Chương 16: Mật thất
Chúng tôi liền quay trở
lại kho Gena ở tầng dưới, trước tiên tìm mấy bộ quân phục và áo khoác của quân
Quan Đông mặc vào, lau qua loa vết máu và bùn nhớt trên mặt, mỗi người còn tìm
một cái mũ thép đội lên đầu.
Anh Tử vốn xinh xắn, mặc
quân phục lên người trông càng đẹp hơn, Tuyền béo đứng bên cạnh xuýt xoa
:" Ấy chết, cô em mặc quân phục Nhật vào trông lại giống Yoshiko Kawashima
mới chết chứ!".
Anh Tử không biết Yoshiko
Kawashima là người thế nào, tưởng Tuyền béo đang khen mình, còn lấy làm đắc ý
nữa, tôi nói với Anh Tử :" Cậu ta bảo em giống nữ gián điệp Nhật Bản đấy"
Anh Tử nghe xong, mày
liễu dựng ngược, Tuyền béo vội vàng nói :" Ấy, nói nhầm, ý anh định nói là
Anh Tử mặc quân trang, tay cầm súng, khiến anh liên tưởng đến một bài thơ của
Mao chủ tịch : Tha thướt dáng hoa, năm thước súng. Lơ thơ nắng mới chiếu thao
trường. Nữ nhi Trung Quốc nhiều tài trí. Chỉ thích quân trang chẳng phấn
hương".
Tôi đứng bên cười cười
:" Tay béo này sắp thành nhà thơ đến nơi
rồi, hơi một tí là lại ngâm ra được hai ba câu".
Trong lúc nói chuyện, tôi
tìm được một chiếc cờ lê lục giác trên giá để thùng dầu :" Đủ cả rồi, thứ
cần lấy đều đã lấy, tranh thủ thời gian hành động thôi!"
Ba người mặc quân phục
của quân Quan Đông, khoác súng tiểu liên, quay lại chỗ cũ, tôi vẫn đi sau cùng.
Lần này Tuyền béo và Anh Tử chẳng ai bảo nhìn thấy bóng đứa trẻ nào nữa, tôi
không hỏi, nhưng trong lòng cũng nghĩ vu vơ, không khỏi có chút nghi thần nghi
quỷ.
Tôi nghĩ bụng :"
Tuyền béo bảo đứa trẻ đó chạy vào trong cửa sắt, thằng tiểu yêu ấy rổt cuộc
muốn gì? Có phải định chỉ lối ra cho chúng tôi? Liệu có chuyện béo bở thế
không? Hay nó có âm mưu gì khác? Con mẹ nó, ông đây vừa hay vẫn còn một ít gạo
nếp, nghe bảo ma sợ gạo nếp, thằng tiểu yêu đấy mà dám gây phiền phức, nhất
định sẽ chỉnh cho nó một trận tơi bời, không thế thì cũng không thể hiện được
thủ đoạn của Hồ Bát Nhất này".
Tôi vừa đi theo họ, và tự
cổ vũ tinh thần, vết thương sau lưng gần như không còn đau nữa, chẳng mấy chốc,
chúng tôi đã trở lại hang đá có cánh cửa sắt.
Để đề phòng bất trắc,
chúng tôi đều đội mũ thép và đeo mặt nạ phòng độc, mở chốt súng, lên sẵn đạn.
Trước khi mở cửa, tôi bảo Anh Tử vốc lấy một nắm gạo nếp chuẩn bị ném, đồng
thời bảo Tuyền béo cầm súng ngắm sẵn, nếu bên trong cánh cửa có thứ gì, mặc kệ
ba bảy hai mốt, cứ thịt nó trước rồi tính sau. Ngoài ra còn dặn Tuyền béo phải
phối hợp với tôi, lần lượt nổ súng, không được để thời gian nạp đạn bị trống.
Sau khi sắp xếp ổn thỏa,
tôi khoác súng lên vai, đặt cờ lê lục giác vào ốc vít trên cửa rồi gắng sức
vặn, cánh cửa này đã không mở mấy chục năm rồi, ốc vít bị gỉ chặt lại.
Tôi dốc hết sức bình
sinh, cờ lê suýt nữa bị tôi vặn gãy, cuối cùng cũng nghe thấy tiếng "cạch
cạch cạch", ba rãnh thông khí phía dưới kêu "phụt" một tiếng,
không khí ùa vào bên trong, cả sắt bắt đầu kêu "kẹt kẹt rình rình"...
Rãnh thông khí đã thông,
cánh cửa sắt nặng nề uỳnh uỳnh mở ra, tôi vội lùi về sau hai bước, giơ súng và
đèn pin lên ngắm vào cửa, nhưng bên trong lại yên lặng như tờ không chút động
tĩnh.
Tình hình nằm ngoài dự
tính, chỉ thấy trong cửa tối om om không trông rõ gì, ánh sáng đèn pin rọi vào,
liền bị bóng tối bên trong nuốt trọn.
Tôi ra hiệu cho Anh Tử,
Anh Tử hiểu ý, tựa như tiên nữ rải hoa, ném nắm gạo nếp vào trong, nhưng căn
phòng kín vẫn không có động tĩnh gì hết, dường như tất cả mọi âm thanh trên thế
giới này đều biến mất cả, chỉ nghe thấy tiếng thở gấp gáp của chính mình trong
tấm mặt nạ phòng độc mà thôi.
Xem ra chúng tôi lo quá
xa rồi, đúng là thần hồn nát thần tính chưa có gì mà đã tự dọa mình đến gần
chết rồi.
Cuối cùng, Tuyền béo
không nhẫn nại được hơn, một mình lên trước, bước vào căn phòng kín, tôi và Anh
Tử theo sát phía sau, đi thành một hàng dọc.
Căn phòng kín này diện
tích chừng bốn mươi mét vuông, chỉ mỗi một gian duy nhất, ngoài cánh cửa sắt
kia, không còn lối ra nào khác nữa.
Trong căn buồng này không
phải vũ khí vi khuẩn, cũng không phải vũ khí hóa học, trước khi tiến vào, tôi
dường như đã tính tới mọi khả năng, duy nhất một điều không ngờ tới, trong
phòng lại đặt mười mấy cỗ quan tài lớn. Quan tài để rải rác khắp nơi trong
phòng, gỗ quan tài để nhiều năm, có cái đã mục nát, kiểu dáng, thủ công đều
khác nhau, thậm chí còn có một cỗ quan tài đá cực lớn, trong đó xa hoa nhất là
hai cỗ quan tài gỗ chò dát sợi vàng, dưới đất còn vô số mảnh vỡ gốm sứ rơi vãi.
Tôi quay đầu nhìn bọn
Tuyền béo, Anh Tử, cả hai đều lắc đầu, tuy đeo mặt nạ phòng độc nhưng tôi vẫn
cảm nhận được vẻ hoang mang trên mặt họ.
Tuyền béo hỏi tôi :"
Nhất ơi, chuyện gì thế nhỉ? Con mẹ nó, trông cứ như viện bảo tàng ấy, đâu ra
lắm quan tài thế?"
Tôi suy nghĩ một lúc, kỳ
thực việc này cũng không khó đoán, chẳng qua chúng tôi có sẵn định kiến, không
ngờ tới những thứ này mà thôi.
Dã Nhân câu vốn là khu mộ
cổ từ thời Kim Liêu, quân Quan Đông xây dựng căn cứ ngầm bí mật này, đặc biệt
là ba đường hầm nối liền hai đầu căn cứ, cắt ngang khe núi Dã Nhân câu, khi thi
công, nhất định đã quật lên không ít mộ cổ, đồ tùy táng và cả quan quách của
quý tộc Kim Liêu ở trong các ngôi mộ này, đối với người Nhật đều là bảo bối,
bọn chúng mang hết những thứ đào lên được trong mộ cổ, cất giấu trong căn phòng
bán chân không này, quân Quan Đông rút đi vội quá, trước khi đi chỉ kịp mang đồ
bồi táng theo, còn quan tài thì để cả lại đây.
Tuyền béo bảo :"
Người Nhật cũng thật biết tiện tay vơ của, chẳng để lại cho mình thứ gì, xem xem
trong quan tài liệu còn gì đáng tiền không, cũng đỡ uổng công từ nãy đến
giờ". Nói đoạn liền vung chân đá vào nắp một cỗ quan tài lớn ra, nắp quan
tài vốn đã bị người Nhật nạy ra sẵn, vẫn chưa đóng đinh lại, bị đá một cái, đã
văng sang một bên.
Anh Tử không dám lại gần
nhìn :" Em đứng ở cửa đợi hai anh nhé, tiện thể trông chừng luôn, kẻo có
người nhốt mình vào đây thì chết". Anh Tử dứt lời liền đi ra cửa, một chân
bên ngoài, một chân đặt trong, canh gác của ra vào.
Tôi ngoảnh ra nói với Anh
Tử đang đứng canh cửa :" Vẫn là cô em cảnh giác, anh quên khuấy mất việc
này, đi lính bao năm nghĩ cũng uổng thật, cửa này chỉ có thể mở từ bên ngoài,
chúng ta mà bị nhốt trong này, e chỉ có khóc cũng không tìm đâu ra lỗ thoát
nước mắt nữa".
Tuyền béo chỉ phăm phăm
lục lọi trong quan tài :' Mả mẹ, toàn xương với xẩu, bọn Nhật này đúng thất đức
bỏ mẹ, đi đến đâu cũng giở chính sách ba sạch ( giết sạch, đốt sạch, phá sạch)
ra hả, đến cả một cái vại còn nguyên lành tử tế cũng không để lại nữa".
Lục lọi ba bốn cỗ quan
tài tiếp theo cũng vẫn y như vậy, Tuyền béo tức tối chửi rủa luôn mồm, đi tới
đẩy nắp cỗ quan tài gỗ chò dát vàng sơn đỏ kia.
Tôi không chú ý lắm đến
mấy cỗ quan tài thường đó, mắt tôi cứ bị cỗ quan tài đá đồ sộ kia hút lấy, trực
giác mách bảo tôi, bên trong đó có đồ...
Cũng không hiểu sao tôi
lại có suy nghĩ đó, bỗng nhiên thấy bị kích động, thấy buộc phải mở cỗ quan tài
đá này ra xem sao. Tôi gọi Tuyền béo lại giúp một tay, hai người hợp sức đẩy
phiến đá bên trên, phiến đá vừa dày vừa nặng dị thường, gắng sức đẩy mãi cũng
chỉ hở ra một kẽ nhỏ.
Tuyền béo thở hổn hển,
xua tay :" Thôi mệt quá ... nghỉ tí đi, nặng thế hả giời ... bụng rỗng
tuếch đẩy chẳng nổi rồi".
Tôi cũng đói cồn cào,
bụng kêu lục bục, vừa dùng sức một cái, mắt đã hoa lên, đành phải ngồi xuống
nghỉ ngơi, chúng tôi bỏ mặt nạ phòng độc xuống, mỗi người châm một điếu thuốc.
Tuyền béo nhả ra một
khuyên khói :" Nhất này, cậu bảo xem, người ngày xưa dở hơi hay sao mà đi
làm quan tài đá thế, lần đầu tiên tớ thấy người ta dùng đá làm quan tài
đấy".
Tôi sờ lên phiến đá bảo
:" Đây không phải quan tài, mà gọi là quách đá, quan quách, quan quách,
quan tài gỗ đặt bên trong cái quách đá này. Có thể hưởng đãi ngộ như vậy, chắc
hẳn phải là một tay to đấy, nói không chừng là vương gia cũng nên".
Tuyền béo gãi gãi đầu
:" À, thì ra là vậy, mẹ, phức tạp thế, đều chôn ở Dã Nhân câu, thế tướng
quân trong ngôi mộ mình đào được với chủ nhân cỗ quan tài đá này, đem so ra thì
quan tước ai to hơn?"
Tôi lắc đầu :" Không
biết được, chuyện này thì cũng khó nói lắm, anh em mình đều không am hiểu lịch
sử mấy, có điều trong mấy trăm năm thời Kim Liêu Nguyên, dân du mục phương Bắc
lớn mạnh chưa từng thấy, bọn họ đoạt thiên hạ đều trên lưng ngựa cả, tớ đoán là
trọng võ khinh văn, cho nên quý tộc có công lao trên chiến trường nhất, mới
được chôn ngôi mộ chính giữa khu đất phong thủy rất đẹp này, những mộ quý tộc
chôn xung quanh gần đó, có lẽ còn nhiều đồ tùy táng hơn mộ tướng quân ấy chứ.
Sở thích của chủ nhân lúc sinh thời khác nhau, đồ tùy táng chắc chắn cũng không
giống nhau. Cứ lấy ngôi mộ cổ mình đào được kia làm ví dụ, chủ nhân là một tay
vũ phu, không có thú vui gì cao nhã, thế nên vật phẩm trong mộ toàn ngựa với
binh khí".
Tuyền béo nói :"
Thực ra số ngựa kia khẳng định là thiên lý mã, nếu còn sống thể nào cũng đáng
tiền lắm, có điều giờ chỉ còn lại mỗi đống xương, đem bán đồng nát cũng chẳng
đứa nào thèm. Cũng may hắn còn hai miếng ngọc bích, nếu không mình công toi
rồi, hai miếng ngọc này mang về bảo Răng Vàng kiếm người mua, thế nào cũng được
tám nghìn một vạn".
Trong lúc nói chuyện,
điếu thuốc cũng đã hút hết, hai chúng tôi đeo lại mặt nạ phòng độc, vận hết sức
đẩy phiến đá lần nữa, Anh Tử cũng chạy lại giúp, cuối cùng cũng đẩy được phiến
đá sang một bên. Trong quách đá lộ ra một cỗ quan tài gỗ đen tuyền, cỗ quan tài
này phải to gần gấp đôi quan tài bình thường, hơn nữa độ cao cũng cao ngang nửa
người rồi.
Thủ công mỹ nghệ của cỗ
quan tài rất tinh tế,quyết không phải vật tầm thường, hai đầu, bốn bên, cho tới
nắp quan tài đều có tranh ngũ sắc mạ vàng, vẽ đủ những loài thú thần may mắn
như tiên hạc, kỳ lân, rùa đầu rắn, để phù hộ chủ nhân sau khi chết xác hóa
thành tiên. Trên nắp quan tài còn vẽ nhị thập bát tú tinh đồ, bốn phía dưới
chân quan tài được chạm trổ vân mây màu vàng, chẳng rõ là dùng cách bí mật gì,
trăm ngàn năm sau sắc màu vẫn tươi như mới, thật khiến người ta phải thán phục.
Chúng tôi đều lần đầu
thấy cỗ quan tài rực rỡ sành điệu thế này, nếu chẳng phải tận mắt trông thấy,
làm sao ngờ được trên đời lại có cỗ quan tài đồ sộ đẹp như một tác phẩm nghệ
thuật thế này.
Tuyền béo hí hửng :"
Dù bên trong không có gì, ta khuân quan tài về bán, thế nào cũng kiếm được một
món lớn đấy!". Nói đoạn liền xắn tay áo đẩy nắp quan tài ra.
Cả Anh Tử cũng không nén
nổi ý định xem trong cỗ quan tài lớn này có gì, ba người chụm đầu vào nhau, soi
đèn pin vào trong, mảnh gấm trải lót phía dưới đã mục nát từ lâu, chỉ e chạm
phải là sẽ mủn ra thành bụi, trên lớp gấm đã mục là một bộ hài cốt, trải qua
ngàn năm, quần áo, da thịt sớm đã tiêu tan, chỉ còn đầu lâu là giữ tương đối
hoàn chỉnh, miệng mở to, lộ ra hai hàm răng mủn đen sì, nếu không thấy đầu lâu,
chắc chẳng thể nhận ra được đây là một bộ xương người.
Anh Tử quét ánh đèn vào
góc chiếc quan tài khổng lồ, bỗng kinh hãi hét lớn :" Ối mẹ ơi, chính là
đứa bé này!"
Chỉ thấy hai đầu quan
tài, mỗi đầu có một đứa bé hở mông, một trai một gái, xem chừng khoảng năm, sáu
tuổi, mặt mũi sống động, tóc bé trai tết bím xung thiên, tóc bé gái vấn thành
hai bím, tuyệt đối không phải kiểu tóc của thời cận đại, mà lại giống như người
thời cổ trong bích họa, lẽ nào là đồng nam đồng nữ bị tuẫn táng? Xác chủ nhân
quan tài đã sắp tiêu hế rồi, sao đôi đồng nam, đồng nữ này vẫn được gìn giữ
hoàn hảo như thế?
"Hai đứa trẻ ranh
này, chín phần là người giả, làm y như thật vậy". Tuyền béo vừa nói vừa
thò tay định bấu đứa trẻ trong quan tài, " Ông béo mày hôm nay lại muốn
xem xem, đã thành tinh con mẹ gì chưa?"
Tôi tóm tay Tuyền béo lại
:" Không đeo găng tay tuyệt đối không được đụng vào! Đây không phải người
giả đâu, khả năng có độc đấy, mọi người nhìn kỹ trên mình hai đứa trẻ này xem,
toàn là đốm màu tím xanh, chính là đốm thủy ngân đấy".
Hồi những năm năm mươi,
ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi từng ở trong một bệnh viên lớn ở Bắc Kinh để khám
bệnh. Trong thời gian ấy, vừa hay gần bệnh viện có một công trình xây dựng lớn,
ở công trường người ta đào được một ngôi mộ cổ, ông nội cũng đã trốn viện xem
náo nhiệt, chui cả vào hầm mộ coi một lượt.
Ngôi mộ ấy nghe nói là
của một vương gia đời Minh, xung quanh mộ là một vòng nước đen ngòm, hầm mộ
ngầm dưới đất chia làm ba bộ phận trước, giữa, sau, cửa có treo thiên cân hạp
1, đi qua cửa này, đầu tiên là gian "Minh điện", bố trí như trong nhà
chủ mộ lúc còn sống, có bày biện đủ các đồ gia dụng, những thứ ấy gọi là
"Minh khí" 2
Đi sâu vào trong, gian mộ
giữa gọi là "Tẩm điện", là nơi đặt quan quách. Ngôi mộ này là mộ hợp
táng, hơn nữa điều đặc biệt là, quan tài của vợ chồng chủ mộ, cũng chính là
vương gia và vương phi, đều dùng xích sắt, khuyên đồng, và khóa đồng móc vào,
treo lơ lửng giữa tẩm điện.
Sau cùng là "Phối
điện", là nơi đặt các đồ tùy táng.
Chưa được mấy hôm, ở khu
Hải Điện cũng đào được một ngôi mộ cổ thời Nguyên, cả hai ngôi mộ này đều có
đồng nam đồng nữ tuẫn táng, lúc xuất thổ vẫn giống y như người sống, chỉ có
điều đồng nam đồng nữ trong ngôi mộ thời Nguyên, vừa chạm một cái quần áo trên
người đã tan ra thành bụi.
Về sau ông nội đem hai
việc này coi thành chuyện kể mà kể tôi nghe, ông bảo những đứa đồng nam đồng nữ
ấy khi còn sống, ngoài bị bắt uống thủy ngân ra, còn bị khoét lỗ trên đỉnh đầu,
sau lưng, lòng bàn chân, đổ đầy thủy ngân vào, sau khi chết lại lấy bột thủy
ngân bóp đều khắp người, giống như làm tiêu bản vậy, sau hàng vạn năm, da thịt
cũng không rữa nát được. Kỹ thuật này còn tiên tiến hơn nhiều so với thuật ướp
xác của Ai Cập cổ đại, nhưng bối cảnh của hai nền văn minh khác nhau, định
hướng giá trị cũng có nhiều khác biệt, hơn nữa phép đổ thủy ngân giữ bề ngoài
thi thể, cần phải dùng người sống, người chết máu huyết không còn lưu thông,
chẳng thể đổ vào trong được, cho nên kỹ thuật này xưa nay đều không dùng trên
thi thể của bất kỳ chủ mộ nào.
Chuyện tàn nhẫn nhất trên
đời e rằng chính là dùng người sống tuẫn táng, Tuyền béo đeo găng tay ẵm xác
một đứa bé ra, kiểm tra kỹ lưỡng, quả nhiên trên các chỗ như đỉnh đầu, sau
lưng, lòng bàn chân đều phát hiện có lỗ khoét. Các lỗ hổng trên thi thể này,
đều đã được người thợ khéo tay dùng xi gắn chặt, trên xác có không ít chỗ xuất
hiện những vết đốm màu tím đen, trên người và đồ vàng bạc châu báu tùy táng
thường được phết một lớp bột thủy ngân, trải qua thời gian dài sẽ xảy ra các
phản ứng hóa học, niên đại gần sẽ thành màu đỏ nâu, niên đại xa hơn thì chuyển
thành màu tím đen, những vết lốm đốm ấy thường gọi là "đốm thủy ngân"
hay "tẩm thủy ngân", cũng có một số nơi gọi đốm trên xác chết là
"lạn âm tử" hoặc "thủy ngân xanh".
Rõ ràng Tuyền béo hơi
căng thẳng, cậu ta cố ra vẻ bình tĩnh, thở hắt một hơi nói :" Trước kia
đọc tiểu thuyết Lỗ Tấn, có đoạn tả cảnh ' tẩm thủy ngân' lên đồ cổ, xem ra ông
anh này cũng không phải viết bậy đâu, đúng là có việc đó thực".
Anh Tử hỏi :" Vậy
cũng đáng thương quá, anh Nhất, anh bảo hai đứa đồng nam đồng nữ này, sao không
cho chúng mặc quần áo nhỉ? Em nhớ lúc trước thấy đứa bé chạy vụt qua có mặc
quần áo cơ mà, lẽ nào là hồn ma sao?"
Tôi trả lời :" Có
phải là hồn ma hay không chỉ có bản thân chúng mới rõ thôi, chỉ có điều không
phải hai đứa bé này không mặc quần áo, đồng nam đồng nữ tuẫn táng, chắc chắn
đều được khoác quần áo rực rỡ, trải qua gần một ngàn năm, đến giờ thì quần áo
ấy cũng mục cả rồi. Quan tài này e là từ thời Nguyên, từ khi quân Quan Đông đào
quan tài này lên, quần áo gặp phải không khí đã mủn thành tro bụi rồi".
Anh Tử nói tiếp :"
Chẳng phải vẫn nói nhân nhập thổ vi an đấy sao? Hay là mình giúp chúng đi, thật
đáng thương quá đi mất!"
Tuyền béo gật đầu đồng ý
:" Tớ chỉ muốn phát tài chứ chẳng muốn nhúng tay đến mấy thứ việc ba lăng
nhăng làm gì, nhưng lần này tình huống đặc biệt, mình làm việc thiện, đem chúng
ra ngoài đào lấy cái huyệt mà an táng tử tế, đừng để chúng trần truồng hớ hênh
ở đây nữa, chúng đã canh gác cho chủ mộ cả ngàn năm nay rồi, cũng đến lúc nghỉ
ngơi rồi".
Trong xác chết toàn là
thủy ngân, có đốt cũng không tan được, chỉ còn cách đào hố chôn đi, những gì
chúng tôi làm được cũng chỉ vẻn vẹn có vậy, mong rằng trên đời bớt đi những
thảm kịch như vậy.
Không chần chừ thêm nữa,
tôi và Tuyền béo cởi áo khoác của quân Quan Đông trên người xuống, lần lượt bọc
hai đứa trẻ vào trong, buộc chặt cõng trên lưng. Thi thể bị đổ đầy thủy ngân
nặng trình trịch, cũng may là trẻ con, nếu là người lớn, một người cõng chắc là
sụm lưng mất.
Tuyền béo thấy chưa lấy
được món nào đáng tiền, trong lòng ít nhiều cũng ấm ức, chỉ muốn làm một mồi
lửa thiêu sạch chỗ quan tài này, tôi và Anh Tử vội vã can ngăn, cậu ta mới chịu
thôi.
Chúng tôi trở lại hang đá
bàn xem thoát ra bằng cách nào, lúc này ai nấy đều đã đói khát khó chịu, chỉ
hận rằng trong căn cứ ngầm này không có thức ăn nước uống, cũng không có thuốc
nổ bom mìn, muốn trở lên mặt đất, chỉ còn cách đi qua ngôi mộ tướng quân, nhưng
nghĩ đến sức mạnh của con quái vật lông đỏ, thực khiến người ta đau đầu, ăn no
uống đủ cũng chắc đã là đối thủ của nó, huống hồ giờ đã đói đến nỗi bủn rủn
chân tay.
Ba người nhìn nhau, trong
đầu gần như chung một suy nghĩ, dưới đất có mười mấy con dơi chết, việc đến
nước này, cũng chỉ có thể đem mấy anh chàng ra cúng cụ dạ dày thôi.
Loài người vốn là động
vật ăn tạp, một khi đói hoa cả mắt, thì không gì không thể ăn được. Anh Tử kể
hồi cô còn nhỏ, từng cùng với ông nội ăn thịt dơi trong một hang động tận sâu
trong rừng, năm ấy cháy rừng, lại gặp phải nạn đói, động vật lớn trong núi đều
chạy mất tăm mất tích, người ta phải ăn thịt chuột đất, thịt dơi, ăn cào cào,
châu chấu, gân và sụn dơi ăn rất ngon, nhai sướng mồm.
Lũ dơi mặt lợn trong hang
xương nhỏ lởm chởm, trông lại hung ác dữ tợn, giống y như những cái xác khô của
bọn ma cà rồng, đối với câu nói thịt chúng ngon, tôi và Tuyền béo giữ thái độ
" bảo lưu ý kiến chờ xem xét".
Nhưng để sinh tồn, cũng
chẳng thể nghĩ ngợi nhiều như thế được, muốn đốt lửa nướng thì phải về kho
Gena, ở đó nhiều hòm gỗ có thể làm củi, đương nhiên ván quan tài cũng có thể
đốt, nhưng ăn thịt nướng bằng gỗ quan tài, chuyện này ít nhiều cũng khiến người
ta khó thể chấp nhận. Vậy là Tuyền béo dùng dây thừng trên người, lựa năm sáu con
dơi béo mẫm buộc chân lại thành một chuỗi, kéo lệt xệt đi, trong đó có cả con
dơi chúa to nhất.
Về kho Gena, đặt hai
chiếc áo bọc đứa đồng nam đồng nữ sang một bên, Anh Tử lấy dao găm chặt cái đầu
xấu xí của con dơi và móng vuốt không có thịt đi, rồi mổ bụng bỏ nội tạng, sau
cùng lột da qua quýt cho xong.
Tôi tìm một đống hòm gỗ,
lấy chân đạp bung ra thành từng tấm, lại rút dao cạo lấy một ít mạt gỗ, đánh
diêm đốt mạt gỗ để làm mồi, Tuyền béo bên cạnh trợ giúp, ngồi chồm hỗm, tay đưa
ngang miệng thổi hơi cho lửa bùng lên.
Bọn tôi lại tìm mấy lưỡi
lê gắn trên súng trường, xuyên qua con dơi rồi bắc lên nướng, Tuyền béo cau cau
đôi mày, ra vẻ rất không muốn ăn cái món này.
Anh Tử khuyên bảo :"
Không khó ăn đâu, anh đừng nghĩ đây là thịt dơi, nhai thêm mấy cái, mùi vị y
như thịt dê ấy".
Tôi lại không để ý lắm,
dơi chẳng phải cũng giống chuột hay sao, hồi làm bộ đội tham gia diễn tập ở
Thiểm Tây, tôi đã ăn thịt chuột không biết bao nhiêu lần rồi, đủ các loại từ
chuột đất, chuột bay, chuột chũi, chuột đồng đến chuột hoa ly, mùi vị cũng tàm
tạm, nạc nạc mỡ mỡ từng lớp từng lớp một, quả thực cũng không khác gì thịt dê,
có điều thịt dơi thì đúng là chưa ăn bao giờ.
Dơi mặt lợn là động vật
máu nóng, không có nhiều mỡ, không nên nướng lâu, thấy màu thịt đã có vẻ chín, tôi
thử một miếng trước, thịt bả vai rất giòn, bên trong có khá nhiều gân với sụn,
quyết không thể nào ngon như thịt dê, song quả thật nhai cũng rất sướng miệng.
Tuyền béo thấy tôi ăn
rồi, cũng bịt mũi ăn một miếng, thấy cũng đường được, liền lập tức ăn như gió
cuốn mây bay vèo hết một con, vẫn còn thòm thèm, lại xọc lưỡi lê vào con dơi
chúa bắc lên nướng tiếp.
Lúc chúng tôi ăn được
khoảng nửa con, trần nhà trên đầu Tuyền béo rớt xuống một chuỗi chất lỏng dinh
dính, óng ánh, vừa hay rơi đúng vào mặt cậu ta. Tuyền béo đang hăm hở ăn, thấy
trên mặt ướt nhơm nhớp, lập tức đưa tay quẹt một cái, ngạc nhiên thốt :"
Mẹ kiếp nước rãi thằng nào rớt ra nhiều thế? Chảy bố nó xuống mặt ông mày
rồi". Lời vừa ra khỏi miệng, bản thân cậu ta cũng thấy câu này hỏi có vẻ
không đúng lắm.
--------------------------------
1 Tảng đá, hay tảng sắt
sập xuống khi khởi động cơ quan. 2 "minh" ở đây có nghĩa là "âm
phủ", "minh điện" là "điện âm phủ", "minh
khí" là " đồ âm phủ" tức "đồ tùy táng".
Chương 17: Lười
Đất Thảo Nguyên
Trong căn cứ ngầm này chỉ
có ba người, tôi và Anh Tử đều ngồi đối diện với cậu ta, hai bọn tôi có bản
lĩnh gì chăng nữa, cũng không thể nào làm nước bọt nhểu lên đầu Tuyền béo được.
Ba người đều cảm thấy kỳ
lạ, cùng ngẩng đầu nhìn lên, rốt cuộc là cái gì đã nhểu chất lỏng ấy xuống?
Ngọn lửa đốt bằng gỗ vụn từ các thùng đạn, chiếu sáng xung quanh đấy, những chỗ
xa, ánh lửa không rọi tới, vẫn là một vùng đen tối lặng yên phăng phắc.
Đúng chỗ ngay trên đầu
chúng tôi, ánh sáng của ngọn lửa và bóng tối giao nhau, chìa ra một mặt người
cực lớn. Gương mặt này ít nhất là to gấp đôi mặt người thường, trắng như trát
phấn, vẻ mặt trơ lỳ, không nhìn ra được là mừng hay giận, mũi khoằm như mỏ diều
hâu, đôi mắt đỏ sọc như máu, nhìn chằm chặp vào miếng thịt dơi nướng trên tay
Tuyền béo, cặp môi vừa dày vừa thô, chìa ra phía trước, cái miệng to tướng há
ra đen ngòm, nửa cái lưỡi đỏ au chìa ra ngoài mép, nước dãi chảy ròng ròng,
từng giọt từng chuỗi từ bên trên rớt xuống.
Chủ nhân của bộ mặt ấy,
có cái cổ rất dài, da đen mà cứng, trần kho Gena rất cao, nên cả người nó đều
ẩn giấu trong bóng tối, nơi ánh lửa không soi tới, chỉ có thể trông thấy mặt và
một đoạn cổ mà thôi. Dường như nó rất hứng thú với thịt dơi nướng chúng tôi
đang ăn, định bổ xuống cướp lấy, nhưng lại sợ ngọn lửa cháy bùng bùng bên dưới,
nên cứ chần chừ do dự không quyết.
Nhưng coi bộ có lẽ sức
hấp dẫn của mùi thịt nướng đối với nó quá lớn, đã không thể kiềm chế được hơn,
bất cứ lúc nào cũng có thể bổ nhào trên trần xuống.
Đây rốt cuộc là người hay
quái vật? Ba chúng tôi ngẩng đầu lên thấy vậy, đều vừa kinh hãi vừa ngạc nhiên,
tôi không hiểu cái thứ này ở đâu ra, nhưng cũng nhìn ra được nó đang thèm ăn
thịt dơi nướng.
Chúng tôi mang trong hang
đá vào đây cả thảy năm con dơi to, Anh Tử và tôi mỗi người ăn nửa con, Tuyền
béo một mình ăn cả con, còn lại ba con, lúc nãy Tuyền béo xả thịt con dơi chúa
ra làm ba phần, một phần xiên vào lưỡi lê, đang nướng trên ngọn lửa.
Có điều trong lúc này,
đâu thể suy nghĩ được nhiều, tôi thấy Tuyền béo bị bộ mặt vô hồn trên đầu làm
cho đờ cả người, vội giật lấy lưỡi lê đang xiên thịt dơi nướng trên tay cậu ta,
giơ lên phía bộ mặt quái đản kia, huơ huơ nửa vòng, rồi dùng sức văng sang một
bên.
Tôi dùng sức quá mạnh,
ngược lại làm miếng thịt không văng ra xa được, mà tuột khỏi lưỡi lê, rơi xuống
một chỗ cách lưng Anh Tử không xa lắm, Anh Tử còn chưa kịp quay đầu lại nhìn,
đã có một con dã thú thân hình đồ sộ trên nóc nhà nhảy xuống, ngoạm cả miếng
thịt dơi vào mồm, chẳng nhai chẳng nghiến đã nuốt luôn vào bụng.
Nhờ có ánh lửa, chúng tôi
nhìn rõ mồn một, hóa ra nó là động vật chứ không phải người, mặt nó như mặt khỉ
đầu chó, rất giống mặt người, cái cổ cực dài, hình dáng và kích thước thân thể
hao hao gấu chó, nhưng không lù khù chậm chạp như gấu chó. Thân hình nó hơi bèn
bẹt, chi sau cong cong, vừa ngắn vừa thô, chi trước dài đến bất thường, lúc
hành động, nó có thể bám vào các khe trên tường, treo ngược bên trên, nhìn động
tác của nó, xem chừng leo trèo trên tường còn thành thạo hơn đi dưới đất nữa.
Anh Tử chưa từng thấy
loài động vật này, còn tôi và Tuyền béo thì từng xem ảnh nó trong vườn bách
thú, nó vừa lộ nguyên hình, bọn tôi lập tức nhớ ra ngay, là con lười đất thảo
nguyên, đúng rồi, chính là nó.
Lười đất thảo nguyên sống
trong hang động dưới đất ở sâu trong thảo nguyên, chủ yếu phân bố ở vùng thảo
nguyên Nam Mỹ, châu Phi, Ngoại Mông. Cũng là lười đất, nhưng chúng không giống
với loài lười đất sống trong rừng, lại càng khác với loài lười cây họ hàng xa
của chúng. Lười đất thảo nguyên kế thừa nhiều đặc tính của tổ tiên lười đất
băng hà khổng lồ hơn cả, thể hình đặc biệt to lớn, thức ăn chủ yếu là thịt, rất
ít hoạt động dưới ánh mặt trời, thích nhất là ăn những động vật sống dưới lòng
đất như dơi lớn, chuột đất hay mãng xà...
Phương pháp bắt mồi của
lười đất thảo nguyên là lấy tĩnh chế động, rất ít khi chủ động tấn công, chỉ
lẳng lặng nấp trong bóng tối, không hề động đậy, có khi mai phục đến mấy ngày
liền, không ăn không uống, đợi khi có động vật nào đi ngang qua, mới đột nhiên
há miệng như chớp, một miếng nuốt trọn luôn đối phương.
Hồi thành lập nước, các
nước anh em châu Phi từng tặng vườn thú Bắc Kinh một con, nhưng nó không thích
nghi được với môi trường sống ở Bắc Kinh, chẳng được bao lâu thì chết. Tôi,
Tuyền béo và một số người bạn cùng lớp ngày xưa đi Bắc Kinh tập trung, đội Hồng
vệ binh Bắc Kinh hội quân với chúng tôi, dẫn chúng tôi đi chơi khắp nơi, lúc
vào vườn thú có trông tháy cái cũi khổng lồ nhốt lười đất thảo nguyên. Con lười
đất trong chiếc cũi đã chết, chỉ còn lại chiếc cũi trống rỗng, chúng tôi thấy
cái cũi to tướng để không, lấy làm lạ, bèn để mắt đến hơn, trên cũi có dán ảnh
và lời giới thiệu về loài vật này.
Đã bao năm trôi qua, sự
việc vẫn còn để lại trong chúng tôi ấn tượng sâu sắc, nhưng chẳng ai ngờ được,
trong căn cứ của quân Quan Đông tận sâu dưới lòng đất này, chúng tôi lại gặp
phải một con như thế, mà còn là một con rõ to nữa chứ.
Chắc hẳn nó đuổi theo bọn
dơi mặt lợn đến đây, lũ dơi trong căn cứ này nhiều không đếm xuể, chúng tôi chỉ
thấy một cái ổ trong hang đá, đã có đến hàng ngàn con, căn cứ này rộng hàng
chục cây số, có khi ở nơi nào đó, còn có vài cái ổ khác nữa không chừng.
Lười đất da thô thịt dày,
dưới da còn có rất nhiều mảnh xương nhỏ, y như mặc áo giáp, khi trưởng thành
thì lớp áo giáp này sẽ rắn chắc lại, không thể phá vỡ.
Loài dơi mặt lợn hung dữ
có móng vuốt sắc nhọn, tuy dễ dàng xé rách được da bụng của trâu, dê, nhưng lại
không thể làm tổn thương lười đất thảo nguyên, dù có cào cấu được mấy cái, nó
cũng chẳng mảy may đau ngứa, ở đây không có loài thiên địch của nó, lại có vô
số dơi mặt lợn cho nó bắt ăn, thật đúng là hài lòng hả dạ rồi.
Có điều, không rõ loài
vật thể hình lớn như lười đất thảo nguyên làm sao mà xuống được căn cứ ngầm
này, khả năng là có động đất hay sạt núi, khiến căn cứ xuất hiện một số lỗ hổng
lớn, nó chính là trèo vào đây kiếm ăn từ đó, nếu tìm được lối vào này, chúng
tôi chắc cũng có thể thoát ra theo đường ấy.
Con lười đất thảo nguyên
nhảy trên trần nhà xuống ăn hết miếng thịt dơi nướng, liền thè cái lưỡi dài của
nó ra liếm mấy vòng xung quanh miệng, rõ ràng chỉ một miếng thịt như vậy, không
lấp đầy được dạ dày nó, hơn nữa còn khơi dậy ngọn lửa thèm ăn đang hừng hực
trong nó, con vật nhìn chằm chằm vào ba chúng tôi, không biết đang có chủ ý gì.
Ở thế giới lòng đất này, nó chính là bá chủ.
Trong khoảnh khắc hai bên
đối mặt ấy, đầu óc tôi xoay chuyển mấy lần, địa hình khu căn cứ và đối phó mãnh
thú hoang dã, những chuyện này đối với tôi quả hơi lạ lẫm, có nên ra tay trước
không? Súng tiểu liên đã ở trong tay, nhưng sức sát thương của súng tiểu liên
loại 100 này rất giới hạn, da xương của lười đất thảo nguyên kia có thể chống
đỡ được, chớ để đánh rắn không xong, lại để rắn cắn, chọc tức nó rồi, không
chắc đã thoát thân được.
Súng trường Arisaka của
quân Nhật lực xuyên thấu lớn, chắc có thể giải quyết được lười đất thảo nguyên,
chỉ có điều chúng tôi chỉ cầm đi mấy lưỡi lê, hai khẩu súng trường đã nạp đầy
đạn lúc nãy đều để cách đó tầm hai ba chục mét, cần phải có người đánh lạc
hướng con lười, tôi mới có thể chạy ra lấy súng được, chạy đi chạy lại như vậy,
cần một khoảng thời gian ngăn ngắn, khoảng cách giữa con lười đất thảo nguyên
và chúng tôi quá gần ...
Nghĩ liền mấy hướng,
chẳng hướng nào là chắc chắn cả, lúc này Tuyền béo đứng nguyên tại chỗ, nói nhỏ
với tôi :" Nhất à, tớ nhớ cái giống này chỉ ăn động vật máu nóng và máu
lạnh, không ăn thịt người, theo tớ thì chắc không sao đâu". Nói đoạn lấy
chân đá nhẹ mấy cái xác dơi về phía con lười, ra ý rằng, số thịt này đều cho
mày cả, mau ra mà ăn đi, đừng làm phiền bọn tao.
Ai ngờ con lười chẳng
thèm liếc mấy con dơi chết một cái, ngược lại còn nhìn bọn tôi chằm chằm, dớt
dãi không ngừng chảy xuống.
Tuyền béo quay đầu lại
hỏi tôi :" Sao nó không ăn thịt dơi, lại cứ chằm chặp nhìn mình thế hả
nhỉ, hình như không có ý tốt đâu".
Tôi không dám phân tâm
nói chuyện với Tuyền béo, một mực theo dõi sát sao nhất cử nhất động của con
lười đất thảo nguyên, chỉ cần nó có ý định tấn công, vậy thì tôi đành phải xông
tới trước mặt nó, nhặt súng tiểu liên, cho nó vài phát đạn.
Anh Tử nói :" Bọn
mình đều ăn khá nhiều thịt dơi rồi, lẽ nào nó ... coi mình là dơi ..."
Lời cô còn chưa dứt, con
lười đất thảo nguyên kia đã không thể nhịn được trước mùi thịt dơi nướng thơm
nồng, từng bước áp sát chúng tôi, động vật hoang dã, chủ yếu đều ăn thịt sống,
bởi từ khi sinh ra chúng chưa từng ăn thịt chín, ăn một miếng rồi, mùi vị thịt
chín sẽ là sự hấp dẫn lớn nhất đối với chúng.
Tôi phát hiện ra nó hành
động rất chậm chạp, cảm thấy không nhất định phải tranh đấu làm gì, cứ chạy đi
thì hơn. Tôi gọi hai người còn lại một tiếng, cả ba quay người bỏ chạy, vừa
chạy ra được hai bước, đúng lúc ấy, dưới chân mắc phải một vật cứng, khiến tôi
ngã dập xuống, suýt mữa thì vỡ của đầu gối, cả Tuyền béo, Anh Tử cũng đồng thời
ngã đập mặt xuống đất.
Tôi lấy làm lạ, thứ gì đã
vướng vào chân tôi? Lúc ngã xuống đó, tôi có liếc một cái xuống dưới, mặt đất
bằng phẳng, lấy đâu ra thứ gì có thể làm người ta vướng chân ngã nhào, bèn sực
nhớ ra :" Chỉ lo thoát thân, quên mất không mang theo hai cái xác đứa trẻ,
lẽ nào là hồn ma quậy phá?"
Lười đất thảo nguyên có
lẽ trước nay chưa từng gặp loài động vật đi bằng hai chân như con người, nó
ngửi thấy mùi thịt dơi nướng trên người chúng tôi, đã coi chúng tôi là dơi rồi,
chỉ có điều tạm thời nó vẫn chưa thể chấp nhận loài dơi có hình dạng thế này,
vả lại cũng sợ ánh lửa, không dám manh động tiến lên, đang suy tính xem làm sao
để nuốt trọn cả ba con mồi ngon đã dâng lên đến tận miệng này, thì thấy ba bọn
tôi ngã nhào xuống đất, liền "vụt" một cái nhảy bổ tới chỗ chúng tôi.
Chi sau của nó vừa to vừa
khỏe, nhảy một cái đã tới ngay trước mặt Tuyền béo, có lẽ nó thấy
"con" này thịt nhiều, nên đã chuẩn bị đưa Tuyền béo vào mồm tế bộ
răng trước.
Tuyền béo thấy vậy đanh
phải liều mạng chống cự, hai tay vơ loạn dưới đất, định tìm một thứ vũ khí, vừa
vặn trên mặt đất có lưỡi lê dùng nướng thịt dơi, Tuyền béo thuận tay cầm lên,
đâm thẳng lưỡi lê vào cánh tay con lười, sâu lút tới cán.
Lưỡi lê để trên lửa một
lúc lâu, tựa như thanh sắt nóng bỏng, đâm trúng con lười, mũi liền ngửi thấy
một mùi hôi khét lẹt. Con lười đất thảo nguyên này hoành hành vô địch dưới căn
cứ ngầm này đã lâu, nào chịu thiệt thòi như vậy bao giờ, vừa đau vừa giận,
nhưng lại không dám cắn Tuyền béo nữa, đành chầm chậm lùi lại mấy bước, chờ
thời cơ tấn công.
Lưỡi lê nóng bỏng đâm
được con lười một phát, nhiệt đô tức khắc giảm xuống, máu tươi của nó khiến
thân dao bốc khói trắng "xì xì". Tuyền béo vừa rồi một đòn thuận lợi,
toàn dựa vào nhiệt độ của lưỡi lê, bằng không căn bản chẳng thể đâm nó bị
thương được.
Tôi nhân khoảnh khắc ngắn
ngủi Tuyền béo đẩy lui được con lười, liền cùng với Anh Tử, mỗi người cõng một
bộ áo bọc hai đứa trẻ lên lưng, chỉ mong hai đứa tiểu yêu này không tiếp tục
quấy phá nữa.
Trên lưng cõng xác đứa
trẻ bị tuẫn táng, tôi lại khom lưng nhặt khẩu súng tiểu liên, biết rằng sức sát
thương của loại súng tiểu liên kiểu 100 này còn lâu mới đủ để bắn chết con
lười, nhưng trong những khoảnh khắc quyết định, cũng chỉ có thể dựa vào nó mà
cầm cự thêm chút nào hay chút đó.
Tôi chưa kịp kéo chốt
súng, trên vách tường sau lưng đột nhiên thò ra một bộ móng vuốt, vỗ thẳng
xuống đỉnh đầu tôi, cú vỗ đó quá nhanh, lại mang theo sức mạnh kinh người, tôi
không kịp cúi đầu, đành giơ khẩu súng trong tay lên đỡ, bị móng vuốt quét phải,
tay tôi nắm không chắc, súng tiểu liên văng ra xa, rơi hút vào trong chỗ tối
ánh lửa không soi tới được.
Thì ra, không ai để ý,
trên tường lại có tới bốn con lười đất thảo nguyên trèo xuống, hai to, hai nhỏ,
con nhỏ nhất cũng phải cao bằng một người lớn, rất rõ ràng, bọn chúng cũng giống
như con đầu tiên, đều bị mùi thịt dơi nướng thu hút, chạy đến tìm ăn.
Năm con lười đất thảo
nguyên vây tròn ba người chúng tôi vào giữa, chỉ cần một con cầm đầu lao tới,
những con còn lại sẽ ập lên theo sau, xé xác chúng tôi thành trăm mảnh.
Chỗ dựa duy nhất của
chúng tôi lúc này chính là đống lửa, ba người dựa lưng vào nhau, Tuyền béo cầm
lưỡi lê, Anh Tử cầm súng tiểu liên, chỉ có tôi là chơi tay không.
Đống lửa đốt bằng ván gỗ
kia xem ra mỗi lúc một yếu dần, chẳng mấy chốc rồi sẽ tắt, đến lúc ấy, chúng tôi
chắc trở thành miếng mồi ngon đặt sẵn trên đĩa của lũ lười đất thảo nguyên rồi,
nghĩ đến đây tôi không khỏi thầm than vãn :" Một con thôi mà con mẹ nó đã
chẳng dễ đối phó rồi, giờ thì vui chưa, lũ lười trong căn cứ ngầm này kéo cả họ
hàng hang hốc ra rồi, người trong tuyệt cảnh, phải làm sao mới mở ra một con
đường máu đây?"
Cứ để thế này cũng không
phải cách, tôi nhặt một thanh gỗ đang cháy trong đống lửa, hươ về phía con lười
nhỏ nhất đang đứng cản đường, nó quả nhiên sợ hãi, bị ngọn lửa dọa cho nép sang
một bên, vòng vây liền xuất hiện một chỗ hổng.
Ngọn lửa trên thanh gỗ
vốn đã không lớn, vừa hươ một cái đã suýt nữa thì tắt ngóm, chúng tôi không dám
chần chừ, nhất loạt xông thẳng ra, mấy con lười nước dãi ròng ròng hơi tần ngần
một chút, rồi cũng nhất tề bổ tới.
Khẩu tiểu liên trong tay
Anh Tử liên tiếp bắn ra từng loạt đạn, con lười dẫn đầu trúng đạn, máy tươi tóe
ra trên người, nhưng khắp mình chúng toàn là da dày chai cứng, tuy đạn găm được
vào người, nhưng không xuyên qua được lớp giáp xương bên trong, trái lại càng
khiến chúng tức giận hơn, từng bước đuổi sát, nhất định phải nuốt ba chúng tôi
vào bụng mới xong.
Trong ba bọn tôi chỉ mỗi
Anh Tử có súng, mỗi khi cô nàng thay đạn, tôi và Tuyền béo lại hươ thanh gỗ
đang bốc cháy chặn lấy lũ lười, không cho chúng có cơ hội lại gần. Vừa đánh vừa
rút, do lúc đột phá vòng vây không thể chọn phương hướng, chúng tôi cách chỗ để
vũ khí càng lúc càng xa, ngược lại thành ra rút về phía cửa sắt kho Gena lúc
đầu.
Bên ngoài cửa sắt là con
xích hống, chúng tôi vốn định sau khi ăn uống no nê, sẽ bàn mưu tính kế kỹ
càng, tìm cách thoát ra theo lối cửa sắt này, nhưng lũ lười đất thảo nguyên đột
nhiên tấn công, khiến chúng tôi trở tay không kịp, chạy về đây trong lúc gấp
gáp, ngọn lửa trên thanh gỗ ngày một yếu dần, cuối cùng chỉ còn lại một thanh
gỗ bị lửa đốt đen thui một đầu, bên trên lấm tấm vài đốm lửa nhỏ, đạn cũng
không còn nhiều nữa.
Lười đất thảo nguyên thể
hình to lớn, mấy con chụm lại với nhau, trông như một bức tường thành khó thể
vượt qua, bị móng vuốt của chúng vỗ phải, nhẹ nhất cũng đứt gân gãy xương. Vòng
vây của lũ lười dần dần hẹp lại, chúng tôi bị ép đến trước cửa sắt, không còn
chỗ nào lùi thêm được nữa.
Chuyện đến nước này thì
đành phải liều xông ra thôi, tôi và Tuyền béo ném thanh gỗ còn lấm tấm mạt lửa
vào lũ lười, Anh Tử quét súng tiểu liên lia một loạt đạn, dùng nốt chút khả
năng chiến đấu cuối cùng ép mấy con lười đất lùi lại mấy bước, Tuyền béo quay
người mở cánh cửa sắt đã khóa chặt sau lưng, tôi lấy móng lừa đen ném văng ra
ngoài.
Không ngờ con xích hống
kia không còn ở đó nữa, chúng tôi chẳng có thời gian nghĩ ngợi gì nhiều, vội
nhanh chóng rút ra đường hầm bên kia cửa sắt, Tuyền béo đang định đóng cửa sắt
lại, bỗng một luồng sức mạnh kinh hồn ập húc thẳng vào cánh cửa, sức khỏe của
lũ lười này thật đáng sợ, ba bọn tôi dốc hết sức đẩy cửa, nhưng gắng thế nào
cũng không làm nổi.
Bỗng một luồng gió lạnh
thốc tới, tôi vội né người, thì ra con xích hống vẫn loanh quanh gần đó, chỉ số
thông minh của xích hống không cao lắm, ngửi thấy mùi vật sống là bổ tới vồ cắn
luôn.
Con xích hống nói tới là
tới luôn, hơn nữa còn lặng lẽ im lìm như một tia chớp, nếu không phải tôi từng
trải cả trăm trận chiến, có rất nhiều kinh nghiệm đối phó quân địch tấn công
bất ngờ, thì chắc đã bị nó vồ phải rồi. Tôi lăn người xuống đất, định đứng dậy
nhảy tránh đi, thì cửa sắt đã bị húc mở toang ra, con lười to nhất đã dẫn đầu
nhảy bổ tới.
Con lười đất thảo nguyên
dùng chi sau to chắc, tựa như một con ếch lớn, từ trong cửa nhảy xổ ra, vừa vặn
húc bổ nhào con xích hống, xích hống ngã lộn ra đất, thân thể nó không thể uốn
cong, lập tức bật ngay lại, mười cái móng như mười con dao thép đâm vào ngực
con lười.
Con lười đất gầm lên một
tiếng, há miệng cắn bừa, sau đó mấy con khác cũng trong kho Gena tràn ra, chúng
thấy đồng bọn bị thương, liền nhao nhao tới cắn xé con xích hống.
Con lười nhỏ nhất bị xích
hống giật đứt đầu, trên mình xích hống cũng bị hai con lười cắn chặt, đôi bên
sức mạnh ngang nhau, nhất thời quấn chặt lấy nhau quần thảo, trong phút chốc,
trên tường, dưới đất, cửa sắt, đâu cũng vung vãi những vệt máu lớn của lũ lười,
thịt bắn tung tóe, đồng thời, con xích hống cũng bị cắn đứt một cánh tay.
Chúng tôi nhìn cảnh tượng
kinh hoàng trước mắt, đều thầm sợ hãi, nếu con xích hống và lũ lười hợp sức tấn
công, vậy thì ba chúng tôi chắc khó mà thoát cảnh chết không đất chôn thây. Cả
bọn chạy bừa chạy bãi thế nào tự dưng lại dẫn đến tình thế hai hổ đánh nhau,
thật đúng là may mắn hết sức.
Không thể để lỡ thời cơ,
chúng tôi cõng xác hai đứa trẻ, chạy ra chỗ cái lỗ trên tường ngôi mộ cổ, chỉ
hận sao cha mẹ không sinh ra thêm một đôi chân nữa, hớt hải như chó nhà có đám,
hoảng hốt như cá đang mắc lưới, tình cảnh nhếch nhác thảm hại thế nào, không
cần phải nói kỹ cũng biết.
Lỗ hổng sập ra trên
tường, vẫn còn nguyên như lúc chúng tôi nhảy ra, lúc đầu thì tẩu thoát từ đây,
giờ lại chạy trở về chỗ này, đúng một vòng lớn, mà nào kiếm được thứ gì đáng
giá, không dưng gặp phải biết bao phiền phức, còn thêm cả hai cái xác trẻ con đổ
đầy thủy ngân này nữa, thật khiến người ta dở khóc dở cười. Có điều trong căn
cứ ngầm này tuy không có thứ gì giá trị, nhưng lại có không ít vũ khí và trang
phục, có thể còn tìm được mấy chiếc máy phát điện ở đâu đó, kể chuyện này với
mọi người trong làng, cũng đỡ uổng công chúng tôi vào sinh ra tử vật lộn với lũ
quái lâu như thế.
Giờ chỉ cần trèo ra cái
lỗ chúng tôi đã đào bên ngoài là thoát, lúc này tinh thần và thể lực của tất cả
đều đã đến cực hạn rồi, nhưng người đến nước liều, chó cùng rứt giậu, đối mặt
với tuyệt cảnh, tiềm năng sẽ được đánh thức. Anh Tử lấy súng tiểu liên lia
nguyên hai băng đạn vào tấm ván quan tài chặn cửa, mạt gỗ tung lên lả tả, nắp
quan tài vốn đang gắn chặt vào tường, đạn đã bắn nát cả phần giữa, Tuyền béo
nhảy lên, đánh vai một cái làm nắp quan tài gãy đôi. Tôi đẩy Anh Tử leo lên
trước, sau đó hợp sức với Tuyền béo đưa xác hai đứa trẻ lên, Anh Tử ở bên trên
đón lấy, rồi đưa tay kéo tôi ra khỏi mộ.
Cuối cùng chỉ còn lại
Tuyền béo, bởi chúng tôi cần phải kéo, cậu ta mới leo lên được. Cậu ta đang
định trèo lên. hai con lười đất thảo nguyên máu me khắp mình đã xông vào hầm
mộ, chúng trở nên cuồng dại vô cùng, gầm lên như sấm, có lẽ những thành viên
còn lại trong gia đình chúng đều đã bị con xích hống giết chết, con xích hống
đó tuy lợi hại, nhưng cầm chắc là không thể chống lại đám lười cùng vây đánh,
đã bị cắn nát thành thịt vụn.
Hai con lười đất thảo
nguyên thương tích đầy mình, đuổi mãi không tha, lao theo chúng tôi vào hầm mộ,
Tuyền béo quay lại nhìn, vội vàng leo lên, nhưng càng cuống lại càng không leo
lên được. Lũ lười đã tới trước cái lỗ, cũng may cái lỗ này quá nhỏ đối với
chúng, không thể chui ra được, con lười không ngừng lấy móng vuốt cào đất, muốn
mở rộng cái lỗ, để chui ra ngoài. Tôi thấy tình thế khẩn cấp, vội cầm súng tiểu
liên của Anh Tử ném cho Tuyền béo, Tuyền béo hiểu ý, bắn vài phát đẩy lui hai
con lười đang chụm lại ở cửa hang, rồi lập tức ngắm vào đỉnh lưu ly lửa rồng
giữ báu nổ súng, ngói lưu ly vỡ ra, từng túi dầu lửa hỏa long Tây Vực vãi
xuống, cả hầm mộ và cả hai con lười đất thảo nguyên đều bị ngọn lửa bốc lên
nuốt trọn.
Cùng lúc ấy, tôi và Anh
Tử dốc hết chút sức lực cuối cùng kéo giật Tuyền béo ra khỏi đó, dù đã kịp thời
kéo ra, quần của cậu ta vẫn bị ngọn lửa liếm mất một mảng lớn, Tuyền béo không
ngừng vỗ mông để dập lửa, đau đớn kêu ầm ĩ như lợn bị chọc tiết, ANh Tử vội cầm
bình nước hắt vào đám lửa trên mông cậu ta, cái quần đã cháy sạch, lộ cả mông
trắng hếu.
Những con chó săn trung
thành ngồi chồm hỗm bên cạnh, nhìn ba vị chủ nhân trong hầm mộ chui ra, trời đã
giữa trưa, ánh mặt trời chói lóa, tôi dụi dụi hai mắt, so với căn cứ ngầm tối
tăm kia, đúng là như hai thế giới hoàn toàn cách biệt.
Tuyền béo một tay ôm
mông, một tay giơ hai miếng ngọc bích lấy từ trong mộ lên xem, không nhịn được
thi hứng tuôn trào, lại ngâm nga mấy câu nổi tiếng trong Trường thi Thế giới
đại chiến:
Lửa chiến tranh đã tắt,
khói tan biến đi đâu!
Ơi vầng dương! Chưa từng
như hôm nay, ấm áp một bầu,
Ơi vòm trời! Chưa từng
như hôm nay, bát ngát xanh trầu!
Ơi nụ cười nở trên môi
những đứa em thơ, chưa từng như hôm nay, lúng liếng ngọt ngào!
Tôi và Anh Tử đều không
nhịn được phá lên cười ha hả, bạn đã bao giờ thấy một nhà thơ vừa ôm đít vừa
ngâm thơ chưa? Có điều lại xảy ra một chuyện bất ngờ nữa, khiến nụ cười của
chúng tôi lập tức đông cứng lại ...
Chương 18: Nga
Thân Li Văn Song Ly Bích
Trong khu rừng cuối hẻm
núi, bỗng vang lên tiếng sấm ì ùng, "uỳnh uỳnh uỳnh", đang buổi giữa
trưa ban ngày ban mặt, bầu không trong vắt, không gợn mây đen, sao tự dưng lại
có sấm? Lòng chúng tôi như trầm xuống, khó khăn lắm mới thoát khỏi ngôi mộ cổ
đó, giờ lại gặp thứ gì tác quái nữa đây?
Chú ý lắng nghe lần nữa,
dường như không giống tiếng sấm lắm, âm thanh mỗi lúc một gần, tựa hồ tiếng
loài dã thú nào đó rất lớn, đang lao về phía hẻm núi, bước chân nặng trịch, lúc
chạy thân hình nó lại không ngừng húc đổ cây rừng, thoạt nghe có vẻ giống như
tiếng sấm dội vang không dứt, trong đó còn vẳng lên cả mấy tiếng chó sủa nữa.
Tôi nghe tiếng chó sủa, mới
phát hiện ra chỉ có năm con chó săn nằm dưới đất, ba con ngao đã đi đâu không
biết. Vừa nãy sức cùng lực kiệt, cũng chẳng để ý nhìn mấy con chó, có thể chúng
tôi lâu không quay lại, bọn chúng đã tự động thay nhau đi kiếm mồi. Không biết
lũ chó ngao đang đuổi con gì mà inh ỏi như vậy?
Anh Tử nghe một lúc, rồi
cười bảo không có gì đâu, lũ ngao đang đuổi lợn rừng thôi, chúng ta cứ lên trên
dốc xem cho vui, lát nữa là có thịt lợn rừng ăn rồi.
Chúng tôi leo lên được nửa
cái dốc, đã trông thấy cây lớn trong rừng bị húc đổ liên tiếp, lũ chó săn cũng
không ngồi im được nữa, lẳng lặng tản ra thành hình quạt, chặn con lợn rừng lại
trong khe núi.
Chỉ thấy một cây thông đỏ ở
đầu khe núi gãy rắc làm đôi, phía sau lao vù ra một con lợn rừng to tướng, nếu
không phải con lợn rừng này không có cái vòi dài, tôi suýt nữa đã tưởng nó là
con voi mới lớn. Con lợn phải hơn năm trăm cân, bờm vừa đen vừa dài, răng nang
hai bên mép cong vút lên trên, trông như hai con dao găm, đôi răng nanh này là
sự tượng trưng cho giống đực kiêu ngạo, đồng thời cũng chứng tỏ nó là con lợn
chúa trong khu rừng này, mình con lợn béo tròn quay, bốn chân vừa ngắn vừa to,
bốn vó tung lên, lao vào khe núi như một cơn lốc.
Đằng sau con lợn rừng, ba
con chó ngao lớn nhịp nhàng đuổi sát, không bổ tới cũng không lao vào cắn xé,
không cách quá xa cũng không đuổi quá gần, một trước ba sau, đều chạy cả vào Dã
Nhân câu.
Da lợn rừng so với da tê
giác, cũng vào loại một chín một mười, nó ở trong rừng không có việc gì làm lại
cọ thân thể béo ịch vào thân cây thông, một là để gãi ngứa, hai là để dính một
ít dầu thông lên người, không sợ muỗi hay côn trùng gì đốt. Mùa hè, muỗi trong
rừng to bằng con chim sâu, người vùng núi có câu " ba con muỗi, một đĩa
thức ăn", lời ấy chẳng ngoa chút nào, ngay cả trâu bò cũng không chịu được
muỗi rừng châm đốt, duy nhất chỉ có lợn rừng không sợ muỗi, da nó như một lớp
giáp sắt, muỗi gì cũng không cắn được. Cặp răng nanh và thể trọng nặng nề,
chính là bảo bối khiến lợn rừng có thể hoành hành nơi đây, công thủ kiêm toàn
tuyệt đối, hổ, gấu người, báo kim tiền cũng không thể làm gì nổi nó.
Nhưng chó ngao được thợ săn
nuôi dạy, lại có tuyệt chiêu riêng để đối phó lợn rừng. Thể hình của chó ngao
cũng ngang ngửa với con nghé, có điều so với con lợn rừng này, thì vẫn nhỏ hơn
nhiều. Ba con ngao định dồn con lợn vào sâu trong hẻm núi rồi mới xử lý, vì
trong rừng cây cối um tùm, khó triển khai tấn công, hơn nữa con lợn rừng còn
lao hùng hục cứ như một cỗ xe tăng vậy.
Trong Dã nhân câu có một
lớp lá rụng cực dày, con lợn chạy chưa được một nửa, vì cơ thể quá nặng, bốn
chân đã tụt sâu vào trong lớp lá đó, ba con ngao vây quanh nó, đây cắn một phát
kia cắn một phát, làm tiêu hao thể lực và ý chí của con lợn, năm con chó săn
còn lại cũng chạy tới bao vây phía ngoài, chúng không dám xông vào tranh công
với lũ chó ngao, chỉ đứng một bên làm lâu la sủa ầm ĩ trợ uy mà thôi.
Con lợn rừng to vừa tức vừa
cuống, vụng về giãy giụa trong đống lá cây, dốc toàn bộ sức lực nhảy lên, không
ngờ đã nhấc được bốn chân lên, nhảy vụt lên trên cao.
Đây chính là cơ hội lũ chó
ngao chờ đợi từ lâu, khi lợn rừng nhảy lên tới điểm cao nhất, con ngao to nhất
cũng nhảy vụt lên, như một viên đạn pháo húc thẳng vào con lợn, dùng sức và góc
độ đều hết sức chuẩn xác, khiến lợn rừng bị lật nghiêng, phơi bụng lên trên,
rơi bịch xuống lớp cành khô lá nát vừa sâu vừa mềm.
Hai con ngao còn lại đã đợi
sẵn thời cơ, không cho con lợn cơ hội lật người, nhảy bổ vào hung hăng cắn xé
bụng nó, bụng và phần dưới mông là điểm yếu duy nhất của lợn rừng, lộ ra cho kẻ
địch thấy một cái là toi đời, huống hồ kẻ địch của nó lại là lũ chó ngao hung
dữ nhanh nhẹn như sư tử, chưa đến ba bốn giây, tim gan phèo phổi của lợn rừng
đã bị moi ra hết.
Ba chúng tôi thấy lợn rừng
đã đi đời, liền chậm rãi đi xuống, Tuyền béo và tôi thấy ba con ngao phối hợp
ăn ý như vậy, lại còn biết vận dụng địa hình, không nén được ý nghĩ muốn ra xoa
đầu chúng, tỏ ý khen ngợi, tươi cười hỉ hả bước tới gọi chúng lại.
Nào ngờ cả chó ngao lẫn chó
săn đều vòng qua hai bọn tôi, quây cả quanh mình Anh Tử. Anh Tử lấy thịt khô ra
cho chúng ăn, lũ chó thấy chủ nhân vui vẻ, cũng vẫy tít đuôi lấy lòng.
Tôi và Tuyền béo bị bỏ mặc
một bên chỉ biết đưa mắt nhìn nhau, lắc đầu nói :" Con mẹ nó, mình hồ hởi
đón nó, nó lại dán ngay cái đít thối vào mặt mình".
Tuyền béo hậm hực bảo
:" Nhất này cậu có nhớ Lỗ Tấn nói gì không nhỉ? Ông ấy bảo: nhổ vào mặt
chúng mày, lũ chó cậy quyền thế. Loài chó mới có kiểu ấy, mắt chó nhìn người
thấp, mặt chó không nhận người, mẹ kiếp, anh em mình chấp với chó làm gì".
Tuyền béo về lều lấy dao,
cuốc chim và súng săn rồi quay lại, cậu ta giúp Anh Tử xẻ thịt lợn, tôi khoác
súng săn dắt hai con chó to, ra chỗ chân núi tìm chỗ chôn xác hai đứa trẻ, để
chúng khỏi kiếm chúng tôi gây phiền phức nữa.
Anh Tử hỏi :" Anh Nhất
đói không? Hay ăn vài miếng rồi hẵng đi!"
Tôi đáp :" Thôi khỏi,
cơm ngon đến tối vẫn ngon, lát anh ăn sau,không thể để tối mới đi chôn người
chết được, thế ghê lắm!"
Tôi để hai con chó to kéo
hai cái xác trẻ con bọc trong áo khoác quân đội bằng nỉ màu vàng, đào một cái
hố ở chỗ đầu khe núi mặt hướng ra thảo nguyên. Xẻng công binh của tôi đã đánh
rơi trong mộ, dùng cuốc chim đào đất rất tốn sức, mặt trời ngả bóng về tây mới
đào được cái hố sâu hơn một mét, tôi đã mệt lử người, mồ hôi mồ kê nhễ nhại,
bụng kêu lục bục liên hồi.
Tôi nhìn cái hố sâu hơn một
mét, nghĩ bụng chắc thế là được rồi, trẻ con mà, đào sâu chôn chặt cũng chẳng
để làm gì, cơ thể chúng toàn là thủy ngân,cũng chẳng phải lo có mối mọt chuột
bọ gặm gì cả.
Vậy là tôi bế hai đứa trẻ
ra khỏi áo, rồi lấy hai chiếc khác bọc lại cẩn thận, xếp cho nằm song song dưới
hố, chắp tay vái hai vái :" Hai bạn nhỏ cổ đại, rất tiếc cho hai bạn không
được sống trong xã hội mới tràn ngập ánh sáng chói lọi của văn minh dân chủ,
cũng không nhận được sự quan tâm của xã hội, nhưng ấy là do số phận an bài, hai
bạn cũng không nên quá cố chấp. Số có thì sẽ có, số không thì nên quên, ngàn
vạn lần không nên tính toán, đều ở trong số định rồi. Người chết rồi, nhập thổ
là yên, nhập thổ mà không yên, thì là cương thi. Điều kiện của tôi có hạn,
không có quan tài an táng, cũng không có hương đèn cúng tế hai bạn, tôi trở về
nhất định sẽ đốt thêm cho hai bạn ít tiền giấy, cầu mong hai bạn sớm về cõi Tây
thiên cực lạc, chớ nên quay lại quấy rầy chúng tôi, chúng tôi cũng rất bận,
những gì có thể làm được cho hai bạn cũng chỉ có từng đây, người nào tham lam
vô độ thì không phải là trẻ ngoan".
Khấn xong, tôi cùng hai con
chó lấp đất vào hố, vài nắm bùn đất đã chôn cất xong hai đứa trẻ xấu số, quay
đầu nhìn về phương xa, chỉ thấy tàn dương tựa máu, trong lòng cảm khái muôn
trùng.
Thời gian đã không còn sớm,
Anh Tử đứng xa xa vẫy tay gọi tôi về, tôi liền dẫn chó về nơi chúng tôi cắm
trại, Tuyền béo khuân đến một tảng đá lớn, bịt chặt cái lỗ thông gió mà lũ dơi
mặt lợn đã bay ra tấn công ngựa, thịt lợn rừng nướng, còn có cả canh lòng lợn
mộc nhĩ nấm hương, mùi dầu thông với mùi thịt quyện vào ập tới mặt, tôi không
nhịn nổi liền nhảy tới, lấy dao cắt một miếng thịt cho vào miệng.
Ăn xong, chúng tôi uống trà
Anh Tử nấu, bàn bạc xem làm sao quay về, mất ngựa thồ hành lý, muốn quay trở
lại trại Cương Cương thật chẳng dễ dàng, nồi niêu bát đĩa với cả lều trại không
thể vác về, da động vật chúng tôi săn được dọc đường chẳng thể mang theo, tổn
thất thực là quá lớn. Cuối cùng Anh Tử nghĩ ra một cách, để cho hai con chó về
trước đưa thư, gọi người trong làng tổ chức một đội người ngựa tới khai quật
căn cứ ngầm của quân Quan Đông luôn, bao nhiêu thứ như vậy không mang về chẳng
nhẽ vất đi hết, hơn nữa chó cũng là hướng đạo tốt nhất, có thể dẫn đường cho
người trong làng, giờ cứ tìm lấy một nơi an toàn gần đây ở lại trước đã, đợi
mọi người đến, rồi cùng chuyển đồ về.
Việc đến nước này, cũng chỉ
còn cách như vậy, Tuyền béo chẳng quan tâm chuyện này lắm, cậu ta lại lấy hai
miếng ngọc bích ra ngắm, tôi liền mắng :" Tiên sư nhà cậu không được nước
mẹ gì cả, chịu nghèo chịu khổ bấy lâu rồi mà giờ không đợi thêm được đến sáng
mai à. Đừng có nhìn hai miếng ngọc này nữa, một ngày xem cả trăm lần, cậu không
sợ nhìn mãi mòn đi à, từ nay để ở chỗ tôi đi".
Tuyền béo giơ miếng ngọc
trước mắt tôi, vẻ mặt vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc :" Nhất này, cậu bảo đây
có phải miếng ngọc mình lấy trong mộ ra không? Nhìn này, hình như có chỗ nào đó
không ổn thì phải?
Từ lúc lấy hai miếng ngọc
trong mộ ra, tôi chưa lúc nào kịp xem cho kỹ cả. Tuyền béo kinh ngạc đưa miếng
ngọc cho tôi :" Màu sắc sao lại thay đổi nữa thế này?". Tôi vươn tay
đón lấy hai miếng ngọc xem thật kỹ.
Hai miếng ngọc đều được
chạm khắc thành hình con ngài, đủ mọi bộ phận, sống động tự nhiên, trên thân
còn có hoa văn trang trí, khắc một loài động vật cổ quái, loài vật này chắc
không tồn tại trong thực tế, mập mập, thân thể hao hao giống một con sư tử rất
gầy, lại giống giao long không vẩy, còn có móng vuốt và cái đuôi cuộn cong lên,
tóm lại là quái dị, có lẽ không phải là động vật, mà là hoa văn mây trời hay
sóng nước gì đó.
Thủ công của hoa văn trên
thân miếng ngọc không tinh tế tỉ mỉ như thủ công tạo hình, chỉ là vài nét điểm
xuyết, có điều tuy thô sơ song lại lột tả được cái thần khí ẩn tàng trong sự
giản đơn cổ phác. Đôi khi đơn giản cũng là một nét đẹp.
Nhưng con mẹ nhà nó cũng
quái thật, nhớ lúc lấy trong quan tài ra, đôi ngọc bích này màu xanh thắm, vậy
mà lúc ở trong căn cứ dưới đất, nó đã thành màu vàng nhạt. Còn giờ đây lại là
một sắc vàng sẫm, trong một ngày chuyển màu tới mấy lần, chuyện này là sao
chúng tôi chẳng rõ nữa, lẽ nào trên đời này có loại ngọc đổi màu ư? Chúng tôi
chẳng hiểu gì về đồ cổ, xem ra chỉ có cách trở về Bắc Kinh tìm Răng Vàng nhờ
hắn mở mắt cho vậy.
Kể ra thì hành động đổ đấu
lần này, thật đúng là không thuận lợi cho lắm, chưa nói chuyện đường xa vất vả,
đầu tiên là ngôi mộ cổ ở vị trí đẹp nhất trong Dã Nhân câu là mộ tướng quân, ai
mà ngờ được đồ bồi táng lại ít đến khốn khổ, thứ duy nhất may ra đáng tiền,
chính là đôi ngọc bích này, để đem được nó ra suýt nữa ba người đã phải đổi
mạng, thực là lên núi vượt biển khó so sánh bao điều gian khó, kề vực giẫm băng
chẳng hình dung được nỗi hiểm nguy. Nếu kết quả giám định cho thấy chúng chẳng
đáng mấy đồng, chắc tôi phải tìm lấy một chỗ mà đâm đầu chết mất.
Việc này dạy cho tôi một
bài học, mộ cổ của quý tộc chưa chắc đã có nhiều đồ bồi táng quý giá, phải tìm
hiểu nhiều hơn về bối cảnh văn hóa lẫn bối cảnh lịch sử của mộ, hơn nữa còn
phải tận dụng hết khả năng nắm bắt kiến thức giám định đồ cổ, như vậy mới có
phương hướng rõ ràng, không bị uổng công.
Tuyền béo lại tỏ ra rất có
lòng tin, cậu ta cá với tôi đôi ngọc này chí ít cũng đáng giá hai ba vạn tệ,
nói không chừng còn là quốc bảo, thế thì không bán cho bọn Đài Loan, Hồng Kông
nữa, trực tiếp hiến tặng Bảo tàng Cố cung, nhà nước hứng lên có khi thưởng cho
tám vạn chục vạn chứ chẳng chơi, rồi phân cho hai căn nhà ở Bắc Kinh, lại cho
đeo dải hoa đỏ đi khắp cả nước phát biểu báo cáo, đến lúc đó muốn bốc phét thế
nào thì bốc phét, xong xuôi các em sinh viên nữ dưới khán đài cảm động đến đầm
đìa nước mắt kia, sẽ chạy tới rối rít tặng hoa, đưa thư tình...
Tôi bảo cậu ta đừng có mơ
hão, còn đòi đi báo cáo thành tích? Không bắt hai thằng chui vào lò gạch ngồi
xổm đã là may lắm rồi đấy. Nhưng nếu đúng như Tuyền béo nói, có thể kiếm được
dăm ba vạn gì đó, cũng đã bất ngờ lắm rồi, hai chúng tôi chạy đôn chạy đáo bán băng
cát xét, một năm giời, nhiều nhất cũng chỉ được ba bốn nghìn tệ, gặp phải năm
xui tháng ế, trừ sinh hoạt phí ra, về cơ bản là chẳng kiếm được đồng nào.
Hai ngày nay tôi không được
chợp mắt, ăn no uống đẫy rồi trò chuyện với Anh Tử, Tuyền béo vài câu, là đặt
lưng xuống ngủ luôn, dù gì cũng có lũ chó săn trông chừng, chẳng lo thú hoang
tấn công. Giấc này tôi ngủ đến trời mờ đất ám, trong mơ tôi trở về với chiến
trường xưa mịt mùng khói đạn, bầu trời trận địa toàn là những khuôn mặt của
đồng đội tôi, khuôn mặt nào cũng đều rất trẻ, họ chỉ có khuôn mặt mà chẳng có
thân thể, những khuôn mặt đều không ngừng nhỏ máu, chầm chậm bay lên trời cao,
tôi ở dưới đất gào khóc muốn nắm lấy họ, nhưng chân tay chẳng chịu nghe lời, cứ
cứng đơ bất động.
Đêm hôm ấy chẳng có chuyện
gì xảy ra, lũ dơi dưới đất không biết đã bỏ đi đâu, xung quanh hoàn toàn không
còn dấu vết gì của chúng, có lẽ chúng bị tiếng súng làm cho sợ hãi, đã tìm một
hang động mới an cư rồi.
Tôi ngủ một mạch đến trưa
mới dậy, Anh Tử đã sai ba con chó săn quay về đưa thư, trên cổ mỗi con đều đeo
một túi da nhỏ, bên trong để mảnh giấy Tuyền béo viết, ghi rõ dặn dò người làng
mang theo nhiều người ngựa công cụ, tốt nhất là cả thuốc nổ, đến Dã Nhân câu
đào các thứ quân Quan Đông bỏ lại.
Trưa ăn ít thịt lợn rừng,
dẫn chó săn rời lều trại ra gần lối vào khe núi, chọn một tảng đá lớn khuất
gió, dựng lều trại bên dưới, chỗ này nằm ở vùng ranh giới giữa rừng rậm và thảo
nguyên, người làng đến sẽ dễ dàng tìm thấy chúng tôi.
Sau đó Anh Tử dắt chó vào
rừng tìm rau dại, tôi đào đất chôn chân bếp xuống, rồi đặt nồi đun nước, chúng
tôi có mang theo bột mì, Tuyền béo ra tay, gói một bữa bánh chẻo nhân thịt lợn,
chúc mừng thắng lợi bước đầu. Tuy lần này có kinh hãi nhưng cũng không đến nỗi
nguy hiểm, mà nói thế nào thì nói, ba bọn tôi cũng đâu bị sao, còn ít nhiều
cũng thu hoạch được đôi chút, đặc biệt trong căn cứ ngầm của quân Quan Đông có
rất nhiều vật tư vật liệu, sẽ rất có ích cho cuộc sống của dân làng, vì điều
này cũng đáng nâng dăm cốc rồi.
Cứ như vậy, hàng ngày dắt
chó đi săn, liên tục hơn chục ngày, tôi cảm giác mình sắp biến thành thợ săn
thực rồi, cuối cùng người trong làng cũng đến, tổng cộng hơn bốn mươi người, do
bí thư chi bộ và Kế Toán dẫn đầu. Đàn ông trong làng đều tới núi Tim Trâu làm
thuê cả, lần này tới đây gần như toàn đàn bà con gái và trẻ con nhơ nhỡ tuổi,
ngựa trong làng không nhiều, tổng cộng không quá mười con, bọn họ thấy bảo có
nhiều đồ bỏ sót, sợ ngựa không đủ, nên dắt cả la cả lừa tới, cộng thêm chó săn
từng nhà dẫn đi, ồn ào náo nhiệt tiến vào Hắc Phong khẩu.
Mọi người muốn bắt tay vào
việc ngay, tôi bảo rằng mọi người phải trèo đèo lội suối, vất vat nhiều rồi,
chi bằng nghỉ ngơi một hôm, đợi sáng mai sức lực dồi dào hẵng làm. Với lại cũng
không thể làm bừa được, tôi từng làm lính công trình, đành tự đề cử mình làm
trưởng đoàn, phân công nhiệm vụ cho mọi người, phải áp dụng vận trù học, đặt ra
kế hoạch rồi từng bước thực hiện, không thể làm ăn quấy nhằng như bọn ô hợp
được.
Cả đám người nháo nhương,
vừa hứng khởi lại vừa thấy thích thú, kề vai áp má trò chuyện rì rầm, át hết cả
tiếng tôi nói, chẳng ai nghe rõ, cuối cùng đành phải nhờ đến bí thư chi ủy lên
quát lớn :" Yên lặng! Yên lặng cả đi nào!Tất cả mọi người nghe cháu tôi
nói, lời của nó là lời của tôi, cũng là lời của tổ chức. Bận này làng ta tới
đây lượm đồ của bọn Nhật bỏ lại, là nhờ có hai thằng cháu này và con bé Anh Tử,
chúng bảo làm sao, ta nghe theo làm vậy!"
Tôi nhắc lại một lần nữa,
bảo mọi người đi dựng trại bắc nồi, nghỉ ngơi ăn uống, sau đó bàn bạc với bí
thư chi ủy và Kế Toán, không có thuốc nổ, muốn đào xuống căn cứ ngầm cũng không
quá khó, có thể bắt tay ở chỗ mộ tướng quân, nơi đó rất gần lối đi trong căn
cứ, chỉ cần năm người, không đến nửa ngày, là có thể đào thông ngôi mộ bị sụp.
Nhưng trong căn cứ có thể có dã thú, điểm này mọi người cần phải chuẩn bị tinh
thần, động vật sống dưới lòng đất đều sợ lửa, cần có nhiều đuốc. Phải đặc biệt
nhấn mạnh một điều, sau khi xuống đó, không ai được phép tự ý hành động, vũ khí
bên trong không được lấy, chỉ lấy những vật tư cần thiết cho sinh hoạt như áo
khoác, giày mũi lớn của Nhật, thảm, máy phát điện, dây điện dây cáp, có bao
nhiêu chuyển về bấy nhiêu, chuyển xong thì lấp lại, không được để lộ tin tức ra
ngoài.
Bí thư chi ủy vỗ ngực đảm
bảo :" Thằng cháu cứ yên tâm, chỉ cần mấy người họ đều có đồ, bảo đảm giữ
mồm giữ miệng kín bưng. Huống hồ làng ta hẻo lánh, cả năm giời cũng có người lạ
nào tới đâu, bận này ta phát tài ngầm rồi".
Đêm hôm ấy bắc nồi nấu cơm,
dựng trại ngơi nghỉ, sớm hôm sau dậy, tôi phân hơn bốn chục người bao gồm các
cô các chị và các chú nhóc choai choai thành bốn tốp, tốp thứ nhất là mấy em
tuổi nhỏ nhất, Anh Tử dẫn đầu tốp này, vào rừng săn bắn; tốp thứ hai thì ngược
lại, toàn là những cô những chị lớn tuổi, Kế Toán quản lý tốp này ở lại trại
nấu cơm cho mọi người; tôi và Tuyền béo mỗi người dẫn theo một tốp những chị em
trẻ khỏe lần lượt xuống khai quật ngôi mộ tướng quân bị thiêu sụt, bí thư chi
ủy làm tổng chỉ huy toàn cục.
Người trong làng đem theo
rất nhiều dụng cụ, nào cuốc, nào xẻng, thậm chí có người còn mang theo cả lưỡi
cày chẳng biết dùng để làm gì, tôi lại chia tốp mười người của tôi thành hai
nhóm, một nhóm đào bới, nhóm kia vận chuyển đất đá đi nơi khác, công việc sắp
xếp đâu ra đấy.
Bận bịu cả buổi, đến gần
tối mới xong.
Ngày hôm sau, trời vừa bừng
sáng, chúng tôi đã đốt đuốc dầu thông, hơn hai mươi người dắt mấy con la men
theo đường đi mở ra trên tường ngôi mộ cổ tiến vào khu căn cứ ngầm, chỗ cửa sắt
kho Gena, vết tích của cuộc ẩu đả hiện lên thật rõ rệt, con xích hống đã bị xé
tan tành, ngoài ra còn có xác mấy con lười đất thảo nguyên, vết máu khô thành
màu đỏ sạm, nhìn lại vẫn không khỏi nổi gai ốc.
Nơi đây chắc không còn nguy
hiểm gì nữa, hơn nữa chúng tôi mang theo nhiều đuốc thế này, đuốc dầu thông
cháy rất lâu, lại không dễ bị gió thổi tắt, cho dù trong căn cứ này còn động
vật hung dữ nào nữa, thấy ánh lửa cũng không dám đến xâm phạm.
Bí thư chi ủy thấy có vật
tư của quân Nhật bỏ lại nhiều hơn rất nhiều so với dự đoán lạc quan nhất của
mình, vui mừng ra mặt, vội vàng gọi mọi người cùng xúm tới lượm đồ, chất từng
bó áo khoác, giày dép, vải chống mưa, pin khô, hộp cơm dã chiến lên lưng la
lưng ngựa, lũ lượt chuyển ra ngoài.
Làng trong núi sâu, thứ
thiếu nhất là chế phẩm công nghiệp, lúc này mọi người đua tranh, ai nấy hồ hởi,
cùng hô cùng hò, người người đáp tiếng, dường như quay trở về thời Trung Quốc
thực hiện Đại Nhảy vọt năm xưa vậy.
Tôi và Anh Tử lại dẫn theo
mấy người đi dò tìm ở bên kia đường hầm, nhìn lên bản đồ, chỗ đó còn có nhà kho
to hơn, theo bản đồ mà tìm, cũng không khó kiếm lắm.
Cửa kho đóng rất chặt, phải
tìm mấy con ngựa mới kéo được ra, mọi người vào trong thì đều lác hết cả mắt,
từng hàng từng hàng một, toàn là súng pháo, từ pháo bắn trên núi, pháo dã
chiến, súng phóng lựu kiểu 91, pháo 60 ly, pháo truy kích loại lớn loại nhỏ,
lại còn cả đống thùng đạn chất cao như núi, nhìn không ngút mắt.
Xem ra những khẩu pháo này
đều được chuẩn bị cho cuộc vận động chiến. Toàn bộ quân đội Nhật, có thể phân
thành sáu bộ phận. Quân bản địa, tức là quân đóng ở bốn hòn đảo của Nhật, gồm
cả quân đội đóng ở các vùng đất thuộc địa như Đài Loan, Triều Tiên; ngoài ra
còn có quân phái sang Trung Quốc, cũng chính là quân xâm lược Trung Quốc đại
lục; quân phương Nam, tức là quân đội tác chiến ở các nước Đông Nam Á và Úc;
cộng thêm không quân, hải quân và quân Quan Đông đóng ở Mãn Châu và Mông Cổ, cả
thảy có sáu quân khu lớn
Trong đó quân Quan Đông
được Thiên Hoàng và đại bản doanh sủng ái nhất, được gọi là tinh anh trong tinh
anh, người Nhật coi ba tỉnh miền Đông Trung Quốc còn quý hơn đất đai nước mình,
vị trí chiến lược, sản vật phong phú, khoáng sản trong rừng nhiều không kể
xiết, còn có thể huy động từ trên xuống dưới, bất cứ lúc nào cũng có thể tấn
công Trung Quốc đại lục. Rất lâu về trước, ở Nhật đã có bản tấu Tanaka rất nổi
tiếng, trong đó tỏ rõ sự thèm thuồng đối với vùng Đông Bắc Trung Quốc, đến Thế
chiến thứ hai, lại nảy ra ý tưởng Tanaka, tức là thà bỏ lãnh thổ, cũng không
thể mất Mãn Châu, từ đó có thể thấy người Nhật ham muốn Mãn Châu tới mức nào.
Vậy nên vật tư trang bị của
quân Quan Đông, xếp thứ nhất trong toàn bộ lục quân của quân đội Nhật, chỉ có
hạm đội liên hợp hải quân mới so bì được. Nhưng dã tâm của chủ nghĩa quân phiệt
sớm đã trở thành trò cười trước bánh xe của lịch sử. Chúng tôi cũng chẳng cần
khách khí với quân Quan Đông làm gì nữa, hồi trước bọn chúng cũng có khách sáo
với chúng tôi đâu, mọi người đều xắn cao tay áo, hô hào chất đống khuân về.
Tôi bảo họ cẩn thận đèn
đuốc, không nên để gần hòm đạn, chỗ này mà nổ, thì đừng ai hòng chạy thoát, tất
cả sẽ đều bị chôn sống dưới này. Phía sau đống súng pháo, có rất nhiều thùng gỗ
lớn, bên trên có in dấu thép màu đỏ, cậy ra xem, toàn bộ đều là máy phát điện
cỡ nhỏ, nhưng chẳng cách nào khuân được lên, thứ này nặng quá, ngựa lừa căn bản
không thể thồ đi được, đành phải dỡ ra, từ từ chia đợt vác về.
Khuân trọn một ngày mà mới
được một phần mấy chục số đồ trong căn cứ, Kế Toán vội vã tính toán, lần này
thì phát lớn rồi, dùng không hết còn có thể bán lấy tiền, mấy thứ này cũ một
chút, nhưng cũ cũng đáng tiền của cũ chứ.
Lúc ăn cơm tối, bí thư chi
ủy tìm tôi, thương lượng một lúc, cứ khuân về thế này cũng chẳng hết được, mấy
con ngựa cũng không thồ nổi nhiều đồ như thế, giờ đã sắp hết mùa thu rồi, nếu
để lại một đội trông coi, còn lại chở đồ về làng, đường núi khó đi, đi đi về về
cũng phải mất đến nửa tháng, đi chưa được hai lượt thì cả ngọn núi đã đóng băng
rồi, chi bằng lấp cửa vào căn cứ trước đã, mọi người đều về làng, đợi đến xuân
năm sau, quay lại khuân tiếp.
Tôi nghĩ thế cũng phải, rời
khỏi Bắc Kinh cũng đã hơn một tháng, cứ ở mãi trong núi cũng không ổn,
"sản phẩm" của hành động đổ đấu lần này đã đến lúc nhờ Răng Vàng ra
tay, liền tán thành ý kiến của bí thư chi ủy. Tôi và Tuyền béo chắc không thể
quay lại cùng mọi người, bèn nhờ ông bí thư sang xuân năm sau, tới Hắc Phong
khẩu thì đốt tiền cho hai đứa trẻ kia giùm tôi. Ngoài ra phải nhất thiết nhớ
rằng, không được đụng tới súng ống trong căn cứ, những thứ ấy bà con không thể
dùng được.
Để hôm sau có thể lên
đường, đêm hôm ấy dường như chẳng ai chợp mắt, cả đêm bận rộn chất đồ đạc, đến
khi xong xuôi, mặt trời cũng đã mọc, cũng may đêm rồi tuy hơi hỗn loạn, nhưng
cũng không có vụ việc gì xảy ra.
Dọc đường chẳng nói chẳng
rằng, về tới Trại Cương Cương, cả làng rộn rã như ăn Tết, ai nấy đều gọi những
người đàn ông làm công trong núi Tim Trâu trở về, nhà nhà đều làm món miến thịt
lợn hầm.
Ngày hôm sau, tôi và Tuyền
béo không muốn ở lại lâu hơn, từ giã mọi người, quay trở lại Bắc Kinh sau bao
ngày xa cách.
Chúng tôi xuống tàu, chân
ướt chân ráo chạy thẳng tới Phan Gia Viên, Răng Vàng vẫn như trước, thô tục hết
mức, rặt mùi con buôn, lại hết sức kín kẽ, thực ra trong khu Phan Gia viên này
hắn thuộc loại nhà nghề có thâm niên và giàu kinh nghiệm.
Răng Vàng vừa thấy chúng
tôi tới, vội gác lại chuyện làm ăn trước mắt, sấn sổ hỏi chúng tôi :" Hai
ông anh, sao đi bao lâu giờ mới về? Tôi nhớ hai ông anh chết đi được!"
Tuyền béo bấy giờ định lấy
luôn hai miếng ngọc ra cho hắn xem, coi thử rốt cuộc đáng giá bao nhiêu, việc
này cứ vướng mắc trong lòng chúng tôi mãi, hôm nay coi như cũng biết được rồi.
Răng Vàng vội đưa mắt ra
hiệu, bảo chúng tôi đừng bỏ hàng ra vội :" Anh em mình cứ qua Đông Tử nhỉ,
quán dê tái đợt trước ngon đấy, lại yên tĩnh, Phan Gia viên này vàng thau lẫn
lộn, người đông, tai mắt cũng lắm, không phải là nơi nói chuyện, 'minh khí '
không để lộ ra ở đây được. Hai ông anh đợi giây lát, tôi xử lý nốt vụ này rồi
ta đi".
"Minh khí" mà
Răng Vàng nói ở đây, là từ lóng, đoạn trước đã có nhắc tới, từ này là từ đồng
âm đồng nghĩa với từ "minh khí" ( tức đồ âm phủ), chữ
"minh" ở đây không có ý chỉ đồ cổ thời Minh, mà để chỉ đồ tùy táng,
cũng như mấy từ " đồ cổ", "cổ ngoạn", thực ra đều là nói
nghe cho hay, che giấu tai mắt người đời, cứ kỳ thực xuất xứ của những từ ấy
đều có liên quan tới việc "đổ đấu", hồi trước gọi là "đồ
cốt", "cốt ngoạn" 1, đều là chỉ những di vật sót lại của triều
đại trước.
Trong lúc nói chuyện, Răng
Vàng đã thanh lý một chiếc "tủ lạnh" đầu thời Thanh và một chiếc ấm
trà Tế Hồng kiểu gốm Quan dao thời Ung Chính, chủ mua là một người Tây, dắt
theo cả phiên dịch viên tiếng Trung. Thực ra thứ hàng này, cũng có là gì đâu,
chỉ là đồ vặt vãnh thôi, cụ thể hắn bán được bao nhiêu, chúng tôi không rõ,
nhưng tôi đoán ông Tây kia tám chín phần là bị chém ác.
Giải quyết xong vụ làm ăn,
Răng Vàng đếm lại tiền :" Ba hôm không mở hàng, hôm nay vừa mở đã đủ ăn no
ba năm. Bọn Tây ngố, mua hai món hàng giả mà cứ như bảo bối ấy, về mà khóc gọi
bu đi nhé!". Đếm xong tiền, hắn liền quay đầu lại nói với tôi :" Hồi
năm Canh Tý, Liên quân tám nước tiến vào thành Bắc Kinh, vơ vét của giả nào có
ít, hôm nay coi như thay trời hành đạo, anh Nhất, thử nói xem tôi làm vậy có lý
không?"
Tôi và Tuyền béo giờ đang
có việc nhờ hắn, đương nhiên phải dựa theo hắn mà nói, tôi vội dựng ngón tay
cái lên khen :" Xưa có Hoắc Nguyên Giáp tỉ võ đánh bại đại lực sĩ nước
Nga, nay lại có ông Kim khéo lấy tiền bất nghĩa của người Tây, giành vinh quang
cho tổ quốc, cao kiến, quả thực là cao kiến!"
Thu dọn đồ đạc, chúng tôi
tới quán nhỏ lần đầu ngồi nói chuyện với nhau, hôm nay Răng Vàng chắc kiếm được
kha khá, lại được hai chúng tôi tâng bốc nên hơi phê, vừa nhắm rượu vừa xướng
lên hai câu Kinh kịch :" Thằng bồi Tây, ta cầm roi sắt đánh mày đây, hây a
hây a hây ..."
Tôi nhìn quanh, lúc này
không phải là giờ ăn cơm, trong quán vắng tanh vắng ngắt, chỉ có mỗi bàn ở góc
của chúng tôi là có khách, nhân viên phục vụ cũng nằm bò ra bàn ngủ gật, hai
tay bồi bàn phụ trách châm lửa nồi lẩu thì đang ngồi xổm trước cửa tán gẫu,
chẳng ai để ý đến ba chúng tôi cả.
Vậy là tôi bảo Tuyền béo
đưa ngọc ra, để Răng Vàng giám định, nhân tiện kể sơ qua chuyến đi Đông Bắc vừa
rồi. Răng Vàng xem xét tỉ mẩn, chốc chốc lại đưa lên mũi ngửi, còn le lưỡi
liếm, rồi hỏi cặn kẽ chúng tôi về ngôi mộ cổ.
Răng Vàng nói :" Món
giám định cổ vật này, tôi cũng biết sơ sơ, chỉ là chút nghề gia truyền thôi,
hôm nay để hai bác đây chê cười rồi. Giám định cái thứ này, cũng như bắt mạch
trong Đông y vậy, cũng có bốn phép 'vọng' (nhìn), 'văn' ( ngửi), ' vấn' ( hỏi),
'thiết' ( bắt), đặc biệt là với đồ 'minh khí', bởi minh khí không giống cổ vật
thông thường, đồ cổ gia truyền, thường được đem ra lau chùi ngắm nghía, lâu
ngày, bề mặt đều nhẵn bóng. Còn minh khí là thứ do đổ đấu mà ra, vẫn luôn được
chôn trong mộ cổ, mà mộ cổ lại phân ra làm mộ mới, mộ cũ, mộ dơ, mộ nước, mộ
lâu năm. Đầu tiên là 'vọng', phải coi xem kiểu dáng và thủ công, hình dạng màu
sắc. Tiếp đến là 'văn', đây là khâu quan trọng bậc nhất trong việc giám định
minh khí, miền Nam có người làm đồ giả, đem thứ đồ dởm ngâm vào hố phân, rãnh
nước tiểu để làm cũ, màu sắc quả có cũ thật, còn mùi vị thì khác hoàn toàn, mùi
ấy hôi thối hơn nhiều so với ngọc nhét hậu môn của người chết ( ngọc cổ nhét
trong hậu môn xác chết, tránh âm khí toát ra khiến xác mục rữa), làm như vậy
nhìn bề ngoài có vẻ cũ kỹ thật, nhưng ngửi một cái là ra ngay, không bịp được
lỗ mũi nhà nghề đâu. Tiếp theo nữa là 'vấn', vật này lấy từ đâu, có xuất xứ gì
không, người đổ đấu sẽ nói rõ người đó đổ ra từ cái đấu nào, vậy là tôi có thể
đoán được hắn nói thật hay là bịa, có gì sơ hở không, từ đây cũng có thể phán
đoán giá trị và sự thật giả của món đồ từ một mặt khác. Cuối cùng chính là cầm
lên tay để tìm cảm giác, đây là cảnh giới mà chỉ có thể cảm nhận chứ chẳng thể
nói thành lời, đồ cổ qua tay tôi nhiều không đếm xuể, hai bàn tay này ấy à, nối
liền với tim, đồ cổ đích thực, tức là bảo bối ấy, bất kể nhỏ to nặng nhẹ, tôi
dùng tay sờ một cái nắn một cái, là có thể cảm nhận được phân lượng ngay, phân
lượng ở đây không phải trọng lượng thực tế của món đồ đâu, tự thân cổ vật có
linh tính, cũng có một cảm giác nặng nề chắc chắn tích lũy lại sau trăm ngàn
năm, hàng giả có làm giống thế nào đi nữa, cũng không thể tạo ra cảm giác này
được".
Tuyền béo nói :" Ông
anh ơi, ông anh nói nhiều như vậy, tôi chẳng hiểu câu nào, ông anh mau nói xem,
hai món minh khí này của bọn tôi, đáng giá bao nhiêu nào?"
Răng Vàng cười lên ha hả
:" Anh béo sốt ruột rồi đây, vừa nãy tôi lắm mồm rồi, cũng chỉ là có ý
tốt, mong rằng hai anh sau này có thể học được nhiều kiến thức giám định cổ vật
hơn thôi. Các ngôi mộ lớn ngày xưa, có ngôi nào không tới hàng trăm hàng ngàn
món đồ tùy táng, không hiểu biết chút ít về mặt này, về sau cũng khó hành sự
phải không? Giờ tôi nói qua về hai món đồ này, tên của chúng thì tôi cũng không
biết, ta cứ tạm thời đặt cho nó một cái tên, nhìn bề ngoài có thể gọi là nga
thân li văn song ly bích 2, còn về giá trị của nó thì ...
Mấy thứ đồ cổ này, làm gì
có giá cả nào cố định, đâu phải là đường, là sữa mà bảo bao nhiêu tiền một cân
thì bấy nhiêu tiền một cân, giá cả của đồ cổ hết sức tùy ý, chỉ cần có chủ mua,
chủ mua chấp nhận món hàng, thì nó đáng tiền. Bằng không hàng có tốt hơn nữa,
chẳng ai mua, thì nó cũng chẳng đáng một xu.
Hai món minh khí này, tôi
cứ ước chừng cho cái giá gốc, riêng lấy giá trị bản thân của nó ra mà nói, ở
trong nước cũng đáng giá khoảng bốn năm vạn tệ, đương nhiên ở hải ngoại chắc
chắn còn cao hơn giá này nhiều, nhưng hiện giờ trong nước ta thì giá cả thị
trường nó thế. Lúc bán, có chủ mua xứng đáng, còn có thể đưa ra giá cao hơn,
điều này thì khó nói, phải xem tình hình lúc ấy thế nào đã".
Răng Vàng kể trước kia hắn
có một người quen, cũng buôn bán ở Phan Gia viên, toàn mấy thứ lặt vặt như
ngói, tượng, mũi tên, tiền cổ, con dấu, bút mực, lọ thuốc hít, về sau ông anh
này không chơi mấy món ấy nữa, đi Tân Cương bán xác khô, giờ thì phát tài to
rồi.
Tuyền béo lấy làm lạ hỏi
:" Mẹ, xác khô không phải là bánh tông à? Thứ ấy cũng đáng tiền á?"
Răng Vàng trả lời :"
Sai rồi! Trong mắt anh em ta thì nó là xác khô, nhưng ra nước ngoài thì nó là
báu vật, theo giá thành ở Bắc Kinh, thì cứ trước thời Minh, nhất loạt hai vạn
tệ, đem ra nước ngoài thì giá là một trăm ngàn đô la Mỹ. Ông anh nghĩ xem, bọn
Tây chẳng phải thích xem những thứ cổ quái kỳ quặc đó ư? Trong mắt người Tây,
đất nước phương Đông cổ lão chúng ta, tràn đầy màu sắc thần bí, chẳng hạn trong
Viện Bảo tàng Tự nhiên New York, có dán quảng cáo, hôm nay triển lãm xác ướp mỹ
nữ phương Đông thần bí, có chấn động không? Cơn sốt xác ướp này, bắt nguồn từ
xác của thiếu nữ Lâu Lan khai quật trong quần thể mộ ở Lâu Lan Tiểu Hà. Kể cả ở
nước mình, giờ tìm bừa lấy một chỗ làm triển lãm, cũng khối người xếp hàng tham
quan đấy, cái đó gọi là cơ hội kiếm tiền ông anh ạ!"
Tôi và Tuyền béo nghe xong
thì liền hiểu ra, gật đầu lia lịa, hóa ra câu chuyện lại lắm lý lắm nhẽ như
vậy, thật là "đèn có khêu mới tỏ, lời có nói mới rõ", lại thêm được
biết hai miếng ngọc trị giá năm vạn tệ, cảm giác thỏa mãn vô cùng. Nhổ răng
trong miệng cọp, cuối cùng cũng chẳng uổng công.
Tôi lại hỏi tiếp :"
Anh Kim này, ông anh bảo món minh khí của hai thằng em gọi là ngọc bích gì gì
ấy nhỉ? Sao tên gọi trúc trắc thế?"
Răng Vàng rót đầy cốc bia
cho tôi :" Vội gì nào, hôm nay anh em ta còn nhiều thời gian, cứ nghe tôi
kể từ từ, cái này gọi là nga thân li văn song ly bích. Trong nghề buôn đồ cổ
của chúng tôi có một quy định thế này, các món đồ không có tên gọi chính thức,
thì nhất loạt đặt tên theo đặc điểm của chúng.
Cũng như chuông tết Tăng
Hầu Ất nổi tiếng được xếp vào hàng văn vật quốc bảo ấy, trước kia loại nhạc cụ
ấy đâu có gọi thế, nhưng cụ thể gọi là gì, thì thời nay đã khó mà khảo chứng
được rồi, thế là các bác ngành khảo cổ dựa vào ngôi mộ nó được khai quật và
chủng loại của nhạc cụ mà đặt cho cái tên như vậy thôi.
Nga thân li văn song ly
bích , cái tên ấy đã miêu tả đủ đặc điểm của hai miếng ngọc này rồi. Nga thân
là sao, tạo hình của nó giống như con ngài, miếng ngọc được đổ đấu trong mộ
tướng quân nước Kim, thời xưa ngài bay 3 là tượng trưng của người dũng sĩ xả
thân quên mình, chẳng phải có câu " ngài bay dập lửa" ấy thôi, có đi
không về, biết rằng sẽ chết, mà vẫn khẳng khái ung dung lao vào ngọn lửa.
Đương nhiên giờ chúng ta
đều biết lũ này không nhìn thấy gì, hễ thấy ánh sáng là lao vào, nhưng người
xưa lại không cho là vậy, họ vô cùng sùng bái tinh thần của giống ngài này, đã
lấy hình dạng của nó để làm một số đồ trang sức, để cho những người lập chiến
công hiển hách đeo lên mình, coi như một niềm kiêu hãnh.
Hai anh lại coi tiếp hoa
văn trên miếng ngọc này, nó cũng có tên, gọi là "ly văn", đầu giống
sư tử, mình lại giống hổ, kỳ thực đều chẳng phải. Ly là một loài rồng, không có
hai sừng trên đầu, những vật có chạm trổ hình con ly đều có tác dụng tránh tà.
Cách đây không lâu ở núi Mộc Gia Vân Nam, có đào được một ngôi mộ vương gia
thời Minh, chắc hai bác nghe Bình sách 4 đều nghe qua "Đại Minh anh liệt
truyện" rồi chứ, Chu Nguyên Chương có một viên đại tướng, họ Mộc tên Anh,
ngôi mộ đợt ấy khai quật được chính là mộ của vị Mộc vương gia này, trong mộ
cũng tìm được một Phỉ thúy song ly bích, trông cũng giống hai miếng ngọc mà hai
bác đổ đấu được đấy, nói theo ngôn ngữ hiện đại thì là một loại huân chương,
huy chương quân công gì đó.
Ta lại nói tiếp đến chữ
"song", nghe tên là rõ, chính là một đôi. Ở đây rất coi trọng đấy
nhé, thứ trang sức này treo ở hai bên mũ sắt, thế nên nhất định phải là một
đôi, nếu chỉ có một miếng thì chẳng đáng giá nữa.
Còn vì sao lại gọi là
"ly" 5? Ấy tức là nói về công nghệ chế tác ra chúng. Ngoài ra giá trị
của hai miếng ngọc này, chủ yếu nằm ở giá trị lịch sử và giá trị thưởng thức
của chúng, chứ chất liệu thì chẳng quý hiếm mấy. Nguyên liệu này là "đá
ngói Càn Hoàng đổi màu" ở vùng Kavkaz, thực ra không phải ngọc, đương
nhiên nếu cứ gượng ép quy chúng vào loại ngọc, thì cũng không phải không được.
Loại đá ngói Càn Hoàng này giờ rất đáng giá, nhưng hai miếng này cũng không
phải là loại thượng phẩm, loại thượng phẩm trong hai mươi tư tiếng đồng hồ sẽ
lần lượt đổi thành mười hai màu sắc khác nhau cơ.
À, bên trên còn có chữ, chữ
Triện, là tên người, "Quách Hà Mô", xem ra chủ nhân của đôi ngọc
chính là ông ta. Người này hình như là Tả đô giám nguyên soái cuối thời Kim,
trong lúc giữ thành, chỉ dùng một cây cung, bắn chết hơn hai trăm binh tướng
Mông Cổ, vũ dũng hơn người, cuối cùng tử chiến sa trường, cũng coi như là một
vị anh hùng, tương truyền vua Kim phải dùng mười vạn lạng vàng, để đổi lấy thi
thể ông ta từ tay người Mông Cổ đấy".
Tôi cảm giác như đang nghe
Bình sách vậy, cũng có chỗ nghe hiểu, nhưng không nhiều lắm, Tuyền béo thì mặc
chẳng thèm nghe nữa, cứ đổ lần lượt từng đĩa sách bò, thịt dê, thịt gà, rau,
nấm vào nồi lẩu, dạo này toàn ăn thịt nướng đâm ra ngấy, giờ lại được ăn thịt
dê tái, nhai sướng quai hàm, nên chỉ biết ăn với ăn.
Tôi hỏi Răng Vàng xem gần
đây trên thị trường mặt hàng nào đang sốt, bán được nhiều tiền.
Răng Vàng trả lời :"
Người Tây gọi nước mình là China, tức đồ sành sứ, có thể nói đồ gốm sứ mãi mãi
vẫn là sốt nhất trên thị trường đổ cổ, những loại gốm sứ sản xuất vào thời kỳ
huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc, thì ngay đến cả công nghệ tiên tiến thời
nay cũng khó sánh được. Ví như sứ Thành Hóa, ông anh đã nghe nói chưa? Đặc biệt
là loại sứ màu, đắt khủng khiếp, chẳng cần to tát gì, chỉ một mụn tí xíu như
cái chim thằng cu ba tuổi thôi, đem đến Phan Gia viên, cũng phải mười vạn tệ,
đều không cần mặc cả gì hết. Ông anh vừa kể trong mộ cổ ở Hắc Phong khẩu đoạn
biên giới Trung Mông có nhiều đồ gốm sứ, tiếc là lại không đổ ra, những thứ ấy
chắc đều là đồ cuối thời Bắc Tống cả, thật là đáng tiếc lắm. Tôi nói một câu
chối tai, mong ông anh đừng phật ý, chứ quả thực lần này ông anh coi như lé mắt
rồi, những chiếc bình chiếc chậu hai ông anh không đổ ra ấy, giá tiền còn đắt
hơn hai miếng ngọc này nhiều. Cho nên mới bảo con mắt hai ông anh vẫn cần phải
rèn luyện nhiều, đợi cơ hội nào đi, bận sau tôi về quê thu dọn ít đồ, ông anh
đi theo tôi một phen, xem xem bí quyết nhà nghề, các chuyến sau này, chí ít
cũng phải kiếm được mấy trăm vạn".
Tôi vâng vâng dạ dạ, rồi
bảo Răng Vàng :" Thằng em đây cũng có ý ấy, giờ có một ý tưởng hơi bạo dạn
thế này, lần sau hai thằng em định đổ cái đấu to hơn, đổ một lần là phải giải
quyết xong vấn đề. Cái nghề quật núi mò vàng này, hành sự nơi rừng sâu núi thẳm
chẳng bằng ở nội địa, rủi ro lớn quá, cho dù có thêm mấy cái mạng, cũng không
chịu đựng được giày vò như thế. thằng em đang chuẩn bị tìm một ngôi mộ lớn có
phong thủy thuộc hàng đỉnh để ra tay, có điều việc này không phải trò đùa con
nít, trước tiên phải chuẩn bị đầy đủ đã, nếu không sợ rằng không thể ứng phó
nổi".
Răng Vàng hỏi :" Anh
Nhất này, anh muốn làm to thật sao? Chọn mục tiêu chưa nhỉ?"
Tôi đáp :" Chưa, tôi
đột nhiên nảy ra ý định ấy thôi, mộ lớn mà ở vùng hẻo lánh kiểu ấy cực kỳ khó
tìm, vả lại giờ tôi cứ như anh nông dân, ngoài biết xem phong thủy tìm mộ, thì
những chuyện lịch sử, khảo cổ, giá trị, giám định ... đầu tôi tối như hũ nút,
chẳng hiểu cái gì cả, về mục tiêu lựa chọn cũng mù tịt. Cũng không muốn vội
hành động ngay, lần hành động vừa rồi, chứng tỏ có hơi hám lợi trước mắt, từ
giờ không thể làm những vụ gấp gáp như vậy nữa. Có điều nói đi cũng phải nói
lại, tuy lần đi Đông Bắc này không đổ được thứ gì nhiều, nhưng ít nhiều cũng
tích lũy được một số kinh nghiệm và tiền vốn, cứ coi là một lần diễn tập đổ đấu
đi". Răng Vàng trả lời :" Nghe ông anh nói vậy, tôi đột nhiên nhớ đến
một chuyện, ở Tân Cương ấy mà ..."
--------------------------------
1 Từ "cổ" ( xưa,
cũ) đồng âm với từ "cốt" ( xương cốt) trong tiếng Hán hiện đại. 2 Hai
miếng ngọc thân hình con ngài hoa văn con ly. 3 "Ngài bay" tức là con
thiêu thân. 4 Bình sách ( nguyên văn "Bình thư"): là một môn nghệ thuật
dân gian theo lối kể chuyện dài ở Trung Quốc, thường dùng các đạo cụ như quạt,
khăn tay, thanh gõ phách ... 5 Ly: cắt, xẻ.
Chương 19: Đoàn
khảo cổ
Thì ra Răng Vàng vừa hay
lại quen biết một vị giáo sư ở Học viện Khảo cổ Bắc Kinh, họ cũng thường xuyên
qua lại với nhau, gần đây xảy ra một chuyện, tình hình cụ thể là thế này.
Các hoạt động khảo cổ
cũng như bảo hộ văn vật bị buộc dừng lại trong 10 năm Cách mạng Văn hóa, sau
cải cách mở cửa, đã được triển khai trở lại, ba năm gần đây, là thời kì đỉnh
cao của ngành khảo cổ, một lượng lớn mộ cổ và di tích dồn dập xuất hiện.
Giao dịch, giao lưu trong
giới sưu tầm đồ cổ cũng cực kì sôi nổi, những nhóm trộm mộ lớn nhỏ cũng nghe
hơi nồi chõ, cứ thấy nấm đất là cắm cổ đào bới, nhất là các vùng Thiểm Tây, Hà
Nam, Hồ Nam, hơn nữa càng làm lại càng dữ dội.
Từ khi quần thể mộ bên bờ
sông Tiểu Hà (Lâu Lan) Tân Cương được phát hiện người ta dường như mới bừng
tỉnh ngộ, trong sa mạc Tân Cương, Con đường Tơ lụa từng vang bóng một thời, ba
mươi sáu nước Tây Vực ven sông Khổng Tước, Hồ Hồ, Lâu Lan, Mễ Lan, Nê Nhã, Luân
Đài, Bồ Loại, Cô Mặc, Tây Dạ,... những khu lạc viên của người mê mạo hiểm, biết
bao nhiêu của cải và sự phồn hoa đã bị chôn vùi dưới dải cát vàng mênh mông vời
vợi.
Nhất thời, vô số đoàn
thám hiểm, đoàn khảo cổ, cả các nhóm trộm mộ tranh nhau tiến vào sa mạc Taklimakan tìm kho báu. Đây là cơn sốt thám hiểm rầm rộ
thứ hai sau tiếp theo cơn sốt thám hiểm sa mạc đầu thế kỉ 19, nhưng đối với đại
đa số những nhà thám hiểm non nớt không đủ kinh nghiệm, vùng sa mạc mênh mông
này quả đúng như Folke Bergman, nhà thám hiểm lớn gốc Thụy Điển, đã viết về nó,
là một nơi chỉ có đi mà không có về. "Tử vong chi hải" - biển tử
vong, cái tên này cũng từ đó mà ra.
Việc bảo vệ di tích mộ cổ
Tân Cương vô cùng cấp bách, nhưng nhà nước không đủ sức người, sức của để tiến
hành khai quật, bảo vệ các di tích trong sa mạc Taklimakan, hầu hết nhân viên
khảo cổ đều đang tập trung ở Hà Nam gấp rút khai quật những ngôi mộ cổ đã bị
trộm viếng hoặc tổn hại trong quá trình thi công các công trình khác.
Vị giáo sư mà Răng Vàng
quen biết, nghiên cứu văn hóa Tây vực đã lâu, ông hết sức lo lắng việc mộ cổ
Tân Cương bị phá hoại, một mực làm đơn xin lãnh đạo, mong được tự dẫn một đoàn
đi vào sa mạc để làm một cuộc khảo sát hiện trường, đánh giá các di tích, sau
đó sẽ yêu cầu các cơ quan hữu quan tiến hành khai quật hoặc bảo vệ.
Cấp trên viện cớ kinh phí
không đủ, thoái thác hết bận này đến bận khác, chứ thực ra kinh phí chỉ là thứ
yếu, chủ yếu là vì gần đây có quá nhiều người gặp chuyện trong sa mạc rồi, chỉ
lo mấy người giáo sư gặp điều gì bất trắc. Chốn quan trường có một quy tắc
ngầm, không cầu lập công, chỉ mong vô tội, không phạm sai lầm chính là lập công
lớn, thăng quan tiến chức chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi.
Cho tới mãi gần đây, một
người Mỹ gốc Hoa xuất hiện, tài trợ toàn bộ kinh phí cho đoàn khảo cổ của giáo
sư, cái đoàn đó mới được hình thành. Trước mắt đoàn thám hiểm khảo cổ này vẫn
đang tiến hành chuẩn bị bước đầu, họ cần tìm một người dẫn đầu đoàn giàu kinh
nghiệm sinh tồn trên sa mạc, ngoài ra còn thiếu một người biết thuật phong thủy
chiêm tinh, vì phần đông đoàn khảo cổ đều là những tay mọt sách, không có người
dẫn đoàn, không có cao nhân biết coi phong thủy chiêm tinh, dựa vào bọn họ cũng
chẳng thể nào tìm được vị trí mộ cổ hay di tích.
Tìm người như vậy đâu dễ,
có một số người đến dự tuyển, quá nửa là bọn đạo danh lừa gạt, đôi bên nói
chuyện là lòi đuôi chuột ra ngay, thế nên vị giáo sư kia cũng nhờ Răng Vàng
giúp tìm cho một người như thế.
Răng Vàng hỏi tôi có muốn
tham gia không, giá người Mỹ kia trả cũng tương đối cao, đồng thời còn có thể
đi vào sa mạc xem xem, rốt cuộc có mồ mả gì lớn hay không, coi như là đi thăm
dò địa bàn, sau này có hành động cũng dễ bề tham khảo.
Tôi trả lời: "Chuyện
này rất tốt, đối với bọn này có thể coi là một cơ hội thực hành hiếm có, trước
giờ hai thằng em nào có qua lại với người làm khảo cổ bao giờ đâu, nếu có thể
cùng đi với họ, chắc hẳn sẽ học được không ít thứ hay ho. Sa mạc thì thằng này
từng đi rồi, trước ở bộ đội từng hai lần đi sâu vào sa mạc diễn tập quân sự.
Người dẫn đoàn thì vẫn dẫn đoàn, nhưng muốn vào sa mạc, thì vẫn phải tìm lấy
một người dẫn đường bản địa thật giỏi. Ngoài ra, về thuật phong thủy tinh
tượng, tôi đây nắm chắc, chỉ cần trên trời có sao, tôi có thể dẫn họ tìm được
tới chỗ họ cần tìm. Chỉ có điều, tôi không hiểu lắm, người Mỹ kia vì sao lại bỏ
tiền tài trợ cho hoạt động thám hiểm của Trung Quốc chúng ta? Mục đích của hắn
là gì? Người Mỹ không phải là Lôi Phong, họ rất thực dụng, coi trọng lợi ích
thực tế nhất, những chuyện không có lợi lộc, họ sẽ không làm đâu".
Răng Vàng đáp: "Tình
hình tường tận thế nào tôi cũng không rõ lắm, chỉ biết đại khái thôi. Người Mỹ
xuất tiền tài trợ kia là một phụ nữ, gốc Hoa, bố cô ta là một tỉ phú ở phố
Wall, thường ngảy rất thích các hoạt động thám hiểm khảo cổ. Năm ngoái, bố cô
ta cùng một đám nhà thám hiểm Trung Quốc tới Tân Cương thám hiểm, hình như ông
ta rất hứng thú với cái văn hóa Tinh Tuyệt gì đấy. Lần ấy họ đi là để tìm thành
cổ Tinh Tuyệt vùi sâu trong lòng biển cát, kết quả đi rồi chẳng quay về, một
người cũng không, doanh trại quân đội đóng gần đó đã huy động cả máy bay đến
tìm, nhưng cuối cùng vẫn chẳng thấy, một chút manh mối cũng không có. Cô ta
thừa kế tài sản kếch sù, có lẽ là vẫn không cam tâm chấp nhận chuyện của ông
bố, lần bỏ tiền tài trợ này, chắc là muốn tận dụng hết khả năng lớn nhất của
mình để tìm kiếm người thân lần nữa. Cô ta tuy là người Mỹ, nhưng suy cho cùng
vẫn là Hoa kiều, theo truyền thống của người Trung Quốc, người ta chết đi, phải
chôn ở quê mà, vất vưởng nơi sa mạc cho nắng gió xối xả, lại lìa xa người thân
mình, vậy đâu được yên lòng."
Ba người chúng tôi uống
tới tận tối mới giải tán, hẹn Răng Vàng liên lạc bên mua hai miếng ngọc, đồng
thời giới thiệu chúng tôi với giáo sư Trần, người tổ chức đoàn khảo cổ đang sắp
lên đường, chúng tôi có thể gia nhập không, còn cần phải nói chuyện trực tiếp
với giáo sư Trần đã.
Hai ngày sau, Răng Vàng
dẫn chúng tôi đi Thiên Tân, trên đường Thẩm Dương, có một cửa hàng đồ cổ nho
nhỏ, chủ quầy là một phụ nữ trắng trẻo hơn ba mươi tuổi, chúng tôi đều gọi là
chị Hàn. Chị Hàn là tình nhân của một tay chủ lớn, tay chủ này là một trong mấy
nhà sưu tầm đồ cổ đếm trên đầu ngón tay của Hồng Kông, y mở cho chị Hàn một cửa
hàng ở Thiên Tân, thứ nhất là để chị ta có việc để làm cho cuộc sống đỡ nhàm
chán, thứ hai cũng là để thu mua đồ cổ minh khí nữa.
Chị Hàn là một phụ nữ
không ưa nói năng, nhưng khả năng giám định đồ cổ thì cực cao, xem đồ của chúng
tôi xong, chị ta hào phóng trả luôn sáu vạn: "Tình hình hiện nay, cùng lắm
cũng chỉ năm vạn, trả thêm cho các chú một vạn, gọi là làm bạn với nhau, sau
này có món nào hay, nhờ các chú lại mang đến chỗ chị!"
Tôi nhận xấp tiền dầy cồm
cộp, tâm trạng kích động, tay cũng hơi run run, tôi thầm chửi bản thân không ra
trò trống gì: " Nhất ơi là Nhất, mày cũng được coi là loại từng trải sự
đời, năm xưa Mao Chủ tịch đứng trên Thiên An Môn kiểm duyệt Hồng vệ binh, mày
có kích động không? Thẳng thắn mà nói lúc ấy cũng kích động, nhưng đâu thể kích
động như bây giờ. Xấu tốt gì thì mày cũng từng trèo cây trong rừng sâu, từng
đào hầm trên núi Côn Luân, từng tham gia chiến trận, sao hôm nay lại xúc động
đến nỗi cầm không được chắc cả mấy đồng tiền thế này? Ôi, đây chính là sức mạnh
của đồng tiền đây sao! Cũng chẳng còn cách nào khác, mày có thể không tôn trọng
tiền, nhưng không có tiền, sẽ không mắc dây điện cho dân làng trong núi được,
không cải thiện đời sống cho người thân của đồng đội đã hi sinh của mày được,
tiền quá vĩ đại, ra sống vào chết, vì cái gì, chính là vì tiền mà thôi!"
Quay về, tôi chia tiền ra
làm bốn phần, một phần cho Anh Tử, một phần cho Tuyền béo, còn một phần đưa bí
thư chi ủy chia cho mọi người, còn lại một phần, tôi giữ lấy mua trang bị và
làm kinh phí cho đợt hành động sau.
Tuyền béo không muốn nhận
phần của mình, cậu ta nói: "Số tiền lần này bảo ít cũng chẳng phải ít,
nhiều cũng chẳng nhiều, đem sửa đường cho trại Cương Cương chắc chắn không đủ,
chia ra cũng chẳng còn bao nhiêu nữa, nghe nói các liệt sĩ trong đại đội của
cậu còn nhiều gia quyến dưới quê, nhà lại đông người, tuy có trợ cấp của nhà
nước nhưng cuộc sống vẫn hết sức khó khăn, thậm chí có bà mẹ, con trai hi sinh,
cũng chẳng có tiền mà mua vé tàu đi Vân Nam thăm mộ con. Nghe cậu nhắc chuyện
ấy, mắt tớ cay hết cả, cũng thấy khó chịu trong lòng, cậu cứ gửi hết phần của
tớ cho gia đình các liệt sĩ và anh em thương binh đi. Đời tớ, tâm nguyện lớn
nhất chính là làm lính ra chiến trường đánh trận, nhưng ông già mất sớm, chẳng
có cơ hội ấy, cậu giúp tớ hoàn thành nguyện vọng này đi, sau này mình có nhiều
tiền, chia cho tớ cũng không muộn."
Nhắc đến việc này, tôi
cũng rưng rưng nước mắt, vỗ vai Tuyền béo: "Được! Cậu càng ngày càng giác
ngộ đấy. Cơ hội kiếm tiền sau này còn nhiều, lần tranh thủ đi Tân Cương, kiếm
của người Mỹ đi đã!"
Nghỉ ngơi dăm ngày, Răng
Vàng có tin báo, bảo đã hẹn gặp giáo sư Trần rồi, đoạn dẫn tôi và Tuyền béo tới
nơi làm việc của ông.
Giáo sư đã có tuổi, tôi
vừa gặp đã không khỏi lo lắng thay cho ông, bộ xương già này mà còn muốn đi vào
sa mạc cát chảy lớn thứ 2 thế giới hay sao?
Cùng ngồi với giáo sư
Trần, còn có trợ thủ của ông, Hách Ái Quốc, đây là một trí thức trung niên độ
bốn mươi tuổi, đầu tóc rối bù như tổ quạ, thoạt nhìn là biết thiếu kinh nghiệm
xã giao, chiếc kính cận dày cộp của anh ta cho người ta biết rằng, anh là người
một có thái độ học hỏi nghiêm túc cẩn thận, cầu thực chất, say mê nghiên cứu,
và không chú trọng đến hình tượng của mình lắm. Loại người như anh ta thời Cách
mạng Văn hoá không hiếm, nhưng sau cải cách mở cửa, cùng với trào lưu tri thức
mới, phong trào mới, giá trị mới, những người cổ lỗ như thế đã không còn nhiều
nữa.
Hách Ái Quốc chăm chú
nhìn chúng tôi một lượt, cũng không hề khách sáo, thẳng thấn nói luôn:
"Hai đồng chí, hai vị tới đây làm gì chúng tôi đã biết, chắc hẳn yêu cầu
của đoàn khảo cổ chúng tôi, hai vị cũng đã rõ, lần này phải nói là phá lệ trong
phá lệ, ngoại lệ trong ngoại lệ đấy. Chúng tôi cần nhân tài, hai vị đây có kinh
nghiệm thám hiểm, sinh tồn trong sa mạc, hay là thông thạo thuật phong thủy
tinh tú? Điều này không thể qua loa đại khái được, nếu hai vị không có bản lĩnh
về mảng này, đừng hòng mà đi cửa sau chạy chọt!" Nói xong lại nhìn Răng Vàng
một cái, "không nể mặt ai hết."
Giáo sư Trần cảm thấy
Hách Ái Quốc nói thẳng quá, ông rất thân với bố Răng Vàng, thường xuyên thỉnh
giáo cha con họ về các vấn đề giám định thưởng thức đồ cổ, không muốn làm căng
quá, bèn đứng lên khỏi sofa dàn hòa, mời chúng tôi ngồi xuống, chuyện trò vài
câu, hỏi tôi và Tuyền béo mấy chuyện lặt vặt, nghe xong thì mỉm cười gật đầu:
"Không đơn giản đâu nhỉ, từng làm Đại đội trưởng giải phóng quân, còn có
kinh nghiệm chiến đấu, lại từng tới sa mạc, thật là hiếm có, làm người dẫn đoàn
cho lũ mọt sách chúng tôi, chắc là thừa khả năng rồi. Di tích và mộ cổ trong sa
mạc, đại đa số đều lấp vùi trong biển cát vàng, sông Khổng Tước xưa kia nay đã
cạn khô từ lâu, khó mà tìm được, nếu không nắm chắc thuật phong thủy thiên
tinh, e rằng khó mà tìm được, chẳng hay thuật phong thủy này hai vị có thông
hiểu hay không?"
Tôi biết thuật phong thủy
thiên tinh còn gọi là "Thiên cùng thanh nang thuật", chính là thuật
được chép trong chương chữ Thiên của Thập lục tự Âm dương phong thủy bí thuật,
là chương khô khan khó hiểu nhất, tôi chưa từng áp dụng trong thực tế lần nào,
có điều, lúc này cũng đành cắm đầu nói bốc lên vậy. Tôi giã đầu đáp: "Thưa
giáo sư, không phải tôi nói bốc đâu, chứ thuật phong thủy tinh bàn nguyệt khắc
này, tôi nắm trong lòng bàn tay, có điều chuyên này nên nói bắt đầu từ đâu
nhỉ... "
Để có được công việc được
trả lương bằng đôla Mỹ này, tôi đã dốc hết hàng tồn trong bụng ra, hy vọng bỏ
bùa mê được mấy người này. May nhờ cuốn sách gia truyền kia, lúc đầu Hách Ái
Quốc thấy tôi non trẻ, tưởng tôi là họ hàng của Răng Vàng, định đến chạy chọt
kiếm bữa ăn, tôi mới nói vài câu, nói đâu ra đấy, anh ta cũng không khỏi nhìn
tôi bằng con mắt khác, ngồi một bên vểnh tai chăm chú lắng nghe.
Môn phong thủy này, được
gọi là tối cao của địa học, đất phong thủy có thể khái quát một cách đơn giản
là: tàng phong chi đại, đắc thủy chi sở (đất có gió, được nước). Trong Táng thư
1 viết rất hay: "Táng, ấy là giữ gìn sinh khí vậy. Khí theo gió mà tán,
gặp nước thì ngưng. Cổ nhân tụ khí để không tán, hành khí để cho dừng, vậy nên
gọi là phong thủy."
Đời sau lại mở rộng phong
thủy học ra vô hạn, chẳng những chỉ dừng ở huyệt vị mạch đất của mồ mả, mà còn
dần mở rộng thành thuật kham dư. Kham dư, thiên đại vậy, nói trắng ra tức là
môn phân tích quan hệ giữa trời, đất và con người.
Nhưng nay tôi chỉ nói với
giáo sư và các thầy giáo ngồi đây một chút về phân nhánh "Phong thủy thiên
tinh" trong thuật phong thủy mà thôi. Đế vương quý tộc thời xưa, hết sức
coi trọng việc hậu sự, lúc sống hưởng thụ thế nào, chết đi cũng phải sở hữu thế
ấy, chẳng những thế, họ còn cho rằng thiên hạ hưng vong, đều bắt nguồn từ long
mạch, cho nên lăng mộ đều phải đặt ở đất phong thủy đẹp. Hoàng đế Ung Chính 2
từng tổng kết một cách thấu đáo về lăng mộ đế vương, ông nói: Nơi càn khôn
chung tú, đất tụ hợp âm dương, huyệt rồng sông báu, thu tận cái đẹp, thế vững
khí thiêng, trăm may thảy vượng, mạch non phép nước, lối lối rõ ràng, ấy là đất
thượng cát.
Tuy chỉ có mấy câu ngắn
gọn, nhưng quả đã miêu tả một cách trực tiếp nhất, hình tượng nhất, sinh động
nhất về việc chọn đất làm lăng tẩm cho Hoàng đế, nhưng Ung Chính cũng chỉ mới
nói nửa chừng, cảnh giới trời người hợp nhất mà cổ nhân theo đuổi, chẳng những
chú trọng đến phép nước mạch non, mà còn cần trông thiên tinh nhật nguyệt.
Từ thời thượng cổ, người
ta đã thường coi thiên trọng, nghiên cứu sự biến hóa của tinh tú, suy đoán họa
phúc rủi may, khi lựa chọn đất phong thủy đẹp, cũng áp dụng đến tinh túy của
thiên văn học, trời đất cách nhau tám vạn bốn ngàn dặm, tim thận con người cách
nhau tám tấc bốn phân, cơ thể chia làm kim mộc thủy hoả thổ, ứng với ngũ thiên
tinh nguyên, lại có hai mươi tư vì sao đối ứng với địa lý núi sông trong thiên
hạ, sao có lành ác, đất có tốt xấu.
Phàm là đất thượng cát,
ắt sẽ hô ứng với thiên tinh nhật nguyệt trên trời, thuật Thanh Ô định huyệt dựa
vào sự lưu chuyển của tinh vân, chính là môn phong thủy thiên tinh khó nắm bắt
nhất trong phong thủy học.
Trời có hai mươi tư sao,
ngày có hai mươi tư giờ, năm có hai mươi tư tiết, ấy nên phong thủy cũng có hai
mươi tư hướng, hai mươi tư vị 3. Có thể hiểu sự sắp xếp hung cát của các vì sao
này, rồi dùng la bàn định vị, khắc có thể tìm được chỗ chúng ta cần tìm, có
điều thuật phong thủy thiên tinh này có rất nhiều hệ phái, phương pháp khác
nhau, trong đó cũng không ít những điều mâu thuẫn, di tích trong biển cát mịt
mùng, cách đây ngàn năm, hai hay ba phần trăm cơ hội tìm thấy đã là không nhỏ
rồi.
Giáo sư Trần nghe đến
đây, mừng rỡ đứng bật dậy nói: "Anh Nhất nói hay quá, ông trời thật có
mắt, cuối cùng thì cũng phái nhân tài như anh đây đến cho chúng tôi. Trong sa
mạc Tân Cương, thời gian trải qua ngàn năm, thậm chí là mấy ngàn năm, bao cuộc
bể dâu, ốc đảo và thành thị ngày xưa giờ đã biến thành biển cát mênh mông, dòng
sông mạch núi cũng đã mất tăm mất dạng, nếu chúng ta muốn tìm lăng mộ trên con
đường tơ lụa cổ xưa, thì con đường ngắm nhất, hiệu quả nhất chính là dựa vào
thuật phong thủy thiên tinh. Tôi tuyên bố, bắt đầu từ ngày hôm nay, hai vị
chính thức gia nhập đoàn khảo cổ của chúng tôi."
Hách Ái Quốc cũng lại gần
thân thiết bắt tay chúng tôi, tỏ ý xin lỗi vì thái độ lạnh lùng ban nãy:
"Xin lỗi xin lỗi, thành phần trí thức bọn tôi đây toàn một lũ hủ nho, bao
nhiêu năm Cách mạng Văn hóa, chịu khổ chịu sở mãi, đâm ra ngây cả người, không
biết nói chuyện, mong hai vị chớ để bụng."
Tôi mừng thầm: "Khà
khà, mình cũng chỉ biết có từng ấy thôi, nói thêm nữa thế nào cũng lòi đuôi
chuột. Thuật phong thủy thiên tinh khó đến mức chẳng thể nào tưởng tượng được,
mình đây thực ra cũng không hiểu lắm, nhưng chắc hẳn đám trí thức đeo kính cận
các người, cũng khó mà chịu nổi thử thách khắc nghiệt của sa mạc, tiến vào chưa
đến dăm hôm là phải quay về thôi. Mà ngoài ra mình còn khoa trương lên, đem xác
suất tìm được di tích giảm xuống hết cỡ, không tìm thấy, thì cũng đâu thể trách
mình không biết coi phong thủy thiên tinh, tiền công thì vẫn chẳng thể thiếu
một đồng."
Tôi đang nghĩ tới chỗ đắc
ý, bỗng một cô gái trẻ bước vào, giáo sư Trần vội giới thiệu với chúng tôi:
"Đây là cô Dương, người tài trợ kinh phí cho chuyến đi của chúng ta lần
này, cô ấy cũng đi với chúng ta luôn, các anh chớ thấy cô Dương là nữ mà lầm
tưởng, cô ấy là nhà nhiếp ảnh của tạp chí nổi tiếng National Geographic đấy."
Tôi liền ra vẻ lịch lãm,
bắt tay cô nàng tỏ vẻ tôn trọng, tôi nghĩ đối phương là người Mỹ, thì phải nói
tiếng Anh với người ta, mà xin chào nói thế nào nhỉ? Hình như là: "Hê...
hê... hê lô!"
Cô Dương kia mỉm cười:
"Anh Nhất ạ, tôi cũng biết nói tiếng Trung, chúng ta cứ nói chuyện với
nhau bằng tiếng Trung đi. Từ sau anh cứ gọi tôi là Shirley Dương là được."
Không ngờ tiếng phổ thông của cô ta lại giỏi thế, chẳng có chút khẩu âm Mỹ nào,
mà thực ra khẩu âm Mỹ ra làm sao, tôi cũng chẳng biết nữa, dù sao cũng cảm thấy
cô ta chẳng khác gì người Trung Quốc cả.
Shirley Dương bắt tay
Tuyền béo, sau đó đưa ra một nghi vấn, anh Vương Khải Tuyền (Tuyền béo) cùng
đến với anh Nhất, bản lĩnh của anh Nhất thì ghê gớm rồi, từng làm chỉ huy trong
quân đội, lại còn biết thuật phong thủy thiên tinh, còn anh Tuyền đây có bản
lĩnh gì, chúng tôi vẫn chưa được lĩnh giáo. Lần đi thám hiểm sa mạc này hết sức
hệ trọng, chúng tôi không cần người không có khả năng đặc biệt đâu.
Tôi không ngờ người Mỹ
lại thẳng thắn như vậy, mọi người đều nhìn cả về phía Tuyền béo, tôi vội nói
đỡ: "Ở sa mạc không được an toàn cho lắm, người bạn này của tôi, có tài xạ
thủ."
Tuyền béo thấy con bé
người Mỹ coi thường mình, thì bĩu môi, tức khí nói: Tân Cương thì làm sao, năm
xưa Tuyền béo này tới sa mạc Tân Cương càn quét bọn phỉ, đánh lũ thổ phỉ ở ốc
đảo Nê Nhã chạy vãi phân vãi đái, còn tự tay giết chết tên cầm đầu nữa. Các vị
xem đi, đây chính là chiến lợi phẩm." Nói đoạn, lấy miếng ngọc đeo trong người
ra hươ huơ trước mặt mọi người, đã thấy bao giờ chưa?"
Tôi đứng bên cạnh nhếch
mép cười thầm, nghĩ thằng ngốc này có bịa chuyện thôi cũng không biết nói cho
kín kẽ, lại còn vơ lấy sự tích anh hùng của đời ông già cậu khoác lên mình nữa
chứ, đi Tân Cương quét phỉ cái mẹ gì, cái hồi ấy cậu còn mặc quần hở đũng đấy,
nói cậu từng ăn thịt dê nướng Tân Cương xem ra còn chấp nhận được. Việc đến
nước này tôi cũng chỉ còn cách tung hứng theo cậu ta, nếu Tuyền béo không đi,
tôi cũng không đi, chắc là cuối cùng họ cũng đành phải thỏa hiệp thôi.
Ấy thế mà chẳng ai phản
bác câu nào, ánh mắt giáo sư Trần và Shirley Dương đều bị miếng ngọc trên tay
Tuyền béo thu hút, bàn tay cậu ta đưa đi đâu, ánh mắt của mọi người dịch theo
tới đó, đến cả chớp mắt cũng không chớp lấy một cái.
Shirley Dương vốn không
đồng ý cho Tuyền béo tham gia đoàn khảo cổ, có điều nhìn thấy miếng ngọc bội
của cậu ta xong, cô ta không hề do dự bằng lòng trả công chúng tôi mỗi người
mười ngàn đô, nếu tìm được thành cổ Tinh Tuyệt lòng sa mạc, sẽ trả thêm gấp
đôi. Nhưng món tiền này phải đợi chúng tôi trở về tè Tân Cương mới thanh toán.
Răng Vàng cũng từng thấy
miếng ngọc bội của Tuyền béo, hắn sành sỏi như vậy, mà cũng không thể nhìn ra
được lai lich miếng ngọc này. Về mặt này thì hắn không biết nhìn hàng bằng mấy
người như giáo sư Trần, suy cho cùng Răng Vàng cũng chỉ bán mấy đồ lặt vặt, còn
giáo sư Trần đã vùi đầu nghiên cứu văn hóa cổ Tây Vực mấy chục năm, cha của
Shirley Dương là bạn thân của ông, từ nhỏ cô ta đã được hoàn cảnh gia đình hun
đúc, cũng có thể coi là một nửa chuyên gia về lịch sử Tây Vực, cho nên hai
người họ vừa nhìn thấy miếng ngọc là nhận ra ngay lai lịch của nó.
Giáo sư Trần cho rằng
miềng ngọc này chí ít cũng có tới một ngàn năm trăm năm cho đến hai ngàn năm
lịch sử, chữ khắc trên đó là văn tự Quỷ Động. Quỷ Động là một dân tộc thiểu số
ở Tây Vực thời cổ đại, dân tộc này đã diệt vong từ lâu, trong thư tịch cổ khai
quật ở Đôn Hoàng có ghi chép, nữ vương nước Tinh Tuyệt chính là người tộc Quỷ
Động, mười chữ Quỷ Động trên miếng ngọc này rốt cuộc có ý nghĩa gì, thì còn cần
khảo chứng thêm mới biết được.
Giáo sư Trần và cha của
Shirley Dương đều là người say mê văn hóa Tây Vực. Tinh Tuyệt, tòa thành từng
một độ phồn hoa rực rỡ, có thể nói thuộc hàng nhất nhì trong ba mươi sáu nước
Tây Vực, thời kì đỉnh cao, cả Tây Vực hiếm có thành nào bì được, sau đó hình
như đã xảy ra tai ương gì rất lớn, nữ vương qua đời, sau đó cả tòa thành cũng
biến mất luôn.
Vinh quang của quá khứ
nay đã bị cát vàng vùi lấp, manh mối chứng minh nó từng tồn tại, chỉ có những
ghi chép vụn vặt trong thư tịch cổ, tương truyền nữ vương Tinh Tuyệt là đệ nhất
mỹ nhân của Tây Vực, nàng giống như vầng dương trên bầu trời, mỗi khi xuất hiện
đều khiến trăng sao phải lu mờ khuất lấp.
Cha Shirley Dương cũng
chính vì tìm kiếm lăng tẩm của vị nữ vương này, tổ chức một đoàn thám hiểm gồm
năm vị học giả Trung Mỹ, mang theo các trang thiết bị tối tân, tiến sâu vào
biển cát, để rồi mãi mãi không bao giờ trờ lại.
Chuyến đi lần này, thứ
nhất là để tiến hành khảo sát và đánh giá hiện trạng mộ cổ trong sa mạc, thứ
hai là thử vận may, xem liệu có thể tìm lại được di thể của năm nhà thám hiểm,
để còn an táng cho tử tế.
Shirley Dương muốn mua
lại miếng ngọc của Tuyền béo, tôi và cậu ta nhận thấy đây là hàng quý cần giữ,
nên nghiến răng không bán, trong bụng toan tính xem có thể chém cô ta bao nhiêu
đô.
Chúng tôi gia nhập đoàn
thám hiểm gồm các học giả và nhiếp ảnh gia, tôi làm người dẫn đoàn, Tuyền béo
làm đoàn phó. Việc đi sa mạc, cứ quyết định như vậy.
Đoàn tàu lao vút trên dải
đất miền Tây rộng lớn, tôi và Tuyền béo ngủ trong toa nằm không biết trời đâu
đất đâu, trạm đầu tiên là Tây An, ở đó tập trung với mấy học trò của giáo sư
Trần, rồi tới Urumchi, trang bị của đoàn thám hiểm sẽ được vận chuyển thẳng đến
đó.
Hách Ái Quốc bước vào,
liền bị mùi thối thối chân của Tuyền béo xộc lên suýt nữa ngã nhào, anh ta lay
tôi dậy: "Đồng chí Nhất, mau dậy, dậy đi, giáo sư tìm anh bàn chút chuyện,
qua đây một lát!"
Tôi ngó qua ngoài song
cửa, trời vẫn còn sáng, cũng chẳng biết là mấy giờ nữa, ngủ mê mệt hết cả,
khoác áo theo Hách Ái Quốc sang phòng bên cạnh.
Giáo sư Trần nói:
"Sáng sớm mai chúng ta sẽ tới Tây An, đón ba học trò của tôi, thành viên
coi như là đủ. Anh là đoàn trưởng, nên muốn bàn bạc trước với anh một số vấn đề
về lộ trình."
Shirley Dương ngòi bên
cạnh cũng nói: "Đúng thế, anh Nhất, tôi và giáo sư đã bàn rồi, dự định sẽ
xuất phát từ hồ Bostan, đi về hướng Nam tìm kiếm sông Khổng Tước, sau đó, băng
qua con sông này đi sâu vào sa mạc, rồi men theo sông ngầm Từ Độc xuôi Nam, tìm
di tích thành cổ Tinh Tuyệt, chúng tôi muốn hỏi ý kiến anh thế nào."
Tôi thấy thật tức cười,
đám trí thức và người giàu này, toàn đánh trận trên giấy nghĩ ngợi xa xôi, các
người đi vậy khác nào đi một vòng sa mạc, ở sa mạc có ai dám đi hình chữ Z bao
giờ đâu, cho dù không chết đói, chết khát, chết nóng, thì cuối cùng cũng chết
mệt. Có điều tôi luôn nghĩ mấy người này thuộc loại ăn no rửng mỡ, thừa giấy vẽ
voi, sống an nhàn vui vẻ không thích, nằng nặc đòi vào sa mạc chịu khổ chịu sở,
chắc chắn không quá hai ba ngày cũng khóc mếu đòi về, cho nên lộ trình thế nào
không quan trọng, về đến nơi trả tôi tiền là được.
Tôi nới với Shirley
Dương: "Cô Dương này, tuy tôi là người dẫn đoàn, nhưng tôi không có tư
cách tham gia quyết định sắp xếp lộ trình, các vị cứ xác định rõ lộ tuyến và mục
tiêu, tôi phụ trách đưa mọi người tới đó, nói cách khác, chị là người quản lý,
còn chúng tôi là culi"
Lời vừa nói ra, tôi lại
thấy hơi hối hận, vẫn có câu, cầm tiền người ra giúp người tai qua, người ta bỏ
tiền thue mình, mình đương nhiên phải làm tròn bổn phận, thế nên tôi nói tiếp
với họ, vấn đề lộ trình phải đợi đến Tân Cương, tìm một người dẫn đường bản địa
hỏi ý kiến rồi mới quyết định được, bây giờ nói gì cũng vẫn còn sớm, việc tìm
người dẫn đường đó để tôi lo liệu.
Mọi người lại bàn bạc
thêm một số chi tiết, sau đó ai nấy đều về nghỉ, sau cuộc nói chuyện trên tàu
này, tôi lờ mờ cảm thấy, mấy người này quyết tâm rất lớn chưa chắc vào sa mạc
mấy hôm đã đòi về như tôi vẫn nghĩ.
Ở Tây An, chúng tôi gặp
các thành viên còn lại của đoàn khảo cổ, họ đều là học trò của giáo sư Trần,
Tát Đế Bằng chân chất, Sử Kiên cao cao, và Diệp Diệc Tâm là nữ nữa.
Cộng với năm người lúc
đầu, tổng cộng tám người. Đến Tân Cương, tôi liên lạc với Lưu Cương, một đồng
đội ngày trước, anh ta đời sau của lữ đoàn 359 Tân Cương, sinh ra và lớn lên ở
Tân Cương, nhưng cũng không quen thân lắm với người bản địa, muốn tìm một người
dẫn đường bản địa quen thuộc địa hình sa mạc không dễ dàng gì, cuối cùng phải
thông qua bạn bè của Lưu Cương, mới tìm được một ông già buốn bán súc vật.
Giờ chẳng ai gọi tên thật
của ông già này nữa, mọi người đều gọi ông ta là Anliman, tức là bản đồ sống
trong sa mạc.
Lão Anliman ngậm cái tẩu
thuốc, lắc đầu lia lịa: "Không được à, không được à, bây giờ mà, là mùa
gió máy mà, vào sa mạc, ông già Hutai (ông trời), giáng tội vạ xuống à... "
Chúng tôi đành giở chiêu
vừa đám vừa xoa, tôi bảo giáo sư Trần lấy giấy tờ ra, giải thích cho ông ta
biết chúng tôi là cán bộ nhà nước cử đến công tác, các đồng chí ở địa phương
phải phối hợp làm việc, nếu ông mà không dẫn đường cho chúng tôi, chúng tôi sẽ
gọi cảnh sát, thu hết lạc đà và lừa, không cho ông buôn bán nữa.
Shirley Dương lại nói,
chỉ cần ông đồng ý dẫn đường, tất cả gia súc của ông, tôi sẽ mua giá gấp đôi,
sau khi từ sa mạc trở về, gia súc vẫn là của ông, tiền cũng vẫn của ông.
Ông giá Anliman chẳng còn
cách nào khác, đành chấp thuận, nhưng đưa ra một yêu cầu: "Đừng lái cái xe
hơi mà, Hutai không thích cái máy móc à, con lạc đà mà, phải mang theo nhiều
nhiều, Hutai thích lạc đà mà."
Về khoản này, tôi nhất
trí với Anliman, trong sa mạc lạc đà đáng tin cậy hơn xe hơi nhiều.
Ông Anliman chọn lấy hai
mươi con lạc đà, ngày xuất phát, đem hết hành lý trang bị của mọi người chất
lên lưng chúng, ngoài ra còn mang theo một số lượng lớn bánh đậu và muối, Tuyền
béo vừa giúp ông ta chuyển đồ vừa hỏi: "Ông ơi, trong sa mạc, mình toàn ăn
bánh đậu với muối sao? Thế chẳng phải càng ăn càng khát à?"
Ông Anliman cười to:
"Ai dà, u li an jiang (anh bạn to khỏe) của tôi, cái này mà, cậu muốn ăn
cũng được, nhưng Hutai bảo mấy thứ này này, là để cho lạc đà ăn à."
Ông Anliman bảo mọi
người, mùa này là lúc nguy hiểm nhất trong sa mạc, đường đầu tiên từ hồ Bostan
đến di tích Thành Tây Dạ, có sa mạc và có cả hoang mạc, cũng may có sông Khổng
Tước cổ nối liền, nên không khó nhận ra, nhưng muốn đi sâu nữa, liệu có tìm
thấy sông ngầm Từ Độc hay không, còn phải xem xem ý của Hutai thế nào.
Đoàn chín người chúng tôi
gọi là đoàn khảo cổ, chi bằng gọi là đoàn lạc đà còn hơn, thực phẩm mang theo,
chắc không đủ một tháng, nước sạch đủ dùng hơn chục ngày, có thể bổ sung nước
ngọt ở các ốc đảo và sông ngầm dọc đường. Ngoài ra còn có mấy túi da lớn đựng
sữa chua, lúc nào khát không chịu được nữa, uống một ngụm giải khát, hiệu quả
hơn gấp uống chục ngụm nước ngọt. Cộng thêm các loại thiết bị, khiến mỗi con
lạc đà đều phải chở rất nặng, khi lên đường, mọi người chỉ có thể dựa vào đôi
chân, nửa đường bộ, nửa đường cưỡi lạc đà
.
--------------------------------
1 Táng thư: tương truyền do
Quách Phác, thuật sĩ nổi tiếng thời Tấn (265-420) viết. 2 Ung Chính: vị vua thứ
sáu đời Thanh, con vua Khang Hy, bố vua Càn Long, trị vì từ năm 1723 đến năm
1736. 3 "Hai mươi tư hướng" hay "hai mươi tư vị" trong
thuật phong thủy bao gồm: Thiên hoàng, Thiên cang, Thiên quan, Thiên uyển,
Thiên thị, Thiên trù, Thiên hộc, Thiên hán, Thiên lũy, Thiên phụ, Thiên cứu,
Thiên quỷ, Thiên ất, Thiếu vi, Thiên quan, Thiên đế, Nam cực, Thiên mã, Thiên
bình, Thái ất, Thái vi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét