không, thì phải xem số mệnh của họ thế nào nữa."
Những người tới ven hồ tìm
vảy cá chết đã lục tục quay lại, gộp vào ước chừng cũng được một vốc lớn. Thiết
bổng Lạt ma đen vảy cá rải quanh người bệnh, rồi tìm lấy một đoạn gỗ tước đốt
cháy ra tro, rồi quấy với vảy cá mục ruỗng thối hoắc, cho tên săn trộm ăn.
Sau một loạt những động tác
kỳ quặc, tên săn trộm lại một lần nữa nôn ồng ộc ra. Lần này dữ dội hơn lần
trước, tất cả mọi thứ trong bụng đều nôn ra cho bằng sạch, đến tận khi nôn ra
chỉ toàn là nước trắng, lạt ma mới cho hắn uống thuốc chống nôn.
Lạt ma xem thứ ô uế tên săn
trộm nôn ra, bảo rằng mạng hắn coi như giữ lại được rồi, song cả đời này không
được ăn thịt nữa, hễ ăn thịt ắt sẽ nôn ọe không ngừng. Tôi lách người vào nhìn,
thì thấy trong bãi nôn to tướng kia hình như có thứ gì đó đang động đậy, nhìn
kỹ một lúc, thì thấy giống như một đống chuột con không có lông.
Tên săn trộm quỳ sụp xuống
khấu tạ ơn cứu mạng, rồi hỏi lạt ma liệu có thể chôn xác người anh em của hắn
bên bờ hồ hay không. Lạt ma nói tuyệt đối không được, người dân tộc Tạng cho
rằng chỉ có tội đồ mới phải chôn vào đất, linh hồn bị chôn trong đất vĩnh viễn
không thể giải thoát. Ban ngày mặt trời chiếu rọi, linh hồn sẽ cảm thấy như bị
luộc trong chảo nóng; ban đêm ánh trăng soi tỏa, sẽ cảm thấy như rơi xuống hố
băng, lạnh lẽo vô cùng; nếu như trời mưa, sẽ cảm thấy như có vạn mũi tên xuyên
thấu tim gan; lúc trời nổi gió, sẽ lại cảm thấy như có nghìn con dao đẽo xương
róc thịt, nổi khổ ấy thực là khôn tả. Trên ngọn núi cách bờ hồ không xa, có
mười tám đài thiên táng, cứ đặt thi thể ở đó, cho linh hồn được giải thoát đi!
Tên săn trộm không bằng
lòng làm vậy, dẫu sao thì cũng khác xa so với phong tục trong lục địa quê hắn.
Lạt ma giải thích, ở Tây Tạng, tất cả mọi cách xử lý xác chết, ngoài thổ táng
ra, thì cách nào cũng thịnh hành cả, nhưng vì thiếu chất đốt để hỏa táng, cho
nên thông thường người ta đều vác xác chết đặt trên đài thiên táng ở đỉnh núi,
rồi lóc thịt ra vứt cho chim thú chia nhau, nếu người chết chết bở một bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm nào đó, thì thổ táng cũng chỉ là trường hợp cá biệt.
Cuối cùng tên săn trộm cũng
bị lạt ma thuyết phục, thôi thì coi như nhập gia tùy tụng vậy. Được mấy người
dân Tạng giúp đỡ, xác chết của tên đồng bọn được đưa lên đài thiên táng trên
đỉnh núi. Tôi thấy hành lý của hắn hơi dài hơn bình thường, bên trong chắc chắn
có vũ khí đạn dược. Lần đi Tây Tạng này chúng tôi còn chưa chuẩn bị vũ khí, giờ
có cơ hội đương nhiên không thể bỏ lỡ, liền níu tên săn trộm lại, bàn chuyện
mua lại hành lý.
Tên săn trộm bảo tôi, hai
cây súng này hắn mua lại của thợ săn ở Thanh Hải, sau khi sử lý xác chết của
đồng bọn xong, hắn sẽ về quên sông an phận thủ thường, giữ súng cũng chẳng có
tác dụng gì, tôi đã là bạn của Thiết bổng Lạt ma, súng này xin tặng lại, coi
như một chút tâm ý đáp tạ ơn cứu mạng.
Tôi xem thử hai cây súng
trong bao, thì ra là loại súng săn bắn đạn chùm, hiệu Remington, kiểu dáng hơi
cũ một chút, loại 870, đường kính nòng 12mm chuyên trang bị cho xe cảnh sát này
là sản phẩm của thập niên 50, song được bảo dưỡng rất tốt, chẳng trách con
chuột xa nhanh nhẹn như thế mà vẫn bị bắn chết. Ngoài ra còn có hơn 70 viên
đạn, chia ra đựng trong hai túi đeo chéo. Trong vòng bán kính 15 mét thì loại
súng này có uy lực khủng khiếp, song dùng để đi săn xem chừng không thích hợp
cho lắm, công kích mục tiêu ở cự ly xa vẫn phải dùng loại vũ khí có tầm bắn dài
như súng trường mới được, súng này có thể dùng phòng khi cận chiến.
Sau cùng tôi vẫn nhét tiền
vào tay tên săn trộm, súng, đạn cho tới hành lý đóng gói, tôi đều giữ cả lại.
Chương 7:Hang
phật luân hồi
Đ ợi sau khi những kẻ nhàn rỗi giải tán, tôi mới trình bày mục đích
đến đây, bảo rằng muốn tìm cổ mộ của Tà thần Ma quốc, mong lạt ma Ake giới
thiệu cho đoàn thám hiểm chúng tôi một người hát sử thi kiêm hướng dẫn am hiểu
Ma quốc và lịch sử của nước ấy.
Thiết bổng Lạt ma nói rằng
khai quật mồ mả vốn là việc làm tổn hại lẽ trời, song khai quật mộ cổ của Ma
quốc thì khác. Trong mộ của Ma quốc có yểm yêu ma, đố là uy hiếm to lớn đối với
dân chúng, trong lịch sử từng có rất nhiều vị cao tăng đạo hành cao thâm, đều
muốn trừ ma diệt yêu, san bằng tất cả cổ mộ của Ma quốc, tiêu trừ cái họa Tà
thần quay lại nhân gian, nhưng khổ nỗi lại không có bất kỳ manh mối nào, giờ
các cậu lại chịu đi tìm, thì đó là việc thiện, công qua vô lường vậy. Những
người hát sử thi am hiểu các chuyện xưa tích cũ của đất Tạng này, đều do trời
phú, chứ không có chuyện con nối cha, trò học nối thầy đâu, đa phần đều là sau
khi trải qua một cơn bệnh nặng hoặc sau khi ngủ dậy đột nhiên có thể xướng tụng
những bài thơ hàng mấy trăm vạn chữ. Trước khi xuất gia, ta cũng chính là người
được trời phú cho khả năng ấy, song đã gần ba chục năm không hát xướng lại rồi,
những áng thơ về Thế giới Chế địch Bảo châu Hùng sư Đại vương, rồi cả về Chuyển
sinh Ngọc nhãn nữa, ôi chao... sắp quên hết cả rồi.
Thiết bổng Lạt ma lập tức
quyết định đi cùng chúng tôi phá hủy mộ phần của vua Ma quốc. Chẳng gì cũng
thân là Thiết bổng hộ pháp của Phật sống, diệt trừ tà ma đương nhiên là việc
lớn hàng đầu. Tuy hơn ba mươi năm nay không còn ngâm hát những áng thơ về Chế
địch Bảo châu vương, song khả năng trời phú này không phải là từ học tập mà có
được, cố gắng hồi tưởng lại, ông vẫn có thể nhớ ra nhiều điều.
Tôi lo lạt ma tuổi tác cao,
dẫu gì cũng sáu mươi tuổi rồi, không so với ngày xưa được. Cứ theo manh mối
trong kinh văn, tòa tháp mà thờ Băng xuyên thủy tinh thi nằm tít trên đỉnh núi
tuyết, vạn nhất lạt ma gặp phải việc gì bất trắc thì biết làm thế nào.
Thiết bổng Lạt ma nói:
"Ta đi quanh hồ cầu khấn rất nhiều, vậy mà bệnh tình của Cơ Ma vẫn chưa
thuyên giảm, hy vọng lần này có thể làm được việc có công đức lớn, đưa linh hồn
của Cơ Ma từ âm phủ trở về (người Tạng cho rằng việc con người mất đi thần trí
là do họ mắc phải chứng ly hồn), sau khi sự việc xong xuôi, còn phải tiếp tục
quay về đi vòng quanh hồ cầu nguyện. Người tu hành có cách nhìn về cái chết và
nhân sinh hoàn toàn khác người thường, chết trong lúc thi hành công đức ắt sẽ
được vãng sinh chốn cực lạc."
Tôi thấy lạt ma quyết chí
muốn đi, cũng cảm thấy khó có được cơ duyên này, ông là người am tường phong
tục Tây Tạng, lại nắm rõ y lý Mật tông, có ông chỉ dẫn giúp đỡ, nhất định có
thể đẩy mạnh tiến độ công việc. Vậy là chúng tôi sắp xếp thu dọn một hồi, vẫn
để Vượng Đôi dẫn đoàn, đi tới cực Tây của đất Tạng là vùng A Lý dưới chân núi
Himalaya.
Chúng tôi cùng bọn Tuyền béo,
Minh Thúc hội quân ở Semge zangbo, bọn họ cũng vừa mới đến chưa được bao lâu.
Tôi điểm lại quân số, thấy hình như có nhiều hơn một người, ngoài bốn người
tôi, Tuyền béo, Shirley Dương và Thiết bổng Lạt ma ra, bên phía Minh Thúc có
Peter Hoàng, Hàn Thục Na, A Hương, thì ra cả thằng A Đông chạy xe cho Minh Thúc
cũng theo đến.
Tôi hỏi Tuyền béo sao A
Đông cũng theo đến đây. Tuyền béo bảo thằng ranh A Đông ngày thường vẫn làm
chân lon ton cho Minh Thúc, lần này biết lão đi đánh một vụ lớn, cho nên cả
ngày lẻo nhẻo van lơn lão cho đi cùng. Sau nữa lại chạy ra cầu xin chỗ Răng
Vàng, nhờ hắn nói đỡ vài câu. Răng Vàng nhận hối lộ xong xuôi, liền rỉ tai Minh
Thúc, nói rằng nơi thấp nhất ở Tây Tạng cũng phải trên bốn nghìn mét so với mặt
nước biển, cần đem theo một người mang vác cung cấp bình dưỡng khí mới ổn, đấy,
chẳng phải A Đông đang vác bình dưỡng khí cho họ còn gì.
Tôi nghĩ bụng lần này đúng
là nhốn nha nhốn nháo bỏ mẹ, người càng lúc càng đông, còn chưa tới vương thành
Cổ Cách mà đã chín người rồi, những cũng chẳng có cách nào khác, một khi tìm
thấy manh mối về vùng đất chuyển sinh của Ma quốc trong lầu ma chín tầng thì sẽ
phải chia nhau ra mà hành động, không thể cứ túm năm tụm ba vào một chỗ được.
Bấy giờ vẫn chưa có đường
thông tới di tích Cổ Cách, tôi đành nhờ Vượng Đôi thuê mấy con bò Yak, để mấy
người bị phản ứng cao nguyên tương đối nặng cưỡi đi, cũng may không có đồ đạc
gì nặng. Chúng tôi nghỉ ngơi hai ngày tại một thị trấn nhỏ chỉ hơn trăm hộ gia
đình bên dòng Semge zangbo, sau đó khởi hành tiến về di tích vương thành tìm
kiếm mắt bạc Cổ Cách.
Dọc đường hết sức hoang
liêu, không có bất kỳ hộ dân nào, chỉ có những vạt cỏ vàng thưa thớt rải rác
trên cát, không có gió, nhìn lên bầu không, một màu xanh ngợp mắt, sự choáng
ngợp khiến cả đất khô, cỏ dại trên đường cũng trở nên chói nhức. Những dãy núi
bang bạc ở phía xa cũng trở nên nguy ngại đến quái gở, khiến người ra chẳng dám
nhìn lâu.
Tốc độ cảu chúng tôi không
nhanh, tôi dắt bò cho lạt ma, còn ông ngồi trên lưng bò kể cho tôi nghe những
áng sử thi năm xưa ông được trờ phú cho, nội dung toàn là những trận chiến kinh
hồn bạt vía, tướng đến binh đi.
Lúc này bên đường xuất hiện
một số cột gỗ nhô lên từ mặt đất, Shirley Dương nói những vật này trông chừng
hơi giống di chỉ mộ cổ. Thoạt nghe nói đến mộ cổ, ngay cả Minh Thúc vốn đang
nằm vắt trên lưng bò hít thở còn khó khăn cũng thấy hồ hởi, ngóng cổ nhìn ra
bên đường.
Tay hướng đạo nói rằng
những cổ mộ này bỏ hoang đã lâu, bên tring chẳng còn thứ gì nữa rồi. Các vị chớ
thấy nơi đây hoang liêu heo hút, kỳ thực chừng vào khoảng thời Đường, chỗ này
từng mọc đầy cả một rừng cây kỳ liên viên bách đó 1. Kết cấu của cổ mộ đều dùng
nguyên cả cây này mà ghép thành. Đây là loại cây quái dị thích khô cằn, không
ưa ẩm ướt, chỉ có trên núi mạn giao nhau giữa Thanh Hải và Tây Tạng. Về sau Thổ
Phồn xảy ra nổi loạn, những ngôi mộ này đều bị hủy hoại hết, chỉ có di tích là
còn giữ lại được cho tới ngày nay.
Qua bãi tha ma hoang phế
này, lại đi chừng một ngày đường, mới tới được thành cổ. Nơi đây được phát hiện
lâu, ngoài một lượng lớn bích họa, tượng điêu khắc ra, thì chỉ còn lại đống đổ
nát của thành phố cổ, bấy giờ chưa được chính quyền khu tự trị coi trọng, cũng
chưa có cửa sắt rào quanh, chưa có người canh giữ như mấy năm sau này. Khi ấy,
cũng chẳng có ai vượt ngàn dặm xa xôi tới tham quan cả.
Chúng tôi đứng trên núi
nhìn xuống, sườn núi cách đỉnh núi chừng hơn ba trăm mét, khắp nơi đều là những
quần thể kiến trúc và hang động màu đất bùn. Ngoài ngôi chùa có kết cấu tương
đối vững chắc ra, những ngôi nhà dân còn lại đều đã sụp đổ, có căn chỉ còn trơ
lại một chút tường đất, vòng phía ngoài có di tích tường thành và lầu đá. Cả
tòa vương thành được xây dựa vào núi, nơi cao nhất là cung vua trên đỉnh núi,
tầng giữa là chùa chiền, dưới chân núi là nhà dân và các kiến trúc mang tính
phòng ngự ở ngoại vi.
Tôi nói với Minh Thúc:
"Di tích Cổ Cách cũng không lớn lắm, nhưng ở đây có hàng trăm căn nhà dân
và hang động thế này, chúng ta cũng mất thời gian tìm kiếm đấy. Mắt bạc Cổ Cách
mà bác nói cụ thể là ở đâu, chúng ta cứ theo mục tiêu trực tiếp đi tìm là được."
Vì bị phản ứng cao nguyên,
tư duy của Minh Thúc đã trở nên vô cùng trì độn, lão nghĩ mãi mới nhớ ra, đại
khái là ở trong chùa miếu, chứ không phải trong cung vua. Dựa theo ghi chép
trong kinh sách, nơi đây hình như có một ngôi miếu Luân Hồi, mắt bạc Cổ Cách
chắc là ở chỗ đó.
Trong đống đổ nát của vương
thành, có mấy ngôi chùa vẫn đứng sừng sững, thoạt nhìn qua là có thể biết ngay,
dĩ nhiên trong đó có cả di tích của chùa miếu Hồng giáo, chùa miếu Bạch giáo,
miếu Luân Hồi, nhưng cái này là cái nào thì chúng tôi không phân biệt nổi, đành
thỉnh giáo Thiết bổng Lạt ma. Nhìn bên ngoài, lạt ma đương nhiên có thể nhận ra
đâu là miếu Luân Hồi, đoạn liền chỉ rõ phương hướng, đi qua thần điện hộ pháp,
di tích ngôi miếu có mấy cây trụ đổ phía đằng sau, đó chính là miếu Luân Hồi
thờ mắt bạc Cổ Cách.
Những từ những năm 30 đầu
thế kỷ đã có nhà thám hiểm tìm đến nơi đây, chưa từng nghe có nguy hiểm gì,
song để cho an toàn, tôi vẫn phát cho Tuyền béo một khẩu Remington, tôi giữ một
khẩu, dẫn cả đoàn đi vòng qua mấy lớp tường đất, leo lên lưng chừng núi. Trong
đống phế tích này, hầu như chẳng có căn nhà nào còn nguyên vẹn, nếu chỉ là khí
hậu khô nóng thôi thì chẳng nói làm gì, đằng này vào mùa mưa, nơi đây cũng mưa
như trút. Năm này qua năm khác bị phong hóa xâm thực, chất đất xưa từng rắn xốp
nay lại trở nên vụn mủn, hễ có ngoại lực tác động vào, liền biến ngay thành một
đống bụi. Những phần tường đổ nát nhô ra đều bị mài mòn cả, thành phố từng một
thời tràn đầy sức sống, đang bị tự nhiên âm thầm hủy hoại.
Chúng tôi sợ bị trụ tường
trong các căn nhà sụt lở đổ vào người, cho nên cố gắng đi vòng qua những nơi
rộng thoáng. Minh Thúc và mụ vợ thôi thì cũng gắng gượng được, chứ còn A Hương
gầy yếu đã không thể chịu đựng được hơn, nếu tiếp tục leo lên cao nữa chắc chắn
sẽ nguy hiểm đến tính mạng, lão đành bảo Peter Hoàng ở lại dưới núi chăm nom
cô, những người con lại tiếp tục tiến lên, khi leo tới thần điện hộ pháp, hầu
hết mọi người đều thở hồng hộc.
Tôi vốn dĩ cũng đã thích
ứng với không khí loãng ở đây, nhưng lúc dựa vào tường nghỉ ngơi, trông thấy
những bức bích họa trong điện, hơi thở liền lập tức trở nên nặng nề. Tuyền béo
vừa thở hổn hển vừa nói: "Nhất này, không ngờ ở đây lại là chốn có nền văn
mình tinh thần phong phú đến thế này. Nếu mà đắm đuối xem những loại tranh này
ở Bắc Kinh, thế nào cũng bị bắt giam cho mà xem."
Các bức bích họa ở đây đều
vẽ nam nữ quấn lấy nhau theo kiểu Mật tông, bút pháp mạnh mẽ, màu sắc mãnh
liệt, khiến ai nhìn cũng thấy đỏ mặt tía tai. Đi tiếp vào trong, nội dung của
bích họa đột ngột thay đổi, toàn vẽ những nỗi khổ cực khi luân hồi xuống địa
ngục, miêu ta tầng tầng lớp lớp những cực hình chốn âm ty, cảnh tượng thảm khốc
tột cùng. Lạt ma nói mấy trăm năm trước ngôi thần điện này là chốn cấm địa,
thường dân cùng lắm cũng chỉ đến được cổng, không thể đi tiếp vào bên trong,
ngoài những kẻ phụng sự thần linh ra, ngay cả quốc vương cũng không thể tùy
tiện ra vào.
Chốn cấm địa vàng son năm
xưa đã sụt lở phong hóa, chúng tôi gắng thở đều, nối nhau đi vào trong. Đằng
sau thần điện, miếu Luân Hồi lõm hẳn vào bên trong, mức độ bào mòn không đáng
kể, trông cũng tương đối nguyên vẹn. Nổi bật nhất trong miếu là mấy cây trụ lớn
màu đỏ, trên thân trụ có gắn nhiều lớp đèn bát, chóp miếu phía trên đã bị hủy
hoại, trơ ra mấy lỗ hổng lơn, cũng chẳng còn tượng hay đồ thờ cúng gì, không rõ
là do trộm thó đi, hay đều mục nát thành đất cả rồi.
Tôi nhìn bốn phía xung
quanh, nơi đây chỗ nào cũng nát bươm hết cả, làm gì có bức phù điêu mắt bạc Cổ
Cách nào. Minh Thúc trỏ lên phía đỉnh đầu: "Chắc là chỉ tác phẩm điêu khắc
này đây."
Chúng tôi cùng ngước lên
trên, bấy giờ ánh mặt trời gay gắt rọi qua những lỗ hổng trên chóp miếu chiếu
thẳng xuống, đưa mắt lên nhìn liền cảm thấy chói lòa, hoa mắt, song có thể nhận
ra toàn bộ trần nhà là một bức tranh rực rợ xán lạn, nửa phù điêu nửa vẽ màu,
tuy có chỗ đã bong tróc, lại có chỗ bị tổn hoại do cả khối kiến trúc khác đổ
xuống, nhưng vẫn giữ được chừng bảy tám mươi phần trăm.
Chính giữa bức bích họa
trên chóp miếu này là một cái nhãn cầu khổng lồ, vòng phía ngoài là totem hình
các tia phóng xạ, chia làm tám màu, mỗi tia màu là một loài thú thần khác nhau,
phía ngoài cùng còn có một vòng nữa vẽ mấy chục vị Không Hành Mẫu(2), tất cả
đều muôn hình vạn trạng, chẳng vị nào giống nhau, không ngoài dự đoán, đây
chính là mắt bạc Cổ Cách, bản đồ tọa độ của phong thủy Mật tông cổ đại.
Tôi nói với Minh Thúc, lần
này phải xem cuốn cổ thư ra cho chúng tôi xem thôi, nếu không xem cho rõ, chỉ
dựa vào tọa độ, cũng khó mà xác định rõ phương vị cụ thể của tháp ma ở nơi nào.
Minh Thúc lần ra chỗ một
cây trụ lớn màu đỏ dựa lưng vào thở dốc, A Đông cầm ống dưỡng khí tới cho lão
ta hít thở mấy hơi, bấy giờ mới có thể mở miệng nói chuyện. Lão thò tay vào
trong ba lô tìm cuốn kinh kia. Bỗng đột nhiệt nghe thấy tiếng "rắc",
một cây trụ đổ sập xuống, mọi người cùng hét lên, cuống cuồng tản ra bốn bên né
tránh. Cây trụ lớn đổ xuống đánh uỳnh, trong cơn hỗn loạn cũng không thấy rõ có
ai bị đè phải không.
Thì ra cây cột Minh Thúc
dựa người vào đã mục hết cả chân đế, lúc thường trông tưởng chẳng làm sao, song
vừa tựa lưng vào, liền đổ rầm xuống, may mà nó đổ ra phía ngoài, bằng không
trong điện chật hẹp, lại va vào những cây trụ khác, chắc chắn sẽ đè chết người.
Thấy chóp miếu thiếu đi một cây trụ chống, tuy chưa sập ngay, song cả bọn cũng
không dám nán lại lâu, ai nấy đều muốn ra trước, kiếm một chỗ an toàn ở bên
ngoài rồi tiếp tục tính.
Lúc chạy ra ngoài, chúng
tôi đột nhiên phát hiện dưới bờ tường đất bị cây trụ đè đổ, lộ ra một khoảng
không gian to rộng tối om, tựa như một căn mật thất bị bịt kín, bờ tường vừa đổ
xuống, mùi ẩm mốc bên trong liền xộc thẳng ra. Nghe nói người Ý tìm thấy vô số
hàng động trong di tích này, công dụng hết sức phong phú, trong đó có một hàng
động tương đối nổi tiếng, gọi là hang Xác khô không đầu, lại còn có một hang vũ
khí cất giữ binh khí, song đều cách miếu Luân Hồi này hơi xa. Vậy rốt cuộc
trong hang động bị mật dưới ngôi miếu này có gì?
Tuyền béo rút đèn pin ra,
bật lên soi xuống phía dưới. Ánh mắt của mọi người lập tức bị những thứ dưới
hang thu hút. Phía ngoài cùng là một pho tượng đồng ba mắt sáu tay, đầu đội mũ
báu, ngự trên đài sen, ba con mắt sáng màu bạc long lanh lấp lánh trên nền sắc
vàng kim của tượng Phật.
Phía sau pho tượng Phật ba
mắt này, còn có một cánh cửa màu đen đóng kín mít dán vô số bùa chú kinh văn,
hình như bên trong đang giam cầm một thứ gì đó không thể phóng thích ra ngoài.
Mọi người đều bị cái hang
cổ quái thần bí này hấp dẫn, vây cả quanh miệng hang rút đèn pin soi xuống phía
dưới ngó nghiêng, đằng sau cánh cửa sắt màu đen kia là thứ gì? Tại sao lại phải
treo bùa dán chú nhiều như thế?
Shirley Dương nói năm xưa
nhà nghiên cứu Tạng học kiêm nhà thám hiểm người Ý, giáo sư Dodge sau khi phát
hiện ra di tích Cổ Cách, đã làm một phép tính, tính ra rằng quy mô di tích còn
giữ lại được gồm có nhà cửa đèn chùa ước chừng năm trăm ngôi, lầu thành đá
khoảng sáu mươi tòa, các loại tháp khoảng ba mươi tòa, tường phòng vệ, tường
thấp còn độ mấy lớp, trong đó khu có số lượng di chỉ lớn nhất chính là hang
động phía dưới vương thành, ánh chừng hơn nghìn hang.
Điều này chứng tỏ diện tích
và quy mô phía dưới lòng đất của vương thành Cổ Cách thậm chí vượt xa những gì
xây trên mặt đất. Mọi người thỉnh giáo lạt ma, trong hang này đặt tượng Phật
mắt bạc, rốt cuộc đây là hang cất giữ kinh sách, hay là một am thờ dạng hang
động.
Lạt ma không trả lời, bước
thẳng qua đống tường đổ nát, đi vào trong không gian ẩn mật ấy, tôi lo phía
trong có nguy hiểm, bèn cầm chắc khẩu Remington theo sát phía sau.
Pho tượng Phật trong hang
không lớn, chỉ cao tầm một thước, màu sắc bóng loáng, ánh vàng chói mắt, song
cũng không phải được đúc bằng vàng ròng hay đồng nguyên chất, mà lần lượt luyện
bởi năm loại hợp kim, hơn nữa còn liền thành một khối. Chỉ có người Cổ Cách sở
hữu công nghệ này, nay phương pháp bí mật đó đã thất truyền, tượng Phật mắt bạc
mình vàng còn lại rất ít, vậy nên pho tượng này rất có giá trị.
Thiết bổng Lạt ma bái lạy
tượng Phật xong, mới tiếp tục đi xem xét thêm. Tượng Phật mắt bạc này dường như
gắn liền với chân cửa sắt phía sau, đã bị người ta cố định chặt, còn trên cánh
cửa sắt màu đen đóng kín thì dán đầy những câu lục tự chân ngôn "Án ma ni
bát minh hồng" của Phật giáo Mật tông.
Tuy loại lục tự chân ngôn
này rất thường thấy, những tôi không hề biết ý nghĩa của nó, chỉ cảm thấy na ná
như câu A Di Đà Phật, cửa ra thông thường hình như chẳng cần phải dán loại bùa
chú này làm gì. Tôi hỏi lạt ma xem câu lục tự chân ngôn này tượng trưng cho
điều gì, phải chăng dùng để trấn tà đuổi ma, xem chừng cánh cửa sắt này không
thể mở được rồi.
Lạt ma nói với tôi: "Ý
nghĩa của lục tự chân ngôn này quả thực hết sức vô cùng, đệ tự thông thường
niệm chân ngôn này, có thể khiến Tâm hòa vào Phật. Có điều công lực Mật tông
cao thâm hay không, phải dựa vào việc tích lũy tu dưỡng pháp thuật hàng ngày,
cũng giống như chất lượng của bánh trà sữa, phải dựa vào việc quấy trộn bơ sữa
không ngừng vậy, những cũng không thể chỉ trông mong vào việc tụng niệm lục tự
chân ngôn để tựu thành chính quả được. Sáu chữ này nếu dịch ra tiếng Hán của
các cậu, đại loại có ý nghĩa là 'Án! Thứ chân quý trong bông sen hồng!' "
Lưu phái tôn giáo ở Tây
Tạng có rất nhiều, dẫu rằng cùng là đạo Phật, những lại chia thành vô số phân
chi, cho nên kiến văn của Thiết bổng Lạt ma về Luân Hồi tông cũng có hạn. Theo
những gì ông suy đoán, hang động bí mật bên cạnh điện Luân Hồi này, có thể
tượng trưng cho địa ngục của Luân Hồi tông. Những kẻ phạm tội đại ác, sau khi
chết đi linh hồn không được giải thoát mà bị nhốt bên trong cánh cửa đen này,
nếm trải sự đày đọa giày vò trong địa ngục, thành thử cánh cửa này không thể mở
ra, bên trong có lẽ là yêu ma chốn địa ngục, hay quỷ quái dưới âm tào.
Tôi đang cùng lạt ma xem
xét trong hang, bỗng bàn chân giẫm phải thứ gì đó. "Sột" một tiếng
vụt qua, tôi cuống quýt nhảy lên. Những người ở ngoài cũng chiếu đèn pin soi
xuống. Hóa ra là một con chuột xạ đen be bé, to chừng con mèo con, thấy ánh đèn
pin khua khoắng, nó liền hoảng hốt chui tọt xuống phía dưới cánh cửa đen.
Chúng tôi giờ mới phát
hiện, dưới chân cửa sắt đen có một kẽ hở rất lớn. Tôi lấy đèn pin rọi vào bên
trong, sâu quá, chẳng nhìn thấy gì cả. Tôi và Thiết bổng Lạt ma không muốn nán
lại lâu hơn, liền men theo đường cũ trở ra phía ngoài hang. Hang động bí mật
này không liên quan gì đến tọa độ mắt bạc, thêm một việc chi bằng bớt một việc,
còn như trong đó rốt cuộc có thứ gì, thôi cứ để cho những đoàn khảo cổ và đoàn
thám hiểm sau này đến tìm hiểu vậy.
Tuyền béo và Minh Thúc đều
them nhỏ dãi pho tượng Phật mắt bạc kia, song Thiết bổng Lạt ma có mặt ở đây,
cũng không dám làm bừa, cố gắng nín nhịn lòng tham sân. Minh Thúc dường như
đang tự an ủi mình, loáng thoáng nghe thấy tiếng lão ta lẩm bẩm một mình:
"Phàm là những kẻ làm nên đại sự, đều không câu nệ tiểu tiết, lần này ta
đến khai quật Băng xuyên thủy tinh thi, ấy là vụ buôn bán tày trời rồi, pho
tượng Phật mắt bạc này tuy cũng đang đồng tiền, song đem so ra, cũng chẳng đáng
ra tay."
Thiết bổng Lạt ma bảo mọi
người cùng hợp sức vào, di dời đất đá lấp lên chỗ bức tường đổ kia, sau đó đều
đứng bên ngoài miếu. Do trong điện thờ miếu Luân Hồi thiếu mất một cây trụ, mọi
người không ai dám mạo hiểm tiền vào trong, chỉ đứng ngoài thăm dò một lượt,
phát hiện ra các cây trụ còn lại đều hết sức kiên cố, cây bị đổ kia chỉ là một
cây trụ hờ, được đặt ở đó để cho bố cục đều đăn, kiểu như việc quạt lò trước
gió, có cũng được, không có cũng không sao, chẳng hề ảnh hưởng gì đến sự an
toàn của kiến trúc ngôi miếu.
Minh Thúc rút cuốn kinh cổ
lấy của viện bảo tàng ở hải ngoại ra, đối chiếu với bức bích họa mặt bạc trên
trần miếu, suy ngẫm những điều bí mật bên trong. Có Thiết bổng Lạt ma giúp đỡ, cộng
thêm nguyên lý phong thủy tôi nắm trong tay, về cơ bản không có gì trở ngại,
chẳng hề tốn sức thổi tro, chúng tôi đã có thể kết hợp bản đồ trong cuốn kinh
cổ với tọa độ và mắt bạc chỉ ra lại với nhau.
Luân Hồi tông hết sức sùng
bái nhãn cầu, nguồn gốc xa xưa nhất có lẽ xuất phát từ Ma quốc. Ma quốc sau khi
diệt vong, vẫn còn để lại không ít di họa cho thế gian. Luân Hồi tông rồi cũng
dần dần tiêu vong trong lịch sử, di tích mắt bạc đặc thù của tông phái này chỉ
còn giữ lại được một chỗ trong vương thành Cổ Cách, nếu như nơi đây cũng bị hủy
hoại nốt, vậy thì dù cho có bản đồ trong cuốn cổ kinh kia, cũng chẳng thể nào
tìm tới tháp ma của Ma quốc được.
Tác giả và xuất xứ của cuốn
kinh cổ này nay đã không thể khảo chứng, chỉ biết rằng vào những thập niên 20,
30 đầu thế kỷ, một đoàn thám hiểm nước ngoài nào đó đã đào nó lên từ một hang
chưa kinh sách ở Tây Tạng. Ban đầu cuốn kinh này không hề được coi trọng, bị
đem cất dưới tầng hầm viện bảo tàng để dính đầy bụi bặm, sau đó được một người
quản lý dày công nghiên cứu về vấn đề tôn giáo vô tình phát hiện ra, tuy nhiên
nội dung hết sức kỳ bí, trước sau vẫn khó mà lý giải được. Cho tới mãi mấy năm
gần đây, cùng với sự tích lũy về mặt tư liệu, người ta mới phân tích ra nội
dung trong quyển kinh đó, rất có thể là những thông tin ghi chép về một tòa lầu
ma chín tầng. Tòa lầu ma chín tầng này là một mộ phần, bên trong cất giữ xác
thủy tinh của Tà thần mà Ma quốc vẫn hằng sùng bái và thờ phụng. Nếu như tìm
thấy nó, đố chắc chắn sẽ là phát hiện đình đám vang dội trong giới khảo cổ.
Lịch sử huyền bí khó hiểu như câu chuyện thần thoại của Tây Tạng thời viễn cổ
cũng có thể dựa vào đây mà được phá giải.
Qua nhiều lần khảo chứng,
cuốn kinh cổ này rất có khả năng được hậu duệ của Ma quốc viết ra, độ tin cậy
có lẽ rất cao. Khi ấy chỉ tiếc một điều duy nhất là, tuy có bản đồ cương vực
của Ma quốc, nhưng núi non sông ngòi đều được đánh dấu bởi hình dã thú hoặc
thần linh, so với bản đồ thường thức chung thì khác biệt quá xa, vả lại niên
đại hết sức xa xưa, rất nhiều tên và ý nghĩa tượng trưng của các nguồn sông
mạch núi đến nay đều đã thay đổi, thành thử càng khó xác nhận hơn.
Bức bích họa lớn trong tòa
miếu của Luân Hồi tông này chính là chìa khóa để giải đọc phong thủy Mật tông
thời cổ đại, bởi phương vị trong bức họa đó cực kỳ chuẩn xác, mỗi một màu sắc,
thú thần, hoặc thiên thần, đều chỉ ra những vị trí địa lý tương ứng. Đã có dấu
mốc phương hướng này, bước tiếp theo sẽ đối chiếu bản đồ cổ kim, dẫu ràng không
thể chuẩn xác như thuật phân kim định huyệt, nhưng cũng coi như có một phạm vi
đại khái, vẫn còn hơn là đáy bể mò kim.
Phong thủy học lưu truyền ở
Trung Nguyên cho rằng thủy tổ long mạch trong thiên hạ là ở núi Côn Luân, điều
này khác biệt rất lớn so với quan điểm phong thủy Mật tông của Tây Tạng, song
truy về ngọn ngành, thì bản chất cũng na ná như nhau. Quan điểm phong thủy Mật
tông hình dung núi Côn Luân là đất Phượng hoàng, hai mạch núi lớn còn lại, lần
lượt là đất Khổng tước và đất Đại bàng.
Tòa lầu ma chín tầng quan
trong nhất của Ma quốc, chính là ở Phượng hoàng thần cung. Trong kinh sách
viết, Phượng hoàng thần cung là một dãy núi do bốn loại bảo thạch của thiên
giới là vàng, bạc, thủy tinh, lưu li chồng chất lên mà thành, sườn núi chia ra
làm bốn ngọn núi tuyết, lần lượt tượng trưng cho bốn vị thần hộ vệ của Ma quốc.
Thiết bổng Lạt ma nói, nếu
núi Côn Luân được hình dung là phượng hoàng, vậy chắc chắn phù hợp với lời thơ
trong bản trường ca tụng công huân của Thế giới Chế định Bảo châu Đại vương.
Vậy thì vị trí của Phượng hoàng thần cung, theo những miêu tả trong bản trường
ca, chính là ở miệng núi Kelamer, khu vực giao nhau giữa ba vùng Thanh Hải, Tây
Tạng, Tân Cương, còn hướng núi thì tương ứng với hai vị Hành Mẫu màu trắng và
màu bạc, sao màu trắng tượng trưng cho núi tuyết, sao màu bạc tượng trưng cho
sông băng.
Tôi nói kết quả đánh giá
của tôi cho Minh Thúc và Thiết bổng Lạt ma nghe, vùng đất có bốn ngọn núi vây
quanh, thuật phong thủy Thanh Ô gọi là "Thù mậu", quyết chú tầm long
gọi là "Long đỉnh" (đầu rồng), là xương sống của trời đất, tổ của long
mạch phát nguồn từ đất này, hình thế vô cùng hiếm thấy. Chỉ cần có thể xác định
được vị trí đại khái là ở cửa núi Kelamer, cộng thêm sự giúp đỡ của hướng dẫn
viên bản địa, chắc sẽ không khó tìm ra.
Minh Thúc thấy cuối cùng
cũng xác định được địa điểm, vội kéo tôi lại một bên, rút giấy bút ra. Còn chưa
đợt lão ta mở lời, tôi đã biết lão định nói gì. Tôi nói: "Cứ yên tâm,
chúng tôi chắc chắn không bỏ rơi đám người ngựa của bác đâu, chúng ta tuy chưa
ký kết gì, nhưng tôi đã nhận hai tấm Nhuận hải thạch của bác làm tiền đặt cọc,
quân tử hứa bằng mồm, tiểu nhân hứa bằng giấy, quân tử không hứa suông, cũng
không thất ước, tiểu nhân hứa hẹn đủ điều, những vẫn thất ước như thường, liệu
có tuân thủ lời hứa hay không là ở người, chứ không phải ở giấy bác ạ!"
Minh Thúc bấy giờ mới yên
tâm, vui vẻ ra mặt, phản ứng cao nguyên dường như thuyên giảm đi nhiều, tựa hồ
đã ôm được Băng xuyên thủy tinh thi vào trong tay. Tôi khuyên lão chớ có vội
mừng, đây mới là bước đầu tiên của cuộc vạn dặm trường chinh, đợi khi nào tới
được khe núi Kelamer ở Côn Luân, đào được lầu ma chín tầng, lúc ấy hẵng mừng
cũng chưa muộn, trước khi sờ tận tay day tận mắt, chẳng ai dám bảo đảm nội dung
cuốn kinh sách đó có đáng tin thật hay không? Có khi sách ấy chi là do một
thằng cổ nhân nào đó ăn no rửng mỡ, viết ra chơi chơi thôi cũng không chừng.
Shirley Dương lại chụp mấy
bức ảnh làm tư liệu tham khảo sau này. Lần này tới tìm tọa độ của phong thủy
Mật tông thuận lợi hơn nhiều so với dự kiến của chúng tôi, ngoài cây trụ và bờ
tường sụt lở khiến mọi người một phen khiếp vía ra, cơ hồ không có bất kỳ trắc
trở gì, hy vọng quãng đường tới đây cũng suôn sẻ như vậy.
Lúc chúng tôi xuống núi,
mặt trời đã chếch Tây, đêm trên cao nguyên rất lạnh, không cần thiết phải quay
về ngay trong đêm, thế là cả bọn nghỉ lại trong một pháo đài đá phòng vệ tiền
tiêu cách vương thành Cổ Cách độ vài dặm. Tay hướng đạo đi cùng đoàn chuẩn bị
bữa tối và trà sữa cho chúng tôi, sau đó lại cho mấy người thể chất hơi yếu
uống một bát thuốc phòng cảm mạo, trong môi trường tự nhiên thế này, điều đáng
sợ nhất là bị cảm, bị cảm trên cao nguyên, có khi còn nguy hiểm đến cả tính
mạng cũng không chừng.
Đêm đó ai nấy đều mệt mỏi
rã rời, nơi đây lại không có nguy hiểm gì, lũ sói đã bị đánh đuổi đi từ lâu,
cho nên cũng chẳng để ai thức canh gác, dăm ba người ních vào một gian vọng gác
ngủ chung. Đám đàn bà con gái Shirley Dương, Hàn Thục Na và A Hương ngủ ở gian
phòng trong cùng, tôi và Tuyền béo ngủ ở phòng đá ngoài cùng.
Trời về khuya, chúng tôi
lần lượt chợp mắt. Mấy năm nay hằng đêm tôi chỉ toàn ngủ chập chờn, ban ngày
còn đỡ, đêm đến dẫu có nằm mơ tôi cũng vẫn mở trừng một mắt. Shirley Dương bảo
tôi đó là "hội chứng căng thẳng thần kinh hậu chiến tranh", cần phải
uống thuốc an thần. Tôi thì lo uống thư đó đầu óc nó ngây dại cả đi, cho nên
mãi không uống.
Trong lúc nửa thức nửa ngủ
ấy, bỗng nghe bên ngoài có tiếng bước chân hết sức rón rén, tôi lập tức mở
trừng hai mắt, nhờ vào ánh sáng mỏng mảnh lạnh ngắt của trăng sao rớt qua khe
hổng của lầu đá, chỉ thấy một bóng người màu đen, tức tốc chạy vụt qua cửa.
--------------------------------
1 Sabina przewalskii. 2 Hóa thân
của Bồ Tát trong Phật giáo Tây Tạng.
Chương 8:Rình
rập ban đêm
B óng người đó thoắt cái đã vụt qua, kẻ nào lại lén la lén lút như
vậy? Tôi không kịp nghĩ nhiều, lẳng lặng bước tới cửa, lén nhìn ra bên ngoài.
Ngoài trời trăng sáng vằng vặc, ánh bạc trải khắp đất, có một kẻ đang rón rén
đi về phía vương thành Cổ Cách, trên mình còn địu một cái túi, chẳng phải ai
khác, đó chính là A Đông, thằng ôn chạy xe cho Minh Thúc.
Tôi sớm đã biết thằng A
Đông chẳng phải tốt đẹp gì, đầu tóc trơn bóng, mày la mắt lét, nửa đêm nửa hôm
mò về di tích Cổ Cách, chẳng cần hỏi cũng biết, chắc chắn hắn đã để ý đến pho
tượng Phật mắt bạc ấy rồi.
Minh Thúc, ông chủ của A
Đông là một tên trộm lớn, cái thứ vặt vãnh đấy lão không đoái hoài đến làm gì,
chắc không phải lão phái thằng này đi. Ban ngày lắm người nhiều tai mắt, không
tiện ra tay, nên hắn mới đợi đến đêm để hành động đây. Thằng này kể cũng chơi
rất khéo, nhưng đời này làm gì có chuyện báu bở đến thế, ông đã bắt gặp mày,
thì mày xúi quẩy rồi con ạ.
Nghĩ đến đây tôi lập tức
quay lại, bịt mồm Tuyền béo, lay cậu ta dậy. Tuyền béo đang ngáy vang như sấm,
bỗng dưng bị bịt mồm bịt mũi, không thể không dậy được. Tôi thấy Tuyền béo mở
mắt, tức khắc ra hiệu để cậu ta nín tiếng.
Tuyền béo phải mất mười
giây đồng hồ đầu óc mới tỉnh táo lại, khẽ tiếng hỏi tôi có việc gì. Tôi dắt cậu
ta khẽ khàng ra khỏi phòng đá, vừa dõi theo bóng thằng A Đông ở phía trước, vừa
kể lại sự tình cho Tuyền béo nghe.
Tuyền béo nghe vậy cả giận
:" Cái pho tượng ấy đến ông béo nhà mày đây còn ngại lấy, thằng nhãi con
mày lại dám nẫng tay trên à, con mẹ mày thất đức đến thế là cùng. Tư lệnh Nhất,
cậu nói xem phải làm thế nào, hai anh em ta dạy cho nó bài học chứ, cậu xem nên
xử trí thằng nhãi này ra sao, vất xác nó giữa đường, hay xẻ ra tám miếng cho
kền kền ăn?"
Tôi cười đểu, nói với Tuyền
béo :" Hai năm nay anh em mình chẳng có cơ hội chơi trò gì ác ác rồi, hôm
nay vừa vặn có thằng oắt con này nộp mạng. Anh em mình hù dọa nó cái đã, sau đó
thì...". Tay tôi chém xuống dưới, ý là đánh cho nó ngất đi, vất lên trên
núi, cho thằng nhãi ranh này ngày mai tơi tả trở về. Tuyền béo lại tưởng ý tôi
là chém chết luôn, bèn đưa tay lần tìm con dao găm lính dù, song lúc đi ra vội
vàng, ngoài chiếc đèn pin mang theo bên mình ra thì chẳng đem theo thứ gì khác.
Cậu ta liền nói không có dao cũng không sao, với mông của tôi cũng có thể đè
chết nó, nhưng mà trước tiên mình cứ phải dạy cho nó một bài học đã, nói xong
cũng khì khì cười đểu.
Tôi càng nghĩ càng thấy
việc hù dọa thằng A Đông hết sức thú vị, trong lòng chẳng nén nổi sự sung
sướng, song vẫn phải dặn dò Tuyền béo ra tay nhẹ thôi, cho nó một bài học nhớ
đời là được rồi, chứ xảy ra án mạng thì không hay, vả lại việc này chỉ cậu biết
tôi biết, tuyệt đối không được tiết lộ cho người thứ ba, kể cả Shirley Dương
cũng không được nói.
Tuyền béo gật đầu lia lịa
:" Đương nhiên không thể nói cho ả ta được, nếu không đoàn cố vấn Mỹ lại
nói chúng ta không làm việc nghiêm túc. Nhưng mà trước khi hành động cho tôi đi
giải quyết nỗi buồn cái đã".
Tôi bảo giờ không có thời
gian đâu, trên đường có cơ hội ta thả buồn sau, không nhanh bám sát, nó biến
mất tăm mất dạng bây giờ.
Chúng tôi hứng khởi, nương
theo bóng trăng to đến phát hãi treo trên bầu không, lẳng lặng bám theo sau
thằng A Đông. Vì sợ bị hắn phát hiện, nên chẳng dám bám sát quá, rồi cũng đến
bên dưới quả núi có di tích vương thành Cổ Cách.
Thể lực của thằng A Đông
hơi đuối, cả ngày bôn ba đi lại, còn phải địu bình dưỡng khí cho Minh Thúc đã
mệt lử rồi, đến đêm lại thậm thà thậm thụt, tất tả đi một mạch không dừng, cộng
thêm áp lực tâm lý cũng không nhỏ, thành thử khi đến chân núi, hắn đã mệt đứt hơi,
đành ngồi nghỉ bên một bức tường, trông chừng thằng này định bụng ngồi một lát
cho đỡ mệt, rồi sẽ chạy thẳng tới miếu Luân Hồi thó pho tượng Phật mắt bạc đây.
Tôi nghĩ bụng thằng nhãi
này chẳng biết ngồi nghỉ đến lúc nào, chẳng bằng chúng tôi chạy vòng qua phía
trước mà mai phục, đoạn liền ra hiệu cho Tuyền béo đi men theo mé bên của đống
đổ nát, vòng lên phía trước thằng A Đông.
Đi đến giữa chừng, hai đứa
tôi liền hối hận, thì ra di tích vương thành này chỉ có đường lớn là dễ đi,
những khu vực khác đều bị hủy hoại hết sức nghiêm trọng. Đi trong đống đổ nát
của nhà dân, dường như giẫm bước nào lún bước ấy, lại chẳng dám phát ra tiếng
động lớn, thành thử hết sức chậm chạp, cũng may cuối cùng tìm ra được một con
phố, chúng tôi vội mau chân chui vào trong thần điện hộ pháp.
Chúng tôi còn chưa kịp ngắm
nghía những bức vẽ sexy của Phật giáo Mật tông thêm lần nữa, đã nghe thấy tiếng
bước chân từ phía sau vọng tới. Kẻ đang đến từ hơi thở cho đến bước chân đều
rất nặng nhọc, nghe liền biết ngay là thằng A Đông. Không ngờ hắn chạy tới đây
nhanh thế, có lẽ tại chúng tôi mất quá nhiều thời gian để đi đường vòng.
Tôi và Tuyền béo vội lẻn
vào trong đại điện miếu Luân Hồi, nhưng trong này trống hơ trống hoác, căn bản
không có chỗ nào ẩn nấp, trong lúc khẩn cấp, đành phải giẫm lên mấy bát đèn gắn
trên cây trụ đỏ, chia nhau leo lên.
Ngoài cây trụ bị đổ kia ra,
những cây trụ lớn màu đỏ còn lại đều rất chắc chắn, vả lại cũng không cao quá,
loại người sợ độ cao như Tuyền béo cũng vẫn có thể gắng gượng leo lên được.
Chúng tôi vừa leo lên trên,
thằng oắt A Đông đã mò vào. Ánh trăng sáng trắng hơn tuyết xuyên qua mấy lỗ
hổng lớn trên đỉnh điện rọi xuống, cả gian đại điện sáng trưng, nhìn rõ mồn
một. Tôi ra hiệu cho Tuyền béo nín thở, gắng nhẫn nại xem xem thằng A Đông này
tự giày vò thế nào đã, đợi khi nó lao lực di dời pho tượng, hẵng ra tay hù dọa
nó, như thế mới hay ho.
Trong đại điện hết sức yên
tĩnh, chỉ nghe thằng A Đông ở phía dưới thở phì phò, ngực phập phồng dữ dội,
trông chừng đã mệt lắm rồi. Hắn lại nghỉ một chốc, sau đó mới ra tay dời tảng
đá, mở hốc tường vốn đã bị chúng tôi bịt chặt ra, vừa làm vừa cất giọng hát cho
thêm phần can đảm.
Tôi và Tuyền béo đu người
trên cây trụ gắng gượng nín cười, cảm giác như sắp quặn cả ruột lại, có điều
nom thân thủ của thằng A Đông cũng hết sức nhanh nhẹn, di dời ngói đá đều không
mảy may gây tiếng động. Trong đại điện này không có ai khác, thằng này đâu cần
thiết phải cẩn thận thế, di chuyển đất đá mà ngay đến một tiếng động cũng không
dám phát ra, trừ phi đây là thói quen nghề nghiệp của hắn. Tôi đoán thằng này
là "ông bụt" dỡ tường, người Bắc Kinh gọi thằng ăn trộm là "ông
bụt". Thì ra thằng này cũng là tay lành nghề, hơn nữa còn nắm yếu lĩnh đi
trộm chẳng về không, chẳng ngại xa xôi đi một vòng, cũng chỉ vì pho tượng mắt bạc
này thôi.
Vốn dĩ chúng tôi chỉ lấp
đất đá đại khái lên bức tường vỡ bịt lỗ hổng xuống mật động, nên chẳng mất
nhiều thời gian, thằng A Đông đã dọn sạch cửa hang, bấy giờ ánh trăng cũng vừa
vặn chiếu thẳng vào, ngay cả đèn pin cũng chẳng cần phải bật, phía trong đó còn
sáng rõ hơn ban ngày.
A Đông thoạt tiên ở bên
ngoài cung kính rập đầu lạy pho tượng, miệng lẩm bẩm đọc gì đó, chắc là những
lời mào đầu xin xỏ của bọn trộm, nào là nhà có mẹ già con cọc, mình lại đơn
thương độc mã, tài hèn sức mọn, không thể phụng dưỡng được, bất đắc dĩ lắm mới
làm cái nghề này, cầu xin Phật tổ từ bi hỉ xả, chớ làm khó kẻ mệnh khổ ...
Tuyền béo không thể nhịn
nổi hơn, buột miệng cười lên một tiếng "ha", rồi vội lấy tay bịt
miệng lại. Tôi chửi thầm trong bụng, thằng ngốc này sao không thể nhịn được một
lúc nữa nhỉ, giờ mà bị thằng kia phát hiện, cùng lắm mình đấm nó mấy phát vào
mõm, thế thì có ý vị gì nữa.
Hai đứa tôi nấp trên cây
trụ, góc độ ngược với phía thằng A Đông, ở vị trí của hắn sẽ không thể thấy
chúng tôi, song hắn nghe được rất rõ có người đột nhiên cười lên một tiếng.
Thành cổ này vốn dĩ sau khi cư dân bị thảm sát mới trở thành di tích, giờ lại
đang giữa đêm khuya, dưới ánh trăng lạnh lẽo, trong điện đường của miếu Luân
Hồi đột nhiên bật ra một tiếng cười, thằng nhãi A Đông kia lẽ nào không sợ,
giật bắn cả mình, thiếu chút nữa là ngã ngửa ra đất.
Tôi thấy A Đông chưa phát
hiện ra, liền mừng thầm. Trên thân cây trụ tay tôi đang ôm có rất nhiều mảnh gỗ
bong tróc do khô nóng, tôi tiện tay bấu ra một miếng gỗ tương đối cứng, ném về
phía góc tường, làm phát ra tiếng vang khe khẽ, ngay sau đó liền nín thở, áp
sát mình vào thân trụ, không dám động đậy.
Hướng chú ý của thằng A
Đông quả nhiên rời khỏi cây trụ, song thằng này quả thực nhát gan, không dám
qua xem xem rốt cuộc là thứ gì phát ra tiếng, chỉ run rẩy ngồi nguyên một chỗ,
lẩm bẩm một mình :" Chắc chắn là chuột, không có gì phải sợ, không có gì
phải sợ ..."
Thằng A Đông cứ lải nhải
một mình không dám rời chỗ, khiến tôi và Tuyền béo cũng không dám khinh suất
thò đầu ra nhìn trộm hắn, lúc này ánh trăng sáng vằng vặc, ở đằng sau cây trụ
thò đầu ra chắc chắn sẽ bị lộ ngay.
Tôi hơi nghiêng đầu, đưa
mắt nhìn Tuyền béo đang ôm cây cột kế bên. Dưới ánh trăng, chỉ thấy cậu chàng
nhoẻn miệng nhe răng nhìn tôi. Tôi biết ý cậu ta là quả thực mót đái quá rồi,
mau dọa thằng kia đi cho xong, nhịn thêm chút nữa thế nào cũng tè ra quần.
Tôi vẫy tay với Tuyền béo,
bảo cậu ta gắng kiên trì đợi thêm vài phút nữa, song cứ ôm cột mãi thế này thì
đúng thật cũng chẳng thú vị gì. Bỗng nghe thấy tiếng xích sắt cọ xát vang lên,
đành bất chấp rủi ro bị phát hiện, thò đầu ra quan sát, thoạt nhìn liền biết sự
việc chẳng lành.
Không ngờ thằng A Đông đã
lấy hết can đảm, chuyển được bức tượng ra ngoài. Bệ tượng vốn dĩ gắn liền với
khóa cửa sắt đen ở phía sau, tôi đoán chừng thằng này mà không mạnh tay ... giả
như dùng cuốc xẻng hay gậy gộc gì đó thì căn bản không thể nào nhấc tượng Phật
ra được. Không ngờ cái loại "ông bụt" nhà nó giỏi nhất là trò nạy cửa
bẻ khóa, loại khóa to cổ lỗ kia, đối với hắn chỉ là thứ vặt vãnh, còn chưa nhìn
cho kỹ, hắn đã bẻ được khóa rồi.
Thằng A Đông ôm tượng Phật
chui ra khỏi hang động bí mật, song lại nghe tiếng xích sắt va vào nhau lanh
canh, thì ra phần dưới bệ tòa sen của tượng Phật mắt bạc còn gắn một xích sắt
dài nối với cánh cửa sắt màu đen. Thằng A Đông bấy giờ bị lòng tham khiến cho
mờ mắt, quên cả sợ hãi, không tìm ra lỗ khóa, bèn ra sức kéo, không ngờ chưa
gắng hết sức, cánh cửa sắt trong động đã mở bật ra.
Tôi từ đằng sau cây trụ
nhìn ra, dưới ánh trăng vằng vặc, chỉ thấy cánh cửa sắt đen đã mở ra trống hốc,
song góc chỗ tôi không thuận lắm, tuy rằng trăng sáng như nước, nhưng cũng chỉ
nhìn được cánh cửa thôi, còn bên trong có thứ gì, thì hoàn toàn không nhìn rõ.
Nhưng ở chỗ thằng A Đông đứng thì vừa vặn có thể thấy những gì bên trong. Tôi
nom nét mặt của hắn, dường như do kinh hãi quá độ, cơ hồ đã chết đứng, ngây ra
như trời trồng.
Tôi và Tuyền béo nhìn nhau,
trong lòng cũng thấy gai lạnh. Thằng nhãi A Đông tuy nhát gan, song rốt cuộc là
thứ khủng khiếp gì khiến hắn đứng như chết rồi ở đó, không động đậy, không có
đến cả một tiếng hét lên vì khiếp vía?
Bấy giờ chỉ nghe thấy rầm
một tiếng, chúng tôi vội nhìn xuống, thì ra thằng A Đông đã ngã lăn ra đất, hai
mắt trợn trừng, toàn thân cứng đơ, chết vì phát khiếp. Áng mây vừa trôi ngang
qua bầu trời che khuất ánh trăng khiến trong động lúc mờ lúc tỏ. Dưới thứ ánh
sáng lờ nhờ này, tôi thấy bên trong cánh cửa đen có một cánh tay trắng ởn thò
ra.
Dưới ánh trăng, có thể thấy
rõ những vạt lông trắng trên cánh tay, những cái móng sắc nhọn còn ánh lên tia
sáng yếu ớt. Cánh tay đó thò ra quá nửa, đột nhiên dừng lại, năm ngón xòe ra
chộp lấy hòn đá trên mặt đất, dường như đang dò xét động tĩnh bên ngoài.
Tôi nghĩ bụng quả này không
xong rồi, lần này gặp cương thi thật rồi, lại còn là bạch hung nữa chứ, nhưng
ngoài đèn pin ra có mang theo thứ gì nữa đâu, có điều ngón tay của cương thi
hình như là không bẻ cong được cơ mà. Lạt ma nói cánh cửa sắt đen dưới miếu
Luân Hồi này, tượng trưng cho địa ngục là những kẻ phạm tội đại ác bị ném vào,
cái thứ chui ra từ bên trong ấy, cho dù không phải là cương thi, thì chắc chắn
cũng không phải loại dễ dàng đối phó.
Tôi nhìn Tuyền béo ở bên
cạnh đang ôm chặt cây trụ, không dám thở mạnh, trán ướt đẫm mồ hôi, lúc ấy
không biết đó là do cậu ta mót đái quá, lại cứ tưởng cậu ta cũng căng thẳng quá
độ như thằng A Đông. Tôi nhẹ tay ra hiệu cho Tuyền béo, bảo cậu ta bỏ cái che
mặt ở trên mũ xuống, để khỏi lộ hơi thở, khiến thứ của nợ trong cánh cửa kia
phát hiện ra.
Tôi cũng kéo cái che mặt
giữ ấm trên mũ leo núi xuống, giống như đeo một cái khẩu trang lớn, như vậy cho
dù là cương thi, cũng sẽ không dễ phát hiện ra chúng tôi được. Giờ thì chỉ cần
giữ yên quan sát động tĩnh, đợi thời cơ thích hợp mà bỏ chạy.
Lúc này những áng mây mỏng
nhẹ trên trời đã dạt qua một bên, ánh trăng lại càng sáng, chỉ thấy từ sau cửa
có một con gì đó bò ra, trông giống như dáng người, cơ thể trần truồng, khắp
mình mẩy đều là những vạt lông trắng mịn, rậm dài hơn lông tơ của người, song
lại không dày và dài giống như lông dã thú, ánh trăng tuy sáng, nhưng lại không
nhìn rõ diện mạo của vật ấy.
Tôi nấp trên cây trụ, lập
tức thấy không rét mà run, bắt đầu có chút căng thẳng, nhưng ngay sau đó tôi
liền phát hiện, thứ bò ra bên trong cánh cửa sắt ấy có lẽ không phải cương thi,
chỉ thấy ánh mắt nó lấp lánh tia sáng như có điện. Tuy tôi chưa từng thấy cương
thi, nhưng qua kinh nghiệm truyền miệng thì mắt của cương thi chỉ như một thứ
trang sức, căn bản không nhìn thấy gì, trong khi đó đôi mắt của con vật này lại
lóe lên như có điện trong bóng tối ... Rốt cuộc nó là cái thứ gì?
Tôi sợ bị nó phát hiện,
không dám khinh suất nhìn trộm nữa, liền co người lại núp phía sau cột, áp sát
tai vào thân cột, lắng nghe động tĩnh trong miếu đường, chỉ nghe có tiếng bước
chân sột soạt. Cái thứ vừa giống người vừa giống cương thi vừa giống động vật
kia hình như đang đi vòng quanh cái xác của thằng A Đông.
Tôi không biết ý đồ của nó
thế nào, chỉ hy vọng con vật này mau mau rời khỏi đây, đi đâu cũng được, chỉ
cần nó rời khỏi di chỉ miếu Luân Hồi này, là chúng tôi có thể lập tức thoát
khỏi đây rồi. Bỗng nhiên trong miếu phát ra một chuỗi âm thanh gớm ghiếc nghe
như tiếng kền kền cười, khó nghe hơn cả tiếng gào khóc của lũ mèo đêm, nếu như
không phải hai tay đang ôm chặt vào thân cột, quả thực chỉ muốn đưa tay bịt chặt
lỗ tai lại, không để thứ âm thanh khủng khiếp này lọt vào.
Tuyền béo nấp mình phía sau
cây trụ bên kia, chỉ vào bụng mình, nhìn tôi nhăn mặt cau mày, ý rằng âm thanh
này chói tai quá, nếu cứ để nó tiếp tục gào lên, bất luận thế nào cũng khó mà
nín nhịn được hơn, chắc chắn sẽ tè ra quần mất.
Tôi vội xua tay về phía
Tuyền béo, bảo nhất thiết chớ có tè ra bây giờ, mùi nước tiểu người rất nặng,
cậu mà tè ra bây giờ, chúng ta lập tức sẽ bị con quái vật như bạch hung kia
phát hiện. Cái thứ âm thanh quái dị như tiếng kền kền này quả thực rất giống
tiếng kêu của cương thi trong truyền thuyết, không biết con vật kia đang giở
trò gì, tôi kìm cho hơi thở mình chậm lại, một lần nữa thò đầu ra nhìn trộm.
Chỉ thấy con vật trông như
bạch hung kia đang cúi nhìn xác chết trên mặt đất, vỗ tay cười như điên dại,
chừng như vớ được bảo bối gì, sau đó lại chạy quanh điện một vòng, rồi tới phía
dưới lỗ hổng lớn trên trần điện, trông lên mặt trăng trên trời, cất lên những
tiếng u u không biết là cười hay khóc.
Tôi và Tuyền béo thi nhau
than khổ. Chúng tôi treo người trên cột ít cũng phải nửa tiếng đồng hồ rồi,
chân tay đều tê mỏi, bát đèn trên thân cây trụ cũng không phải chắc chắn lắm,
khiến cả hai không dám manh động, vạn nhất đạp rơi vật gì, lập tức sẽ bị phát
hiện ngay, tay không tấc sắt thử hỏi đối phó với con bạch hung ra làm sao? Mà
thứ của nợ này lại cứ lề rề mãi trong điện, không biết rốt cuộc nó định làm gì?
Cục diện đương hồi căng
thẳng, lại bất ngờ xảy ra một sự kiện. Tôi trông thấy một con nhện tuyết to
tướng, thân mình vằn vện đan xen, đang từ từ hạ xuống theo sợi tơ buông đung
đưa trên nóc đại điện, vừa vặn rơi xuóng trước mặt tôi, khoảng cách còn chưa
tới nửa centimet, gần như đã dính lên mặt tôi rồi.
Nhện tuyết là loài có độc
tính mạnh nhất trên cao nguyên, thông thường đều màu trắng, vậy mà cái con đột
ngột xuất hiện trước mặt tôi, tuy chỉ bé bằng đốt ngón tay, song trên mình đã
mọc ra những vằn đỏ tươi, hai màu trắng đỏ rạch ròi, chứng tỏ đã sống hơn trăm
năm rồi, độc tính có thể cướp đi tính mạng của một con bò Yak Tây Tạng chỉ
trong nháy mắt.
Con nhện tuyết lúc lắc trên
mạng tơ của nó mấy cái, rồi rơi ngay xuống mũ trên trán tôi, không chệch đi đâu
khác. Trong khoảnh khắc đó tôi gần như nín thở, trợn mắt gắng nhìn lên trên
cũng chỉ thấy một cái chân vằn vện của con nhện. Nó dường như không thích chiếc
mũ len, liền bò xuống quãng giữa hai mắt tôi. Phần đầu tôi chỉ có hai mắt và
sống mũi lộ ra bên ngoài, mắt thấy con nhện tuyết sắp sửa bò xuống mặt, vạn bất
đắc dĩ, đành phải nghĩ cách đối phó con nhện tuyết trước, song lại không dám
dùng tay búng nó ra, bởi không có găng tay, e là sẽ trúng độc.
Trong lúc nguy kịch, mặc
xác con bạch hung có phát giác ra không, tôi liền ngẩng đầu, giơ trán nhằm
thẳng vào cây trụ đập nhẹ một cái. Một tiếng "bép" vang khẽ, con nhện
đã bị tôi đập vào cột nát bét. Tôi lập tức lắc đầu về một phía, hất xác con
nhện còn chưa kịp chảy độc tố ra ngoài sang một bên.
Song tiếng vang khẽ khàng
ấy vẫn thu hút sự chú ý của con dở hơi kia, đôi mắt nó lóe lên những ánh nhìn
lạnh lẽo, tức tốc xoay về phía cây trụ đỏ nơi tôi náu mình, từng bước từng bước
đi tới.
Tôi thầm chửi, mẹ kiếp hôm
nay gặp phải vận đen rồi, định bụng bảo Tuyền béo chuẩn bị sẵn sàng, sau khi
tôi đánh lạc hướng con vật ra chỗ khác, cậu ta sẽ bất ngờ lao ra, nhặt viên
gạch lớn dưới đất giáng cho nó một cú, song thằng Tuyền béo nấp sau cây trụ bên
kia như một thằng chết rồi, giờ phút này không hề thấy có phản ứng gì cả.
Tôi nghiến răng nghiến lợi,
trong lòng không ngừng chửi rủa, giờ thì đành phải chơi trò cũ, giở cái chiêu
ban nãy trêu thằng A Đông ra, đưa tay bấu lấy một miếng gỗ vụn trên thân trụ,
nhắm thẳng vào xác thằng A Đông ném qua, hy vọng có thể lái sự chú ý của con
vật kia đi chỗ khác.
Vì lo tiếng vang không đủ
lớn, tôi cố ý tìm lấy miếng gỗ tương đối to, vừa vặn ném trúng mặt thằng A
Đông, trong Phật đường tĩnh mịch, vang lên một tiếng "bốp". Con lông
trắng dở hơi kia quả nhiên nghe thấy động tĩnh, cảnh giác quay đầu lại nhìn.
Lúc này sự việc bất ngờ
nhất lại xảy ra, thằng A Đông vốn dĩ tưởng đã chết vì sợ rồi, đột nhiên bật lên
những tiếng ho sặc sụa, nằm thở hồng hộc dưới đất. Hóa ra thằng này hãy còn
sống, chỉ có điều vừa nãy kinh hãi quá độ, vả lại trên cao nguyên thiếu oxy,
thở không ra hơi, nên ngất lịm đi.
Quãng thời gian thằng A
Đông ngừng thở không quá lâu, chẳng qua trong khí quản bị tắc một hơi, bấy giờ
vẫn ở trong trạng thái hôn mê. Cái con quái vật vừa bò ra từ sau cánh cửa thấy
thằng A Đông vẫn còn sống, bất đồ giận dữ, gào rống liên hồi.
Còn chưa đợi tôi kịp hiểu
ra nó định làm trò gì, con vật đã cầm lấy một viên đá ngói, nhằm thẳng đầu
thằng A Đông đập dữ, máu me tức thời bắn ra tung tóe, nhưng con vật vẫn không
chịu thôi, mãi đến khi đập nát óc thằng A Đông nó mới chịu ngừng tay.
Sau đó nó búng búng móng
tay vào xác thằng A Đông, để xác định xem hắn ta chết thật chưa, sau đó thái độ
từ giận dữ chuyển sang vui mừng, phát ra một chuỗi tiếng cười quái đản, rồi
khom mình xuống, ôm chặt lấy cái xác, giật phăng cái đầu lâu vừa bị đập nát bét
ra, xé rách áo xống, miệng nhằm thẳng vào cổ cái xác, cắn cổ uống máu.
Tôi núp sau cây trụ mà thấy
rùng rợn toàn thân, cảnh tượng quả thực thảm quá, đặc biệt là trong di tích
thành cổ im lìm như chết này lại còn nghe tiếng răng gặm xương "rộp
rộp" vang lên không ngừng. Trước tôi từng thấy cảnh mèo bắt chuột sau đó nhai
ngấu nghiến, so với cái cảnh tượng trước mắt này cũng chẳng khác gì mấy.
Trời tạo ra oan nghiệt thì
còn có thể tha thứ, chứ người mà tạo ra oan nghiệt thì khó mà sống nổi. Thằng A
Đông ham hố pho tượng Phật mắt bạc, nếu không phải vậy thì cũng chưa chắc đã mở
cánh cửa sắt kia ra. Tuy hắn ta tự làm tự chịu, song vẫn khiến người ta cảm
thấy sự báo ứng này quá ư thảm khốc.
Tôi bỗng nhiên nhớ tới từng
bức bích họa miêu tả những cực hình dưới địa ngục trong đường nối từ thần điện
hộ pháp đến phía trước miếu Luân Hồi, trong đó có bức vẽ cảnh tượng tàn khốc
nơi ngục tối, một loài dã thú đầu mèo, thân thể gần giống con người, có đuôi,
đang gặm xé ăn thây xác của kẻ có tội. Còn nhớ lúc đó lạt ma bảo rằng đó là con
Balo 1 ăn tội lỗi của Luân Hồi tông. Luân Hồi tông đã tuyệt tích trên thế gian,
cho nên hậu thế cũng chẳng có cách nào phán đoán loài Balo ăn tội lỗi này là ma
đói hư cấu dưới địa ngục, hay là một loại dã thú có thực được cơ quan chấp pháp
tôn giáo huấn luyện nuôi dưỡng, dùng để trừng phạt phạm nhân?
Bức bích họa miêu tả cực
hình dưới địa ngục kia rất giống với những gì tôi nhìn thấy lúc này, rất có thể
con vật bò ra khỏi cánh cửa kia, chính là "kẻ hành hình gặm nhấm tội
lỗi" mà Luân Hồi tông gọi. Trốn trên cột trụ mãi cũng không phải cách hay,
chân tay dần dần tê cứng, đoán chừng chỉ chốc nữa thôi, chúng tôi sẽ phải tụt
xuống vì không thể kiên trì lâu hơn nữa, song nhất thời không có đối sách, đành
tạm thời kéo dài được phút nào hay phút ấy.
Tôi đang định vẫy tay ra
hiệu gọi Tuyền béo rút lui, thì con Balo đang xây lưng về phía chúng tôi đột
nhiên quay phắt đầu lại, hếch mũi hít liên hồi, dường như ngửi thấy mùi gì đó
dị thường, ngay lập tức liền trở nên cảnh giác.
Tôi vội co người lại náu
đi. Ánh trăng từ chóp miếu rớt xuống, soi chếch lên mình Tuyền béo, trán cậu ta
chảy vã mồ hôi, không ngớt chớp mắt về phía tôi, dường như có ý gì đó muốn nói,
tôi cũng chớp mắt với cậu ta, ý là hỏi xem cậu ta có ý gì, vừa nãy làm gì mà
như chết rồi thế.
Tuyền béo không dám ho he,
đành làm một động tác hết sức vô vọng, nhún nhẹ vai, cúi đầu nhìn xuống phía
dưới cột. Tôi men theo ánh mắt cậu ta cúi nhìn xuống, thấy trên thân trụ màu đỏ
có một vệt nước rõ lớn, liền lập tức chửi thầm :" Mẹ cái thằng, thế mà vẫn
vãi đái ra quần".
--------------------------------
1 Balo, loài ma đói hoặc tội nhân
trong truyền thuyết Tây Tạng.
Chương 9: Kế
Hoạch B
N ét mặt của Tuyền béo khoan khoái như trút bỏ được gánh nặng, tôi
nghĩ việc này cũng khó trách cậu ta, nhịn lâu như vậy, không vỡ bọng đái là còn
may rồi. Lại thấy Tuyền béo nháy nháy mắt với tôi, cái lối giao tiếp này của
hai chúng tôi, người ngoài nhìn không hiểu, chỉ có tôi mới hiểu được, cậu ta
định hỏi tôi nếu đã bị phát hiện rồi, thì giờ phải làm thế nào. Tôi đưa ngón
tay chỉ lên trên, tỏ ý bảo Tuyền béo trèo lên chỗ cao hơn nữa, leo lên thêm một
đoạn, đợi tín hiệu của tôi sẽ bất ngờ hành động.
Ngay sau đó tôi cũng đổi
góc ôm phía sau trụ của mình, con ma đói Balo đã theo mùi tìm đến. Tôi nấp sau
cây trụ nhìn thấy rất rõ, miệng con vật này toàn là những vết máu loang lổ, mặt
nó giống y như mặt con mèo, thậm chí trông hao hao con báo, cơ thể nó hơi giống
con người, duy chỉ có một điểm là không thể đứng thẳng lên mà đi lại.
Tôi âm thầm quan sát, cảm
thấy nó rất giống loài chuột xạ thường thấy ở Tây Tạng, song lại không phải
loài chuột xạ thông thường có hình dạng như con mèo đen, nó không những to hơn
nhiều, mà khắp mình cũng tuyền màu trắng. Ở trong nội địa, có truyền thuyết kể
rằng, có một số loài thú sống lâu, lông tóc cũng sẽ biến thành màu trắng giống
như loài người.
Song lúc này tôi chẳng còn
thời gian mà nghĩ ngợi nhiều nữa, con Balo trắng như một con ác quỷ đã tới dưới
chân trụ nơi Tuyền béo náu mình, chăm chú hít ngửi vết nước tiểu, nhưng do
Tuyền béo tè ra quần, cho nên mùi nước tiểu trên người cậu ta nặng hơn, con
Balo cảm thấy mùi bên trên đậm đặc hơn, liền định ngẩng đầu nhìn lên.
Tôi nghĩ bụng nếu con điên
này mà ngẩng đầu lên nhìn thấy Tuyền béo, vậy thì kế hoạch tấn công bất ngờ của
chúng tôi sẽ thất bại. Thế là tôi liền thò người ra khỏi cây trụ, bất thình
lình hét một tiếng về phía con Balo :" Này...! Chưa thấy đái ỉa bậy bao giờ
hả?"
Con Balo có lớp lông trắng
mịn bị tiếng động bất ngờ ấy làm cho giật bắn mình, liền quay ngoắt đầu lại,
dưới ánh trăng hai mắt nó như hai tia lửa điện. Tôi nghĩ bụng :" Mắt mày
sáng nhỉ, xem liệu có sáng bằng thứ này không?". Đoạn giơ chiếc đèn pin
mắt sói cầm trong tay lên, chùm sáng mạnh chiếu thẳng vào hai mắt con quái vật.
Đèn pin mắt sói ngoài việc có thể dùng để chiếu sáng, ngắm chuẩn ra, còn có một
đặc tính nổi bật nhất, đó là chiếu trong cự ly gần và chính diện có thể khiến
mắt thường bị lòa đi trong giây lát.
Một số loài động vật có đôi
mắt hết sức nhạy với nguồn sáng, chính nhờ thế mà trong đêm tối chúng mới có
thể nhìn rõ hoàn cảnh xung quanh, tuy nhiên cũng vì thế mà phản ứng của mắt khi
bị chùm sáng của đèn pin mắt sói chiếu thẳng trong cự ly gần càng mạnh hơn. Con
Balo bị luồng sáng rọi thẳng vào mắt, lập tức mất thị lực, phát ra những tiếng
kêu quái đản như tiếng chim kền kền già.
Chiêu này chỉ có thể sử
dụng một lần, không thể sử dụng lần hai, tôi thấy không thể bỏ mất thời cơ liền
gọi Tuyền béo :" Còn đợi gì nữa thế? Thả bom thịt mau!"
Tuyền béo nghe tôi phát tín
hiệu, liền nhắm mắt nhảy thẳng xuống, rắn rỏi đổ ập lên mình con Balo. Nếu
người thường mà dính phải cú này của Tuyền béo, thế nào ruột cũng sẽ hộc ra
khỏi mồm, song loài dã thú Balo này lại không hề hấn gì, vùng vẫy vài cái đã
chực bò dậy. Tuyền béo kêu lên :" Tư lệnh Nhất ơi, chiêu này của ta không
ăn thua, mả mẹ thằng này cứng cáp quá...". Chưa nói dứt lời, cậu ta đã bị
hất văng ra. Tuyền béo lộn mấy vòng, né tránh những chiếc móng sắc nhọn đang
điên cuồng vồ đến tới tấp.
Chúng tôi định nhân cơ hội
đôi mắt con vật tạm thời mất thị lực để tìm đường tháo chạy, song vị trí hiện
thời không tiện lắm, lối ra thông với thần điện hộ pháp đã bị con vật chặn lại,
mà nếu muốn ra khỏi vương thành Cổ Cách, chỉ có cách theo con đường đó xuống
núi thôi. Một lối thoát khác trong miếu Luân Hồi là bức tường đổ bị mưa gió xói
mòn, cao những mười mấy mét, trong lúc luống cuống chắc chắn không thể leo
xuống được. Nếu tiếp tục bị tấn công thế này, kể cả không có vũ khí, chúng tôi
cũng chẳng nề hà gì học theo năm tráng sĩ trên núi Lang Nha năm xưa, dùng đá mà
chiến đấu, song chỉ sợ làm như vậy không thể xử lý triệt để được con thú, đợi
khi mắt nó hồi phục lại, ắt sẽ lỡ mất thời cơ.
Tôi đá mắt quanh bốn phía,
trong bụng đã có kế sách, liền vẫy tay gọi Tuyền béo, chỉ vào cánh cửa sắt màu
đen trong mật động, đóng cánh cửa sắt lại, chặn nó ở phía ngoài trước đã.
Hai đứa tôi không dám ho he
nửa tiếng, khẽ khàng lẻn ra hướng mật động, nhưng lại quên mất một điều, con ma
đói Balo này tuy đã bị ánh sáng mạnh của đèn pin mắt sói làm cho lóa mắt, song
khứu giác vẫn hết sức nhạy bén, mùi nước tiểu khai hoắc trên người Tuyền béo
gần như đã trở thành thiết bị định vị chúng tôi.
Con Balo bấy giờ đã hồi
phục lại sau cơn hoảng loạn vì bị lóa mắt, thấy người sống là tức tối điên
cuồng, liền lao ngay về phía Tuyền béo. Tôi và Tuyền béo thấy tình hình không
khả quan, bèn sải bước bỏ chạy, song vì chạy ngược sáng, phía trước tối om như
mực, tôi vấp phải một đoạn tường đổ nát, ngã lộn cổ xuống, vội chống tay xuống
đất, đình bò dậy chạy tiếp, thì lại cảm thấy dưới tay phải như có thứ gì đó đầy
lông, thuận tay liền tóm lên xem, thì ra là một con chuột xạ đen.
Tuyền béo hớt ha hớt hải
chạy phía sau tôi, tôi ngã lăn ra đất, cũng khiến cậu ta vấp phải, cả người
loạng choạng. Tôi túm lấy cổ áo của Tuyền béo, gắng đứng dậy, lại thấy sau lưng
lóe lên hai tia sáng lạnh lẽo, mắt con Balo đã hồi phục, tôi liền vung tay ném
luôn con chuột xạ vào nó, con quái vật bắt lấy, năm đầu ngón tay siết lại, tức
thời bóp chết con chuột, bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến.
Tôi nghĩ cái ngữ còn chưa
rõ là cương thi hay dã thú này, đại khái có một thói quen là không ăn vật còn
sống, nhất định phải giết chết sau đó mới ăn. Khu di tích vương thành tuy có vẻ
tĩnh mịch rặt một mùi chết chóc nhưng lại ẩn náu vô số sinh vật hoạt động về
đêm hoặc trong chỗ tối tăm như chuột xạ, nhện tuyết. Ban nãy nếu chạm vào con
nhện, có khi đã trúng độc rồi. Hang động phía sau cửa sắt đen không biết sâu
hay không, song lúc này nó đã trở thành lối thoát duy nhất, chỉ còn cách bạo
dạn bước vào đó đã rồi hẵng hay.
Tôi và Tuyền béo rút vào
phía trong cánh cửa, cũng chẳng để ý xem không gian phía sau như thế nào, đã
cuống quýt giở ngược tay đóng cửa sắt lại. Tuyền béo thấy kết cấu cửa sắt, lập
tức kêu khổ ầm ĩ, cửa này đóng mở phía ngoài, bên trong không có then chốt gì,
vả lại cũng không thể lấy thân mình chặn cửa lại được, chỉ có thể kéo cửa vào
trong,có sức cũng không giở ra hết được.
Đang tiếng qua tiếng lại,
cửa sắt bỗng bị một luồng lực rất lớn giật mạnh ra phía ngoài, tôi và Tuyền béo
dồn hết sức giữ chặt hai cánh cửa. Tuyền béo nói :" Chiêu này cũng không
xong đâu, tư lệnh Nhất ơi, cậu có kế hoạch phòng bị khẩn cấp nào không?"
Tôi nói :" Cũng có kế
hoạch B đấy, nếu như đã không tháo chạy được ra ngoài, cũng chẳng chặn được nó,
thì anh em ta quyết một phen sống mái với con quái này đi".
Tuyền béo nói :" Tôi
bảo rồi mà, ban nãy nhân lúc nó không nhìn thấy, phải ra tay luôn rồi chứ, vậy
giờ tôi thả tay cho nó lao vào, anh em ta xông ra, mất đầu cũng chỉ như việc
gió thổi bay mũ, ta cứ lao ra quyết sống mái với nó ...", nói đoạn định
buông tay mở cửa.
Tôi vội ngăn cậu ta lại
:" Cậu thật thà như thế từ bao giờ vậy? Tôi cũng chỉ nói thế thôi mà. Ta
phải giữ sức, không thể rắn với nó được". Tôi đá chân vào hai dây xích sắt
trên mặt đất lúc nãy tiện tay lôi vào từ lúc vừa vào cửa. Hai dây xích sắt vốn
khóa liền với tượng Phật mắt bạc, dùng cố định cửa sắt, lúc này đều bị tôi kéo
vào, coi như là có thêm hai điểm vận lực vào để đóng chặt cửa sắt.
Song tôi chưa hề nghĩ đến
việc đóng cửa sắt từ bên trong để chặn con Balo ở phía ngoài, cánh cửa sắt này
chính là một cái gọng kềm sẵn có. Tôi bảo Tuyền béo lát nữa để chừa ra một khe
hở, bất kể con vật kia thò bộ phận nào vào, cậu quấn dây xích quanh eo, rồi cứ
việc dốc sức kéo mạnh về sau, không cần phải nhẹ tay nể nang làm gì, kẹp chết
nó đi.
Con Balo bên ngoài không
cho chúng tôi thời gian bàn bạc cụ thể, móng vuốt của nó đã lách vào khe cửa,
nạy cho rộng thêm ra, rồi thò đầu và một cánh tay vào.
Thời cơ đã chín muồi, tôi
và Tuyền béo cùng lúc hét lên một tiếng :" Hò dô ta nào!", rồi dốc
toàn bộ sức lực, căng cứng cơ bắp, kéo mạnh dây xích, khiến cửa sắt lập tức kẹp
chặt lại. Tiếng gân cốt bị kẹp gãy kêu lên răng rắc, con Balo đau đớn định giãy
giụa thoát ra mà không được, cổ nó bị kẹp chặt, dẫu có sức ngàn cân cũng khó mà
thi triển được, nhưng nó vẫn không cam tâm, một tay vẫn không ngừng cào cấu cửa
sắt, còn nửa cánh tay thò vào trong cửa, vẫn hươ loạn xị ngậu về phía chúng tôi.
Để có thể dốc hết sức,
Tuyền béo ôm lấy tượng Phật mắt bạc, quấn dây xích sắt quanh bụng, song như vậy
thì khoảng cách lại bị rút ngắn, khiến móng vuốt của con Balo vươn được tới
bụng Tuyền béo, chỉ cách độ mấy milimet thôi là nó rạch được bụng Tuyền béo ra.
Tôi cuống quýt móc bật lửa ra đốt cánh tay con quái. Con Balo bị lửa đốt, đau
đớn vô cùng, song khổ nỗi không thể vùng vẫy được, chỉ còn cách rống lên một
cách tuyệt vọng.
Tôi và Tuyền béo từ nhỏ đã
được gọi là Bạt Mạng Tam Lang 1, lúc này bất giác đã dấy lên bản năng chiến đấu
nguyên thủy. Đối xử với kẻ địch phải tàn khốc lạnh lùng như mùa đông, đối
phương càng kêu la thảm thiết, chúng tôi lại càng máu me hơn. Đến khi bật lửa
hết sạch gas, con Balo đã bị nướng khét; đầu, nửa vai và cánh tay con Balo thò
vào trong cửa, gần như đã bị kẹp đứt đôi, chết đến không thể chết hơn được nữa,
chúng tôi mới chịu thôi.
Tôi và Tuyền béo vừa nãy đã
dốc hết sức, làm như vậy ở vùng cao thế này hết sức nguy hiểm, cảm giác như hít
thở bắt đầu trở nên khó khăn. Hai chúng tôi không dám di chuyển nửa bước, liền
nằm luôn xuống đất, vất vả thở hồng hộc.
Tôi nằm dưới đất, không
ngửi thấy có mùi thối rữa, mật động này nếu quả thực là địa ngục của Luân Hồi
tông thì bọn tôi cứ mau chóng chuồn đi là hơn, có trời mới biết ở đây còn thứ
quái quỷ gì nữa hay không. Nhưng giờ đã sức cùng lực kiệt rồi, nếu trong tình
trạng hít thở khó khăn mà tùy tiện đi lại, e phản ứng cao nguyên sẽ rất ghê
gớm, vậy là đành phải dùng một tay bật đèn pin soi xung quanh.
Mặt đất bên trong cửa sắt
chất đầy xương trắng, có xương người, xương động vật, trên vách tường lỗ chỗ
nhiều hang động, to nhỏ khác nhau, hang nhỏ có thể cho những loài động vật nhỏ
như chuột xạ đi qua, còn hang to thì đủ cho một con gấu ngựa Tây Tạng chui vào,
song vị trí đều rất cao, người thường khó mà leo lên được. Thẳng trên đỉnh đầu
tôi cũng có một hang lớn, cửa hang tròn xoe, giống như một cái giếng, có khả
năng là hang này thông tói vương cung trên đỉnh núi, kẻ nào mạo phạm vương
quyền thì sẽ bị vệ binh ném từ bên trên xuống.
Tôi đang quan sát địa hình,
chợt nghe thấy Tuyền béo nằm bên cạnh nói :" Nhất này, cậu xem đây là da
gì vậy?"
Tôi ngạc nhiên hỏi :"
Da? Da gì? Da của ai?". Liếc mắt nhìn sang, thấy Tuyền
béo đang giật ra một miếng da lông đen sì bên dưới chỗ cậu ta nằm. Tôi đón lấy
xem thử, thấy không giống như da gấu ngựa Tây Tạng, cũng không giống da người,
có quá nhiều lông, chắc là da của người rừng?
Tiện tay lắc nhẹ, từ trong đống da lông ấy rơi ra một mảnh xương trông
giống xương sọ người, tựa như một nửa chiếc đầu lâu, song mảnh xương dày đến kỳ
lạ, không thể có người xương dày như vậy được, đoạn lấy tay miết, cảm giác rất
mềm, lại không giống xương lắm. Tôi và Tuyền béo càng nhìn càng thấy kỳ quái,
liền soi đèn pin lên, thấy trên mảnh xương có khắc chi chít chữ, tuy không phải
là loại chữ quái đản kiểu như long cốt thiên thư, song chúng tôi vẫn không thể
đọc ra được chữ nào.
Vòm miệng của cái xương sọ này to hơn miệng người thường rất nhiều, tôi xem
một lúc lâu, cảm giác đây rất có thể là một chiếc mặt nạ, nhưng sao lại dùng
mảnh da còn cả lông của người rừng bọc lại, vứt vào trong địa ngục sau cánh cửa
sắt này? Điều này thì tôi và Tuyền béo không sao hiểu nổi. Trông túm lông tóc
kia có vết tích của bàn tay con người, cũng chẳng rõ có bán được giá hay không.
Chúng tôi thở đều một lúc, thấy góc phòng chuột xạ con chạy loăng quăng mỗi
lúc một nhiều, không dám nấn ná lại lâu hơn, bèn tức tốc rời khỏi cái nơi đầy
rẫy xương xẩu này. Cánh cửa sắt vốn dĩ không phải dùng để ngăn chặn con Balo,
mà là đề phòng trường hợp tội phạm rơi từ trên núi xuống không chết sẽ chạy ra
khỏi cửa. Mấy cái hang lớn chếch phía trong đỉnh hang mới là chỗ cho loài ác
thú kia ra vào, nếu lại có hai con nữa nhảy xuống, thì thật không dễ đối phó
chút nào.
Tuyền béo dùng mảnh da lông người rừng gói chiếc mặt nạ kỳ quái lại kẹp vào
dưới nách, rồi cùng với tôi lần lượt leo ra khỏi hang động bí mật. Lúc này bên
ngoài trăng sáng lơ lửng giữa bầu không, vừa đúng nửa đêm, mặt đất trong miếu
Luân Hồi loang lổ vết máu, rải rác tứ chi bị cắn đứt còn thừa lại của thằng A
Đông, cảnh tượng thực vô cùng thảm khốc.
Tôi bàn bạc với Tuyền béo, bất kể thế nào thì cũng đã cùng nhau chung đường
tới đây, chớ để hắn chết trơ xác thế này, nhưng đào hố chôn thì phiền phức quá,
thôi thì cứ nhặt những phần còn lại của hắn, đem vứt vào trong hang động bí mật
vậy.
Hai chúng tôi mỗi người một tay một chân gom nhặt những gì còn lại của A
Đông vứt vào bên trong cánh cửa sắt đen, sau đó đặt lại pho tượng Phật mắt bạc
về chỗ cũ. Thó trộm cái thứ này, chắc chắn sẽ gặp báo ứng, cứ để nó trong ấy
thì hơn. Thứ nữa liền đóng cánh cửa sắt, dùng đá và gỗ vụn lấp cho chặt, rồi
mới men theo đường cũ trở về.
Trên đường về, Tuyền béo vẫn một mực thở vắn than dài, hết sức thông cảm
cho số mệnh bi thảm của A Đông :" Tôi phát hiện ra một chân lý thế này
Nhất ạ, anh hùng hảo hán có phải ai cũng có thể làm được đâu. Lời của cậu vẫn
có lý thật, càng vào những lúc quyết định, càng phải dám giở các ngón tiểu
nhân".
Tôi nói với Tuyền béo :" Cũng không thể cứ giở trò tiểu nhân mãi được,
lão mù có câu nói rất hay, sống ở đời có rất nhiều tai bay vạ gió, giang hồ lắm
mối hiểm nguy, song cũng không chỉ toàn sóng gió, nhưng cái chính là khi đối
mặt với những mối nguy hiểm tính chất khác nhau, chúng ta phải áp dụng các đối
sách khác nhau. Từ xưa cổ nhân đã nói, đánh vào thành trì là hạ sách, đánh vào
lòng người mới là thượng sách, về sau chúng ta nên đẩy mạnh công tác tuyên
truyền tư tưởng, gắng hóa giải mối thù hằn ngay từ trong tâm lý địch ..."
Chúng tôi vừa đi vừa chuyện phiếm, đang lúc ba hoa không đâu, đột nhiên lại
nghe thấy phía sau có tiếng bước chân, dường như có người theo đuôi chúng tôi,
tôi bắt đầu cảnh giác, liền lập tức dừng câu chuyện, ngoảnh đầu lại nhìn phía
sau. Dải núi rừng tĩnh mịch, dưới ánh trăng soi, in cái bóng đen sì ngả xuống
mặt đất, dáng dấp tựa như mặt mũi của con mãnh thú đang há miệng nhe nanh. Cơn
gió giận dữ gầm vang trên cao nguyên hoang lạnh, gió đã nổi lên, có lẽ vừa nãy
chỉ là ảo giác.
Tuy không phát hiện ra điều gì dị thường, song trong lòng tôi vẫn lo nơm
nớp, cứ cảm thấy có gì đó không ổn, bèn cùng Tuyền béo rảo nhanh bước chân, vội
vàng chạy về chòi gác nơi đoàn thám hiểm ngủ lại qua đêm. Nhân chưa có ai phát
giác, chúng tôi liền chui vào trong túi ngủ đánh một giấc say sưa.
Ngay sớm hôm sau, Minh Thúc đã hỏi chúng tôi xem có thấy thằng bố láo A
Đông đâu không, tôi và Tuyền béo đều lắc đầu lia lịa, nói không thấy. Tôi bảo
chắc thằng A Đông ấy thấy khuân vác bình dưỡng khí vất vả quá, không chịu nổi
cực nhọc đã chuồn về trước rồi.
Tuyền béo giả vờ còn giỏi hơn :" A Đông á? Không phải hắn ở lại Bắc
Kinh sao? Sao lại ở đây nhỉ? Bác lẩm cẩm rồi à? Hay thiếu oxy? Mau đeo ống
dưỡng khí vào đi!"
Minh Thúc đành bảo Peter Hoàng đi tìm xung quanh xem, song cuối cùng vẫn
không có kết quả gì, bèn không hỏi lại nữa, dù sao cũng chỉ là thằng lăng xăng,
hắn sống hay chết, hoàn toàn chẳng liên quan gì đến đại cuộc.
Hôm đó, tay hướng đạo thông báo với chúng tôi hôm nay không thể đi được,
cuối đêm qua, trời nổi gió suốt, xem chừng hôm nay chắc chắn sẽ có mưa lớn. Đoàn
chúng ta lại có quá nhiều bò Yak, bò Yak trên cao nguyên không sợ sói, cũng
không sợ gấu ngựa, nhưng lại sợ nhất sấm, dọc đường mà gặp sấm chớp, chắc chắn
sẽ chạy loạn cả lên, thôi đành nán lại một ngày, đợi mai hẵng xuất phát quay
lại Semge zangbo.
Chúng tôi nghĩ, dẫu sao cũng đã biết được vị trí đại khái của khe Kelamer
núi Côn Luân, dẫu có tới được đấy thì tạm thời cũng chẳng thể đi vào trong núi,
bởi đồ đạc và trang thiết bị đều chưa tới, ít nhất cũng phải nửa tháng nữa tất
cả mới chuẩn bị xong xuôi được. Vả lại từ vùng A Lý đến núi Côn Luân, dường như
phải băng qua cả Tây Tạng, đường xá xa xôi, không nhất thiết phải tranh thủ một
hai ngày làm gì, thế là cả đoàn nán lại trong di tích thành lũy. Quả nhiên chưa
đến trưa, trên trời mây đen đã kéo đến dày đặc, cuối cùng cũng trút mưa xuống.
Đoàn người uống trà bơ trong tòa lũy cổ đợi cho mưa ngớt, trời mưa, khí áp
càng thấp, A Hương cảm thấy hít thở khó khăn, cứ ở phòng trong ngủ suốt, những
người còn lại bàn bạc kế hoạch hành động tiếp theo. Sau đó Tuyền béo kể lại
cuộc đời đổ đấu hoành tráng của mình cho bọn Minh Thúc nghe, khiến cả đám người
đó đều rùng mình khiếp sợ.
Tôi nhân cơ hội đó gọi Thiết bổng Lạt ma và Shirley Dương vào trong buồng
đá nơi tôi ngủ, lấy miếng da lông người rừng cùng với chiếc mặt nạ bồi giấy hồ
đưa cho hai người họ xem, đồng thời kể vắn tắt câu chuyện tối hôm qua. Song
nhắc nhở họ rằng, tốt nhất không nói cho Minh Thúc biết về cái chết của A Đông
để khỏi hiểu lầm, lão ta có thể sẽ nghĩ tôi và Tuyền béo lập âm mưu cướp của
rồi giết thằng A Đông, cho nên chớ tự mình chuốc lấy phiền phức làm gì.
Shirley Dương nghe xong hơi bực mình :" Các anh cũng to gan lớn mật
thật đấy, tay không tấc sắt, đêm hôm lại dám vào trong thành cổ bày trò dọa
nạt, uổng cho anh đã từng làm trung úy mấy năm, thế mà chẳng có chút chín chắn
gì hết, nếu xảy ra điều gì bất trắc thật thì biết tính sao?"
Tôi nói với Shirley Dương :" Anh hùng không nhắc chuyện năm xưa, nhớ
buổi vàng son ánh nguyệt mờ. Việc tối hôm qua và cả những việc trước kia đều đã
trở thành lớp bọt sóng trôi khuất trên dòng sông lịch sử rồi, chúng ta không
nên quẩn quanh với cái quá khứ đã tồn tại khách quan ấy nữa. Cô xem mấy cái chữ
trên chiếc mặt nạ này xem, có biết chữ nào không? Đây là vật duy nhất có chữ
viết trong miếu Luân Hồi đấy, Luân Hồi tông và tín ngưỡng của Ma quốc có rất
nhiều điểm tương đồng,nói không chừng lại có thông tin gì có giá trị trong đây
cũng nên".
Shirley Dương bó tay nói :" Anh mồm mép lắm, có lẽ anh không nên đi bộ
đội, mà nên làm luật sư, hay chính trị gia gì đó thì hơn". Nói đoạn, cô
đón lấy chiếc mặt nạ xem, rồi lấy làm lạ nói :" Đây là Kinh Thánh viết
bằng chữ Bồ Đào Nha".
Ngoài tinh thông quyết chú Tầm long ra, tôi còn có một sở trường nữa, đó là
nếu như người khác hỏi những vấn đề tôi không muốn trả lời, tôi sẽ giả vờ như
không nghe thấy. Thế là tôi liền hỏi Shirley Dương :" Cô biết cả tiếng Bồ
Đào Nha cơ à? Tôi bảo rồi mà, mấy cái chữ này sao trông lại giống mấy chùm nho
thế kia chứ" 2.
Shirley Dương lắc đầu nói :" Chỉ đọc hiểu được một ít thôi, nhưng Kinh
Thánh thì tôi thuộc lòng rồi, đây chắc chắn là Kinh Thánh, không thể nhầm
được".
Cộng thêm lạt ma ở bên cạnh trợ giúp, cuối cùng có thể đoán định, mặt nạ
này là một loại hình tượng ma quỷ của Luân Hồi tông. Dùng Kinh Thánh để chế ra
chiếc mặt nạ khủng khiếp thế này, e là có liên quan đến việc xung đột tôn giáo
ở Tây Tạng trước đây. Da và lông của người rừng trên Himalaya là thứ của báu mà
quý tộc Tây Tạng cổ khi xưa yêu thích, nghe nói có tác dụng giữ nhiệt, nếu đem
thi thể gói vào bên trong, còn có thể chống mục rữa. Khi các vương tôn quý tộc
đi săn, thường thích khoác sau lưng làm áo choàng, có thể giấu mùi người trong
gió; còn có thuyết khác nói rằng, loại da còn nguyên lông này có thể gói chặt
linh hồn, khiến nó vĩnh viễn không được giải thoát.
Shirley Dương muốn xem trong chiếc mặt nạ chứa đựng huyền cơ gì, bóc từng
lớp giấy khô ra, liền phát hiện trên những trang giấy có chép Kinh Thánh này
lại có vẽ vô số đường nét ngoằn ngoèo, hóa ra là một tấm bản đồ, có mạch núi
đường sông, lại có cả thành lũy lầu tháp, nhưng không biết là bản đồ nơi nào.
Do không có bất kỳ cứ liệu nào khác, chỉ dựa vào địa hình trong bản đồ để
suy đoán thì đây có thể là bản đồ của vương triều Tượng Hùng cổ xưa ở vùng đất
Đại Bàng, cũng có thể là bản đồ của Phượng Hoàng thần cung ở núi Côn Luân, bởi
vương triều Cổ Cách đã diệt vong có mối liên hệ rất chặt chẽ với hai nơi này,
rất có thể họ còn giữ lại thông tin về hai di tích cổ đại ấy. Có một người Tây
nào đó đã chép trộm, chuẩn bị đi tìm kho báu, hoặc giả làm gì đó khác, song
chưa kịp mang ra, thì gặp phải tai họa bị ném xuống ngục cho con Balo ăn thịt,
còn những trang Kinh Thánh có bản đồ vẽ trộm thì bị bồi thành chiếc mặt nạ ác
quỷ, dùng da người rừng bọc lại, cùng ném xuống địa ngục. Song những sự việc cụ
thể bên trong, chúng tôi không thể suy đoán được, tóm lại tấm bản đồ với diện
mạo thay đổi hoàn toàn này ắt có giá trị nhất định của nó.
Nhân lúc Shirley Dương đang bận phục chế tấm bản đồ, tôi ra ngoài rót cốc
trà bơ uống. Trời mưa đã nhỏ hạt đi nhiều, nhưng sấm chớp vẫn đang đùng đùng,
tựa hồ còn ủ một cơn dông lớn hơn nữa, tối sầm sì như đêm, ngày mai liệu trời
có hửng lên hay không cũng chưa biết chắc. Tuyền béo ở buồng ngoài, đang ngồi
bên đống lửa cao hứng phét lác, Minh Thúc, Peter Hoàng, Hàn Thục Na, và cả tay
hướng đạo tên Zhaxi, có nghĩa là may mắn, đều há hốc mồm ngồi bên cạnh chăm chú
lắng nghe.
Chỉ nghe cậu ta nói văng cả nước bọt :" Tuyền béo tôi đây xé phăng cái
bánh tông già trong cỗ quan tài lớn thành tám mảnh, đầu đem chôn rìa đường,
chân tay lần lượt chôn ở Đông sơn và Tây sơn, còn lại khúc thân, thì đá một
phát cho bay xuống sông".
Tuyền béo nói với Peter Hoàng, chính là cái vị thân vương già gì ấy ở nước
cậu, lại đúng lúc đó tới Trung Quốc chúng tôi, khắp đường đâu đâu cũng có đội
kèn trống hoan nghênh. Bộ Ngoại giao cứ nằng nặc mời tôi đi gặp ông ấy, mà tôi
thì chẳng thích, sợ chỗ ồn ào mà, vậy là đành phải lánh về dưới quê, tìm được
căn nhà hung lắm, nghe nói có đến mười bảy người chết trong ấy rồi cơ đấy. Cái
tính của Tuyền béo tôi đây là thế, không tin mấy thứ đó, âm trạch hung trạch
tôi đây vẫn ở như thường hết. Đến đêm bắt đầu ngồi đếm lại số minh khí đã mò
được từ cái bánh tông già kia, cộp cộp cộp ... vừa ngồi đếm, bác đoán xem thế
nào?
Minh Thúc lắc đầu :" Có lẫn không thế, chú không nói cho chúng tôi,
thì sao chúng tôi đoán được? Mà chú rốt cuộc vơ được bao nhiêu minh khí?"
Tuyền béo nói :" Thôi khỏi phải nhắc, lại còn minh khí gì nữa, vừa đếm
được một nửa, cửa phòng bị đẩy bật ra, bên ngoài cứ sấm nổ đùng đùng ấy, cửa
phòng cứ thế tự mở, từ bên ngoài lăn vào một thứ, chính là cái đầu người bị tôi
chôn ở rìa sông ấy".
Bọn Minh Thúc rỗi hơi ngồi nghe Tuyền béo phét lác, tuy biết rõ là cậu ta
đang nói nhăng nói cuội, nhưng bấy giờ tiếng sấm ngoài trời đang nổ liên hồi,
trong tòa lũy cổ hoang phế lại âm u tăm tối, thành thử ai nấy đều căng thẳng sợ
hãi.
Tôi thấy buồn cười, nghĩ bụng thằng béo này cũng hay hớm thật, cứ bốc phét
đi, tốt nhất là nạt cho Minh Thúc tái phát bệnh tim ra, chúng ta sẽ có cớ không
dắt lũ bâu nhâu này đến Kelamer tìm Long đỉnh nữa.
Tôi bước đến bên bình trà,
vừa nhấc bát lên định rót, bỗng nghe thấy tiếng hét kinh hãi của con gái, hình
như là A Hương, chẳng phải cô bé đang ngủ sao? Tất cả mọi người trong phòng đều
đứng bật dậy, ngay cả Thiết bổng Lạt ma và Shirley Dương cũng bước ra.
Mọi người lo A Hương xảy ra
chuyện gì, đang định vào xem cô bé thế nào thì thấy A Hương chân đất chạy ra,
gục đầu vào lòng Minh Thúc. Lão vội an ủi :" Con ngoan đừng sợ, xảy ra
chuyện gì hả con?"
A Hương trợn trừng đôi mắt
vô hồn, nhìn mọi người trong phòng một lượt, rồi nói với lão :" Ba ơi, con
sợ lắm, con thấy A Đông máu me đầy người, cứ đi lại dật dờ trong căn phòng này
mãi".
Người khác có khi không
thấy gì, nhưng tôi, Tuyền béo và mấy người biết A Đông đã chết, đều cảm thấy
lạnh ớn sống lưng. Lúc này Thiết bổng Lạt ma bước lên phía trước nói :"
Hắn đã thành 'thân trung ấm' rồi, phải mau mau làm lễ độ vong, bằng không hắn
sẽ hại chết những người sống ở đây".
Thiết bổng Lạt ma nói
"thân trung ấm" không phải là oan hồn, nhưng lại rất giống oan hồn.
Mật tông cho rằng, một người sau khi chết, khoảng thời gian từ đó cho đến khi
được đầu thai, trạng thái linh hồn gọi là "trung ấm".
Lạt ma hỏi A Hương, hiện
giờ có thể nhìn thấy "thân trung ấm" đang ở đâu không?
A Hương run rẩy giơ ngón
tay, mọi người đều lùi lại một bước theo phản xạ, thấy ngón tay cô bé chỉ thẳng
vào Thiết bổng Lạt ma. --------------------------------
1 Bạt Mạng Tam Lang: tên hiệu của
Thạch Tú, một trong 108 vị anh hùng Lương Sơn. 2 Bồ đào trong tiếng Trung nghĩa
là quả nho.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét