Chương 20:
Sau vụ bị chết hụt, thái hậu Ngọc Vạn càng trở nên trầm tư đến
lạ lùng. Không phải là do thái hậu sợ hãi mà chính vì sự xáo trộn nội tâm quá
mãnh liệt trong bà. Tên thích khách đã gọi ta là con ác phụ ư? Đâu có sai chút
nào? Nó cũng nhận xét khách quan mà chính xác đó chứ! Một người đàn bà lúc nào
cũng tìm cách đánh lừa chồng, lúc nào cũng rắp tâm chực cướp cơ nghiệp của
chính con mình như ta thì nó gọi là ác phụ có gì là quá đáng đâu! Ta dấn thân
hành động vì động lực đầu tiên là mưu đem lại sự cường thịnh, nguồn hạnh phúc
cho dân tộc ta mà trước hết là cho những người thân yêu của ta.
Thế mà bây
giờ... ta đang làm gì? Ta đang làm gì? Con hổ, con lang không bao giờ ăn thịt
con nó, tại sao ta phải đối xử không xứng đáng với những đứa con vô tội của ta
như thế?Không! Ta phải ngưng ngay những hành động tội lỗi của một người mẹ! Nhưng dễ gì ta ngưng hành động được? Phản bội lời hứa với cha ta ư? Phản bội lời thề nguyện với tổ quốc, dân tộc ta ư? Thế thì ta còn xứng đáng làm con người đội trời đạp đất không? Không thể đổ lỗi cho ai được đâu! Chính ta! Chính ta đã tự nguyện bước vào cái tròng này! Không thể đổ lỗi cho ai được đâu! Nhưng, làm sao ta phải tự tay mình cắt thịt bên này của ta để đắp lên thịt bên kia mãi như thế này? Ta điên mất thôi! Ta điên mất thôi! Chắc kiếp trước ta đã phạm tội gì lớn lắm nên kiếp này ta phải trả. Có cha mẹ ta không được gần gũi phụng thờ, có người yêu thương ta không được chung sống? Có chồng tốt ta không được ăn ở trọn nghĩa trọn tình, có con cái ngoan ta không được đem lòng mẹ bẩm sinh ra đùm bọc? Ta có đáng tiếp tục sống trên đời này nữa không đây?
Thế rồi bao nhiêu ngày thái hậu cứ ở miết trong cung. Chỉ có một người hầu gái lo cơm nước của bà được vào ra liên lạc. Người hầu cứ bảo thái hậu khó ở trong người, không muốn gặp ai. Kể cả khi nhà vua đến vấn an bà cũng không chịu tiếp kiến nữa. Biết tính khí thái hậu như vậy, không ai còn dám làm phiền bà.
Rồi một hôm, khi mặt trời đã gần đứng bóng, người ta vẫn chưa thấy người hầu của thái hậu ra lấy cơm nước. Mọi người nghi ngại lo lắng, bèn báo với viên quan có trách nhiệm. Nhà vua cùng hoàng thân Outey nghe tin hoảng hốt đến ngay cung thái hậu để vấn an. Khi nhà vua đến nơi mới rõ cả thái hậu lẫn người hầu gái đều bặt tăm hơi. Triều đình lập tức phân bủa người ra đi tìm khắp nơi. Nhưng ngày này qua ngày khác, vẫn chỉ hoài công vô ích. Một tháng, hai tháng trôi qua vẫn chẳng tìm ra chút manh mối nào. Dư luận dân chúng xôn xao là thái hậu đã bị bọn bất hảo bắt cóc đem thủ tiêu mất rồi.
Nhận được tin chẳng lành, viên đặc sứ Đại Việt không dám chậm trễ, lập tức phi báo về Thuận Hóa. Chúa Sãi bấy giờ đã 72 tuổi, đang dưỡng bệnh tại Phúc Yên. (Chúa đã dời thủ phủ về Phúc Yên, một làng thuộc huyện Quảng Điền từ năm Bính Dần 1626, đây là thủ phủ thứ tư của các chúa Nguyễn). Nghe báo cáo xong, chúa khóc rống lên:
- Trời ơi, không ngờ con ta lại bạc phước đến thế! Công nghiệp của con to lớn dường bao! Tuổi con còn thanh xuân, sao trời không cho con sống yên một thời gian nữa để hưởng vinh quang, đau đớn thay!
Liền đó, chúa cho triệu thế tử Nguyễn Phúc Lan vào dạy:
- Em con là Ngọc Vạn đã hi sinh đem thân gái ra đi ngàn dặm cũng chỉ vì việc nước. Hiện tại thân phận nó ra sao ta cũng không biết nữa, thật tội nghiệp. Năm nay hình như vận hạn ta không được tốt. Cây cột vững chắc nhất để chống Đàng Ngoài là Lộc Khê hầu (Đào Duy Từ) đã đổ. Rồi đứa con cưng quí của ta, ta vẫn nghĩ nó là cánh tay Nam Tiến thần diệu nhất mà trời ban cho ta bây giờ lại mất tích! Ta đã già yếu rồi, tất nhiên những khó khăn sắp tới sẽ đổ dồn lên đôi vai con. Con phải cố gắng hết mình mới kham nổi. Lâu nay ta không hề đả động gì đến việc mở đất về phía Chân Lạp là vì ta còn nặng tình nghĩa nhạc gia chàng rể. Nhưng đến đời con thì mọi chuyện khác hẳn rồi. Con cứ lấy việc họ Trịnh mà suy thì biết. Ngọc Vạn đã dọn quang một quãng đường thiên lý cho chúng ta đi, con phải lưu tâm đến chuyện đó đừng để lỡ cơ hội, đừng để phụ lòng nó. Công của Ngọc Vạn phải nói là một đệ nhất kỳ công, trong hàng nữ lưu kim cổ khó ai sánh kịp. Cả một miền Thủy Chân Lạp giờ đây không nơi nào là không có người Việt ta sinh sống, đó là cái nền tảng vững chắc mà con phải tận dụng. Ta chỉ gợi ý như thế, chứ sự khôn ngoan linh hoạt để ứng phó với đời ta nghĩ con đã có thừa!
Thế tử Nguyễn Phúc Lan thưa:
- Con xin tuân lời phụ vương dạy bảo.
Chúa Sãi lại tiếp:
- Còn nữa, cuộc hành trình của Ngọc Vạn em con, chắc con cũng thấy, thật là muôn vàn khó khăn. Nó đã dọn thẳng lối vào chính diện thượng tầng quốc gia Chân Lạp. Ngoài nó ra, ta nghĩ rằng không ai làm được công việc đó! Việc gấp trước mắt bây giờ là con phải đốc thúc người mình giúp triều đình Chân Lạp tìm kiếm cho ra tông tích Ngọc Vạn. Nó là em gái của con, con phải hết lòng mới được. Chớ coi thường những điều ta dặn ấy! Còn về mặt hạ tầng, nếu không có sự hỗ trợ đắc lực của một lực lượng an ninh đặc biệt, dân ta dễ gì len lỏi vào giữa chốn rừng thiêng nước độc và bọn tạp dân trăm nước ấy! Đó chính là công lao của năm kiếm khách anh hùng trong "đội bảo hộ lưu dân Đại Việt" mà người đầu lĩnh là Trần Đình Huy. Họ đã âm thầm hành động trong bóng tối để đẩy lui các thế lực cản bước tiến của dân tộc ta, tạo ra những huyền thoại làm cho người Chân Lạp cũng như các sắc dân khác sợ hãi mà phải nhường nhịn dân ta. Ta muốn con sau này phải tưởng thưởng xứng đáng cho những người ấy. Riêng Trần Đình Huy, ta đã định phong tước An quốc hầu để đền đáp và nêu cao công lao an quốc cho ông ta. Con phải nhớ thay ta thực hiện việc ấy!
- Con xin hứa sẽ làm tròn những gì phụ vương dạy bảo!
- Tốt lắm, ta tin tưởng con sẽ làm rạng rỡ thêm công nghiệp của cha ông và nhất là không để cho sự hi sinh lớn lao cả đời của em con trở thành vô ích!
Nói đến đây thì chúa tỏ vẻ mệt lắm, muốn ngất. Thế tử Nguyễn Phúc Lan vội bảo ngự y vào xem bệnh cho chúa.
Chúa Sãi đã khó nhọc giúp cha mình tạo dựng cơ nghiệp từ khi còn trẻ. Chúa đã từng làm trấn thủ Quảng
Thế tử Nguyễn Phúc Lan đăng quang kế vị xưng hiệu Công Thượng vương tục gọi là chúa Thượng vào năm Ất Hợi (1635).
***
Biến cố thái hậu Ngọc Vạn bị mất tích đã làm chấn động cả nước Chân Lạp lẫn xứ Đàng Trong. Mặc dầu triều đình Chân Lạp không chính thức công bố ra, nhưng việc người của triều đình bủa đi các nơi tìm kiếm đã làm cho cả những người ở tận hang cùng ngõ cụt cũng có thể biết chuyện. Thiên hạ bàn tán xôn xao, phần đông đều than thở thương tiếc cho một người đàn bà cành vàng lá ngọc, sắc nước hương trời mà chịu mang phận bạc. Tất nhiên cũng không tránh khỏi một số người thù địch lại lấy việc đó làm mừng, họ cho là trời cao có mắt, báo ứng phân minh...
Sau nửa năm tìm kiếm không kết quả, vua Chau Ponhea To bèn tổ chức lễ phát tang cho thái hậu. Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan bèn cử sứ thần đại diện sang Chân Lạp điếu tang. Đồng thời chúa Thượng cũng cho hoàng tộc lập trai đàn cầu siêu thất tuần cho người vắn số ở Thuận Hóa.
Chương 21:
Một buổi trưa hè kia, có năm người đàn ông đều khoảng tuổi
ngoài ba mươi, ăn mặc theo lối nhà buôn dừng gót bên một dòng suối trong vùng
rừng núi Mỗi Xuy. Sau khi tắm giặt xong xuôi, năm chàng ngồi quanh dưới một
tàng cây, đem lương khô ra ăn. Trong số, có một chàng cao lớn nhất bọn chỉ ăn
sơ sài, dáng bộ uể oải, vẻ mặt trông buồn tê dại, chốc chốc lại thở dài.
- Anh cả à, dù sao chuyện cũng đã xảy ra rồi, anh phải làm sao giảm bớt phiền não, giữ gìn sức khỏe để chờ dịp ra tay trả thù chứ cứ lười ăn biếng ngủ âu sầu như thế phỏng có lợi ích gì?
Người vừa nói là Nguyễn Bật, anh nhìn mọi người mà lắc đầu. Phạm Cống đập tay vào chuôi kiếm có vẻ tức tối:
- Nghĩ mà tức thật, chúng ta từng hành động xuất quỉ nhập thần bao phen làm cho các sắc dân khác phải kiêng dè nể sợ, thế mà bọn súc sanh này dám qua mặt bắt cóc thái hậu lúc nào không hay mới bỉ mặt mình chứ!
Chàng trai trẻ nhất bọn là Lê Xướng cười mà nói:
- Thì bây giờ cứ tiếp tục dò tìm cho ra manh mối bọn nào làm cái việc đại nghịch đại ác đó để trừng trị thôi, tức làm chi cho mệt!
Rồi Lê Xướng ngâm giọng nho nhỏ ngụ ý đùa nghịch:
"Em về cốc tuyệt tình xưa
Bỏ con trăng thuở mới vừa lên ngôi
Cành hoa ngọc nữ phai rồi
Tình yêu dưới cổ mộ thôi trả người!" (L T N).
Ngâm xong Lê Xướng lại cười:
- Người xưa nói "Bao nhiêu chí lớn trong thiên hạ, Gom lại không đầy mắt mỹ nhân!" thật không ngoa chút nào! Anh cả, không lẽ chưa chi mà anh đã ngã lòng! Người anh vậy mà tinh thần bạc nhược đến thế sao?
Đình Huy thở dài:
- Các bạn biết, ta chỉ vì quá trân trọng cái tình tri kỷ của nàng, đành hi sinh tất cả để lặn lội tới xứ này, nhắm mục đích giúp cho nàng một tay trong sứ mệnh phú quốc cường dân cho trọn tình. Nay chí nguyện chưa thành mà nàng đã bỏ đi như thế, ta không buồn sao được! Cái câu tài hoa bạc mệnh thật chẳng khác chi một lời nguyền độc ác!
Lê Xướng lại cười:
- Người ta nói chung giữa đời vậy chứ có nhắm vào ai đâu mà bảo là lời nguyền độc ác! Anh cứ nghĩ vu vơ chi cho thêm mệt! Cứ giả lơ đi, dưỡng sức mà tìm kẻ thù có hơn không?
Phạm Quyền nói:
- Anh cả này, em rất thông cảm nỗi khổ của anh, các bạn mình họ chưa lâm vào hoàn cảnh đó nên không hiểu được đâu. Nếu rơi vào trường hợp em, em có thể khóc nữa là đàng khác!
Lê Xướng lại cười to thêm:
- Thôi thì các anh cứ ngồi đó mà sầu bi, còn ai muốn đi dọc suối một vòng chơi thì theo tôi!
Phạm Cống nói:
- Tôi đi với chú.
Thế là hai người kiếm cầm tay, men theo bờ suối tiến về phía thượng nguồn. Đi được một quãng khá xa, Lê Xướng bỗng dừng chân, đứng lặng giây lát rồi nói:
- Huynh nghe gì không? Hình như có tiếng động khác lạ!
- Ừ, hình như có tiếng đập giặt áo quần thì phải.
- Chẳng lẽ chốn này lại có người ở?
- Cũng có thể có một bọn lục lâm nào trú ngụ tại đây không chừng. Ta phải đi dè chừng một tí để đề phòng!
Hai người cứ nhẹ bước dè dặt tiến về phía có tiếng động lạ. Tiếng đập bình bịch vẫn tiếp tục vang đều, rõ ràng là có người đang giặt quần áo. Bỗng nhiên Lê Xướng lại dừng chân, vừa ra dấu hiệu im lặng, vừa chỉ tay về phía một gốc cây lớn, nói nhỏ:
- Có người nào mặc áo nâu kia kìa! Trời ơi, một cô gái tuyệt đẹp... à không phải, một ni cô đang đứng dựa gốc cây kia kìa!
Phạm Cống nhìn theo hướng ngón tay chỉ của Lê Xướng:
- Trời ơi, một ni cô thật! Ni cô còn quá trẻ... mà sao trông đẹp và buồn đến thế nhỉ?
Lê Xướng ỡm ờ:
- Chắc ni cô bị bọn thảo khấu nào bắt đem về đây chứ gì? Mình phải ra tay cứu vớt rồi đó huynh!
Rồi chàng ngâm lên nho nhỏ:
"Tới đây thấy cảnh thấy người,
Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng phàm!"
- Ngũ đệ cũng có tài ứng khẩu đấy nhỉ?
- Đâu có, thơ của một vị vua nào đó mà đệ quên mất tên rồi đấy!
Tiếng đập áo quần vẫn tiếp tục vang đều như điểm nhịp cho dòng nhạc suối chảy rù rì róc rách.
- Ni cô không phải là người đang giặt đồ, vậy là còn có người nào khác ở đây nữa, mình cứ đi tới tiếp xem sao!
Hai người tiếp tục nhẹ bước tiến về phía có tiếng động...
- A...a...i...i...! A...a...i...i...!
Hai tiếng thét thất thanh của đàn bà vang lên liên tiếp. Hai người đang giặt đồ hoảng hốt buông cả chày đập làm tung rơi xuống nước một số áo quần trôi theo dòng đang chảy.
- Đừng sợ! Đừng sợ! Chúng tôi là người lương thiện!
Hai người đàn ông vừa nói vừa cúi xuống suối chặn nhặt những chiếc áo quần đang trôi. Hai người giặt đồ bấy giờ mới định thần lấy bình tĩnh trở lại. Nhìn ra, cả hai người một già một trẻ đều mặc đồ nâu tu sĩ. Người già có lẽ trên năm mươi và người trẻ thì mới cỡ đôi mươi. Người đàn bà già giọng hơi ngọng nghịu nói:
- A Di Đà Phật, cám ơn hai ông! Chẳng hay hai ông từ đâu đến đây? Có việc gì?
- Dạ thưa, chúng tôi là thương khách, trên đường đi ghé qua suối thấy suối đẹp nên định dạo một vòng cho biết. Chúng tôi xin lỗi đã làm cho quí ni cô sợ hãi. Chúng tôi cũng xin lỗi tò mò một chút, vì sao quí ni cô lại ở chốn này?
Bà vãi già chỉ tay lên triền dốc trả lời:
- Thưa, chùa chúng tôi ở gần đây thôi!
Hai người khách nhìn lên theo tay chỉ của bà vãi, họ chỉ thấy thấp thoáng một góc mái ngói đỏ có đà đuôi con rồng cong vút theo kiểu Trung Hoa lộ ra giữa đám cây rừng um tùm.
Phạm Cống hỏi:
- Dạ thưa, tôi hỏi có khi không phải phép, ai đã dựng nên ngôi chùa này? Chùa nằm ở một nơi hẻo lánh nguy hiểm giữa rừng sâu, sao quí vị lại dám ở tu hành? Làm sao có khách thập phương dám đến hành hương?
Bà vãi già đáp:
- Xin thưa, chùa này do công đức của viên ngoại Từ Công xây dựng lên hơn mười năm rồi. Vị trụ trì chùa này là sư bà Thích Nữ Diệu Hạnh, con gái của viên ngoại. Viên ngoại ngày xưa là một thương gia danh tiếng ở Phúc Kiến. Vì lẽ gì viên ngoại lại xây dựng chùa ở đây thì chúng tôi không được biết. Chỉ biết rằng tất cả mọi phương tiện để sinh hoạt ở đây đều do viên ngoại cung ứng hết thảy. Hàng năm, chính viên ngoại hoặc con trai của người đến đây hai lần, vào đầu mùa xuân và đầu mùa thu, mang theo lương thực và đồ dùng cho toàn thể mọi người trong chùa. Tuy là chỗ xa xôi hẻo lánh nhưng được cái thanh tịnh và cách biệt với thế giới bên ngoài nên mọi người dễ tập trung tinh thần để tu học. Chùa rất ít khi có khách hành hương, năm ba tháng họa hoằn mới có người tìm trầm, tìm mật ong hay khách thương ghé lại.
- Thế quí ni cô không sợ hổ báo hoặc các giống thú độc làm hại à?
- Thưa không, đã thành tâm quyết chí tu hành thì nếu có việc rủi xảy ra cứ coi như ta thực hiện hạnh bố thí cũng xong. Nhưng nhờ ơn Phật tổ gia hộ, từ trước tới nay ở đây chưa hề có việc rủi ro xảy ra.
Phạm Cống chỉ về phía ni cô trẻ đang cắm cúi làm việc mà hỏi:
- Vị ni cô này chắc mới tu? Trong chùa chắc đông người lắm nhỉ?
- Thưa, cũng không đông lắm, trước đây chỉ có mười người cả thảy. Mới đây có thêm hai nữ tu trẻ nữa, mà đây là một - bà vãi già chỉ tay sang ni cô trẻ - mới đến chùa chừng một năm.
Phạm Cống và Lê Xướng đưa mắt nhìn nhau như muốn trao đổi một ý nghĩ nào đó. Phạm Cống lại nói:
- Hèn gì, khi nãy chúng tôi có thấy một vị ni cô trẻ khác rất đẹp đứng ở dưới gốc cây kia. Quí vị ấy chắc phải do ai giới thiệu mới được đưa đến tu ở đây chứ?
Nghe hỏi, bà vãi già hình như hơi chột dạ, nói lãng:
- Thưa, tôi cũng không rõ chuyện đó lắm. Chừng nào quí khách rảnh rỗi xin mời lên chùa viếng cảnh, giờ chúng tôi phải giặt cho kịp để còn làm việc khác.
Hai người khách buôn thấy thế chỉ nói vài câu vu vơ nữa rồi cáo lui.
Trên đường trở lại chỗ cũ, Lê Xướng nói:
- Đệ nghi quá Phạm huynh à! Biết đâu hai vị nữ tu này chính là thái hậu Ngọc Vạn và người hầu?
- Có lý lắm chứ! Cứ về báo cho đại huynh biết xem sao!
Vừa về tới chỗ nghỉ, Lê Xướng liền hớn hở nói với Đình Huy:
- Anh cả thưởng công cho tụi em đi nhé! Tụi em đã tìm ra thái hậu cho anh rồi đấy!
Mọi người ngạc nhiên hỏi dồn:
- Có gì lạ nói rõ cho anh em nghe coi, ngũ đệ!
Hai người bèn thuật lại đầu đuôi những việc mắt thấy tai nghe vừa rồi. Đình Huy nghe qua sáng mắt lên:
- Hai người nữ còn trẻ mới đến tu chừng một năm thôi? Một ni cô trông rất đẹp và rất buồn? Không lẽ...
Phạm Quyền nói:
- Một nhóm đàn bà mà dám đến tu ở vùng thâm sơn cùng cốc như thế này cũng thật là chuyện thế gian hi hữu!
Nguyễn Bật đề nghị:
- Vậy tất cả chúng ta hãy làm khách hành hương đến chùa, trước là ngoạn cảnh, sau là thăm dò xem chuyện hư thực ra sao, có phải không anh cả? Biết đâu vị ni cô rất đẹp và rất buồn đó lại đúng là thái hậu Ngọc Vạn?
- Phải đấy anh cả, nhưng chuẩn bị đi ngay bây giờ à? - Phạm Quyền hỏi.
Đình Huy nói:
- Ừ, chuẩn bị đi càng sớm càng tốt!
Nguyễn Bật xua tay:
- Làm gì nôn nóng thế anh cả? Bây giờ đã chiều, chúng ta đến đó sẽ làm phiền cho chùa thôi. Người ta sẽ nghi ngờ lo sợ, không tiện đâu. Họ lầm tưởng mình là một bọn cướp giả dạng không chừng. Theo tôi nghĩ, đêm nay chúng ta hãy nghỉ lại chỗ này, mùa hè ít có vắt và muỗi thì sợ gì chứ! Cứ ngủ cho ngon rồi sáng mai lên viếng chùa cũng chẳng muộn!
Thế là mọi người đồng ý với nhau dọn chỗ để nghỉ.
Đêm đó, bốn chàng đều nằm ngủ ngon lành. Chỉ riêng Đình Huy cứ ngồi dựa gốc cây băn khoăn mãi. Bao nhiêu câu hỏi cứ dồn dập hiện lên trong đầu óc chàng. Tin này có đúng không, hay là hai người bạn đặt chuyện để trêu chàng? Không, họ không thể tàn nhẫn đến thế. Bạn bè đâu có thể khuấy vào chỗ đau của nhau? Mà nếu tin ấy đúng, vị nữ tu sĩ kia có phải là Ngọc Vạn không? Đây là một ngôi chùa của người Hoa ư? Họ có liên hệ gì đến bọn người đột nhập cung thất định ám hại thái hậu trước đây không? Có khi nào đó là sào huyệt của một lũ cướp Tàu trá hình đã bắt thái hậu Ngọc Vạn đem về đây? Chứ chẳng lẽ tự nhiên Ngọc Vạn lại bỏ cung vàng điện ngọc tìm đến chốn thâm sơn cùng cốc này mà tu hành? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy nàng? Dù sao thì cũng còn chút hi vọng trong lòng...
Đình Huy đang miên man suy nghĩ bỗng nghe tiếng động khẽ bên mình. Chàng quay lại và ngạc nhiên hết sức khi thấy công nữ Ngọc Vạn đẹp như tiên giáng sừng sững đứng đó tự bao giờ...
- Anh cả à, dù sao chuyện cũng đã xảy ra rồi, anh phải làm sao giảm bớt phiền não, giữ gìn sức khỏe để chờ dịp ra tay trả thù chứ cứ lười ăn biếng ngủ âu sầu như thế phỏng có lợi ích gì?
Người vừa nói là Nguyễn Bật, anh nhìn mọi người mà lắc đầu. Phạm Cống đập tay vào chuôi kiếm có vẻ tức tối:
- Nghĩ mà tức thật, chúng ta từng hành động xuất quỉ nhập thần bao phen làm cho các sắc dân khác phải kiêng dè nể sợ, thế mà bọn súc sanh này dám qua mặt bắt cóc thái hậu lúc nào không hay mới bỉ mặt mình chứ!
Chàng trai trẻ nhất bọn là Lê Xướng cười mà nói:
- Thì bây giờ cứ tiếp tục dò tìm cho ra manh mối bọn nào làm cái việc đại nghịch đại ác đó để trừng trị thôi, tức làm chi cho mệt!
Rồi Lê Xướng ngâm giọng nho nhỏ ngụ ý đùa nghịch:
"Em về cốc tuyệt tình xưa
Bỏ con trăng thuở mới vừa lên ngôi
Cành hoa ngọc nữ phai rồi
Tình yêu dưới cổ mộ thôi trả người!" (L T N).
Ngâm xong Lê Xướng lại cười:
- Người xưa nói "Bao nhiêu chí lớn trong thiên hạ, Gom lại không đầy mắt mỹ nhân!" thật không ngoa chút nào! Anh cả, không lẽ chưa chi mà anh đã ngã lòng! Người anh vậy mà tinh thần bạc nhược đến thế sao?
Đình Huy thở dài:
- Các bạn biết, ta chỉ vì quá trân trọng cái tình tri kỷ của nàng, đành hi sinh tất cả để lặn lội tới xứ này, nhắm mục đích giúp cho nàng một tay trong sứ mệnh phú quốc cường dân cho trọn tình. Nay chí nguyện chưa thành mà nàng đã bỏ đi như thế, ta không buồn sao được! Cái câu tài hoa bạc mệnh thật chẳng khác chi một lời nguyền độc ác!
Lê Xướng lại cười:
- Người ta nói chung giữa đời vậy chứ có nhắm vào ai đâu mà bảo là lời nguyền độc ác! Anh cứ nghĩ vu vơ chi cho thêm mệt! Cứ giả lơ đi, dưỡng sức mà tìm kẻ thù có hơn không?
Phạm Quyền nói:
- Anh cả này, em rất thông cảm nỗi khổ của anh, các bạn mình họ chưa lâm vào hoàn cảnh đó nên không hiểu được đâu. Nếu rơi vào trường hợp em, em có thể khóc nữa là đàng khác!
Lê Xướng lại cười to thêm:
- Thôi thì các anh cứ ngồi đó mà sầu bi, còn ai muốn đi dọc suối một vòng chơi thì theo tôi!
Phạm Cống nói:
- Tôi đi với chú.
Thế là hai người kiếm cầm tay, men theo bờ suối tiến về phía thượng nguồn. Đi được một quãng khá xa, Lê Xướng bỗng dừng chân, đứng lặng giây lát rồi nói:
- Huynh nghe gì không? Hình như có tiếng động khác lạ!
- Ừ, hình như có tiếng đập giặt áo quần thì phải.
- Chẳng lẽ chốn này lại có người ở?
- Cũng có thể có một bọn lục lâm nào trú ngụ tại đây không chừng. Ta phải đi dè chừng một tí để đề phòng!
Hai người cứ nhẹ bước dè dặt tiến về phía có tiếng động lạ. Tiếng đập bình bịch vẫn tiếp tục vang đều, rõ ràng là có người đang giặt quần áo. Bỗng nhiên Lê Xướng lại dừng chân, vừa ra dấu hiệu im lặng, vừa chỉ tay về phía một gốc cây lớn, nói nhỏ:
- Có người nào mặc áo nâu kia kìa! Trời ơi, một cô gái tuyệt đẹp... à không phải, một ni cô đang đứng dựa gốc cây kia kìa!
Phạm Cống nhìn theo hướng ngón tay chỉ của Lê Xướng:
- Trời ơi, một ni cô thật! Ni cô còn quá trẻ... mà sao trông đẹp và buồn đến thế nhỉ?
Lê Xướng ỡm ờ:
- Chắc ni cô bị bọn thảo khấu nào bắt đem về đây chứ gì? Mình phải ra tay cứu vớt rồi đó huynh!
Rồi chàng ngâm lên nho nhỏ:
"Tới đây thấy cảnh thấy người,
Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng phàm!"
- Ngũ đệ cũng có tài ứng khẩu đấy nhỉ?
- Đâu có, thơ của một vị vua nào đó mà đệ quên mất tên rồi đấy!
Tiếng đập áo quần vẫn tiếp tục vang đều như điểm nhịp cho dòng nhạc suối chảy rù rì róc rách.
- Ni cô không phải là người đang giặt đồ, vậy là còn có người nào khác ở đây nữa, mình cứ đi tới tiếp xem sao!
Hai người tiếp tục nhẹ bước tiến về phía có tiếng động...
- A...a...i...i...! A...a...i...i...!
Hai tiếng thét thất thanh của đàn bà vang lên liên tiếp. Hai người đang giặt đồ hoảng hốt buông cả chày đập làm tung rơi xuống nước một số áo quần trôi theo dòng đang chảy.
- Đừng sợ! Đừng sợ! Chúng tôi là người lương thiện!
Hai người đàn ông vừa nói vừa cúi xuống suối chặn nhặt những chiếc áo quần đang trôi. Hai người giặt đồ bấy giờ mới định thần lấy bình tĩnh trở lại. Nhìn ra, cả hai người một già một trẻ đều mặc đồ nâu tu sĩ. Người già có lẽ trên năm mươi và người trẻ thì mới cỡ đôi mươi. Người đàn bà già giọng hơi ngọng nghịu nói:
- A Di Đà Phật, cám ơn hai ông! Chẳng hay hai ông từ đâu đến đây? Có việc gì?
- Dạ thưa, chúng tôi là thương khách, trên đường đi ghé qua suối thấy suối đẹp nên định dạo một vòng cho biết. Chúng tôi xin lỗi đã làm cho quí ni cô sợ hãi. Chúng tôi cũng xin lỗi tò mò một chút, vì sao quí ni cô lại ở chốn này?
Bà vãi già chỉ tay lên triền dốc trả lời:
- Thưa, chùa chúng tôi ở gần đây thôi!
Hai người khách nhìn lên theo tay chỉ của bà vãi, họ chỉ thấy thấp thoáng một góc mái ngói đỏ có đà đuôi con rồng cong vút theo kiểu Trung Hoa lộ ra giữa đám cây rừng um tùm.
Phạm Cống hỏi:
- Dạ thưa, tôi hỏi có khi không phải phép, ai đã dựng nên ngôi chùa này? Chùa nằm ở một nơi hẻo lánh nguy hiểm giữa rừng sâu, sao quí vị lại dám ở tu hành? Làm sao có khách thập phương dám đến hành hương?
Bà vãi già đáp:
- Xin thưa, chùa này do công đức của viên ngoại Từ Công xây dựng lên hơn mười năm rồi. Vị trụ trì chùa này là sư bà Thích Nữ Diệu Hạnh, con gái của viên ngoại. Viên ngoại ngày xưa là một thương gia danh tiếng ở Phúc Kiến. Vì lẽ gì viên ngoại lại xây dựng chùa ở đây thì chúng tôi không được biết. Chỉ biết rằng tất cả mọi phương tiện để sinh hoạt ở đây đều do viên ngoại cung ứng hết thảy. Hàng năm, chính viên ngoại hoặc con trai của người đến đây hai lần, vào đầu mùa xuân và đầu mùa thu, mang theo lương thực và đồ dùng cho toàn thể mọi người trong chùa. Tuy là chỗ xa xôi hẻo lánh nhưng được cái thanh tịnh và cách biệt với thế giới bên ngoài nên mọi người dễ tập trung tinh thần để tu học. Chùa rất ít khi có khách hành hương, năm ba tháng họa hoằn mới có người tìm trầm, tìm mật ong hay khách thương ghé lại.
- Thế quí ni cô không sợ hổ báo hoặc các giống thú độc làm hại à?
- Thưa không, đã thành tâm quyết chí tu hành thì nếu có việc rủi xảy ra cứ coi như ta thực hiện hạnh bố thí cũng xong. Nhưng nhờ ơn Phật tổ gia hộ, từ trước tới nay ở đây chưa hề có việc rủi ro xảy ra.
Phạm Cống chỉ về phía ni cô trẻ đang cắm cúi làm việc mà hỏi:
- Vị ni cô này chắc mới tu? Trong chùa chắc đông người lắm nhỉ?
- Thưa, cũng không đông lắm, trước đây chỉ có mười người cả thảy. Mới đây có thêm hai nữ tu trẻ nữa, mà đây là một - bà vãi già chỉ tay sang ni cô trẻ - mới đến chùa chừng một năm.
Phạm Cống và Lê Xướng đưa mắt nhìn nhau như muốn trao đổi một ý nghĩ nào đó. Phạm Cống lại nói:
- Hèn gì, khi nãy chúng tôi có thấy một vị ni cô trẻ khác rất đẹp đứng ở dưới gốc cây kia. Quí vị ấy chắc phải do ai giới thiệu mới được đưa đến tu ở đây chứ?
Nghe hỏi, bà vãi già hình như hơi chột dạ, nói lãng:
- Thưa, tôi cũng không rõ chuyện đó lắm. Chừng nào quí khách rảnh rỗi xin mời lên chùa viếng cảnh, giờ chúng tôi phải giặt cho kịp để còn làm việc khác.
Hai người khách buôn thấy thế chỉ nói vài câu vu vơ nữa rồi cáo lui.
Trên đường trở lại chỗ cũ, Lê Xướng nói:
- Đệ nghi quá Phạm huynh à! Biết đâu hai vị nữ tu này chính là thái hậu Ngọc Vạn và người hầu?
- Có lý lắm chứ! Cứ về báo cho đại huynh biết xem sao!
Vừa về tới chỗ nghỉ, Lê Xướng liền hớn hở nói với Đình Huy:
- Anh cả thưởng công cho tụi em đi nhé! Tụi em đã tìm ra thái hậu cho anh rồi đấy!
Mọi người ngạc nhiên hỏi dồn:
- Có gì lạ nói rõ cho anh em nghe coi, ngũ đệ!
Hai người bèn thuật lại đầu đuôi những việc mắt thấy tai nghe vừa rồi. Đình Huy nghe qua sáng mắt lên:
- Hai người nữ còn trẻ mới đến tu chừng một năm thôi? Một ni cô trông rất đẹp và rất buồn? Không lẽ...
Phạm Quyền nói:
- Một nhóm đàn bà mà dám đến tu ở vùng thâm sơn cùng cốc như thế này cũng thật là chuyện thế gian hi hữu!
Nguyễn Bật đề nghị:
- Vậy tất cả chúng ta hãy làm khách hành hương đến chùa, trước là ngoạn cảnh, sau là thăm dò xem chuyện hư thực ra sao, có phải không anh cả? Biết đâu vị ni cô rất đẹp và rất buồn đó lại đúng là thái hậu Ngọc Vạn?
- Phải đấy anh cả, nhưng chuẩn bị đi ngay bây giờ à? - Phạm Quyền hỏi.
Đình Huy nói:
- Ừ, chuẩn bị đi càng sớm càng tốt!
Nguyễn Bật xua tay:
- Làm gì nôn nóng thế anh cả? Bây giờ đã chiều, chúng ta đến đó sẽ làm phiền cho chùa thôi. Người ta sẽ nghi ngờ lo sợ, không tiện đâu. Họ lầm tưởng mình là một bọn cướp giả dạng không chừng. Theo tôi nghĩ, đêm nay chúng ta hãy nghỉ lại chỗ này, mùa hè ít có vắt và muỗi thì sợ gì chứ! Cứ ngủ cho ngon rồi sáng mai lên viếng chùa cũng chẳng muộn!
Thế là mọi người đồng ý với nhau dọn chỗ để nghỉ.
Đêm đó, bốn chàng đều nằm ngủ ngon lành. Chỉ riêng Đình Huy cứ ngồi dựa gốc cây băn khoăn mãi. Bao nhiêu câu hỏi cứ dồn dập hiện lên trong đầu óc chàng. Tin này có đúng không, hay là hai người bạn đặt chuyện để trêu chàng? Không, họ không thể tàn nhẫn đến thế. Bạn bè đâu có thể khuấy vào chỗ đau của nhau? Mà nếu tin ấy đúng, vị nữ tu sĩ kia có phải là Ngọc Vạn không? Đây là một ngôi chùa của người Hoa ư? Họ có liên hệ gì đến bọn người đột nhập cung thất định ám hại thái hậu trước đây không? Có khi nào đó là sào huyệt của một lũ cướp Tàu trá hình đã bắt thái hậu Ngọc Vạn đem về đây? Chứ chẳng lẽ tự nhiên Ngọc Vạn lại bỏ cung vàng điện ngọc tìm đến chốn thâm sơn cùng cốc này mà tu hành? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy nàng? Dù sao thì cũng còn chút hi vọng trong lòng...
Đình Huy đang miên man suy nghĩ bỗng nghe tiếng động khẽ bên mình. Chàng quay lại và ngạc nhiên hết sức khi thấy công nữ Ngọc Vạn đẹp như tiên giáng sừng sững đứng đó tự bao giờ...
- Công nữ!
Thế mà huynh định sáng mai lên chùa tìm muội đó!
- Bởi vậy nên muội mới lén rời chùa đến đây tìm huynh trước!
Vừa nói, công nữ vừa ngồi sà xuống bên cạnh Đình Huy. Nét mặt công nữ khi ấy càng diễm tuyệt hơn cả những hình ảnh ngày xưa... Đình Huy đang bỡ ngỡ thì công nữ ngã đầu vào vai Đình Huy mà ngủ say sưa. Chàng tự nhiên bắt gặp một cảm giác ấm áp, êm đềm dễ chịu lạ thường xưa nay chàng chưa hề có được. Nhưng Đình Huy cũng thấy mình buồn ngủ đến lạ lùng... Đôi mắt chàng cứ nhíu lại. Chàng cố nhướng mắt lên, nhướng một cách vất vả... Khi mở mắt được, chàng quay lại nhìn công nữ và chợt thấy gương mặt nàng tự nhiên dài ra một cách dị hợm, nàng nói: "Muội đến đây để vĩnh biệt chàng!" Nói xong, gương mặt Ngọc Vạn càng dài thêm và nhăn nheo thật dễ sợ, rồi nàng hú một tràng dài nghe ghê rợn. Đình Huy thấy thế hoảng hốt kêu lên:
- Trời ơi, muội sao lại thế này?
Và chàng giật mình - thì ra đó chỉ là một giấc mơ. Tiếng hú của con vật nào đó vẫn còn réo bên tai. Đình Huy bùi ngùi thương cảm rồi bất giác ngâm nho nhỏ:
"Hạ vàng mỏi cánh chim trời
Vô rừng kiếm chỗ ngủ ngồi với em
Lung linh trăng rọi vai mềm
Nghe con vượn hú bóng đêm bàng hoàng
Mai về theo ngã sương tan
Em đưa tay vẫy tiễn chàng vô tâm..." (N Đ)
- Trời đất! Anh cả không ngủ à? Em không vô tâm sao được? Nếu em mà hữu tâm thì em đâu đến nỗi bắt chàng thức suốt đêm để nghe cọp gầm vượn hú giữa rừng!
- Nằm xuống nghỉ một chút đi anh cả ơi, làm gì mà tự hành hạ thân xác đến thế ấy!
- Không ngủ thì thôi, còn làm người khác mất giấc ngủ theo, kỳ thật!
Boong... boong... boong...
Bỗng mấy tiếng chuông chùa ngân lên vọng lại...
- Chuông báo thức để các vị ở chùa dậy tụng kinh rồi đó! Ngủ rừng một đêm người thấy uể oải quá chừng, dậy vận động thân thể cho máu lưu thông đi anh em ơi!
Đình Huy thật sự mừng rỡ - một đêm dài đã qua. Chàng đứng dậy để vận động chân tay. Chỉ lát nữa đến chùa ta sẽ biết hư thực - Đình Huy thầm nhủ. Niềm hân hoan hi vọng như một đốm lửa nhỏ đang lóe lên giữa bóng tối mênh mông bao trùm cõi lòng chàng...
Trong khi mọi người dùng điểm tâm, Lê Xướng hỏi:
- Nếu chốc nữa lên chùa mà gặp ni cô quả đúng là thái hậu Ngọc Vạn thì anh cả cư xử làm sao?
Đình Huy chưa biết nói sao thì Phạm Cống mau miệng:
- Dĩ nhiên là mừng cho thái hậu vẫn còn ở trên cõi thế này chứ biết làm gì hơn!
Lê Xướng lại hỏi:
- Đâu giản dị như thế được! Dù thế nào thì hiện nay thái hậu cũng đã trở thành góa bụa, sao đại huynh không nghĩ tới chuyện nối lại tơ duyên chớ?
Phạm Cống nói:
- Ngũ đệ theo huynh trưởng bao lâu nay sao chẳng hiểu được lòng huynh trưởng chút nào vậy? Nếu huynh trưởng nghĩ tới việc tái hợp hóa ra huynh trưởng phản lại chính lý tưởng của mình mất!
Lê Xướng hỏi tiếp:
- Không hiểu sao anh cả mình xưa nay không hề thấy thi phú gì mà vừa rồi lại cao hứng ngâm nga như thế?
Đình Huy mỉm cười kể lại giấc mộng. Lê Xướng nghe xong lại hỏi:
- Trong giấc mơ, khi thấy công nữ dựa bên mình anh cả mà ngủ, anh cả thật không thấy trong lòng nổi sóng gió hay sao?
- Tuyệt nhiên không. Ta chỉ tìm thấy một cảm giác ấm áp êm đềm kỳ diệu mà thôi. Nhưng cái hình ảnh sau đó, khi gương mặt công nữ chợt xấu đi và nàng lại nói "Muội đến đây để vĩnh biệt chàng!" đã làm ta áy náy không yên. Ta cảm thấy như có cái điềm gì bất tường.
Nguyễn Bật góp lời:
- Việc thái hậu mất tích vốn đã là việc bất tường rồi. Còn chúng ta đã nguyện đem thân làm con tốt mở đường Nam Tiến cho tổ quốc thì còn ngại gì chuyện bất tường. Bất quá da ngựa bọc thây là cùng thôi, có gì mà phải nghĩ ngợi?
Lê Xướng tinh nghịch cười:
- Ngựa đi đường rừng bất tiện gởi cả ở quán dịch rồi. Ở đây kiếm da ngựa không ra, lấy da cọp bọc thây cũng được nhé!
Nguyễn Bật nói:
- Ngũ đệ nói dại mồm không à!
Cả năm người cùng cười nhưng hình như họ đều có một thứ linh cảm gì không hay qua câu nói đùa ấy. Thế rồi họ sửa soạn lên chùa.
Đoàn "khách thương" đi một chốc thì đến trước cổng một ngôi chùa khá lớn. Trước chùa treo một tấm biển đề ba chữ Hán: "Diệu Quang Tự". Chùa tuy lớn nhưng nằm lọt vào giữa những cây cổ thụ quá cao nên những ai ở cách xa chừng năm trăm thước cũng khó nhận ra. Mấy chàng lên tiếng gọi. Chính bà vãi giặt áo quần hôm trước ra mở cổng đón khách vào.
- Thưa, chúng tôi hôm nay đến đây trước là để lễ Phật, sau để xin viếng cảnh chùa, không biết có làm phiền nhà chùa không?
- Mô Phật, mời quí thí chủ vào nhà khách đợi chốc lát, sư bà sẽ ra tiếp chuyện với quí vị.
Sau khi sư bà Diệu Hạnh tiếp chuyện đoàn "khách thương", Đình Huy thay mặt đoàn xin cúng chùa mười lạng bạc để thắp hương. Sư bà hướng dẫn đoàn vào điện lạy Phật, một ni cô thắp hương để mọi người lễ bái. Sau đó, sư bà ngỏ lời mời đoàn dạo quanh chùa rồi ở lại dùng ngọ phạn. Đoàn "khách thương" hân hoan cám ơn nhận lời.
Từ khi bước chân vào chùa, cả năm người đều luôn để tâm tìm kiếm hai vị ni cô trẻ. Nhưng suốt buổi, kể cả khi lễ bái ở điện Phật và cả khi đi dạo khắp sân trước vườn sau, họ vẫn chẳng thấy tăm hơi.
Đến lúc dùng ngọ phạn vẫn không thấy hai ni cô trẻ xuất hiện. Quanh đi quẩn lại họ cũng chỉ gặp được những bà vãi già. Đình Huy nhiều lần muốn hỏi thăm nhưng không hé miệng nổi. Còn gì kỳ hơn khi đến viếng chùa mà lại hỏi thăm những ni cô trẻ không phải là thân nhân của mình!
Dùng ngọ phạn đã xong, viếng cảnh chùa đã thỏa, thế mà khách vẫn lẩn quẩn không muốn về khiến những tu sĩ trong chùa cũng đâm ra lúng túng. Nhìn mặt trời đã hạ thấp, một vị tu sĩ nhắc nhở:
- Xin lỗi quí khách trú ngụ ở đâu xa gần? Giữa chốn núi rừng quí vị đi về muộn quá có tiện không?
Đình Huy thưa:
- Dạ, chúng tôi cũng sắp xin lui bước...
Rồi Đình Huy đánh bạo hỏi ni cô:
- Thưa ni cô, tôi nghe nói ở chùa này có hai nữ tu trẻ mới đến nhập môn sao hôm nay không thấy đâu cả?
Vị ni cô làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi lại:
- Thí chủ hỏi thăm có việc gì không?
Đình Huy ngượng ngùng lúng túng nói:
- Dạ... vì hôm qua chúng tôi tình cờ gặp quí ni cô ấy giặt đồ dưới suối, bây giờ không thấy nên hỏi thăm vậy thôi...
Ni cô nở một nụ cười ý nhị:
- Thí chủ đã hỏi, bần ni cũng xin thưa, chùa quả có hai đệ tử mới nhập môn, nhưng họ mắc bệnh nan y nên không muốn tiếp xúc với ai hết.
Đình Huy lo lắng hỏi:
- Thưa, có phải có một trong hai ni cô ấy vốn gốc cành vàng lá ngọc không? Họ bị mắc bệnh gì thế?
- Cành vàng lá ngọc gì đâu, họ chỉ là con dân giả tầm thường thôi, họ mắc bệnh phong cùi nên ngại không muốn gặp quí khách.
Đình Huy thất vọng thở dài, không dám hỏi nữa. Sau đó đoàn "khách thương" từ giã nhà chùa. Dọc đường họ thắc mắc bàn tán nhiều về sự việc ấy.
- Anh cả à, giờ thì em nhất quyết ni cô đứng dưới gốc cây cổ thụ hôm qua chính là thái hậu đấy. Chẳng qua các ni cô không muốn cho ai biết thái hậu ở đây nên nói thế chứ cả hai người hôm qua em có thấy ở họ vẻ gì bệnh hoạn đâu! - Lê Xướng nói.
Phạm Cống tiếp lời:
- Nếu hôm qua anh cả cũng đi theo tụi tôi thì đã biết rõ giả chân rồi. Hay là đêm nay anh cả thân hành đi thăm dò một chuyến?
Mọi người nhao nhao lên:
- Đâu có được! Giở trò đạo chích dọ thám ở một chùa nữ thì còn gì danh dự!
Nguyễn Bật nói:
- Tốt hơn hết, ta cứ đánh tin cho triều đình Chân Lạp biết, thế nào họ cũng sẽ tìm cách rước thái hậu về! Tự khắc chúng ta biết rõ hư thực chứ khó khăn gì!
Mọi người đồng loạt kêu lên:
- Phải rồi, chỉ có thế mà nghĩ không ra!
- Bởi vậy nên muội mới lén rời chùa đến đây tìm huynh trước!
Vừa nói, công nữ vừa ngồi sà xuống bên cạnh Đình Huy. Nét mặt công nữ khi ấy càng diễm tuyệt hơn cả những hình ảnh ngày xưa... Đình Huy đang bỡ ngỡ thì công nữ ngã đầu vào vai Đình Huy mà ngủ say sưa. Chàng tự nhiên bắt gặp một cảm giác ấm áp, êm đềm dễ chịu lạ thường xưa nay chàng chưa hề có được. Nhưng Đình Huy cũng thấy mình buồn ngủ đến lạ lùng... Đôi mắt chàng cứ nhíu lại. Chàng cố nhướng mắt lên, nhướng một cách vất vả... Khi mở mắt được, chàng quay lại nhìn công nữ và chợt thấy gương mặt nàng tự nhiên dài ra một cách dị hợm, nàng nói: "Muội đến đây để vĩnh biệt chàng!" Nói xong, gương mặt Ngọc Vạn càng dài thêm và nhăn nheo thật dễ sợ, rồi nàng hú một tràng dài nghe ghê rợn. Đình Huy thấy thế hoảng hốt kêu lên:
- Trời ơi, muội sao lại thế này?
Và chàng giật mình - thì ra đó chỉ là một giấc mơ. Tiếng hú của con vật nào đó vẫn còn réo bên tai. Đình Huy bùi ngùi thương cảm rồi bất giác ngâm nho nhỏ:
"Hạ vàng mỏi cánh chim trời
Vô rừng kiếm chỗ ngủ ngồi với em
Lung linh trăng rọi vai mềm
Nghe con vượn hú bóng đêm bàng hoàng
Mai về theo ngã sương tan
Em đưa tay vẫy tiễn chàng vô tâm..." (N Đ)
- Trời đất! Anh cả không ngủ à? Em không vô tâm sao được? Nếu em mà hữu tâm thì em đâu đến nỗi bắt chàng thức suốt đêm để nghe cọp gầm vượn hú giữa rừng!
- Nằm xuống nghỉ một chút đi anh cả ơi, làm gì mà tự hành hạ thân xác đến thế ấy!
- Không ngủ thì thôi, còn làm người khác mất giấc ngủ theo, kỳ thật!
Boong... boong... boong...
Bỗng mấy tiếng chuông chùa ngân lên vọng lại...
- Chuông báo thức để các vị ở chùa dậy tụng kinh rồi đó! Ngủ rừng một đêm người thấy uể oải quá chừng, dậy vận động thân thể cho máu lưu thông đi anh em ơi!
Đình Huy thật sự mừng rỡ - một đêm dài đã qua. Chàng đứng dậy để vận động chân tay. Chỉ lát nữa đến chùa ta sẽ biết hư thực - Đình Huy thầm nhủ. Niềm hân hoan hi vọng như một đốm lửa nhỏ đang lóe lên giữa bóng tối mênh mông bao trùm cõi lòng chàng...
Trong khi mọi người dùng điểm tâm, Lê Xướng hỏi:
- Nếu chốc nữa lên chùa mà gặp ni cô quả đúng là thái hậu Ngọc Vạn thì anh cả cư xử làm sao?
Đình Huy chưa biết nói sao thì Phạm Cống mau miệng:
- Dĩ nhiên là mừng cho thái hậu vẫn còn ở trên cõi thế này chứ biết làm gì hơn!
Lê Xướng lại hỏi:
- Đâu giản dị như thế được! Dù thế nào thì hiện nay thái hậu cũng đã trở thành góa bụa, sao đại huynh không nghĩ tới chuyện nối lại tơ duyên chớ?
Phạm Cống nói:
- Ngũ đệ theo huynh trưởng bao lâu nay sao chẳng hiểu được lòng huynh trưởng chút nào vậy? Nếu huynh trưởng nghĩ tới việc tái hợp hóa ra huynh trưởng phản lại chính lý tưởng của mình mất!
Lê Xướng hỏi tiếp:
- Không hiểu sao anh cả mình xưa nay không hề thấy thi phú gì mà vừa rồi lại cao hứng ngâm nga như thế?
Đình Huy mỉm cười kể lại giấc mộng. Lê Xướng nghe xong lại hỏi:
- Trong giấc mơ, khi thấy công nữ dựa bên mình anh cả mà ngủ, anh cả thật không thấy trong lòng nổi sóng gió hay sao?
- Tuyệt nhiên không. Ta chỉ tìm thấy một cảm giác ấm áp êm đềm kỳ diệu mà thôi. Nhưng cái hình ảnh sau đó, khi gương mặt công nữ chợt xấu đi và nàng lại nói "Muội đến đây để vĩnh biệt chàng!" đã làm ta áy náy không yên. Ta cảm thấy như có cái điềm gì bất tường.
Nguyễn Bật góp lời:
- Việc thái hậu mất tích vốn đã là việc bất tường rồi. Còn chúng ta đã nguyện đem thân làm con tốt mở đường Nam Tiến cho tổ quốc thì còn ngại gì chuyện bất tường. Bất quá da ngựa bọc thây là cùng thôi, có gì mà phải nghĩ ngợi?
Lê Xướng tinh nghịch cười:
- Ngựa đi đường rừng bất tiện gởi cả ở quán dịch rồi. Ở đây kiếm da ngựa không ra, lấy da cọp bọc thây cũng được nhé!
Nguyễn Bật nói:
- Ngũ đệ nói dại mồm không à!
Cả năm người cùng cười nhưng hình như họ đều có một thứ linh cảm gì không hay qua câu nói đùa ấy. Thế rồi họ sửa soạn lên chùa.
Đoàn "khách thương" đi một chốc thì đến trước cổng một ngôi chùa khá lớn. Trước chùa treo một tấm biển đề ba chữ Hán: "Diệu Quang Tự". Chùa tuy lớn nhưng nằm lọt vào giữa những cây cổ thụ quá cao nên những ai ở cách xa chừng năm trăm thước cũng khó nhận ra. Mấy chàng lên tiếng gọi. Chính bà vãi giặt áo quần hôm trước ra mở cổng đón khách vào.
- Thưa, chúng tôi hôm nay đến đây trước là để lễ Phật, sau để xin viếng cảnh chùa, không biết có làm phiền nhà chùa không?
- Mô Phật, mời quí thí chủ vào nhà khách đợi chốc lát, sư bà sẽ ra tiếp chuyện với quí vị.
Sau khi sư bà Diệu Hạnh tiếp chuyện đoàn "khách thương", Đình Huy thay mặt đoàn xin cúng chùa mười lạng bạc để thắp hương. Sư bà hướng dẫn đoàn vào điện lạy Phật, một ni cô thắp hương để mọi người lễ bái. Sau đó, sư bà ngỏ lời mời đoàn dạo quanh chùa rồi ở lại dùng ngọ phạn. Đoàn "khách thương" hân hoan cám ơn nhận lời.
Từ khi bước chân vào chùa, cả năm người đều luôn để tâm tìm kiếm hai vị ni cô trẻ. Nhưng suốt buổi, kể cả khi lễ bái ở điện Phật và cả khi đi dạo khắp sân trước vườn sau, họ vẫn chẳng thấy tăm hơi.
Đến lúc dùng ngọ phạn vẫn không thấy hai ni cô trẻ xuất hiện. Quanh đi quẩn lại họ cũng chỉ gặp được những bà vãi già. Đình Huy nhiều lần muốn hỏi thăm nhưng không hé miệng nổi. Còn gì kỳ hơn khi đến viếng chùa mà lại hỏi thăm những ni cô trẻ không phải là thân nhân của mình!
Dùng ngọ phạn đã xong, viếng cảnh chùa đã thỏa, thế mà khách vẫn lẩn quẩn không muốn về khiến những tu sĩ trong chùa cũng đâm ra lúng túng. Nhìn mặt trời đã hạ thấp, một vị tu sĩ nhắc nhở:
- Xin lỗi quí khách trú ngụ ở đâu xa gần? Giữa chốn núi rừng quí vị đi về muộn quá có tiện không?
Đình Huy thưa:
- Dạ, chúng tôi cũng sắp xin lui bước...
Rồi Đình Huy đánh bạo hỏi ni cô:
- Thưa ni cô, tôi nghe nói ở chùa này có hai nữ tu trẻ mới đến nhập môn sao hôm nay không thấy đâu cả?
Vị ni cô làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi lại:
- Thí chủ hỏi thăm có việc gì không?
Đình Huy ngượng ngùng lúng túng nói:
- Dạ... vì hôm qua chúng tôi tình cờ gặp quí ni cô ấy giặt đồ dưới suối, bây giờ không thấy nên hỏi thăm vậy thôi...
Ni cô nở một nụ cười ý nhị:
- Thí chủ đã hỏi, bần ni cũng xin thưa, chùa quả có hai đệ tử mới nhập môn, nhưng họ mắc bệnh nan y nên không muốn tiếp xúc với ai hết.
Đình Huy lo lắng hỏi:
- Thưa, có phải có một trong hai ni cô ấy vốn gốc cành vàng lá ngọc không? Họ bị mắc bệnh gì thế?
- Cành vàng lá ngọc gì đâu, họ chỉ là con dân giả tầm thường thôi, họ mắc bệnh phong cùi nên ngại không muốn gặp quí khách.
Đình Huy thất vọng thở dài, không dám hỏi nữa. Sau đó đoàn "khách thương" từ giã nhà chùa. Dọc đường họ thắc mắc bàn tán nhiều về sự việc ấy.
- Anh cả à, giờ thì em nhất quyết ni cô đứng dưới gốc cây cổ thụ hôm qua chính là thái hậu đấy. Chẳng qua các ni cô không muốn cho ai biết thái hậu ở đây nên nói thế chứ cả hai người hôm qua em có thấy ở họ vẻ gì bệnh hoạn đâu! - Lê Xướng nói.
Phạm Cống tiếp lời:
- Nếu hôm qua anh cả cũng đi theo tụi tôi thì đã biết rõ giả chân rồi. Hay là đêm nay anh cả thân hành đi thăm dò một chuyến?
Mọi người nhao nhao lên:
- Đâu có được! Giở trò đạo chích dọ thám ở một chùa nữ thì còn gì danh dự!
Nguyễn Bật nói:
- Tốt hơn hết, ta cứ đánh tin cho triều đình Chân Lạp biết, thế nào họ cũng sẽ tìm cách rước thái hậu về! Tự khắc chúng ta biết rõ hư thực chứ khó khăn gì!
Mọi người đồng loạt kêu lên:
- Phải rồi, chỉ có thế mà nghĩ không ra!
***
Vua Chau Ponhea To được tin thái hậu đang ở một ngôi chùa trong vùng rừng núi Mỗi Xuy, ngài liền thân hành dẫn một số quan văn tướng võ và cả phó tướng Đại Việt Lê Sáng tìm đến chùa hỏi thăm. Sư bà Diệu Hạnh nghe phái đoàn của triều đình đến bèn bước ra tiếp đón:
- Hoàng thượng vạn tuế! Chẳng hiểu nguyên nhân nào khiến hoàng thượng phải lặn lội vất vả đến chốn thâm sơn cùng cốc này, xin dạy bảo cho bần ni rõ!
Vị đại thần Nậm Luông đáp thay vua:
- Bạch sư phụ, nghe mới đây sư phụ có thâu nhận một nữ đệ tử tuổi chừng ngoài ba mươi và một người hầu gái, sư phụ có biết hai vị đó là ai không?
Sư bà Diệu Hạnh nói:
- Cửa Phật từ bi xem chúng sinh đều bình đẳng, thấy ai chịu oan khổ muốn tìm phương giải thoát thì cứ ra tay tế độ, không cần tìm hiểu phân biệt kẻ đó thuộc thành phần, giai cấp nào.
Đại thần Nậm Luông thưa:
- Bạch sư phụ, nhưng đây là một trường hợp ngoại lệ, ảnh hưởng đến việc trị an cả nước Chân Lạp, vì người thiếu phụ xin xuất gia đó chính là vị thái hậu, thân mẫu của đương kim hoàng đế. Cúi xin sư phụ cho mời người ra đây để ngài được bái kiến!
Sư bà biết triều đình đã rõ chuyện nên nói:
- À ra thế! Thôi được, bần ni sẽ cho mời bà ta ra để hoàng thượng gặp.
Rồi sư bà quay sang nói với một ni cô khác:
- Hãy vào mời ni cô Tâm Ngọc ra đây gặp hoàng thượng.
Khi người thiếu phụ bước ra, dù đầu đã cạo nhẵn, mặc đồ nâu, nhưng mọi người vẫn nhận ngay ra đó là thái hậu Ngọc Vạn. Vua Chau Ponhea To xúc động quá khóc òa lên:
- Sao mẫu hậu lại bỏ hài nhi mà đi như thế này?
Thái hậu bấy giờ đã mang dáng dấp một ni cô, cố kìm hãm sự xúc động, nói:
- Bần ni bây giờ không còn liên hệ gì với đời nữa. Xin các thí chủ hãy trở về để chăm lo nhiệm vụ của mình thì tốt hơn.
Các quan đồng loạt thưa:
- Xin thái hậu trở về để dìu dắt hoàng thượng trị dân vì hoàng thượng còn thơ ấu lắm. Nếu thái hậu không về e việc nước rối mất!
Thái hậu nói:
- Nhà vua thơ ấu thì có các quan phụ chánh giúp đỡ. Ta mới sống nửa đời đã gây ra nhiều nghiệp chướng lắm rồi, ta phải tu tỉnh sám hối. Các ngươi hãy về đi, đừng nói nữa phí sức vô ích.
Vua Chau Ponhea To thấy năn nỉ không được, ngài phải dọa:
- Xin thái hậu xét lại, lúc này tình hình an ninh xấu lắm. Nếu thái hậu ở đây, lỡ quân cường khấu biết được nó sẽ đến làm hại, lúc ấy ai bảo vệ cho thái hậu?
Thái hậu điềm nhiên nói:
- Xin nhà vua cứ yên lòng trở về lo việc trị dân. Nhiệm vụ của đấng quân vương là làm sao cho dân được hưởng cảnh thái bình an lạc, cuộc sống ấm no. Còn bần ni từ nay xin quyết làm bạn với rau dưa kinh kệ để sám hối tội lỗi. Nếu lỡ bần ni có bị ai làm hại thì chẳng qua cũng là chuyện nghiệp báo mà thôi, chẳng có gì để ân hận. Xin nhà vua đừng quyến luyến mà khuấy động vô ích, để cho bần ni được chuyên tâm tu tỉnh mà chuộc bớt tội lỗi!
Vua Chau Ponhea To quì mọp trước mặt thái hậu mà khóc ròng:
- Hài nhi sẽ quì mãi nơi đây nếu thái hậu không chịu về triều!
Nhìn khuôn mặt ngây thơ với đôi mắt long lanh ngấn lệ đầy vẻ thành khẩn của vua Chau Ponhea To, không ai khỏi xúc động. Sư bà Diệu Hạnh thấy vậy bèn khuyên thái hậu:
- Bệ hạ đã tìm tận chốn này hết lòng cung thỉnh thái hậu như vậy, tức thái hậu còn vương vấn nợ trần, thôi thì xin thái hậu hãy trở về đời một thời gian nữa, trước để hoàng thượng an lòng mà trị nước, sau là để mẹ con đoàn tụ.
Nhưng thái hậu với giọng cương quyết thưa:
- Bạch thầy, đệ tử lặn lội tìm đến chốn hẻo lánh này để xuống tóc tức đệ tử đã quyết định dứt khoát một lòng hướng Phật rồi. Xin thầy cho đệ tử được ở lại tu học cho thỏa mãn chí nguyện!
Sư bà Diệu Hạnh thấy thái hậu Ngọc Vạn chí đã nhất định không chịu về bèn thưa với vua Chau Ponhea To:
- Tâu bệ hạ, thái hậu đã quyết lòng đầu Phật, không thể khuyên giải một lúc mà chuyển dời được ý muốn của người. Xin bệ hạ hoãn hoãn cho năm ba ngày nữa. Chư ni trong chùa sẽ cố gắng từ từ thuyết phục may ra thái hậu đổi ý. Bây giờ trời đã về chiều, quan binh triều đình đóng gần nơi tôn nghiêm không tiện, xin bệ hạ hãy cho tìm một địa điểm nào khoáng đãng để nghỉ quân thì hay hơn.
Vua Chau Ponhea To lấy làm phải, bèn truyền lệnh dời quân đến một nơi khá xa chùa, thuận lợi nhiều mặt như dễ phòng cháy, dễ lấy nước, có tầm quan sát rộng, tiện việc phòng thủ để hạ trại. Nhà vua hạ lệnh các tướng canh giữ, tuần phòng kỹ lưỡng bốn mặt nơi đóng quân. Phó tướng Lê Sáng được giao chỉ huy toán quân Đại Việt bố trí chịu trách nhiệm một mặt.
Sau khi kiểm soát sự bố trí phòng thủ xong, phó tướng Lê Sáng toan vào lều nghỉ ngơi thì có người gọi giật:
- Tướng quân, xin đợi một chút!
Phó tướng Lê Sáng quay lại, ông thấy chàng tráng sĩ áo đỏ đang đứng trước mặt mình. Đúng là người cầm đầu nhóm tráng sĩ thường có hành tung bí mật đã mấy phen hỗ trợ cho ông thắng trận. Phó tướng không ngạc nhiên mấy vì sự xuất hiện đường đột của chàng tráng sĩ này. Ông chỉ biết rằng, chàng đã đến tất nhiên có chuyện khác thường:
- Xin chào tráng sĩ! Tráng sĩ đến đây chắc có chuyện gì cần?
- Tôi đến để hỏi thăm tướng quân vài điều, tướng quân thấy có gì bất tiện không?
- Không sao cả, xin tráng sĩ cứ hỏi, tôi sẵn sàng trả lời.
- Vậy, thưa tướng quân, có đúng là thái hậu Ngọc Vạn đang tu trong chùa Diệu Quang này không?
- Đúng đấy, hoàng thượng hết sức khuyên giải, nài nỉ thái hậu trở về kinh nhưng thái hậu nhất định không chịu.
Rồi phó tướng Lê Sáng thuật lại đại lược những lời đối đáp nhau giữa mọi người lúc ban chiều. Tráng sĩ nghe xong, nói:
- Thế chắc có vấn đề gì căng lắm đấy, để tôi viết một phong thư, nhờ tướng quân dâng cho thái hậu, may ra...
Phó tướng Lê Sáng sực nhớ nhiều lần thái hậu có nhắc đến và tỏ ý mong muốn gặp mặt chàng tráng sĩ này nhưng ông không hề biết giữa hai người có liên hệ gì. Nay nghe tráng sĩ nói chuyện viết thư khuyên thái hậu, phó tướng không giấu vẻ mừng rỡ, ông nói:
- Vậy thì tráng sĩ hãy viết thư đi, bản chức sẵn sàng dâng lên thái hậu cho.
Phó tướng bèn dẫn tráng sĩ vào trại để tráng sĩ viết thư. Chốc sau, tráng sĩ trao cho phó tướng một túi gấm màu hồng có thêu một chữ "Ngọc" cùng một vuông lụa trắng viết chữ rất sắc nét và nói:
- Ngày mai, nếu vua Chau Ponhea To nài nỉ mà thái hậu vẫn không chịu về thì xin tướng quân dâng thư này lên người, nói là của một đạo sĩ gởi, tự nhiên thái hậu hiểu.
- Vâng, tráng sĩ cứ yên chí, tôi sẽ làm theo ý của tráng sĩ.
Thế rồi tráng sĩ chào giã biệt phó tướng và biến mất trong bóng đêm.
***
Sáng hôm sau, các quan lại hộ tống vua Chau Ponhea To đến chùa Diệu Quang. Ngoại trừ thái hậu Ngọc Vạn, hết thảy các tu sĩ trong chùa đều ra nghênh tiếp. Thái hậu không muốn ra gặp mặt vua con nữa. Sư bà Diệu Hạnh tâu với vua Chau Ponhea To:
- Xin hoàng thượng thông cảm, bần ni và chư đạo hữu ở đây thật đã hết lòng khuyên giải thái hậu, nhưng thái hậu khăng khăng một mực như vậy, đành chịu thôi. Vậy, xin hoàng thượng hãy trở về lo việc trị chánh kẻo muôn dân mong chờ.
Vua Chau Ponhea To cảm thấy thất vọng, ngài bèn bảo vị đại thần Nậm Luông cúng chùa một số vàng và bạc để lo nhang khói. Nhà vua sắp mở lời cáo từ các ni sư thì phó tướng Lê Sáng rút trong túi ra một túi gấm màu hồng bằng bàn tay và thưa:
- Tâu bệ hạ, kính bạch sư bà và chư vị ni sư, trước khi thái hậu đi lấy chồng, có một vị đạo sĩ đã đoán biết có một ngày kia thái hậu sẽ đi tìm bến giác. Đạo sĩ ấy có trao tôi một túi gấm trong đựng một phong thư, dặn bao giờ việc ấy xảy đến, hãy dâng túi gấm này cho thái hậu. Hi vọng khi thái hậu đọc xong thư này, có thể người sẽ đổi ý mà trở về triều. Vậy, xin phiền sư bà chuyển dâng túi gấm này đến người thử xem có kết quả gì không!
Nói xong, phó tướng Lê Sáng hai tay cầm túi gấm trao cho sư bà Diệu Hạnh. Sư bà nhận túi gấm rồi nói:
- Bần ni sẽ trao lại cho thái hậu xem ngay. Tạm thời, xin thỉnh hoàng thượng và quí thí chủ tạm nghỉ tại nhà khách để chờ xem kết quả.
Vua Chau Ponhea To và đoàn tùy tùng bèn ra nhà khách ngồi chờ.
Trong khi ấy, sư bà Diệu Hạnh vào hậu đường rồi cho mời thái hậu Ngọc Vạn đến.
- Bạch thầy, thầy gọi đệ tử có chuyện gì dạy bảo?
- Thái hậu, có một đạo sĩ nhờ bần ni chuyển đến thái hậu cái túi gấm này!
Thái hậu nhìn cái túi có vẻ sững sốt:
- Bạch thầy, vị đạo sĩ hiện giờ ở đâu?
- Ông ta không có ở đây, ông ta gởi cho vị quan đại diện của triều đình Thuận Hóa.
Thái hậu Ngọc Vạn đưa hai tay ra trân trọng đón nhận cái túi gấm. Bà lật qua lật lại nhìn từng li từng tí, mắt như rướm lệ, khiến sư bà Diệu Hạnh trố mắt ngạc nhiên:
- Có phong thư ở bên trong thái hậu hãy đọc thử xem đạo sĩ nói gì!
Thái hậu mở túi gấm, lấy ra một vuông lụa trắng trên có những dòng chữ viết thật sắc nét:
"Thần là Đình Huy kính dâng mấy lời quê mùa xin thái hậu cúi xét:
Từ ngày rời Thuận Hóa, thần bận rộn vân du đây đó cố tìm một phương thuốc trường sinh để làm quà dâng chúa thượng. Thần vẫn mong việc chóng kết quả để có một ngày nào đó thong thả sẽ đến Oudong bái kiến thái hậu. Thế nhưng công việc đa đoan quá, thần vẫn chưa hề được toại nguyện.
Mãi đến năm rồi thần mới tạm thu xếp được công việc, bèn hân hoan tìm về kinh thành. Nhưng số phận thần hẩm hiu, khi đến nơi thì nghe tin thái hậu đã lên núi. Thần lấy làm ngạc nhiên không hiểu lý do gì khiến thái hậu lại tìm đường giải thoát sớm thế? Tổ quốc, dân tộc đang cần đến tấm lòng cũng như bàn tay người mẹ hiền vĩ đại của thái hậu, sao thái hậu nỡ bỏ mà đi đâu?
Thần thiết tha thỉnh cầu thái hậu, chiếu cố đến lòng mong đợi, trông cậy của muôn dân mà trở về giúp thánh hoàng lo việc nước. Thần hi vọng một ngày rất gần, chậm lắm là vào mùa thu tới, thần sẽ xin đến bái kiến thái hậu ở kinh thành để được nghe những lời dạy bảo vàng ngọc.
Thần:
Đình Huy đốn thủ"
Sư bà Diệu Hạnh vẫn ngồi im lặng theo dõi từng cử chỉ của thái hậu. Thái hậu đọc đi đọc lại bức thư nhiều lần, hình như bà chú tâm phân tích ý nghĩa từng câu, từng chữ. Rồi thái hậu ngồi ngẩn ngơ một chốc. Sau đó, bà xếp vuông lụa cất vào túi gấm rồi lại lật qua lật lại cái túi nhiều lần như xét từng đường thêu, từng mũi chỉ...
- Bạch sư phụ, đường tu hành của con sao còn gặp nhiều trắc trở quá!
Sư bà Diệu Hạnh nhìn thái hậu ái ngại:
- Phải, Tâm Ngọc, con còn quá trẻ, vả hoàng thượng đang cần con dìu dắt, muôn dân đang cần con che chở... Thầy khuyên con nên trở về...
- Bạch sư phụ, con đành xin nghe lời sư phụ...
Mấy hôm sau, đội quân đi rước thái hậu hân hoan trở về với sự đón chào nồng nhiệt của triều đình và dân chúng ở kinh thành...
Chương 22:
- Thái hậu hoàn tục rồi, anh cả hết buồn chưa?
Đình Huy nghiêm trang nói:
- Với thái hậu lúc này, ta chỉ coi như một người thân thôi. Thái hậu hoàn tục hay không thật sự đâu có tác dụng gì tới ta! Sở dĩ trước đây ta buồn đau chỉ vì nghĩ rằng bà ta bị bọn ác nhân đày đọa hành hạ hoặc bỏ xương chỗ nào không ai biết chứ đâu có ngờ bà tự tìm đường giải thoát như thế. Bây giờ ta chỉ còn thắc mắc không hiểu động lực nào đã khiến thái hậu lại chán cõi đời!
- Thế thì sao anh cả lại gởi túi gấm làm chi để cho thái hậu phải hoàn tục?
- Ta chỉ làm theo ý nguyện của số đông đại chúng thôi. Thật ra thì thái hậu cũng đang bỏ dang dở nhiều việc, thái hậu cần phải tiếp tục hoàn thành...
Nguyễn Bật hỏi:
- Anh cả có hẹn chậm lắm là vào mùa thu này sẽ đến bái kiến thái hậu à? Bái kiến để làm gì?
- Thăm viếng bình thường thôi. Từ khi sang Chân Lạp ta có gặp thái hậu mấy lần nhưng chưa lần nào có thì giờ để nói vài câu cho thỏa tình cố cựu. Hơn nữa, ta cũng muốn biết vì sao thái hậu lại chán đời mà đi tu như thế.
Phạm Cống cười cười nói:
- Hay lúc này rảnh rỗi mình đến kinh thành để anh cả viếng cố nhân luôn thể cũng được, cần gì phải đợi đến mùa thu?
- Chúng ta hiện có công việc phải làm gấp đấy bạn ơi!
Lê Xướng cười thoải mái:
- Việc gì nữa đây? Làm phù thủy, làm ma làm quỉ, làm giặc núi đủ cả rồi. Nghĩ lại mà tức cười, chắc bọn Xiêm, bọn Tàu, bọn Mã Lai... ấy ngạc nhiên không hiểu vì sao mà ma quỉ thần thánh gì ở Chân Lạp cũng đều xua đuổi chúng và giúp đỡ người Việt hết như vậy! Đất đai đổ bao công sức ra khai khẩn rồi bỏ không cho người Việt trồng trọt chúng cũng ức hộc máu đi chứ!
Đình Huy cũng cười, nói:
- Các sắc dân khác thì tạm yên rồi, nhưng hiện một vùng ở Mỗi Xuy có mấy con cọp mới xuất hiện hoành hành dữ dội, dân chúng sống gần đấy bị hại nhiều lắm. Anh em mình phải ra tay sớm ngày nào dân nhờ ngày ấy.
Phạm Cống nói:
- Vậy còn đợi gì nữa mà chúng ta chưa lên đường anh cả?
Mọi người đều nói:
- Ừ, hay ngày mai chúng ta lên đường!
Hai hôm sau bọn tráng sĩ có mặt ở vùng có mấy con cọp dữ mới xuất hiện.
Rải rác giữa một vùng đất màu mỡ mới khai khẩn, di dân đã dựng lên nhiều ngôi nhà lá để ở. Họ đang làm ăn vui vẻ bỗng một hôm nhà kia có một đứa trẻ lên mười bị mất tích. Ban đầu người ta nghi ngờ đứa trẻ đã bị kẻ nào đó bắt cóc. Mãi tới khi phát hiện nhiều dấu chân cọp trên mặt đất, người ta mới hiểu nguyên do. Rồi gia đình nạn nhân cũng tìm ra được cái đầu của đứa bé đem về chôn. Thế là dân chúng truyền miệng nhau, nhà nào cũng lo lắng đề phòng. Kế đến, một số chó, heo người ta nuôi gần đó cũng bị bắt mất. Chừng mười ngày sau lại thêm một cô gái bị mất tích nữa. Theo tin đồn, có hai con cọp vàng to gần bằng con trâu hay lảng vảng trong vùng vào lúc mặt trời sắp lặn. Dân sống gần đó sợ nhốn nháo lên, phải lần lượt bỏ nhà mà đi ở chỗ khác. Nhiều chỗ đất đai đã trồng trọt rồi người ta không dám đến săn sóc và thu hoạch...
Khi bọn Đình Huy tới đó, họ thăm hỏi dân chúng, dò tìm đường đi nước bước của những con ác thú để chờ dịp tiêu diệt chúng. Rốt cuộc, người ta biết được có hai lối cọp hay đi. Tin tưởng vào sức mình, năm người chia làm hai toán để phục kích cả hai lối. Phạm Cống, Phạm Quyền và Lê Xướng nằm ở một lối, còn một lối dành cho Đình Huy với Nguyễn Bật. Tối đó, sau khi đã trao đổi những tín hiệu để liên lạc kêu gọi giúp đỡ nhau khi cần, họ chia nhau đi rình chờ...
Khi Đình Huy và Nguyễn Bật vừa nằm vào vị trí đã lựa chọn sẵn chốc lát thì cả hai cảm thấy có một mùi lạ khắm thúi khó chịu thoảng đến. Đoán chừng con ác thú sắp đến, họ hồi hộp sờ lại kiếm, cây cung và mấy mũi tên độc. Lát sau, họ thấy một con cọp lớn lượn mình đi dưới ánh trăng mờ. Hai người ra tín hiệu cho nhau. Hai mũi tên đồng loạt phóng vút ra, con vật kêu lớn một tiếng và nhảy dựng lên rồi ngã xuống dãy dụa. Hai người sung sướng cầm kiếm nhảy ra. Nhưng họ giật mình dội lại vì một con cọp khác xuất hiện nhảy chồm về phía họ. Con cọp này hung dữ tấn công Đình Huy rất ác liệt. Đình Huy nhảy ngang lên một phiến đá để tránh cái đà phóng tới của cọp nhưng bất đồ phiến đá gập gềnh trợt xuống đã làm chàng mất thăng bằng té ngã ngay trước chân nó. Nguyễn Bật đã nhanh nhẹn lụi vào hông con cọp một lưỡi kiếm nhưng cọp cũng kịp thời vả mạnh một cái đầy hận thù vào gáy Đình Huy trước khi gục chết. Nguyễn Bật bồi thêm một nhát kiếm nữa vào họng con cọp cho chắc ăn rồi nhảy lại đỡ Đình Huy dậy. Nhưng xương cổ Đình Huy đã gẫy nát hết. Nguyễn Bật ôm bạn khóc rống lên:
- Trăm khó khăn nguy hiểm lâu nay anh đều vượt qua dễ dàng mà giờ đây sao anh lại đành chết lãng nhách thế này trời ơi!
Một chốc sau thì ba người bạn kia kéo đến. Bọn họ vật vã khóc lóc vang động cả một vùng...
Hôm sau, bốn chàng tráng sĩ lo việc chôn cất người quá cố. Hai con cọp hạ được thì họ chỉ lột lấy một bộ da để dùng còn tất cả đều biếu không cho di dân. Vì sợ sói, heo có thể đào xác Đình Huy, mọi người bàn nhau lấy da con cọp làm quan tài cho chàng. Tới lúc này bọn tráng sĩ mới nghĩ đến lời nói đùa "da cọp bọc thây" của Lê Xướng có thể là một điềm miệng báo trước. Dân chúng cảm động nghĩa cử vì dân trừ hại mà hi sinh tính mạng của chàng tráng sĩ Đại Việt, kéo nhau đến dự đám táng rất đông. Mộ của Đình Huy đã được phủ ngập bởi vô số hoa dại muôn màu.
Bọn tráng sĩ che lều ăn ngủ bên mộ Đình Huy bảy ngày liền. Sau đó, họ làm một tiệc rượu chia tay bạn để ra đi. Nguyễn Bật thay mặt cho bốn anh em khấn nguyện:
"Anh cả kính yêu của chúng em,
Trước khi tới Chân Lạp, anh em ta đều thề nguyền quyết chung sức hỗ trợ công nữ dọn quang con đường cho dân tộc ta tiến tới. Nay việc còn dang dở anh đã bỏ anh em mà đi như thế cũng ức lòng lắm. Chúng em xin hứa, sẽ tiếp tục theo đuổi sự nghiệp lớn lao ấy tới nơi tới chốn. Anh cứ yên lòng mà ở lại chốn này, xương thịt anh sẽ hòa cùng đất cát của sông núi, linh hồn anh sẽ hòa nhập với khí thiêng của sông núi. Hãy phù hộ cho chúng em sớm hoàn thành tâm nguyện. Chúng em xin dâng anh một bài thơ:
Cay đắng làm chi thế hở trời!
Anh đi đau xót lắm anh ơi!
Diệt Xiêm ra sức còn vang tiếng,
Khử bạo sa cơ luống nghẹn lời!
Nợ chúa sớm đền, đau phận mỏng,
Ơn nhà chưa trọn, lạnh thân côi
Ngàn sau sông núi oai hùng ấy,
Vẫn mãi ghi công nghiệp của người!" (NVT)
Thế rồi bốn anh em đều rót rượu xuống mộ Đình Huy, bái lạy mà giã từ.
Lúc bấy giờ tình hình di dân sống trên đất Chân Lạp đã tương đối ổn định. Bọn tráng sĩ tuy quen thú giang hồ mạo hiểm nhưng xa quê lâu quá không sao khỏi nhớ nhà. Thế là họ bàn nhau về Thuận Hóa một chuyến, trước là báo cáo công tác thẳng với chúa Nguyễn, sau thăm nhà luôn thể.
***
Về tới Thuận Hóa, bốn tráng sĩ cùng vào bái yết chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Lúc bấy giờ chúa mới đã dời thủ phủ về làng Kim Long bên bờ sông Kim Trà (địa điểm thứ năm 1636-1687). Nguyễn Bật thay mặt đội bảo hộ lưu dân Đại Việt tâu trình với chúa tất cả mọi hoạt động của đội từ khi nhập cuộc cho đến giờ. Chúa Thượng khen ngợi những cố gắng phi thường của toàn đội và đặc biệt chúa rất cảm kích sự dũng cảm hi sinh của đội trưởng Trần Đình Huy. Sau đó chúa truyền dọn yến đặc biệt để đãi các tráng sĩ tại nhà riêng.
Khi người quản gia dâng trình quà phương xa của nhóm tráng sĩ, chúa Thượng vô cùng ngạc nhiên. Trước mắt chúa là một quày chuối sứ, hai trái đu đủ và hai trái dưa hấu. Quày chuối gồm 15 nải và trái to gần bằng cườm tay. Những trái đu đủ cũng như dưa hấu đều lớn như con heo choi. Chúa Thượng hỏi:
- Các khanh lựa những trái lớn nhất đem về tặng ta đấy à?
Nguyễn Bật thưa:
- Trình chúa thượng, chúng thần không phải lựa chọn gì cả. Trên vùng Thủy Chân Lạp trồng chỗ đất nào cũng có thể cho quả lớn như thế cả!
- Thật ư? Thế ruộng lúa, đậu bắp ra thế nào?
- Ruộng lúa thì nông dân phải theo dõi mà hớt ngọn nhiều lần để giới hạn sức cao lớn của chúng hầu tránh gió mưa làm cây lúa ngã, bông lúa thường dài và nặng trĩu hạt. Chúng thần chưa hề thấy bên ấy mất mùa lần nào. Bắp đậu đều cây to thân vững nên đều cho quả dài hạt lớn. Nói chung trồng bất cứ thứ gì trên đất ấy đều cho kết quả tốt. Thật đúng là một xứ sở làm chơi ăn thiệt!
Chúa Thượng cười sung sướng:
- Ta từng nghe đất đai Chân Lạp màu mỡ không đâu bằng, rừng nhiều thú sông lắm cá, khí hậu lại điều hòa, ta vẫn tưởng tới một mức nào đó thôi. Không ngờ thực tế lại tới mức này. Giờ này ta mới thấy tận mắt những trái chuối, trái dưa, trái đu đủ lớn ngoài sự tưởng tượng của ta. Thật là một kho báu của trời cho. Ta phải tính gấp, không thể để xứ sở ấy lọt vào tay kẻ khác!
Chúa ban thưởng rất hậu cho cả bốn người. Chúa lại cho phép tất cả về thăm nhà và lo tính mọi việc trong một thời gian ba tháng. Hết hạn nghỉ, họ phải trở lại triều để nhận công việc.
Riêng trường hợp Trần Đình Huy, chúa cho mời gia đình đến để ban thưởng. Khi người em của Đình Huy là Trần Đình Vụ đến yết kiến, chúa đem tước An quốc hầu ban cho Đình Vụ. Nhưng Đình Vụ áy náy không dám nhận:
- Bẩm chúa thượng, anh thần lập công chứ thần có làm được gì đâu mà thưởng? Xin chúa thượng cấp cho thần vài mẫu ruộng để thần lấy hoa lợi lo hương khói cho anh thần là đủ rồi! Còn chức tước thần không dám nhận.
Chúa Thượng nói:
- Tiên huynh công nghiệp rất lớn, lẽ nào ta chẳng đền đáp xứng đáng cho người! Hơn nữa, việc phong tước này chính là di ý của tiên vương, ta đâu dám cải. Cứ theo lẽ, ta phong tước An quốc hầu cho Trần Đình Huy là người có công với nước. Đình Huy qua đời không con nối dõi, khanh là em ruột đương nhiên khanh là người được kế tập tước vị. Vậy khanh khá nên nhận tước phong để làm vẻ vang cho tiên tổ và cũng không phụ ý của tiên vương.
Trần Đình Vụ nghe chúa nói hết lời bèn vâng mệnh chịu phong.
Nhưng Đình Vụ phước mỏng, chỉ nhận tước hầu được hơn một năm thì qua đời. Tước vị An quốc hầu lại được truyền cho người con của Đình Vụ là Trần Đình Phẩm.
Sau ba tháng nghỉ ngơi và thu xếp chuyện gia đình, bọn Nguyễn Bật lại vào triều ra mắt chúa Thượng. Chúa lại sai bày một bữa yến để riêng đãi bọn họ. Trong bữa yến, chúa tôi đã cùng nhau tâm tình hết sức tương đắc. Sau đó chúa phán:
- Vấn đề bảo vệ di dân lúc nào cũng cần. Bây giờ ta lại nhờ chư khanh tiếp tục làm công việc cũ. Đáng tiếc là An quốc hầu không còn nữa! Chư khanh có thấy cần bổ sung thêm người không?
Nguyễn Bật thưa:
- Thật ra thì vấn đề di dân bây giờ tương đối ổn định hơn trước xa lắm. Bốn anh em thần gánh vác việc ấy quá đủ rồi. Xin chúa thượng cứ an lòng.
Chúa lại dặn:
- Tuy tình hình di dân đã khá, nhưng ở triều đình Chân Lạp thì có vẻ rối hơn trước. Vậy, nếu tình hình đòi hỏi, các khanh nên chia nhau về tăng cường giúp họ. Quan trọng nhất là phải gắng bảo vệ thái hậu Ngọc Vạn!
Chương 23:
Không khí ở kinh thành Oudong sau vụ ám sát hụt thái hậu Ngọc
Vạn đã trở nên ngột ngạt nặng nề. Để đề phòng những âm mưu đen tối của bọn phản
loạn, hoàng thân Outey cho tăng cường vệ binh canh gác rất kỹ những nơi trọng
yếu. Nhiều đội binh thay nhau tuần phòng liên tục trên các đường giao thông.
Dân chúng khi cần thiết phải di chuyển ban đêm đều phải thắp đèn, tuyệt đối
không được mang vũ khí bất cứ loại gì.
Ban ngày, khi nhà vua hay hoàng thân Outey đi đâu cũng lính tráng tiền hô hậu ủng rềnh rang hơn trước. Dân chúng phải tránh xa không được mon men bên đường dòm ngó như xưa.
Sau khi thái hậu rời núi trở về, việc bảo vệ an ninh kinh thành càng được tăng cường hơn. Người ta tin với sự bố phòng an ninh chặt chẽ như thế, bọn bất hảo sẽ không làm gì được nữa.
Năm Nhâm Thân, nhằm ngày giỗ vua Chey Chetta II, tất cả quan viên trong triều đều tập trung làm lễ ở nhà thờ hoàng tộc. Trong lúc thái hậu cùng vua Chau Ponhea To và các quan đang quì lạy dâng hương thì bất ngờ một mũi phi đao từ đâu phóng tới cắm phập vào gáy nhà vua. Ngài chỉ kịp "ối" một tiếng rồi ngã ra chết ngay tại chỗ. Các quan nhốn nháo hỗn loạn lên một hồi. Hoàng thân Outey lập tức ra lệnh bao vây ngay toàn bộ khu vực chung quanh nhà thờ hoàng tộc rồi cho tăng cường người để lục soát.
Trong lúc quân lính đang lùng sục mọi nơi thì một người Tàu ăn mày rách rưới, què chân, nói ngọng chỉ tay vào một tòa dinh thự lớn mà nói:
- Các ông cứ lục soát trong nhà này thì thế nào cũng bắt được tên thích khách. Chính mắt tôi trong khi nằm nghỉ bên vệ cỏ đã thấy một người Tàu trông dáng khả nghi, nhảy qua hàng rào nhanh như một con sóc chạy vào nhà này.
Viên chỉ huy đám quân lính hỏi lại:
- Ngươi nằm ở chỗ nào và thấy tên kia từ phía nào đến?
Người ăn mày chỉ vào một lùm cây thấp ven đường:
- Tôi nằm nghỉ ở nơi đó.
Rồi gã lại chỉ tay về phía một ngôi nhà nằm đúng hướng thẳng về nhà thờ hoàng gia mà tiếp:
- Tôi thấy hắn từ trên mái nhà kia nhảy xuống, băng qua đường và nhảy lẹ qua cánh cổng nhà này!
- Hắn có thấy ngươi không?
- Chỉ tôi thấy hắn chứ hắn làm sao thấy tôi được!
Viên chỉ huy nhìn ngôi dinh thự rồi nói:
- Đây là tư dinh của đại thần Mông Cun, không có lệnh của vua bố tôi cũng không dám cho lục soát!
Mông Cun bấy giờ đang là một vị trọng thần trong triều. Trước đây ông là cánh tay phải của vua Soryopor, một người triệt để thân Xiêm. Khi thấy dân chúng Chân Lạp quá thù hận người Xiêm, muốn nổi loạn, vua Soryopor phải nhường ngôi cho con là vua Chey Chetta 2 thì Mông Cun cũng theo chiều gió mà đổi hướng. Sau này, thấy người Việt sống tràn lan trên đất Thủy Chân Lạp, Mông Cun cũng như nhiều đồng liêu của ông đâm ra nghi ngại lo sợ. Thế là nhóm này ngầm kích động tinh thần độc lập của dân bản xứ cũng như lòng ganh tị của các sắc dân khác khiến họ thêm bất bình, oán ghét người Việt. Lúc này tinh thần bài Việt trong dân chúng Chân Lạp đang lên cao cho nên số người trong triều về hùa với Mông Cun cũng gia tăng. Do đó uy tín, thế lực của Mông Cun càng lớn.
Vì thế, viên đội chỉ dám cho canh chừng ngôi dinh thự rồi hỏa tốc cho người về báo sự việc lên quan phụ chánh để xin chỉ thị.
Hoàng thân Outey nghe báo bèn cử hoàng thân Nặc Nậu dẫn một đội vệ binh đến xem xét và giải quyết. Đến nơi, hoàng thân Nặc Nậu liền gọi tên ăn mày lại hỏi han cặn kẽ mọi điều. Ông thấy lời tên ăn mày có vẻ ăn khớp với sự kiện vừa xảy ra, lại cũng ăn khớp với mối nghi ngờ của một số quan lại trong triều về biến cố trước kia nữa. Thế là ông cho rải binh ra bao quanh cả ngôi dinh.
Khi ấy đại thần Mông Cun ở triều cũng vừa về tới nhà. Thấy tình trạng như vậy ông bèn hỏi hoàng thân:
- Thưa hoàng thân, vì cớ nào ngài lại cho lính vây kín nhà lão phu như vậy?
Hoàng thân Nặc Nậu nói:
- Xin quan lớn thông cảm cho, có kẻ cáo rằng tên thích khách giết vua đã trốn vào nhà ngài.
- Như vậy hoàng thân cho rằng tôi chủ mưu hoặc chứa chấp tội phạm ư?
- Tôi không dám đoan quyết như thế, nhưng chẳng lẽ có kẻ báo như vậy tôi lại làm ngơ sao được?
- Thế bây giờ hoàng thân muốn gì?
- Tôi nghe nói ở nhà ngài có một võ sư người Tàu, xin mời ông ấy ra đây cho tôi gặp mặt được không?
- Thưa hoàng thân, nhà tôi trước đây có nuôi một vị võ sư để dạy con cháu thật, nhưng ông ấy đã về Tàu cả năm nay rồi!
- Vậy bây giờ không có người Tàu nào trong nhà ngài nữa ư?
- Nhất định không có!
- Người ta báo cáo là người Tàu này mới đến nhà ngài sáng nay. Ngài ở triều mới về chưa kịp vào nhà làm sao biết được trong nhà hiện không có người Tàu nào? Tôi đành phải xin lệnh xét nhà ngài vậy!
. Được, hoàng thân cứ tự nhiên, nhưng ngài nên nhớ rằng, xét nhà đại thần mà không tìm được bằng cớ gì thì ngài phải chịu hết trách nhiệm về sự vu khống bôi nhọ đại thần đấy! Đó là chưa nói ngài phải bồi thường những thất thoát vật chất do quân sĩ gây nên nữa.
Hoàng thân Nặc Nậu nghe đại thần Mông Cun nói như vậy cũng đâm ra dật dờ. Chuyện đâu đã chắc ăn, nếu lỡ có lục soát mà không có tên Tàu nào trong nhà Mông Cun thì ăn nói làm sao? Hoàng thân toan cho người về xin thỉnh ý thái hậu Ngọc Vạn hoặc quan phụ chánh thì tên ăn mày lại xin gặp ông.
Nguyên sau khi nghe tên ăn mày khai cặn kẽ việc trông thấy tên nghi can ám sát nhà vua như thế nào, hoàng thân Nặc Nậu sai cấp áo quần, cơm nước cho gã và giữ gã lại để nhận diện nghi can khi cần. Giờ thấy hoàng thân Nặc Nậu định không khám xét nhà ông Mông Cun, gã ăn mày lại xin gặp hoàng thân lần nữa.
- Sao, ngươi muốn gặp ta để nói gì nữa đây?
Tên ăn mày thưa:
- Thưa, tiểu dân xin lấy tính mạng mà bảo đảm tên sát nhân hiện ở trong nhà lão Mông Cun. Ngài cứ lục soát thế nào cũng bắt được hắn. Nếu tìm không có hắn, xin cứ chém đầu tôi đi!
Hoàng thân Nặc Nậu lại hỏi:
- Có thể nó có đến đây thật, nhưng nó lại đi nơi khác rồi thì sao?
- Bẩm đại gia, nhất định nó còn ở đây mà!
Hoàng thân Nặc Nậu vô cùng ngạc nhiên trước thái độ xác quyết chắc nịch của gã ăn mày. Tại sao gã này lại can thiệp vào một vụ án chết người mà gã chỉ là kẻ ngoại cuộc? Tất nhiên phải có một nguyên do! Nghĩ như thế rồi ông hỏi gã:
- Ngươi là ai? Theo ta suy đoán, chắc ngươi biết lý lịch người Tàu này?
Gã ăn mày ngẫm nghĩ chốc lát rồi thưa:
- Ngài đã hỏi, tôi cũng xin thưa thật đầu đuôi để ngài rõ. Tôi là Điền Khang, người Sơn Đông, vốn làm nghề bán thuốc. Còn hắn tên Tống Căn, cũng người cùng quê với tôi. Trước đây, vì chuyện ân oán giữa hai gia đình, hắn ỷ mạnh đã giết mất cha tôi. Tôi hận lắm, nguyện phải trả thù bằng mọi giá. Thấy mình chưa đủ sức, tôi bán cả nhà cửa ruộng vườn, đi tìm thầy học võ. Hình như biết được ý nguyện của tôi, hắn cũng bỏ đi lưu lạc giang hồ. Sau nhiều năm dò tìm, tôi mới biết được hắn đang sống ở Chân Lạp. Thế là tôi băng bộ vạn dặm đến đây tìm hắn. May mắn tôi được gặp lại kẻ thù. Nhưng than ôi, bấy giờ tôi mới biết được tài mình vẫn còn dưới tay hắn. Thay vì giết hắn, tôi đã bị hắn đánh gẫy chân, trụt lưỡi rồi quăng xuống một dòng nước lũ. Tôi tưởng đời mình đã kết thúc, nhưng còn may, một hiệp sĩ người Đại Việt đã cứu tôi, giúp thuốc men chữa vết thương cho tôi. Nghĩ rằng đời mình như đã bỏ rồi, nếu không trả thù được thì chết dưới tay hắn cũng cam. Thời gian gần đây, tôi dò biết chính hắn đang là một cánh tay đắc lực của đại thần Mông Cun, một kẻ đang mưu đồ đại sự. Vì thế, tôi giả làm tên ăn mày lê lết ở đây để chờ cơ hội phục thù...
Hoàng thân Nặc Nậu hỏi:
- Thế là hắn cũng không hề biết ngươi còn sống?
- Chắc thế. Hắn đã quăng tôi xuống dòng nước lũ đang chảy xiết cơ mà, làm sao hắn nghĩ ra tôi có thể sống được!
- Thế vị hiệp sĩ cứu sống ngươi bây giờ ở đâu?
- Bẩm, tôi chỉ tình cờ biết ông ta là người Đại Việt qua tiếng nói khi ông ta nói chuyện với mấy người bạn của ông ta. Ông ấy người cao lớn, tôi có hỏi tên họ nhưng ông ta không nói. Sau khi tôi đã lành vết thương thì chúng tôi chia tay. Bây giờ tôi cũng không biết ông ấy ở đâu nữa.
Ngừng một chút, gã ăn mày nói thêm:
- Muốn chắc, ngài nên cho võ sĩ canh chừng trên mái nhà thật kỹ. Nó có thể thoát bằng đường đó! Nó cũng có nhiều đệ tử giỏi nữa, ngài nên gọi thêm quân mới được!
Thế là hoàng thân Nặc Nậu mạnh dạn quyết định lục soát nhà đại thần Mông Cun. Ông cho gọi tăng cường thêm quân, vây kín cả khu vực. Ông còn cho một số võ sĩ thay nhau canh chừng cả trên nóc dinh thự. Sau đó, ông thân hành dẫn người vào dinh tiến hành cuộc lục soát.
Thấy toán vệ binh theo chân hoàng thân Nặc Nậu tiến vào nhà, đại thần Mông Cun chận lại phản đối:
- Hoàng thân nên biết rằng, nếu cuộc xâm phạm tư gia của đại thần này mà không kiếm ra được thích khách thì hoàng thân mắc tội lớn đấy nhé!
Hoàng thân Nặc Nậu dõng dạc:
- Dĩ nhiên ta đã làm ta sẽ chịu trách nhiệm chứ sao! Điều ta yêu cầu ngài là không được để người nhà làm trở ngại công việc của các viên chức triều đình. Nếu ngài vô tội, ngài muốn kiện cáo ra sao thì kiện!
Thế rồi đám lính lục xét gần hết những chỗ khả nghi trong dinh thự. Vẫn không có kết quả gì. Cuối cùng, chỉ còn một vuông gác nhỏ sát trần nhà, muốn lên đó phải bắc thang, là chưa xét được. Hoàng thân Nặc Nậu có vẻ phân vân nhìn vuông gác ấy. Đại thần Mông Cun thấy vậy cười xuề xòa chỉ lên nói:
- Nơi đó là chỗ tôi cất một ít đồ đạc quí giá cùng một số sách cổ, chắc hoàng thân không nghi có người ẩn núp được chứ? Vậy là hoàng thân khám xét thỏa mãn rồi nhé! Hoàng thân vì việc nước mà chẳng nể tình tôi chút nào nhưng tôi không vì thế mà buồn hoàng thân đâu. Giờ sao hoàng thân còn đợi gì mà chưa cho lính tráng ra ngoài để người nhà chúng tôi thu xếp đồ đạc lại?
Hoàng thân Nặc Nậu nói:
- Vuông gác đó tuy không thể ăn ở ngủ ngáy lâu dài được nhưng một hai người ẩn núp tạm thời cũng được chứ? Phiền ngài cho người dẫn nhân viên công lực lên xem một chút cho xong chuyện! Mình trong sạch thì đâu ngại gì?
Đại thần Mông Cun nổi giận:
- Hoàng thân ép người quá đáng đến thế ư? Ngài muốn xét cứ tìm cách lên đó mà xét! Tôi đã báo cho ngài biết rằng đó là chỗ tôi chứa đồ gia bảo, ngài cần cứ lên hay sai thuộc hạ lên đó mà lấy đi!
Hoàng thân Nặc Nậu nghe nói thế bực lắm, nhưng nếu cứ làm găng mà lỡ không có gì thật thì ăn nói ra sao! Ông bèn giả lả:
- Chẳng qua tôi cũng chỉ muốn làm cho sáng tỏ sự trong trắng của ngài thôi chứ ép uổng gì! Nếu ngài không vui lòng thì thôi, tôi sẽ cho rút quân.
Thế rồi hoàng thân bước ra ngoài, ông giận mình bợp chợp nghe lời tên ăn mày Điền Khang đến nỗi hành động hơi lố. Ông đang bực bội chưa biết tính sao thì Điền Khang lại xin ra mắt nữa. Hoàng thân lấy làm kỳ cho gọi đến ngay, trách:
- Ngươi đặt điều nói lôi thôi làm ta vừa mất mặt vừa chuốc thêm oán hận, bây giờ còn muốn nói gì nữa?
Điền Khang thưa:
- Tôi xin đem cái đầu tôi để bảo đảm Tống Căn vẫn còn ở nhà lão Mông Cun. Đằng nào ngài cũng lỡ làm mất lòng lão Mông Cun rồi còn ngại gì nữa. Tên Tống Căn nếu không ở vuông gác trên trần thì cũng ở một hầm bí mật nào dưới đất trong dinh. Ngài cứ cho lính canh chừng riết tới ngày mai ngày mốt thế nào nó cũng phải lộ diện!
Vị hoàng thân nghe nói có lý, ra lệnh cho lính canh chừng cả trong lẫn ngoài dinh thự. Buổi tối, một toán lính dọn chỗ ngay dưới vuông gác chứa sách và bảo vật của Mông Cun để ngồi uống nước. Chúng vừa uống được vài hớp thì một tên kêu lên:
- Mẹ kiếp, con thằn lằn ỉa ngay trên trán tôi!
Hắn đưa tay lên quẹt đi. Nhưng rồi hắn lại kêu:
- Mẹ nó, ỉa gì mà ỉa hoài vậy?
Hắn lại đưa tay lên quêït rồi đưa lên mũi ngửi, hắn khịt khịt:
- Thằn lằn gì mà ỉa toàn cứt nước lại hôi xon như nước tiểu!
Tên lính toan đứng dậy tránh đi nơi khác thì hai giọt nước nữa liên tiếp tróc vào trán y dội bắn tung tóe. Những người ngồi gần đó đồng loạt kêu lên:
- Mùi nước tiểu anh em ơi! Khai thấy mẹ!
Một người nhảy ra chỉ ngay lên vuông gác:
- Có người ở trên đó thật rồi! Nó bí đái phải són ra nên giọt xuống đây chứ gì?
Thế là cả dinh thự được báo động. Hoàng thân Nặc Nậu liền truyền quân canh chừng đại thần Mông Cun và tất cả những người trong nhà. Đồng thời ông cho thắt chặt vòng vây và dõng dạc kêu gọi tên thích khách ra hàng.
Một chốc sau quả có tiếng trả lời từ trên vuông gác:
- Ta đã phạm tội đại nghịch giết vua há lẽ ra đầu hàng lại được tha ư? Ta không ngu đâu! Đừng kêu gọi vô ích! Hãy làm cách nào để giết ta bọn ngươi cứ thử xem? Ít nhất mạng này cũng đổi thêm được ít mạng nữa! Xin mời!
Thế là cả nhà đại thần Mông Cun lập tức bị bắt.
Nhưng người chỉ huy quân triều đình rất bối rối vì vị trí có tính cách "hiểm địa" của tên thích khách. Nếu bắc thang để tấn công thì người leo thang có khác chi làm mục tiêu cho hắn, ai dám đi đầu? Nếu bao vây mà chờ thì người ở dưới có thể bị hắn bất ngờ phóng phi đao giết hại. Ngón phi đao thần sầu của hắn đã giết tươi vua Chau Ponhea To ai mà chẳng ngán? Chỉ có cách đốt nhà mới mong diệt hắn nhanh gọn nhưng lại tiêu mất ngôi dinh thự đáng giá kia. Lại biết đâu trong khi lửa cháy mịt mù, trong thế đường cùng hắn có thể liều lĩnh thoát được vì hắn là một cao thủ phi hành? Chẳng lẽ một kẻ võ nghệ siêu quần như hắn lại chịu ngồi chờ đến khi đuối sức mà chết? Mọi người đang suy nghĩ nát nước để tìm một phương pháp triệt hạ hắn mà giảm thiểu được thiệt hại thì lại có tiếng từ trên vuông gác nói xuống:
- Ta là Tống Căn, người đã phóng dao giết vua Chau Ponhea To, ta sẵn sàng nạp mạng với một điều kiện, các người có chấp thuận không?
- Điều kiện gì?
- Ta còn có một mẹ già đang ở Oudong là người thân duy nhất. Xin đừng làm hại tới bà vì bà không có gì nguy hiểm cho các người cả. Sau khi ta chết, xin giao xác ta cho mẹ ta thiêu đốt thế nào tùy bà. Nếu vị nào đại diện cho triều đình chịu hứa thực hiện điều ước đó, ta sẽ xuống nôïp mình.
Hoàng thân Nặc Nậu nghe điều kiện của tên thích khách đưa ra cũng không có gì là quá đáng. Điều quan trọng là phải diệt mối nguy hiểm ở chính nó, đây là cơ hội để giảm thiểu thiệt hại nhất còn mong gì hơn nữa! Nghĩ thế rồi hoàng thân nói lớn:
- Ta là hoàng thân Nặc Nậu tuyên bố trước ba quân: Tên tội phạm thí nghịch Tống Căn xin nộp mình với điều kiện triều đình không làm tội bà mẹ của y. Sau khi tội phạm thọ hình, thân xác y được giao trả cho mẹ y lo việc thiêu đốt. Ta xin thay mặt triều đình Chân Lạp chấp thuận yêu cầu của tội phạm Tống Căn!
- Vậy, xin hoàng thân cho tránh ra một khoảng trống bên dưới cho tôi nhảy xuống!
Chốc sau, tên thích khách cao lớn tay không cầm vũ khí, không một cử chỉ kháng cự, đã xuất hiện trước mắt mọi người. Quân sĩ vui mừng xúm quanh y tới mấy vòng. Hắn thản nhiên đưa tay cho quân lính trói lại rồi dẫn ra bên ngoài. Hắn được điệu tới trước mặt hoàng thân Nặc Nậu.
Hoàng thân hỏi:
- Ngươi tên là Tống Căn?
- Thưa đúng, tôi là Tống Căn...
Bỗng có tiếng người từ bên ngoài kêu lớn:
- Hoàng thân lầm rồi, nó không phải là Tống Căn đâu, nó là tên giả mạo thôi!
Người kêu lên đó chính là Điền Khang. Hoàng thân liền hỏi Điền Khang:
- Ngươi chắc chắn hắn không phải là tên Tống Căn chạy vào nhà này sáng nay? Sao lại như vậy được nhỉ?
- Bẩm, quả vậy! Hắn chỉ là tên mạo nhận Tống Căn thôi! Xin ngài cho tìm bắt Tống Căn ngay kẻo nó thoát mất!
Hoàng thân Nặc Nậu giận dữ quay sang tên bị trói:
- Vậy mày là ai? Tống Căn đâu rồi? Tại sao mày dám mạo nhận là Tống Căn?
Tên bị trói cười ngạo mạn:
- Bây giờ thì Tống Căn đã đi xa rồi còn đâu mà tìm! Ta thế mạng hắn vì hắn cần sống để cứu nước Chân Lạp! Thật ra ta chỉ đánh lừa bọn ngươi thôi chứ thế mạng gì đâu. Không lý bắt được hắn các ngươi lại tha cho ta? Biết bị mắc mưu rồi hãy giết ta đi, hỡi tên hoàng thân bán nước ngu ngốc kia!
Hoàng thân Nặc Nậu giận điên lên, ông đâm một nhát kiếm lút ngực tên tù. Hắn ngã xuống mà không kêu một tiếng. Hoàng thân lại truyền lệnh tìm gấp tên Tống Căn nhưng quả thật hắn đã mất tăm tích. Thì ra, trong lúc tên Tống Căn giả hiệu nhảy xuống chịu trói, những võ sĩ mai phục trên mái nhà tưởng đã xong việc đều nhảy xuống đất hết. Tống Căn lợi dụng dịp này phá thủng một mảng ngói trên nóc mà thoát thân mất rồi.
Hôm sau, triều đình tổ chức lễ tấn phong cho hoàng tử Nou, em vua Chau Ponhea To, với sự tham dự của thái hậu Ngọc Vạn và hoàng thân Outey. Hoàng tử Nou lên ngôi vua lấy hiệu Chau Ponhea Nou. Tiếp đó, triều đình mới tổ chức tang lễ cho vua Chau Ponhea To. Vua Chau Ponhea To mất lúc mới mười một tuổi, làm vua được 4 năm, chưa lập gia đình.
Tấn phong tân vương xong, triều đình Chân Lạp liền cử hoàng thân Nặc Nậu điều tra vụ án giết vua Chau Ponhea To.
Nhưng hoàng thân Nặc Nậu chưa kịp thi hành lệnh thì lão Mông Cun đã tự tử trong ngục. Hoàng thân chỉ còn cách là đem những người trong gia đình Mông Cun ra tra hỏi. Họ đều khai rằng Mông Cun có nuôi hai võ sư người Trung Hoa là Tống Căn và Trịnh Bạt ăn ở trong nhà. Trịnh Bạt chính là người đã bị hoàng thân Nặc Nậu giết vừa rồi. Họ cũng khai có nhiều người Hoa hay lui tới giao thiệp với Mông Cun nhưng họ không rõ nội dung các cuộc giao thiệp. Vì thế, triều đình có nhiều người đoán rằng người Trung Hoa muốn giúp Mông Cun gây thế lực để tạo dựng một triều đình thân Trung Hoa. Một số khác thì cho rằng đó chỉ là âm mưu của một thế lực thân Xiêm. Chánh phạm Tống Căn là một tay võ nghệ siêu quần còn ở ngoài vòng nên triều đình Chân Lạp hoang mang lo sợ lắm.
Cuối cùng, cả gia đình Mông Cun đều bị xử tử. Triều đình cũng ra lệnh theo dõi kỹ những gia đình người Trung Hoa sống trên đất Chân Lạp. Một lần nữa, manh mối về vụ án lại coi như bị cắt đứt.
Ban ngày, khi nhà vua hay hoàng thân Outey đi đâu cũng lính tráng tiền hô hậu ủng rềnh rang hơn trước. Dân chúng phải tránh xa không được mon men bên đường dòm ngó như xưa.
Sau khi thái hậu rời núi trở về, việc bảo vệ an ninh kinh thành càng được tăng cường hơn. Người ta tin với sự bố phòng an ninh chặt chẽ như thế, bọn bất hảo sẽ không làm gì được nữa.
Năm Nhâm Thân, nhằm ngày giỗ vua Chey Chetta II, tất cả quan viên trong triều đều tập trung làm lễ ở nhà thờ hoàng tộc. Trong lúc thái hậu cùng vua Chau Ponhea To và các quan đang quì lạy dâng hương thì bất ngờ một mũi phi đao từ đâu phóng tới cắm phập vào gáy nhà vua. Ngài chỉ kịp "ối" một tiếng rồi ngã ra chết ngay tại chỗ. Các quan nhốn nháo hỗn loạn lên một hồi. Hoàng thân Outey lập tức ra lệnh bao vây ngay toàn bộ khu vực chung quanh nhà thờ hoàng tộc rồi cho tăng cường người để lục soát.
Trong lúc quân lính đang lùng sục mọi nơi thì một người Tàu ăn mày rách rưới, què chân, nói ngọng chỉ tay vào một tòa dinh thự lớn mà nói:
- Các ông cứ lục soát trong nhà này thì thế nào cũng bắt được tên thích khách. Chính mắt tôi trong khi nằm nghỉ bên vệ cỏ đã thấy một người Tàu trông dáng khả nghi, nhảy qua hàng rào nhanh như một con sóc chạy vào nhà này.
Viên chỉ huy đám quân lính hỏi lại:
- Ngươi nằm ở chỗ nào và thấy tên kia từ phía nào đến?
Người ăn mày chỉ vào một lùm cây thấp ven đường:
- Tôi nằm nghỉ ở nơi đó.
Rồi gã lại chỉ tay về phía một ngôi nhà nằm đúng hướng thẳng về nhà thờ hoàng gia mà tiếp:
- Tôi thấy hắn từ trên mái nhà kia nhảy xuống, băng qua đường và nhảy lẹ qua cánh cổng nhà này!
- Hắn có thấy ngươi không?
- Chỉ tôi thấy hắn chứ hắn làm sao thấy tôi được!
Viên chỉ huy nhìn ngôi dinh thự rồi nói:
- Đây là tư dinh của đại thần Mông Cun, không có lệnh của vua bố tôi cũng không dám cho lục soát!
Mông Cun bấy giờ đang là một vị trọng thần trong triều. Trước đây ông là cánh tay phải của vua Soryopor, một người triệt để thân Xiêm. Khi thấy dân chúng Chân Lạp quá thù hận người Xiêm, muốn nổi loạn, vua Soryopor phải nhường ngôi cho con là vua Chey Chetta 2 thì Mông Cun cũng theo chiều gió mà đổi hướng. Sau này, thấy người Việt sống tràn lan trên đất Thủy Chân Lạp, Mông Cun cũng như nhiều đồng liêu của ông đâm ra nghi ngại lo sợ. Thế là nhóm này ngầm kích động tinh thần độc lập của dân bản xứ cũng như lòng ganh tị của các sắc dân khác khiến họ thêm bất bình, oán ghét người Việt. Lúc này tinh thần bài Việt trong dân chúng Chân Lạp đang lên cao cho nên số người trong triều về hùa với Mông Cun cũng gia tăng. Do đó uy tín, thế lực của Mông Cun càng lớn.
Vì thế, viên đội chỉ dám cho canh chừng ngôi dinh thự rồi hỏa tốc cho người về báo sự việc lên quan phụ chánh để xin chỉ thị.
Hoàng thân Outey nghe báo bèn cử hoàng thân Nặc Nậu dẫn một đội vệ binh đến xem xét và giải quyết. Đến nơi, hoàng thân Nặc Nậu liền gọi tên ăn mày lại hỏi han cặn kẽ mọi điều. Ông thấy lời tên ăn mày có vẻ ăn khớp với sự kiện vừa xảy ra, lại cũng ăn khớp với mối nghi ngờ của một số quan lại trong triều về biến cố trước kia nữa. Thế là ông cho rải binh ra bao quanh cả ngôi dinh.
Khi ấy đại thần Mông Cun ở triều cũng vừa về tới nhà. Thấy tình trạng như vậy ông bèn hỏi hoàng thân:
- Thưa hoàng thân, vì cớ nào ngài lại cho lính vây kín nhà lão phu như vậy?
Hoàng thân Nặc Nậu nói:
- Xin quan lớn thông cảm cho, có kẻ cáo rằng tên thích khách giết vua đã trốn vào nhà ngài.
- Như vậy hoàng thân cho rằng tôi chủ mưu hoặc chứa chấp tội phạm ư?
- Tôi không dám đoan quyết như thế, nhưng chẳng lẽ có kẻ báo như vậy tôi lại làm ngơ sao được?
- Thế bây giờ hoàng thân muốn gì?
- Tôi nghe nói ở nhà ngài có một võ sư người Tàu, xin mời ông ấy ra đây cho tôi gặp mặt được không?
- Thưa hoàng thân, nhà tôi trước đây có nuôi một vị võ sư để dạy con cháu thật, nhưng ông ấy đã về Tàu cả năm nay rồi!
- Vậy bây giờ không có người Tàu nào trong nhà ngài nữa ư?
- Nhất định không có!
- Người ta báo cáo là người Tàu này mới đến nhà ngài sáng nay. Ngài ở triều mới về chưa kịp vào nhà làm sao biết được trong nhà hiện không có người Tàu nào? Tôi đành phải xin lệnh xét nhà ngài vậy!
. Được, hoàng thân cứ tự nhiên, nhưng ngài nên nhớ rằng, xét nhà đại thần mà không tìm được bằng cớ gì thì ngài phải chịu hết trách nhiệm về sự vu khống bôi nhọ đại thần đấy! Đó là chưa nói ngài phải bồi thường những thất thoát vật chất do quân sĩ gây nên nữa.
Hoàng thân Nặc Nậu nghe đại thần Mông Cun nói như vậy cũng đâm ra dật dờ. Chuyện đâu đã chắc ăn, nếu lỡ có lục soát mà không có tên Tàu nào trong nhà Mông Cun thì ăn nói làm sao? Hoàng thân toan cho người về xin thỉnh ý thái hậu Ngọc Vạn hoặc quan phụ chánh thì tên ăn mày lại xin gặp ông.
Nguyên sau khi nghe tên ăn mày khai cặn kẽ việc trông thấy tên nghi can ám sát nhà vua như thế nào, hoàng thân Nặc Nậu sai cấp áo quần, cơm nước cho gã và giữ gã lại để nhận diện nghi can khi cần. Giờ thấy hoàng thân Nặc Nậu định không khám xét nhà ông Mông Cun, gã ăn mày lại xin gặp hoàng thân lần nữa.
- Sao, ngươi muốn gặp ta để nói gì nữa đây?
Tên ăn mày thưa:
- Thưa, tiểu dân xin lấy tính mạng mà bảo đảm tên sát nhân hiện ở trong nhà lão Mông Cun. Ngài cứ lục soát thế nào cũng bắt được hắn. Nếu tìm không có hắn, xin cứ chém đầu tôi đi!
Hoàng thân Nặc Nậu lại hỏi:
- Có thể nó có đến đây thật, nhưng nó lại đi nơi khác rồi thì sao?
- Bẩm đại gia, nhất định nó còn ở đây mà!
Hoàng thân Nặc Nậu vô cùng ngạc nhiên trước thái độ xác quyết chắc nịch của gã ăn mày. Tại sao gã này lại can thiệp vào một vụ án chết người mà gã chỉ là kẻ ngoại cuộc? Tất nhiên phải có một nguyên do! Nghĩ như thế rồi ông hỏi gã:
- Ngươi là ai? Theo ta suy đoán, chắc ngươi biết lý lịch người Tàu này?
Gã ăn mày ngẫm nghĩ chốc lát rồi thưa:
- Ngài đã hỏi, tôi cũng xin thưa thật đầu đuôi để ngài rõ. Tôi là Điền Khang, người Sơn Đông, vốn làm nghề bán thuốc. Còn hắn tên Tống Căn, cũng người cùng quê với tôi. Trước đây, vì chuyện ân oán giữa hai gia đình, hắn ỷ mạnh đã giết mất cha tôi. Tôi hận lắm, nguyện phải trả thù bằng mọi giá. Thấy mình chưa đủ sức, tôi bán cả nhà cửa ruộng vườn, đi tìm thầy học võ. Hình như biết được ý nguyện của tôi, hắn cũng bỏ đi lưu lạc giang hồ. Sau nhiều năm dò tìm, tôi mới biết được hắn đang sống ở Chân Lạp. Thế là tôi băng bộ vạn dặm đến đây tìm hắn. May mắn tôi được gặp lại kẻ thù. Nhưng than ôi, bấy giờ tôi mới biết được tài mình vẫn còn dưới tay hắn. Thay vì giết hắn, tôi đã bị hắn đánh gẫy chân, trụt lưỡi rồi quăng xuống một dòng nước lũ. Tôi tưởng đời mình đã kết thúc, nhưng còn may, một hiệp sĩ người Đại Việt đã cứu tôi, giúp thuốc men chữa vết thương cho tôi. Nghĩ rằng đời mình như đã bỏ rồi, nếu không trả thù được thì chết dưới tay hắn cũng cam. Thời gian gần đây, tôi dò biết chính hắn đang là một cánh tay đắc lực của đại thần Mông Cun, một kẻ đang mưu đồ đại sự. Vì thế, tôi giả làm tên ăn mày lê lết ở đây để chờ cơ hội phục thù...
Hoàng thân Nặc Nậu hỏi:
- Thế là hắn cũng không hề biết ngươi còn sống?
- Chắc thế. Hắn đã quăng tôi xuống dòng nước lũ đang chảy xiết cơ mà, làm sao hắn nghĩ ra tôi có thể sống được!
- Thế vị hiệp sĩ cứu sống ngươi bây giờ ở đâu?
- Bẩm, tôi chỉ tình cờ biết ông ta là người Đại Việt qua tiếng nói khi ông ta nói chuyện với mấy người bạn của ông ta. Ông ấy người cao lớn, tôi có hỏi tên họ nhưng ông ta không nói. Sau khi tôi đã lành vết thương thì chúng tôi chia tay. Bây giờ tôi cũng không biết ông ấy ở đâu nữa.
Ngừng một chút, gã ăn mày nói thêm:
- Muốn chắc, ngài nên cho võ sĩ canh chừng trên mái nhà thật kỹ. Nó có thể thoát bằng đường đó! Nó cũng có nhiều đệ tử giỏi nữa, ngài nên gọi thêm quân mới được!
Thế là hoàng thân Nặc Nậu mạnh dạn quyết định lục soát nhà đại thần Mông Cun. Ông cho gọi tăng cường thêm quân, vây kín cả khu vực. Ông còn cho một số võ sĩ thay nhau canh chừng cả trên nóc dinh thự. Sau đó, ông thân hành dẫn người vào dinh tiến hành cuộc lục soát.
Thấy toán vệ binh theo chân hoàng thân Nặc Nậu tiến vào nhà, đại thần Mông Cun chận lại phản đối:
- Hoàng thân nên biết rằng, nếu cuộc xâm phạm tư gia của đại thần này mà không kiếm ra được thích khách thì hoàng thân mắc tội lớn đấy nhé!
Hoàng thân Nặc Nậu dõng dạc:
- Dĩ nhiên ta đã làm ta sẽ chịu trách nhiệm chứ sao! Điều ta yêu cầu ngài là không được để người nhà làm trở ngại công việc của các viên chức triều đình. Nếu ngài vô tội, ngài muốn kiện cáo ra sao thì kiện!
Thế rồi đám lính lục xét gần hết những chỗ khả nghi trong dinh thự. Vẫn không có kết quả gì. Cuối cùng, chỉ còn một vuông gác nhỏ sát trần nhà, muốn lên đó phải bắc thang, là chưa xét được. Hoàng thân Nặc Nậu có vẻ phân vân nhìn vuông gác ấy. Đại thần Mông Cun thấy vậy cười xuề xòa chỉ lên nói:
- Nơi đó là chỗ tôi cất một ít đồ đạc quí giá cùng một số sách cổ, chắc hoàng thân không nghi có người ẩn núp được chứ? Vậy là hoàng thân khám xét thỏa mãn rồi nhé! Hoàng thân vì việc nước mà chẳng nể tình tôi chút nào nhưng tôi không vì thế mà buồn hoàng thân đâu. Giờ sao hoàng thân còn đợi gì mà chưa cho lính tráng ra ngoài để người nhà chúng tôi thu xếp đồ đạc lại?
Hoàng thân Nặc Nậu nói:
- Vuông gác đó tuy không thể ăn ở ngủ ngáy lâu dài được nhưng một hai người ẩn núp tạm thời cũng được chứ? Phiền ngài cho người dẫn nhân viên công lực lên xem một chút cho xong chuyện! Mình trong sạch thì đâu ngại gì?
Đại thần Mông Cun nổi giận:
- Hoàng thân ép người quá đáng đến thế ư? Ngài muốn xét cứ tìm cách lên đó mà xét! Tôi đã báo cho ngài biết rằng đó là chỗ tôi chứa đồ gia bảo, ngài cần cứ lên hay sai thuộc hạ lên đó mà lấy đi!
Hoàng thân Nặc Nậu nghe nói thế bực lắm, nhưng nếu cứ làm găng mà lỡ không có gì thật thì ăn nói ra sao! Ông bèn giả lả:
- Chẳng qua tôi cũng chỉ muốn làm cho sáng tỏ sự trong trắng của ngài thôi chứ ép uổng gì! Nếu ngài không vui lòng thì thôi, tôi sẽ cho rút quân.
Thế rồi hoàng thân bước ra ngoài, ông giận mình bợp chợp nghe lời tên ăn mày Điền Khang đến nỗi hành động hơi lố. Ông đang bực bội chưa biết tính sao thì Điền Khang lại xin ra mắt nữa. Hoàng thân lấy làm kỳ cho gọi đến ngay, trách:
- Ngươi đặt điều nói lôi thôi làm ta vừa mất mặt vừa chuốc thêm oán hận, bây giờ còn muốn nói gì nữa?
Điền Khang thưa:
- Tôi xin đem cái đầu tôi để bảo đảm Tống Căn vẫn còn ở nhà lão Mông Cun. Đằng nào ngài cũng lỡ làm mất lòng lão Mông Cun rồi còn ngại gì nữa. Tên Tống Căn nếu không ở vuông gác trên trần thì cũng ở một hầm bí mật nào dưới đất trong dinh. Ngài cứ cho lính canh chừng riết tới ngày mai ngày mốt thế nào nó cũng phải lộ diện!
Vị hoàng thân nghe nói có lý, ra lệnh cho lính canh chừng cả trong lẫn ngoài dinh thự. Buổi tối, một toán lính dọn chỗ ngay dưới vuông gác chứa sách và bảo vật của Mông Cun để ngồi uống nước. Chúng vừa uống được vài hớp thì một tên kêu lên:
- Mẹ kiếp, con thằn lằn ỉa ngay trên trán tôi!
Hắn đưa tay lên quẹt đi. Nhưng rồi hắn lại kêu:
- Mẹ nó, ỉa gì mà ỉa hoài vậy?
Hắn lại đưa tay lên quêït rồi đưa lên mũi ngửi, hắn khịt khịt:
- Thằn lằn gì mà ỉa toàn cứt nước lại hôi xon như nước tiểu!
Tên lính toan đứng dậy tránh đi nơi khác thì hai giọt nước nữa liên tiếp tróc vào trán y dội bắn tung tóe. Những người ngồi gần đó đồng loạt kêu lên:
- Mùi nước tiểu anh em ơi! Khai thấy mẹ!
Một người nhảy ra chỉ ngay lên vuông gác:
- Có người ở trên đó thật rồi! Nó bí đái phải són ra nên giọt xuống đây chứ gì?
Thế là cả dinh thự được báo động. Hoàng thân Nặc Nậu liền truyền quân canh chừng đại thần Mông Cun và tất cả những người trong nhà. Đồng thời ông cho thắt chặt vòng vây và dõng dạc kêu gọi tên thích khách ra hàng.
Một chốc sau quả có tiếng trả lời từ trên vuông gác:
- Ta đã phạm tội đại nghịch giết vua há lẽ ra đầu hàng lại được tha ư? Ta không ngu đâu! Đừng kêu gọi vô ích! Hãy làm cách nào để giết ta bọn ngươi cứ thử xem? Ít nhất mạng này cũng đổi thêm được ít mạng nữa! Xin mời!
Thế là cả nhà đại thần Mông Cun lập tức bị bắt.
Nhưng người chỉ huy quân triều đình rất bối rối vì vị trí có tính cách "hiểm địa" của tên thích khách. Nếu bắc thang để tấn công thì người leo thang có khác chi làm mục tiêu cho hắn, ai dám đi đầu? Nếu bao vây mà chờ thì người ở dưới có thể bị hắn bất ngờ phóng phi đao giết hại. Ngón phi đao thần sầu của hắn đã giết tươi vua Chau Ponhea To ai mà chẳng ngán? Chỉ có cách đốt nhà mới mong diệt hắn nhanh gọn nhưng lại tiêu mất ngôi dinh thự đáng giá kia. Lại biết đâu trong khi lửa cháy mịt mù, trong thế đường cùng hắn có thể liều lĩnh thoát được vì hắn là một cao thủ phi hành? Chẳng lẽ một kẻ võ nghệ siêu quần như hắn lại chịu ngồi chờ đến khi đuối sức mà chết? Mọi người đang suy nghĩ nát nước để tìm một phương pháp triệt hạ hắn mà giảm thiểu được thiệt hại thì lại có tiếng từ trên vuông gác nói xuống:
- Ta là Tống Căn, người đã phóng dao giết vua Chau Ponhea To, ta sẵn sàng nạp mạng với một điều kiện, các người có chấp thuận không?
- Điều kiện gì?
- Ta còn có một mẹ già đang ở Oudong là người thân duy nhất. Xin đừng làm hại tới bà vì bà không có gì nguy hiểm cho các người cả. Sau khi ta chết, xin giao xác ta cho mẹ ta thiêu đốt thế nào tùy bà. Nếu vị nào đại diện cho triều đình chịu hứa thực hiện điều ước đó, ta sẽ xuống nôïp mình.
Hoàng thân Nặc Nậu nghe điều kiện của tên thích khách đưa ra cũng không có gì là quá đáng. Điều quan trọng là phải diệt mối nguy hiểm ở chính nó, đây là cơ hội để giảm thiểu thiệt hại nhất còn mong gì hơn nữa! Nghĩ thế rồi hoàng thân nói lớn:
- Ta là hoàng thân Nặc Nậu tuyên bố trước ba quân: Tên tội phạm thí nghịch Tống Căn xin nộp mình với điều kiện triều đình không làm tội bà mẹ của y. Sau khi tội phạm thọ hình, thân xác y được giao trả cho mẹ y lo việc thiêu đốt. Ta xin thay mặt triều đình Chân Lạp chấp thuận yêu cầu của tội phạm Tống Căn!
- Vậy, xin hoàng thân cho tránh ra một khoảng trống bên dưới cho tôi nhảy xuống!
Chốc sau, tên thích khách cao lớn tay không cầm vũ khí, không một cử chỉ kháng cự, đã xuất hiện trước mắt mọi người. Quân sĩ vui mừng xúm quanh y tới mấy vòng. Hắn thản nhiên đưa tay cho quân lính trói lại rồi dẫn ra bên ngoài. Hắn được điệu tới trước mặt hoàng thân Nặc Nậu.
Hoàng thân hỏi:
- Ngươi tên là Tống Căn?
- Thưa đúng, tôi là Tống Căn...
Bỗng có tiếng người từ bên ngoài kêu lớn:
- Hoàng thân lầm rồi, nó không phải là Tống Căn đâu, nó là tên giả mạo thôi!
Người kêu lên đó chính là Điền Khang. Hoàng thân liền hỏi Điền Khang:
- Ngươi chắc chắn hắn không phải là tên Tống Căn chạy vào nhà này sáng nay? Sao lại như vậy được nhỉ?
- Bẩm, quả vậy! Hắn chỉ là tên mạo nhận Tống Căn thôi! Xin ngài cho tìm bắt Tống Căn ngay kẻo nó thoát mất!
Hoàng thân Nặc Nậu giận dữ quay sang tên bị trói:
- Vậy mày là ai? Tống Căn đâu rồi? Tại sao mày dám mạo nhận là Tống Căn?
Tên bị trói cười ngạo mạn:
- Bây giờ thì Tống Căn đã đi xa rồi còn đâu mà tìm! Ta thế mạng hắn vì hắn cần sống để cứu nước Chân Lạp! Thật ra ta chỉ đánh lừa bọn ngươi thôi chứ thế mạng gì đâu. Không lý bắt được hắn các ngươi lại tha cho ta? Biết bị mắc mưu rồi hãy giết ta đi, hỡi tên hoàng thân bán nước ngu ngốc kia!
Hoàng thân Nặc Nậu giận điên lên, ông đâm một nhát kiếm lút ngực tên tù. Hắn ngã xuống mà không kêu một tiếng. Hoàng thân lại truyền lệnh tìm gấp tên Tống Căn nhưng quả thật hắn đã mất tăm tích. Thì ra, trong lúc tên Tống Căn giả hiệu nhảy xuống chịu trói, những võ sĩ mai phục trên mái nhà tưởng đã xong việc đều nhảy xuống đất hết. Tống Căn lợi dụng dịp này phá thủng một mảng ngói trên nóc mà thoát thân mất rồi.
***
Hôm sau, triều đình tổ chức lễ tấn phong cho hoàng tử Nou, em vua Chau Ponhea To, với sự tham dự của thái hậu Ngọc Vạn và hoàng thân Outey. Hoàng tử Nou lên ngôi vua lấy hiệu Chau Ponhea Nou. Tiếp đó, triều đình mới tổ chức tang lễ cho vua Chau Ponhea To. Vua Chau Ponhea To mất lúc mới mười một tuổi, làm vua được 4 năm, chưa lập gia đình.
Tấn phong tân vương xong, triều đình Chân Lạp liền cử hoàng thân Nặc Nậu điều tra vụ án giết vua Chau Ponhea To.
Nhưng hoàng thân Nặc Nậu chưa kịp thi hành lệnh thì lão Mông Cun đã tự tử trong ngục. Hoàng thân chỉ còn cách là đem những người trong gia đình Mông Cun ra tra hỏi. Họ đều khai rằng Mông Cun có nuôi hai võ sư người Trung Hoa là Tống Căn và Trịnh Bạt ăn ở trong nhà. Trịnh Bạt chính là người đã bị hoàng thân Nặc Nậu giết vừa rồi. Họ cũng khai có nhiều người Hoa hay lui tới giao thiệp với Mông Cun nhưng họ không rõ nội dung các cuộc giao thiệp. Vì thế, triều đình có nhiều người đoán rằng người Trung Hoa muốn giúp Mông Cun gây thế lực để tạo dựng một triều đình thân Trung Hoa. Một số khác thì cho rằng đó chỉ là âm mưu của một thế lực thân Xiêm. Chánh phạm Tống Căn là một tay võ nghệ siêu quần còn ở ngoài vòng nên triều đình Chân Lạp hoang mang lo sợ lắm.
Cuối cùng, cả gia đình Mông Cun đều bị xử tử. Triều đình cũng ra lệnh theo dõi kỹ những gia đình người Trung Hoa sống trên đất Chân Lạp. Một lần nữa, manh mối về vụ án lại coi như bị cắt đứt.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét