Chương 37:
Phòng cấm
Cánh cửa sắt số “0” bị
sức mạnh khổng lồ bên trong căn hầm đất làm cho bật mở tung ra, phía sau cánh
cửa dường như có cả một tòa núi đang rùng mình trỗi dậy. Những cái xác thối tôi
và Tuyền béo gặp trong đó tuy rất khỏe, nhưng hành động chậm chạp đờ đẫn, chỉ
với sức của những cái xác đầy giòi bọ ấy thì tuyệt đối không thể gây ra động
tĩnh lớn như vậy được. Bên trong căn hầm thần bí chắc chắn còn chôn giấu thứ gì
đó không tầm thường.
Nhưng chúng tôi không
thể nào tiếp tục chần chừ trước cánh cửa sắt này mà đợi xem bên trong có thứ gì
bò ra được. Tôi thấy cách dựa vào cửa sắt để phòng thủ đã không ổn, liền vội
bảo Tuyền béo cõng Đinh Tư Điềm hai chân mềm nhũn lên, bốn người cố nhịn đau
chạy rút ra phía bên ngoài. Tôi ngửi thấy mùi thối sau lưng xộc vào mũi, trong
lúc luống cuống vẫn giơ đèn công binh ngoảnh đầu lại nhìn một cái. Trong khoảnh
khắc đó, chỉ thấy bên trong cửa sắt đã vươn ra vô số những cái xác trắng ởn.
Những xác chết này dường như bị một loài thực vật nào đó quấn chặt, toàn bộ
liền thành một thể, đang nhích dần từng chút từng chút một bò ra phía ngoài lối
đi.
Giữa đám xác chết trắng
nhợt nhạt này chen lẫn vô số nhánh rễ thực vật, muôn ngàn sợi rễ chằng chịt bám
đầy bùn đất và giòi bọ nhung nhúc, trông tởm vô cùng. Tôi thầm kinh hãi, trong
căn hầm đó gặp phải một cái xác rữa còn tưởng là xác bị thi biến, nhưng dùng
phương pháp cổ xưa là trừng mắt lên nhìn lại không khắc chế được nó. Lúc ấy tôi
đã bắt đầu ngờ rằng nó không phải là cương thi, nhưng rốt cuộc là cái gì thì
chịu không phán đoán được. Giờ ngoảnh đầu lại nhìn, liền phát hiện tất cả những
cái xác ấy đều như sinh trưởng trên thân rễ màu trắng của một loài thực vật gì
đó. Cái thứ trăng trắng ánh lên sắc vàng ấy không ngờ lại giống như một cây
nhân sâm khổng lồ, nửa trên thoạt trông như một bà già, mặt mũi nhăn nheo, thân
hình phì nộn, nửa dưới thì giống như cây nhân sâm, toàn bộ là những cái rễ tua
tủa, dài có ngắn có, sợi rễ nào cũng đầy gai cứng tua tủa. Mấy chục cái xác
chết kia đều dính chặt với bộ rễ ấy của nó. Thật đúng là có trời mới biết đám
người Nhật kia đã nuôi cái thứ quái quỷ gì trong này nữa.
Nhưng cho dù là nhân
sâm nghìn năm cũng không thể nào to thế này được, mà nếu đây đúng là nhân sâm
vạn năm nghìn năm, thì cũng nhất định là yêu tinh biến ra rồi. Tuyền béo cũng
ngoảnh đầu lại nhìn thấy cái thứ đó, liền kinh ngạc thốt lên: “Nhất ơi, cậu mau
xem sao trên mấy cái xác chết lại mọc ra củ cải thế nhỉ?” Tôi vừa đỡ lão Dương
Bì guồng chân chạy nhanh vừa gắt lên với cậu ta: “Mắt cậu làm sao thế, nhìn kỹ
lại xem, đấy là một cây nhân sâm to tướng mọc ra một đống xác chết, không phải
trên xác chết mọc ra củ cải, có còn rượu của người Nga đấy không? Mau ném ra
một chai ngăn nó lại đi...”
Khốn nỗi vừa nãy chạy
vội chạy vàng, ai nấy đều hoảng loạn nên đã bỏ cái bao đựng đồ vơ vét được
trong căn phòng của người Nga kia ở chỗ gần cửa sắt rồi, giờ chẳng còn cách nào
quay trở lại. Chúng tôi chỉ còn biết chạy cho mau, nhưng cả bốn người đều đã
mệt mỏi cực độ, gót chân như buộc thêm chì, trong lòng nóng như lửa đốt, mà đôi
chân sống chết thế nào cũng không chịu nhấc lên nữa. Trong khi đó, cái cây kỳ
hình quái dạng mọc nhung nhúc xác chết đang thối rữa kia mỗi lúc một nhích đến
gần hơn, chỉ nghe sau lưng vang lên những tiếng rễ cây, vỏ cây ma sát với tường
xi măng, mùi tanh tưởi thối hoắc xộc lên cơ hồ muốn làm người ta ngất xỉu.
Trong hành lang ngầm
dưới lòng đất này có vô số cánh cửa, nhưng đa phần đều bị khóa chặt, không thể
mở ra được. Chúng tôi đang khi hốt hoảng, chẳng kịp chọn lựa, thấy ở chỗ rẽ có
một cánh cửa sắt chưa đóng, bèn vội vàng dìu đỡ nhau đạp cửa chạy vào bên
trong, nhưng đã muộn mất nửa bước, chưa kịp đóng cửa thì một cái xúc tu của
loài thực vật tựa như nhân sâm kia đã thọc vào. Tuyền béo đang định sập cửa
lại, không ngờ liền bị mấy cái xác chết trên sợi rễ đó quấn chặt lấy.
Tôi và lão Dương Bì
cũng đang dồn hết sức chắn cửa, căn bản không thể rảnh tay cứu cậu ta được. Lúc
này một cánh tay và hai cái chân Tuyền béo đã bị bó chặt, chỉ còn lại một cánh
tay hoạt động được. Cậu ta vung đao lên chặt đứt đoạn rễ ấy, một thứ chất dịch
hôi thối đen đặc như mực bắn tóe lên khắp cả người. Cây yêu sâm bị chặt rễ, tựa
hồ cũng biết đau đớn, rụt mạnh về phía sau một cái. Tôi và lão Dương Bì liền
thừa cơ đẩy mạnh, đóng chặt cửa sắt lại. Khóa của cánh cửa sắt này vì quá lâu
không sử dụng nên đã mất tác dụng, tôi vội kéo một cái ghế gần đấy chặn vào.
Phía bên ngoài, tiếng móng tay quờ quạng vẫn vang lên không ngớt, chốc chốc,
cánh cửa sắt lại phải hứng chịu một cú thúc mạnh.
Mấy người bọn tôi dựa
lưng vào cửa, tim đập thình thịch thình thịch, trong đầu chỉ còn lại một ý nghĩ
duy nhất: “Mao chủ tịch phù hộ, mong rằng cánh cửa sắt với bức tường này đủ
chắc chắn kiên cố, đừng có để quái vật ấy phá được.” Tiếng động bên ngoài vẫn
vang lên ầm ầm bên tai, nhưng căn hầm này cũng được xây dựng theo tiêu chuẩn căn
cứ quân sự kiên cố, đạn pháo bắn vào chưa chắc đã làm sao, chúng tôi rút vào
trong đây, coi như cũng được an toàn tạm thời rồi.
Tuyền béo vội vàng sờ
soạng khắp người mình, thấy phụ tùng linh kiện đủ cả, bấy giờ mới thở phào một
tiếng, nhìn lại đoạn rễ cây bị chặt đứt kia, thấy dài hơn hai mét, đường kính
to như miệng bát ô tô, chỗ bị đao chém chảy ra rất nhiều chất lỏng dinh dính
hôi thối, tanh tưởi dị thường.
Tuy đã bị chặt đứt,
nhưng đoạn rễ cây ấy vẫn không ngừng giãy giụa, tựa như đuôi con thạch sùng.
Thế nhưng ba cái xác người thối rữa bám trên ấy thì hoàn toàn không còn dấu vết
gì của sự sống, trong hốc mắt chảy ra dịch thể màu đen, chỉ co giật từng cơn
theo đoạn rễ cây đang giãy đành đạch, xem chừng cũng không còn gây ra uy hiếp
gì với chúng tôi được nữa.
Lão Dương Bì và Tuyền
béo đều đã kiệt sức, dựa lưng vào cửa sắt mệt mỏi ngồi rũ xuống. Riêng tôi vẫn
gắng gượng cầm đèn pin chiếu một vòng quanh căn phòng, bên trong hết sức bừa
bãi, toàn là bàn ghế nằm nghiêng ngả, ống thông gió đã bị bít kín, không khí
dưới lòng đất âm lạnh thấu xương. Tôi đang lo lắng cho Đinh Tư Điềm nên cũng
chẳng còn tâm trạng đâu quan sát kỹ hơn, vội đỡ cô ngồi dựa lưng vào góc tường.
Chỉ thấy sắc mặt Đinh
Tư Điềm xanh mét như sắp chảy nước ra, tuy thần trí vẫn còn, nhưng hơi thở đã
trở nên mong manh như đường tơ, thở ra thì nhiều mà hít vào thì ít, tựa hồ như
có thể chìm vào giấc ngủ vĩnh viễn bất cứ lúc nào. Tôi dịu giọng an ủi, bảo cô
phải kiên trì đến cùng, tạm thời nghỉ một chút cho đỡ mệt, rồi cho dù có phải
lật tung cả cái viện nghiên cứu này lên, chúng tôi cũng tìm bằng được thuốc
giải cho cô.
Đinh Tư Điềm dường như
biết mình đã bước đến gần ranh giới của cái chết, không khỏi bần thần, nét mặt
ảm đạm, gắng sức nói với tôi và Tuyền béo: “Mình biết lần này không thể cứu được
rồi... các bạn đừng bao giờ báo cho mẹ mình biết đấy nhé. Mình thật nhớ những
ngày đi khắp cả nước ấy quá... các bạn đừng buồn, nhất định phải nghĩ cách
thoát khỏi nơi này. Nhớ đấy nhé, cái chết không thuộc về giai cấp công nhân.”
Tôi và Tuyền béo nắm chặt
hai bàn tay lạnh buốt của Đinh Tư Điềm, nuốt nước mắt gật đầu đáp: “Thú vui
thấp kém không có tội...” Nói đoạn, nghĩ đến sắp phải sinh ly tử biệt, đều
nghẹn ngào không nói nên lời nữa. Lúc này, lão Dương Bì bước lại gần nói: “Con
bé này số khổ lắm rồi, chúng ta không thể để nó chết trong cái nhà tối om này
được.”
Tuyền béo buồn rười
rượi nói: “Nhìn khí sắc của Tư Điềm thì thấy chất độc đã ngấm vào đến xương tủy
mất rồi, không có bột làm sao gột nên hồ, loại chất độc ảnh hưởng đến thần kinh
này mà không có thuốc giải thì chẳng có cách nào hết.”
Vết thương trên vai đau
nhức làm gân xanh trên trán tôi gồ cả lên, nếu không phải đang trong cảnh hiểm
nguy, tôi thật chỉ hận không thể đập đầu xuống đất, ngủ luôn một giấc ba ngày
ba đêm cho sướng đời. Thấy mọi người đều đắm chìm trong chán nản và tuyệt vọng,
sâu thẳm trong tôi bất giác bùng lên xúc cảm nghịch phản mãnh liệt, tinh thần
bỗng nhiên phấn chấn lạ thường. Tôi còn nhớ một nhà triết học người Nga từng
nói: “Những nỗi khổ trong đời luôn luôn đè nén khiến ta không thở được, nếu ta
không phản kháng, mà chỉ nghe theo sự sắp xếp của vận mệnh thì sẽ chỉ càng thêm
lún sâu vào cảnh khốn cùng, để rồi cuối cùng mất đi tất cả.” Nghĩ đoạn, tôi
nghiến răng nói với ba người còn lại: “Nếu có bột thì... thế chó nào mà chẳng
gột nên hồ được, nhất quyết không thể mở mắt trân trân nhìn chiến hữu quan
trọng nhất của chúng ta hy sinh như vậy, không có bột thì phải đi tìm bột,
không có thuốc chỉ đi tìm thuốc. Giờ vẫn chưa đến lúc làm lễ truy điệu cho cô
bạn đâu, chỉ cần còn một hơi thở, chúng ta tuyệt đối không được dễ dàng bỏ cuộc
như thế.”
Tuyền béo nghe tôi nói,
cũng nổi máu lên định xông ra ngoài. Tôi vội ngăn cậu ta lại rồi phân tích tình
hình trước mắt cho cả bọn: “Nếu như trong viện nghiên cứu này thật sự có thuốc
giải chất độc của loài trăn vảy gấm, thì rất có khả năng thứ ấy được cất giấu ở
một nhà kho hoặc phòng thí nghiệm tương đối ẩn mật. Nhưng quy mô của khu vực
dưới lòng đất này lại lớn quá sức tưởng tượng, ở trong đây đừng nói là tìm được
địa điểm cụ thể nào, có thể không lạc đường không mất phương hướng đã là rất
khó rồi. Có điều, việc trước tiên, là cần nghĩ cách rời khỏi chỗ này đã.”
Tôi nghiêng tai lắng
nghe, tiếng động bên ngoài hành lang đã nhỏ hơn lúc nãy nhiều, nhưng cây nhân
sâm thành tinh bề ngoài trông như bà già cau có kia dường như vẫn chầu chực
rình mò trước cửa sắt. Cái cây quái quỷ ấy toàn là bùn đất và giòi bọ, mà rễ
cây còn lúc nhúc xác chết đã thối rữa, thể tích cơ hồ chiếm trọn cả hành lang
bên ngoài, đừng nói là nghĩ cách giải quyết được nó, thậm chí chúng tôi còn
chẳng biết nó rốt cuộc là cái giống gì nữa.
Tôi lấy chút nước mát
cuối cùng còn sót lại trong bình thấm ướt vạt áo, đắp lên trán Đinh Tư Điềm,
giúp cô hạ sốt, sau đó đi đi lại lại trong phòng, vắt óc nghĩ kế sách thoát
thân. Cứ đi như thế được mấy vòng, lúc ánh mắt liếc qua cánh cửa sắt đang đóng
chặt, liền trông thấy nửa khúc rễ cây bị Tuyền béo chặt đứt vẫn dính mấy cái
xác trắng ởn. Tôi bèn đưa chân đá đá một cái xác, tính xem cho rõ nó rốt cuộc
là thực vật hay là xác chết?
Bên trên cái xác thối
ấy có một lớp giòi bọ đang bò nhung nhúc, dưới lũ giòi đó thấp thoáng trông
thấy vài mảng đen. Tôi phát hiện sự lạ, vội giơ đèn pin lại gần hơn chút nữa,
thì ra trên người cái xác này mặc một bộ đồ đen, chỗ eo còn thắt một dây lưng
màu đỏ, từ hai đùi trở xuống bị hút cả vào đoạn rễ cây, dung nhập thành một,
không thể nhìn ra mặc đồ gì. Kế đó, quan sát mấy cái xác còn lại, thì đều không
phát hiện ra quần áo, có lẽ lúc chết đã bị lột sạch rồi.
Tôi thoáng động tâm,
vội nói với bọn Tuyền béo: “Bức di thư của người Nga ấy có viết rõ ràng, trong
viện nghiên cứu này giam cầm rất nhiều tù nhân các nước dùng làm đối tượng thí
nghiệm, nhưng cậu nhìn cái xác áo đen này xem, kiểu áo đen dây lưng đỏ này rất
quen, chúng ta đã thấy ở đâu rồi ấy nhỉ? Hình như đây là trang phục của bọn phỉ
chuyên đào trộm mộ vùng Đại Hưng An Lĩnh thì phải, thôi đúng rồi, đây chắc chắn
là người của Nê Hội chứ không sai đi đâu được.”
Tuyền béo gật đầu lia
lịa, chuyện này kỳ thực cũng không khó tưởng tượng, rất có thể là, bọn người của
Nê Hội trộm được trong miếu Hoàng đại tiên một số món đồ cơ mật, sau đó bị quân
Nhật vắt chanh bỏ vỏ ném vào trong hầm đất số “0” ấy làm thức ăn cho cây nhân
sâm yêu quái. Song le, có một chi tiết rất đáng chú ý, cái xác này vẫn còn
nguyên quần áo, không lõa thể như những cái xác còn lại, rõ ràng bọn phỉ này bị
sát hại hoặc chết rất vội vàng, không giống như hành vi đã được tính toán trước
của quân Nhật. Có lẽ đám phỉ đồ này cũng giống như những người khác trong viện
nghiên cứu, đều bị tai họa bất ngờ kia giáng xuống, hoảng loạn chạy vào căn hầm
đất ấy, kết quả… là bị biến ra thế này. Vừa nãy, nếu không phải cây bảo đao
Khang Hy của lão Dương Bì sắc bén, tôi và Tuyền béo giờ chắc cũng có kết cục
thế này rồi.
Tuyền béo đưa tay sờ mó
y phục của người chết, muốn lục soát xem có gì dùng được không, kết quả là lục
được một đôi móng lừa đen và mấy sợi dây thừng, ngoài ra còn một ít chu sa kỵ
tà, điều này lại thêm một bước nữa chứng minh thân phận của người chết, trăm
phần trăm chính là thành viên của bọn Nê Hội chuyên đào mồ trộm mả rồi. Kiểm
tra xác chết quắt queo ấy lần nữa, chúng tôi lại phát hiện ra gân cốt mấy cái
xác này đều đã cứng như gỗ, móng tay và tóc vẫn tiếp tục mọc dài, hoàn toàn
không khác gì với cương thi cả, thực khó mà tưởng tượng làm thế nào nó lại biến
thành như thế được.
Tôi và Tuyền béo cùng
nhăn trán nhíu mày nghĩ cách thoát thân, bất chợt nhớ ra một điều cổ quái bên
trong cái hầm đất số “0” ấy. Ở ngôi làng nơi chúng tôi về tham gia lao động sản
xuất có tổ chức thực hiện nếp sống mới, bài trừ mê tín dị đoan nên đã dỡ bỏ rất
nhiều mộ cổ, mang gạch xây mộ ấy đi cắt gọt cho sạch sẽ để tái sử dụng. Hình
dáng và chất liệu của loại gạch mộ ấy tuy khác với loại gạch của căn hầm số
“0”, nhưng lại có chung một cảm giác lạnh lẽo âm hàn. Gạch mộ đa phần đều mang
theo âm khí, cho dù phơi dưới ánh nắng giữa trưa, lúc cầm lên cũng tuyệt chẳng
thấy ấm nóng gì hết, lúc nào cũng như thể vừa mới lấy trong hố băng ra vậy,
điểm này thì tôi và Tuyền béo đều có cảm nhận sâu sắc. Cảm giác băng lạnh,
khiến lông tóc đều dựng đứng lên sau khi bước vào căn hầm đó đúng là như vậy,
không thể sai được, có lẽ căn hầm bí mật số “0” ấy, thực tế chính là mộ thất
của một ngôi mộ khổng lồ dưới lòng đất cũng nên. Nhưng tại sao trong mộ thất
lại có một cây nhân sâm khổng lồ đã thành tinh như vậy nhỉ?
Lúc này, lão Dương Bì
nãy giờ vẫn trầm mặc lẳng lặng nghe tôi và Tuyền béo thảo luận, đột nhiên xen
vào: “Tôi cứ tưởng thanh niên trí thức các cậu có trí thức, biết đấy là cái gì
rồi chứ. Các cậu bảo là nhân sâm phỏng? Sai rồi sai rồi, ở quê tôi cũng có, nếu
không phải tôi già rồi hồ đồ nhớ linh tinh, thì đó là bảo bối của nước Hồi Hồi
ở Tây Vực đó.”
Tôi không ngờ lão Dương
Bì lại nhận ra giống quái vật ngoài kia, cái gì mà nước Hồi Hồi ở Tây Vực chứ?
Vội vàng bảo ông mau nói cho rõ ràng, cái cây nhân sâm khổng lồ mọc ra đầy xác
chết đó rốt cuộc là thứ gì?
Chương 38: Mặt nạ
Căng lực biểu đạt bằng
ngôn ngữ của lão Dương Bì rất có hạn, ông già lại còn nói năng lập cà lập cập
chẳng ra đâu vào đâu, tôi với Tuyền béo nghe mà như người đi giữa đám sương mù,
nhưng rốt cuộc cũng hiểu được đại khái ý tứ. Ở quê lão Dương Bì, có một khu vực
chỉ toàn đất pha cát. Nơi ấy khô hạn thiếu nước, nhưng giữa vùng ấy lại có một
chỗ đất bùn rất ẩm ướt, theo các truyền thuyết cổ xưa thì đó là đất dưỡng thi,
người chết chôn vào đó thì có thể giữ mãi không bị thối rữa. Sự thực là, ở nơi
ấy có một loài thực vật cổ quái sinh trưởng.
Tương
truyền, từ thời cổ đại, loài thực vật này đã được du nhập từ thành Nguyên Sa
của nước Hồi Hồi ở Tây Vực xa xôi. Loài này cực độc, hình dáng như con người,
thoạt nhìn hơi giống cây nhân sâm lớn, nhưng phải to hơn gấp mấy chục mấy trăm
lần. Bản thân nó cũng chẳng có họ hàng gì với nhân sâm cả, nhưng ở Trung Nguyên
không có tên gọi chuẩn xác, đành gọi bừa là thi sâm hoặc quỷ sâm, còn người Hồi
Hồi cổ thì gọi là “Yabulu”.
Thứ này chuyên mọc ở
những vùng đất bùn tối tăm ẩm thấp và hôi thối. Một số mộ huyệt bị hơi ẩm xâm
thực, hoặc lòng sông cổ vẫn còn bùn nước đọng, đều là những nơi rất thích hợp
cho nó sinh trưởng. Bộ rễ của nó có thể ăn sâu xuống lòng đất đến cả chục mét,
tuy là thực vật, nhưng rễ cây lại có thể vươn lên mặt đất cuốn lấy người và súc
vật làm thức ăn, về bản chất thực ra là một loại cỏ ăn thịt người khổng lồ. Nếu
đào đất gặp phải loại thực vật này, bất luận là người hay súc vật, chỉ cần tiếp
xúc với độc khí của nó ắt hẳn sẽ mất mạng chứ chẳng nghi.
Phương pháp khai thác
loại cây này là, sau khi xác nhận vị trí Yabulu sinh trưởng, người ta đào xưng
quanh nó bốn rãnh đất, sâu rộng đủ để chứa một cái lu nước lớn ở nông thôn là
vừa. Kế đó, bắt đầu dùng gạch mộ chất vào trong rãnh, xây thành hình dạng như
cái lò gạch, bít kín hoàn toàn cả phía trên. Trước khi xây bít vào thì thả vào
trong mấy con chó dữ. Bọn chó dữ bị nhốt trong căn phòng gạch kín mít ấy bị khó
thở, sau một hồi sủa loạn, theo bản năng, chúng sẽ dùng móng vuốt bới đất, hòng
đào một đường hầm thoát ra bên ngoài. Khi đào chạm đến rễ cây Yabulu kịch độc,
lũ chó ấy sẽ lập tức chết vì trúng độc. Ngoài ra, còn có một cách khác là trực
tiếp dùng dây da buộc chân chó vào với rễ cây độc, rồi người nấp ở đầu ngọn gió
đốt pháo, lũ chó bị giật mình sẽ kéo theo cả bộ rễ cây lên. Cách này tuy tiết
kiệm được thời gian và sức lực, nhưng rất nguy hiểm, thường khiến người khai
thác trúng độc mà chết, vì vậy không được lưu truyền rộng rãi như là cách đầu
tiên.
Loài cây Yabulu của
nước Hồi Hồi này một khi ra khỏi đất, chẳng bao lâu sau liền mất đi độc tính.
Lúc này, người ta mới mang cả xác lũ chó trúng độc với cây Yabulu đã không còn
độc tính ấy chôn xuống hố, một năm sau mới đào lên. Khi đó, xác chó đã kết hợp
với rễ cây thành một thể, xương thịt tuy đã thối rữa, nhưng ở chỗ không có ánh
mặt trời lại có thể nhúc nhích như khi còn sống. Thứ thịt thối ấy đem phơi nắng
cho khô, liền trở thành một loại thuốc cực quý, bán rất được giá.
Dùng một chút rượu
thuốc ấy có thể khiến người ta tê liệt toàn thân, tựa như rơi vào trạng thái
chết giả, cho dù lấy dao lấy búa cắt đứt chân tay cũng không có bất cứ cảm giác
gì, mấy ngày sau cho uống thuốc giải thì lại trở về trạng thái bình thường.
Tương truyền, Hoa Đà thời xưa có thể phẫu thuật mổ bụng, cũng đều nhờ vào loại
thuốc mê này. Đến thời Tống, Ngự y viện trong hoàng cung cũng có ghi chép về
việc sử dụng nó.
Hồi còn ở quê, lão
Dương Bì từng thấy người ta đi khai hoang, đào xới cả khu mộ địa lên làm đất
ruộng, gặp phải loại độc vật hình người này. Lần đó đào lên cả một dây xác
người dính chặt với nhau, toàn là dân làng vô ý đi qua đây những lúc đêm đen
tối trời lâm nạn. Cây Yabulu quấn lấy người ta, rồi truyền độc vào trong cơ
thể. Người chết tuy đã chết, nhưng đầu tóc và móng tay móng chân vẫn tiếp tục
mọc dài, lại được âm khí tiềm tàng nuôi dưỡng, mỗi khi gặp dương khí liền nhúc
nhích cử động, bắt được người hay súc vật gì cũng đều truyền chất độc cho rồi
biến con mồi thành một phần của giống cây quái dị ấy.
Chúng tôi đoán cái hầm
đất số “0” ấy là do quân Nhật đặc biệt xây dựng để nuôi trồng cây thuốc. Kỳ
thực từ xưa, thịt cương thi, hay còn gọi là “mật hương” đã được dùng làm thuốc
rồi, những cái xác thối rữa cơ hồ đã trở thành một phần của cây Yabulu cũng có
thể coi như một loại dược phẩm đặc biệt, chẳng qua là cách nuôi cấy thực sự quá
ghê tởm mà thôi.
Tôi đang định hỏi lão
Dương Bì xem có cách gì có thể tiêu diệt hoàn toàn cái giống cây quái dị này
không, chứ để nó chắn trước cửa thế này thì rốt cuộc bọn tôi cũng không thể
thoát đi đâu được. Nhưng đang định cất tiếng, chợt bỗng nhớ ra một việc cực kỳ
quan trọng, cả người lập tức lạnh buốt cả ra. Tôi và Tuyền béo quần nhau vớì lũ
xác chết thối thây đó bao nhiêu lâu, trên người hai thằng bị dính phải rất
nhiều chất dịch vừa tanh vừa thối ấy, sợ rằng đều đã trúng độc mất rồi.
Hai chúng tôi vội vàng
giơ đôi tay lộ ra ngoài lên quan sát. Tay chúng tôi đều dính rất nhiều thứ, bẩn
đến mức chẳng còn nhìn ra gì nữa cả, nhưng trên mu bàn tay dường như đã mọc lên
một đống mụn nhỏ li ti, hơi hơi có cảm giác ngứa ngứa tê tê, ngoài ra, tạm thời
cũng không có triệu chứng gì khác. Tuy không rõ đây có phải dấu hiệu trúng độc
hay không, nhưng quá nửa cũng chẳng phải điều tốt lành gì.
Đinh Tư Điềm trúng độc
còn chưa tìm ra cách trị liệu, không ngờ cả tôi và Tuyền béo cũng lần lượt dính
đòn. Tâm trạng tôi vô cùng phức tạp, có điều trời sập xuống lấy làm chăn đắp là
cùng, tình cảnh chúng tôi lúc này vốn đã loạn cào cào lên cả rồi, thêm một chút
phiền phức nữa cũng chẳng có gì to tát cả, cùng lắm thì ba người chúng tôi cùng
đi gặp cụ Mác cụ Lê thôi vậỵ.
Thanh niên thời đại ấy,
chẳng ai có tư tưởng tình cảm phức tạp gì, vả lại hệ thống giáo dục tiếp nhận
từ thuở ấu thơ khiến chúng tôi đều không biết hai chữ “khó khăn” viết như thế
nào, dưới gầm trời này có chuyện gì làm khó được chiến sĩ cách mạng đâu chứ? Vì
vậy, chuyện lớn bằng trời, chúng tôi cũng không để trong lòng cho lắm, chỉ
thoáng sau đó tôi đã nhanh chóng gạt chuyện mình có trúng độc hay không ra khỏi
đầu, quay sang hỏi lão Dương Bì xem có cách gì không.
Lão Dương Bì lắc đầu
thở dài, bảo rằng chẳng có cách gì hết, loài độc vật nước Hồi Hồi ấy rời khỏi
đất là chết, đợi chốc nữa âm khí tiêu tan, phỏng chừng nó sẽ không động cựa gì
được nữa, trước mắt chỉ còn cách ngồi đợi mà thôi. Nhưng có trời mới biết rễ
của cái thứ ấy dài bao nhiêu, nếu có một phần vẫn hút được hơi đất, vậy thì
chúng tôi chỉ cần bước ra khỏi cửa là sẽ lập tức bị nó quấn lấy ngay.
Chúng tôi đang không
biết phải làm sao, đột nhiên nghe thấy phía trên đầu vang lên tiếng động lạ.
Tôi và Tuyền béo vội chiếu đèn pin lên xem, chỉ thấy chỗ tiếp giáp giữa tường
và trần nhà, có mấy cửa sổ hẹp mở thông ra hành lang. Rễ cây Yabulu phía bên
ngoài đã luồn qua ô cửa, đang định đánh lén. Tuyền béo lập tức vung đao lên
chém bay đoạn rễ cây vừa thò vào trong phòng, chỉ nghe âm thanh như thể một cái
túi da bị cứa đứt vang lên, chỗ lưỡi đao chặt xuống, nước thối bắn tung tóe,
đoạn rễ cây liền nhanh chóng rụt trở về.
Chúng tôi bấy giờ mới
phát hiện căn phòng này tuy cửa và tường đều rất kiên cố, nhưng lại không kín,
lỗ thông khí và cửa sổ nhỏ cực nhiều, rất dễ bị đối phương thừa cơ xâm nhập.
Căn phòng ngầm này dường như là một kho tồn trữ tài liệu, có nhiều tủ sắt và
các hòm gỗ bên trong đựng hồ sơ văn kiện và giấy tờ lỉnh kỉnh. Tôi với Tuyền
béo vội hè nhau đẩy tủ sắt ra chắn hết các lỗ hở phía bên ngoài lại.
Ở góc trong cùng của
căn phòng có một cái tủ sắt rất dày, đây vốn là thứ tốt nhất để chắn cửa, nhưng
mặc cho tôi và Tuyền béo dùng sức đẩy thế nào, nó cũng không chịu nhúc nhích,
cứ như thể mọc rễ xuống dưới đất vậy. Tôi điều chỉnh lại ánh sáng đèn pin, cẩn
thận quan sát lại cái tủ sắt ấy, trong lòng không khỏi ngờ vực ở đây có một
cánh cửa ngầm, cần có công tắc hay chốt lẫy gì mới mở được. Mấy phim phản gián
thời bấy giờ, đa phần đều có những tình tiết kiểu như vậy.
Tôi và Tuyền béo đoán
bừa đoán bậy, không ngờ lần này lại trúng thật, khi tôi men theo mép tủ sắt,
điều chỉnh ngọn đèn chiếu vào trong góc tường, bỗng thình lình trông thấy trong
khe hẹp ngăn cách giữa tường và tủ sắt có kẹt một bàn tay. Bàn tay ấy khô đét
tím bầm, mọc lông như lông thú. Phỏng chừng chủ nhân cánh tay này cũng giống
như đại đa số những tử thi khác trong viện nghiên cứu, đều chết vì một nguyên
nhân không rõ nào đấy, sau khi chết lại chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh đặc thù
vùng động Bách Nhãn này mà nảy sinh ra hiện tượng thi biến dị thường.
Phía sau cái khe dường
như là một không gian không nhỏ, nhưng tôi chiếu đèn pin vào một hồi lâu mà
chẳng nhìn được gì hết. Trước mắt, hành lang bên ngoài gian phòng ngầm dưới
lòng đất này đã bị cây thi sâm dính chùm cả đống xác chết bịt chặt, nếu sau cái
tủ sắt này còn có thông đạo, nói không chừng lại có thể thoát ra từ đây, vả
lại, đường hầm bí mật này có vẻ rất kỳ lạ, biết đâu bên trong lại cất giữ những
thứ chúng tôi đang cần tìm cũng nên.
Tôi và Tuyền béo đều
tràn đầy lòng tin với suy đoán khiến người ta phấn chấn tinh thần này, cậu ta
lập tức mò mẫm khắp nơi tìm kiếm chốt lẫy để mở tủ sắt ra. Tôi không vội bắt
tay vào ngay, mà cảm giác con đường ngầm phía sau tủ sắt này có gì đó không ổn
lắm, nhưng không ổn ở đâu thì nhất thời lại không nghĩ ra được. Nghĩ đoạn, tôi
hít sâu một hơi, cố gắng trấn tĩnh, đầu óc không ngừng hoạt động hết cỡ. Rất có
thể tình hình khi ấy là, trong một tình huống vô cùng khẩn cấp, người bị kẹt
giữa tủ sắt và bức tường này định chạy vào mật thất tránh nạn, nhưng vì cái chết
đến quá bất ngờ, vừa mới mở được cánh cửa ngụy trang thành tủ sắt bước vào
đường hầm bí mật đã lập tức tử vong, và bị cái tủ sắt tự động trở về vị trí ban
đầu kẹp cứng cái xác lại, chứ không phải là tủ sắt kẹp vào mà chết.
Còn nữa, trong viện
nghiên cứu giới bị cực kỳ thâm nghiêm, tựa hồ như hoàn toàn không cần thiết
phải bố trí một cái cửa ngầm bí mật nữa ở dưới công trình ngầm dưới lòng đất
vốn đã cực kỳ ẩn mật này làm gì. Trừ phi, không gian phía sau cánh cửa ẩn chứa
những thứ cơ mật trong cơ mật, rất có thể là hầu hết nhân viên trong viện
nghiên cứu đều không hề biết đến sự tồn tại của nó, mà chỉ có một số nhân vật
đầu não của cơ quan mới nắm được. Cái xác bị kẹt ở đây xem chừng là một trong
những người đứng đầu cái ổ quỷ này, nhưng tại sao cánh tay của cái xác lại thò
ra phía ngoài, tư thế này có bình thường không nhỉ? Lẽ nào không phải là chạy
vào bên trong, mà đang từ trong ấy chạy ra ngoài? Cái mật thất bên trong mật
thất này...
Đầu óc tôi không ngừng
tính đến các khả năng khác nhau, đang suy đoán lung tung thì Tuyền béo đã tìm
được một viên gạch lát sàn gồ lên ở dưới gầm bàn, vị trí hết sức ẩn mật, cũng
hoàn toàn không bắt mắt chút nào, nếu không phải mò mẫm từng viên gạch một thì
cũng không thể nào phát hiện được. Cậu ta mắm môi mắm lợi cậy mấy cái mà không
nhúc nhích gì, liền đổi sang dùng chân giẫm xuống. Cú giẫm này khá mạnh, viên
gạch liền lún xuống một hai phân, sau tiếng động “ầm ầm”, cái tủ sắt đã rút vào
một bên tường, để lộ ra một lối đi hẹp. Có lẽ tại Tuyền béo dùng sức quá độ,
giẫm xuống sâu quá, cái tủ sắt ấy trượt sang một bên rồi đứng yên chứ không tự
động bật lại vị trí ban đầu như tôi dự đoán.
Bên trong lối đi ấy lại
có một cửa nữa, cánh cửa mở rộng, sâu bên trong là một căn mật thất lớn hơn căn
phòng chúng tôi đang ở. Tuyền béo cho rằng trong mật thất ấy thể nào cũng có
thuốc men và thức ăn, liền nóng lòng muốn đi vào ngay. Tôi vội vàng chặn trước
lối đi, nói với cậu ta và lão Dương Bì: “Hai người nhìn thử cái xác bị kẹt ở
đây mà xem, đầu và cánh tay đều vươn ra phía ngoài, tư thế này chứng tỏ rằng
rất có thể, trước lúc chết, kẻ này đang từ bên trong chạy ra phía ngoài, chứ
không phải vì chạy nạn mà trốn vào trong mật thất, bên trong đó...”
Tôi mới nói được nửa
chừng, bỗng nghe thấy một tiếng động lớn, cái ghế gỗ chắn ở cửa đột nhiên gãy
ra làm mấy mảnh. Lão Dương Bì đang ngồi sau cánh cửa sắt giật bắn mình, vội
vàng kéo Đinh Tư Điềm lùi ra xa. Tôi giơ đèn pin chiếu về phía ấy, chỉ thấy
cánh cửa sắt đã bị húc bật ra, một gương mặt quái dị như bà già nhăn nheo từ
bên ngoài thò vào. Loài thực vật dị hình này trông rất giống nhân sâm, nhưng
hình thái thì hung ác hơn nhân sâm cả vạn lần. Bấy giờ, tôi nhìn thấy hết sức
rõ ràng, trên “mặt” cái cây yêu quái đó toàn là nếp nhăn, nổi bật nhất là hai
“con mắt” to tướng. Tôi thầm nhủ, bảo nó là thực vật, chi bằng nói đây là một
loại bán sinh vật sống trong bùn đất, sinh tồn bằng cách hút chất dịch bên
trong xác chết thì có lẽ chính xác hơn.
Đừng nói là phải đối
diện với bộ mặt quái đản xấu xí của nó, chỉ riêng ngửi cái mùi ẩm thấp vừa tanh
vừa thối trên người nó thôi cũng đã choáng váng đầu óc muốn té xỉu tại chỗ rồi.
Chuyện đến nước này, chúng tôi cũng chỉ còn biết lùi dần về phía sau, tôi và
lão Dương Bì xốc hai bên đỡ Đinh Tư Điềm, Tuyền béo cầm đao chặt đứt những đoạn
rễ cây đang không ngừng vươn tới, bốn người bị bức ép dần dần lùi vào trong
đường hầm bí mật phía sau cái tủ sắt.
Tôi lo Tuyền béo một
mình gặp nạn, sau khi chạy vào trong mật thất cũng chẳng kịp nhìn rõ xung quanh
thế nào, đã để Đinh Tư Điềm lại cho lão Dương Bì trông chừng, sau đó quay đầu
chạy ra chỗ cửa tiếp ứng cho Tuyền béo, định đóng cửa ngầm lại hòng chặn đứng
thế tiến công của cái cây yêu quái, nhưng trong lúc hoảng loạn như thế, sao có
thể tìm được chốt lẫy bí mật ở phía bên trong này cơ chứ?
Tuyền béo gặp cái khó
ló cái khôn, liền đẩy cái xác bên trong lối đi bí mật ấy ra ngoài. Một cái rễ
cây lập tức cuốn chặt lấy nó bọc vào bên trong bộ rễ xù xì, tôi lợi dụng cơ hội
ấy đóng ập cánh cửa bên trong mật thất lại, rồi cùng Tuyền béo tìm tất cả mọi
thứ có thể tìm được chặn ra sau cửa. Bấy giờ mới nhìn ra, gian mật thất rộng
lớn này đâu đâu cũng toàn là các tủ lớn bày đầy những bình chứa tiêu bản. Trong
lúc hỗn loạn, chúng tôi đã làm vỡ rất nhiều bình thủy tinh, các bộ phận thân
thể người và xác chết của đủ thứ động vật kỳ dị rơi lăn lóc đầy ra đất, trong
không gian lập tức nồng nặc mùi chất chống phân hủy.
Chúng tôi trải qua một
phen hoảng loạn, thân thể gần như kiệt quệ, tạm thời thấy cánh cửa đã bị chặn,
thần kinh đang căng liền thả lỏng ra một chút, hai chân bỗng mềm nhũn ra. Vết
thương trên vai lại đau nhức khó chịu vô cùng, thuận đà tôi loạng choạng lùi
mấy bước, định kiếm chỗ ngồi tạm xuống nghỉ ngơi. Vừa khéo sau lưng có một bệ
đá, trong bóng tối tù mù, tôi cũng chẳng kịp nhìn rõ, cứ ngồi phịch xuống. Ngồi
lên đấy rồi, tôi mới cảm thấy sau lưng lạnh buốt lạ thường, liền vòng tay ra sờ
thử, phát hiện ngón tay chạm phải một vật thể lạnh lẽo lồi lõm bằng kim loại,
liền xòe cả bàn tay rờ mò, thì ra là một tấm mặt nạ hình mặt người. Tôi giật
thót mình, lập tức nhớ đến cái xác đàn bà người Tiên Ty đeo mặt nạ trong bức
bích họa kia, vội vàng quay người lại chiếu đèn pin xem. Trên bệ đá trông như
bàn phẫu thuật này, quả nhiên có một xác đàn bà ăn mặc theo kiểu cổ, mặt nạ kim
loại trên mặt bị chùm sáng màu vàng của đèn pin rọi vào, ánh lên những tia lạnh
lẽo âm u.
Tuyền béo và lão Dương
Bì cũng phát giác có sự lạ, đều bước lại quan sát. Sức mạnh chấn nhiếp vô hình
tỏa ra từ sự chết chóc khiến toàn thân chúng tôi khẽ run lên, cái đèn pin đeo
trước ngực cũng theo nhịp thở gấp gáp mà dập dềnh lên xuống. Có lẽ tôi đã hoa
mắt, trong cột sáng dao động của đèn pin, cái mặt nạ trên mặt xác chết ấy như
thể đã sống lại, bộ mặt vốn nghiêm trang không chút xúc cảm dường như đang nở
một nụ cười cổ quái.
Chương 39: Chất Chông
thối rữa
Cái xác đàn bà đeo mặt
nạ bằng kim loại nằm trên bệ xi măng, vì trong gian mật thất này vô cùng tối
tăm, nên lúc mới chạy vào đây, chúng tôi không ai để ý đến sự tồn tại của nó.
Mà kể từ khi đặt chân vào khu vực động Bách Nhãn này, chúng tôi đã gặp phải vô
số những chuyện kinh khủng khiếp, lại liên tục mất sức chạy trốn, đến giờ thì
cả hệ thần kinh cũng bắt đầu hơi tê liệt.
Vì vậy khi phát hiện
cái xác đeo mặt nạ này, tôi, Tuyền béo và lão Dương Bì cũng không kinh ngạc gì
cho lắm, vì các loại xác chết hình dáng kỳ dị ở quanh đây thực sự đã quá nhiều,
cảm giác lúc ấy thật đúng là lạ mấy nhìn nhiều rồi cũng thành quen. Nhưng đợi
đến khi ba chúng tôi lại gần, giơ đèn pin chiếu vào, cột sáng từ bòng đèn soi
lên cái mặt nạ, chiết xạ ra những tia ảm đạm thâm u, đồng thời trên cái nạ băng
lạnh trầm mặc ấy tựa hồ xuất hiện một nụ cười ky dị đến độ không thể hình dung
bằng ngôn từ, chúng tôi liền lập tức cảm thấy một luồng sức mạnh đáng sợ đến từ
thế giới u minh. Cảm giác sợ hãi kinh hoàng đối với cái chết đó xuyên thấu qua
tim mỗi người, chỉ một sát na ngắn ngủi không khí trong gian mật thất tựa như
ngưng kết thành băng. Chúng tôi thậm chí còn có cảm giác tim gan phổi phèo của
mình bị ướp trên lớp băng đá, toàn thân run bần bật, không thể khống chế nổi
mình nữa, vội hét lên một tiếng để lấy khí thế cho thêm phần can đảm, rồi liên
tiếp lùi nhanh mấy bước liền. Dưới đất có mấy bình đựng tiêu bản bị vỡ toang,
các cơ quan trong cơ thể người và chất chống thối rữa vung vãi khắp sàn nhà,
khiến chúng tôi chân đứng không vững. Ba người tâm thần hoảng loạn, tay chân
luống cuống, đều suýt nữa thì té nhào, vội vàng níu lấy cái tủ bên cạnh để trụ
vững, trong lòng bất giác dâng lên một ý nghĩ: “Bà mo của bộ tộc Tiên Ty này
vẫn còn sống, ít nhất là vong linh vẫn còn lảng vảng ở bên cạnh cái xác!”
Đinh Tư Điềm được lão
Dương Bì đặt ở góc tường, đang nằm thiêm thiếp bất tỉnh nhân sự. Tôi vội lùi
nhanh về phía sau, không kịp nhìn rõ tình hình, đụng ngay phải người Đinh Tư
Điềm. Cảm thấy gót chân mình vừa giẫm lên tay cô, tôi vội vàng rụt chân lại.
Đinh Tư Điềm “ư” lên một tiếng, không ngờ đã tỉnh lại khỏi trạng thái hôn mê,
cũng không biết đó là khoảnh khắc bùng lên trước khi ngọn đèn sinh mệnh của cô
phụt tắt, hay là tại tôi giẫm lên ngón tay, mười ngón tay lại nối liền với tim,
khiến cô đau quá mà giật mình tỉnh lại.
Đinh Tư Điềm ngọ nguậy,
bảo tôi đỡ lên. Cô thấy mặt tôi và Tuyền béo, cùng lão Dương Bì đều lộ vẻ kinh
hãi, bèn thuận theo chùm sáng của đèn pin đeo trước ngực tôi nhìn vào trong
gian mật thất, cũng phát hiện ra ngay cái xác đàn bà cổ đại đeo mặt nạ đang nằm
ấy. Cảm nhận của Đinh Tư Điềm đại để chắc cũng tương tự ba chúng tôi, cũng kinh
hãi giật bắn mình, nấp phía sau lưng tôi, lắp bắp hỏi liệu cái xác kia có đột
nhiên sống dậy hay không?
Lúc này, lão Dương Bì
đã sợ đến hồn xiêu phách lạc, hai chân run lẩy bẩy, cả người lạnh cóng, chỉ
chực quỳ xuống trước cái xác đó. Tôi cũng có cảm tưởng cái xác của bà mo bộ tộc
Tiên Ty ấy có thể đột nhiên ngồi bật lên bất cứ lúc nào, cảm giác bị uy hiếp ấy
chưa bao giờ mạnh mẽ đến thế cả. Trước tình hình này, tôi chỉ còn có thể bất
lực lắc đầu với Đinh Tư Điềm, không biết nên trả lời cô như thế nào nữa.
Rất có thể gian mật
thất này chính là gốc của vòng xoáy chết chóc quét qua cả viện nghiên cứu. Còn
cái xác bị kẹt ngoài cửa bí mật kia, chắc chắn vì trong đây xảy ra chuyện gì
đó, nên mới chạy trốn ra phía ngoài, bằng không, cớ gì không trốn luôn trong
gian hầm bí mật này cho rồi? Cái xác của bà mo rốt cuộc có sức mạnh gì mà giết
chết nhiều người như thế?
Ý nghĩ cứ ùn ùn hiện
lên trong óc, càng lúc tôi càng thấy mông lung. Về phần Tuyền béo, sau khi định
thần lại, cái thói liều mạng chẳng sợ trời chẳng sợ đất đã bám rễ ăn sâu vào tư
tưởng cậu ta liền lập tức ùa lên chiếm ưu thế. Cậu ta có ý khoe tài, liền lắc
lắc đầu, ấn tay vào vết thương đang rỉ máu trên cổ, nói với tôi và Đinh Tư
Điềm: “Bạn Tư Điềm hỏi câu hay quá. Kẻ thù giai cấp liệu có mượn xác hoàn hồn
không? Đối mặt với vấn đề nghiêm túc này, câu trả lời của chúng ta không thể
nhuộm màu sắc giả tưởng lãng mạn chủ nghĩa được, cứ để béo tôi sút cho nó mấy
phát là biết ngay thôi...”
Tôi cũng cổ vũ cho cậu
ta: “Nói hay lắm Tuyền béo ạ, có điều Mao chủ tịch dạy làm việc cần chú ý đến
phương pháp, cậu giơ chân đá cái xác ấy cẩn thận bị nó há miệng cắn cho một
phát thì sao, tôi thấy có lẽ dùng bảo đao Khang Hy phạt cho nó vài nhát thì
hơn.”
Đinh Tư Điềm hổn hển
can ngăn: “Đừng... đừng đi... mình cứ có cảm giác nó sẽ đột nhiên sống dậy...”
Tuyền béo nào chịu nghe lời, lập tức trợn mắt cầm đao tiến bước, bảo đao Khang
Hy vung lên trong tiếng can ngăn chưa dứt của lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm.
Nhưng Tuyền béo vừa giơ
đao lên, cánh cửa sắt của mật thất sau lưng cậu ta bỗng bật tung vì một cú thúc
mạnh. Vừa nãy chúng tôi không khóa chặt cửa sắt, mà chỉ dùng vật nặng chặn lại,
đang định đẩy những thứ khác ra chắn thêm thì bất thình lình trông thấy cái xác
đàn bà mặc đồ thời xưa này, ma xui quỷ khiến thế nào lại hoảng hết cả lên, hoàn
toàn quên mất phía ngoài kia vẫn còn một mối nguy cơ trực tiếp hơn nhiều.
Cây Yabulu bề ngoài
trông như yêu quái ấy quấn theo một đống xác chết thối rữa húc bật cửa sắt.
Tuyền béo bị cái tủ húc phải, ngã bổ nhào đè cả lên người cái xác đàn bà, gương
mặt vừa khéo áp đúng lên cái mặt nạ lạnh lẽo. Dù cậu ta gan lớn bằng trời, vừa
nãy còn vung đao hung hăng lắm, nhưng gặp phải tình huống này cũng phải giật
thót mình, sợ đến nỗi kêu oe oé, vừa bò vừa lăn vừa lộn thoát khỏi cái bệ. Tôi
thấy từ cửa sắt vươn tới một sợi rễ to như bắp tay, cũng vội kéo Đinh Tư Điềm
nấp vào sau một cái giá sắt kê đầy những bình đựng tiêu bản.
Trong gian mật thất đã
hết đường lui, cánh cửa duy nhất đã bị bít, chúng tôi chỉ còn cách dựa vào các
đồ đạc, và không gian tương đối rộng rãi trong đây cầm cự được chút nào hay
chút ấy. Trong khi hai bên không ngừng đuổi bắt tránh né, tôi dần dần phát hiện
cây yêu sâm này rất giống với trường hợp “địa khuyết hàm thi” mà phong thủy học
có nhắc đến, vật để lâu tự có linh tính, thực vật cũng có thể hóa thành sinh
vật, những thứ như sâm già hoặc hà thủ ô là do linh khí trong trời đất tụ lại
mà thành, nếu chôn người chết bên cạnh chỗ có nhân sâm, thi thể sẽ không bị
thối rữa, năm tháng trôi đi, người chết và nhân sâm sẽ hợp lại thành một, ăn
vào cực bổ. Khi ấy thì sâm không gọi là sâm, xác không gọi là xác nữa, mà hợp
chung làm một, gọi là “địa khuyết”.
Nhưng thứ sản vật của
nước Hồi Hồi này lại không giống “địa khuyết”, hình dạng nó tuy giống cây sâm
khổng lồ, nhưng lại gần như một loại bán sinh vật cần phải có khí đất và xác
chết thì mới sống được. Vả lại, lão Dương Bì chẳng qua cũng chỉ nghe mấy cái
truyền thuyết ở dưới quê mà thôi, cái thứ này chắc gì đã có nguồn gốc từ nước
Hồi Hồi, mà thậm chí đến giờ cái nước Hồi Hồi ấy rốt cuộc ở nơi nào, cũng chẳng
ai rõ cả. Nước Hồi Hồi chỉ là một cái tên gọi chung chung, theo tôi thấy, cây
yêu sâm này có vẻ như được sản sinh ở các mộ cổ vùng Thiểm Tây thì đúng hơn.
Nó đã chắn ngoài cửa
gian mật thất, rất nhiều rễ cây nhung nhúc thò vào trong tính bắt người ăn
thịt, tốc độ tuy không nhanh, nhưng trong không gian kín không tiện tránh né,
bốn chúng tôi chỉ mình Tuyền béo cầm đao, có thể miễn cưỡng chống cự được. Cậu
ta nấp phía sau bệ xi măng, vung đao chém bừa, cắt được mấy sợi rễ cây như vòi
bạch tuộc, nhưng rễ của cái cây quái dị này cực nhiều, chặt đứt mấy sợi thì
cũng chẳng thể nào thay đổi được cục diện.
Vả lại, chúng tôi bị buộc
phải tách nhau ra, lại chỉ có ánh sáng của hai cái đèn pin, gần như là chẳng
nhìn thấy gì hết, cực kỳ khó tiếp ứng lẫn nhau. Thoáng sau đó, bỗng thấy ánh
lửa lóe lên, thì ra lão Dương Bì vừa đốt cái áo bông, định dùng lửa đuổi cây
thi sâm, nhưng quái vật ấy toàn thân đều là giòi bọ bùn nhão, một tẹo lửa thế
này căn bản không thể ảnh hưởng gì đến nó được. Nhưng có ánh lửa chập chờn ấy,
chúng tôi đều cảm thấy trước mắt sáng bừng lên, ít nhất cũng coi như đã nhìn rõ
được mình đang ở trong hoàn cảnh như thế nào.
Tôi và Đinh Tư Điềm nấp
sau một cái giá sắt, chỗ này là vùng tối ánh lửa không chiếu đến được. Trong
bóng tối chợt nghe thấy tiếng gió kèm theo mùi tanh tưởi ập đến, tôi đang bị
thương hành động bất tiện, thêm nữa lại chỉ có hai tay không, căn bản không thể
kháng cự, chỉ đành nhặt lấy một cái ghế bên cạnh chắn phía trước ngực. Cảm giác
cú tông đó thật mạnh, tôi tưởng chừng như tắc thở tại chỗ, lưng đập mạnh vào
giá sắt phía sau khiến nó đung đưa chao đảo. Gân cốt toàn thản tôi gần như rã
rời sau cú va chạm ấy, cũng mới chỉ tạm thời coi như đã đỡ được một đòn.
Trong tình hình này, dù
chúng tôi có muốn phát huy tinh thần dũng cảm, không sợ hy sinh, không sợ mệt
mỏi và tác phong chiến đấu liên tục không ngừng nghỉ thì cũng chẳng thể nào
thực hiện được. Nhưng ý chí và quyết tâm sinh tồn thì vẫn còn đấy, tôi chặn
được cái rễ cây quét ngang, trong lòng cũng hiểu nếu nó rụt trở về rồi cuốn đến
lần nữa, tôi tuyệt đối không thể ngăn được lần thứ hai, nên liền dùng bên vai
không bị thương húc mạnh vào lưng ghế, dồn hết sức lực về phía tường, ý định ép
chặt sợi rễ cây ấy lên bức vách gian mật thất.
Chẳng ngờ trong bóng
tối không nhìn rõ tình hình xung quanh, không tính toán được khoảng cách với
bức tường, nên tôi lao thẳng vào khoảng trống. Tôi dùng sức quá độ, không dừng
chân kịp, cả người đổ nhào, chân ghế thúc vào mạng sườn đau hoa cả mắt. Cái rễ
cây bị tôi đẩy ra kia cuộn lấy ghế gỗ giật về. Tôi không giữ chặt được ghế, bị
nó kéo một phát bật ngửa ra. Cái rễ cây rung rung, hất văng cái ghế gỗ đi rồi
lại quật tới, cuốn lấy Đinh Tư Điềm lôi tuột về phía sau.
Mạng sườn tôi đau như
có ai gí sắt nung đỏ, cảm thấy Đinh Tư Điềm bị kéo lướt qua bên cạnh mình, muốn
vươn tay ra chụp lấy, nhưng lại đau đến độ không sao nhấc tay lên được. Mắt
thấy Đinh Tư Điềm sắp bị cuốn vào bộ rễ của cây sâm đến nơi, thì đúng vào
khoảnh khắc nghìn cân treo sợi tóc ấy, chợt nghe Tuyền béo gầm lên một tiếng,
nhảy ra khỏi chỗ nấp, vung đao chém mạnh xuống, chặt đứt cái rễ cây đang cuốn
chặt Đinh Tư Điềm. Đinh Tư Điềm ngã lăn mấy vòng, khéo thay lại rơi đúng bên
cạnh lão Dương Bì. Ông lão vội liều cả cái mạng già, vung đuốc khua loạn lên,
một tay kéo Đinh Tư Điềm ra phía sau lưng mình.
Tôi thấy Tuyền béo cứu
được Đinh Tư Điềm, liền thở phào một hơi. Đinh Tư Điềm đã trúng độc rất nặng,
nếu không phải từng rèn luyện nửa năm trên thảo nguyên, tố chất thân thể được
nâng cao rõ rệt, e cũng khó mà kiên trì đến được giờ phút này. Nhưng vừa nãy,
cô bị đập mạnh một cú xuống đất, vậy mà không kêu la rên rỉ tiếng nào, lại
không thấy cơ thể cô phập phồng hô hấp, thật không biết tính mạng có còn hay
không nữa.
Tôi lo cho mạng sống
của Đinh Tư Điềm, bèn nghiến chặt răng, cố nhịn đau vùng vẫy bò dậy. Nhưng còn
chưa kịp chạy lại xem tình trạng Đinh Tư Điềm thế nào, bỗng thấy bộ mặt như bà
già nhăn nheo của cây yêu sâm kia thò vào trong gian mật thất, há miệng thổi ra
một luồng khí đen. Tuyền béo đang đứng đối diện với nó, tình huống lại diễn ra
quá bất ngờ, căn bản không kịp né tránh, liền bị luồng khí đen nồng nặc ấy phun
trúng người.
Theo như lão Dương Bì
nói thì cây thi sâm này là vật kịch độc có xuất xứ từ nước Hồi Hồi ở Tây Vực,
nhưng kết hợp với xác người và súc vật rồi thì không còn độc tính ấy nữa, sau
khi cắt rời, phơi khô, phối chế theo bí phương, có thể làm thuốc mê rất hiệu
nghiệm. Nhưng ông già nói chưa chắc đã chính xác hoàn toàn, chúng tôi cũng
không thể xác định cái cây quái đản này có hơi độc khiến người ta chết ngay tại
chỗ hay không. Tôi và Tuyền béo dính phải rất nhiều chất lỏng hôi thối của nó
bắn tóe ra, trên da cũng cảm thấy không ổn cho lắm, chỉ là vì quá mệt mỏi chạy
trốn nên vẫn chưa kịp nghĩ xem mình có trúng độc hay không nữa.
Tuyền béo bị làn khói
đen kia phun phải, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, chừng như không thở được.
Cậu ta vội vàng nôn khan rồi lùi về sau mấy bước, cây đao trong tay rơi xuống
đất. Trong đám khói đen mù mịt có mấy sợi rễ cây lại uốn éo vươn ra, định quấn
lấy Tuyền béo. Tôi thấy Tuyền béo gặp nguy, định nhào lên tương trợ mà lực bất
tòng tâm, chẳng kịp nghĩ ngợi gì nhiều, thuận tay vớ một bình thủy tinh trên
giá, nhằm thẳng vào cái mặt già nua nhăn nheo của cây thi sâm yêu quái ấy ném
thật mạnh.
Trong cái bình tiêu bản
có một đống bầy nhà bầy nhầy cũng chẳng hiểu là thứ nội tạng gì, chỉ nghe “bốp”
một tiếng, đập ngay giữa cái mặt mẹt đó. Bình thủy tinh vỡ ra thành vô số mảnh
nhỏ, nội tạng và nước thuốc bên trong bắn tung tóe khắp thân cây. Cây thi sâm
dường như cực kỳ mẫn cảm với thứ nước thuốc chống thối rữa này, chỗ nào dính
phải đều lập tức rỉ nước đen kịt.
Tôi lập tức hiểu ra,
chẳng trách nó chỉ chắn ở chỗ cửa sắt vươn rễ cây vào chứ không chui hẳn vào
đây ăn tươi nuốt sống bọn tôi. Mới đầu tôi còn tưởng là nó còn một phần bộ rễ ở
dưới đất, có thể nhích đến trước cửa gian mật thất này đã là cực hạn rồi, hóa
ra là nó sợ thứ thuốc nước chống thối rữa đang chảy lênh láng khắp dưới đất
kia. Vừa nãy nếu chúng tôi không đụng đổ mấy cái bình cái vại đó, sợ rằng nó đã
chui vào đây dồn chúng tôi vào chỗ chết ngay từ đầu rồi.
Nghĩ tới đây, tôi lại
càng hăng hái hơn, hai tay không ngừng ném các bình thủy tinh đó ra. Tuyền béo
móc cổ móc họng ọe ra một đống máu đen, cậu ta và lão Dương Bì thấy tôi đắc
thủ, cũng học theo, nhặt những bình đựng cơ quan nội tạng bên cạnh mình không
ngừng ném về phía cây thi sâm.
Trong mật thất có hơn
nghìn bình đựng tiêu bản, trong chốc lát tình thế đã được xoay chuyển, dưới cơn
mưa thuốc chống thối rữa, cây thi sâm đã hoàn toàn biến đổi, toàn thân thối rữa
chảy nhớt, định lui ra khỏi đường hầm bí mật, nhưng vì thể hình nó quá lớn, lúc
chui vào đã tương đối khó khăn, phải len từng phần từng phần một, lúc này cả
thân rễ đều rút về thành một bó, làm sao có thể nhanh chóng chui ra được chứ.
Chỉ thoáng sau đó, cái cây đã xụi ra thành một đống, không nhúch nhích gì được
nữa.
Tôi và Tuyền béo vịn
tay vào tường bước lại gần xem tình trạng của Đinh Tư Điềm. Tuy cô chưa ngùng
thở, nhưng sắc xanh trên gương mặt đã rất đậm, gọi thế nào cũng không chịu
tỉnh. Chúng tôi cầm cự được đến lúc này, người nào người nấy như ngọn đèn sắp
cạn dầu, chỉ thấy thân tâm thảy đều mệt mỏi rã rời, đến ngón tay cũng chẳng
muốn nhúc nhích nữa. Khắp sàn nhà đều là nước thuốc và những cơ quan nội tạng
nhầy nhụa, gần như chẳng còn chỗ nào mà đặt chân. Cửa sắt thì bị cây thi sâm
chết bịt kín, chẳng ai còn sức đâu mà dọn dẹp đường ra phía ngoài nữa. Tôi quét
đèn pin chiếu một vòng, nhìn thấy cái xác ả đàn bà đeo mặt nạ nằm im lìm bất
động trên bệ xi măng. Nó vẫn giữ nguyên tư thế đó, không nhúc nhích, chừng như
cũng không có dị động gì, có lẽ vừa nãy chỉ tại chúng tôi thần hồn nát thần
tính mà thôi. Trước mắt, cũng chỉ có cái bệ là sạch sẽ một chút, nhưng lúc này
chẳng ai muốn đến gần cái xác đó cả, vậy là cả bọn đành dồn hết chút sức lực
cuối cùng còn sót lại, dắt díu đỡ nhau lui vào một góc tương đối khô ráo ở sâu
bên trong gian mật thất.
Chúng tôi khiêng Đinh
Tư Điềm đặt cho nằm thẳng dưới đất, sau đó ngồi phịch xuống, dựa lưng vào nhau
thở hồng hộc, chỉ hận không thể chết luôn ở đây cho rảnh chuyện, chứ thực không
muốn sống để mà chịu khổ thế này nữa. Tôi vẫn luôn để ý đến tình trạng của Đinh
Tư Điềm, nghỉ lấy hơi một lát, rồi lại tiếp tục nghĩ cách cứu cô, càng nghĩ
càng lo lắng, định đưa ngón tay lại thử thăm dò xem cô còn hơi thở không. Nhưng
vừa cất tay lên, bỗng sờ thấy một cái mặt bằng kim loại lạnh thấu xương, có lẽ
nào, cái xác người đàn bà tộc Tiên Ty vừa rồi vẫn nằm trên bệ xi măng đằng xa,
giờ đã lẳng lặng nằm ngay bên cạnh tôi hay sao?
Chương 40: Tủ cất giữ
tiêu bản
Cảm giác băng lạnh khi
đầu ngón tay chạm vào kim loại, truyền qua tôi hơi thở chết chóc của thế giới
khác. Thế giới ấy dĩ nhiên không thuộc về người sống, ngón tay tôi chạm phải
cái mặt nạ bằng kim loại, giật nảy lên, lập tức rụt ngay về theo bản năng. Nhưng
tôi đang ngồi dựa vào góc tường, rõ ràng có thể cảm thấy Đinh Tư Điềm đang nằm
ngay bên cạnh mình chứ không phải ai khác.
Tôi thậm chí chẳng còn
kịp sợ hãi, vội vàng xoay đèn pin qua bật lên chiếu vào chỗ bên cạnh mình. Đinh
Tư Điềm đúng là vẫn đang nằm ngay ngắn dưới đất, có điều, vừa nãy chẳng ai chú
ý đến, phía trước bức tường ngay bên cạnh mặt cô có một cái rương đồng nhỏ,
trên nắp rương chạm nổi hình một con chồn lông vàng. Cái rương đồng đã lốm đốm
hoen gỉ ấy khá thấp, nắp rương áng chừng chỉ cao ngang mặt Đinh Tư Điềm đang
nằm, vừa nãy tôi quơ tay, liền rờ phải cái đầu con chồn lông vàng trên nắp
rương. Tạo hình con chồn này hết sức kỳ quái, tuy vẫn nhìn ra là giống hoàng bì
tử, nhưng lại được nhân hóa cao độ, cực giống mặt người, khiến tôi hiểu lầm đó
là mặt nạ của cái xác Tiên Ty kia.
Tuyền béo nghe thấy
tiếng động cũng nhổm người bò lại xem. Thời bấy giờ, tinh lực của chúng tôi
tràn trề đến độ khó mà tưởng tượng nổi, trải mấy phen vào sinh ra tử, mình mẩy
đầy thương tích, bụng thì rỗng không, vậy mà ác đấu một phen xong chỉ cần nghỉ
ngơi giây lát là lại khỏe như trâu, sau này hồi tưởng lại, tôi cũng thấy kỳ
quái, tại sao mình có thể kiên trì đến lúc ấy vẫn không ngã vật ra nhỉ? Không
kể yếu tố tuổi trẻ khí thịnh, tôi nghĩ, còn một nguyên nhân chủ yếu nhất, thực
ra cực kỳ đơn giản và cũng đơn thuần lắm. Thời đó, chúng tôi thực sự cho rằng
mọi điều mình làm, đều là cống hiến tuổi thanh xuân để giải phóng toàn nhân
loại khỏi biển lửa áp bức bóc lột, tuyệt đối không mảy may nghi ngờ. Tín ngưỡng
có sức mạnh vô cùng vô tận, những người chưa từng thực sự sùng bái một lực
lượng nào đó tự đáy lòng làm sao có thể giác ngộ được điều này.
Tôi và Tuyền béo dịch
Đinh Tư Điềm sang một bên, châu đầu quan sát kỹ cái rương đồng. Nhìn bề ngoài,
cái rương thần bí cũ kỹ lốm đốm đầy vết hoen gỉ, bốn mặt đều chạm khắc đạo bùa,
tôi nhìn mà chẳng hiểu gì hết. Có điều, rương khảm nạm vô số đá quý và tơ vàng,
hết sức hoa lệ lộng lẫy, vừa nhìn đã biết không phải đồ cổ tầm thường, không
giống các loại rương chúng tôi vẫn thường thấy, nắp không có bản lề, mà giống
như cái quan tài, phải nhấc cả nắp lên mới mở ra xem có gì bên trong được.
Thực tế, cái rương đồng
này quả cũng khá giống chiếc quan tài bằng đồng nhỏ nhắn. Giờ thì sự việc đã rõ
ràng đâu ra đó rồi, thứ bị bọn Nê Hội khai quật trong miếu Hoàng đại tiên ở Đại
Hưng An Lĩnh chắc đến chín chín phần trăm chính là cái rương đồng cổ xưa trông
như cái quan tài này. Nhìn kỹ con hoàng bì tử đáng ghét chạm khắc trên nắp
rương, thấy mặt mũi nó khá giống người, khe hở giữa nắp và thân rương vẫn còn
dấu vết bị lửa đốt, thiết tưởng, cái rương này đã từng bị người ta mở ra rồi.
Tuyền béo nổi máu hiếu
kỳ, nói: “Cái rương đồng này nhỏ hơn tưởng tượng của chúng ta nhiều, không hiểu
bên trong thứ quái quỷ này đựng cái khỉ mốc gì nhỉ?” Miệng nói, tay cậu ta đã
thò ra định mở xem cho rõ ràng. Hồi trước, bọn tôi tham gia phong trào đả phá
“tứ cựu” cũng đập nhiều đồ cổ rồi, nên cậu ta cũng chẳng coi trọng cái rương
đồng ấy cho lắm.
Tôi vội cản: “Để yên
đấy, cái rương này tuy nhỏ, nhưng xưa vẫn có câu, ‘ao nông lắm rùa, miếu nhỏ
lắm ma,’ trước lúc chết, tên người Nhật bị kẹt ở mật đạo kia đã muốn chạy từ
đây ra ngoài, tại sao hắn ta phải chạy chứ? Chúng ta chỉ cần suy ngược một chút
là có thể rút ngay ra kết luận, cái viện nghiên cứu này không dưng lại chết bao
nhiêu người, sợ rằng cũng khó tránh khỏi can hệ với cái rương đồng và xác chết
nằm kia. Chúng ta còn sống được đến giờ này, chắc chắn là vì còn chưa làm một
việc: đó chính là chưa mở cái rương đồng này ra. Nắp rương mà được nhấc lên lần
nữa, chỉ e chúng ta sẽ chẳng còn cách nào sống sót rời khỏi đây được mất. Điều
kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ địch là bảo tồn lực lượng của bên mình trước
đã, không thể để xảy ra những hy sinh vô ích được.”
Tuyền béo gật đầu đồng
ý ngay, cậu ta cũng tiện thể tìm thêm một cái cớ nữa: “Để đề phòng kẻ thù giai
cấp trước khi diệt vong còn điên cuồng phản kích, tốt nhất đừng đụng đến cái
rương này nữa, hình như tôi cũng đã lại sức một chút rồi, chúng ta mau mau nghĩ
cách cứu Tư Điềm đi thôi. Nhất à... cậu nói xem... còn cứu được không nhỉ?” Tới
đây, Tuyền béo ngắc ngứ không dám nói tiếp, cứ lúng ba lúng búng, chắc là lo
lắng cho Đinh Tư Điềm quá, nên tâm lý không khỏi có phần dao động. Đối với cậu
ta mà nói, tình trạng thế này thực sự rất hiếm khi xảy ra.
Tôi nói với Tuyền béo:
“Chỉ cần chúng ta đoàn kết, chỉ cần chúng ta có dũng khí, chỉ cần chúng ta dám
đấu tranh, không sợ khó khăn, tiếp tục tiến lên, kiên trì tranh đấu, toàn thế
giới nhất định sẽ thuộc về nhân dân, tất cả ma quỷ yêu tà rồi nhất định sẽ bị
tiêu diệt. Ánh ban mai của ngày thắng lợi sẽ nhanh chóng chiếu khắp địa cầu,
tôi thấy gian mật thất này cũng khá nhiều đồ đạc, ta cứ thử tìm kiếm một lượt
nữa xem sao...”
Nói đoạn, tôi quay lại
kiểm tra tình trạng của Đinh Tư Điềm. Tính từ khi cô có dấu hiệu trúng độc của
con trăn vảy gấm, dựa theo các truyền thuyết về loại chất độc này, chúng tôi
đoán nhiều nhất là cô còn khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Giờ tuy mới chưa
được nửa ngày, nhưng sau mấy phen kinh hãi cực độ, cộng với các vết thương bên
ngoài, chất độc đã ngấm sâu vào tận xương cốt, xem chừng dù thế nào cũng không
thể cầm cự thêm một ngày đêm, nhiều lắm chỉ được hai tiếng đồng hồ nữa là cùng.
Một khi chất độc công tâm, sắc mặt từ xanh chuyển sang đen, thì dù có tìm được
thuốc giải độc cũng chẳng thể nào cứu nổi.
Tôi biết sự việc không
thể chần chừ thêm, không thể không phát huy tinh thần liên tục chiến đấu, vội
bảo Tuyền béo đỡ mình đứng lên. Trước mắt, không thể trông mong gì ở lão Dương
Bì, ông già đã hoàn toàn kiệt sức, xương cốt toàn thân như rời ra từng khúc
một, muốn đứng cũng không sao đứng lên nổi, đành để ông ngồi yên ở đó trông
chừng Đinh Tư Điềm. Hai cái đèn pin chúng tôi dùng đã rất lâu, mà pin dự trữ
thì đã rơi sạch ở trước cửa căn hầm số “0”, cũng không biết chỗ pin còn lại này
có thể duy trì được bao lâu nữa, ở trong gian mật thất tối đen như mực, làm
việc gì cũng phải dựa dẫm vào nguồn sáng, vì vậy không đến lúc quan trọng,
chúng tôi cũng không nỡ tùy tiện sử dụng, đành lục tìm trong túi áo ra hai đoạn
nến thừa lúc trước, đốt lên làm đèn dùng tạm.
Hiện giờ cửa mật thất
đã bị cây thi sâm chết bịt kín, những xác chết thối rữa lúc nhúc trên bộ rễ của
nó nằm vương vãi khắp mặt đất, thêm nữa, trước cửa còn bầy nhầy lăn lóc vô số
cơ quan nội tạng của đủ các loại sinh vật, và mùi thuốc chống thối rữa chảy
lênh láng thành dòng, hoàn cảnh bên trong gian mật thất này ác liệt thế nào,
thiết tưởng ai nấy đều có thể hình dung. Chỉ có chỗ góc tường nơi chúng tôi đang
đứng đây là không khí còn lưu thông, hô hấp không đến nỗi khó khăn cho lắm,
bước vào sâu bên trong một chút, liền cảm thấy hai mắt cay sè, mỗi lần hít thở
bằng mũi đều sặc toàn bụi là bụi.
Tôi và Tuyền béo lấy
vạt áo bẩn thỉu loang lổ máu quấn chặt mũi miệng, đang chuẩn bị tìm kiếm thì
lão Dương Bì đang dựa vào góc tường trông chừng Đinh Tư Điềm bỗng kéo gấu áo
tôi một cái. Ông già vẫn chưa lấy lại được hơi sức, không nói nổi tiếng nào,
chỉ khó nhọc chỉ chỉ vào cái xác người đàn bà bộ tộc Tiên Ty nằm trên bệ xi
măng, nhìn thần sắc trên gương mặt ông, tôi đoán một là ông già đang hoảng sợ
bất an, hai là muốn nhắc nhở chúng tôi nhất thiết phải đề phòng cái xác đó
thình lình bật dậy bắt người.
Tôi gật đầu với lão
Dương Bì, nghĩ bụng, giờ việc cứu người quan trọng hơn, cái xác ấy từ nãy giờ
vẫn chưa có động tĩnh gì, tốt nhất đừng đụng đến nó thì hơn. Đoạn, tôi đưa chân
khẽ đá cái rương đồng ra xa, rồi nói với lão Dương Bì và Tuyền béo: “Chuyện về
vu nữ của bộ tộc Tiên Ty rốt cuộc là như thế nào, chúng ta đều chẳng biết.
Nhưng Mao chủ tịch đã dạy, cần phải đoàn kết, đoàn kết tất cả các lực lượng có
thể đoàn kết được. Tôi hiểu đến đâu dùng đến đó, áp dụng mọi lúc mọi nơi, vậy
nên đã nghĩ đến khả năng chúng ta có thể đoàn kết đoàn kết với cái xác ấy. Thân
phận của nữ vu sư, đại khái chắc cũng không khác ni cô trong chùa chiền cho
lắm, tuy là một công việc thuộc phạm trù mê tín của chủ nghĩ phong kiến, nhưng
xét cho cùng thì bản thân cô ta cũng không có sản nghiệp gì cả. Giống như ni cô
trong chùa vậy, chùa chiền miếu mạo đều là tài sản quốc gia chứ không phải sở
hữu của cá nhân bọn họ, theo lẽ đó mà phân tích thì có thể xác định được thành
phần giai cấp của nữ vu sư thuộc bộ tộc Tiên Ty này, có lẽ cần phải xếp vào
giai cấp vô sản ừm... nếu... đương nhiên, nếu cô ta tự nguyện làm vu sư, thì
cùng lắm cũng chỉ là người làm nghề tự do thôi. Mâu thuẫn giữa giai cấp tiểu tư
sản và giai cấp vô sản chúng ta là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, người không
phạm đến ta, ta cũng không phạm đến người, huống hồ cái xác này có lẽ cũng liên
quan đến vụ thảm họa xảy ra ở viện nghiên cứu này, coi như là có công với kháng
chiến chống Nhật rồi còn gì. Cho dù cô ta và chúng ta có không hợp nhau cho
lắm, thì cũng nên nước sông không phạm nước giếng, mọi người thấy tôi nói có
đúng không?”
Lão Dương Bì bình
thường học tập tri thức lý luận chẳng ra sao, nghe không hiểu tôi nói gì, chỉ
trợn mắt lên lắc đầu, cũng chẳng rõ không đồng ý với quan điểm của tôi, hay
muốn bảo chúng tôi không được thiếu cảnh giác. Trình độ đấu tranh giai cấp của
Tuyền béo tất nhiên cao hơn lão Dương Bì nhiều, cậu ta lập tức tỏ vẻ tán đồng
với phân tích này của tôi, tuy nhiên, Tuyền béo cũng góp ý thêm, trong tình
hình kẻ địch ở trong tối ta ở ngoài sáng thế này, không thể không tăng cường
cẩn thận, phải hết sức để ý, vạn nhất mụ vu sư kia lại cam tâm tuẫn táng theo
giai cấp địa chủ, mưu đồ lật lọng thì nhất quyết không được nương tình, cứ đập
vỡ mẹ đầu nó ra đi.
Vì hoàn cảnh xã hội
thời bấy giờ, hễ khi nào không có chủ kiến, chúng tôi chỉ còn một cách duy nhất
là tìm kiếm đường hướng trong bốn quyển Mao tuyển. Mà cũng bởi chưa từng đọc
qua sách nào khác nên gốc rễ duy nhất của lý luận chính là cuốn sách nhỏ màu đỏ
ấy, đối với chúng tôi, nó giống như một cuốn bách khoa toàn thư bách chiến bách
thắng, từ đó có thể đúc rút ra được cương lĩnh đấu tranh, khiến cho mọi hành vi
đều có tính mục đích của nó. Giờ đã có phương hướng hành động, thành phần giai
cấp đã phân định rõ ràng, chúng tôi cũng không còn hoảng hốt như lúc vừa trông
thấy cái xác đó nữa rồi.
Chúng tôi tập trung tinh
thần, lê tấm thân mệt mỏi đi xung quanh tìm kiếm trong gian mật thất. Vật phẩm
để trong này thực sự rất nhiều, ngoài tiêu bản của các cơ quan trên cơ thể
người và động vật, còn có vô số các chai thuốc nước thuốc viên khác. Kỳ thực
lúc ấy, chính bản thân tôi cũng không biết rốt cuộc phải tìm thứ gì mới giải
độc cho Đinh Tư Điềm được, chẳng qua chỉ là không thể khiến mình dừng lại, bó
tay bàng quan nhìn chiến hữu thân thiết chết đi mà thôi. Khi đó, chúng tôi chỉ
nghĩ, cái viện nghiên cứu này đã nuôi trăn vảy gấm để nghiên cứu, thể nào chẳng
có thuốc men gì đấy liên quan. Nhưng khi nhìn những bình thuốc bày hàng dãy
trong các tủ, tôi và Tuyền béo đều không khỏi đớ người ra.
Hai chúng tôi đã đến
vùng núi tham gia lao động sản xuất được một thời gian, có nắm được một số
phương pháp cấp cứu của dân gian, nhưng tri thức y học thì chẳng có là bao,
cũng chưa từng học hành gì về mặt này cả, toàn bận bịu tham gia cách mạng thế
giới, lấy đâu ra thời gian mà học hành gì chứ? Ngoại trừ thời thiếu niên có
tiếp xúc với một ít chất hóa học thường gặp vì nghịch ngợm ra, bọn tôi hoàn
toàn không có chút hiểu biết gì với các loại thuốc phức tạp lằng nhằng này. Rốt
cuộc thứ gì mới giải độc của trăn vảy gấm được đây? Thuốc tiêm, thuốc nước hay
thuốc viên? Dấu hiệu nhận biết có thể là gì? Tôi tuyệt đối không có chút khái
niệm nào. Mà chuyện này không thể chỉ dựa vào suy đoán được, thuốc nào chẳng có
ba phần độc dược, chẳng may uống lầm thuốc, không chừng chưa kịp chết vì trúng
độc đã toi mạng vì thuốc trước rồi. Kể cả tôi và Tuyền béo có liều mình đem
thân thử thuốc cho chiến hữu trước, thì cũng không thể nào thử ra được cả trăm
nghìn loại thuốc khác nhau thế này.
Tuyền béo ủ rũ nói:
“Thôi toi rồi Nhất ạ, với trình độ của chúng ta, đến tìm mấy viên thuốc giảm
đau trong cái đống này cũng không tìm được nữa là, giờ có khi đặt thuốc giải
ngay trước mặt, hai thằng mình cũng chẳng nhận ra đâu. Với lại, dù tìm được
thuốc giải độc, thế thì phải tiêm vào cánh tay hay là tiêm vào mông đây? Nếu là
thuốc viên thì phải uống mấy viên? Uống lúc nào? Mấy chuyện này anh em ta chẳng
biết gì hết cả, tính sao bây giờ?”
Tôi cũng lấy làm hoang
mang, có điều, chỉ cần hẵng còn thời gian, tôi tuyệt đối không chịu từ bỏ nỗ
lực. Mắt thấy các loại thuốc tiêm, thuốc uống trong tủ nhiều đến hoa cả mắt, mà
chúng tôi thậm chí còn chẳng biết những thứ trong tủ này có phải thuốc men gì
hay không nữa. Dù sao thì thời bấy giờ hãy còn trẻ, chuyện gì cũng nghĩ hết sức
đơn giản, đâu biết rằng hiện thực tàn khốc không thể thay đổi theo ý chí của
con người được.
Bấy giờ, tôi cảm thấy
không thể lãng phí thời gian vào đống thuốc men này được nữa, bèn suy tính cách
khác. Nghĩ kỹ lại, bỗng nhớ ra Đinh Tư Điềm từng kể cho chúng tôi nghe chuyện
bố cô bắt trăn vảy gấm như thế nào. Loài trăn vảy gấm ấy trườn nhanh như gió,
không phải thứ tầm thường. Hầu hết các loài trăn đều không có độc, bọn chúng
tuy hung tàn, nhưng cũng chỉ có thể dựa vào sức lực siết chết người và súc vật
làm con mồi, duy chỉ có trăn vảy gấm là loại đặc biệt nhất trong các loài trăn,
tính tình cũng dâm nhất, trên xương đầu có “phân thủy châu”, ở xương đuôi có
“như ý câu”, ngậm trong miệng lúc hành sự có thể ngủ với cả mười cô một lúc,
trong sách Hoàng đế nội kinh gọi đó là chí bảo. Chất độc của loài trăn vảy gấm
này phun ra cực kỳ nguy hiểm với phái nữ, độc tính tương tự như nọc rắn. Nghe
nói, ở những nơi có độc trùng, rắn rết xuất hiện, trong vòng năm bước ắt có
thảo được giải độc, nhưng ở nơi trăn vảy gấm sinh sống, chỉ có “quan âm đằng”
là khắc tinh của nó, mà loại dây leo này cũng chỉ có thể xua đuổi trăn vảy gấm,
chứ không hề có tác dụng giải độc.
Nếu không tìm được
thuốc giải nhân tạo, mà tìm đường sống khác, thì trừ phi quanh đây có rắn độc,
tìm được loại thảo dược có thể giải độc rắn, may ra còn có hy vọng. Nhưng chết
người nhất là ở khu động Bách Nhãn này, loại trùng độc gì cũng có, duy chỉ
không thấy rắn độc xuất hiện. E càng nghĩ càng cuống, gân xanh trên trán giật
giật liên hồi, tâm trạng càng lúc càng thêm rối bời. Vừa nghĩ ngợi tôi vừa tiếp
tục đi sâu vào gian mật thất, không lật tung cả cái kho bí mật này lên, rốt
cuộc cũng không thể nào yên tâm cho được.
Tuyền béo tay khum khum
che ngọn nến đi phía sau tôi, còn tôi thì không bật đèn pin, đầu óc rối bời, cứ
thế cắm đầu lùi lũi đi về phía trước trong bóng tối, cũng không để ý xem mình
đang ở đâu, thình lình đập “bốp” mặt vào một tấm thủy tinh dày. Cú va chạm khá
đau, tôi vừa làu bàu chửi đổng vừa ôm trán, ngẩng đầu lên xem là cái gì. Trong
ánh sáng của ngọn nến Tuyền béo đang cầm sau lưng, chỉ thấy trước mặt tôi là
một cái tủ kê ngang sát tường, bên trong để đầy các lọ thủy tinh vừa lớn vừa
dài. Cách hai lần thủy tinh, tôi chỉ lờ mờ trông thấy bên trong hình như là bộ
xương trắng phớ, nhìn hình dạng xem ra không phải xương người.
Tôi và Tuyền béo đều
lấy làm lạ, tiêu bản xương cốt thì cần gì phải cất kỹ thế này? Tuyền béo lập
tức bước lên vừa lắc vừa giật, mở cửa tủ. Thì ra bên trong cái tủ lớn này có
mười mấy lọ thủy tinh bịt kín bằng sáp, đựng toàn tiêu bản của một số loài thú
kỳ dị, thậm chí còn có cả một cái xác khô của trẻ con thời cổ đại nữa. Phỏng chừng
đây là những thứ quan trọng, nên mới cần đến hai lần ngăn cách với môi trường
bên ngoài như thế. Trong đó, cái bình chứa bộ xương trắng là nổi bật nhất, bình
cao gần bằng một người trưởng thành, rót đầy chất lỏng màu vàng nhạt, một bộ
xương trông như xương trăn hay mãng xà gì đó cuộn ở bên trong, xương trắng hếu
không có một chút thịt thừa nào dính vào.
Trong đầu tôi và Tuyền
béo cùng hiện lên một ý nghĩ, “xương trăn”? Bộ xương này rất có thể là của một
con trăn, nhưng không hiểu có tác dụng gì, trăn gì mà quý giá đến mức phải giữ
gìn kỹ thế này? Nghe nói rắn có thể ngâm rượu được, lẽ nào xương trăn cũng ngâm
rượu được? Chúng tôi giơ ngọn nến lại xem từ trên xuống dưới, vừa thấy cái
xương đuôi, tôi liền lập tức hiểu ra ngay. Đây là xương của con trăn vảy gấm,
con này còn lớn hơn con chúng tôi gặp phải trong lò đốt xác nhiều. Xem ra, ở
động Bách Nhãn này từng có ít nhất là hai con trở lên. Mà cái con bị rơi xuống
lò đốt xác kia cũng thật đen đủi, bọn rắn độc hay trăn kỳ thực sợ nhất chính là
khói dầu mỡ, nó chết trong cái lò ấy cũng chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.
Tôi vốn còn định nếu qua được cửa ải này, tôi sẽ quay lại đó thu dọn xương cốt
cho con trăn khốn nạn ấy. Thứ này giá cả rất cao, có thể đổi được ngoại tệ, đối
với cách mạng thế giới là một sự cống hiến to lớn, nếu có thể lấy công này
chuộc lại tội làm mất bò ngựa, thì có lẽ lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm sẽ không
phải chịu trách nhiệm gì.
Tuyền béo hỏi tôi, ngâm
thế này có phải để làm rượu giải độc không? Tôi lắc đầu nói: “Sinh vật trên thế
gian này đều là thứ này khắc thứ kia, chẳng bao giờ nghe có chuyện tự mình khắc
mình cả. Xương trăn không thể giải được độc của trăn phun ra, điều này là
chuyện bình thường...” Lúc nói những lời này, quả tim tôi như đã chìm xuống đáy
biển, không sao kìm được nỗi thất vọng trong lòng, đưa tay ra rờ lên cái bình
thủy tinh đựng bộ xương trăn ấy. Không ngờ lúc ánh nến chiếu lên tay, tôi bỗng
phát hiện mu bàn tay mình toàn là những nốt đỏ li ti. Thấy thế, Tuyền béo vội
giơ tay lên xem thử, tình trạng cũng giống hệt như thế. Hai chúng tôi lập tức
như bị dội cho một chậu nước đá, xem ra bọn tôi đã trúng phải độc của cây thi
sâm kia rồi.
Nhưng chúng tôi còn
chưa kịp buồn bã, đã phát hiện ra sự lạ khác. Trong ánh sáng chập chờn của ngọn
nến, chúng tôi giơ hai bàn tay lên, vậy mà trên bình thủy tinh lại hiện lên
bóng của ba bàn tay. Tôi nghĩ đó là do thủy tinh phản quang hay nguyên nhân gì
đấy tương tự, song lại cũng cảm thấy hơi là lạ, bèn thử ấn bàn tay Tuyền béo
xuống, trên bình thủy tinh vẫn còn bóng một bàn tay nữa, vươn ra đó mà không
nhúc nhích gì cả. Hai chúng tôi đều bất giác lùi lại nửa bước, trong cái tủ
chứa tiêu bản ấy có người chết đang vươn tay về phía chúng tôi? Hay là... sau
lưng có người đang bắt chước động tác của chúng tôi? Tôi vội quay ngoắt đầu ra
sau, không thấy gì lạ, Tuyền béo lại giơ tay lên vẫy vẫy. Cái bóng bàn tay hiện
lên trên bình vẫn không nhúc nhích, bên trong cái bình to tướng đựng bộ xương
trăn ấy hình như còn có một người chết.
Chương 41: Thủ cung sa
Tôi vươn người ra, xoay
quanh cái bình đựng bộ xương trăn, định xem tại sao trong bình lại có xác chết,
thì Tuyền béo đột nhiên vỗ vai một cái: “Đừng tìm nữa, cái bàn tay ấy ở trong
tủ đây này.”
Tôi quay đầu lại nhìn
Tuyền béo, cậu ta đang giơ ngọn nến, chỉ tay về phía cái tủ cất giữ tiêu bản to
đùng ngã ngửa. Tôi nhìn theo hướng cậu ta chỉ, tuy ánh nến chập chờn mờ ảo,
phần bên trong tủ hiện lên hết sức mơ hồ dưới ánh sáng yếu ớt, nhưng ở góc của
chúng tôi đang đứng, đúng là nhìn thấy có một bàn tay xòe năm ngón, chống lên
lớp thủy tinh dày của vật chứa. Tôi và Tuyền béo đưa mắt nhìn nhau, đồng thanh
hỏi: “Có cả tiêu bản người chết cơ à?”
Cái tủ tiêu bản này
thực sự rất lớn, giống như một cái công ten nơ cỡ nhỏ, bên trong chứa đầy tiêu
bản hoàn chỉnh của các loài động vật, nhìn thoáng qua tầng ngoài cùng này, tính
cả xương của con trăn vảy gấm kia, thì dường như đều là những loài kịch độc.
Tôi cũng không hiểu những thứ này phân loại ra thế nào, nhưng con người thì làm
gì có độc, tại sao lại để tiêu bản của người chết chung một chỗ với những loài
độc trùng, độc thú này? Lẽ nào là để dưỡng thi độc? Lý do này cò vẻ không hợp
lý lắm, vì vậy hai thằng cùng buột miệng hỏi nhau, nhưng không thì biết hỏi ai
bây giờ? Hỏi ma quỷ chắc? Dù gì thì bốn người sống chúng tôi cũng không thể nào
biết được đáp án cho câu hỏi này.
Từ bên ngoài không thể
với tới bình chứa để sâu bên trong, tôi thoáng do dự, rồi đón lấy ngọn nến
trong tay Tuyền béo, định chui vào xem cho rõ. Tuyền béo khuyên giải: “Một cái
xác thì có ích quái gì cho chúng ta đâu? Thôi mau đi chỗ khác tìm xem, nói
không chừng gần đây lại có một con trăn cái, vậy thì chiến hữu thân thiết của
chúng ta được cứu rồi...”
Chúng tôi từng nghe
nói, trăn vảy gấm là một biến chủng của trăn rừng, trăm con đực mới có một con
cái. Loài trăn này vốn đã rất hiếm gặp, con trăn vảy gấm cái toàn thân có đốm
vằn màu đen lại càng hiếm có hơn, tương truyền trăn cái không có độc, mà dịch
não và tủy xương còn có thể giải độc của con đực. Vì vậy, nếu như tìm được một
con trăn cái, khẳng định có thể cứu mạng Đinh Tư Điềm, có điều động Bách Nhãn
không phải là vùng sinh sản ra trăn rừng, muốn tìm thấy loài sinh vật gần như
đã tuyệt chủng này, e rằng đến một phần vạn cơ hội cũng chẳng có nữa. Nói theo
cách biểu đạt tương đối thịnh hành thời đó, thì suy nghĩ này của Tuyền béo,
đúng là chẳng khác gì chuyện cổ tích mới cả.
Nhưng đối với cơ hội
chỉ có một phần vạn ấy, tôi cũng vẫn ôm một chút ảo tưởng. Nếu bọn Nhật kiếm
được một con trăn vảy gấm cái làm thành tiêu bản, khả năng này về mặt lý luận
không phải là không thể xảy ra, vì vậy tôi không từ bỏ hy vọng, định lục tìm
từng ngóc ngách một trong cái tủ tiêu bản khổng lồ, tóm lại là chưa thấy quan
tài chưa đổ lệ, chưa đến Hoàng Hà dạ chưa cam.
Nghĩ đoạn, tôi bảo với
Tuyền béo: “Vào trong xem chút đã.” Dứt lời, tôi cúi đầu thò chân bước luôn vào
tủ. Vì trong các bình các vại đều là những loài độc vật hình dáng kỳ dị, tôi
cũng không dám lơ là cảnh giác, chỉ sợ va đập làm vỡ mất bình nào thì nguy. Tôi
cẩn thận chầm chậm nhích dần vào, không gian trong này bốc lên một thứ mùi như
mùi long não, cay sè cả mắt. Tôi không dám hô hấp, nín hơi thở tiến lại gần cái
bình chứa ấy, trong bình toàn là chất lỏng màu vàng, tạp chất khá nhiều nên chỉ
nhìn thấy một cánh tay ở bên trong áp lên mặt bình. Cánh tay ấy nhỏ hơn tay
người trưởng thành nhiều, chỉ cỡ như bàn tay của đứa trẻ bảy tám tuổi, lòng bàn
tay dường như có một lớp màng chất dẻo trong suốt.
Tôi thầm nhủ: “Nghe nói
trong dân gian có thai độc thai điếc gì đấy, hình như chính là chỉ loại nhau
thai hay bào thai bị nhiễm độc, có thể chế thành thuốc độc hại người, trong tủ
này để toàn các loại độc vật, nếu có thai độc thì cũng không có gì là lạ, nhưng
nhìn bàn tay này thì trong bình không thể là thai nhi chưa thành hình được, mà
phải là đứa trẻ tầm bảy tám tuổi mới đúng. Lẽ nào, thai độc ngâm trong nước
thuốc bị phình ra?”
Nhưng tình thế không
cho phép nghĩ ngợi quá lâu, tôi thấy chỉ là một cái xác ngâm trong nước thuốc
thì cũng không lãng phí thời gian với nó nữa, định đi tìm chỗ khác. Nhưng đúng
lúc tôi định quay người đi sâu hơn vào bên trong, thì bỗng liếc thấy một vài
thứ, trong ánh nến chập chờn có thể trông thấy bàn tay đè lên thành bình chứa
đó, tuy giống hệt như tay người, nhưng lại không có chỉ tay, giữa mỗi tay đều
có một chấm tròn màu đỏ. Trong óc tôi chợt lóe lên một tia sáng, tiên sư nó
chứ, sao lại không nhớ ra cái chấm đỏ này nhỉ?
Tôi quay lại gọi Tuyền
béo dọn ngay những bình những vại bên ngoài đi, Đinh Tư Điềm được cứu rồi.
Tuyền béo nghe thế thì ngẩn người, dường như vẫn chưa dám tin có kỳ tích xảy
ra, nhưng kỳ tích không thuộc về thần tiên hay hoàng đế gì cả, kỳ tích thuộc về
giai cấp vô sản. Cậu ta tranh thủ từng phút giây, thậm chí không kịp hỏi tôi rõ
ràng, đã ôm cái bình to tướng ngâm bộ xương trăn dịch sang một bên, rồi tiếp
tục dọn ra một lối đi thông thoáng ngoài cửa tủ.
Sau đó, cậu ta cũng
chui vào trong giúp tôi một tay. Hai chúng tôi cẩn thận chuyển cái bình tôi vừa
phát hiện ra ngoài, nhẹ nhàng như bê một quả bom. Tuyền béo lấy làm thắc mắc,
hỏi tôi trong ấy đựng gì thế? Người chết à?
Tôi bảo: “Không phải
người chết, trong tủ này chẳng có người chết gì cả, đây là một con thủ cung,
một con thủ cung rất lớn, có thứ này, nói không chừng lại giải được chất độc mà
Đinh Tư Điềm trúng phải.”
Tuyền béo lấy làm ngạc
nhiên nói: “Cậu đừng có làm bừa đấy, sao tôi chưa bao giờ nghe nói thủ cung có
thể giải độc? Mà thủ cung là cái giống gì? Chúng ta đều do cha mẹ sinh ra, đều
do Đảng bồi dưỡng, được tắm trong cơn mưa xuân của tư tưởng Mao Trạch Đông dưới
ngọn cờ hồng, cậu làm sao mà biết nhiều hơn tôi được? Điều này làm tôi không
thể không hỏi, như vậy là tại sao?”
Lòng tôi đã nóng như
lửa, nhưng để giữ được tư thế trấn định bình tĩnh, dẫu cho núi Thái sụp xuống
cũng không chớp mắt trong lòng quần chúng của mình, tôi vẫn vừa tìm thanh bảo
đao Khang Hy cắt lớp sáp niêm phong miệng bình, vừa trả lời Tuyền béo: “Tại sao
tôi lại biết nhiều hơn cậu à? Bởi vì từ nhỏ tôi đã lập chí cao xa, đồng thời
chú trọng bồi dưỡng phẩm chất và ý chí của bản thân, không ngừng hấp nạp các
tri thức có giá trị thực dụng trên nhiều phương diện khác nhau, để sau này sẽ
trở thành một sĩ quan chỉ huy ưu tú của quân ta trong cuộc chiến giải phóng
toàn nhân loại. Còn cậu thì sao, cả ngày du thủ du thực, sinh chuyện thị phi,
ngoài săn thỏ ra thì cậu còn biết làm gì nữa không? Vả lại, tôi cũng từng là
chiến hữu Hồng vệ binh cùng cậu kề vai tác chiến, hoàn cảnh của chúng ta gần
như giống hệt nhau, từ nhỏ đã trải qua thiên tai nhân họa, lớn lên ăn cơm trong
nhà ăn xã hội chủ nghĩa, chẳng ai tắm nhiều gió xuân hơn ai cả, thế tại sao cậu
béo thế còn tôi thì gầy thế? Tôi cũng không thể không hỏi, như vậy là tại sao?”
Trình độ hùng biện của
Tuyền béo xưa nay vẫn kém tôi một bậc, lần này lại bị tôi vặn cho cứng cả họng.
Tôi nói nhiều với cậu ta như thế, thực ra cũng vì trong lòng không chắc cho
lắm. Nói nhiều, là một biểu hiện của tâm lý căng thẳng và bất an. Trong lúc nói
chuyện, tôi đã mở nắp cái bình thủy tinh ấy ra, cố nhịn mùi thuốc ngâm xốc lên
tận óc, lấy thanh đao chọc vào bên trong, quả nhiên đã khều ra được một con thủ
cung rất lớn, nước chảy ròng ròng, tính cả đuôi thì chiều dài khoảng hơn một
mét.
Thủ
cung là cái gì? Thực tế, thủ cung chính là con thằn lằn, thủ cung chính là mang
ý “thủ vệ hoàng cung nội uyển”. Hoàng đế ít thì có tam cung lục viện, nhiều thì
giai lệ ba nghìn, những người đàn bà ấy đều là của hoàng đế cả, người khác đừng
hòng đụng vào. Để đề phòng trong cung xảy ra chuyện dâm loạn, các thái giám
phải chọn ra những con thằn lằn nhỏ có ẩn sắc xanh, bỏ vào trong vại sành nuôi
dưỡng ở chỗ râm mát, mỗi ngày đều phải có người phụ trách cho lũ này ăn chu sa,
cứ nuôi như thế ba năm liền, lũ thạch sùng trong vại có thể lên đến bốn năm
cân, thể hình như vậy là khá lớn rồi.
Cũng
như lúc chọn lợn để làm thịt, có con thằn lằn nào đủ cân, liền bị bắt ra bọc
trong vỏ cây dâu, để lên mái ngói phơi khô, sau đó nghiền ra thành thuốc, điểm
lên cánh tay những cô gái mới vào cung. Từ đó trở đi, trên cánh tay những cô
gái ấy sẽ có thêm một đốm đỏ như máu, gọi là thủ cung sa, khi nào xử nữ mất
trinh, thì thủ cung sa sẽ tự động biến mất, không thì cả đời cũng không bao giờ
phai màu. Hoàng đế sử dụng phương pháp này để kìm kẹp những người đàn bà của
mình, một khi phát hiện ra cô nào chưa được ân sủng mà trên cánh tay không có
thủ cung sa, cô đó liền mắc tội khi quân. Dám cắm sừng lên đầu hoàng đế, tội ấy
ắt phải tru di cửu tộc mới xong.
Vì
thằn lằn có tác dụng đặc biệt này, thế nên còn được gọi là thủ cung, tên này
nghe đồn cũng là do một vị hoàng đế đặt cho, nên thành khuôn vàng thước ngọc
luôn. Vì vậy, thời xưa người ta đều gọi thằn lằn là thủ cung, nghe nói vì cái
tên này cũng thuộc chế độ cũ, cho nên đã bị loại trừ không dùng nữa. Có điều,
khi trông thấy con thằn lằn này, trong đầu tôi chợt nghĩ đến chuyện thời nhỏ. Trong
các câu chuyện mà ông nội tôi kể, ông luôn gọi nó là thủ cung.
Người
ta đều nói con trai bảy tám tuổi, chuyện gì cũng nghịch phá, đít bị đét đỏ như
đít khỉ rồi vẫn không thôi quậy. Nhưng tôi thì đến mười hai mười ba tuổi vẫn
không biết thế nào gọi là trẻ ngoan, chỉ biết quậy tung trời. Ở quân khu chúng
tôi ở, phía sau có một nghĩa địa hoang, sâu trong đám cỏ rậm rạp có một phiến
đá xanh, người trong vùng đều nói đó là nắp quan tài, ai ngồi lên trên ắt sẽ bị
âm khí của cương thi trong ấy làm tổn thương.
Tôi
nghe nói có chuyện ấy, bèn quyết định đi trinh thám một phen, dẫn theo mấy đứa
trẻ khác mang xà beng sắt bậy phiến đá xanh đó lên. Phiến đá đó vốn chẳng phải
nắp quan tài gì, chẳng qua chỉ là một phiến đá thiên nhiên mà thôi, mặt dưới
mọc đầy những rêu là rêu. Khi ấy, tôi chán lắm, không ngờ bên dưới phiến đá đó
lại có một con bò cạp lớn, nó chích một phát vào ngón áp út của tôi, vết thương
lập tức đen sì, sưng lên to tướng. Chẳng những thế, cả cánh tay cũng bắt đầu tê
dại đi, lúc bấy giờ tôi thực tưởng là mình sắp hy sinh anh dũng rồi, vội vàng
chạy ngay về nhà.
Khi
ấy bố mẹ tôi đều đi công tác xa, ông nội là người đưa tôi đến trạm y tế. Tay
bác sĩ ở đó cũng là hạng lang băm, vừa kiểm tra xong liền đòi cắt tay tôi luôn.
Nhưng ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi không đồng ý, ông bảo ông có cách chữa khác. Thời
trước giải phóng, ông từng là thầy phong thủy, nên cũng biết rất nhiều phương
thuốc bí mật trong dân gian.
Vừa
khéo lúc ấy có người bắt được một con thủ cung lớn còn sống, ông nội liền xin
về. Bàn tay con thủ cung nếu không nhìn kỹ thì khá giống tay người, ở màng giữa
các ngón tay đều có một mụn thịt nhỏ màu đỏ tươi, ông nội tôi lấy kim khều cái
mụn thịt ấy ra, hòa với nước cho tôi uống, chẳng bao lâu sau, ngón tay tôi liền
hết sưng.
Về
sau tôi hỏi ông đấy là cái gì, ông nội liền kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện về
loài thủ cung này, sở dĩ tôi có kiến thức khá phong phú về các thứ kỳ lạ xưa
cũ, cơ hồ cũng đều là do ông nội kể cho từ thuở bé cả. Cái mụn thịt đỏ trên kẽ
ngón tay con thủ cung ấy, được gọi là Tễ hồng hương, có thể khắc ngũ độc, giải
bách độc, nếu có một hộp Tễ hồng hương ấy treo trong phòng, cả nhà sẽ không có
kiến hay côn trùng gì hết. Có điều, muốn một cái hộp như thế phải cần rất nhiều
thủ cung đã trưởng thành, nhà bình thường không thể nào dùng được.
Không
ngờ những trải nghiệm trước đây, lúc này lại có tác dụng. Vì chỉ có Tễ hồng
hương ở chi trước là dùng được, nên mỗi con thủ cung trưởng thành tổng cộng chỉ
có tám hạt. Thứ này có thể giải bách độc, mà tôi còn nhớ, năm đó ông nội không
dùng thứ gì khác, không cần thuốc dẫn hay gì gì đó như trong Đông y, điều đáng
lo duy nhất chỉ là, cái gọi là giải được bách độc này, có bao gồm độc của trăn
vảy gấm hay không mà thôi. Nhưng có bệnh thì phải vái tứ phương, có cái phao
cứu sinh còn tốt hơn là buông tay nhìn Đinh Tư Điềm mất mạng.
Tôi
dẹp bỏ mọi lo lắng sang một bên, quyết định thử liều một cú, có hại chết Đinh
Tư Điềm thì tôi đền mạng cho cô là cùng. Khi ấy, thật đúng là lo cuống cả lên,
tôi và Tuyền béo hoàn toàn quên mất bản thân mình cũng trúng độc của cây thi
sâm. Tôi giải thích sơ qua về nguyên lý giải độc bằng Tễ hồng hương cho Tuyền
béo nghe, tuy cu cậu nửa hiểu nửa không, nhưng xuất phát từ lòng tin vô hạn đối
với chiến hữu là tôi đây, cũng gật đầu đồng ý cái roẹt.
Chúng
tôi kéo cái xác con thủ cung xuống đất, rửa qua cho sạch nước thuốc, rồi Tuyền
béo giữ chặt chi trước của nó, tôi lấy mũi đao khêu ra tám cái mụn thịt be bé,
cho vào lòng bàn tay giơ lên quan sát. Chỉ thấy hạt nào hạt nấy đỏ như giọt
máu, có thể cứu Đinh Tư Điềm hay không, toàn bộ đều phải dựa vào mấy cái hạt
này thôi vậy.
Lúc
này sắc xanh trên gương mặt Đinh Tư Điềm đã thấp thoáng hiện lên sắc đen, hai
hàm răng nghiến chặt, Tuyền béo và lão Dương Bì phải cậy ra để tôi nhét cả tám
hạt Tễ hồng hương vào miệng cô, bịt mũi rồi đổ nước cho trôi xuống. Ba chúng
tôi ngồi chờ dưới ánh nến, nhìn chằm chằm vào cô không chớp mắt, trái tim đều
như đã nhảy lên đến cổ họng. Không biết bao nhiêu lâu sau, đến khi mấy đoạn nến
còn sót lại đều đã cháy hết, mới thấy tuy sắc xanh giữa hai chân mày Đinh Tư
Điềm chưa nhạt đi, nhưng tạ ơn trời đất, hơi thở cô đã bình ổn hơn trước nhiều,
bệnh tình rốt cuộc cũng có dấu hiệu thuyên giảm.
Tôi
khẽ thở phào một tiếng, theo lý, lúc bấy giờ cần phải tiếp tục kiên trì để rời
khỏi gian mật thất âm u hôi thối ấy, nhưng sợi dây đang căng vừa lơi ra một
chút, tinh thần và thể lực đều không thể cầm cự lâu hơn được nữa. Trong khoảnh
khắc, tôi bỗng cảm thấy trời xoay đất chuyển, mãi không tài nào xua đi được ý
nghĩ muốn ngã vật xuống đất lăn ra ngủ một trận. Nhưng giờ này còn lâu mới đến lúc
nghỉ ngơi, cần phải nhanh chóng rời khỏi đây, cho dù có phải ngủ trong hành
lang ngoài kia cũng không thể để mất ý thức bên cạnh cái xác của nữ vu sư bộ
tộc Tiên Ty này được. Tôi cắn mạnh vào đầu lưỡi, cố lấy lại tinh thần, cùng
Tuyền béo tìm xem có dụng cụ gì dọn dẹp cái cây thi sâm đang chắn cửa mật đạo
kia không. Lúc này lão Dương Bì dường như đã hồi phục phần nào sức lực, ông già
cũng biết chỗ này không tiện ở lâu, bèn lảo đảo bước đến giúp chúng tôi một tay.
Tôi
cùng Tuyền béo và lão Dương Bì cũng phải vất vả một lúc lâu, tuy rằng chúng tôi
không hiểu biết nhiều về cái cây thi sâm “Yabulu” này cho lắm, nhưng phân tích
dựa trên một số thường thức về sinh vật mà chúng tôi đã được tiếp xúc, có khả
năng loại cây này cũng giống như con “bách hợp biển”, là một loại sinh vật cắm
rễ dưới đất không thể di động, phạm vi hoạt động chỉ giới hạn trong chiều dài
của bộ rễ, chứ không thể rời khỏi vùng đất thích hợp cho nó sinh trưởng, có
điều, xét khoảng cách từ trong hầm đất kia đến mật thất bên trong mật thất này,
độ dài của nó thật đúng là khiến người ta khó mà tin nổi. Chúng tôi cắt từng
đoạn của cây thi sâm đã bị thuốc chống thối rữa giết chết kia ra, mới phát hiện
không chỉ bộ rễ của nó nối liền với rất nhiều xác chết đã thối rữa, mà bên
trong lớp vỏ cây cũng có rất nhiều xác người, những cái xác cuốn bên trong rễ
cây thì đa phần mới chỉ trắng ởn, hơi rữa ra, còn thi thể bên trong thân cây
thì gần như đã nát nhừ không còn thành hình người nữa rồi. Tôi đang định giơ
chân đá những rễ cây bị Tuyền béo cắt đứt ra xa, chợt nghe lão Dương Bì gào lên
một tiếng như sói tru, hai gối quỳ gục xuống đất, rồi khóc rống lên với một cái
xác bị dính trên rễ cây thi sâm: “Em ơi, em ơi, em chết thảm quá...”
Tôi và Tuyền béo lấy
làm lạ, liền bước lại chỗ cái xác đó xem. Chỉ thấy cái xác đã dính liền với một
sợi rễ cây đó, mặt mũi trắng bệch, còn có mấy con giòi đang bò qua bò lại trên
trán, nhìn bộ dạng của lão Dương Bì, dường như cái xác này chính là em trai của
ông, Dương Nhị Đản. Tuy rằng chúng tôi xưa nay chưa hề quen biết Dương Nhị Đản,
nhưng dù sao cũng đã cùng lão Dương Bì trải qua vô số khảo nghiệm sinh tử, nên
cũng có chút cảm giác thương cảm bồi hồi, không khỏi thấy sống mũi cay cay.
Chúng tôi không biết
phải an ủi lão Dương Bì thế nào, đành bắt nhịp hát một bài, “đừng quên giai cấp
khổ, nhớ kỹ mối huyết thù” để tô màu bi tráng lên bầu không khí. Nhưng vừa hát
được nửa câu, tôi đột nhiên nhận ra trang phục trên người Dương Nhị Đản cũng là
toàn thân áo đen, dây lưng màu đỏ chói. Thì ra người này cũng thuộc bọn phỉ Nê
Hội cấu kết với người Nhật kia. Tôi vội đưa tay kéo áo lão Dương Bì, hỏi ông
già xem rốt cuộc ông là bạn hay thù, không ngờ trong một thoáng ngẩn người ra
ấy, lão Dương Bì đã lặng lẽ quay người bước đi mấy bước, ôm cái rương đồng
trông như cái quan tài kia lên, miệng lẩm bẩm, tay lần mở nắp: “Nhị Đản à, anh
gọi hồn em về đây…”
Nguồn doc.178vn.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét