Hồi 1: Nuôi ong tay áo
Năm trước, Thư Nhĩ Cáp
Tề theo anh là Nỗ Nhĩ Cáp Tề vào Trung Quốc tiến cống nhà Minh, thấy cung điện
lâu đài của vua Minh tráng lệ nguy nga, lấy làm khâm phục và thích thú.
Hắn còn được Thần Tông hàng đế
thưởng tứ nên lại càng cảm thấy vinh dự. Bởi vậy, khi về nhà hắn chẳng coi anh
hắn ra gì. Ít lâu sau, Nỗ Nhĩ Cáp Tề khởi công xây cất cung điện bắt chước nếp
sống đế vương hoa lệ của vua Minh thì Thư Nhĩ Cáp Tề càng ham hố cái khoái lạc
của một vương gia.
Hồi 2 : Bảy điều hận lớn
Sáng ngày thứ hai, mới
vừa canh năm, Anh Minh hoàng đế đã trở dậy toạ trào. Từ đó, ông phỏng theo hoàn
toàn cách thức của triều Minh, từ cung điện lâu đài đến cấp bậc quan tước.
Thỉnh thoảng ông lại triệu các bối lặc, đại thần cùng rời cung du ngoạn hoặc bàn
tính quốc gia đại sự.
Hồi đó, Anh Minh hoàng đế rất
căm giận Minh triều vì họ đã khinh khi ông nhiều lần. Ông thường đưa chuyện này
ra cùng các đại thần bàn luận để tìm cách báo thù. Một hôm thám mã tại biên
quan về tâu:
- Dân chúng miền biên tái của Minh
triều thường vượt biên giới để trộm nhân sâm và đông mộc.
Anh Minh hoàng đế tức khắc hạ
thánh chi, sai Đạt Nhĩ Hán và thị vệ Hỗ Nhĩ Hán đem quân tới biên giới tuần
tra, nếu thấy người Minh vượt tuyến thì giết sạch.
Viên thị vệ Hỗ Nhĩ Hán y lệnh,
giết đến năm mươi người Minh. Anh Minh hoàng đế còn sai Võng Cổ Lý, Phương Cáp
Nạp tới gặp Quảng Ninh tuần phú là Lý Duy Hãn, hạch hỏi về chuyện vượt biên đó.
Lý Duy Hãn nghe nói quân Mãn
giết chết dân mình, nổi giận đùng đùng, liền sai bắt hai sứ thần Kim Quốc, bắt
luôn chín tên tuỳ tùng, trói chặt lại, một mặt viết thư gửi Nỗ Nhĩ Cáp Tề đòi
đền mạng. Nỗ Nhĩ lòng tuy tức giận nhưng sứ thần hiện bị bắt giam thành thử
đành thở dài, cho đưa mười tên phạm nhân bắt được ở Diệp Hách bộ hồi trước đến
phủ Thuận Quan, nhất loạt chém hết, giả bộ đền mạng cho những người Minh bị
giết. Nhờ vậy, Võng Cổ Lý và Phương Cáp Nạp mới toàn mạng trở về.
Anh Minh hoàng đế tuy nói nhất
thời nhẫn nhục cho qua nhưng thực ra ý niệm báo thù ngày càng sâu thêm mãi.
Vào tháng giêng năm thứ ba,
niên hiệu Thiên Mệnh, một hôm Nỗ Nhĩ Cáp Tề vừa thức dậy, sửa soạn ra thị
triều, khi đẩy cánh cửa sổ nhìn ra ngoài thì chỉ thấy nơi vầng trăng mờ nhạt
còn treo lủng lẳng góc trời tây một làn khói vàng vắt ngang, dài tới hơn bốn
trượng, rộng có tới hai thước. Ông liền quan sát kỹ lưỡng rồi bất giác cười phá
lên, nói:
- Khí số nhà Minh hết rồi! Đây
là điềm báo nước Kim của ta đang vượng lên.
Bà Kế đại phi đứng ở đằng sau,
cũng đang xem hiện tượng lạ lùng đó, chợt nghe lời Anh Minh hoàng đế, bèn hỏi:
- Bệ hạ lấy gì làm bằng cớ mà
nói vậy?
Anh Minh hoàng đế nói:
- Khanh không thấy đó sao? Cái
mặt trăng kia há không phải triều Minh sao? Mặt trăng sáng nhưng ánh sáng nhạt
mờ há không phải là điềm báo của sự suy vong? Bây giờ, khanh xem tới làn khói vàng
kia đi, nó ứng vào nước Kim ta đấy. Chữ Kim có nghĩa là vàng, tức là sắc vàng.
Làn khói vàng kia, rất sáng, há lại không phải điềm báo nước Kim ta sẽ thịnh
vượng ư? Hơn nữa, làn khói vàng lại còn vắt úp lên trên vầng trăng thì nước Kim
diệt nước Minh há là đương nhiên rồi.
Bà Kế đại phi nghe giải thích
mới hiểu ra, vội quỳ lạy, luôn mồm tung hô vạn tuế. Anh Minh hoàng đế vội nâng
dậy, hối hả đòi ra thị triều.
Văn võ bá quan triều bái xong,
Anh Minh hoàng đế bèn đem thiên tượng vừa xảy ra lúc ban mai rồi kết luận:
- Ý trời đã định. Chư khanh chớ nghi ngại nữa. Trẫm đã quyết, năm nay ta
phải đánh người Minh.
Lúc đó, dưới điện, văn quan võ
tướng đứng đầy. Họ nghe nói đánh Minh, lấy làm khoái chí, kẻ nào kẻ nấy xoa tay
xắn áo y như cuộc đấm đá đã xảy ra trước mặt, và nhất loạt tâu xin hoàng đế
đích thân điều khiếu cuộc chinh phạt.
- Chư
khanh hãy lui. Đợi trẫm cùng pháp sư nghĩ kế thoả đáng đã, lúc đó tất nhiên sẽ
có chỗ điều dụng chư khanh!
Qua hôm sau, chi ý được truyền
ra, tuyên triệu pháp sư Hãn Lộc Dã Nhĩ Hãn Nang Tố vào cung.
Vị pháp sư này vốn từ Tây Tạng
đi bộ tới Mãn Châu, đạo hạnh hết sức cao thâm, thuyết pháp rất là huyền diệu,
được Anh Minh hoàng đế vô cùng quý trọng. Anh Minh hoàng đế sai người xây cất
một ngôi chùa rất lớn gọi là Thích Ma Tự cho pháp sư, cứ mỗi khi có việc nghi
ngờ khó giải quyết, lại tới thỉnh giáo.
Anh Minh hoàng đế cùng với vị
pháp sư bàn tính kỹ lưỡng, cuối cùng đã tìm được chủ ý.
Ngày 14 tháng 2 niên hiệu Thiên
Mệnh, là một ngày quan trọng, một ngày đã được vị pháp sư đắn đo tìm kiếm mới
quyết định. Thế rồi, sáng tinh sương hôm đó, Anh Minh hoàng đế xa giá ra khỏi
thành, khiến đủ Bát Kỳ người ngựa đến đại giáo trường chờ nghe lệnh. Hoàng đế
mặc nhung trang, cưỡi trên lưng con ngựa ô cao lớn, chọn hai vạn tinh binh kéo
tới tổ miếu hành lễ. Toàn ban văn võ đại thần, bối lặc tùng chinh cũng đều tới
làm lễ, xong rồi quay về chỉnh đốn đội ngũ.
Chỉ trong chốc lát, người ta
thấy cờ quạt rợp trời, kiếm kích như rừng, đại quân đội ngũ chỉnh tề, rầm rộ
kéo thẳng tới Phủ Thuận quan.
Khi đại quân kéo tới Giới Phàm
sơn, bỗng quân sĩ tiên phong bắt được một người Hán, áp giải tới trung quân.
Anh Minh hoàng đế đích thân thẩm vấn. Mấy tên quân áp giải vừa đưa vào dưới
trướng, nhà vua đã liếc mắt nhìn qua gã tù nhân một lượt để ước xét. Ông thấy
người Hán này có bộ râu ngắn, mặt mũi rất thanh tú.
Chẳng cần phải xét lâu, nhà vua
đã có thể biết rằng người Hán này phải là một kẻ đọc sách, ông bèn hạ lệnh cởi
trói, lại cho gã ngồi đàng hoàng rồi mới hỏi han kỹ lưỡng. Gã người Hán nói:
- Tâu bệ hạ! Hạ thần họ Phạm
tên Văn Trình, tự là Hiến Đẩu, vốn giòng giõi tiên tổ Phạm Văn Chính, tứ Trọng
Yêm, đời Tống. Từ thuở nhỏ đọc rộng mọi sách, trên biết thiên văn dưới tường
địa lý, giữa hay nhân sự, lại còn rành cả thao lược, thần đã mấy lần dâng sách
lên Minh Hoàng nhưng Minh Hoàng chẳng dùng, đến nỗi về sau thần lênh đênh lưu
lạc rồi trôi dạt tới đây. Thần lại thấy khói vàng úp nguyệt, biết rằng Mãn Châu
sẽ xuất hiện chân chúa. Do đó, thần chẳng quản búa rìu, lặn lội tới quan ngoại
để mong gặp bệ hạ. Thần nguyện đem hết tài năng để phò tá bệ hạ.
Anh Minh hoàng đế nghe Trình
nói một hồi, trong lòng rất lấy làm vui mừng. Ông gọi thị vệ đem rượu thịt đế
đãi Trình, lại bảo Trình:
- Trẫm đối với Minh triều có
bảy điều đại hận, còn những việc tiểu oán thì chẳng cần nói làm chi, tiên sinh
đã có lòng giúp Trẫm nên mới tới đây, vậy xin hãy bình luận rõ các mối hận của
Trẫm xem sao?
Phạm Văn Trình nghe đoạn, bèn
xin cho bút giấy, rồi ngay giữa bàn tiệc, viết thành bài "Thất hận đạo".
Bài đó như sau:
"Ông cha ta chưa từng cắt
một cọng cỏ, cướp một tấc đất của người Minh nơi biên ải, thế mà Minh triều vô
cớ gây hân, giết hại ông cha ta. Đó là cái hận thứ nhất. Tuy Minh triều gây hấn
nhưng ta vẫn cố tìm hoà. Ta dựng bia tuyên thệ "Hán cũng như Mãn chớ ai vượt
tuyến. Kẻ nào liều lĩnh, gặp tức khác giết ngay". Thấy mà vẫn thả, ta giết
đứa thả. Minh triều bất chấp lời ta. Lại còn cậy mạnh đem quân vượt tuyến giúp
bọn Diệp Hách. Đó là cái hận thứ nhì. Hàng năm ở mé nam cũng như mặt bắc sông
Minh Hà, người Minh thường đánh thuyền cướp bến, mặc sức lộng hành. Ta tuân lời
thề nên phải giết. Minh triều lại phụ ước trước, trách ta giết bừa, bắt Quảng
Ninh sứ thần của ta là Võng Cô Lý, Phương Cát Nạp, lại trói cả người tháp tùng,
uy, hiếp ta. Đó là cái hận thứ ba. Quân Minh vượt tuyến giúp Diệp Hách, khiến
người vợ sắp cưới của ta phải cải giá sang Mông Cổ. Đó là cái hận thứ tư. Lài
Hà, Tam Soái, Phủ An, ba lộ đó là những nơi ta chia quân đóng giữ đã nhiều đời.
Dân ta ở đây chuyên nghề nông, cấy cày ruộng đất thế mà Minh triều không cho họ
làm ăn, đem binh đuổi sạch: Đó là cái hận thứ năm: Bọn Diệp Hách đắc tội với
trời ngoài biên ải, thế mà Minh triều riêng tin lời chúng, sai người đưa thư
tới để hạch hỏi ta, làm nhục ta, chẳng coi ta ra gì. Đó là cái hận thứ sáu. Lúc
trước, Cáp Đạt giúp Diệp Hách hai lần tới xâm lăng, ta phải thân hành đi báo
phục. Do đó, trời đã trao cho ta cả dân Cáp Đạt, ấy thế mà Minh triều lại ùa
theo họ, bức hiếp ta phải trở về nước, khiến Cáp Đạt bị người Diệp Hách xâm
lược. Ôi, giữa cái lúc liệt quốc phân qua chinh chiến, kẻ nào thuận ý trời thì
kẻ đó thắng và tồn tại, kẻ nào nghịch ý trời thì kẻ đó bại và mất nước, lẽ nào
khiến ké đã chết có thể sống lại, khiến kẻ được lòng mọi người lại phải bỏ đi?
Trời đã giúp cho một nước lớn, một vị vua thì vị vua đó phải là người chủ chung
của thiên hạ. Tại sao Minh triều lại oán giận nước ta? Buổi đầu Hỗ Luân chư
quốc họp binh lại để đánh ta, nên trời chán ghét bọn Hỗ Luân gây hân đó. Nay
Minh triều giúp bọn Diệp Hách, bị trời chán ghét, đó chính là chống lại ý trời,
gây chuyện thị phi, tự ý làm bậy. Đó là cái hận thứ bảy, vì thế thì biết người
Minh khinh ta quá đáng, tình thực khó bề chịu nổi. Đây là những nguyên cớ của
bảy điều đại hận, bởi thế ta phải khởi binh đánh chúng!" .
Phạm Văn Trình viết xong, A Đôn,
bộ hạ Khắc Thấp Ngạch Nhĩ Đức Ni dịch ra tiếng Mãn, rồi lớn tiếng đọc một lượt.
Anh Minh hoàng đế luôn miệng tán thưởng, cuối cùng trịnh trọng ngợi khen họ
Phạm:
- Phạm tiên sinh thật là người
bề tôi tâm phúc của Trẫm.
Anh Minh hoàng đế bèn phong cho
Trình làm quân sư theo trong đại doanh để tham tán chiến sự. Hoàng đế gọi Trình
là tiên sinh. Khắp triều văn võ ai cũng gọi một tiên sinh, hai tiên sinh vô
cùng cung kính.
Lúc đó, đại quân tới Cổ Lặc,
Anh Minh hoàng đế hạ lệnh đóng trại. Ngay đêm hôm đó, trên một bãi đất trống
rộng rãi, Anh Minh hoàng đế tuyên chỉ bày hương án, chung quanh có Bát Kỳ binh
mã vây kín hết tầng này tới tầng kia. Hoàng đế cùng với văn võ bá quan, bối
lặc, đại thần bước ra khỏi trướng, tới trước hương án, quỳ xuống ngước lên trời
mà làm lễ "Tam quy cửu
khấu". Phạm Văn Trình tay nâng bức cáo văn THẤT HẬN, lớn tiếng đọc lên.
Một cây long kỳ được dựng cao ngất trước ba quân. Tiếng quân nhạc trỗi lên vang
lừng bốn phía.
Cuộc lễ chấm dứt, Anh Minh
hoàng đế trở lui về dinh.
Ngày hôm sau, Anh Minh hoàng đế
ngồi trên trướng đài, hạ lệnh chia đại quân ra làm hai lộ. Tả lộ đem bốn kỳ
binh tiến đánh hai nơi Đông Châu và Mã Căn Đơn. Còn hữu lộ có bốn kỳ binh và
tám kỳ hộ quân do chính nhà vua và các bối lặc chỉ huy tiến đánh phủ Thuận
Quan. Khi nghe tiếng pháo hiệu, tức thì ba quân gióng cờ đánh trống lên đường.
Bốn kỳ quân hữu lộ vừa tới, Hãn
Hỗn Ngao Mạc chọn một khu đất trống hạ trại. Phạm Văn Trình lên trướng bệ kiến
Anh Minh hoàng đế, tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, thần ngửa xem thiên
tượng, biết trời sẽ mưa lớn. Đại quân đóng tại bình nguyên sợ bị lụt ngập. Ở
gần đây, về mé tây nam, có một toà núi cao tên gọi Phúc Kim Lĩnh, đó là chỗ
đóng quân yên ổn. Rất mong bệ hạ lập tức truyền chỉ dời quân lên núi.
Anh Minh hoàng đế nghe lời Trình,
hạ lệnh lập tức nhổ trại hành quân. Quả nhiên, đại binh mới chuyển tói nửa
đường đã thấy mưa rơi tầm tã, hết trận này qua trận kia không ngớt. Đến khi kéo
tới được sườn núi đóng doanh cắm trại, thì mọi người đã thấy thế nước mạnh như
di sơn hải đảo, tràn ngập khắp nơi. Hoàng đế ngồi trong trướng phục tài Trình,
cất tiếng khen:
- Phạm tiên sinh quả là người
thần!
Trận mưa thật là dai, luôn một
hơi mười ngày không lúc nào ngớt. Đứng trên nhìn xuống cả một cánh đồng dưới
chân núi bị nước ngập mênh mông trắng xoá, y hệt biển khơi. Ngọn núi trơ trọi
một mình giữa biển nước như một hòn đảo. Anh Minh hoàng đế ngồi trong trướng,
bụng dạ như lửa đốt.
Một hôm, các bối lặc đại thần
ngồi hầu bên cạnh hoàng đế nghe ngài nói:
- Trời mưa lớn quá, sợ không
tiến quân được. Trẫm muốn hồi binh, có nên chăng?
Đại bối lặc Đại Thiện ngồi bên
cạnh, đứng dậy tâu:
- Không nên. Nếu trở về, chúng
ta cùng Minh triều giảng hoà hay kết oán? Huống hồ đại binh đã kéo tới biên
giới của Minh triều, nếu không đánh mà trở lui, ta biết lấy gì để cho họ khuất
phục?
Phạm Văn Trình cũng lên tiếng:
- Thần xem thiên tượng, chỉ nội
ngày tới, thế nào cũng trời quang mây tạnh. Xin bệ hạ nhẫn nại thêm một chút là
có cơ hành động.
Đế liền hỏi:
- Phạm tiên sinh! Theo ý tiên
sinh thì quân ta tới khi nào thì mới có thể tiến quân được?
Trình nói:
- Hôm sau, vào giờ Hợi có thể
tiến quân được.
Các tướng nghe lời Trình, cùng
lấy làm quái lạ, bởi vì lúc đó họ vẫn nghe bên ngoài gió mưa rầm rập, không
thấy một triệu chứng nào khả dĩ đoán được trời sắp tạnh.
Anh Minh hoàng đế rất tin lời
Trình, nên ngày hạ lệnh:
- Ngày mai, giờ Hợi tiến quân
vào thẳng tới phủ Thuận Quan.
Lại một ngày qua, mưa vẫn trút
nước, gió vẫn giật dữ dội, tình cảnh vẫn đáng chán như trước. Nhưng đến giờ
Hợi, quả nhiên gió ngừng mưa dứt. Rồi trời quang mây tạnh. Trên không trung,
vầng trăng bạc lại tươi cười nhìn xuống trần gian. Đã khuya mà trăng sáng chẳng
khác ban ngày.
Anh Minh hoàng đế ngồi trên
ngựa, vỗ mạnh vào yên nói:
- Phạm tiên sinh quả là người
thần!
Nói đoạn, Đế truyền lệnh ba
quân rút tiến lên, trong lòng cảm thấy vui vẻ vô cùng:
- Sáng sớm tinh sương ngày thứ
ba, tiền quân đã nhìn thấy một toà thành lờ mờ trước mặt. Thì ra đó là thành
phủ Thuận Quan. Anh Minh hoàng đế hạ lệnh cho binh mã dàn mỏng, đóng thành hàng
ngang suốt mặt trước cửa thành dài dằng dặc.
Lúc đó, trong thành phủ Thuận
Quan có một người nông dân vừa ra khỏi thành để đốn củi liền bị quân tuần tra
bắt trói dẫn tới chỗ Anh Minh hoàng đế. Đế lấy lời nói ôn tồn an ủi anh ta rồi
hỏi xem trong thành có bao nhiêu người ngựa.
Anh ta cho biết chỉ có mình
quan trấn thủ Lý Vĩnh Phương chỉ huy một ngàn quân.
Anh Minh hoàng đế hiểu rõ tình
hình liền bảo quân sư Phạm tiên sinh viết một phong thư chiêu hàng rồi đưa cho
anh nông dân đem về trao cho Phương.
Hồi 3: Tình trong khói lửa
Hồi 4: Mãn Minh khai chiến
Thần
Tông hoàng đế nhà Minh nhận thấy mỗi ngày nước càng yếu, dân càng nghèo, trăm
quan thì lười biếng hèn hạ, thì trong lòng rất lo ngại.
Một hôm, được tin quân Kiến Châu phạm cảnh rồi Phủ Thuận thất thủ, Lý Vĩnh Phương đầu hàng, bao tôi trung khác tử tiết, ngày càng sợ hãi. Sau đó được thêm tin Trương Thừa Âm và toàn quân bị tiêu diệt, thì ngài không còn giữ được bình tĩnh nữa, tay chân cứ run bắn lên. Ngài bèn truyền dụ triệu tập lục bộ đại thần tề tựu lại Cằn Chính điện để thảo luận kế sách thắng địch. Binh bộ thị lang quỳ xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Tên mọi Kiến
Châu là Nỗ Nhĩ Cáp Tề vốn có ý phản từ lâu. Lúc trước, khi hắn được bổ làm tuần
phủ Liêu Đông, thần đã đôi ba lần tâu bày. Song triều đình ta đang thiếu hụt về
quân lương cho nên cứ dây dưa kéo dài mãi tới nay, đến nỗi cục diện ngày càng
trầm trọng. Theo thiển ý của ngu thần thì tên mọi Kiến Châu đã tự xưng Khả Hãn,
lại nhiều lần đem quân phạm cảnh, ắt đối với thiên triều hắn chăng coi ra gì.
Bởi vậy nếu không đại phát binh mã, đánh hắn tan hoang một phen thì không được.
Tuy nhiên, xuất gia quan ngoại thực không phải là chuyện chiến sự tầm thường.
Cho nên, nhất định phải chọn những người am hiểu thông thố nơi quan ngoại mới
có thể cử đi được. Cứ theo sự hiểu biết của thần thì lão tướng Lý Như Bá tuy về
hưu đã lâu nhưng có thể đảm đương trọng nhiệm. Bởi vậy xin bệ hạ giáng chỉ
triệu Lý tướng quân rồi phong cho chức Thống binh Liêu Đông. Ngoài ra còn mấy
người như Đỗ Tùng, Lưu Đĩnh, Lưu Ngô Tiết, Mã Lâm, Ma Nham Hạ, Thế Hiền đều tỏ
tường nơi quan ngoại, cũng xin bệ hạ cho vời họ về kinh, nhất nhất uỷ cho họ
các chức lớn nhỏ, để cùng theo Lý Như Bá chỉ huy hai mươi vạn quân xuất quan,
dốc tận lực chinh tiễu. Còn như việc xuất phát của các lộ quân thì ngu thần sớm
đã có kế hoạch. Ta hãy chia đại binh ra làm bốn lộ. Lộ thứ nhất sẽ do Đỗ Tùng
và Lưu Ngô Tiết chỉ huy với ba vạn quân mã, xuất phát từ Thẩm Dương tơi Phủ
Thuận quan, rồi theo tả ngạn sông Hỗn Hà vào thẳng Tô Tử Hải cốc. Lộ thứ nhì sẽ
do Mã Lâm và Ma Nham hợp binh với bọn Diệp Hách, điều động mười vạn rưỡi quân,
theo mặt Khai Nguyên, Thiết Lĩnh ra Tam Soá rồi đột nhập vùng Tô Tử Hà. Lộ thứ
ba sẽ do Lý Như Bá vào hạ Thanh Hà thành, rồi theo Nha Cốt chọc thẳng vào Hưng
Kinh. Lộ thứ tư sẽ do Lưu Đĩnh đem một vạn quân hợp lực cùng một vạn quân tiếp
viện của Triều Tiên, xuyên qua Khoan Điện và Đồng Gia giang rồi kéo thốc tới
phía nam thành Hưng Kinh. Ngoài bốn lộ quân ra, ta còn uỷ riêng một viên đại
tướng đem đại binh đồn trú Thẩm Dương, dùng làm quân tiếp ứng sau này. Theo kế
hoạch này, tiến thoái thật là lưỡng lợi. Chỉ một mẻ lưói có thể lượm sạch. Kính
mong bệ hạ chuẩn y cho.
Dương Cảo tâu xong, lui về chỗ
cũ. Hai bên văn võ thấy Cảo trình bày kế sách một cách trôi chảy lưu loát, lý
lẽ cao siêu nên chẳng ai có ý thêm thắt điều gì.
Thần Tông hoàng đế truyền lệnh
bãi trào. Cảo vừa về tới nhà đã thấy một bọn đồng liêu đứng trực từ lâu chờ
nghe tin tức.
Qua ngày hôm sau, quả nhiên
thánh chỉ từ trong cung ban la, phong Dương Cảo làm binh bộ thị lang kiêm Liêu
Đông kinh lược sứ, đồn trú tại Thẩm Dương, lĩnh chức tổng chỉ huy bốn lộ quân
mã.
Còn bọn Lý Như Bá đều y theo
tâu trình của Dương Cảo mà gia thêm quan hàm, theo đại quan xuất trận chinh
phạt bọn mọi Kiến Châu. Quân sĩ tham chiến cùng lương bổng đều do các tỉnh Phúc
Kiến, Triết Giang, Tứ Xuyên, Cam Túc cung cấp.
Thảm thay cho cuộc chinh tiễu
lịch sử vô cùng bi thương này! Đạo dụ "Chinh
nô" (bắt dân làm nô dịch
đi đánh giặc) hạ xuống từ tháng tư năm thứ 46 niên hiệu Vạn Lịch mà mãi tới
tháng hai năm sau mới biên chế được thành quân. Thế rồi, một hôm, đại quân nhổ
trại lên đường. Dương Cảo truyền lệnh cho toàn bộ binh mã đều phải tới đại võ
trường để nghe lệnh.
Lưu Đĩnh làm tướng tiên phong
đợi trên trướng đài từ lâu. Cảo cưỡi ngựa tới võ trường quan sát, thấy người
ngựa tám phương bốn xứ kéo tới chẳng có hiệu lệnh duy nhất, phục sức lại lung
tung không thống nhất, mỗi nơi một kiểu, Cảo trong lòng băn khoăn lo lắng,
nhưng chẳng có cách nào khác… Cảo cưỡi ngựa duyệt một lượt rồi truyền lệnh tế
cờ. Một con trâu đã bị trói sẵn, đặt nằm trên mặt đất, tướng tiên phong Lưu
Đĩnh chạy tới chân cột cờ soái. Thấy chủ tướng đã tới, binh lính bèn tuốt dao
chém trâu. Chém luôn một hơi ba nhát mà đầu trâu, buồn thay, chẳng đứt. Đĩnh
thấy vậy nhủ thầm quân sĩ kém cỏi như vầy thì khi ra quan ngoại làm sao địch
nổi quân Kiến Châu được. Ông tỏ vẻ buồn, miễn cưỡng tế cờ cho xong.
Dương Cảo chia đại quân ra làm
bốn lộ. Xong đâu đấy, ông quay về phủ, vợ Cảo biết chồng sắp phải đem quân đi
viễn chinh, trong lòng lo sợ. Bà dọn một bữa tiệc ngay trong phủ để cùng chồng
nâng chén quan hà. Giữa lúc ngà say, bà ứa lệ than thở và lo sợ cho cuộc viễn
chinh chưa biết thắng bại ra sao vì quân Kiến Châu vô cùng dũng mãnh. Rồi cả bà
và các công tử, tiểu thư, đôi hàng nước mắt bỗng rơi xuống lã chã. Cảo vội quát
bảo thôi đi.
Giữa lúc cả nhà đang lo buồn
rầu rĩ, bỗng gia nhân ở ngoài cửa vào báo có Lưu tướng quân xin yết kiến. Cảo
hỏi kỹ biết rõ là Lưu Đĩnh, lòng tự nhủ: "Ta với Đĩnh vừa gặp nhau ngoài
võ trường, tại sao y lại tới tìm ta? Phải chăng có gì khẩn cấp?" Nghĩ thế,
bèn chạy ra đón. Vừa giáp mặt, Đĩnh vội hỏi:
- Thế nào, đại soái thấy quân
ta có thể dùng được không?
Cảo thở dài đánh sượt một cái
rồi chậm rãi trả lời:
- Đành chịu vậy thôi!
Đĩnh nói tiếp:
- Đại soái nên biết phen này
xuất sư chẳng phải là chuyện đùa đâu. Với thứ quân đội hèn kém như vậy, mạt
tướng sợ rằng khó có thể mong chờ được. Theo ý của mạt tướng xin đại soái tâu
rõ với hoàng thượng cho mạt tướng huấn luyện một số tân binh, vài ba vạn trong
một năm để chúng trở thành tinh luyện. Lúc đó chẳng cần phải lắm tướng làm chi
cho mệt, một mình mạt tướng cũng có thể địch nổi hàng mười vạn quân Mãn kia.
Cảo nghe xong lại thở dài, rồi
đưa cao tay vỗ vào vai Đĩnh, nói:
- Lão đệ! Lão đệ còn chưa hiểu
rõ nữa sao? Hiện nay quốc khố không dư. Đầy triều gần hết là bọn gian thần. Cái
đám quân đội hỗn tạp như vậy mà cũng phải đến tám, chín tháng trời mới tập họp
được thì làm gì có chuyện cho lão đệ huấn luyện đến hàng năm bao giờ. Đừng nói
đến việc quốc khố hiện nay rỗng tuếch, mà chỉ nói đến chuyện chậm trễ thêm một
năm, quân Mãn lại chả đánh dốc tới quan nội ấy ư? Việc đến lúc này, không còn
nói thêm được nữa! Lão đệ! Hãy nể mặt tại hạ, cố gắng cùng nhau chịu đựng đi
thôi.
Lưu Đĩnh vốn là một trang nam
tử đầy nhiệt huyết, nghe xong lời Cảo, hăng hái đứng dậy, vỗ ngực mà nói:
- Nguyên soái đã nói như vậy
thì mạt tướng cũng xin thí cái mạng tôm tép này một phen vì hoàng thượng, vì
nguyên soái. Tuy nhiên…
Đĩnh nói tới đây ngập ngừng
hình như có điều gì khúc mắc làm cho y băn khoăn, không hé môi được. Cảo thấy
vậy lấy làm ngạc nhiên, liền hỏi:
- Tuy nhiên… tuy nhiên cái gì?
Đĩnh liếc mắt nhìn Cảo một
lượt, bỗng nước mắt chảy ròng ròng trên đôi gò má. Đến lúc đó, Cảo đã rõ đôi
phần. Ông liền lấy tay vỗ vào ngực, vào bụng mà nói:
- Lão đệ! Hãy yên lòng! Lão đệ
sợ phen này xuất quân bất lợi chứ gì? Nếu có điều gì thì chuyện gia đình của
lão đệ, thượng quan sẽ thế lão đệ mà lo liệu.
Đĩnh vội bước lên vài bước, quỳ
xuống nói:
- Như vậy thì nhận cho mạt
tướng một lạy.
Cảo cũng quỳ xuống lạy đáp lễ
rồi nói:
- Bọn ta hai người hãy kết
nghĩa anh em với nhau đã.
Làm lễ xong, hai người đứng dậy
cầm tay nhau, bốn mắt nhìn nhau mà cùng rơi lệ. Cảo trong lòng băn khoăn, tự
nhủ: "Đại binh chưa xuất phát mà Đĩnh đã khóc than, đấy phải chăng là một
điềm chẳng lành?".
Nghĩ vậy, Cảo vội khuyên Đĩnh
thôi khóc, kéo Đĩnh vào trong yết kiến vợ mình rồi ngồi vào bàn rượu giải sầu.
Ngày hôm sau, Cảo trước hết cho
đưa vợ con Đĩnh vào phủ cùng ở với gia quyến mình, sau đó cùng thúc giục đại
quân kéo thẳng ra quan ngoại.
Khi gần tới Thẩm Dương, Cảo
truyền lệnh cho các tướng lĩnh tập họp để thảo luận quân cơ. Thám mã phi báo:
- Hoàng đế nước Kim đích thân
chỉ huy Bát kỳ binh, mỗi kỳ bảy ngàn năm trăm người, ước vạn có sáu vạn quân cả
thảy và cách quân ta không còn bao xa.
Nguyên soái Dương Cảo được tin,
bèn rút lệnh tiễn hạ lệnh cho bọn Mã Lâm đem bản bộ binh mã hội họp với Diệp
Hách, quân ước một vạn rưỡi, theo đường Khai Nguyên, Thiết Lĩnh mà ra Tam Soá
rồi vào sông Tô Tử, phá rối mặt nam của địch.
- Chỉ cho phép hỗn chiến chứ
không đối trận để dẫn dụ địch vào sâu miền nam. Được như thế thì công đầu thuộc
các ngươi!
Mã Lâm được lệnh ra đi, Cảo rút
cây lệnh tiễn thứ nhì, gọi Lưu Đĩnh lên trướng, bảo:
- Ngươi đem một vạn nhân mã hội
họp với một vạn viên quân của Triều Tiên, theo đường Khoan Điện ra Đông Gia
giang rồi tiến thẳng vào mặt nam thành Hưng Kinh. Nếu nghe được tin quân ở tây
lộ khai chiến, ngươi sẽ theo đông lộ đánh nhử để cắt đường về của địch.
Đĩnh được lệnh, ra đi. Rút cây
lệnh tiễn thứ ba, Cảo cho gọi Lý Như Bá lên trướng và dặn:
- Ngươi đem hai vạn rưỡi quân
mã dọc theo Thái Tử hà ra Thanh Hà thành, rồi lại từ Nha Cốt quan đánh thắng
tới sào huyệt Hưng Kinh của địch. Trong số ba lộ quân, lộ của ngươi gặp đường
đá gồ ghề, hết sức khó đi. Bởi vậy ngươi phải ngày đêm ráng sức đăng trình,
không được dừng chân, miễn sao tới sớm Hưng Kinh. Được vậy, công đầu cũng sẽ
thuộc về ngươi nữa.
Bá đã ra đi, Cảo rút cây lệnh
tiên thứ tư, cho gọi Đỗ Trung cùng Lưu Ngô Tiết lên trướng.
- Bọn ngươi đem ba vạn người
ngựa theo đường từ Thẩm Dương ra Phủ Thuận quan, rồi dọc theo tả ngạn sông Hỗn
Hà mà vào Tô Tử Hà, Hà Cốc để đương mặt chính của địch quân. Bọn ngươi phải hết
sức cẩn thận, khi chiến đấu cũng như lúc hạ trại. Khi nghe tin quân mặt nam đã
khai chiến, các ngươi mới được tác chiến, đem toàn lực mà xung kích, chớ có sai
lời!
Bọn Tùng dạ dạ luôn mồm, nhận
lệnh ra đi. Bốn lộ đã phân phát xong lúc đó Cảo mới viết chiến thư, sai người
đưa tới Hưng Kinh. Mặt khác, Cảo phái Du kích quan sử An Nhân đôn đốc xe lương
dọc đường, đồng thời trinh sát địch tình.
Trong số bốn lộ quân vừa kể, lộ
của Mã Lâm hành quân nhanh nhất. Bởi vậy đại binh của Anh Minh hoàng đế nước
Kim đang tiến phát về ngả Giới Phàm Sơn, bỗng được tin thám mã phi báo:
- Mặt nam sông Tô Tử thấp
thoáng có bóng cờ quạt của quân Minh. Ngoài ra ba mặt tây, bắc và đông không có
bóng địch quân.
Các bối lặc đại thần nghe tin
đồng thanh tâu lên Anh Minh hoàng đế:
- Quân ta đang thẳng tiến về
hướng tây. Nay địch quân lại từ mặt nam xông ngang vào hông. Như thế, trung
quân của ta phải hứng chịu tiền quân của địch. E là điều "binh gia sở kỵ".
Kính xin hoàng thượng truyền lệnh cho đại quân mau đổi hướng, quay mũi về phía
nam mà tiến mới phải.
Đế nghe lời chư tướng, do dự
một hồi rồi mời quân sư lên trướng. Phạm Văn Trình được lệnh truyền gọi, vội
chạy vào trung doanh. Đế bèn đem quân tình tối khẩn ra kể một lượt cho Trình
nghe. Trình suy nghĩ một lát rồi nói:
- Theo thiển ý của ngu thần thi
quân ta không đi về ngả tây mà cũng khỏi quay về hướng nam. Tạm thời hãy đóng
trại tại đây để chờ tin thêm hãy quyết.
Đế gật đầu mấy cái tỏ vẻ đồng ý
rồi hạ lệnh dừng binh hạ trại, không được hành động. Một mặt sai nhiều đoàn
thám mã đi tứ xứ trinh thám, điều tra địch tình.
Sáu vạn quân mã đang cấp tốc
hành quân, bỗng được lệnh dừng lại khiến cho tướng tiên phong Hổ Nghĩ Hán bối
rối chỉ còn biết giật đầu bứt tóc hậm hực nói:
- Quân địch đã ở trước mặt. Bọn
ta chỉ còn tiếp gấp tới đánh cho mấy gậy là chúng toi mạng hết, há lại không
thú sao? Cẳng đã không gãy, bệnh lại không nhuốm, không hiểu tại sao lại phải
nằm bẹp tại đây? Phải chăng để bọn mình dưỡng sức cho khoẻ?
Bọn bối lặc nghe mấy lời có vẻ
vừa tức vừa giễu cợt của Hán đều phá lên cười! Tưởng rằng đóng quân một hôm rồi
đi, ai ngờ, nay chẳng đi, mai chẳng đi, mốt cũng chẳng đi, luôn một lèo mấy hôm
chẳng đi, đại quân cứ nằm ỳ ra giữa lộ. Các tướng lĩnh lớn nhỏ, anh nào anh nấy
đều thì thầm chửi rủa ổng quân sư họ Phạm.
Qua ngày thứ tư, thám mã khắp
nơi tới tấp chạy về phi báo:
- Bắc lộ có một đạo quân Minh
dọc theo Thái Tử hà đang tiến về Thanh Hà thành. Đông lộ cũng có một đạo quân
tiến về ngả Khoan Điện. Tây lộ có một đạo quân tiến theo con đường nhỏ hoang
vắng dọc sông Hỗn Hà. Độc chỉ có nam lộ, một đạo quân theo Khai Nguyên, Thiết
Lĩnh, ngày đêm phất cờ hò hét tiến tới.
Anh Minh hoàng đế nghe tin báo,
bèn hỏi quân sư họ Phạm xem bốn lộ nhân mã hành quân như vậy với mục đích gì.
Phạm Văn Trình mỉm cười nói:
- Lộ quân Thanh Hà đánh thẳng
tới Hưng Kinh mười phần khẩn yếu, nhưng con đường gồ ghề khó đi, hết sức trì
chậm, cho nên trong lúc này Hưng Kinh quyết không có gì đáng ngại. Lộ quân mặt
đông vốn chủ trương tấn công sau lưng quân ta. Nếu tiên phong của ta chiến
thắng ắt đông lộ của địch tự lui. Còn như tây và nam hai lộ quân mã vụt tới,
nhất là quân nam lộ lại tiến rất gấp thì thần thiển nghĩ, hai lộ quân này quyết
chẳng phải thứ quân chủ lực, mà chỉ là nghi binh, dụng tâm mai phục để dẫn dụ
quân ta tiến thẳng về nam. Quân ta càng tiến xa, càng sâu, lúc đó, chúng mới
đem toàn lực từ tây lộ đánh thốc vào hậu trận của ta. Trong khi quân ta trước
cũng như sau, lưng cũng như bụng đều bị địch tấn công, hai lộ quân đông và bắc
địch sẽ rảnh tay kéo dốc tới Hưng Kinh, khiến quân ta cứu được đằng này thì lại
hỏng mất mặt kia. Chúng ta quyết không thể trúng kế của chúng. Bởi vậy xin bệ
hạ truyền lệnh chỉ, dùng năm trăm quân đóng chẹn những nơi hiểm yếu, cây cối um
tùm rậm rạp của nam lộ, với những cờ quạt cắm rải la liệt. Thấy vậy, địch quân
ắt không dám tiến mà chỉ đóng lì tại chỗ. Bệ hạ tự thống lĩnh Bát kỳ đại quân,
đánh thẳng tới Phủ Thuận. Mặt này mới chính là quân chủ lực của Minh triều. Tây
lộ một khi đã bị phá thì ba lộ quân kia chẳng cần đánh cũng phải hàng.
Trong khi quân sư họ Phạm
thuyết trình kế hoạch, các bối lặc đại thần đứng vây xung quanh, lặng lẽ lắng
nghe. Nghe đến đây, Hỗ Nhi Hán khoái quá, nhảy ra ngoài hàng, khoa chân múa tay
rồi giơ cao ngón tay lên nói lớn:
- Kế của tiên sinh tuyệt diệu!
Tuyệt diệu!
Vừa nói xong, Hán quay đầu nhìn
lại thấy Anh Minh hoàng đế đang ngồi trên ngai cao, y biết lỡ lời, vội nằm bò
xuống mặt đất dập đầu kêu binh để tạ tội.
Một hôm, được tin quân Kiến Châu phạm cảnh rồi Phủ Thuận thất thủ, Lý Vĩnh Phương đầu hàng, bao tôi trung khác tử tiết, ngày càng sợ hãi. Sau đó được thêm tin Trương Thừa Âm và toàn quân bị tiêu diệt, thì ngài không còn giữ được bình tĩnh nữa, tay chân cứ run bắn lên. Ngài bèn truyền dụ triệu tập lục bộ đại thần tề tựu lại Cằn Chính điện để thảo luận kế sách thắng địch. Binh bộ thị lang quỳ xuống tâu rằng:
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét