Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

15 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 35,36,37,38,39

Hồi 35: Khi 1 bà hoàng hậu đa tình thiếu yêu

Đại Ngọc Nhi vốn là một vưu vật trời sinh. Lúc lên bảy, nàng có lần theo bọn nô bộc đến mục trường du ngoạn.

Một vị Lạt ma tăng thấy nàng bèn nói:

- Vị cách cách này có cái tướng đại quý.

Bọn nô bộc đứng bên phá lên cười:

- Vị cách cách của bối lặc Khoa Nhĩ Bí bọn tôi chẳng cần phải nói cũng đã quý rồi. Hà tất phải nhắc điều đó.
Vị Lạt ma tăng lắc đầu nghiêm nghị, nói tiếp:

- Ta nói quý là cái quý của bậc đế vương kia!

Bọn nô bộc lại cười rộ:

- Ông sư này càng nói càng khùng rồi. Đất Mãn Châu này cũng như miền Nội Ngoại Mông, tìm đâu cho ra một ông vua chứ? Bộ ông muốn nói vị cách cách của bọn tôi lấy được hoàng đế của nhà Minh chắc?

Câu chuyện này được nhiều người truyền tụng sau đó. Mẹ nàng cũng thường lấy đó để đùa cợt nàng. Cho nên đối với nàng, câu chuyện đế vương coi như một hy vọng tương lai mà nàng thường ấp ủ trong tâm.

Lúc này trông thấy Hoàng Thái Cực trước mặt mình, nàng sực nhớ tới phụ thân chàng hiện đã làm hoàng đế rồi, chàng một ngày kia nhất định phải trở thành Thái tử. Ngoài cao vọng đó ra, nàng vốn có một đoạn ân tình nồng thắm với chàng. Lúc này đang gặp nạn, nàng lại càng phải sáng suốt và khôn ngoan hơn. Bởi vậy trong lòng nàng đã phát sinh ra một chủ ý.

Hai người trò chuyện với nhau trong cung cấm hồi lâu, bọn cung nữ đứng ngoài không ai dám tự tiện bước vào. Mãi sau từ phía trong mới có tiếng vọng ra bảo:

- Mau sửa soạn yên cương cho phúc tấn.

Sau đó, người ta chỉ thấy Hoàng Thái Cực và Đại Ngọc Nhi dắt tay nhau đi từ trong cung ra. Ngọc Nhi gọi bốn đứa thị nữ hầu cận cùng lên ngựa theo nàng. Chàng đem nàng về bản doanh của mình, không cho ai biết. Từ đó Đại Ngọc Nhị trở thành phi tử của Hoàng Thái Cực. Trong cung ai cũng gọi nàng là Cát Đặc phi tử. Hoàng Thái Cực nể tình nàng, cầu xin cha tha chết cho Đức Nhĩ Cách Lặc.

Trên đây đều là chuyện đã qua. Ngày nay tình thế đã đổi khác, Hoàng Thái Cực đã trở thành hoàng đế nước Kim, bèn sách phong người yêu xưa làm hoàng hậu, hiệu là Hiếu Trang Văn trong khi, người vợ cả chỉ được phong lam Quan Thư cung thần phi mà thôi.

Văn hoàng hậu thường ở trong cung Vĩnh Phúc. Thái Tông hoàng đế ngày ngày tới đây ngơi nghỉ. Các phi tần khác đừng hòng được một đêm ông lâm hạnh. Hoàng Thái Cực tuy làm hoàng đế nhưng vì quyến luyến cạnh Văn hậu nên việc quốc gia đại sự đều giao cho ba anh là Đại, Nhị, và Tam bối lặc chia nhau xử lý.

Hồi đó thân vương thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn tuổi mới 15, và thân vương thứ mười lăm là Đa Đạc tuổi mới 13. Văn hậu rất ưa thích hai anh em nhà này nên thường lưu lại trong cung đề bầu bạn với bà. Thái Tông hoàng đế nhớ đến cái chết thê thảm của bà Nạp Thích lúc trước thường bị lương tâm cắn rứt nên cũng biệt đãi hai anh em Đa Nhĩ Cổn.

Hơn nữa Cổn mặt mũi khôi ngô bảnh trai, tính lại khôn ngoan. Văn hậu đối đãi đặc biệt với Cổn cũng chính ở chỗ đó.

Người em gái bà tên Tiểu Ngọc Nhi cũng theo bà vào ở trong cung. Nàng cùng tuổi với Cổn. Bởi vậy hai người có dịp gần nhau, sớm cũng như chiều lúc nào cũng gặp mặt thành thử đâm thân nhau. Đã thế Tiểu Ngọc Nhi cũng có một sắc đẹp nghiêng thành chẳng thua gì chị. Cả hai chị em đều có màu da trắng đẹp như ngọc, cho nên cha mẹ nàng mới dùng chữ Ngọc để đặt tên.

Một hôm, vào buổi trưa hè nhàn nhã, Văn hậu vừa ngủ trưa dậy, không thấy Đa Nhĩ Cổn và Tiểu Ngọc Nhi đâu.

Bà đoán biết cả hai lúc đó hẳn tới vườn hoa du ngoạn nên đem theo vài đứa cung nữ đi vào vườn. Đến một cây hòe cao có bóng rợp che khắp cả một góc, bà nhác thất Tiểu Ngọc Nhi lúc đang ngồi dưới gốc một cây cổ thụ, trên một phiến đá vuông cạnh bờ hồ và không biết vì lý do gì đã làm nàng buồn giận mà Đa Nhĩ Cổn phải chắp tay lạy nàng, trong khi nàng quay mặt đi chỗ khác chẳng thèm để ý đến. Văn hậu thấy thế tức cười, nói một mình:

- Con nhỏ này kỳ thật! Tính khí vẫn trẻ con quá!

Bà tìm một phiến đá vuông bên cạnh hồ ngồi xuống rồi bảo cung nữ gọi hai người lại. Đa Nhĩ Cổn chạy tới trước mặt bà, được bà kéo vào lòng. Cổn vội quỳ xuống đất ngửa mặt nhìn lên. Văn hậu đặt hai bàn tay lên vai Cổn, nhìn thẳng vào mặt chàng.

Mãi lúc đó bà mới khám phá ra Cổn quả lả một trang thiếu niên xinh đẹp, mày chàng xanh, mắt chàng sáng, môi chàng đỏ, răng chàng trắng, cái gì trong con người của chàng cũng đều đẹp, đều đáng yêu đáng quý. Thế rồi bà nhịn chẳng nổi nữa, cúi đầu xuống đặt một cái hôn say sưa lên môi chàng và nói:

- Này thúc thúc! Thúc thúc yêu nó phải không? Ta gả nó cho thúc thúc nhé?

Đa Nhĩ Cổn vốn tính xảo quyệt khôn ngoan, nghe lời bà xong liền dập đầu tạ ơn. Lúc đó, Tiểu Ngọc Nhi cũng đứng bên cạnh bà. Nàng yêu Cổn nên khi thấy chị mình hôn vào miệng người yêu của mình thì lòng nàng bỗng nhiên nổi ngược máu ghen. Sau đó nàng lại thấy chị nàng hứa gả nàng cho Đa Nhĩ Cổn thì má nàng bỗng ửng đỏ, rồi vì mắc cỡ nàng quay người chạy trốn một mạch.

Buổi tối hôm đó, Văn hậu đem ý định của mình nói cho Thái Tông hoàng đế nghe. Ông xiết bao mừng rỡ lập tức truyền lệnh cho Nội vụ đại thần xây cất ngay một toà lâu đài cho Thập tứ thân vương ngay sau Diễn Khánh cung để chuẩn bị cuộc vui mừng.

Qua năm sau, Đa Nhĩ Cổn và Tiểu Ngọc Nhi đều mười sáu tuổi. Hai người làm đại lễ. Thật là một cuộc vui muôn phần náo nhiệt. Vợ chồng Cổn - Ngọc từ ngày cưới quả đã được hưởng hạnh phúc hơn người. Tình ân ái càng sâu như bể cả.

Cũng từ đó tình cảnh của Văn hậu càng ngày càng sa sút dần. Bà không còn có cô em gái và cậu thiếu niên Đa Nhĩ Cổn bên cạnh nữa. Thái Tông hoàng đế lúc này cũng thường tới các cung khác, hẳn ngài đã cảm thấy "ngon ăn mãi cũng chán".

Tình cảnh cô đơn khiến Văn hậu buồn bực vô cùng. Bà bèn đem bọn cung nữ cưỡi ngựa ra ngoài thành săn bắn làm vui như hồi còn con gái. Đối với người Mãn, việc săn bắn thường là một trò tiêu khiển. Bởi vậy Thái Tông hoàng đế thấy bà đi săn cũng chẳng ngăn trở gì.

Ai ngờ bà hôm nay đi săn, mai đi săn, đi riết rồi gây ra một mối kỳ duyên mà chẳng ai ngờ trước được.

Số là hôm đó, Văn hậu săn bắn trên một ngọn núi hoa cương, bỗng gặp một con heo rừng. Ngựa của bà là loại tuấn mã, nên bà bỏ xa đoàn tuỳ tùng. Tới một khu rừng con heo tinh quái chạy vòng hết gốc cây này tới mỏm đá nọ, khiến bà đã bắn cả chục mũi tên mà vẫn trật. Bà đuổi mãi tới khi người đã thấm mệt, mồ hôi nhễ nhại ướt đầm cả áo ngoài, hơi thở đã gấp gấp Giữa lúc đó, con heo rừng bỗng phát cáu, hộc lên một tiếng rồi quay lại xông thẳng vào bà; con thú hung hăng há cái mõm to tướng đỏ loét như chậu máu, để lộ những chiếc nanh to và nhọn hoắt. Văn hậu phát hoảng, tay chân run bắn lên, miệng la hét kêu cứu. Bỗng từ trong rừng sâu hai mũi tên phóng ra, trúng ngay vào hai lỗ tai con thú, không sai chệch một ly. Chỉ nghe một tiếng rú ghê rợn, con thú lăn quay ra đất, chết liền.

Bọn cung nữ cũng đã phi ngựa đuổi tới. Văn hậu lúc đó đã hoàn hồn, bèn bảo bọn chúng đi vào cánh rừng trước mặt tìm xem ai đã bắn thú cứu bà.

Không lâu la gì, hai tay đại hán từ trong rừng rậm đã chui ra, nhất tề quỳ xuống trước mặt bà. Văn hậu sai bọn cung nữ hỏi họ xem người ở địa phương nào thì hai tay đại hán vội vàng dập đầu luôn mấy cái và đáp lại:

- Bọn nô tài tên gọi là Vương Cao và Đăng Khoa Tử, đều người tỉnh Sơn Đông. Ông nội của bọn nô tài trước đây buôn bán miền quan ngoại, chẳng may thua lỗ, đành lưu lạc tha hương, kiếm ăn độ nhật tại vùng Liêu Dương, không có cách trở về quê nữa. Nhờ chút võ vẽ cung tên, bọn nô tài đi săn bắn làm kế sinh nhai, mong qua cơn túng quẫn. Mỗi khi săn được dã thú, bọn nô tài lại đem tới thành phủ Thuận bán. Mấy hôm nay thú rừng ít ỏi nên phải qua miền Thẩm Dương này săn bắn. Chẳng ngờ lạc vào vùng cấm địa, xúc phạm tới thánh giá của nương nương, kính mong nương nương tha thứ cho bọn nô tài hèn hạ!

Văn hoàng hậu thấy hai tay thợ săn người Hán ăn nói lanh lẹn, mặt mũi khôi ngô, trong lòng bỗng xúc động. Vừa rồi nếu không có hai tên này thì bà đã chết rồi còn gì. Bởi lễ đó, bà lại càng tỏ vẻ cảm kích bội phần. Bà còn nghĩ tới những lúc rỗi rảnh ở trong cung buồn như chấu cắn, cả ngày chỉ có bọn cung nữ loanh quanh bên cạnh thật là chán, chi bằng đem hai tên thợ săn hoạt bát lanh lợi này về để những lúc nhàn hạ chúng kể chuyện cho mà nghe có phải khoái không. Nghĩ tới đây bà bèn giật giật cương ngựa cho con ô truy của bà chậm rãi bước ra khỏi rừng.

Khi ra tới bên ngoài, Văn hậu gọi con cung nữ thân tín nhất của bà lại gần, ghé tai thì thầm những gì chẳng rõ, rồi bà đứng đấy chờ đợi. Một lát sau, con cung nữ đem hai tên thợ săn Vương Cao và Đăng Khoa Tử trở ra.

Văn hậu trông thấy họ cũng phải phì cười, vội lấy tay che miệng cho khỏi ngượng. Thì ra hai tên thợ săn đã cải trang thành cung nữ để theo bà lẻn vào cung. Từ đó, hai anh chàng thợ săn tha hồ phè phỡn trong cung cấm, sớm hôm thay phiên hầu hạ bà hậu, rồi những lúc rỗi rảnh, lại tỉ tê kể lể những chuyện tình tứ nơi làng xóm quê mùa cho bà nghe. Văn hoàng hậu vốn sinh trưởng nơi lầu son gác tía, nay điện này mai đài khác, thực quả chưa được nghe những chuyện này bao giờ.

Hơn nữa hai tên cung nữ đực nầy lại có tài kể chuyện, cho nên bà càng ngày càng cưng chúng. Bà từ đó yên lòng ở lỳ trong cung, chẳng thèm đi săn để mua vui bán sầu nữa.

Thái Tông hoàng đế bản tính anh hùng, vui chơi mãi với bọn phi tần cũng đâm chán. Ngài liên tục thiết triều, bàn tính việc quốc gia đại sự.


Hồi 36: Khoan Ôn Nhân Thánh Hoàng đế

Thấy Đa Nhĩ Cổn có công, Thái Tông hoàng đế tỏ ra hết sức thân thiết với em. Ngài thường truyền cho hai vợ chồng Cổn vào cung tiệc tùng. Văn hoàng hậu thấy Cổn đã trở thành một chàng trai đương sức, càng tỏ vẻ thân mật hơn. Bà thuộc nòi đa tình, thân thể ngọc ngà xinh đẹp, dù là ai khi nhìn thấy cũng khó thể không động lòng mê mẩn. Bởi vậy khi bà đưa trái cây cho Cổn, thì Cổn cũng vội đưa tay ra đón lấy và cố áp chạm vào da trắng muốt của bà. Làn da vừa trắng vừa mịn kia đã gieo một cảm giác kỳ lạ vào lòng chàng, tim chàng như ngừng đập. Cổn tự nhủ: da thịt của Tiểu Ngọc Nhi vợ chàng cũng trắng mịn và quyến rũ chẳng khác gì da thịt của chị nàng - còn gì mê ly hơn nếu ta được dịp du hành trên cả hai làn da tấm ngực ấy. Cổn chưa chịu để trí tưởng tượng chấm dứt nơi đây. Chàng còn tâm niệm một điều là quyết làm sao cho kiếp sống này phải có được những phút say sưa cuồng dại bên tấm thân ngà ngọc của bà chị vợ, thì dù có nát thịt tan xương chàng cũng cam lòng. Nghĩ tới nghĩ lui, Cổn mất cả tự chủ, đôi mắt chàng cứ chầm chập nhìn Văn hậu.

Văn hậu thấy đôi mắt Cổn nhìn bà đến ngây dại thì biết rằng lòng chàng đã có ý tưởng tội lỗi. Bà cũng nhìn thẳng vào mặt Cổn, thấy hàng mi chàng xanh, mắt chàng đẹp, môi chàng đỏ, răng chàng trắng vẫn giống in như ngày bà đã vì quá động tình đặt một cái hôn nồng cháy lên môi chàng dưới bóng cây hòe trong hoa viên. Bất giác lòng bà xao động mạnh, bứt rứt xốn xang. Bà vội quay mặt đi nhưng làm sao có thể che giấu được đôi má lúc đó đã ửng hông vì yêu đương, vì thèm muốn, vì xấu hổ! May thay, lúc đó Thái Tông hoàng đế đang mải nói chuyện với Tiểu Ngọc Nhi nên không lưu ý tới cuộc ngoại tình thầm kín đó của hai người! Tuy vậy cái tình cảm đó một khi đã gieo thì làm sao mà diệt, để rồi về sau một đoạn phong tình đã được thêu dệt tân kỳ, không ai thể ngờ trước được.

Phải chăng đó là duyên phận từ tiền kiếp của hai người, khó thể cưỡng lại định mệnh? Nhưng đó là chuyện về sau.

Qua ngày thứ hai, Thái Tông hoàng đế toạ trào, Võ Anh quận vương là A Tế Cách xuất ban tâu rằng:

- Tâu bệ hạ! Nay có Minh tướng là đê đốc binh đại nguyên soái Khổng Hữu Đức và Tổng binh quan Cảnh Trọng Minh đốc vận lương thảo, đem một vạn ba ngàn tám trăm bảy mươi tư tên quân sĩ tới hàng ta. Quân binh của hai tướng đang đồn trú tại An Đông. Hiện nay có hàng thư tại đây. Kính xin bệ hạ cho ý chỉ!

Nói đoạn, Cách hai tay dâng bức hàng thư lên ngự điện.

Thái Tông bóc thư xem. Thư đại lược nói:

"Trước đây, bản soái vâng lệnh điều quân Tây viện, nhưng tiền lương thiếu thốn, dọc đường lại bị nhân dân đóng cửa bãi chợ, cho nên ngày chẳng được ăn đêm chẳng được ngủ đành phải nhịn tức nuốt hờn. Bản soái hành quân tới Ngô kiều lại bị bọn ác quan ngăn chặn, đến nỗi quân binh nổi giận, phá tan Tân Thành, đánh chiếm Đăng Châu, sau đó thu phục thêm nhiều châu quận. Nhưng chẳng bao lâu viện quân khắp nơi kéo tới vây khốn quân của bản soái suốt nửa năm. Vì lương ít quân của bản soái đành phải bỏ Đăng Châu, vượt tới Quảng Hải đảo. Bản soái thừa cơ thu phục các đảo Quang Lộc, Trướng Sơn Thạch Thành. Từ lâu, bản soái đã có lòng ngưỡng mộ Minh Hãn coi như một tay anh hùng hảo hán trong thiên hạ, có cái chí cái tâm của Nghiêu, Thuấn, Thang, Võ. Bởi vậy bản soái nguyên đem quân đầu hàng, đặc sai phó tướng Lưu Thừa Tô, Tào Thiệu Trung làm quang dung, mong Minh Hãn thừa cơ hội tốt này để hoàn thành đại sự. Đó chính là trời ban phúc cho Mãn mà cũng là cái may lớn cho bản soái vậy!"
.

Thái Tông xem xong bức thư, bất giác cả mừng, lập tức truyền cho Lưu Thừa Tổ, Tào Thiệu Trung hai người vào bệ kiến. Ngài ngợi khen bọn Lưu, Tào mấy câu, rồi hạ lệnh cho Nhị bối lặc, Tam bối lặc, bối tử Bắc Lạc Nội, đại thần Đỗ Nhĩ Cách đem đại đội người ngựa tới An Đông đón tiếp nguyên soái Khổng Hữu Đức.

Minh triều cùng Triều Tiên được tin Khổng Hữu Đức, Cảnh Trọng Minh đóng quân trên bờ sông An Đông bèn điều động binh mã kéo tới chặn đánh. Quân Mãn xuất lực cự địch quyết liệt. Hơn nữa quân của hai tướng Khổng, Cảnh lâm vào tuyệt địa nên liều chết kháng cự, rốt cuộc được an toàn mà qua sông.

Thái Tông liền truyền dụ cấp nhà cửa ruộng đất cho cánh quân này ở miền Liêu Dương. Khổng, Cảnh trong lòng mười phần cảm kích, có ý muốn vào Hưng Kinh triều kiến Thái Tông để bày tỏ lòng ân. Họ thảo một tờ biểu tạ ơn như sau:

"Hoàng thượng vạn phúc vạn an. Bọn Đức tới nơi thì quan binh đều đã chuẩn bị. Nhờ được cấp dưỡng, ơn lớn như trời bể. Bọn Đức có ý muốn tới đô môn để tạ ơn, nghe lời chỉ dụ của hoàng thượng, được khấu đầu ở cửa khuyết. Biệt bao nỗi run sợ lo âu"
.

Nghe tin Khổng, Cảnh hai tướng muốn tiến kinh. Thái Tông hoàng đế bèn đích thân đem theo các bối lặc, đại thần ra khỏi thành đón rước. Khổng Hữu Đức và Cảnh Trọng Minh khi đi tới hữu ngạn sông Hỗn Hà, đã được bệ kiến nhà vua. Ngài ngự trong một cái lều lớn toàn bằng vải đoạn vàng. Khổng và Cánh vào trướng, nằm bò xuống mặt đất, dập đầu, miệng nói:

- Đa tạ ơn trời của hoàng thượng.

Thái Tông vội bước xuống, đích thân nâng hai người dậy. Ngài còn giơ tay ra ôm choàng ngang lưng họ. Bọn đại thần đứng hai bên thấy vậy ngạc nhiên, mặt biến sắc. Cái ôm đó chính là một hình thức lễ nghi của người Mãn, tỏ lòng vô cùng kính trọng. Nay Thái Tông dùng đến lễ nghi đó khiến cho bọn đại thần ngạc nhiên vì không hiểu tại sao ngài xem trọng bọn hàng tướng này đến thế.

Cuộc kiến lễ đã xong. Thái Tông hoàng đế ban yến ngay trong trướng. Ngài hạ thánh chỉ phong Khổng Hữu Đức làm Đồ nguyên soái và Cảnh Trọng Minh làm Tổng binh quan. Hai người lãnh chỉ tạ ơn.

Ngày hôm sau, Thái Tông hoàng đế trở về kinh. Khổng, Cảnh hai người cũng được đi theo. Suốt mấy ngày, các bối lặc, đại thần luân phiên nhau thế ngài để tiếp đãi hai người. Cứ môi ngày bãi trào trở về quán khách, Khổng Hữu Đức lại cùng với Cảnh Trọng Minh đàm luận đến ơn đức của Thái Tông mà chưa có cách gì đền đáp. Ít hôm sau, Khổng nghĩ ra được một cách mà y cho là đắc sách lắm. Tức thì Khổng cho mời một số lớn bối lặc, đại thần khắp Mãn Châu, Mông Cổ lại quán khách, thương nghị về việc tôn hiệu cho hoàng đế. Thế là cả bọn nghe theo, rồi giao cho Phạm Văn Trình thảo biểu văn.

Tờ biểu còn được viết ra ba thứ chữ Mãn, Mông, Hán.

Sáng sớm tinh sương Thái Tông thiết triều. Lại bộ kiêm Thạc mặc cẩn Căn Đại Thanh, bối lặc Đa Nhĩ Cổn bưng tờ biểu viết chữ Mãn, Khoa Nhĩ Bí quốc, Thổ Thạc Đồ Tế Nông bưng tờ biểu viết chữ Mông. Còn Khổng Hữu Đức bưng tờ biểu viết chữ Hán. Cả ba vị đại thần nhất tề quỳ xuống trước điện, đợi thị vệ quan bưng biểu văn lên đặt trên long án. Thái Tông cầm tờ biểu lên đọc. Biểu rằng:

"Chư bối lặc, đại thần, văn võ các quan, cùng các bối lặc nơi phiên ngoại, cung duy Thánh thượng, nhờ trời phò trợ, ứng vận mà hưng nghiệp. Giữa lúc thiên hạ hỗn loạn, ngài hữu đức, theo trời; kẻ nào nghịch lại thì dùng binh mà ra oai, kẻ nào thuận theo thì lấy đức mà vỗ về. Lòng khoan hậu, tính ôn nhu của ngài phổ độ tới muôn phương. Ngài chinh phục Minh triều, ngài thống nhất Mông Cổ - Ngài còn thâu được ngọc tỷ, khiến Nội Ngoại (Mông) hợp một tên. Trên thì hợp ý trời, dưới thì thoả lòng dân. Bởi vậy thần dân ngưỡng vọng lòng tôn kính dâng tôn hiệu. Nghi lễ mọi thức đều đã hoàn bị. Rất mong thánh thượng doãn tứ, để thần dân khỏi thất vọng"
.

Thái Tông hoàng đế xem biểu bèn nói:

- Hiện nay thời cuộc chưa yên. Lúc này chinh là lúc dùng binh, làm gì rảnh rỗi mà nghĩ tới điều đó.

Các bối lặc, đại thần nhất tề khuyến giá. Mọi người đồng thanh nói:

- Xưa nay thường nói: danh có chính thì ngôn mới thuận. Hoàng thượng công trùm hoàn vũ. Nay hoàng thượng dùng binh đánh Minh quốc thì trước hết phải có tôn hiệu, rồi sau hạ chiếu thư chiến đấu với Minh triều mới phải.

Thái Tông hoàng đế nghe bọn triều thần nói có lý, bèn gật đầu ưng chịu. Thế là ngài cho chọn ngày tốt, tế cáo trời đất, vâng chịu tôn hiệu "Khoan ôn nhân thánh hoàng đế", đổi quốc hiệu ra Đại Thanh, cải nguyên Sùng Đức năm thứ nhất.

Ngày hôm sau, Thái Tông đem theo bọn bối lặc tới tế cáo nơi Thái Miếu, tôn ông Thuỷ tổ làm Trạch Vương, ông Cao tổ làm Khánh Vương, ông Tằng tổ làm Xương Vương, tôn ông nội làm Phúc Vương, tôn vua Thái tổ Nỗ Nhĩ Cáp Tề làm Võ hoàng đế. Và từ đó miếu thì gọi Thái miếu, lăng thì gọi Phúc lăng. Nhà vua lại phong Khổng Hữu Đức làm Cung Thuận Vương. Cảnh Trọng Minh làm Hoài Thuận Vương, các bối lặc, đại thần ai cũng được gia phong quan tước. Mặt khác ngài còn phong Duệ Thân Vương Đa Nhĩ Cổn làm Thống soái tiến quân tới sông Đại Lăng kịch chiến ba ngày ba đêm phá tan thành này, bắt được tướng Minh là Tổ Đại Thọ. Thọ bị bắt nhưng lại được thả ra cho trở về nước để giúp Thanh triều làm nội ứng. Cổn lại tiến quân vây chặt Cẩm Châu.

Tin thất thủ liên tiếp báo về Minh triều, Hy Tông hoàng đế bèn phong Hồng Thừa Trù làm kinh lược sứ, đem bọn Vương Phác, Tào Loan Giao, Mã Khoa, Ngô Tam Quế, Lý Phụ Minh, Đường Thông, Bạch Quảng Án, Vương Đình Thân, tám viên quan tổng binh cùng với hơn hai trăm viên tham tướng thu bị và mười ba vạn người ngựa tới Cẩm Châu. Minh quân đóng doanh tại phía bắc thành Tùng Sơn trên ngọn núi Nhú Phong. Đa Nhĩ Cổn được tin quân Minh binh thế lớn mạnh, sợ một mình địch không nổi bèn cho kỳ bài quan về Hưng Kinh cầu viện.

Thái Tông hoàng đế được tin đó lập tức điều động binh mã, thân hành chỉ huy kéo rốc tới Cẩm Châu, giao mọi việc quốc chính ở Hưng Kinh cho Trịnh Thân Vương Tế Nhĩ Cáp Lãng trông nom. Chẳng bao lâu, đại binh của Thái Tông đã kéo tới phía tây bờ sông Liêu Hà. Đa Nhĩ Cổn đi tiếp giá và thuật lại cho Thanh đế biết quân của Hồng Thừa Trù đã tấn công doanh trại của hữu dực quân do Thổ Tạ Đồ Thân Vương trấn đông nhưng đã bị đẩy lui.

Thái Tông nghe xong, im lặng chẳng đáp, cưỡi ngựa đem theo một số đông thân vương, đại thần tới chân núi Tùng Sơn để xem tình hình quân Minh. Khi về đến doanh ngài bèn hạ lệnh cho đại quân tản khai bao vây suốt một đoạn đường từ Tùng Sơn đến Hạnh Sơn, mặt khác đóng doanh trại từ Ô Cần Hà thẳng ra mai bờ bể, chặn con đường lớn.

Binh tướng Minh triều thấy bị quân Thanh bao vây kín khắp, kẻ nào kẻ ấy hoang hốt lo âu, đều có ý trốn chạy. Qua ngày thứ hai, vào giữa lúc còn mờ sương, tám viên quan Tổng binh của Minh triều đều mang quân bản hộ đánh trống thổi tù và xông thẳng xuống tấn công mặt trận do Cát Bố Thập Hiền chỉ huy.

Cát Bố Thập Hiền đã được mật kế của Thái Tông hoàng đế từ trước, chỉ im lặng đợi chờ, không trương cờ, không nổi trống. Hiền chờ quân Minh tiến sát đến cửa doanh, lúc đó mới phất ngọn cờ hồng, tức thì tứ phía trong doanh trại, vạn cây cung đều dương, vạn chiếc tên cùng bắn. Chỉ trong nháy mắt tiền đội tiên phong của Minh quân đã gục chết, ít nhất là bốn, năm trăm. Quân Minh hoảng sợ vội quay mình chạy trốn. Người ngựa phía sau không hay biết gì, vẫn tiến lên, phút chốc trở thành đại loạn. Quân Minh cứ thế tự đạp lên nhau, chết không biết bao nhiêu mà kể. Quân Thanh thừa thế đuổi theo Võ Anh quận vương, A Tế Cách, bối tử Bác Lạc Nội, đại thần Đỗ Nhĩ Cách bốn mặt giáp công quân Minh, đuổi đánh tới mãi Tháp Sơn, mười hai kho quân lương của Minh binh cất ở núi Bút Giá đều bị quân Thanh cướp mất.

Bọn quan tướng nhà Minh bị thua một trận liểng xiểng hoảng sợ quá định chuồn về nước, vội triệt thoái bảy doanh bộ binh đóng ở Tùng Sơn. Nhượng hồng kỳ binh của quân Thanh liền bố trí chặn đường. Hôm sau, Hồng Thừa Trù truyền lệnh dốc toàn lực đánh phá đoàn quân này. Hai bên tử chiến.

Giữa lúc kịch đấu một mất một còn, Minh quân bỗng thấy một chi quân mã, dương cao chiếc tán vàng phía dưới có một người oai phong lẫm liệt, với trên một con ngựa cao lớn. Quân Minh giật mình kinh sợ, vội trốn chạy về bản doanh. Thái Tông hoàng đế truyền lệnh đánh chiêng thu quân, một mặt triệu tập chư tướng vào lều nghị sự. Nhà vua nói:

- Trẫm xét thấy quân Minh cờ quạt trong trại không được chỉnh tề. Đêm nay thế nào chúng cũng bỏ trốn!

Nói đoạn, Ngài liền truyền cho Tả dực Tứ kỳ Bãi Nha Thích hợp với quân Mông Cổ của A Lễ Cáp, quân của Bố Cát Thập Hiền, bày thành trận tràng xà, dài suốt tới bờ bể, chặn đường rút lui của quân Minh.

Hồi 37: Khi người đẹp nỗi máu ghen

Đêm đó, vừa qua canh một, gió bấc bỗng nổi lên đập cành lá phần phật, tiếng sóng bể xô vào những mỏm đá ỳ ầm.

Trong ngự doanh của quân Thanh, những bó đuốc chưng cao sáng rực như ban ngày. Thái Tông hoàng đế ngồi trên ghế có trải tấm da beo. Rất nhiều mãnh tướng chia hai hàng tả hữu. Ở giữa đặt một chiếc bàn lớn trải rộng lên trên là tấm bản đồ Thái Tông đang chỉ bản đồ cho chúng tướng rõ tình hình thì một viên tướng từ ngoài chạy vào cấp báo:

- Người ngựa của quân Minh đang âm thầm di động, e rằng đêm nay chúng cướp trại, xin vạn tuế bảo trọng!

Thái Tông nghe xong cười nhạt nói:

- Lũ chuột ấy thì làm gì có cái can trường đó!

Câu nói đó chưa nói xong lại đã thấy thám mã vào cấp báo:

- Quân Minh đã bỏ trốn. Tổng binh Ngô Tam Quế, Vương Pháp, Đường Thông, Ma Khoa, Bạch Quảng Án, Lý Phụ Minh đem quân mã bộ xông qua mặt trận Cát Bố Thập Hiền để chạy trốn rồi!

Thái Tông chỉ nói một tiếng: "đuổi!", tức thì bọn mãnh tướng đứng hai bên tử hữu nhất tề chạy ra khỏi lều, đem quân truy kích về ngả bờ biển, ào ào như một trận cuồng phong. Thái Tông lại sai bọn tướng Mông Cổ Cố Sơn Ngạch Chân, A Lai Khố Lỗ Khắc, Nhĩ Hán Sát Cáp Nhị đem bản bộ binh tới Hạnh Sơn mai phục, hễ thấy địch quân là đem tận lực đánh giết, không được đuổi xa, cũng không được tự ý hồi quân. Ngài còn hạ lệnh cho Duệ Quận Vương Đa Nhĩ Cổn, Bối Tử La Thác Công Chuẩn Tế đem Tư Kỳ Bài nha thích binh cùng với binh của Thồ Tạ Đồ Thân Vương tiến gấp tới Cẩm Châu, chặn ngang đường lui của địch quân ở ngoài thành, trên con đường đại lộ Tháp Sơn. Lại sai Đạt Tề Kham Tân, Đạt Lý Nạp Lâm xuất lĩnh đội pháo thủ tới Bút Giá Sơn bảo vệ lương thảo. Cũng sai Chinh hoàng kỳ A Lễ Cáp Siêu Cáp, Trấn quốc tướng quân tôn thất Ba Bố Hải Độc, Chương Kinh Đồ Lại đem quân triệt đường địch binh ở Tháp Sơn. Lại sai thêm Anh Võ quân vương A Tế Cách đi bọc hậu, nếu thấy quân địch muốn trốn qua Tháp Sơn thì đem quân Ba Bố Hải Đồ Lại theo đường Ninh Viên thẳng tới Liên Sơn mà truy kích. Lại sai Bối Tử Bác Lạc đem quân từ đồn Tang Cát Nhĩ chặn đánh địch quân. Lúc đó thám mã cũng đã cho tin Trung lang Trương Nhược Kỳ của Minh triều đã lén từ cửa sông Tiểu Lăng mà trốn đi nên nhà vua lại sai Thượng hoàng kỳ Mông Cổ Cô Sơn Mai Lặc, Chương kinh Hổ Sát Cáp Nhĩ, bộ hạ Ba Đặc Ba đem quân tiến lên trận tiền truy sát.

Các lộ binh mã được lệnh đều nhất nhất hành động. Thương thay cho quân Minh bị quân Thanh truy sát, thây nằm như rạ khắp cả đồng ruộng, máu chảy thành sông, thây chất cao như núi. Tên nào còn sống sót thì chạy đông chạy tây, tan tác như gà mất mẹ.

Thái Tông hoàng đế thấy quân mình thắng lợi, thuận thế sai Đa Nhĩ Cổn, A Tế Cách điều động chủ lực quân tiến vây Tháp Sơn, đồng thời cho mười khẩu hồng y đại bác tăng sức đánh phá. Thành Tháp Sơn bị phá. Nhiều tướng Minh bị bắt sống, như Phó tướng Vương Hy Hiền, tham tướng Thôi Định Quốc, Đô Tư Dương Trọng Trấn. Tổng binh Ngô Tam Quế và vương phác vội chạy trốn qua ngã thành Hạnh Sơn như hai con chuột mất hang.

Thái Tông hoàng đế ngầm sai quân binh đào hào bốn mặt, rồi vây kín. Đêm đó, Minh tổng binh Tào Loan Giao cho lệnh triệt thoái cánh quân ở Nhũ Phong Sơn Quân của Giao kéo lại xông lầm vào doanh trại của Thái Tông. Nhà vua cưỡi ngựa, cầm đao, thân tự đốc chiến. Giao bị thương bỏ trốn về thành Tùng Sơn.

Lại nói Cát Bố Thập Hiền đem quân mai phục ở Hạnh Sơn qua ngày thứ ba, quả thấy bụi bốc tung trời ở trước mặt rồi một đội Minh binh chạy tới. Hiền cho thám sát thì biết đó là quân bản bộ của tống binh Ngô Tam Quế và Vương Phác định trốn chạy qua Ninh Viễn. Hiền án binh bất động, đợi cho một nửa số quân Minh qua khỏi, tức thì phát khởi hiệu pháo phục binh nhất tề đứng dậy xông tới, như một đàn sói nhảy vào đàn dê. Quân Minh chết mất đến ba bốn ngàn, những kẻ sống sót chạy tan mát hết. Ngô Tam Quế đem một số tàn binh trốn về địa phận Cao Kiều. Bỗng có tiếng còi nổi lên inh ỏi, quân Thanh mai phục trỗi dậy, đi đầu là một viên đại tướng cầm ngang ngọn giáo chặn đường. Viên tướng đó chính là Đa Đạc Đạc hú lên một tràng lớn vang động ca sơn cốc, khiến quân Minh giật mình hoảng sợ, chạy bừa vào cả doanh trại quân Thanh. Ngô Tam Quế cùng Vương Phác đơn thân độc mã, nhờ ngựa tốt mà trốn mất dạng.

Thật là một cuộc tàn sát khủng khiếp. Quân Thanh từ đầu tới cuối đã giết quân Minh đến năm vạn ba ngàn bảy trăm tám chục người, bắt được đến bảy ngàn bốn trăm bốn chục con ngựa sáu mươi sáu con lừa còn khôi giáp thì cũng đến chín ngàn ba trăm bốn mươi sáu bộ.

Đêm hôm đó, Thái Tông hoàng đế hạ lệnh mở tiệc khao quân. Giữa lúc đang nói cười ầm ĩ, bối lạc Nhạc Thác đứng dậy nói:

- Tâu hoàng thượng, xin cho phép thần đêm nay đem một cánh quân đánh lấy thành Tùng Sơn.

Thái Tông lắc đầu:

- Không được! Tướng sĩ của ta liên tiếp chiến đấu bao ngày đã mệt. Đêm nay, hãy ngơi nghỉ cho lại sức. Hơn nữa, người cũng chớ nên coi thường thành Tùng Sơn. Trẫm được biết trong thánh, tướng sĩ Minh triều rất nhiều: nào là Hồng Thừa Trừ. Khâu Dân Ngưỡng, Trương Đẩu, Diêu Cung. Vương Sĩ Trinh, nào là Tổng binh Vương Đình Thần, Tào Loan Giao, Tổ Đại Lạc. Bọn đại tướng tên tuổi ấy còn điều động dưới trướng đến ba vạn người ngựa để kiên thủ thành trì. Trong số này, đặc biệt có vị Hồng kinh lược là người mà trẫm quý nhất. Trẫm nghe nói y vốn là tay tài tử của Trung nguyên, lại am tường mọi việc, từ phong tục đến triều chính của Trung Quốc. Trẫm muốn thôn tính Trung nguyên, trước hết phải thuyết hàng vị kinh lược đại thần này mới có thể thành công được.

Thái tông nói vừa xong, từ dưới trướng một vị đại thần bước lên nói:

- Việc đó dễ lắm! Thần vốn có đôi phần giao tình với phó tướng Hạ Thừa Đức ở Tùng Sơn. Thần xin thân đi vào thành thuyết hàng họ Hạ trước, sau đó nhờ y giúp thần thuyết hàng Hồng kinh lược, há chẳng hay sao?

Thái Tông quay mặt trông ra, thì đó là bối lặc Đa Đạc.

Nhà vua bất giác cả mừng, liền nói:

- Ngự đệ chịu thân hành đi thuyết hàng, đó thực là cái may lớn cho nhà Đại Thanh ta.

Sau đó khuyến hàng thư được thảo lẹ. Đạc cầm thư đem theo năm trăm danh sĩ tiến vào thành Tùng Sơn. Hà Thừa Đức được thư có ý đầu hàng, nhưng Hồng kinh lược thì nhất định không, dù chết không chịu. Họ Hồng nói:

- Thành có thể phá, đầu có thể rơi nhưng kinh lược nhà Đại Minh Không thể hàng Thái Tông được tin hồi báo, nhăn trán suy nghĩ. Ngài sai quân sư Phạm Văn Trình lại viết một phong thư khuyên hàng, rồi sai họ Phạm đích thân cầm đi. Cứ như thế, liên tiếp gởi đi đến sáu bức mà vẫn không lay chuyển được lòng họ Hồng. Ông hạ lệnh đóng cửa thành, cự tuyệt cả sứ…

Thái Tông vô kế khả thi, chỉ còn cách buộc cáo thị khuyên hàng vào mũi tên bắn vào trong thành. Tờ cáo thị đại lược nói:

"Ta đem quân tới, biết viện quân của ngươi sắp sửa kéo ra. Nhưng ta đã vây khôn Tùng Sơn, từ nam cho đến bể, từ bắc cho đến núi, mọi đường đi đều bị cắt đứt. Ta lại còn chia quân đóng chặn các bộ. Quân của người, kẻ bị chết thì xác nằm khắp đồng, kẻ bị hất xuống bể thì máu đỏ mặt nước. Nay viện binh của ngươi đã tuyệt, đó là ý trời muốn giúp ta. Bọn ngươi sớm hàng, ta không sát hại. Hơn thế nữa, ta quyết sẽ bảo toàn lộc vị cho bọn ngươi. Bọn ngươi nên suy nghĩ kỹ!"
.

Vây hãm mãi tới ngày mồng một tháng chín, Thái Tông thấy Hồng Thừa Trừ không có ý hàng bèn đem theo tất cả nội ngoại chư vương, bối lặc, bối tử đài thần đốt nhang vái trời rồi sai Duệ Quận Vương Đa Nhĩ Cổn, Túc Quận Vương Hào Cách quay về giữ Thịnh Kinh, đồng thời hạ lệnh nhổ trại hướng phía Tùng Sơn tiến phát. Khi lâm hành, nhà vua còn truyền lệnh hễ ai gặp Hồng kinh lược thì phải bắt sống chứ không được giết. Ngài lại đích thân dẫn pháo đội Hồng y đại bác tới bắn phá Tùng Sơn. Hồng Thừa Trừ chỉ huy quân sĩ trung thành liều chết chống cự. Hai quân tương trì mãnh liệt không phân cao thấp. Bỗng có một phi kỵ chạy như gió cuốn vào ngự doanh, quân canh giữ cửa liền giữ lại.

Viên tướng nhảy xuống ngựa, bước vội vào trướng đặt bức văn thư lên mặt ngự án.

Thái Tông xem xong, bất giác giật nẩy mình. Thì ra đó là bức văn thư báo tang. Bà nguyên phối Quan Thư cung thần phi vừa mới mất. Tuy Thái Tông chỉ sủng ái có Văn hậu nhưng thần phi với ngài từ khi kết tóc xe tơ đã có một phen ân ái cũng không kém phần tha thiết say sưa. Tình thương cảm trỗi dậy, ngài oà lên khóc. Tức khắc, ngài giao phó binh sư lại cho các vị bối lặc, đêm ngày chạy vội về Thịnh Kinh.


Bà thần phi lúc trẻ cũng mười phần xinh đẹp, nếu có thua là chỉ thua cái phong lưu thế thái của Văn hậu mà thôi. Bởi vậy Thái Tông cũng thường lâm hạnh nhất là khi nghĩ tới cái ân nghĩa vợ chồng buổi ban đầu. Những lúc đó, Văn hậu nhìn thấy không khỏi ấm ức, nổi máu ghen.

Thái Tông xuất quân lần này, lúc lâm biệt, bà Thái phi vẫn còn khỏe mạnh như thường, chẳng có chút gì gọi là bệnh hoạn đáng lo ngại. Nào ngờ, nhà vua mới đi có mấy hôm mà bà đã mất. Đại học sĩ Hy Phúc Cương Lâm, Mai Lặc Chương Kinh Lãng Tăng Cơ, được tin bà Thần phi chết, vội chạy vào cung xem xét, thì thấy mặt bà vẫn tươi đẹp, thân thể vẫn mập mạp bình thường, không có gì tỏ ra bạo bệnh đến nỗi phải chết cả. Lâm xem rồi, tỏ vẻ lo âu, bèn nói:

- Hoàng thượng viễn chinh. Trong cung có đại biến. Nay mai trở về, Hoàng thượng hỏi ta, ta biết trả lời cách nào?

Lãnh Tăng Cơ đứng cạnh bèn nói:

- Việc đó quá dễ mà! Ta hãy gọi bọn cung nữ ở Quan thư cung tới, thẩm vấn chúng xem Thần phi chết lúc nào, và có ai ở cạnh đó. Ta sẽ bắt kẻ đó điều tra thì tất nhiên rõ chuyện.

Mấy lời nói đó truyền lẹ tới tai Văn hậu ở Vĩnh Phúc cung.

Bà giật mình hoảng sợ chân tay luống cuống cả lên. Bà vội sai một tên tiểu cung nữ đi mời vị Đại học sĩ vào cung, mặt khác cũng truyền lệnh cho Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn vào cung gấp. Thế rồi mấy câu nói thì thầm bên tai đã khiến vụ án tày trời kia chỉ như đống tro tàn trước gió.

Hồi 38: Quan Kinh Lược chỉ khoái gái

Qua ngày thứ hai, Đa Nhĩ Cổn sai Lãnh Tăng Cơ rời thành đi đón rước Thái Tông hoàng đế. Cơ vốn là tay tâm phúc của Cổn, y gặp Thái Tông tự nhiên có nhưng lời che đậy khôn khéo… Mặt khác Hy Phúc Cương Lâm đà được Văn hậu dặn trước nên chỉ xem xét qua loa thi hài Thần phi rồi cho khâm liệm và nhập quan ngay.

Về tới nhà, Thái Tông chỉ còn thấy một cỗ quan tài nằm đó. Ngài không muốn hỏi gì thêm mà chỉ cốt lo tang sự cho xong. Văn hậu còn quỉ quyệt hơn nửa bằng cách làm cho nhà vua vui thích mà quên đi nỗi bi thương đó. Bà đem đủ các thứ nghệ thuật quyến rũ mê ly để cung phụng nhà vua. Bên cạnh người đẹp như tiên nga giáng thế lại được thoả mãn đủ thanh sắc, Thái Tông hoàng đế quả quên đi lúc nào không biết mọi nỗi bi thương. Ngài cùng Văn hậu cười nói, như không có việc gì buồn bã vừa xảy ra. Văn hậu biết Thái Tông tính thích săn bắn chim muông, lại một dịp để hai người ôn lại mảnh tình xua, khiến Đế và hậu bỗng có lại những phút ân ái của buổi ban đầu. Đêm đó, hai người nằm ngủ ngay tại trong lều săn, tận hưởng những khoái lạc trời ban. Rồi từ đó, không còn ai có thể làm cho Đế và Hậu rời xa nhau được nữa.

Thái Tông hoàng đế đi săn đã qua ngày thứ tư, bỗng thấy người con trai cả Túc Quận Vương Hào Cách mặt hớn hở chạy vào trướng, thỉnh an rồi bẩm báo:

- Phụ hoàng, có chuyện mừng lớn! Số là thành Tùng Sơn đã bị con đánh phá tan hoang.

Nhà vua nghe xong, mặt tươi như hoa nở, kéo vội tay cạu con trai ngồi xuống hỏi han mọi việc. Hào Cách nói:

- Số là phó tướng Hạ Thừa Đức giữ thành Tùng Sơn cho người qua báo: y giữ mặt Nam thành ước hẹn đêm đó bắc thang lên bờ thành mà bò vào, y sẽ từ bên trong tiếp sức. Bởi vậy đêm khuya, con đem đại đội nhân mã tới mặt Nam, quả nhiên lọt được vào thành và đã bắt được Kinh lược Hồng Thừa Trù, Tuần phủ Khâu Dân Ngưỡng, Tổng binh Vương Đình Ngưỡng -Tào Loan Giao, Tổ Đại Lạc, Du Kích Tổ Đại Danh, Tổ Đại Thành, cả một bọn quan chức của Minh triều đồng thời còn giết chết Minh binh đến ba ngàn sáu mươi ba tên, bắt sống đàn bà trẻ con đến một ngàn hai trăm bốn mươi chín người, thu được khôi giáp cung tên đến hơn một vạn năm ngàn bộ, hồng y pháo điểu thương đủ cỡ lớn nhỏ đến ba ngàn hai trăm bảy mươi ba khẩu. Xin phụ hoàng mau về kinh định đoạt.

Thái Tông hoàng đế nghe xong mừng quá, phá lên cười ha hả, rồi hạ lệnh trở về Thịnh Kinh. Khi ngài về tới cung, các đại thần lân lượt xin vào khai báo quán tình. Ngài đều lấy lời hay ý đẹp an ủi khen lao. Ngài lại dặn dò không được ngược đãi người Hán, chuẩn y tấu chương của bối lặc Nhạc Thốt. Tấu chương xin rằng: "Hán quan hàng nhất phẩm, thì đem các nàng cách cách con các bối lặc mà thưởng cho làm vợ. Hán quan hàng nhị phẩm thì đem các tiểu thư con các đại thần mà gả cho làm vợ".

Thái Tông hoàng đế lại hạ đạc dụ: đưa Hồng Thừa Trù đến khách quán, đối xử một cách đặt biệt, hằng ngày phải đem bày yến tiệc để khoản đãi, lại chọn bốn cung nữ tuyệt đẹp tới hầu hạ đê tuỳ nghi sai khiến.

Lại nói Hồng Thừa Trù vốn là một vị trung thần của Minh Triều. Ông còn là một danh tướng. Nay bị quan Thanh bắt, ông liều một thác. Không ngờ khi đưa tới Thịnh Kinh, ông chẳng thấy Thái Tông truyền cho bệ kiến mà cũng chẳng thấy đem giết. Những viên quan tổng binh tay chân của ông kẻ thì bị giết, kẻ thì hàng, mấy hôm thôi đã không thấy một ai bên cạnh.

Ngẫm tới bản thân, ông thấy mình ở khách quán, hàng ngày ăn thì sơn hào hải vị, nằm thì nệm gấm gối hoa. Ông cho rằng Thanh triều đối với mình vẫn còn có ý dụ hàng. Ông quyết tuyệt thực để tìm cái chết, nhất định không ăn lấy một hột cơm, suốt ngày chỉ quay mặt về phía tây ngồi như tượng gỗ.

Thái Tông hoàng đế sai người tới khuyên ăn, ông cự tuyệt. Khuyên hàng, ông cũng chẳng nghe. Thái Tông nhịn đã quá mức, phát cáu. Ngài bèn truyền lệnh khoá trái cửa phòng, đuổi hết cung nữ ra ngoài. Hồng Thừa Trù không ăn uống đã mấy bôm. Tin này truyền tới tai Thái Tông ngài rất lấy làm lo rầu nói với bọn đại thần:

- Hồng kinh lược chẳng chịu đầu hàng, thế là cái mộng đánh chiếm Trung nguyên của trẫm không thể thành được nữa.

Ngài bèn hạ thánh chỉ:

- Hễ có ai kỳ mưu xảo kế thuyết được Hồng kính lược đầu hàng, sẽ được thưởng vàng vạn lạng.

Thánh chỉ vừa mới hạ, kẻ nào cũng ngốt của, xun xoe lập mưu định kế. Trong số đại thần, nhiều ông định đến thăm Hồng để chực khuyết thuyết, nhưng Hồng kinh lược chẳng thèm tiếp.

Đã bốn ngày không ăn uống, Hồng kinh lược đói đến cái độ ốm o, trông không còn ra người nữa. Đa Đạc mới nghĩ ra một kế. Đạc cho gọi thư đồng của Hồng, tên gọi Kim Thăng, vừa dỗ vừa doạ để hắn nói cho biết lúc binh sinh Hồng kinh lược thường ưa thích cái gì nhất. Thăng lúc đầu không chịu nói. Về sau, Đạc dặn bọn thị nữ trong phủ cho hắn ăn uống no say rồi đùa giỡn khiêu khích hắn. Trong đám thị nữ có một đứa khá sạch mắt, nước da trắng, mặt xinh, miệng tươi. Thăng xem chừng khoái lắm. Thế là con thị nữ khôn ngoan này liền lấy sắc để nhử hắn. Đêm rồi, trong chiếc chăn êm ấm, mùi mẫn đó, Thăng nói toẹt tính tình của chủ. Thì ra Hồng kinh lược nhà ta tính chỉ có thích gái mà thôi.

Tin đó truyền ra. Đạc vội chạy tới tâu với Thái Tông hoàng đế. Nhà vua tức khắc ra lệnh chọn luôn một lúc năm cung nữ tuyệt đẹp, thêm bốn cô gái Hán cũng tuyệt đẹp mới bắt được ở Tùng Sơn đưa vào quán khách. Không ngờ, Hồng kinh lược vẫn ngồi lý như tượng gỗ, chẳng thèm để mắt tới một cô nao.

Thái Tông hoàng đế nóng lòng sốt ruột, cả ngày chỉ ra thở vào than, rờ tay bút tóc, vô kế khả thi. Văn hoàng hậu ở bên cạnh thấy thái độ kỳ quặc của nhà vua chẳng hiểu tại sao, bèn hỏi. Lúc đó, Thái Tông mới đem chuyện Hồng Thừa Trù không chịu hàng ra nói với bà. Văn hậu nghe xong mỉm cười nói:

- Thần thiếp nghĩ rằng họ Hồng tuy thích gái nhưng những loại gái tầm thường y chẳng ham đâu. Về việc này xin bệ hạ khỏi lo. Hãy phó thác cho thần thiếp. Thần thiếp xin trong ba ngày thế nào cũng làm y qui hàng cho bệ hạ coi Thái Tông nói:

- Đâu có được! Khanh là người mà trẫrn sủng ái nhất. Khanh còn là một vị quốc mẫu. Nếu làm vậy điêu tiếng bay ra ngoài, thử hỏi trẫm còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ nữa.

Văn hậu nghe xong lại nói:

- Bệ hạ mưu việc lớn cho quốc gia mà còn tiếc một người đàn bà ư? Hon nữa tiện thiếp đi phen này là để biện sự cho bệ hạ, tình nghĩa vợ chồng của chúng ta vẫn còn đó chứ có mết đi đâu mà ngại. Nếu bệ hạ sợ câu chuyện lộ ra ngoài có hại cho thể diện của bệ hạ thì ta nên làm một cách bí mật.

Văn hậu nói tới đây thì Thái Tông hoàng đế nhìn thẳng vào mặt bà. Ngài nghĩ rằng với gương mặt này, kẻ có tim sắt gan đá cũng phải động lòng. Ngài thở dài nói:

- Thôi được, Hậu cố làm sao cho kín đáo, chớ để thiên hạ chê cười trẫm.

Văn hậu được thánh chỉ bèn trở về cung, trang điểm lộng lẫy. Bà búi tóc cao lên, thoa loại phấn hồng thanh cao, tô loại son tươi quý giá, cài những cành trâm toàn giác ngọc lưu ly óng ánh muôn màu. Thật là một trang giai nhân chim sa cá lặn, đổ nước nghiêng thành, có một không hai trên nhân thế. Trang điểm xong xuôi, Văn hậu lấy một cỗ xe, đem theo một cung nữ thân tín, lặng lẽ qua cửa ngách sau cung mà ra đi.





Bà tới quán khách, cho đánh xe lọt hẳn vào bên trong khu vườn. Rồi bỗng người ta thấy phủ dụ của hoàng đế niệm yết tại cổng quán, trên viết rõ rằng: "Bất luận quan hay dân, cấm không được bén mảng tới quán khách!".

Văn hậu bước vào quán, thấy Hồng Thừa Trù quả thật khôi ngô tuấn tú. Hồng đang ngồi xếp bằng trên ghế. Tính đến hôm đó, Hồng đã không ăn đến bốn ngày. Bởi vậy cơn đói hành hạ làm cho Hồng mắt hoa đầu nặng, thần trí hôn trầm.

Văn hậu bảo cung nữ đỡ Hồng từ ghế xuống giường rồi đi ra ngoài. Tứ bề im lặng, không còn một bóng người lảng vảng.

Văn hậu lúc đó mỏi bước lên giường co chân ngồi xuống. Bà đưa hai tay ra nâng người Hồng kinh lược lên rồi đặt ngồi vào lòng mình. Hồng Thừa Trù nhắm nghiền hai mắt, hôn hôn mê mê, lúc đầu mặc kệ cho ai muốn làm gì thì làm nhưng tới lúc này ông bỗng có cảm giác mình đang ngồi ở một chỗ vừa ấm lại vừa êm, có gì đó khác lạ. Rồi mùi hương phấn thơm tho ngào ngạt đập vào mũi ông khiến ngũ quan bị kích thích quá mạnh. Ông vốn thuộc loại đa tình trời sinh. Không gì có thể làm ông xúc động duy chỉ có nữ sắc là có thể buộc chân và xâu mũi ông mà thôi. Bởi vậy dù đến lúc sắp chết, cái thói đa tình vẫn ám ảnh ông như ma men. Huống hồ cái hương vị tiết ra từ làn da thớ thịt của Văn hậu lại là thứ hương vị đặc biệt chỉ mình bà có, thành ra Hồng kinh lược thấy trống ngực nổi lên thình lình, máu nóng chay ngược lên đầu ào ạt.

Ông mở choàng mắt giật mình bàng hoàng; một trang giai nhân tuyệt thế, tình tứ muôn phần, đang nhìn ông mà chúm chím cười. Thật là cái cười giá đáng ngàn vàng, cái cười của Dương Quý Phi, Bao Tự, của Tây Thi, mà trong đời ông mãi đến nay mới được thấy. Hồn phách Hồng kinh lược lúc này đã nhu bị thần tình câu trói. Ông không chịu nổi nữa đành thốt hỏi:

- Nàng là ai vậy?

Hồng kinh lược chỉ thấy cặp môi thắm của người đẹp rung động rồi bật lên tiếng cười ròn rã nhưng thật êm tai quyến rũ. Dứt tiếng cười người đẹp õng ẹo đáp:

- Kinh lược thật là một vị trung thân tuẫn quốc! Kinh lược muốn chết thì cứ chết đi, hỏi thiếp là ai để làm gì?

Hồng kinh lược nghe giọng nói của người đẹp thỏ thẻ chẳng khác gì tiếng oanh hót đầu xuân, bất giác tâm thần mê mẩn.

Tự nhiên, ông ngồi ngay người lại, hỏi tiếp:

- Ta tuẫn quốc là tuẫn với nước ta, có liên quan gì tới nàng?

Văn hậu hói:

- Thiếp lòng vốn từ bi, thấy kinh lược chịu khổ nơi đây, thiếp bèn xin tới đây cứu kinh lược sống thoát bể khổ đó thôi!

Hồng kinh lược nghe đến đây, cười nhạt nói:

- Nàng cũng dám tới đây để khuyên ta hàng nữa sao? Ta đã quyết. Chỉ vài ngày nữa là ta có thề mãn nguyện rồi. Nàng tuy đẹp thật nhưng ta chỉ nghe nàng khi nàng nói tới chuyện khác. Còn việc khuyên hàng thì ta chẳng bao giờ muốn nghe đâu! Thôi nàng đi đi!

Văn hậu nghe nói lại mỉm cười xích người sát lại bên Hồng kinh lược rồi lên tiếng thì thầm dịu dàng:

- Thiếp tuy chỉ là một đứa con gái, một mụ đàn bà nhưng cũng biết kính trọng cái khí tiết của kinh lược. Ý của kinh lược đã quyết, đâu có dám tới để phá hoại cái chí khí của kinh lược. Chỉ tại thiếp thấy tình cảnh của kinh lược thật đáng thương mà…

Văn hậu nói mới tới chữ "mà" thì Hồng Thừa Trù ngạc nhiên ngắt lời:

- Nàng thương ta cái gì?

Văn hậu nói tiếp:

- Thiếp xét thấy kinh lược quả xứng đáng một trang nam nhi. Khi còn ở nhà thì năm thê bảy thiếp, kêu tớ gọi hầu, nệm êm chăn ấm, áo gấm mũ cao, rượu nồng dê béo, thử hỏi còn ai tôn quý hơn kinh lược nữa? Thế mà nay, kinh lược vò võ, tứ cố vô thân, muốn chết mà chẳng chết được! Trong vài ngày nữa kinh lược tin chắc có thể chết được cho xong một kiếp người, nhưng đối với thiếp thiết tưởng vài giây đó dài lắm mà khổ lắm, làm sao chịu nổi! Đem so với năm ngày đã qua, hai ngày sắp tới có lẽ còn bi đát khủng khiếp hơn nhiều. Trời ơi! Một người tài hoa đáng yêu như kinh lược mà bị cái cảnh đó, há chẳng đáng thương sao?

Trong khi Văn hậu nói, hơi thớ và mùi hương phấn xông vào mũi Hồng kinh lược, tự nhiên ông cảm thấy thư thái trong lòng, tim ông lại một phen hồi hộp ước mong. Nhưng vụt nhớ tới bổn phận tới danh dự không những của riêng mình mà của cả một dân tộc, ông vội nhắm mắt lại, cố xua đuổi những ý tưởng nguy hại. Ông định lấy tay đấy người đẹp ra xa nhưng tiếc thay tay ông mềm như bún, không còn chút khí lực nào.

Mắt nhắm nghiền nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, Hồng kinh lược lại nghe thấy tiếng oanh thỏ thẻ, lần này còn pha lẫn những tiếng nấc, tiếng khóc da diết thiết tha, chứng tỏ một tấm lòng quý yêu ông vô cùng tận:

- Hàng thì kinh lược chẳng chịu hàng, chết thì kinh lược chẳng chết lẹ được, biết làm sao bây giờ? Thiếp có một chén thuốc độc nơi đây, kinh lược hãy uống đi, có thể chết ngay được để khỏi phải chịu khổ. Thiếp vì thương kinh lược nên mới tới đây cứu kinh lược thoát khỏi bể khổ đó thôi.

Hồng Thừa Trù lúc đó đã đói lả, xót xa khố sở đến cùng độ, nghe nói có rượu độc, mừng quá, vội mở mắt nhìn thấy người đẹp tay đang bưng một cái chén, bên trong dựng một thứ rượu màu vàng nhạt. Ông vội đưa tay ra giật lấy chén rượu độc đưa lên miệng uống ừng ực một hơi cạn chén, không còn sót lại một giọt. Văn hậu thu lại chiếc chén, để lên bàn, quay mình lại, đặt ông nằm xuống ngay ngắn cho ông đợi chết.

Sau đó, Văn hậu cũng nằm xuống cạnh Hồng kinh lược, không khác gì đôi vợ chồng mới cưới. Hổng kinh lược cố nhắm mắt để ngủ mà chẳng ngủ được, muốn chết ngay đi mà chẳng chết được. Mùi hương ngào ngạt mỗi lúc một nhiều xông vào mũi khiến Hồng kinh lược càng xao xuyến bâng khuâng. Rồi cứ mỗi lúc con lợn lòng của ông trỗi dậy thì ông lại cố đè xuống.

Không biết đã bao lần như vậy, ông cố sức thoát ra cái lưới tình đang vây quanh ông. Dần dần, ông thấy mình tỉnh táo hơn và có vẻ khỏe lên. Ông trằn trọc mãi mà chẳng ngủ được.

Văn hậu thấy tình cảnh khó khăn của Hồng kinh lược, bèn gợi chuyện. Lúc đầu Hồng kinh lược lờ đi, chẳng thèm để ý tới bà. Sau, Văn hậu lại lên tiếng hỏi ông:

- Quan kinh lược ơi! Trong phủ ngài có đến mấy dì mấy mợ? Dì nào, mợ nào trẻ nhất, thưa ngài?

Hồng kinh lược nghe mấy câu hỏi đó bỗng ông bồi hồi, tưởng nhớ tới cả một bầu tâm sự xa xôi. Lòng ông càng xao xuyến, càng sôi động, chẳng khác gì một nồi nước sôi không bớt lửa. Ông cảm thấy khó chịu quá. Người đẹp bên cạnh ông lại hỏi tiếp:

- Phen này kinh lược lìa nhà muôn dặm tìm chữ trung nơi quán khách, thôi cũng đành đi! Nhưng kinh lược có nghĩ tới người đẹp của kinh lược từ đây chỉ còn biết tìm kinh lược trong cơn mộng điệp nơi thâm khuê, dưới ánh trăng thu hay bên khóm hoa xuân mà thôi không?

Hồng kinh lược nghe tới đây không còn cầm lòng đặng, oà lên khóc, hai tay vươn ra ôm người đẹp vào lòng.

Hồi 39: Hồng Kinh Lược mê gái xin hàng

Người đẹp khuyên can an ủi mãi Hồng kinh lược mới thôi khóc. Ông thở dài nói:

- Việc đã đến nước này thực chẳng còn mong gì nhiều! Có điều lạ là thuốc độc uống vào mà sao không chết chớ?

Lời nói này khiến cho người đẹp lúc đó đang rúc đầu vào lòng ông, cất tiếng cười khanh khách. Hồng kinh lược ngạc nhiên hỏi tại sao thì nàng vội lấy tấm khăn hồng che miệng, vừa cười vừa nói:

- Thuốc độc đâu mà thuốc độc? Sâm đó, ông ơi! Thiếp thấy kinh lược đã đói quá đến không chịu nổi, cầu sống chẳng được mà cầu chết cũng không xong nên mới cho kinh lược uống sâm thang để tiếp sức cho đó! Sâm này vốn là loại sâm tốt do bộ lạc Cát Lâm tiến cống. Sâm thang này uống vào, dù có nhịn ăn đến sáu, bảy ngày trời cũng vẫn sống. Thế là từ nay kinh lược không chết được nữa đâu nhé.

Nói xong, nàng lại cười lên khanh khách, tiếng cười giòn tan mà êm tai lạ thường, khiến bất cứ ai khó tính đến đâu cũng không thể giận nàng được. Hồng kinh lược nghe nàng nói một hồi, mặt lúc thì hồng lên, lúc lại trắng bệch ra. Quả nhiên, ông thấy tinh thần càng ngày càng khoái sảng hơn, trong lúc đó người con gái lại ghé miệng sát tai ông thì thầm thiết tha:

- Kinh lược đại nhân ơi! Thiếp vẫn thấy kinh lược nên đầu hàng là phải! Vừa là để bảo toàn tính mệnh, vừa chẳng mất địa vị phong hầu, các bà, các dì ở nhà khỏi cảnh lạnh lùng cô độc mà lại không phụ tấm lòng thiếp đã hết mình khuyên giải và an ủi kinh lược…

Nói tới đây, người đẹp bỗng ngồi phắt dậy, một tay nâng cao mớ tóc mai cho cặp mắt xinh đẹp tình tứ đủ chỗ liếc sang Hồng kinh lược như để dò xét, cặp má đã hổng lại càng hồng thêm. Nàng cúi thấp dần xuống, đưa hẳn đôi má sát vào má ngài. Hồng kinh lược đến lúc này mắt đã đỏ ngầu, chứng tỏ sự rối loạn cùng cực trong lòng ông. Ông vội thu góp tinh thần và ý chí còn lại, nhẩy vọt xuống đất, quát một tiếng lớn rồi bảo:

- Ngươi là con dâm phụ nơi đâu dám tới đây để dụ hoặc lão phu?

Người đẹp nghe đoạn chẳng luống cuống chút nào, ngồi xếp bằng cạnh giường, đưa tay vào bọc lấy ra một chiếc ấn vuông bằng vàng, ném vào lòng viên kinh lược họ Hồng. Hồng kinh lược lượm lên xem, bỗng thần sắc biến cải,đôi chân ông mềm đi như bún. Ông vội, quỳ xuống đất, trước mặt người đẹp, dập đầu liên hồi mà nói:

- Ngoại thần tội đáng chết. Mong ơn cao này của nương nương, ngoại thần tình nguyện đầu hàng, xin được làm kẻ hầu hạ nương nương trước phượng giá thì may lắm?

Nguyên lại trên chiếc kim ấn có khắc hai hàng chữ, một hàng chữ Mãn và một hàng chữ Hán. Hàng chữ Hán có sáu chữ "Tỷ báu của cung Vĩnh Phúc". Hồng kinh lược đến lúc đó mới biết người con gái ngồi trên giường mình chính là người đẹp số một miền quan ngoại và cũng là đệ nhất quý phụ đất Mãn Châu: Hiến Trang Văn hoàng hậu. Hồng kinh lược vẫn không thôi dập đầu lia lịa, miệng cầu mong tha tội. Văn hậu thò cánh tay trắng như ngọc ra, kéo Hồng kinh lược từ dưới đất lên giường cùng ngồi. Lúc đó, kinh lược họ Hồng mới chú ý tới y phục của bà thì thấy bà vận một bộ áo váy kỳ bào màu hồng thắm, có giải vàng óng ánh. Chính bộ áo vừa đẹp vừa quý phái này đã bị nước mắt nước mũi ông làm hoen ố một mảng lớn. Ông càng cảm thấy xấu hổ khó coi. Ông lại bò rạp xuống giường, dập đầu mãi. Nhưng rồi từ đó kẻ tò mò không còn nghe được hai người nhỏ to trò chuyện gì nữa…

Chẳng mấy chốc trời sáng, Hồng kinh lược đang mơ màng bỗng giật mình tỉnh dậy. Ông nhìn quanh thì không thấy người con gái đẹp tối qua nữa. Ông bàng hoàng, bâng khuâng như người đang trong giấc mộng. Quả thật việc này khó hiểu vô cùng đối với ông. Bỗng bốn đứa cung nữ từ ngoài vào đem nước rửa mặt cho ông, rồi dâng lên một nồi cháo yến. Bên ngoài đưa vào một số danh thiếp. Rồi Duệ Quận Vương, Đa Nhĩ Cổn, Trịnh Thân Vương Tế Cáp Lãng, Túc Quân Vương Hào Cách, Bối lặc Nhạc Thác, Bối Tử La Thác, Đại học sĩ Hy Phúc, Cương Lâm, Mai Lặc Chương Kinh, Lãng Tăng Cơ, tất cả đều đích thân lại bái vọng. Đa Nhĩ Cổn nói:

- Hoàng thượng mười phần mong nhớ kinh lược. Thế nào cũng xin mời kinh lược vào cung bệ kiến.

Một lát sau, trong cung có lệnh truyền ra. Tuyên chiếu đưa vào quán. Hồng kinh lược bốn bên đầu được hót tóc cẩn thận, chỉ để lại một lọn tóc trên đỉnh, tết thành bím nho nhỏ, dài dài. Ông mặc bộ áo hồng đính hoa của hoàng đế ân thưởng, đường bệ bước ra khỏi quán, trèo lên ngựa. Phía sau có một bọn bối lặc, đại thần tháp tùng, rầm rầm rồ rộ kéo vào Đại Thanh môn.

Ngoài cửa lúc đó đã có bọn hàng tướng nhà Minh như Tổ Đại Thọ, Đổng Hiệp, Tổ Đại Lạc, Tổ Đại Bật, Hạ Thừa Đức, Cao Huân, Tổ Trạch Viễn, đứng chờ từ trước. Khi thấy Hồng kinh lược tới, cả bọn đều tiến lên đón, sau đó cùng theo gót họ Hồng qua cửa Đại Thanh, vào điện Đốc Cung, rồi điện Cần Chánh. Hai bên điện, ngự quân đứng thành hàng, uy nghiêm. dũng mãnh. Hồng kinh lược quỳ xuống trước điện, làm lễ "Tam quy cửu khấu", miệng tung hô: Hoàng đế vạn tuế!

Hành lễ xong, Thái Tông hoàng đế tuyên triệu Hồng Thừa Trù lên điện. Phía trái ngai vàng, có đặt một chiếc bàn sơn son thiếp vàng, trên bày một hồ lô vàng, một chén vàng, bình vàng đựng nước, một lư hương, hai thẻ nhang thơm. Đằng sau, có bốn tên thị vệ đứng hầu, mình mặc bộ áo màu xanh lục, thắt đai vàng, đầu đội lương mão.

Thái Tông hoàng đế đưa tay cho họ Hồng ngồi xuống. Ngài hỏi về chính giáo, lễ chế, về phong tục quần chế, rất tỉ mỉ, cẩn thận. Hồng Thừa Trù trả lời từng điểm rành mạch, lưu loát. Hai người trò chuyện bàn bạc đến mấy tiếng đồng hồ, lúc đó hoàng đế mới hồi cung.

Một đạo thánh chỉ truyền xuống, phong Hồng kinh lược là Nội viện Đại học sĩ, được ban yến ngay tại Sùng Chính điện.

Từ đó về sau, Thái Tông hoàng đế thường vì quốc gia đại sự, truyền triệu Hồng kinh lược học sĩ tiến cung. Văn hậu cũng ngồi một bên. Khi thấy Văn hậu, Hồng học sĩ bò rạp mình xuống đất, miệng xưng tội thần, và dập đầu đôi ba lần tỏ vẻ cung kính đến cùng độ. Văn hậu thấy vậy, chỉ mỉm cười, không nói câu gì.

Bởi vì hậu có công khuyên Trù đầu hàng, nên Thái Tông hoàng đế cũng biệt đãi bà. Nhiều lúc chính ngài chỉ Hồng học sĩ mà bảo là:

- Hồng học sĩ hàng hậu chứ thực chẳng phải hàng trẫm.

Thế là mọi người đều phá lên cười. Tuy nói vậy chứ thực ra người ta đã thấy có điểu khác lạ trong tâm hồn của nhà vua. Nghĩa là sau khi họ Hồng đầu hàng thì Thái Tông hoàng đế cũng nhạt tình với Văn hậu. Văn hậu cũng đoán biết rõ tâm ý nhà vua cho nên trong lòng bà, nỗi oán hận càng ngày càng tăng mà không biết thổ lộ cùng ai. Bà chỉ còn biết đem Vương Cao, Đặng Khoá Tử, hai người bầu bạn với bà, vào rừng săn bắn giải khuây.

Có một hôm, giữa lúc đi săn về, Văn hậu gặp Duệ vương Đa Nhĩ Cổn. Hậu cho gọi Cổn tới trừng mắt nhìn Vương nói:

- Lão Cửu! Mạnh giỏi chứ? Tại sao mấy hôm nay không vào cung?



Đa Nhĩ Cổn làm bộ ngạc nhiên nói:

- Trời! Cung cấm là nơi nào mà thần dám tự tiện? Không có lệnh truyền triệu đâu dám vào?

Văn hậu nghe Cổn nói chẩu mỏ xì một tiếng, vừa cười vừa mắng yêu Cổn:

- Rõ nỡm chưa! Lại còn làm bộ ngớ ngẩn với bà! Người đã là em rể ta, lại còn là em chồng ta thì còn gì mà phải giữ lễ với tiếng!

Nói xong, Văn hậu lấy roi ngựa khẽ đập một cái vào đầu Duệ vương, nói tiếp:

- Thằng khùng kia, cút đi cho rảnh mắt bà!

Duệ vương cúi đầu xá, rồi dắt ngựa quay đi, tai còn nghe Văn hậu dặn thêm ở phía sau:

- Ngày mai không vào cung, coi chừng đôi giò của ngươi nghe không?

Đa Nhĩ Cổn lúc đó đã nhảy lên lưng ngựa, nghe hậu nói vậy định quay ngựa lại. Cũng lúc đó, Cổn bỗng thấy hai đầu ngựa đã tiến lên, đi song hàng với con ngựa của hậu, bên trái là ngựa của Vương Cao, bên phải là ngựa của Đặng Khoá Tử.

Ba người vừa đi vừa tỏ vẻ thân mật, có những cử chỉ khiến Cổn đâm nghi. Bất giác một nỗi hờn ghen xông lên tận đỉnh, Cổn tự nhủ:

- Hai con rận lạc! Vô phúc cho tụi mày rồi! Đợi sáng mai, ta sẽ lượm hết tụi mày đi!

Ngày hôm sau, Đa Nhĩ Cổn quả nhiên vào cung tìm gặp ông anh thì thầm cho biết câu chuyện bọn Vương Cao hôm qua. Thì ra Thái Tông hoàng đế đã lâu cũng có lòng nghi bọn Cao rồi. Trước đó mấy hôm, khi vào cung Vĩnh Phúc ngài thấy ở một nơi xa, hoàng hậu đang cùng Đặng Khoá Tử ôm nhau. Nhưng ngài cho rằng mình mắt hoa trông nhầm, nên cũng bỏ đi không nói tới. Nào ngờ hôm nay nghe Cổn mách, ngài nhớ lại chuyện hôm trước mà lòng càng nghi già, và cuối cùng thì tin là thật. Ngài đột nhiên cả giận, tự nhủ: hai thằng lưu manh nếu để ở trong cung thì còn ra thể thống gì nữa, nhân dịp này nên lượm chúng đi cho xong.

Ngài tức tốc hạ lệnh thị vệ vào cung truyền gọi Vương Cao và Đặng Khoá Tử. Văn hậu giữa lúc đang cùng Cao, Tử đùa giỡn, thấy lệnh gọi, vội hỏi sự thể nhưng bọn cung nữ đều không ai rõ chuyện. Cao và Tử đành theo thị vệ ra bệ kiến Thái Tông, quỳ xuống dập đầu lạy. Thái Tông không nói chẳng rằng, chỉ đưa một lệnh tiễn cho Đa Nhĩ Cổn lôi bọn Cao ra ngoài thành chém đầu tức khắc. Đến khi Văn hậu được tin thì đã trễ, không có cách gì cứu nổi. Nhưng sau đó bà đã rõ rằng Cổn vì yêu mình nên đã giết bọn Cao. Từ đó Văn hậu không còn có bầu bạn, lòng những âu sầu.

Thái Tông hoàng đế hồi đó, có chuyện lôi thôi với Triều Tiên, thành thử ngài bận bíu suốt ngày, lúc nào cũng cùng với bọn bối lặc, đại thần bàn tính việc chinh phạt. Hoàng hậu vì thế càng cảm thấy lạnh lẽo đơn chiếc.

Tại sao Thái Tông hoàng đế phải xuất binh chinh phạt Triều Tiên? Câu chuyện xảy ra như sau: Vua Triều Tiên là Nhân Tổ, phản đối việc tôn hiệu Thái Tông. Đó là lý do thứ nhất. Lý do thứ nhì là chuyện khuyên Triều Tiên nên đầu hàng. Khi Hàn thị, phi tử của Nhân tổ chết, Thái Tông hoàng đế sai Anh Nga Nhĩ Đại, Mã Phúc Thái đi điếu rồi nhân dịp khuyên Nhân Tổ đầu hàng xưng thần. Tổ không những đã không chịu hàng, lại còn mai phục quân sĩ ở khách quán định ám sát sứ thần của Đại Thanh. Đại và Thái may thoát chết chạy về, kể hết mọi nội cho Thái Tông nghe. Nhà vua cả giận, lập tức điểm đủ mười vạn người ngựa, cùng bọn bối lặc, đại thần ngự giá thân chinh đi đánh Triều Tiên.

Văn hoàng hậu được tin hoàng đế đích thân xuất sư, bèn nghĩ ra một chuyện. Bà chờ khi hoàng đế bãi chầu về cung, liền tự mình tới gặp. Văn hậu bèn hỏi:

- Bệ hạ xuất chinh phen này giao cho ai làm giám quốc?

Thái Tông nói:

- Trẫm đã đem mọi việc triều chính giao cho Hồng học sĩ. Y tuy mới về hàng nhưng thực có thể ỷ cậy được. Còn mọi việc trong cung cấm thì đã có hậu chủ trương. Hậu hãy chiếu theo cung cách biện lý như lần trước, khi trẫm xuất quân đánh Phủ Thuận.

Văn hậu nghe xong, liền tâu:

- Lần này không thể chiếu theo cách biện lý của lần trước được! Bởi vì thần thiếp gần đây bệnh liên miên, không thể chịu đựng được tân khổ. Xin bệ hạ cử một người thân tín giám quốc thì hơn.

Thái Tông hoàng đế tỏ vẻ do dự, lát sau mới nói:

- Tìm ai làm được giám quốc bây giờ? A Mẫn, Mảng Cổ Nhĩ Thái cũng đều bệnh cả rồi!

Văn hậu nghe xong cười nhạt nói:

- Bệ hạ cho hai người đó là những người đáng trông cậy ư? Riêng thần thiếp thì thì lại rất sợ họ đó!

Thái Tông hoàng đế ngạc nhiên hỏi:

- Hai người đó thế nào?

Văn hậu đáp:

- Bệ hạ sắp xuất quân. Hai người đó ra thế nào cứ xin bệ hạ tới hỏi xem. Tóm lại thiếp vẫn phải xin bệ hạ cử người giám quốc thì lúc đó thiếp mới chắc được hoàn toàn vô sự.

Thái Tông hoàng đế vì trong lòng còn bận nhiều việc nên cũng chẳng muốn hỏi cho ra lẽ, ngài chỉ nói:

- Nhưng cử ai được bây giờ?

Bỗng Văn hậu bật người lên như, cái lò xo, vội nói:

- Có rồi! Có rồi! Đa Nhĩ Cổn! Bệ hạ đã chẳng thường ca tụng hắn có lòng trung nghĩa là gì? Hơn nữa, hắn lại là em rể của thần thiếp. Nếu để hắn giám quốc, nhất định chẳng có chuyện gì xảy ra. Hắn cũng có thể trông coi cả mọi việc trong cung cấm, khiến thẩn thiếp khỏi nghi kỵ lo âu.

Thái Tông hoàng đế nghe xong, vỗ tay nói:

- Ừ phải! Trẫm quên khuấy mất tên Lão cửu đó nhỉ! Cho gọi hắn vào ngay.

Bọn cung nữ được lệnh, ba chân bốn căng chạy đi. Chẳng mấy chốc Đa Nhĩ Cổn đã vào cung. Thái Tông hoàng đế giao cho Cổn làm giám quốc tại kinh đô, đồng thời đề phòng A Mẫn, Mãng Cổ Nhĩ Thái. Ngài còn dặn dò mọi việc đến năm, ba lần rồi mới ra khỏi cung, nhẩy lên ngựa, hối thúc quân mã lên đường thẳng tới địa giới Triều Tiên…

Nguồn: http://vnthuquan.org/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved