Chương 12: Bổng Nguyệt Câu
Bóng xế chếch tây, mặt
trời dần chìm xuống phía dưới đường chân trời, cả khu rừng sắp bị màn đêm lấn
nuốt. Nơi đây sở dĩ từng được gọi là "Bổng Nguyệt câu", bởi khi trăng
nhô lên chính giữa khoảng trời của hẻm núi, nằm ở nơi sâu nhất dưới đây ngẩng
đầu lên nhìn trời, ánh sáng xung quanh tầm mắt sẽ gây cho người ta ảo giác, hai
ngọn núi cao ngút tựa hồ như hai cánh tay khổng lồ vươn lên nâng vầng trăng
sáng. Thứ mà người chết trong huyệt mộ nơi này muốn có được chính là dòng khí
lành, tinh hoa của nhật nguyệt, trong cuốn sách phong thủy ông tôi để lại, ở
chương chữ "Thiên" có giải thích tường tận, tuy một số đoạn nội dung
câu chữ không hiểu mấy,nhưng khi kết hợp quan sát thực tế cũng không khó suy
đoán ra được tám chín phần.
Nếu như Dã Nhân câu không
bị cành lá, cỏ khô mục nát phủ kín, có thể trực tiếp tìm đến vị trí trung tâm,
nhưng giờ đành phải đợi đến đêm khi mặt trăng nhô lên cao mới có thể lần theo
hướng trăng soi xuống đáy hốc núi kiếm tìm mộ cổ. Chủ yếu vẫn là nhân lực của
chúng tôi có hạn, làm việc không được nhầm lẫn, nếu không lượng công việc sẽ
lớn lắm.
Giờ này vẫn còn lâu mới
đến nửa đêm, chúng tôi liền dựng lều dưới một gốc cây lớn trên sườn núi, buộc
ngựa vào cây cho ăn cỏ, sau đó đốt lửa trại đun nước nấu cơm. Bữa tối nay là
một con hươu con do lũ chó săn bắt được. Con hươu này hình dạng có chút kỳ
quái, trên thân mình không quá lớn của nó lấm tấm những đốm hoa mai, chân sau
thô lạ thường, tai to mà không có sừng, chắc là một con cái.
Anh Tử nhìn thấy lũ chó
săn tha con hươu kỳ quái về, vội chạy tới lật xác con hươu lên kiểm tra vùng
bụng loang lổ vết máu, sau đó Anh Tử lại gang mõm con hươu ra, dường như tìm
thứ gì đó, cuối cùng cũng không tìm được. Anh Tử tức tối đá vào mình con hươu
mấy phát, rồi chửi lũ chó :" Cái lũ vô dụng này, cả ngày chỉ biết có ăn,
chẳng trông mong gì được ở chúng mày đâu, hôm nay không cho con nào ăn gì hết!"
Tuyền béo đứng bên cạnh
lấy làm lạ, bèn hỏi Anh Tử :" Tìm gì thế hở cô em?"
Anh Tử vừa rút dao nhọn
lột da hươu, vừa đáp lời :" Anh Tuyền béo chắc chưa thấy loài này bao giờ
đâu nhỉ? Con này là con hươu xạ, ở rốn con xạ cái có xạ hương, ôi mẹ ơi nó đáng
giá lắm, nhưng mà cái thứ này nó cũng quái lắm cơ, hễ thấy có người muốn bắt nó
thì nó cắn luôn lấy rốn, nhai nát bét. Mẹ cha cái lũ chó săn, chúng nó mà nhanh
hơn tí nữa thì mình có một hòn xạ hương rồi".
Tuyền béo nghe xong, liền
ngồi tựa vào gốc cây, sau đó cúi đầu cong lưng, dùng sức ấn đầu xuống chõ cái
bụng.
Tôi vỗ vào đầu cậu ta
:" Mẹ bố nhà cậu làm cái gì thế? Cậu tưởng cậu là hươu à, mình có thể tự
cắn rốn mình được sao, với lại rốn cậu toàn là đất, không đáng tiền đâu".
Tuyền béo bực đáp :"
Nói bậy nào, tôi ngứa lưng, cọ vào thân cây vài phát thôi, cậu định cắn rốn thì
có !".
Chúng tôi đấu khẩu vài
câu rồi chia nhau đi dọn đồ, tôi đi tìm củi khô, còn Tuyền béo giúp Anh Tử
nướng thịt. Chúng tôi chỉ nướng một cái chân sau của con hươu là đã đủ ăn, còn
gan ruột thì đem vất cho năm con chó săn, Anh Tử khẩu xà tâm phật, tuy vừa nãy
có nói không cho mấy con chó săn này, giờ lại sợ chúng không đủ ăn.
Ba con chó ngao đều cao
ngạo ngồi chồm hỗm đằng xa, căn bản không buồn liếc nhìn những con chó săn tầm
thường đang tranh nhau mớ gan ruột, Anh Tử đem hai chân trước con hươu phát cho
hai con ngao, còn lại cái chân sau nữa thì cho con ngao to nhất tên là Hổ Tử.
Ba người chúng tôi ngồi
quanh lửa trại ăn thịt nướng, Anh Tử đưa cho chúng tôi mỗi người một con dao
con và một cái bát làm bằng đá muối, đùi hươu gá trên giàn lửa lật đi lật lại,
lấy dao con cắt từng lát thịt bỏ vào bát, chà một cái là có luôn vị mặn. Bữa
này ăn rất nhanh, tôi chỉ chăm chăm nghĩ về ngôi mộ cổ, nên cũng chẳng phân
biệt nổi thịt hươu xạ khác với thịt hươu thường thế nào.
Ăn xong, trăng cũng đã
lên, lợi dụng ánh trăng có thể thấy trên trời mây trôi rất nhanh, chứng tỏ đêm
nay sẽ có gió to, thấy đã suýt soát đến giờ, ba chúng tôi liền chống gậy đi
xuống Dã Nhân câu, để mấy con chó săn ở lại trông lều trại.
Cứ đi lên một bước, chúng
tôi lại phải dùng gậy chọc mạnh vào mặt đất phía trước, xem xem có vũng lầy hay
không. Tình hình bên dưới Dã Nhân câu khá hơn nhiều so với những gì chúng tôi
dự đoán, tuy có chỗ lá rụng ngập đến quá bắp vế, nhưng chưa hình thành vũng
lầy, xem ra nếu muốn đào mộ cổ, trước tiên phải xử lý lớp lá rụng phủ trên mộ
đã.
Tôi ngẩng đầu nhìn bóng
trăng trên trời, rồi lấy la bàn ra đối chiếu, lại nhìn quanh hai bên hẻm núi
một hồi, sau cùng cũng xác định được vị trí, hẻm núi này khả năng có rất nhiều
mộ cổ, nhưng ngôi mộ quan trọng nhất, cũng là mộ của quý tộc có địa vị nhất,
nằm ngay dưới chân chúng tôi.
Cắm một cây gậy gỗ xuống
làm dấu, đêm nay về lều đánh một giấc no nê cho lại sức, sáng sớm mai sẽ bắt
tay quật mộ, chốn rừng sâu núi thẳm này, mấy trăm dặm xung quanh đều không có
ai khác, không cần thiết phải lén lén lút lút ban đêm hành sự.
Vừa đi trở lại, tôi vừa
kể cho Tuyền béo chuyện trộm mộ, đã làm cái nghề này thì nên tìm hiểu thêm
những chuyện này, không thể chỉ dựa vào sức không đào linh tinh được, từ khi
chúng tôi bắt đầu vào núi, tôi đã không ngừng kể cho cậu ta rồi.
Từ xưa đến nay ở Trung
Quốc, sự kiện trộm mộ sớm nhất được ghi chép lại xảy ra cách đây chừng ba nghìn
năm về trước, đó là thời nhà Chu, chính là nhà Chu trong Tam Hoàng Ngũ Đế, Hạ
Hậu Thương Chu, nhà Chu cũng chia làm hai thời kỳ, Đông Chu và Tây Chu, chính
là vương triều được mấy người bọn Khương Thái Công phò tá, cơ nghiệp những hơn
tám trăm năm, trong sách Phong Thần Diễn Nghĩa, thời ấy, tổng cộng có ghi chép
về hai vụ trộm mộ lớn, một là mộ của Chu U Vương bị trộm, trong mộ của Chu U
Vương phát hiện ra thi thể trần truồng trông y như còn sống của một đôi trai
gái trẻ, làm bọn trộm sợ hãi quay người chạy thục mạng; còn trong mộ vua Thang
thì đào lên được một cái mai rùa rõ lớn, bên trên khắc toàn chữ Giáp Cốt.
Tuyền béo nói :"
Nhất ơi là Nhất, cậu đừng có kể mấy cái chuyện vô bổ này nữa, cứ nói xem trong
mộ có ma quỷ gì hay không? Có thì phải đối phó làm sao? Mà còn lần trước cậu
nói ma quỷ thổi đèn cái gì đó, tôi nghe sao cứ quái quái thế nào ấy?".
Anh Tử hỏi :" Ma
thổi đèn cái gì? Có phải ma thuốc phiện thổi đèn người Đông Bắc chúng tôi vẫn
nói hay không?".
Tôi đáp :" Không
phải là cái thứ ở Đông Bắc đâu, mà là một hành vi mê tín của các Mô kim Hiệu
úy, thực ra cũng chưa chắc vô dụng, chất lượng không khí trong hầm mộ không
tốt, nếu nến không cháy nổi, người vào đấy chắc chắn là sẽ trúng độc mà chết,
mấy điều này có thể giải thích dưới góc độ khoa học được. Với lại trong mộ cổ
làm sao có ma được? Đó đều là truyền thuyết mê tín, mà cho dù có đi nữa thì
chúng ta cũng không phải lo, tôi chuẩn bị hết mấy món kỵ tà như móng lừa đen,
gạo nếp đây cả rồi. Tóm lại một câu, đi trộm mộ thì đừng tin tà ma, nếu sợ ma
thì đừng có đi trộm mộ".
Tuyền béo chợt hiểu ra
:" Ôi dào, cậu bảo Yến Tử mất cả ngảy chuẩn bị mấy thứ ấy là để tránh tà
à? Tôi lại cứ tưởng cậu oai lắm, không sợ ma nữa chứ, đúng rồi, thế dấm với
lồng chim là để làm gì thế?".
Tôi đang định trả lời,
bỗng nghe thấy trên núi vọng xuống tiếng chó sủa nhặng xị, ba chúng tôi trong
lòng trĩu xuống, nghĩ bụng chắc là không phải có người rừng hay dã thú đến tấn
công lều chứ? Có điều ở đó có ba con chó ngao, bọn dã thú dù cho ăn phải gan
hùm gan báo cũng chẳng dám đến gây sự, rốt cuộc là thứ gì làm mấy con chó sủa
nhặng lên? Chúng tôi vội vã rảo bước trở lên trên sườn núi.
Về đến bên lều, một cảnh
tượng máu me hiện ra trước mắt, con ngựa lùn buộc ở gốc cây không hiểu bị loài
thú dữ nào tấn công, rách toang cả bụng, ruột lòi ra một đống, nó vẫn chưa tắt
thở, nằm co giật trên mặt đất, xem chừng sắp chết đến nơi.
Mấy con chó săn vây quanh
con ngựa, sủa lên điên loạn, dường như gặp phải sự vật gì kinh khủng lắm, trong
tiếng kêu toát lên sự kinh hãi bất an.
Theo lý mà nói, ngựa và
chó là bạn tốt, con ngựa kia quyết không phải do lũ chó cắn, vậy thì là do loài
dã thú nào làm? Ba con chó ngao to, năm con chó săn khỏe vây bủa xung quanh,
vậy mà không thể bắt được con thú đã tới hành hung sao?
Nhìn quanh bốn phía,
chẳng hề thấy có bóng dáng con thú hoang nào, chỉ có ngọn núi trống chơ tĩnh
mịch, thi thoảng đám lá cây rừng lại xao xác bởi những ngọn gió khuya, bàn tay
đang nắm chặt súng săn của chúng tôi chẳng biết tự lúc nào đã ướt sũng mồ hôi.
Miệng con ngựa phì ra bọt
máu, lỗ mũi phả ra hơi trắng đục, tuy ruột đã lòi ra ngoài nhưng trong chốc lát
cũng chưa chết hẳn được. Anh Tử ngắm vào đầu con ngựa bắn một phát súng, kết
thúc sự đau đớn trước khi chết của nó.
Tôi đột nhiên phát hiện
ra ruột con ngựa đang động đậy, không phải co giật do phản ứng sinh lý, mà hình
như là đang bị một cái gì đó kéo xuống dưới đất, cái ấy nấp ngay phía dưới xác
con ngựa.
Tôi vội vã kéo Anh Tử lại
phía sau một bước, tình hình lúc đó, Anh Tử và Tuyền béo đều đã thấy, ba chúng
tôi nhìn nhau, trong đầu đều nghĩ: liệu có phải là do người rừng gây ra?
Đang ở Dã Nhân câu, đương
nhiên nghĩ tới người rừng đầu tiên, nhưng người rừng liệu có khỏe đến xé rách
được cả bụng ngựa ra không? Cũng có thể nó dùng vũ khí, nhưng nếu biết chế tạo
vũ khí thì không phải người rừng rồi? Xem ra giả thiết do người rừng gây ra này
không thể đứng vững.
Chẳng đợi chúng tôi kịp
hiểu ra, nội tạng trên đất đã bị kéo cả xuống dưới xác con ngựa, tình hình bên
dưới bị cơ thể con ngựa che khuất, hoàn toàn không thấy gì.
Phải chuyển xác con ngựa
ra trước, tôi đung đưa cây súng săn trong tay, loại súng này tiên tiến hơn
nhiều so với loại tôi đã dùng bắn con gấu người ở khe Lạt Ma mười mấy năm
trước, nhưng loại súng hơi thể thao này nòng quá nhỏ, khó mà gây ra những vết
thương chí mạng đối với các loài thú lớn hung dữ. Có điều ở trong trường hợp
này, có còn hơn không, dù sao cũng tốt hơn là cầm mỗi ngọn đuốc.
Có súng, có chó, mọi
người ít nhiều cũng vững dạ, thế là ba người hợp sức đẩy xác con ngựa ra, trong
đám cỏ, thình lình lộ ra một cái hố sâu không thấy đáy.
Miệng hố chỉ to bằng
miệng cái xô nhỏ, người trưởng thành chẳng thể chui vào được, nội tạng con ngựa
chính là bị cái gì đó lôi xuống hố này, lúc chúng tôi mới đến, cái hố bị lùm cỏ
che khuất, chẳng ai phát hiện ra cả, thấy xung quanh cỏ mọc um tùm, bèn cột
ngựa ở đây luôn. Khi chúng tôi xuống dưới hẻm núi tìm mộ, thứ nấp dưới hố bất
ngờ tấn công, xé rách bụng con ngựa, đám chó săn tuy hung dữ vô cùng, nhưng
miệng hố lại bị xác con ngựa lấp lên, chỉ biết kêu sủa ngậu xị, mà chẳng làm
được gì.
Tôi cầm đèn pin soi xuống
hố, chỉ thấy tối như hũ nút, không biết sâu chừng nào, nhìn vết tích trên vách
hố, kinh nghiệm làm lính công trình hơn ba năm giờ có chỗ dùng rồi, gần như có
thể khẳng định, cái hố này không phải do con người đào, là do con vật gì đó
dùng móng đào bới, hơn nữa móng nó rất sắc nhọn, là một loài bới đất rất giỏi,
nếu không làm sao có thể một nhát đã xé rách toang bụng con ngựa ra được, nhưng
rốt cuộc là loài động vật gì, thì thực sự chẳng thể đoán nổi, ngay cả Anh Tử
hiểu rõ rừng núi như trong lòng bàn tay cũng lắc đầu, chưa từng thấy cũng chẳng
từng được nghe về loài động vật nào như thế cả.
Tôi đoán quanh đây thế
nào cũng còn những hố khác nữa, xem ra Dã Nhân câu trông thì yên bình, phong
cảnh tươi đẹp, kỳ thực lại ẩn tàng biết bao rủi ro nguy hiểm, chẳng trách nhóm
trộm mộ mười năm trước chẳng có ai sống sót trở về, không rõ bọn họ có gặp phải
loài quái thú hung tàn dưới lòng đất này hay không?
Nơi này không tiện ở lâu,
chúng tôi quyết định không đợi đến sáng, hành động ngay trong đêm, ba người
phân thành hai nhóm, tôi và Tuyền béo dẫn theo năm con chó săn xuống hẻm núi
đào mộ, Anh Tử dắt ba con ngao lớn đi xung quanh tìm con quái thú đã tấn công
chúng tôi, con quái ấy có ghê gớm hơn nữa cũng chẳng thể nào dũng mãnh bằng ba
con chó ngao, bị động phòng thủ chẳng bằng chủ động tấn công, bên nào có
chuyện, sẽ bắn súng báo hiệu, bên kia sẽ mau chóng đến chi viện.
Lại nói, Tuyền béo dắt
năm con chó săn, tôi cõng các công cụ trên lưng, thằng đi trước đứa đi sau, men
theo con đường thăm dò ban nãy xuống dưới.
Tôi rút hai chiếc xẻng
công binh ra, mình cầm một chiếc, ném cho Tuyền béo một chiếc :" Tuyền
béo, làm việc nhanh nhẹn chút, chỗ này không hợp chôn sâu, cổ mộ dưới lớp lá
chắc không sâu lắm, bọn mình đào được đồ cổ càng sớm càng tốt, rồi mau chóng
chuồn khỏi cái chỗ ma ám này về nhà, bán lấy tiền sửa đường cho bà con".
Tuyền béo nhổ nước bọt
vào hai bàn tay, nói :" Xem ông Tuyền béo ra tay đây!".
Chiếc xẻng công binh Đức
vung lên phập xuống, mỗi một nhát lại hất tung một đống bùn do lá khô cành mục
rữa ra.
Dã Nhân câu tuy không có
cây cối gì, nhưng mỗi khi trời nổi gió, lá cây khắp xung quanh lại được thổi
dồn về, năm dài tháng đẵng, dần dần tích thành một lớp lá khô rất dày. Tôi và
Tuyền béo thay nhau xông trận, đào sâu xuống tầm sáu, bảy mét, cuối cùng cũng
thấy đất sét, tôi lấy tay bấu lên một nắm, đất rất mịn, hạt nào ra hạt đấy,
không bị vón cục, lấy đầu lưỡi nếm một chút, hơi ngòn ngọt, đúng rồi, đây chính
là nấm mộ, mộ thất chắc nằm tầm bốn năm mét phía dưới.
Khi sắp đào đến hầm mộ
thì phải thận trọng, một số mộ bên trong có đặt các bẫy phòng trộm, mộ cổ thời
Bắc Tống, Liêu, Kim không giống thời Đường về trước, trước thời Đường, trong mộ
đều đặt các bẫy như tên ngầm, đá tảng, đến thời Bắc Tống, kỹ thuật phòng trộm
đã tương đối hoàn thiện, nhất là mộ của một số quý tộc, không thể lớn như mộ
của vua chúa, số người động viên được cũng có hạn, đương nhiên điều này chỉ là
tương đối mà thôi, đồ bên trong tuyệt đối không thể là những thứ rẻ rúng được,
nếu không thì đâu thể xứng với miếng đất phong thủy đẹp thế này được.
Những ngôi mộ tương tự
như mộ của người Kim cuối thời Bắc Tống này, thường sử dụng kỹ thuật phòng trộm
"Đỉnh lưu ly lửa rồng giữ báu" tương đối thịnh hành vào thời bấy giờ,
kết cấu kiểu này hết sức tiên tiến, hầm mộ trống rỗng, trên trần được rải một
lớp ngói lưu ly cực mỏng, bên trên đặt những túi dầu hỏa long của Tây Vực, trên
nữa là một lớp ngói lưu ly khác, sau cùng mới đắp nấm, chỉ cần bị ngoại lực tác
động, nóc mộ sẽ vỡ tung, dầu hỏa long của Tây Vực gặp không khí sẽ bốc cháy,
thiêu rụi xương cốt và những đồ tùy táng bên trong, khiến bọn trộm mộ tay trắng
ra về.
Đương nhiên đây là biện
pháp bất đắc dĩ, chủ nhân mộ chấp nhận đồng quy ư tận, cũng không để cho thây
cốt của mình bị bọn trộm mộ phá hoại, loại bẫy này chỉ thịnh hành một thời gian
vào thời Kim, Liêu, cuối thời Bắc Tống, sau đó lại xuất hiện loại bẫy tiên tiến
hơn, "Đỉnh lưu ly lửa rồng giữ báu" nhanh chóng bị thay thế.
Thứ bẫy tầm thường này chẳng
thể qua mắt nổi tôi, nhược điểm lớn nhất của nó chính là, đào từ mặt bên, ngói
lưu ly trên đỉnh sẽ không bị vỡ. Bởi vậy sau khi đào đến nấm mộ chúng tôi bắt
đầu chuyển hướng, đào sâu sang bên cạnh, hai người làm hùng hục, toàn thân nóng
bừng nhưng chẳng ai biết mệt, đào được một cái hố lớn sâu sáu bảy mét cạnh mộ.
Chẳng biết từ khi nào,
trời đã sáng rõ, Anh Tử quay lại bảo chẳng tìm thấy gì ở xung quanh, giờ cô vào
rừng đi săn chuẩn bị bữa trưa, khi nào làm xong sẽ sai chó đi gọi bọn tôi.
Anh Tử đi khỏi, hai chúng
tôi tiếp tục đào bới, cuối cùng đào phải một lớp đất cứng, cứng như đá, xẻng
công binh phang xuống cũng chỉ để lại một vệt màu trắng.
Tuyền béo chửi lớn
:" Tổ mẹ nó, sao lại có xi măng ở đây chứ? Biết trước mình đã mang thuốc
nổ đi rồi, mẹ cha nó, thế này thì đào thế nào được?"
Tôi nói :" Thuốc nổ
chỉ có bọn nhà quê mới dùng thôi, đây là lớp đất dầm, trên nóc có bẫy bảo vệ,
xung quanh vách mộ cũng không thể bị người xây xem nhẹ được, loại đất này được
phối chế theo phương thức bí truyền của cung đình hồi ấy, bên trong có trộn
nước cốt gạo nếp, còn cả nước đái trẻ con với đủ thứ bà lằng nhằng gì đấy, mẹ
nhà nó, cứng hơn bê tông bây giờ nhiều. Công thức bí truyền này là của hoàng đế
Bắc Tống, về sau Kim diệt Bắc Tống, mới lưu truyền tới tay bọn quý tộc người
Kim".
Tôi bê một thùng dấm to
tới, bảo Tuyền béo lấy gáo múc từng gáo tưới đẫm lên lớp đất dầm, đợi sau khi
tưới hết cả thùng dấm, tường mộ cũng bị bào mòn kha khá rồi, đừng thấy dấm ăn
mòn không mạnh, nhưng đối với loại đất đầm phối chế theo công thức bí truyền
này nó lại có công hiệu kỳ lạ, cái này gọi là vật nọ khắc vật kia, đợi đến lúc
ấy, nếu đào tiếp thì chẳng khác nào đào đậu phụ cả.
Làm đúng cách, quả nhiên
hiệu nghiệm, hầm mộ đã sắp được mở ra. Hai người đang dương dương tự đắc, bỗng
nghe trong rừng có tiếng súng vang lại, làm bầy chim đậu trên cây kinh hãi bay
vút lên.
Tuyền béo vội nói :"
Tiếng súng của cô em tôi!".
Tôi xách xẻng công binh
và súng săn lên :" Mau đi xem sao!".
Hai người bất chấp mệt
mỏi, sải rộng bước chân, bước hẫng bước hụt chạy trên lớp lá rụng.
Chúng tôi lần theo tiếng
súng chạy vào sâu trong rừng, năm con chó săn cũng theo sát phía sau, chạy được
một quãng, bỗng thấy Anh Tử dẫn ba con chó ngao lao về phía chúng tôi.
Thấy Anh Tử không sao,
tôi mới yên lòng :" Cô em vừa nãy nổ súng à? Phát hiện ra gì ư?".
Sắc mặt Anh Tử trắng
bệch, thở hổn hển :" Ôi mẹ ơi ... phát khiếp lên được, em phát hiện thấy ở
góc kia có mấy cái chòi, bước vào xem thử một cái, sợ chết đi được, toàn là
người chết, đen sì sì mục nát hết cả, lúc đầu em nhìn không rõ, cứ tưởng người
rừng, nên mới nổ súng, cuối cùng rốt cuộc là xác của những người nào em cũng
chẳng nhìn rõ nữa".
Tôi giờ mới vỡ lẽ, hóa ra
trông Anh Tử dữ dằn vậy thôi chứ kỳ thực cũng vẫn có điểm yếu, cô sợ nhất là
xác chết, cứ tưởng trong rừng, ngay đến ông trời cô nàng cũng chỉ coi bằng cái
vung cơ chứ.
Có điều phát hiện xác
chết, lại có cả chòi cả lán ở nơi sơn cùng thủy tận biên giới Trung - Mông này,
bản thân chuyện này đã không thể tưởng tượng được rồi, đã dựng lều lợp lán
chứng tỏ họ có sống ở đây, rốt cuộc những người chết ấy là ai? Sao họ lại đến
tận nơi sâu thẳm không dấu chân người thế này?
Cứ trở vào xem sao đã,
không chừng có thể tìm ra manh mối gì chăng, trong lòng tôi lờ mờ cảm thấy
những người chết này có liên quan đến nhóm trộm mộ mất tích ở đây năm xưa.
Anh Tử dẫn chúng tôi đến
chỗ mấy cái chòi cô phát hiện ra, chúng đều chỉ được dựng rất cẩu thả, chỉ dùng
bùn và cỏ trộn lẫn đắp lên, cũng có một ít gỗ, đều dựng chỗ cây cối rậm rạp
nhất, màu sắc cũng rất tiệp với rừng cây, nếu không đến gần thì khó lòng mà
phát hiện được.
Tôi chui vào một trong
những cái chòi, thấy bên trong có khá nhiều da thú, trong góc quả nhiên có ba
thi thể, thi thể đã mục rữa quá độ nên biến ra sắc đen, cơ bắp cơ hò nát cả, da
dẻ khô đét, trong hốc mắt, lỗ mũi, chốc chốc lại có giòi bọ bò ra bò vào. Tôi
nghĩ bụng chắc đây không phải là người rừng ở Dã Nhân câu trong truyền thuyết
đấy chứ!
Tuyền béo cũng trèo lên
xem, rồi nói :" Nhất này, tớ bảo đến Dã Nhân câu sao không thấy dã nhân
đâu, hóa ra chết rũ ở đây cả rồi à?"
Tôi gật đầu bảo :"
Lạ ở chỗ, công cụ của bọn người rừng này tiên tiến quá, cậu xem chúng còn mặc
cả quần áo nữa, làm gì có người rừng nào mặc quần áo đâu chứ? Mà sao tớ thấy
quần áo này quen thế không biết?"
Tôi phát hiện ra trên
quần áo thi thể trong cùng hình như có gì đó bằng kim loại, liền gỡ nó ra, lau
đi lớp chất bẩn bên trên, giống như phù hiệu trên quân phục, nhưng tuyệt đối
không phải của quân đội Trung Quốc.
Lúc này, Tuyền béo cũng
tìm được một thứ, cậu ta mò thấy một thanh kiếm Nhật ở trong góc lều, thanh
kiếm ấy đã lâu lắm không rút ra rồi, Tuyền béo dùng đến là nhiều sức, cuối cùng
"băng" một tiếng rút bật thanh kiếm ra, chất thép cực tốt, bao năm
rồi mà vẫn sáng bóng như gương, xem ra chủ nhân lúc sinh thời chắc yêu thích nó
lắm, khẳng định là thường xuyên lau chùi sạch sẽ.
Tôi thấy thanh kiếm thì
hiểu ra ngay, mẹ nhà nó hóa ra người rừng trong truyền thuyết chính là mấy tên
quỷ Nhật Bản này đây!
Tuyền béo lại nghĩ không
thông, người Nhật sau khi bại trận đầu hàng chẳng phải đều đã về nước rồi ư?
Mấy thằng quỷ này sao vẫn không về?
Tôi bảo :" Điều này
cũng không lấy gì làm lạ, hiểu biết lịch sử của cậu quá ít, lộ ra cái bản chất
bất học vô thuật của cậu rồi". Tuyền béo nói :" Cậu đừng có nhiều
lời, mau nói xem xem, rốt cuộc chuyện gì?"
Theo suy đoán của tôi,
năm ấy, trước khi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, đại quân cơ giới hóa của Liên
Xô Nam tiến, tấn công quân Quan Đông đóng ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, đánh cho
đội quân cả triệu người được mệnh danh đội quân tinh nhuệ nhất của Nhật Bản này
một trận không còn manh giáp, một số thằng bị lạc mất đội ngũ, chạy vào tận
rừng sâu, không dám ra ngoài, lại mất liên lạc với thế giới bên ngoài, không
biết chuyện Nhật Bản chiến bại đầu hàng, cho nên cứ trốn mãi trong rừng, cho
đến tận khi chết rũ ở đây.
Có người nhìn thấy vài
thằng quỷ Nhật nghi thần nghi quỷ, thập thò ẩn nấp, quần áo của chúng đã bẩn
thỉu đến không ra hình dáng, trong rừng sâu lại cũng không cạo râu cắt tóc, vậy
là coi chúng thành dã nhân luôn cũng nên.
Thực ra tôi cũng chỉ suy
đoán vô căn cứ, nguyên nhân thực sự là thế nào, trừ phi mấy thằng quỷ này sống
lại tự mình khai ra, chứ không thì vĩnh viễn cũng chẳng biết được chân tướng.
Sau khi nghe tôi nói vậy, Tuyền béo và Anh Tử đều vỡ lẽ cả.
Anh Tử nói :" Mấy
thằng Nhật chắc chắn là lạc đường rồi, đừng tưởng đây là bìa rừng thôi nhé,
nhưng đi lên phía Bắc chỉ toàn là thảo nguyên, và còn có cả đầm lầy nữa, đi
phía Bắc căn bản không thể ra được; đi phía Nam thì là rừng nguyên sinh, không
có chó dẫn đường, đến thợ săn già có kinh nghiệm nhất cũng đừng hòng ra được,
rõ là đáng đời!".
Tôi lục tìm đồ đạc của
mấy xác chết này, định xem có thứ gì giá trị không, bới được một nửa, tôi bỗng
chợt nghĩ, nhóm trộm mộ đến đây cuối những năm bốn mươi liệu có phải đã gặp bọn
quỷ Nhật này, rồi bị chúng sát hại không? Khả năng này có lẽ là có, bọn họ cũng
đâu thể ngờ lại gặp quỷ Nhật Bản ở chỗn hoang vắng này cơ chứ.
Đang nghĩ ngợi miên man,
bỗng phát hiện ra một cuốn sổ tay trong ba lô quân dụng, bên trong viết chi
chít chữ Nhật, trang giấy ngả vàng, nét chữ bên trên vẫn còn đọc được, nhưng
trong ba chúng tôi chẳng ai biết tiếng Nhật cả, cũng may trong cuốn sổ cũng có
không ít chữ Hán, đành luận bừa ra vậy, có điều nghĩa của chữ Hán trong tiếng Nhật
so với nghĩa Trung cách nhau quá xa, có một số từ thậm chí nghĩa còn hoàn toàn
tương phản ( Lấy ví dụ: từ "lưu thủ" viết bằng chữ Hán trong tiếng
Nhật so với nghĩa của mặt chữ Hán khác nhau một trời một vực, là " đi ra
ngoài"), cho dù là như vậy, nhưng nếu chắp những từ ấy lại, vẫn sơ sơ hiểu
được một nửa, cộng thêm với vài suy đoán chủ quan của chúng tôi, thì nội dung
đại khái là :
Chủ lực của quân Quan
Đông ở Đông Ninh bị quân đội Liên Xô đánh tan, thiếu tá Tịnh Mộc dẫn theo một
tiểu đội còn sống sót ( trong sư đoàn giáp chủng của quân Quan Đông, biên chế
của một tiểu đội từ 120 đến 200 binh lính), chạy tới cứ điểm bí mật dưới đất ở
Hắc Phong khẩu, chuẩn bị tập hợp quân Quan Đông còn lại, quyết một trận tử
chiến cuối cùng với người Liên Xô, hy sinh báo đáp Thiên Hoàng. Kết quả là khi
gần tới nơi thì giẫm phải vũng lầy, tên lính duy nhất biết vị trí của cứ điểm
và người dẫn đường đều chết ngập trong đó, những người còn lại không tìm thấy
lối vào căn cứ bí mật, định quay trở về thì lại lạc đường, cũng không có thiết
bị liên lạc, nên đành ở lại trong rừng sâu, cứ thế thấm thoắt hơn ba chục năm
trời, từng người từng người kế nhau mà chết ... sau đó chẳng còn một ai, đoán
chừng người viết những dòng này khi viết đến đây thì chết.
Tôi vất cuốn nhật ký sang
một bên, giờ chẳng hơi đâu đi xem mấy thứ mục nát này làm gì, vách mộ trong hẻm
núi chắc đã bị ăn mòn kha khá rồi, phải mau quay lại, lấy đồ rồi chuồn, mặc kệ
mấy thằng quỷ Nhật này ở đây, dù sao chúng cũng sắp rữa hết cả rồi. Tuyền béo
nói thanh kiếm này giờ thuộc về cậu ta, ngày xưa nhà cậu ta có đến mấy thanh
kiếm sĩ quan Nhật, hồi Cách mạng Văn hóa bị tịch thu hết cả, cậu ta vẫn muốn
sưu tầm một thanh. Tôi khuyên Tuyền béo đây là loại kiếm bị cấm sử dụng, không
đem được lên tàu, đợi khi nào về chợ đồ cổ ở Bắc Kinh xem thử có hay không, rồi
mua cho cậu ta thanh mới.
Chương 13: Ma Thổi Đèn
Ba người chúng tôi trở
lại mộ cổ trong Dã Nhân câu, công việc cũng đã sắp hoàn thành, chỉ chém xuống
mấy nhát vách mộ đã vỡ ra một lỗ lớn, tôi cầm đèn pin soi vào, không gian bên
trong cũng không nhỏ, khoảng cách giữa cái lỗ này và nền hầm mộ chênh nhau chừng
hơn một mét, Tuyền béo mừng rỡ, xắn ống tay áo lên định chui xuống, tôi vội túm
cậu ta kéo lại, nói :" Cậu muốn chết à? Đi bắt mấy con chim sẻ về đây, cho
chim sẻ vào lồng trước, thả xuống dưới mộ xem chất lượng không khí thế nào đã !"
Bắt chim sẻ trong rừng
rất dễ, chẳng như ở những nơi đông đúc dân cư, lũ chim thành tinh cả, ở đây chỉ
cần dùng loại bẫy đơn giản nhất, rắc vài hạt gạo tấm, úp cái nồi nấu cơm lên
trên, người nấp đằng xa, thấy chim sẻ chui vào dưới nồi ăn gạo, thì giật dây
cho que gỗ chống bật ra, nồi ụp xuống, vậy là bắt được rồi.
Một lần đã bắt được luôn
ba con, tôi tóm một con cho vào lồng, bên trên buộc sợi dây rồi thả xuống hầm
mộ, hút hai điếu thuốc, ước chừng thời gian cũng đã xấp xỉ, bèn kéo lồng chim
lên, thấy hai mắt con sẻ trợn ngược, đã ngắc ngoải không sống nổi nữa rồi.
Ngôi mộ này bị bịt kín
dưới đất đã mấy trăm năm, không khí bên trong không lưu thông, thi thể hễ trước
khi thối rữa đều trướng lên, chứa đầy thi khí, sau đó da thịt nội tạng mới bắt
đầu phân hủy từ trong ra ngoài, tuy nói trong hầm mộ không có môi trường chân
không đúng nghĩa, nhưng nếu như không thông gió, mùi thối rữa của xác chết vẫn
bị nén bên trong, mấy trăm năm sau cũng chẳng tan hết, kể cả không có thi khí,
chỉ riêng không khí hàng trăm năm không được lưu thông, cũng hình thành nên khí
độc có hại cho sức khỏe, một khi hít phải khí độc ấy, nhẹ thì chóng mặt choáng
váng, nặng thì trúng độc mà chết, trừ phi có trang bị mặt nạ phòng độc, bằng
không ở khâu này tuyệt đối không được có chút bất cẩn nào.
Xem ra ngôi mộ còn cần
thời gian để gió rừng thổi sạch khí độc đi, nên chúng tôi trở về triền dốc ăn
một ít lương khô thịt khô, tối qua cả đêm không ngủ, hôm nay lại làm bao nhiêu
việc, mọi người đều mệt lử, nhưng cứ nghĩ đến đồ đạc trong mộ thì bao nhiêu mệt
mỏi cũng tan biến đi đâu hết. Đây là lần đầu tiên chúng tôi hành động, tốt nhất
là kiếm ra được chút gì đáng tiền, hiểu biết của tôi về trộm mộ trước kia chỉ
dừng lại ở giai đoạn lý thuyết, hôm nay thực hành, thật sự cũng không thể coi
là khó, đương nhiên điều này cũng có liên quan đến mục tiêu chúng tôi chọn lựa,
người Nữ Chân nước Kim bấy giờ còn là một dân tộc chưa được khai hóa, ngôi mộ
này họ xây dựng gần như hoàn toàn phỏng theo hình thức của Bắc Tống, quy mô rất
nhỏ, có lẽ cũng do thợ thuyền người Tống bị bắt xây nên, dù sao công nghệ
"Đỉnh lưu ly lửa rồng giữ báu" rất ư phức tạp, không có tay nghề cao
thì khó lòng dựng lên được, sai lệch một chút, là đã thiêu chết người xây mộ
bên trong rồi.
Ăn hết lương khô, nhìn
sắc trời cũng đã không còn sớm, có lẽ không khí trong mộ cũng đã lưu thông kha
khá rồi, chúng tôi đều lo tối nay lại bị con quái vật dưới hố tấn công, nóng
lòng lấy đồ cho nhanh rồi chuồn sớm, vậy là mang theo đồ đạc, trở xuống Dã Nhân
câu lần nữa.
Lần này vẫn phải thả chim
sẻ xuống trước, kéo lồng lên thấy chim vẫn tung tăng nhảy nhót, xem ra đã không
còn vấn đề gì nữa, tôi và Tuyền béo uống mấy ngụm rượu trắng cho vững dạ, đeo
khẩu trang, găng tay, cổ treo bùa Mô Kim, ngực nhét móng lừa đen và gạo nếp,
tay cầm đèn pin, xẻng công binh đeo ở hông, rồi bắt đầu xuống mộ.
Anh Tử thấy vậy vội rối
rít giữ chặt tôi nói :" Cho em vào xem với, em bằng từng này rồi mà vẫn
chưa biết trong mộ cổ nó ra làm sao cả?"
Tôi đáp :" Trong mộ
cổ chẳng có gì cả, có mỗi cái xác với đồ tùy táng thôi, có gì đáng xem đâu, thực
ra anh cũng là nàng dâu lần đầu lên kiệu thôi, trước kia đã bao giờ vào đâu.
Với lại, em chẳng phải sợ người chết lắm ư? Sao giờ lại không sợ thế?".
Anh Tử vốn hiếu kỳ, giờ thấy
tôi với Tuyền béo ra bộ thần bí, lại càng tò mò hơn, quyết đòi xuống bằng được.
Tôi ngẫm nghĩ, dẫu sao nơi đây núi non hoang dại, cũng chẳng cần có người canh
chừng ( trộm mộ rất ít khi một mình hành sự, thông thường đều là một nhóm ba
người, một người đào đất, vì cạnh hố không thể chất đầy đất lên được, nên lại
phải có một người chuyên chuyển đất, người còn lại thì đứng xa canh chừng), để
cho Anh Tử vào tham quan cũng chẳng có vấn đề gì, tôi tìm cho Anh Tử một cái
khẩu trang đeo vào, rồi dặn dò vài câu, vào trong ngàn vạn lần không được gỡ
khẩu trang ra, thứ nhất chất lượng không khí trong đây không tốt, thứ hai hơi
thở của người sống không được để lại trong mộ, không may mắn, thứ ba không được
thở vào xác chết, ngộ nhỡ quỷ nhập tràng thì rắc rối to. Tuy đều là truyền
thuyết mê tín, nhưng những quy định này đã có từ mấy ngàn năm trước, bất kể thế
nào cũng đều có cái lý nhất định, cẩn tắc vô ưu, tất cả mọi chuyện cứ theo lệ
xưa mà làm là được rồi.
Tuyền béo đã sốt ruột lắm
rồi :" Hồ Bát Nhất! Cậu trở nên lắm lời thế từ lúc nào vậy, không dám
xuống thì để bố Tuyền béo đây tự xuống, mấy người đợi đếm tiền đi".
Tôi đáp :" Mẹ nhà
cậu, để cậu xuống thì đến quan quách cũng chẳng tìm được ấy chứ, được rồi, đừng
đấu khẩu nữa, trời sắp tối rồi, mau làm việc đi thôi".
Cái lỗ chúng tôi đào trên
vách cách nền hầm mộ chỉ tầm một mét, chẳng cần dây thừng, trực tiếp nhảy xuống
là được, chân tôi vừa chạm đất, trong lòng không khỏi hơi căng thẳng, cuối cùng
thì cũng vào được rồi.
Diện tích hầm mộ không
lớn, nhiều lắm là ba mươi mét vuông, xem ra được thiết kế chiếu theo trạch viện
ở của người sống, có buồng chính, buồng sau và hai buồng bên. Vị trí chúng tôi
tiến vào là một trong hai buồng bên đó, quan tài đặt ở giữa buồng chính.
Không có bệ đặt quan tài,
giữa nhà đào một cái hố nông, quan tài đen sì sì đặt trong đó, lồi một nửa lên
trên, đây là một ngôi mộ trong mộ.
Ở góc buồng có mấy bộ hài
cốt, đầu lâu đều nứt lõm xuống, rõ ràng là vết tích do bị vật cùn đập mạnh vào,
có thể đều là bọn tù binh hoặc thê thiếp đầy tớ bị tuẫn táng, chúng tôi không
làm khảo cổ, nên cũng chẳng màng đến những thứ ấy.
Anh Tử bỗng kéo tay tôi
:" Anh Nhất, coi trên tường còn có tranh này".
Tôi soi đèn pin vào bức
tường Anh Tử chỉ, quả nhiên có một bức phù điêu màu, nhân vật trong tranh hình
dáng cổ xưa, sống động như thật. Niên đại đã lâu, mà sắc màu vẫn còn tươi tắn,
có điều không khí trong hầm mộ đã được lưu thông, chẳng bao lâu nữa những bức
bích họa này cũng sẽ phai màu thôi.
Tuyền béo tán :" Xem
ra người chết trong mộ này thời cổ đại có thể còn là một họa sĩ nữa!"
Tôi mắng cậu ta, đừng có
thùng rỗng kêu to, thời Đường Tống, trong mộ vương hầu đa số đều có bích họa,
dùng thuật lại những sự kiện lớn của chủ mộ lúc sinh thời, chúng ta xem thử coi
người chôn trong đây là nhân vật thế nào?
Bích họa thảy có tám bức,
chúng tôi lần lượt xem hết, những bức tranh này, có bức vẽ cảnh đi săn trong
rừng, có bức là cảnh cùng bạn bè uống rượu trong cung điện, có bức vẽ cảnh xuất
quân đánh trận, có bức tả lại cảnh áp giải tù binh, bức cuối cùng vẽ cảnh gia
tước phong hầu, trong mỗi bức tranh đều có một người đàn ông mặc áo lông chồn,
chắc chính là người được chôn cất ở đây, xem ra đây là một ngôi mộ tướng quân,
ít nhất cũng là một Vạn hộ hầu.
Năm xưa, quân Kim Nam hạ
diệt Tống, cướp bóc vô số vàng bạc châu báu, vị tướng Kim này không chừng đã
đem theo cả chiến lợi phẩm xuống lòng đất cũng nên, đằng nào cũng đều là báu
vật của người Hán chúng tôi, vậy chúng tôi cũng không khách sáo làm gì nữa.
Trước tiên, chúng tôi đi
quanh hầm mộ một lượt, hai buồng bên toàn là âu sành chậu sứ, buồng sau có bốn
bộ xương ngựa và một số binh khí giáp trụ, ngoài ra không còn gì nữa, xem ra
người Kim không hậu táng, tôi ít nhiều cũng hơi thất vọng, thắp ngọn nến ở góc
Đông Nam, ba người cùng tới trước quan tài trong buồng chính, có gì hay không
chỉ còn trông cả vào đây vậy.
Thể tích quan tài khá
lớn, gỗ lim sơn đen, bên trên vẽ hoa văn màu vàng kim, màu sắc và tạo hình đều
vô cùng cổ quái, chắc là có liên quan đến tô tem của dân tộc Nữ Chân, tôi rờ
lên tấm ván quan tài, rất chắc chắn, người nghèo thông thường không bao giờ
dùng nổi loại quan tài dày dặn như vậy, được một cỗ bằng gỗ mỏng thôi đã tốt
lắm rồi, người nào túng hơn nữa thì chỉ bó vào chiếu cói rồi chôn bừa đâu đấy.
Cực phẩm trong các loại
gỗ quan tài chính là lõi âm trầm mộc( gỗ mun), tức là thụ tâm, một cây gỗ mun
từ lúc mọc đến khi trưởng thành, chí ít phải mất mấy ngàn năm, thứ cực phẩm này
chỉ có thể gặp mà không thể cầu, chỉ có hoàng thất mới được hưởng dụng, thi thể
người chết đặt trong lõi cây chôn dưới đất, thi thể vĩnh viễn không thối rữa,
đáng giá hơn quan tài pha lê chống phân hủy, hiệu quả hơn chức năng giữ tươi
của tủ lạnh, kế đó là loại gỗ đoạn, gỗ bách nghìn năm, thụ tâm càng dày càng có
giá, thứ nhất ngăn cho xác khỏi thối rữa, thứ hai không có mối mọt, có thể ngăn
kiến hay giòi bọ đục khoét, không giống gỗ thông thường, chẳng được bao lâu đã
bị mối mọt ăn hết, chủ mộ nào cũng đều không muốn thi thể của mình bị lũ sâu bọ
ăn cả, chỉ nghĩ đến thôi đã thấy tởm lợm rồi, vì vậy yêu cầu đối với gỗ quan
tài của các quý tộc xưa nay đều rất nghiêm khắc.
Chất gỗ của cái quan tài
trước mặt chúng tôi đây tuy không được như hoàng thân quốc thích, nhưng cũng
được coi là xa xỉ lắm rồi, tôi đưa lưỡi xẻng công binh ke vào rãnh nắp, lấy sức
nạy lên, nào ngờ đinh đóng rất chắc, hai lần nghiến răng nghiến lợi bẩy lên mà
cũng không được.
Tuyền béo liền nhảy vào
trợ giúp, hai người hợp sức, cuối cùng quan tài phát ra vài tiếng "cạch,
cạch, cạch", cuối cùng cũng nạy ra được một khe lớn, chúng tôi lại thay
đổi vị trí, nạy từng cái đinh lên một.
Trong hầm mộ rất khô,
vách mộ làm bằng chất liệu đặc biệt có khả năng chống thấm rất tốt, ngói lưu ly
trên đỉnh mộ cũng không thấm nước, cả lại phần lớn lượng nước mưa ở Dã Nhân câu
đều được lớp lá rụng hút hết, vậy nên bụi bặm trong quan tài rất nhiều, vừa rồi
động một cái đã khiến bụi bặm bay mù, tuy đã đeo khẩu trang, nhưng chúng tôi
vẫn bị sặc đến ho sù sụ, trở về có thế nào cũng phải chuẩn bị mấy cái mặt nạ
phòng độc, nếu không sớm muộn gì cũng mang bệnh vào thân.
Tuyền béo định đẩy nắp
quan tài ra, tôi đột nhiên muốn dọa cậu ta một phát, chơi khăm một vố, bèn giữ
cánh tay cậu ta lại bảo :" Tuyền béo, cậu đoán xem trong quan tài có gì?"
Tuyền béo đáp :" Tôi
biết sao được, đằng nào thì thứ lấy được trong này có thể đổi thành Nhân dân tệ
... còn đổi được phiếu lương thực nữa".
Tôi cố ý hạ thấp giọng
nói :" Ngày trước, tôi có nghe ông nội kể một câu chuyện trong sách Thái
Bình quảng ký, trong đó cũng kể về hai kẻ trộm mộ, một béo một gầy, bọn họ đào
được một cái quan tài lớn trong mộ cổ, bất luận bọn họ lấy đao chém búa bổ, cỗ
quan tài vẫn chẳng hề suy chuyển, tên béo biết niệm 'Đại Bi chú', hắn đứng
trước quan tài niệm một đoạn, kết quả nắp quan tài tự động mở ra một khe hở ...
bên trong thò ra một cánh tay mọc đầy lông xanh ..."
Tuyền béo chẳng sợ gì,
nhưng Anh Tử thì khiếp vía, vội nấp ngay ra sau lưng Tuyền béo :" Anh
Nhất, đừng kể linh tinh thế nữa, phải biết đây là đâu chứ, định dọa chết người
ta à?"
Tuyền béo biết tôi chỉ
muốn dọa, ngoài chứng sợ độ cao ra thì cậu ta đúng là chẳng sợ gì hết, hồi đó
đánh nhau với mấy thằng khác ở trường, cậu ta cũng thuộc hàng cao thủ, lúc này,
mặt Tuyền béo chẳng có vẻ gì sợ hãi, không mảy may kinh động trước sự dọa nạt
của tôi, điệu bộ oai phong lẫm liệt nói :" Cô em Anh Tử ơi, đừng có nghe
cậu ta, thằng oắt này định dọa anh, mà không nhìn rõ Tuyền béo này là ai, mẹ
kiếp, ông mày sợ cái quái gì nào, em cứ để cậu ta kể tiếp đi!"
Tôi liền tiếp tục :"
Cánh tay mọc đầy lông xanh kia, móng tay dài hơn ba tấc, vươn một cái đã chụp
được tên béo đang niệm 'Đại Bi chú', kéo hắn vào trong, nắp quan tài lập tức
khép lại, chỉ nghe bên trong phát ra tiếng gào thảm thiết, làm tên còn lại sợ
vãi linh hồn quay đầu chạy mất ..."
Tuyền béo nhe răng cười
khan mấy tiếng, điệu cười có chút gượng gạo, xem chừng trong bụng cũng bắt đầu
sờ sợ rồi, nhưng vẫn cứ ra vẻ hảo hán, bước lên phía trước hợp sức đẩy nắp quan
tài với tôi, kết quả là chúng tôi dùng sức quá mạnh, đẩy một cái lật luôn cả
nắp quan tài xuống đất, những thứ trong quan tài đã gọn ngay trong tầm mắt.
Bên trong là thi thể một
người đàn ông cao lớn, nước trong cơ thể đã bốc hơi hết, chỉ còn lại lớp da khô
đanh màu tím đỏ bọc lấy cái khung xương, đã gần ngàn năm, đây đã có thể xem là
giữ được tương đối hoàn hảo rồi ( Xác ướt khai quật ở gò Mã Vương tỉnh Hồ Nam,
là loại cực kỳ hiếm thấy, đôc nhất vô nhị), tuy ngũ quan sụt lún, mắt mũi đều
đã biến thành những hốc lõm đen sì, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra gương mặt,
người này chừng bốn năm mươi tuổi, đầu đội mũ Triều thiên, mình mặc áo bào thêu
sợi vàng, màu hồng viền xanh, chân đi ủng Đạp Vân, hai tay đặt ngang trước ngực.
Anh Tử ở sau lưng Tuyền
béo thò đầu ra nhìn vào bên trong một cái, kinh hãi hét lên :" Ối mẹ ơi!
Ghê quá!" vội vàng ngoảnh đi chỗ khác, không dám nhìn lại.
Cô nàng thét lên như thế,
tóc gáy tôi cũng dựng ngược lên theo, nhưng quan quách bật cả ra rồi, còn có
thể quay đầu bỏ chạy sao? Đánh liều một phen vậy, tôi chắp tay vái thi thể
trong quan tài ba vái :" Chúng con thiếu ăn thiếu mặc, vạn bất đắc dĩ mới
đến đây mượn ông vài món đồ đổi lấy ít tiền cầm cự qua ngày, có đắc tội thì xin
chớ trách, đằng nào ông cần lên trời thì đã lên trời, cần xuống đất thì đã
xuống đất, cần đi đâu thì đi đó rồi, cát bụi lại trở về với cát bụi, bạc tiền
châu báu đều là vật ngoài thân, sinh không mang tới, chết chẳng cầm đi, ông giữ
lại của cải cũng chẳng ích gì, bọn con là trộm cũng có đạo, lấy đồ đi rồi, nhất
định sẽ đem phần lớn xây cầu sửa đường, cải thiện cuộc sống nhân dân, noi gương
đồng chí Lôi Phong, yêu ghét rõ ràng, không quên nguồn gốc, giữ vững lập trường
..."
Tôi vẫn còn một nửa đoạn
nữa chưa kịp nói hết, Tuyền béo đã không nhẫn nại thêm được nữa, liền thò tay
vào quan tài mò loạn lên, tôi vội vàng nhắc nhở :" Mẹ kiếp, cậu nhẹ tay
thôi, đừng có làm hỏng cái xác!".
Tuyền béo nào chịu nghe
lời, từ lúc vào trong hầm mộ đến giờ chẳng phát hiện ra thứ gì đáng tiền cả,
ngoài mấy cái bình cái chum mẻ vỡ ra, chỉ toàn hài cốt của người và súc vật bồi
táng, tốn bao công sức, giờ chỉ còn trông mong vào mỗi cái quan tài này có thứ
gì khả dĩ hay không thôi.
Tôi thấy có khuyên nữa
cũng vô ích, liền dứt khoát im lặng cho đỡ phí nước bọt, cùng cậu ta lục các
thứ trong quan tài, cạnh xác chết vẫn là mấy món đồ sứ, hồi ấy tôi không hiểu
gì lắm về đồ cổ, nhất là đồ gốm sứ, chỉ thấy vài món sứ hoa xanh thời Bắc Tống,
đối với lịch sử, công nghệ, giá trị của đồ sứ tôi nhất loạt đều không biết gì
cả, chỉ biết vàng có giá ngọc vô giá, cứ cắm mắt cắm mũi tìm mấy miếng ngọc cổ,
tiện tay vất hết đồ sứ sang một bên, trời cao thương xót, cuối cùng cũng tìm
được hai miếng ngọc bích trong tay xác chết, ngọc màu cánh trả, chạm thành hai
con như hình con ngài, giống bướm mà không phải bướm.
Chúng tôi ngắm đôi ngọc
bích một lúc lâu, cũng chẳng nói ra được nó là thứ gì, tôi chỉ biết đây có thể
là phỉ thúy, đồ từ trước thời Tống, chắc là thứ quý, nếu không sao khi chết chủ
mộ vẫn còn giữ chắc trong tay? Đoán chừng thế nào cũng được mấy vạn tệ đây, vậy
thì thật đâu có ít, cả nước bấy giờ cũng đâu được mấy tay "vạn phú",
cụ thể đáng bao nhiêu tiền khi về còn phải để Răng Vàng giám định xem đã, rồi
liên lạc với mấy tay buôn Hồng Công, Đài Loan gì đó mà bán.
Tuyền béo vẫn chưa thỏa
mãn, định cậy miệng xác chết xem có răng vàng hay không, tôi bảo cứ tạm thế này
là được rồi, làm gì cũng đừng quá cạn tàu ráo máng, để lại cho người ta chút gì
đấy, chúng tôi lại lựa lấy mấy món đồ sứ đẹp mắt trong quan tài, mấy món không
màu, không hoa văn thì đặt nguyên vào chỗ cũ.
Lấy đồ xong, tôi với
Tuyền béo khênh nắp quan tài lên đậy trở lại, lần này tuy không được trúng quả
đậm như dự định, nhưng cũng không hẳn là tay trắng ra về, tôi nói với Anh Tử và
Tuyền béo :" Tạm thế đã, chúng ta mau rời khỏi đây thôi, trát lại vách mộ
cho tử tế rồi dẹp đường trở về!". Dứt lời liền quay người định trở ra, nào
ngờ đột nhiên phát hiện ra ngọn nến góc tường đã lẳng lặng tắt ngóm từ bao giờ.
Chương 14:
Xích Hống
Tuyền béo và Anh Tử cũng
trông thấy, tuy hai người đều đeo khẩu trang, nhưng trên phần trán lộ ra bên
ngoài đã ướt đẫm mồ hôi lạnh, khắp người tôi cũng vã hết mồ hôi, tôi có chút
hối hận lúc thảo luận chuyện trộm mộ đã thổi phồng chuyện "ma thổi đèn"
lên rùng rợn như thế.
Tôi quay lại nhìn chiếc
quan tài phía sau, nắp quan đã được chúng tôi đóng đinh cẩn thận, chẳng hề động
tĩnh, lẽ nào trên thế gian này có ma quỷ thật hay sao?
Anh Tử đang đứng cạnh tôi
sợ nhất là ma và xác chết, lập tức đưa tay định tháo khẩu trang ra, tôi vội giữ
tay cô nàng lại nói :" Không được tháo khẩu trang ra, định làm gì thế
hả?".
Anh Tử định huýt sáo gọi
lũ chó săn vào, tôi vỗ vỗ vai cô :" Đừng sợ, vẫn chưa đến lúc, với lại chó
nào cắn được ma chứ!".
Tuyền béo bước tới kiểm
tra cây nến dưới đất, ngoảnh lại hỏi tôi :" Nhất ơi, nến này bao tiền một
cây thế?"
Tôi mua nến ở Bắc Kinh,
giá bao nhiêu, lúc tôi mua mấy thứ cũng không để ý, chắc tầm hai hào một cây gì
đó.
Tuyền béo quở trách
:" Cậu không mua loại năm hào một cây đấy chứ? Thứ quan trọng như vầy sao
có thể mua hàng rẻ tiền được?"
Tôi gãi đầu :" Vậy
lần sau để tớ mua hàng nhập khẩu vậy, Mỹ, Nhật hay Đức, cái nào đắt thì mua cái
ấy, có điều giờ nến đã tắt rồi, cậu cũng đừng có xong chuyện mới vênh mặt lên
làm Gia Cát Lượng, chúng ta có nên đặt lại đồ vào chỗ cũ không?"
Quần quật nãy giờ mới thó
được mấy món, giờ lại phải trả hết về chỗ cũ, trong lòng tôi và Tuyền béo đều
thấy chẳng cam tâm, cơm chưa nên cơm cháo chưa ra cháo, lẽ nào lại để công cốc
công cò như vậy?
Tuyền béo mặc kệ, bảo dẫu
ma thật có hiện ra, cậu ta sẽ vung xẻng đập cho nó phải bới đất tìm răng, mấy
món đồ này ông Tuyền béo sẽ thu hết, nếu muốn trả lại, trừ phi có con ma hiện
ra quỳ lạy, không thì còn khướt.
Anh Tử lại nghĩ cứ trả
hết lại thì tốt hơn, vì mấy người chúng tôi đều không biết pháp thuật bắt ma
trừ tà, ngộ nhỡ ma quỷ hiện lên thật thì cả ba người từng đứa từng đứa một,
đừng ai nghĩ sống sót mà ra khỏi nấm mồ này.
Tôi còn chưa nói gì, hai
người bọn họ đã cãi nhau, cuối cùng đều đồng ý với cách làm chiết trung của
tôi, thắp lại ngọn nến, rồi trả hú họa mấy đồ gốm sứ trở lại, xem nến có tắt
nữa hay không, nếu như vẫn tắt, chúng ta lại trả về thêm một món nữa, nếu quả
thực vẫn chưa được, thì chỉ lấy hai miếng ngọc, những món đồ sứ khác đều để lại
hết. Có thể vừa nãy nến tắt là vì có gió núi từ ngoài thổi vào mà thôi, nếu
không mang được gì về, chắng những uổng một phen vất vả, mà còn mất hết cả thể
diện nữa.
Tuyền béo bỗng vỗ đùi
đánh đét :" Hay! Tớ thấy thế hay đấy, cứ làm vậy đi, tớ để mấy cái đồ sứ
này vào trước, cậu ra thắp nến lên, nếu còn tắt nữa, thì coi như mình không
thấy là xong!"
Chuyện mặc cả với người
chết này, chắc tôi là người đầu tiên nghĩ ra, nếu các vị Mô kim Hiệu úy ngày
xưa dưới địa phủ có hay, thế nào cũng nổi khùng đội mồ dậy bóp chết tôi cho
xem, thật là xấu hổ với sư tổ quá, có điều giờ đang cải cách mở cửa, ta phải
thuận theo dòng chảy lịch sử, không thể cứ giữ khư khư những quy củ truyền
thống cứng nhắc kia được, kinh tế là phải năng động, đầu óc bảo thủ kinh tế
năng động thế nào được?
Tôi vừa viện cớ gỡ tội
cho mình vừa lấy diêm thắp lại cây nến ở góc tường, lúc này Tuyền béo đã đặt
chiếc bình sứ hoa văn ba màu lên quan tài, cậu ta muốn bớt việc, lười mở lại
nắp săng, trực tiếp đặt luôn bình hoa lên đó, đoạn quay lại bảo tôi :" Lần
này chắc không vấn đề gì chứ, nến có tắt đâu? Mình diễn màn sáu vớ 'Sa Gia
Bang' thôi nhỉ?"
Tôi đột nhiên phát hiện
có điều bất thường, đang căng thẳng, nghe Tuyền béo nói, nhất thời không phản
ứng kịp, hỏi ngược lại :" Màn sáu cái mẹ gì?"
Tuyền béo vỗ vào đầu tôi
một cái :" Nghĩ cái quái gì thế? Màn sáu, vở 'Sa Gia Bang', tức là ù té
quyền ấy!"
Tôi chẳng còn tâm tư để ý
cậu ta nói gì, chỉ dùng tay ra hiệu im lặng, rồi chỉ vào ngọn nến trên mặt đất,
nói khẽ :" Ngọn lửa của cây nến ... mẹ nó, sao lại màu xanh thế này?"
Ngọn lửa đang phát ra
những tia sáng xanh biếc, ánh sáng xanh làm mặt mọi người đều xanh lét, Anh Tử
và Tuyền béo cũng nhổm tới xem, thấy tình cảnh này, đều ngơ ngác nhìn nhau,
không cất nổi tiếng, ngọn lửa xanh lấp lóe hai ba phát rồi phụt tắt mà không hề
có bất kỳ tác động ngoại lực nào.
Tôi biết ngay là không
ổn, thật xui xẻo quá, lần đầu tiên đi mò vàng đã mò ngay phải "bánh tông
bự", tôi một tay kéo cánh tay Anh Tử, tay kia kéo Tuyền béo chạy ra miệng
hố, bất luận thế nào cứ ra ngoài đã rồi hẵng tính, tôi thật không muốn ở lại
nơi này làm đồ tuẫn táng cho lũ rợ nước Kim.
Thấy đã sắp đến lối ra,
đột nhiên đằng sau một luồng gió mạnh ập tới, nếu không tránh né, ắt sẽ bị thúc
giữa người, ba bọn tôi vội vã cúi đầu nằm rạp xuống đất, thoạt tiên là một
tiếng "vù", chiếc bình sứ hoa Tuyền béo đặt trên quan tài bay vụt qua
đầu chúng tôi, văng vào mép hang vỡ thành vô số những mạt bụi, tiếp sau đó lại
vang lên một tiếng "rầm" lớn, hóa ra nắp quan tài đã được đóng đinh
lại giờ đã bị găm vào vách hầm mộ có miệng hang làm lối ra vào.
Vách mộ là đất đầm được
điều phối bằng phương pháp bí truyền trong cung đình Bắc Tống, chắc như bàn
thạch, nắp quan tài cũng cực kỳ dày và nặng, bị một sức mạnh khó mà tưởng tượng
nổi ném vù đi, ngay ngắm ghim chặt vào vách mộ, lối ra đã bị bịt kín, muốn lấy
xẻng công binh phá ván săng cũng phải tốn không ít công sức, đâu phải chốc lát
là xong.
Nắp quan tài bay găm vào
vách, sức mạnh ấy lớn biết chừng nào, vừa rồi nếu chậm giây lát, bị đập trúng
đầu, liệu mạng còn hay không? Tuyền béo tuy to gan, nhưng giờ phút này cũng sợ
mất mật :" Nhất ơi! Cậu mau thương lượng với nó đi, mình để lại thêm cho
nó vài món, trở mặt ra tay thế này đôi bên đều chẳng có lợi... Dĩ hòa vi quý
vẫn hơn mà!"
Lần đầu tiên ra quân bất
lợi, lửa giận trong lòng bùng lên, tôi lại phạm phải tật cũ, trở nên nóng nảy
xung động, xoay người lại chắn cho Anh Tử phía sau, một tay móc ra chiếc móng
lừa đen để trong ngực, một tay xách xẻng công binh lên, nói với Tuyền béo
:" Thương lượng cái đít ấy, cửa đã bưng kín rồi, rõ ràng là muốn bắt mình
ở lại bồi táng, hôm nay hai miếng ngọc cổ này ông Nhất đây lấy là cái chắc, con
bà nó, xem đứa nào ác hơn đứa nào, hiện ra đi con, ông liều với loại quỷ quái
nhà mày!"
Lúc này chiếc quan tài
mất nắp trong buồng chính đã dựng đứng lên, trên lớp da khô đét vốn dĩ màu đỏ
tím của xác chết bên trong, chẳng hiểu tự lúc nào, đã mọc ra một lớp lông đỏ
dày thật dày...
Thấy thế, tôi thở ra một
hơi lạnh toát, ý định xông lên liều mình vừa nãy giờ tiêu tan một nửa, trước
từng nghe cương thi có thể mọc lông trắng lông đen, gọi là "bạch
hung", "hắc hung", còn nghe truyền thuyết có loại thi yêu độc
mọc ra lông xanh, cái thứ lông đỏ kia thì là cái gì vậy?
Đây lẽ nào là con xích
hống 1 trong truyền thuyết? Loại mãnh thú sinh sống trên thảo nguyên Mông Cổ
này mình cứng như sắt, thích đào hang ở dưới đất, giờ không còn nhiều nữa, chỉ
được nghe đồn đại về nó mà thôi, lẽ nào ngôi mộ này chính là ổ của nó?
Lần này quá sơ suất, vốn
tưởng cái mộ nhỏ thế này, chỉ cần tránh khỏi lớp bẫy bên trên là xong, ai ngờ
xuống dưới đây lại gặp "bánh tông lông đỏ bự", chúng tôi không mang
súng săn, cái lỗ đào ra thì giờ bị bịt kín như bưng thế kia, chẳng thể nào gọi lũ
chó đến trợ giúp được, chó săn và súng săn là những vật phòng thân quan trọng
nhất trong rừng sâu, vậy mà giờ chỉ có thể dựa vào chiếc xẻng công binh kiểu
Đức và móng lừa đen để đấu với nó một phen mà thôi.
Con xích hống lông đỏ
khắp cả mặt, không thể nhìn rõ diện mạo thế nào, lông xù lên từng đám như một
con đười ươi lông đỏ, hai cánh tay nó rung lên, từ trong quan tài nhảy bật ra,
nhảy một cái đã xa tới hơn hai mét, không một tiếng động mà ập tới nhanh như
gió, chỉ vài bước đã nhảy đến trước mặt chúng tôi, vươn mười cái móng sắc nhọn
như dao bổ nhào tới.
Không ngờ động tác của
con xích hống này lại mau lẹ đến vậy, tình thế bây giờ ngàn cân treo sợi tóc,
không hơi đâu đắn đo gì nhiều, trong đấu trường hẹp, không có chỗ lùi chân, chỉ
có thể tiến lên nghênh chiến, lấy công làm thủ, tôi và Tuyền béo đều chung một
suy nghĩ, kệ xác nó là con gì, cứ đập cho bẹp ra đã rồi tính tiếp, cả hai cùng
hô vang một tiếng, rồi vung xẻng công binh lên, lao vào bổ đầu dằn mặt con xích
hống.
Động tác của con quái vật
nhanh như chớp, hai tay quét ngang, chúng tôi chỉ thấy tay mình bị một sức mạnh
to lớn quật vào, lòng bàn tay tê dại không thể nắm lại được nữa, hai chiếc xẻng
giống như hai chiếc lá bị cuồng phong cuốn vút lên cao, leng keng hai tiếng rồi
cắm vào đỉnh ngói lưu ly của hầm mộ, bên trên tuy tối om, nhưng chỉ nghe âm
thanh cũng đoán được, bị va chạm mạnh như thế, lớp ngói lưu ly trên kia bất cứ
lúc nào cũng có thể sụp xuống.
Dầu hỏa long của Tây Vực
tuyệt không phải trò đùa, một khi để vãi xuống, trong hầm mộ sẽ ngọc nát đá
tan, ngôi mộ này coi như hủy là cái chắc, giờ muốn tẩu thoát, bắt buộc phải kết
thúc trận chiến trong thời gian ngắn nhất, có điều đánh tay không thế này đâu
có dễ?
Mọi người mất vũ khí, giờ
chỉ có thể nghĩ cách mà tránh né những cú tấn công của con quái vật, rồi cùng
chạy vào buồng sau, nơi đặt xương ngựa và giáp trụ.
Hầm mộ vốn không có đèn,
hoàn toàn dưa vào ánh sáng của đèn pin, chạy đi như vậy lại càng không thể nhìn
rõ dưới chân có gì, khi chỉ còn cách buồng trong vài bước chân, Tuyền béo bất
cẩn giẫm phải một chiếc bình cạnh tường, "á" lên một tiếng ngã nhào
ra đất.
Con xích hống đã lao lên
áp sát chúng tôi như hình với bóng, nó rú lên một tiếng nghe như tiếng rên khóc
của loài mèo về đêm, nhảy bổ về phía Tuyền béo, tiếng kêu thê lương thảm thiết
của nó vang vọng trong hầm mộ chật hẹp, kinh khủng mà chói tai đến không thể tả
bằng lời, khiến người ta hồn xiêu phách lạc, mình nổi da gà.
Tôi từng thề không chỉ
một lần, sẽ không bao giờ để cho bất kỳ chiến hữu nào phải chết trước mặt mình,
giờ thấy tính mạng của Tuyền béo nguy trong gang tấc, nào còn nghĩ đến hiểm
nguy, tôi nhảy lên đá mạnh, trúng ngay giữa ngực con quái vật, một cước này như
đá phải ván thép, làm tôi đau đến xuýt xoa, cũng may là không bị gãy chân.
Con xích hống bị tấn
công, bèn bỏ mặc Tuyền béo, tức khắc giơ bộ vuốt quái quỷ chọc xuống đầu tôi,
tôi ném thẳng cái đèn pin trong tay vào mặt con quái, lộn nhào một cái chui qua
nách nó, tránh khỏi bộ vuốt sắc như dao, bấy giờ chỗ tôi đứng là một góc chết,
hai vách tường và con xích hống đang chổng lưng về phía tôi tạo thành một hình
tam giác vây kín tôi ở giữa, nếu để nó có cơ hội quay người lại, rồi bổ nhào
tới thì tôi thật vạn lần khó mà chống nổi.
Những trò liều mạng cả
đời tôi đã chơi không biết bao lần rồi, càng cùng đường tuyệt lộ, lại càng cần
bình tĩnh quyết đoán, thứ "bánh tông lông đỏ bự" này thực ra có da có
thịt, chẳng qua có sức khỏe kinh người mà thôi, đao thương bất nhập, nhưng cũng
đâu phải ma phải quỷ, tôi sợ chó gì nó. Lúc ấy lại càng không nghĩ ngợi gì
nhiều, tôi xông tới nhún người nhảy lên lưng nó, trong mũi xộc lên toàn mùi
tanh thối, may mà đeo khẩu trang, bằng không chắc chưa kịp ra tay đã bị sặc
chết rồi.
Không có đèn pin, hầm mộ
tối như hũ nút, chẳng nhìn thấy gì, tứ chi con xích hống cứng nhắc, không thể
với ra phía sau bắt tôi, đành phải không ngừng lắc người hòng hất văng tôi
xuống.
Một tay tôi ghì chặt cổ
con xích hống, tay kia cầm móng lừa đen định nhét vào mồm nó, tôi ấn loạn trên
mặt nó mãi mà không thấy mồm đâu, ngược lại bị nó lắc cho hoa mắt chóng mặt,
thầm nhủ không ổn, chỉ lắc thêm vài phát nữa là tôi rơi xuống mất.
Trong bóng tối bỗng lóe
lên ánh đèn, tôi cứ ngỡ là mình hoa mắt, định thần lại nhìn, hóa ra Tuyền béo
và Anh Tử đang ngậm đèn pin trong mồm, hai tay vác một cây lang nha bổng xông
ra từ buồng trong, bọn họ định liều mạng chắc, tôi nhảy vội xuống khỏi lưng con
xích hống.
Cây lang nha bổng kia
nặng tới mấy chục cân, là vũ khí đơn binh loại siêu trọng thời "vũ khí
lạnh", lúc mới vào trong cổ mộ, chúng tôi thấy nó với mấy thứ binh khí
khác, cùng giáp trụ, xương ngựa đều chất cả trên sàn buồng sau, đoán chừng đều
là vật thường dùng của chủ mộ khi ra trận lúc sinh thời.
Trên những binh khí này
tuy đã mọc đầy mốc xanh, nhưng lang nha bổng không phải loại binh khí dựa vào
mũi nhọn sắc bén để sát thương địch, thuần túy là dùng sức mạnh lợi dụng trọng
lượng đến tấn công kẻ địch. Anh Tử và Tuyền béo lần lượt ở hai bên phải trái,
bốn cánh tay nâng lang nha bổng, coi như chày kình đánh chuông chùa, thúc mạnh
vào ngực con xích hống, lang nha bổng hàng chục cân cộng với sức đẩy do hai
người chạy tới, xung lực quả thực không nhỏ, húc uỳnh một cái, làm con xích
hống ngã lộn xuống đất.
Cú vừa rồi cả hai người
họ dùng quá sức, mệt bở hơi tai, tôi dường như nghe thấy cả tiếng đập thình
thịch dội ra từ lồng ngực họ.
Tôi đứng bên cạnh khen
:" Đánh hay lắm! Không ngờ cô chú lại khỏe thế, lúc về anh tính công
cho..."
Vừa dứt lời, con xích
hống từ dưới đất đã bật người lên như lò xo, tôi cao giọng chửi lớn :" Mẹ
mày, tưởng đốt khống sém, chém không chết sao, Tuyền béo đâu, oánh cho nó một
phát nhớ đời xem nào, đập thẳng vào đầu nó ấy!"
Tuyền béo điên lên, cú
này chẳng cần Anh Tử giúp sức, một mình vận hết sức bình sinh nhấc cây lang nha
bổng lên cắm thẳng về phía con xích hống, nào ngờ lần này chẳng thành công,
đúng lúc con xích hống nhảy chồm tới, va chạm làm cây lang nha bổng văng vào
buồng sau, Tuyền béo cũng bị ngã giập cả mông, hai lòng bàn tay rách toác, đau
đến gào lên oai oái.
Tôi thầm tính toán, xẻng
công binh đã găm lại trên nóc mộ, nếu muốn đập cái nắp quan tài bịt kín lối ra
kia đi, vừa hay có thể dùng lang nha bổng mà đập, vào buồng trong lấy lang nha
bổng trước, đánh lạc hướng con xích hống, đập vỡ nắp quan tài xông ra, bên
ngoài trời cao đất rộng, lại có chó săn súng săn, quần thảo thế nào cũng được,
ở trong hầm mộ chật hẹp này làm sao mà giở ra được.
Tôi kéo Tuyền béo đang
ngồi bẹp dưới đất dậy, ba người chạy vào buồng sau của ngôi mộ cổ, buồng sau
chính là gian phụ, so với gian chính còn thấp hơn một bậc, tôi vừa bước xuống
liền dùng đèn pin soi bốn phía xung quanh, chỉ thấy lang nha bổng bị sức mạnh
khủng khiếp của con xích hống văng đập vào vách tường, tạo thành một lỗ hổng
lớn. Sao là lỗ hổng mà không phải là đường nứt, lẽ nào phía sau còn có không
gian nữa hay sao? Từng nghe một số mộ cổ bên trong còn giấu hầm mộ khác, phải
chăng đây chính là một mật thất? Lần này đúng là toét mắt nhận không ra rồi.
Bên trong cái lỗ do cây
lang nha bổng tạo ra trên tường tối đen kìn kịt, đèn pin soi vào chỉ thấy sâu
thăm thẳm, dường như không gian rất rộng, là một đường hầm khá dài.
Tôi đang ngạc nhiên sửng
sốt, con xích hống đã lao thẳng vào gian sau cuốn theo một luồng gió lạnh buốt,
ba bọn tôi không dám lơ là, lập tức xoay lang nha bổng lại định đẩy con thú ra,
lao khỏi gian sau đập bay nắp quan tài, nào ngờ sức lực của con quái thú hoàn
toàn ngoài sức tưởng tượng, hai tay vung lên, sức mạnh không dưới ngàn cân, ba
bọn tôi tuy đã dốc hết sức, nhưng lang nha bổng vẫn bị đánh văng ra, xoay tròn
một vòng trên không, lại một lần nữa đập trúng vách tường sau lưng.
Lần này, cái lỗ trên tường
vỡ tung ra còn lớn hơn lúc đầu, bấy giờ mọi người đã cùng đường mạt lộ, đành
phải lui vào mật thất sau bức tường, nhấc lang nha bổng lên chuẩn bị chiến đấu
tiếp.
Nhưng con xích hống lại
không truy đuổi được, chỉ đi lòng vòng trong gian sau, tôi thở dài một hơi, lấy
đèn pin soi lên mặt của Tuyền béo và Anh Tử, ngoài vết rách toác trên tay của
Tuyền béo ra, hai người đều không bị thương gì nữa. Ngẫm lại cuộc chiến đấu ác
liệt trong hầm mộ vừa rồi, tuy chỉ có mấy phút ngắn ngủi,nhưng đúng là có thể
nói đã lượn hai vòng phía trước Quỷ môn quan rồi.
Anh Tử bỗng nói :"
Mọi người xem xem, trên tường sao lại còn có chữ này! Viết cái gì vậy nhỉ?"
Chúng tôi lần theo ánh
đèn pin của Anh Tử nhìn lên tường, chỉ thấy có một cái biển chỉ đường màu đỏ,
trên có viết một hàng chữ lớn "CĂN CỨ HẮC PHONG KHẨU, KHO NGẦM GENA, BIÊN
GIỚI MẠN MÔNG".
Tôi với Tuyền béo nhìn
nhau :" Căn cứ bí mật của quân Quan Đông?". Chẳng ngờ rằng đường hầm
dẫn tới căn cứ quan trọng của bọn quỷ Nhật lại chỉ cách gian sau ngôi mộ cổ có
một bức tường, nếu lệch nửa mét nữa vào trong, thì ngôi mộ này sớm đã được khai
quật từ lâu rồi. Nếu không phải lang nha bổng đập vào vách mộ, có thể vĩnh viễn
cũng không có ai phát hiện ra căn cứ quân sự ẩn sâu dưới lòng đất này được.
Còn chưa kịp nhìn kỹ, bức
tường ngăn cách giữa đường hầm của căn cứ và gian sau của ngôi mộ bỗng đổ đánh
rầm một tiếng, con xích hống đã từ sau bức tường đổ nát nhảy vọt vào.
Tuyền béo chửi rủa
:" Con cụ nhà mày, cứ dính bố mày như đỉa thế à?". Nói đoạn lại vác
lang nha bổng định lao tới.
Tôi vội ngăn Tuyền béo
lại :" Đừng liều với nó làm gì, tìm đường chạy đã, rồi tính cách
sau!". Cả ba cùng chạy vào trong. Đường hầm rất rộng rãi, mặt đường bằng
xi măng, hoàn toàn có thể cho xe thiết giáp đi qua, chỉ có điều đường hầm này
vừa dài vừa rộng, không có chỗ nào nấp hay chướng ngại vật gì, con xích hống
lại lao rất nhanh, chỉ nháy mắt đã nhảy tới sau lưng mọi người.
Tôi định ném móng lừa đen
ra chặn nó lại, liền rờ tay lên người tìm loạn xạ, bỗng sờ thấy trong túi còn
một đống gạo nếp, nghe nói các Mô kim Hiệu úy ngày xưa vào trong mộ cổ đều phải
đem theo gạo nếp, nếu trúng phải hơi xác chết thì dùng để trừ độc, giờ cũng có
thể coi là ám khí mà giã vào mặt con ác thú một phát.
Chỉ thấy sau lưng ập đến
từng trận gió lạnh buốt, mùi hôi sặc mũi, tôi vốc một nắm gạo nếp trong túi
vung ngược tay ra sau ném vào con ác ôn, nắm gạo to bắn tóe ra như tiên nữ rải
hoa văng cả vào mặt con vật, nó hoàn toàn không để tâm, chỉ khựng lại một cái,
rồi nhảy bổ tới.
Lúc này chúng tôi đã chạy
đến cuối đường hầm trong căn cứ ngầm, cánh cửa sắt lớn của kho Gena( kho hàng)
đã hé mở ngay trước mắt, chắc là quân Quan Đông rút lui cực kỳ vội vã, cửa sắt
không khóa, nhưng ba chục năm trời không đóng mở, ổ bi đã sắp han rỉ hết rồi,
ba chúng tôi chạy vào trong kho, người nào người nấy đều phùng má trợn mắt, dốc
hết sức bình sinh kéo cửa lại, cuối cùng cũng đóng được cánh cửa sắt nặng nề
trước khi con xích hống nhảy đến.
Con xích hống có mình
đồng da sắt cũng chẳng thể nào nhảy vào đây được, thậm chí cả tiếng nó đập cửa
bên trong cũng không nghe thấy gì. Loại cửa kho quân sự này đều được thiết kế
để chống sóng xung kích của những vụ nổ lớn, giữa ván thép ván sắt còn thêm hai
lớp đệm bông, có thể hấp thu xung lực. Năm xưa bọn Nhật bị không quân Mỹ thả
bom biến thành chim sợ cành cong, ngay cả cứ điểm dưới đất cũng được xây theo
cấu tạo chống bom hàng không cỡ lớn. Con quái thú kia dẫu có lợi hại hơn nữa,
cũng không thể đọ với bom đạn của quân đội Mỹ được. Chúng tôi ở đây coi như tạm
thời an toàn rồi, nhưng thoát ra thế nào cũng là việc phải suy tính nát óc.
--------------------------------
1 "Xích" nghĩa là đỏ,
"hống" là loài thú ăn thịt trong truyền thuyết, hình dáng giống chó.
Chương 15: Căn hầm bí mật của quân Quan Đông
Tôi ngồi bệt xuống đất
thở dốc, cầm đèn pin soi khắp chung quanh, cái kho này thực không nhỏ chút nào,
các loại hàng hóa chất cao thành núi, một không gian lớn như vậy, sao ở bên
ngoài không phát hiện ra bất cứ dấu vết gì nhỉ? Tôi dựa trên phương hướng và khoảng
cách tháo chạy khi nãy tính toán một lúc, mới sực hiểu ra, hóa ra cả vùng đồi
núi phía Tây Dã Nhân Câu đều bị đào rỗng bên dưới để xây hầm cứ điểm. Càng nghĩ
càng thấy đúng, có thể nói Nhật Bản đã dốc hết quốc lực cho sự vụ ở Mãn Châu,
duy trì cả một cơ sở công nghiệp nặng cho toàn bộ cuộc chiến, dường như tất cả
đều tập trung ở Mãn Châu cả, nhất là sau khi quân Mỹ không kích Nhật Bản, Mãn
Châu liền trở thành hậu phương lớn chiến lược của Nhật Bản, để củng cố phòng
ngự, đặc biệt là đối phó với Liên Xô ở phía Bắc, quân Quan Đông tại Mãn Châu đã
sửa xây vô số căn cứ ngầm dưới đất, đều là những công trình phòng ngự mang tính
lâu dài. Nơi đây tuy thuộc Nội Mông, nhưng năm xưa cũng là vùng quân Nhật chiếm
đóng, lãnh đạo cấp cao của Nhật cho rằng giữ Mãn không giữ Mông, thì cũng như
canh sông mà không canh bờ canh bãi, xây dựng hàng rào phòng ngự ngoại vi cho
Mãn Châu ở biên giới Trung Mông cũng là một điều hết sức tự nhiên.
Hắc Phong Khẩu là vùng
đất quân đội các bên đều muốn tranh giành, nếu đại quân của Liên Xô tấn công từ
thảo nguyên, thì bắt buộc phải đi qua nơi này, có điều cuối cùng quân Liên Xô
lại chọn tấn công thẳng vào Mãn Châu, cả khu căn cứ ngầm nhọc lòng gây dựng này
đã không còn bất kỳ ý nghĩa chiến lược nào nữa. Chắc quân Nhật ở căn cứ này nghe
thư gửi toàn dân của Thiên Hoàng qua điện đài, biết tin Nhật Bản đã đầu hàng vô
điều kiện, lòng quân tan tác, kẻ tự sát thì tự sát, người bỏ chạy thì bỏ chạy
hết cả rồi.
Tuyền béo đứng dậy phủi
mông, cú trượt ngã lúc trong hầm mộ quả thực không nhẹ, cậu ta xé áo ra hai
mảnh vải, nhờ Anh Tử băng lại vết thương trên tay mình, Tuyền béo đau ê ẩm khắp
mình mẩy, cao giọng chửi bới con xích hống ngoài kia.
Tuyền béo rút ra hai
miếng ngọc bích lấy được trong tay cái xác :" Còn lâu ông mới trả lại cho
nó, muốn lấy lại hả, cũng được thôi, đem hai vạn tệ đến đây, không có tiền đưa
phiếu lương thực cũng được, ối ... Nhất ơi, cậu xem miếng ngọc sao thế này?"
Tôi đón lấy miếng ngọc
xem thử, miếng ngọc vốn màu xanh cánh trả, giờ đã biến thành màu vàng nhạt, tôi
cũng chẳng rõ sao lại như vậy, thế mới cảm thấy kiến thức và sự từng trải của
mình thực sự có hạn, thời gian trước vênh vang vỗ ngực ta đây, giờ xem ra còn
phải tiếp tục học nhiều.
Có điều thứ này lấy thì
cũng đã lấy rồi, sợ cũng vô dụng, tôi đứng dậy gọi hai người bọn họ hành động
:" Chúng ta vào trong xem xem, có súng ná đạn dược gì hay không, mà có cái
xe tăng là tốt nhất, lái ra nghiền con quái lông đỏ kia thành ruốc cho bõ
tức".
Tuyền béo hỏi tôi :"
Cậu có chút thường thức quân sự nào không thế? Ở đây không thể có xe tăng
được".
Tôi đáp :" Có hay
không cứ xem đi đã, thực ra nếu thật có xe tăng đi nữa e cũng không khởi động
được nữa, gần bốn chục năm rồi còn gì, lâu như thế, cho dù ngày nào cũng bảo
dưỡng cũng phải báo hỏng từ lâu rồi".
Lối đi trong kho Gena
loằng ngoằng phức tạp, y như mê cung, để khỏi lạc đường, chúng tôi men theo rìa
tường tiến lên phía trước dò tìm lối thoát.
Đường hầm và cả kho Gena
đều có mái vòm, rất cao, đây là cấu tạo phòng chống ngấm nước, soi đèn pin lên
trên, có thể trông thấy hàng loạt bóng đèn dùng khi khẩn cấp và vô số đường
dây, nếu tìm được máy phát điện, chắc là có thể nghĩ cách làm mấy cái đèn này
sáng lên.
Đi thêm một quãng không
xa, thì nhìn thấy trên tường có một tấm bản đồ mặt cắt của căn cứ, bên trên có
ghi chú một số công trình phụ trợ như các tuyến đường chính, giao thông hào,
kho vật tư, hang giấu binh, phòng tắm, khu ở, phòng nghỉ, kho lương thực, ống
thoát nước, trạm phát điện, vân vân, còn các vị trí quan trọng như nơi đặt
pháo, lỗ thông khí, lỗ quan sát, lỗ phản kích, phòng chỉ huy tác chiến, hầm trú
ẩn đều không được ghi chú, phần ở sâu trong lòng núi còn chia làm ba phần, kết
cấu cực kỳ phức tạp, quy mô cực kỳ hoành tráng, có thể thấy quân Quan Đông năm
xưa coi trọng căn cứ quân sự này đến mức nào.
Tôi dỡ tấm bản đồ trên
tường xuống, với kinh nghiệm làm lính công trình xây dựng căn cứ quân sự trong
núi Côn Luân của tôi, nay lại có bản đồ trong tay, thì chẳng lo không tìm ra
cửa thoát.
Quy mô của căn cứ ngầm bí
mật này vượt quá sức tưởng tượng của tôi, sâu vào trong tới ba mươi cây số,
tuyến phòng ngự chính diện chẵn chện sáu mươi cây số, hóa ra toàn bộ đồi núi
hai bên Dã Nhân câu đều bị đào rỗng, tạo thành hai công sự vĩnh cửu hỗ trợ lẫn
nhau, ở giữa có ba con đường cắt ngang qua Dã Nhân câu, nối liền căn cứ trong
lòng núi hai bên thành một chỉnh thể. Đường hầm chúng tôi phá tường mộ cổ của
tướng quân nước Kim nhảy vào, chính là con đường dưới cùng trong ba con đường
kể trên. Căn cứ này phình ra hai đầu, thóp lại ở giữa, quy mô ở hai đầu tuy
lớn, ở giữa lại chỉ có ba đường hầm nối liền hai bên, đây có thể là tính toán
dựa trên yêu cầu chiến thuật, khi một trong hai bên bị quân địch công hãm, vẫn
có thể chặn đường hầm lại, cố thủ ở đầu bên kia.
Tính từ vị trí chúng tôi
đang đứng, cửa ra gần nhất cũng không còn xa nữa, chỉ có điều không biết khi
quân Quan Đông rút đi có phá hủy lối ra hay không, bằng không thì chỉ có thể
trở ra theo đường mộ cổ, cũng có thể thử trèo ra từ mấy chỗ như cửa thông gió
chẳng hạn. Tôi bỗng liên tưởng đến sự việc trên triền núi tối qua, ngựa bị một
con quái vật dưới hố xé rách bụng, cái hố ấy lẽ nào chính là một cửa thông gió
của căn cứ này? Và con quái vật chưa tường mặt mũi kia đã dùng móng vuốt đào nó
rộng ra để nương mình? Nếu như cái hố ấy quả là cửa thông gió, vậy thì đừng
mong trèo ra từ đó được, cái hố quá hẹp, đồng thời cũng có thể đoán định con
quái vật kia chắc chắn không phải là con xích hống to lớn chúng tôi vừa gặp ban
nãy.
Tôi nói với Anh Tử và
Tuyền béo suy nghĩ của mình, để bọn họ cố vấn xem bước tiếp sau đây sẽ đi thế
nào?
Tuyền béo trả lời :"
Đấy, cậu không nhắc là tớ quên khuấy đi mất đấy, con quái vật tấn công ngựa của
chúng ta có khả năng đã coi căn cứ ngầm này là hang ổ rồi, anh em mình cứ lòng
và lòng vòng trong đây, đi không đúng hướng thế nào cũng đụng phải nó, phải
nghĩ cách kiếm mấy thứ vũ khí phòng thân cái đã".
Tôi bảo :" Đúng thế,
cẩn tắc vô áy náy, ngộ nhỡ lối ra bị phá hủy rồi, mình vẫn phải quay lại mộ cổ
trèo ra, vậy thì lại phải giáp mặt với con xích hống kia lần nữa. Kho Gena chắc
có một khu tàng trữ vũ khí và trang thiết bị, ta qua xem xem có thứ nào thuận
tay không, mỗi người lấy mấy thứ, tốt nhất là kiếm được lựu đạn Tango của quân
Nhật, loại lựu đạn ấy thời hạn sử dụng rất lâu, sức công phá cũng không nhỏ,
dùng đối phó với con quái thú lông đỏ kia là thích hợp nhất".
Trong kho Gena chất đầy
những vật tư quân đội như áo khoác, thảm, hộp cơm, pin khô, mặt nạ phòng độc,
không khí tương đối khô ráo, những vật dụng này được giữ khá là hoàn hảo, tôi
tiện tay vớ vài chiếc mặt nạ phòng độc kiểu Haruda của Nhật cất vào ba lô, cuối
cùng cũng tìm thấy chỗ cất giữ vũ khí ở bên phải kho Gena.
Trên giá sắt đặt khá
nhiều hòm gỗ đựng súng ống, không có súng máy, nhất loạt là súng trường kiểu
Arisaka, cũng chính là loại mà chúng ta vẫn thường gọi là "nắp lớn ba
tám" hay "kiểu ba tám". Cạnh tường còn có mấy khẩu pháo sáu ly,
nhưng xung quanh không có viên đạn pháo nào.
Tuyền béo nạy một hòm gỗ
đựng súng trường ra, lấy một cây, kéo chốt "rắc rắc", soi đèn pin vào
chốt súng, nói với tôi :" Nhất này, súng vẫn còn dùng tốt, toàn súng mới
còn chưa bóc tem, các bộ phận cơ khí đều đã tra dầu, đạn còn chưa lắp nữa".
Tôi và Anh Tử mỗi người
cầm lấy một cây, tôi giơ súng lên ngắm thử, rồi lại ném trở lại :" Loại
súng rởm của bọn Nhật này chỉ bắn được năm phát thôi, không phải loại súng
trường tự động vào đạn đâu, loại này lên đạn chậm lắm, lại giật mạnh, tôi dùng
cóc quen!"
Anh Tử hỏi tôi :"
Súng của bọn Nhật tốt thế còn gì, mạnh bỏ xừ, hồi xưa bác em mới gia nhập Liên
quân Dân chủ Đông Bắc cũng dùng súng kiểu này, sao anh Nhất lại không thích
dùng nhỉ?"
Tôi còn chưa trả lời,
Tuyền béo đã chen vào :" Đừng để ý đến hắn, thằng cha này hồi trong quân
đội hôm nào mà chẳng nghịch súng bán tự động, hắn quen rồi, loại súng lỗi thời
này hắn không để mắt tới cũng là đương nhiên thôi. Lát nữa nói dại nếu lại gặp
phải quỷ quái yêu ma gì thì hai đứa mình cứ nấp phía sau hắn, xem hắn tay không
bắt rắn ra làm sao nào". Vừa nói cậu ta vừa cúi xuống ngăn dưới cùng kéo
một hòm đạn ra, mở nắp ra, bên trong toàn là đạn bọc trong giấy dầu, đèn pin
chiếu vào liền lấp lóe ánh vàng ròi rọi. Tuyền béo được ông già chiều chuộng từ
bé, lúc mới bắt đầu tập đi đã được cho chơi súng, khi cậu ta vào cấp hai thì đã
thành chuyên gia súng ống rồi. Nguyên lý của súng trường về cơ bản là giống
nhau, trước đây Tuyền béo tuy chưa từng sử dụng súng trường kiểu Arisaka này,
nhưng không hề thấy lạ lẫm, thấy có đạn, liền lấy lên lắp vào một cách điêu luyện,
tiện tay khóa chốt, đưa lên ngắm thẳng vào tôi.
Tôi vội đẩy nòng súng của
cậu ta ra :" Đạn đã lên nòng, cậu đừng có ngắm bậy bạ, súng không phải
dùng để chĩa vào đồng đội của mình, chỉ có súng của kẻ phản bội mới nhắm thẳng
vào bạn bè mình. Tôi không thích dùng loại súng này, bởi súng kiểu 38 này căn
bản không thích hợp cận chiến, lực xuyên thấu của đạn quá lớn, trong cự ly ba
mươi mét, một phát súng có thể bắn xuyên ba bốn người, trừ phi lắp lưỡi lê đánh
giáp lá cà, bằng không rất dễ khiến người phe mình bị thương, vả lại trong căn
cứ này có rất nhiều công trình bằng sắt thép, đạn mà bắn phải những tấm sắt
thép ấy, ắt sẽ nảy lung tung theo theo quy tắc nào hết, làm không tử tế có khi
chưa bắn trúng kẻ địch đã xử lý hết cả người mình rồi".
Tuyền béo vỗ ngực tự tin
nói :" Tài bắn súng của tớ ấy à, nói không phải bốc phét, bao năm nay,
chắc cậu cũng biết rồi, bách bộ xuyên dương 1, cưỡi ngựa bắn đèn, tớ đều bắn dễ
như bỡn, sao có thể bắn lệch vào ván thép được? Không tin lát tớ đặt quả trứng
lên đầu cậu rồi thử xem sao..."
Tôi ngắt lời cậu ta
:" Càng nói càng không ra sao cả, tớ có cái đầu này dễ chắc? Đầu tớ là
dùng để suy ngẫm cuộc đời, không phải để đặt trứng gà làm bia cho cậu bắn đâu,
đừng có hoạnh nhau nữa được không nào, xem xem có còn vũ khí nào khác dùng được
không? Tớ cứ thấy loại súng này không ổn, dù gì cũng là thứ vũ khí đã bị đào
thải bao năm rồi, súng trường để lâu cực kỳ dễ cướp cò, hồi tớ còn ở trận tuyến
biên giới, có tay dân công vận chuyển vật tư chi viện cho tiền tuyến, thó được
một khẩu súng trường Đức kiểu cũ của dân binh đối phương mà bọn tớ tịch thu
được, kết quả khi leo núi súng bị cướp cò, vừa hay bắn gãy lưng một trung đoàn
phó, cái thứ này không phải đùa được đâu".
Chúng tôi nạy hết hòm này
đến hòm khác trên giá, muốn tìm mấy quả lựu đạn Tango, nào ngờ kiếm được mười
mấy khẩu tiểu liên trong một thùng gỗ có vẽ hình quốc kỳ Nhật Bản. Súng này tạo
hình rất quái, có mấy phần giống súng tiểu liên Stern của Anh, băng đạn cắm
ngang bên trái thân súng, điểm khác biệt ở chỗ, băng đạn của súng này cong
cong, đằng sau lại có thêm báng gỗ.
Anh Tử hỏi tôi :"
Anh Nhất này, đây là súng gì thế? Sao hình dạng lại thế này? Kiểu cong à?"
Tôi thử kéo chốt súng
tiểu liên, rồi tháo hộp đạn ra xem :" Đây chắc là súng tiểu liên kiểu
Hyaku của Nhật, đến cuối cuộc chiến mới bắt đầu trang bị cho quân lính, sản
xuất tương đối ít, nên ít gặp, có lẽ là được trang bị để đối phó với quân Liên
Xô. Súng này dễ dùng hơn kiểu Ba tám, đặc biệt thích hợp cận chiến, dẫu có sự
cố, thì cùng lắm cũng là giắt đạn, chứ không đến nỗi cướp cò hay bắn giật ra
sau, em và Tuyền béo đừng dùng súng trường nữa, lấy tiểu liên mà phòng
thân".
Anh Tử chưa dùng súng
tiểu liên bao giờ, không biết sử dụng thế nào, bèn đứng bên cạnh cầm hai cây
đèn pin soi cho chúng tôi, Tuyền béo tìm một hòm đạn tiểu liên, rồi hai thằng
cùng nạp đầy băng đạn.
Tôi vừa nhét từng viên
đạn vào băng vừa ngân nga điệu hát, tâm trạng của tôi lúc này rất tốt, mẹ nhà
nó, lần này mới đã làm sao, từ hồi xuất ngũ đến giờ có được chạm vào súng tiểu
liên lần nào đâu, nhớ lại cảm giác hồi còn tại ngũ dùng khẩu kiểu 56, chân tay
lại thấy ngứa ngáy râm ran. Tôi đang đắc ý, Anh Tử đột nhiên vỗ lên vai nói khẽ
:" Anh Nhất, hình như em... thoáng thấy có một đứa trẻ chạy qua sau lưng
anh".
Đứa trẻ? Không thể thế
được. Đây là chốn thâm sơn cùng cốc hiếm người đặt chân, huống hồ căn cứ bí mật
này lại ở sâu trong lòng đất thế này, vô duyên vô cớ sao có thể tự dưng mọc ra
trẻ con được?
Chúng tôi đều ngồi xổm
dưới đất lắp đạn, Anh Tử cầm đèn pin cũng ngồi xổm đối diện với tôi, cô nàng vô
ý khua đèn pin một cái, tự dưng thấy sau lưng tôi có bóng một đứa trẻ chạy vụt
qua.
Tôi quay đầu lại, soi đèn
pin bốn phía, sau lưng là một lối đi chữ T, một màu đen thẳm, yên lặng đến kỳ
lạ, làm gì có bóng đứa trẻ nào, tôi hỏi lại Anh Tử :" Có đứa trẻ nào đâu?
Em dọa anh hả, hay là hoa mắt rồi?"
Anh Tử tuy bạo gan, nhưng
rốt cuộc vẫn là một cô sơn nữ, tư tưởng phong kiến mê tín rất nặng nề, bấy giờ
sợ hãi đến nỗi sắc mặt tái nhợt :" Em không nhìn lầm mà, thật đấy ... có
một đứa trẻ chạy vụt qua sau lưng anh, không thể nhìn nhầm được, không có tiếng
chân, em chỉ nhìn thấy bóng nó, nhanh lắm, vèo một cái đã chạy vụt qua rồi ...
hay là có ma nhỉ?"
Truy hỏi Anh Tử cho tường
tận, nhưng cô nàng lại nói không rõ ràng, chỉ bảo rằng hình như mang máng thấy
có đứa bé gái, nhưng cũng không dám chắc, nó mặc quần áo gì cũng không nhìn rõ,
chừng năm sáu hay sáu bảy tuổi gì đó, hướng đứa trẻ chạy vừa hay lại chính là
hướng lối ra được chú rõ trên bản đồ.
Lối đi phía sau cách tôi
chưa đầy hai mét, ở nơi im ắng thế này mà có một đứa trẻ chạy qua, tôi không
thể nào không nghe thấy, không tăm không tiếng thế này, trừ phi nó là ma quỷ.
Căn cứ ngầm này là một thế giới cách biệt với bên ngoài, mấy chục năm nay không
có người bước vào rồi, ai biết được nơi đây ẩn chứa những gì, chuyện hôm nay đã
quần cho chúng tôi mệt đứt hơi rồi, thêm một việc chẳng bằng bớt một việc,
không gây sự nhưng liệu có tránh khỏi không?
Tôi liền đề nghị cứ đi
đường vòng tới lối ra, không nên đi theo đường đứa bé vừa chạy qua đó.
Anh Tử sợ nhất là quỷ
thần, gật đầu đồng ý ngay :" Leo dốc mười dặm còn hơn chạm phải tường ma
xây!"
Tuyền béo không nghĩ vậy
:" Nhất này, tớ thấy cậu thay đổi nhiều quá, từ sau khi phục viên, cậu đã
không còn ngạo nghễ coi trời bằng vung như hồi trước nữa rồi, co ro cúm rúm
không dám tiến bước đâu có giống tác phong của cậu! Sao hôm nay nghe Anh Tử bảo
nhìn thấy đứa ranh con chạy qua, cậu đã phải đi đường vòng rồi? Tớ nói cho cậu
biết, muốn đi đường vòng, thì hai người đi mà vòng, tớ không nhấc nổi chân nữa
đâu, tớ cứ đi đường thẳng thôi. Nhớ năm xưa chúng ta làm Hồng vệ binh, lên núi
về quê, cậu nói xem cậu có sợ gì không? Hồi ấy ngoài Mao chủ tịch ra, cậu bảo
xem cậu phục ai chứ?"
Tôi nhất thời cứng họng,
hình như đúng như Tuyền béo nói, tôi trước kia là loại trời sụp xuống vẫn nghĩ
nhẹ như đắp chăn bông, từ hồi nhập ngũ, cho đến cuộc chiến năm 79, đồng đội bên
cạnh hy sinh hết người này đến người khác, tôi đã tận mắt trông thấy vô số lần
đổ máu và chết chóc, nói một cách thực sự cầu thị, tôi của ngày hôm nay quả
thật có hơi đàn bà, làm việc gì cũng không tránh khỏi suy trước tính sau. Lẽ
nào năm tháng trôi đi, cũng cuốn theo lòng can đảm và dũng khí của tôi thật sao?
Tôi nói với Tuyền béo
:" Anh em mình giờ đã nhiều tuổi rồi, không so được với trước kia nữa đâu,
những năm làm Hồng vệ binh, bọn ta quả thực gan dạ dũng mãnh, thấy thằng nào
ngứa mắt là đập thằng ấy, nhưng ấy là thời trai trẻ bồng bột, giờ nghĩ lại thấy
vừa đáng cười nhưng cũng vừa đáng thương".
"Nhưng chí ít hồi
ấy, cậu cũng đã chiến đấu, đã xông lên, mẹ kiếp, tôi đếch chịu được cái bộ dạng
khúm núm nhút nhát của cậu bây giờ. Cậu còn nhớ sinh nhật năm mười sáu tuổi,
bản trường ca trong cuốn vở tớ tặng cậu không?". Tuyền béo nói.
Cuốn vở ấy có lẽ bị tôi
đem làm giấy chùi từ lâu rồi, vả lại hồi ấy Tuyền béo tặng tôi rất nhiều vở, vì
mẹ cậu ta là cán bộ hậu cần, trong nhà đầy các loại vở, tôi thực không nhớ nổi
bản trường ca nào cả.
Tuyền béo thấy tôi không
nhớ ra, bèn nói :" Để tớ đọc lại vài câu cho cậu nghe!". Tiếng phổ
thông của Tuyền béo rất chuẩn, cậu ta đậm người, hơi cũng đầy, khi cất tiếng
đọc vang, nghe cũng thật giống phát thanh viên của Đài tiếng nói Nhân dân Trung
ương, chỉ nghe cậu ta cao giọng ngâm:
Vào công viên "đánh
trận giả", lên trước lớp cùng học thuộc làu
Đường Hàm Dương
"quét phăng Tứ cựu", núi Tỉnh Cương tiếp nối chuỗi xâu.
Đêm trước khi chôn cất
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xét lại, và bè lũ phản động cơ cầu, và trước khi
tiến quân vào thế giới u sầu..
Bên cạnh radio ta lắng
tai nghe, Bộ Quốc phòng dõng dạc tuyên chiến từng chữ từng câu...
Sau khi Tuyền béo khẳng
khái hùng hồn đọc câu đầu tiên, tôi lập tức nhớ ra ngay, đây là một bài trường
thi tự sự, tên là " Kính chào các dũng sĩ trong cuộc đại thế chiến thứ
ba". Chúng tôi quá quen bài thơ này rồi, hồi cả hai còn làm Hồng vệ binh,
đã từng cùng nhau ngâm vang cả trăm ngàn lần, đó là những vần điệu chúng tôi
yêu thích nhất, những từ ngữ thân thương nhất, và là những mộng tưởng tráng lệ
trẻ trung nhất ... tâm trạng tôi kích động, quên luôn hoàn cảnh trước mắt, nắm
chặt bàn tay, cùng Tuyền béo cao giọng ngâm vang:
Trong cuộc thế chiến thứ
ba tiêu diệt chế độ bóc lột cuối cùng, một sư đoàn hai ta nương nhau.
Tình bạn của đôi ta từ
khi ấy bắt đầu, chẳng thể tính đã được bao lâu, chỉ biết rằng hơn núi thẳm biển
sâu.
Trong chiến hào, ta cùng
chia một chiếc bánh mì, cùng nắm muối, uống nước chung gầu.
Ngân nga cùng một giai
điệu, đắp chung một tấm chăn cho ngon giấc đêm thâu.
Từng dòng, từng chữ, ta
học hết lần này qua lần khác, tư tưởng của lãnh tụ, chân lý của nhiệm màu.
...
Nhớ chăng anh? Chúng ta
từng uống nước sông Macedonia, băng qua thảo nguyên Ukraine, rồi tới điện
Kremlin thắp sáng vì sao đỏ trong lầu.
Chúng ta từng men theo
vết chân của công xã, xuyên qua mọi phố xá ở Paris, bay lên từ bài ca
"Quốc tế", gột sạch từng ngôi làng, góc phố, bến cảng của Âu châu.
Chúng ta từng sử dụng bức
tường nước mắt của thành Jerusalem, ngăn chặn những viên đạn độc ác của tín đồ
Cơ Đốc, tại bờ kênh Suez ta cắm ngọn cờ đào.
Nào nước hồ Thụy Sĩ, ánh
đèn Pisa, Yemen ráng chiều tà, Phnom Penh điện Phật, rồi kia hoa anh đào trên
núi Phú Sĩ, khói bếp thoảng Havana, rượu nho Tây Ban Nha, trong vắt suối ngà
Phi châu...
Tất cả những điều đó đều
chưa từng khiến chúng ta yêu dấu.
Bởi với chúng ta, súng
ống trong tay, trách nhiệm nặng trên đầu.
Biết bao đêm ngày không
ngủ, Nam chinh Bắc chiến, huyết lệ dãi dầu.
Là vậy đấy, đội quân ta
bất khả chiến bại, theo sát mặt trời hồng, thẳng bước tiến mau.
Này nghe: tiếng gọi lớn
của huynh đệ năm châu, như cơn lũ cuồn cuộn vỗ sóng tung ngầu.
Này nhìn: cờ khởi nghĩa
của nô lệ bốn biển, như ngọn lửa của những ánh sao bập bùng, thiêu đốt đồng
bằng biến bãi bể thành nương dâu.
Ôi! Thế giới một màu
hồng! Nhà Trắng chỉ còn dấu chấm câu!
....
Anh Tử thấy hai chúng tôi
nói mãi không thôi, cũng không hiểu chúng tôi nói gì, đợi mãi đâm ra sốt ruột,
liền ngắt lời :" Nói gì thế hở hai anh? Giờ là lúc nào rồi mà vẫn cứ nói
liên mồm thế không biết? Không còn sớm đâu ạ, đi đường nào thì cũng phải xuất phát
thôi, hai anh muốn nói nữa thì ra ngoài rồi hẵng nói, được không?"
Tuyền béo cầm khẩu tiểu
liên đứng dậy, giắt vào lưng bốn năm băng đạn, vẻ mặt kiên nghị, hươ tay chỉ về
phía trước :" Các đồng chí! Thắng lợi ở ngay phía trước, hãy cùng tôi tiến
lên nào!"
Thế rồi, Tuyền béo dẫn
đầu đi trước, Anh Tử đi giữa, tôi đi sau cùng, ba người đi thành một hàng dọc
theo lối đi Anh Tử nói có đứa trẻ chạy qua. Lối đi này hơi dốc lên trên, đi
được hơn trăm mét thì thành bậc thang đi lên, xem ra chúng tôi đã tiến sâu vào
lòng núi Dã Nhân câu.
Đường đi mỗi lúc một hẹp
dần, hơn nữa độ ẩm cũng cao hơn bên dưới, hô hấp không thông, có cảm giác ngột
ngạt như bị chôn sống vậy.
Ba người đi sát vào nhau,
chẳng hiểu vì sao Tuyền béo đi đầu bỗng đứng sựng lại. Cậu ta đột nhiên dừng
bước, khiến Anh Tử đi phía sau không để ý, va luôn vào lưng hắn, ngã ngửa ra
sau, tôi vội đỡ lấy cô nàng, đoạn hỏi Tuyền béo :" Sao thế? Sao đột nhiên
sững lại không đi nữa?"
Tuyền béo quay người nói
lớn :" Quay lại nhanh lên!". Dường như cậu ta trông thấy phía trước
có gì đó đáng sợ lắm, lạc cả giọng, hào tình tráng chí khi nãy giờ đã tan biến
đâu hết.
Tuyền béo hét lên bảo
chúng tôi mau chóng quay người bỏ chạy, tôi bị hai người chặn đằng trước, phạm
vi chiếu sáng của đèn pin lại có hạn, chỉ thấy bên trên bốn năm bậc thang là
một không gian rất lớn, cũng không hiểu rốt cuộc cậu ta đã nhìn thấy thứ gì,
nhưng Tuyền béo đã nói như vậy, chắc chắn có cái lý của cậu ta, nên tôi cũng
lập tức chuẩn bị xoay người bỏ chạy.
Ngay lúc ấy, bỗng tôi cảm
thấy như sau lưng bị mấy chục cây kim thép lạnh toát đâm vào, buốt đến thấu
xương, khắp mình như gặp phải một luồng điện băng giá bắn trúng, toàn thân run
rẩy, không thể khống chế, nhảy vụt một cái lên phía trước, cũng không hiểu lấy
đâu ra sức mạnh lớn thế, đẩy Anh Tử và Tuyền béo ngã bổ về phía trước, lối đi
tối tăm vừa dài vừa hẹp này thoai thoải dốc lên trên, ba người vừa lăn vừa bò
cuối cùng rơi vào một cái hang ở cuối bậc thang.
Tôi bị luồng điện kỳ lạ
giật cho một cái, dòng điện dường như chạy cả sang hai người còn lại, lạnh đến
răng va vào nhau cầm cập, chẳng ai biết rốt cuộc là chuyện gì, muốn mở miệng
nói, nhưng không thể cất giọng lên được, nếu bảo là vô ý giẫm phải dây điện hở,
vậy thì phải tê dại toàn thân, sao lại có cảm giác lạnh buốt từ tận trong xương
tủy ra đến bên ngoài như vậy được?
May nhất là ba khẩu tiểu
liên lên sẵn đạn không bị cướp cò trong lúc hoảng loạn. Chúng tôi nằm sóng soài
dưới đất, đèn pin trong tay vẫn bật sáng, tôi mượn ánh sáng của ba chiếc đèn
pin quan sát, mới biết vì sao Tuyền béo lại quay người hô chạy, hóa ra căn hầm
đá đồ sộ nửa thiên nhiên nửa nhân tạo này, chỗ nào cũng mọc đầy rêu xanh, trên
tường đá và trần hang ẩm ướt là vô số con dơi khổng lồ đang treo ngược mình.
Loài dơi này thân hình lớn hơn rất nhiều so với dơi bình thường vẫn thấy, hai
cánh khép lại treo mình chi chít trên vách đá, bọn chúng bị ba kẻ xâm nhập làm
kinh động, nhao nhao tỉnh giấc, nhe những chiếc răng trắng ởn đầy trong mồm,
nhìn mà rợn tóc gáy.
Phần mặt lũ dơi trông rất
kỳ quái, hai cái tai to hình củ ấu dựng đứng, đầu tròn, mũi cũng tròn, chi
trước rất phát triển, xương khuỷu trên, khuỷu dưới và xương ngón đều rất dài,
nanh nhọn vuốt sắc. Hồi tôi còn làm lính công trình ở Côn Luân đã từng thấy thứ
dơi to như thế, tên khoa học gọi là dơi mồm lá răng sáng, hay còn gọi dơi mặt
lợn, bản tính thích máu tanh, cũng ăn thịt, là loại hung ác nhất hiếm thấy
trong họ nhà dơi, chúng thích sống trong các hang động dưới đất ở đồng cỏ khu
chăn nuôi, ban đêm bay ra hút máu trâu, dê và gia súc khác, đặc biệt là ở thảo
nguyên Ngoại Mông, từng một thời thành họa, mười mấy năm trở lại đây loài động
vật này đã ít thấy hơn nhiều rồi.
Còn tưởng chúng đã tuyệt
chủng, ai ngờ được lại có nhiều dơi mặt lợn thế này coi khu căn cứ ngầm của
quân Quan Đông thành hang ổ của mình, chúng ngày ẩn đêm hiện, lợi dụng cửa
thông gió trong hầm căn cứ làm lối bay ra, đúng là không có sào huyệt nào an
toàn mà thoải mái như nơi này thật.
Có mấy con dơi mặt lợn đã
ở trên vách đá sà xuống, tôi cựa quậy định bò dậy, nhưng tay vừa chống lên đã
trượt oạch một cái ngã nhào, mặt đất toàn là phân dơi và xương động vật, vừa
dính vừa trơn, mùi tanh hôi xộc lên tận mũi. Phân dơi còn được gọi là "dạ
minh sa", vốn là một vị thuốc Bắc rất quý, người thường có được một hai
lạng đã là khó khăn lắm rồi, vậy mà giờ đây thấy thứ của nợ này lại có cảm giác
ghê tởm đến khó tả.
Tôi bỏ ý định bò dậy,
ngoắc ngón tay vào cò súng, giương khẩu tiểu liên về phía bọn dơi mặt lợn đang
bay tới quét một đường, tôi nổ súng, hai người còn lại cũng có phản ứng, ba
khẩu tiểu liên dệt thành lưới đạn, ánh lửa phụt ra nơi nòng súng, ánh sáng lóe
lên trên viên đạn, khiến cả hang đá lúc mờ lúc tỏ, tiếng súng và tiếng tháo
đạn, tiếng vỏ đạn rơi xuống đất hòa quện vào nhau.
Cả nghìn con dơi mặt lợn
đều bị kinh động, loài sinh vật sống trong bóng đêm này sợ nhất lửa và ánh
sáng, ngoài những con bị trúng đạn rơi xuống đất ra, những con còn lại như mây
đen giăng kín, một số bay qua đầu chúng tôi, một số men theo cửa thông gió bay
lên trên ra ngoài.
Súng tiểu liên bắn được
một loáng đã hết sạch đạn, căn bản không kịp nạp thêm, lũ dơi mặt lợn bay phạch
phạch lướt qua người, quần áo chúng tôi đều bị vuốt sắc và răng nhọn của chúng
bấu xé tả tơi, cũng may mọi người đều mặc quần áo dày dặn, tuy bị cứa phải da
thịt mấy nhát, nhưng vết thương cũng không sâu lắm.
Lúc này nỗi sợ trong lòng
lại càng tăng lên gấp bội, tôi sợ mắt bị thương, không dám mở mắt, một tay che
đầu, tay còn lại cầm súng tiểu liên, rồi khua loạn lên không như khua gậy, hai
chân thì cố sống cố chết giãy đạp, đá văng những con dơi mặt lợn đang lao bổ
xuống người mình.
Cũng không biết bao lâu
sau, trong hang dần dần yên ắng trở lại, chắc lũ dơi mặt lợn kia đã bay đi hết
rồi, tôi lần tìm chiếc đèn pin văng trên đất, đang định cất tiếng hỏi bọn Tuyền
béo có bị thương không, đột nhiên trước mặt tối sầm, con dơi mặt lợn to nhất
lẳng lặng áp xuống đầu tôi, có lẽ nó là thủ lĩnh của lũ dơi này, ẩn mình ở nơi
sâu nhất trong hang, hậu phát chế nhân, hai cánh dang rộng, sừng sững như một
bức tường.
Trong tay tôi chỉ có khẩu
súng hết đạn và chiếc đèn pin, khó mà chống đỡ được, con dơi chỉ còn cách tôi
trong gang tấc, cái mặt nó như mặt lợn, thịt nhăn nheo, lông thô cứng, răng
nanh nhọn hoắt đều trông rõ mồn một, tưởng chừng tôi sắp bị con dơi chúa cắn
đến nơi rồi, bên cạnh bỗng vang lên tiếng súng tiểu liên nhả đạn tạch tạch,
loạt đạn ấy găm cả lên mình con dơi mặt lợn, con dơi lớn rơi bịch xuống đất,
chết ngay tức khắc.
Hóa ra Tuyền béo cạnh đó
thấy tình hình khẩn cấp, đã thay băng đạn nổ súng bắn luôn, cứu tôi thoát chết.
Tôi thở phào một hơi, đảo mắt nhìn quanh, ngoài mấy con dơi trúng đạn chưa chết
ngay đang giãy giụa dưới đất ra, thì không còn những con khác nữa.
Trên người tôi bị bấu xé
mấy chỗ, máu tươi đầm đìa, Anh Tử và Tuyền béo cũng bị thương nhẹ, nhưng không
nghiêm trọng. Anh Tử xé mấy miếng vải vụn trên quần áo băng bó cho tôi.
Vết thương trên người đau
kinh khủng, tôi liền chửi rủa liên mồm, bố mày đây năm xưa trên chiến trường,
đánh cái trận ấy chứ, mưa bom bão đạn, da thịt cũng đâu có hề hấn gì, hôm nay
lại bị mấy con súc sinh chúng mày bấu xé cho bị thương nhiều thế này ... Đau
quá!
Tuyền béo hỏi tôi :"
Nhất, mẹ kiếp, vừa nãy tớ bảo bọn cậu quay đầu chạy, sao cậu lại đẩy bọn tớ thế
hả?"
Tôi kể lại một lượt
chuyện vừa nãy, chỉ nói rằng có lẽ lưng chạm phải dây điện hở, nên bị giật, chứ
chẳng dám nói cho bọn họ nghe sự thật, bởi sự việc này ngay cả bản thân tôi
cũng cảm thấy không thể tin nổi. Tôi bảo Anh Tử kiểm tra lưng tôi, xem có vết
cháy xém hay không, Anh Tử vạch áo tôi ra, chiếu đèn pin vào :" Ôi giời mẹ
ơi, anh Nhất, sao lại thế này? Không giống điện giật đâu!"
Thằng béo cũng ngó đầu
lại nhìn một cái :" Cậu bị điện giật đấy hả? Lưng cậu rõ ràng có vết tay
màu đen, ừm ... Bàn tay rất nhỏ, hình như là của trẻ con".
Chết bỏ mẹ gặp phải ma
rồi, chắc là ba bọn tôi bị con tiểu yêu kia đầy vào hang dơi đây? Đừng để ông
gặp nó, ông mà thấy nó, ông lột da nó ra.
Tuyền béo đang nói với
tôi, bỗng chiếc đèn pin trong tay rơi xuống đất :" Ối mẹ ơi, lão Nhất, Anh
Tử, vừa nãy ở kho Gena hai người nói mà tớ không tin, vừa rồi ... tớ cũng thấy
có đứa trẻ chạy qua đây này".
Tôi và Anh Tử vội cầm đèn
pin soi khắp chỗ, ngoài phân và xác dơi ra, lấy đâu ra đứa bé nào.
Tuyền béo chỉ tay lên
trời thề :" Nó vụt qua sau lưng hai người, tổ mẹ nó, tớ nói dối tớ làm
cháu nội cậu, đây... nó chạy vào phía trong này này, tớ nhìn rõ mồn một, con
trai, một thằng oắt con, mặc một bộ xanh, năm sáu tuổi, mặt trắng bệch ... không
giống người sống".
Ngoài tôi ra, cả hai
người họ đều thấy có trẻ con trong căn cứ ngầm này, sao mỗi tôi là chưa trông
thấy? Nhưng dấu tay trẻ con trên lưng tôi, thực không thể không làm người ta
nổi da gà. Tuyền béo bảo thấy đứa bé trai, Anh Tử lại bảo trông thấy đứa bé gái
trong kho Gena, rốt cuộc là ai nhìn lầm? Đây là nhà trẻ mở dưới căn cứ ngầm này
chắc?
Chúng tôi chỉnh đốn một
chút, đứng dậy, thay băng đạn mới cho súng tiểu liên, Tuyền béo chỉ vào một bức
tường trong hầm đá :" Thằng ranh con ấy, nó chạy vào trong này này".
Nói đoạn, dùng báng súng cạo rêu mốc và phân dơi trên tường, bên trong lộ ra
nửa cánh cửa sắt, bên trên gỉ hoen gỉ hoét, đồng thời có bốn chữ lớn viết bằng
sơn dầu màu đỏ sẫm rất bắt mắt :" Cấm chỉ đứng vào" 2
"Cấm ... chỉ... đứng
... vào", Tuyền béo chỉ tay vào dòng chữ trên cửa sắt đọc một lượt. "
Có hiểu là ý gì không? Câu này tức là bảo không được đứng mà bước vào, muốn vào
phải nằm mà vào, chỗ này chắc chắn là nhà xác, hoặc không cũng là lò thiêu
xác".
Anh Tử nghe Tuyền béo
giải thích, liền hỏi :" Gì cơ? Nằm mà vào?Hóa ra đây là phòng chứa người
chết à? Nghe các ông các bác có tuổi trong làng kể bọn Nhật có xây cái lò thiêu
xác gì đấy, cánh cửa này chín chín phần trăm là cửa lò thiêu rồi".
Tôi dùng đốt ngón tay gõ
vài cái vào cửa sắt, cảm giác cửa rất nặng nề :" Béo này, cậu đừng có
không hiểu còn bày đặt ta đây, nghĩa bốn chữ này đại khái là cấm vào thôi. Tuy
tớ không biết tiếng Nhật, nhưng các thiết bị quân sự tớ quen thuộc lắm, hai
người nhìn cái cửa này nhé, phía dưới có một cái rãnh rất to, bên trong có ren
hình lục giác, cái này chắc là loại có đĩa quay, lỗ phía dưới cửa là rãnh thải
khí, đây chắc là loại cửa chống lọt khí, khi đóng cửa sắt này lại, lỗ thải khí
sẽ tự động hút không khí trong phòng ra, bên trong sẽ hình thành môi trường bán
chân không, là nơi cất trữ các đồ quý giá, trong căn cứ quân sự của quân đội
chúng ta cũng có những nơi thế này".
Đĩa quay của cánh cửa đã
bị tháo ra từ lâu rồi, nếu không có công cụ phù hợp, muốn mở được cánh cửa này
ra còn khó hơn lên trời. Còn chuyện trong phòng kín này cất giấu những gì, điều
này thì rất khó nói, có thể là vũ khí vi khuẩn, vũ khí hóa học gì đó, khả năng
này rất lớn, để đề phòng sự cố vũ khí hóa học rò rỉ, thông thường đều cất giấu
trong loại phòng kín như vậy.
Vũ khí hóa học và vũ khí
vi khuẩn của quân Nhật, tuy xưa nay tiếng xấu đồn xa, nhưng uy lực thì không
thể xem thường, cho dù để trong môi trường tự nhiên, cách biệt nhiều năm, vẫn
có thể khiến người ta mất mạng như thường. Tôi hoàn toàn không có hứng thú với
những thứ sau cánh cửa này, xem bản đồ, nhanh chóng tìm lối thoát mới là việc
chính lúc này.
Tuyền béo thì vẫn hết sức
hiếu kỳ với cái cánh cửa, đặc biệt là sau khi nghe tôi nói có thể bên trong cất
giấu những thứ quý giá, cậu ta lại càng ngứa ngáy khó chịu, cùng với Anh Tử lúc
thì gõ mấy phát, lúc thì đá vài cái lên cánh cửa, có vẻ như không vào trong xem
thử thì không ngừng vậy, hai người bọn họ còn làu bàu :" Bên trong không
biết có thứ gì thế nhỉ? Giời ơi, không nhìn được thật là khó chịu".
Tôi không để ý đến bọn
họ, tự mình đối chiếu vị trí lối ra trên bản đồ, định tìm lối ra trong hang đá
từng bị lũ dơi mặt lợn chiếm đóng này, dựa theo bản đồ thì trong hang đá này,
chắc phải có một con đường nhỏ dẫn đến lối thoát ở đỉnh núi.
Nhưng tìm đi dò lại, chỉ
phát hiện một đầu của hang động có một đống đá núi, đúng như dự đoán trước đó,
khi quân Nhật rút lui đã cho nổ sập lối ra của căn cứ ngầm.
Vị trí hiện giờ, trên đầu
đại khái chính là chỗ chúng tôi dựng lều trên sườn núi Dã Nhân câu, soi đèn pin
có thể thấy mấy miệng lỗ lớn ở trên trần, những lỗ thông gió cỡ lớn này, không
phải thẳng tắp từ trên xuống dưới, để đề phòng kẻ địch tấn công từ bên ngoài
vào, các lỗ thông gió đều xây theo đường gấp khúc, lũ dơi chính là thông qua
những lỗ này để bay ra ngoài. Tiếc rằng chúng tôi không có cánh, đứng dưới
ngước mắt lên nhìn khan, chứ không lên được, cho dù có lên được cũng chẳng ích
gì, cơ thể người lớn vừa hay to hơn cái lỗ một vòng. Bọn Nhật này thật quá tinh
quái, sợ kẻ địch theo lỗ thông gió chui vào căn cứ, nên cố ý làm những cái lỗ
này nói to thì chẳng to, nói nhỏ cũng không nhỏ.
Tôi gọi Anh Tử và Tuyền
béo lại, bảo với bọn họ hết lối ra rồi, giờ hoặc tiếp tục đi tìm lối ra khác,
hoặc trực tiếp cầm súng tiểu liên quay lại mộ cổ, xử lý con xích hống, không
thể lề mề trong này mãi được. Trên người không mang lương khô, cũng không tìm
thấy thực phẩm bọn Nhật để lại, cứ đi lung tung thế này, đến khi đói không lê
người đi được thì chỉ có nước đợi chết.
Anh Tử đá chân vào xác
con dơi chúa dưới đất :" Nếu hết cách, ăn thứ này cũng được, toàn thịt cả
ấy mà".
Tuyền béo lắc đầu lia lịa
:" Muốn ăn các cậu đi mà ăn, tớ chết đói cũng không ăn đâu, buồn nôn bỏ
mẹ, tớ đoán cái thứ thịt ấy không thối thì cũng chua loét, không ngon được đâu.
À, Nhất này, cậu nói thử xem, sau cánh cửa sắt này liệu có đường ra không? Chắc
cũng có khả năng này chứ, mình nghĩ cách mở ra xem sao!"
Tôi nghĩ một lúc rồi nói
:" Đúng là cũng có khả năng này, vì trên bản đồ không hề có ghi chú gì về
căn phòng kín này, chỉ vẽ một lối đi tới cửa ra ngoài, có điều rất khó định vị
chính xác, không thể khẳng định sau cánh cửa là lối đi. Thực ra, muốn mở cánh
cửa này cũng không khó, trong kho Gena tớ thấy có công cụ, bọn mình có thể tìm
được một cái cờ lê lục giác đúng cỡ".
Anh Tử đứng bên cạnh bảo
:" Quay lại cái kho Gena ấy tiện tìm luôn mấy bộ quần áo mà thay, em thấy
người bọn mình bẩn quá, cứ như cả năm trời không tắm ấy".
Nghe Anh Tử nhắc, chúng
tôi mới để ý, cả ba đều bẩn thỉu nhếch nhác, khắp quần áo đầu tóc, trên mặt,
trên tay đều dính nhớp nháp những phân dơi, máu, bùn, mùi hôi nồng nặc
.
--------------------------------
1 Trăm bước xuyên lá:
tích thời Xuân Thu, Dưỡng Do Cơ người nước Sở giỏi bắn tên, có thể bắn trúng lá
dương liễu ngoài cự ly trăm bước. 2 Đây là chữ Kanji, nghĩa là CẤM VÀO.
Nguồn tusach.mobi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét