Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

22 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 103-107

Hồi 103: Tình là dây oan

Đạo Quang hoàng hậu đã có lần khuyên can Hoàng đế chớ đam mê sắc dục. Nhưng tính nào tật ấy, ngài vẫn mê đắm Nhị Hương như cũ, Bà tức bực lắm, liền trù mưu định kế để ngài thấy cái oai quyền ghê gớm của bà, để rồi nhờ đó có thể chế phục ngài.

Đêm đó. Đạo Quang hoàng để tới cung hoàng hậu đúng lúc bà đang đầy lòng oán hận. Rồi chẳng hiểu tại sao lời qua tiếng lại, hai người đâm ra cãi nhau kịch liệt.
Lúc đó, có một viên quan thị vệ người Mãn họ Ân, đang trực tại Kiều Thanh môn. Đêm đã khuya, trời lại lạnh mà Ân là công tử con nhà giàu có, không chịu nổi cực khổ nên xuống nhà dưới đốt lửa sưởi, và hâm rượu làm vài chén cho ấm lòng. Một tên thái giám cùng trực đêm, mò tới tán láo cho đớ buồn.

Hai người vừa uống rượu vừa trò chuyện, trước thì còn chuyện nhà chuyện cửa khai ra, về sau chuyện giết Lan Tần trong cung Chung Tuý đêm trước cũng được nhắc tới.

Tên thái giám hỏi họ Ân:

- Cậu có dám giết người không?

Anh chàng họ Ân cười đáp:

- Mật của tớ bao lớn mà dám? Ngay cả chuyện giết một con gà mà tớ còn run nữa là!

Tên thái giám hỏi:

- Ví thử đêm đó, chuyện xảy ra với cậu thì cậu tính sao?

Anh chàng họ Ân đáp:

- Đó chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên mà thôi. Trong cung làm gì có chuyện giết người mãi?

Rồi ân hỏi thêm:

- Thế đêm đó ai phải trực?

Tên thái giám đáp:

- Vương thị vệ!

Họ Ân lại hỏi:

- Có phải anh chàng họ Vương người nhỏ thó mà mặt xanh ngắt ấy không?

Tên thái giám gật đầu. Anh chàng họ Ân liền giải thích:

- Hắn là tay võ bảng xuất thân, sao không giết người được? Còn tớ thì công danh là do các cụ tổ xưa truyền lại, chưa từng phải động thủ bao giờ.

Câu nói còn chưa xong thì một tên thái giám chợt đâu xô cửa bước vào, mặt có vẻ hoảng hất bảo chàng họ Ân:

- Hoàng hậu có chỉ, tuyên triệu thị vệ vào cung ngay!

Anh chàng họ Ân giật mình, chiếc mũ đội đầu lệch hẳn sang bên, dù chưa biết chuyện gì xảy ra. Hắn vội hỏi tên thái giám:

- Cậu có biết chuyện gì không?

Tên thái giám lắc đầu đáp:

- Làm sao mà biết được? Nhưng xem chừng chuyện này có lẽ chẳng tốt đẹp gì lắm đâu!

Họ Ân nói giọng lo lắng:

- Sợ lại có chuyện như bọn tớ vừa mới nói tới!

Miệng vừa nói, chân vừa bước, chàng thị vệ họ Ân theo tên thái giám ra đi. Qua hết cửa cung này tới cửa cung khác, hai người chỉ thấy tứ bề vắng lặng, đượm vẻ lạnh leo và ghê rợn. Xa xa, tiếng chuông trên lầu canh đơn độc dội vào thinh không.

Khi tới gần phòng ngủ của hoàng hậu, họ Ân dừng chân lại bên ngoài để tên thái giám chạy vào trong phục mạng. Đứng một mình, anh chàng họ Ân cảm thấy như đang lên cơn sốt, tứ chi run lên lẩy bẩy, lông tóc như dựng ngược cả lên.

Vài tên thái giám khác từ phía sau chạy tới đứng dưới hàng hiên, tên nào cũng mặt lạnh như tiền, mắt trừng trừng, miệng chẳng nói chẳng rằng. Một lát sau, một cung nữ khoát rộng tấm màn hỏi nhỏ Ân:

- Ai là thị vệ của Kiều Thanh môn?

Anh chàng họ Ân bước tới, miệng đáp:

- Tôi đây!

Người cung nữ nhìn chàng rồi giơ tay ngoắt lại. Họ An tới lúc này thì hốt hoảng đến cực độ rồi. Theo luật triều thì thị vệ ngoài cửa lớn không được phép vào cung, thế mà nay, Ân lại bị gọi vào tận phòng ngủ của hoàng hậu thì làm sao mà chẳng sợ hãi được. Ân theo sát gót người cung nữ bước vào chỉ thấy đèn đuốc sáng choang, khắp nhà đều có lồng kính, khiến ánh đèn phản chiếu càng thêm rực rỡ, hoa cả mắt.

Hoàng hậu lúc đó chỉ còn bận một cái áo ngắn tay da lông chồn, ngồi trên chiếc giường lớn trải toàn nệm gấm. Hoàng đế cũng đang có mặt tại đây. Ngài cũng chỉ mặc một cái áo thường, ngồi trên một chiếc ghế gọi là An Lạc ỷ bọc vải đoạn vàng thêu bằng chỉ gấm.

Chàng thị vệ họ Ân bỏ mũ ra, bò mọp xuống đất, dập đầu tâu xin:

- Hoàng thượng và hoàng hậu thánh an…

Làm lễ đã xong nhưng chàng vẫn cứ quỳ dưới đất căn phòng yên lặng như tờ, chẳng một tiếng động, mà cũng chẳng ai nói một lời. Bỗng thị vệ họ Ân thấy hai cung nữ lôi một người con gái rất đẹp từ sau giường ra, trông có vẻ như một phi tần. Thật đáng thương cho nàng, chỉ mặc có một cái áo mỏng, run lên bần bật, chiếc cổ phấn mịn của nàng máu tươi nhỏ giọt. Nàng vừa khóc vừa bò sát trên mặt đất dập đầu liền liền.

Hoàng hậu nhìn nàng không ngớt cười nhạt. Bà nói:

- Chà! Người đẹp, đẹp lắm! Nhưng cũng quỷ yêu lắm! Mi lừa dối hoàng thượng, giết chết Lan Tần, lần này mi định giết cả ta nữa.

Nói đoạn bà quay lại nói với hoàng đế:

- Bệ hạ không còn tới cung của thiếp nghĩa là không còn tình nghĩa vợ chồng gì nữa, điều đó đối với thiếp cũng chẳng có sao. Nhưng khi ra ngoài, thiếp tưởng bệ hạ cũng nên giữ gìn mới phải chứ! Bệ hạ nghĩ thế nào mà bất cứ những thứ hôi tanh dơ dáy đâu đâu cũng mang về nằm với chúng, bất luận yêu tinh hồ ly nào cũng phong cho làm phi tử, hỏi thiếp làm hoàng hậu còn mặt mũi nào nữa để nhìn ngó thiên hạ? Bệ hạ đừng tưởng mình làm gì ở bên ngoài mà thiếp không biết đâu. Bệ hạ nằm với con yêu này ngày nào, đêm nào thiếp đều ghi cả đây. Này nhé nhé, bốn đêm nằm ở Kinh sự phòng, có đúng không? Ba đêm ngủ ở Ngọ bị sở, có phải không? Bốn đêm nằm ở Lục âm xứ và bốn đêm nữa ngủ ở Ngự thư phòng, đúng thật cả không? Bệ hạ ngủ với con yêu này, thôi cũng xong đi, nhưng tại sao lại giết Lan Tần, tại sao lại quên hết cả bọn phi tần, chẳng thèm triệu hạnh một đứa nào?

Càng nói, hoàng hậu càng tức giận. Rồi bà giơ thẳng cánh đập xuống bàn đánh thình một cái. Đạo Quang hoàng đế ngồi trong chiếc ghế bành, cúi đầu xuống, chẳng dám hé môi. Bỗng hoàng hậu cất tiếng gọi thị vệ họ Ân:

- Ngươi có dám giết người không?

Họ Ân đang quỳ bên, nghe câu hỏi đó, liền tự nhủ mình vốn con nhà thi thư, suốt ngày cặm cụi với sách đèn làm sao mà "dám" được. Chàng vừa định đáp lời hoàng hậu nhưng lại nhớ tới cái chức võ quan hiện đang giữ thì sao dám nói mình không dám. Thế là bèn vội quỳ xuống dập đầu đáp gọn:

- Dám ạ!

Hoàng hậu gật đầu khen:

- Tốt lắm!

Vừa nói xong hai tiếng đó, bà đã lấy tay chỉ người con gái quỳ dưới đất bảo mau kéo nàng ra, đem giết. Anh chàng thị vệ họ Ân giật nảy mình, hồn phách như bay bổng lên mây.

Người con gái nọ cũng bạt vía bay hồn, mặt mày xám ngoét hẳn lại. Nàng chỉ còn biết dập đầu liền liền trên mặt đất đề xin tha. Họ Ân thấy vậy, lòng cũng se lại dập đầu tâu:

- Người con gái này tội đáng chết. Song cung cấm không phải là nơi giết người, cầu xin hoàng hậu giao người con gái này cho nô tài đưa ra nội vụ thẩm vấn định tội.

Không ngờ khi nghe xong, hoàng hậu lại càng tức giận.

Bà vỗ bàn đập ghế quát:

- Mi nói gì vậy hả? Mi là ai mà dám kháng chỉ? Mi có giao tình với con yêu tinh này phải không? Còn nói nữa, cả mi ta cũng chém luôn đấy, nghe chưa? Mi bảo cấm cung không phải là nơi giết người, thế tại sao Lan Tần lại bị Vương thị vệ giết chết? Đừng tưởng chỉ có hoàng thượng còn ta đây không giết được người. Huống hồ con yêu này lại không phải là phi tần cung nữ gì, thị vốn chỉ là con đào hát dâm tiện của nhà Mục Chương A. Chỉ có Hoàng đế của tụi mi bất thành nhân cách, mang vào cung, nên thị mới tác yêu tác quái được. Nay ta bảo mi giết thì phải giết ngay. Cái đồ khốn nạn ấy giao cho nội vụ thẩm vấn để làm gì chứ?

Thị vệ họ Ân nghe một hơi như vậy, biết không còn cách gì nữa, đành kéo người con gái đi ra.

Đáng thương cho Nhị Hương, khóc đến sưng mắt, máu lệ thấm ướt cùng mình. Nàng nắm chặt lấy chéo áo của thị vệ Ân xin cứu mạng cho mình. Chàng họ Ân lúc đó đành dùng cả hai tay nắm chặt lấy cánh tay nàng lôi mãi mới ra khỏi được tẩm cung.

Trong khuôn viên, ánh trăng mờ in bóng hai người trên thảm cỏ. Nhị Hương quỳ xuống đất dập đầu vừa khóc, vừa xin tha mạng. Nhưng đến lúc này, chàng thị vệ họ Ân đã rơi vào thế không làm không được. Chàng nhắm nghiền đôi mắt, cắn chặt hai hàm răng, một tay tuốt cây bội đao, một tay nắm chặt lấy lọn tóc Nhị Hương, rồi cứ nhè cổ nàng mà chém mãi.

Lúc đầu, còn nghe tiếng nàng kêu la inh ỏi sau không thấy gì nữa, chàng họ Ân mới dám mở mắt ra. Đầu Nhị Hương chưa đứt hẳn mà vẫn còn lủng lẳng trước ngực. Ân bèn đem hết sức bình sinh cắt mạnh một nhát. Tay cầm đầu Nhị Hương mà hồn Ân ở mãi tận đâu đâu. Ân cúi xuống nhìn thi thể người con gái nằm sõng sượt dưới chân rồi nhìn quanh, thấy không có bóng ai, bèn quỳ xuống đất, hướng về thây ma, vừa lạy vừa lẩm bẩm khấn khứa:

- Tiểu tử xin cầu khẩn cho hương hồn nàng mau lên trên thiên giới. Nàng đừng oán hận tiểu tử đã nhẫn tâm giết hại nàng. Đấy là do hoàng hậu bức bách, tiểu tử bất đắc dĩ phải làm điều ác, không còn cách nào khác đó thôi. Chỉ xin nàng nhận cho tiểu tử này mấy lạy để tỏ lòng Ân hận.

Khấn xong, vừa lúc một tên tiểu thái giám xuất hiện, giục Ân trở về phục chỉ. Ân vội xách chiếc đầu trở về cung. Hoàng đế nhìn cái đầu cũng lệ nhỏ như tuôn. Hoàng hậu cho phép Ân lui ra, lúc đó Ân mới dám thở phào.

Anh chàng thị vệ họ Ân về tới cửa Kiều Thanh môn, vừa lúc ban thị vệ trực đổi phiên. Họ Ân liền chạy vội ra cửa Kiều Thanh, thấy bọn thị vệ đang nhắm rượu với đĩa thịt luộc sau khi tế bà chúa Vạn Lịch má má.

Vạn Lịch má má là ai mà lại có đền thờ? Đó chính là bà thái hậu Vạn Lịch nhà Minh. Người ta kể lại rằng dưới triều Minh, niên hiệu Vạn Lịch, Thanh thái tổ đem quân đánh phủ Ninh bị quân Minh bắt được, giam trong lao phủ. Quân Thanh vội đưa mười vạn dạng bạc đút lót cho một viên thái giám để hắn cầu khẩn Vạn Lịch thái hậu xin Vạn Lịch hoàng đế thả Thanh thái tổ về nước. Từ đó nhà Thanh hết sức cảm kích ân đức của bà và nghĩ tới ân đức xưa, bèn xây một cái miếu ba gian ngay tại góc đông bắc Tử Cấm thành, trong đặt bài vị Vạn Lịch thái hậu. Người trong cung ai cũng gọi bà là Vạn Lịch má má.

Theo lệnh của Thanh thái tổ truyền lại thì mỗi năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, trong cung đều phải đem mỗi ngày hai con heo đến tế lễ tại đây. Người trông coi miếu là một bà già. Hằng ngày cứ vào lúc giờ Dậu hai khắc, bà già này lại đánh một chiếc xe không ra ngoài thành. Rồi ba khắc đồng hồ sau, bà ta đánh xe về, trên chở hai con heo, tới cửa Đông Hoa môn, chờ khi mở cửa, cho xe thủng thẳng đi vào, trên xe không treo đèn, chỉ có lớp vải xanh vây chung quanh. Một viên quan lễ bộ giơ cao ngọn đèn hình tròn làm bằng lụa theo chiếc xe cùng vào. Tiếp đó còn có các bộ viện, nha môn, các viên quan đệ tấn, cùng các viên quan tập biền ở các tỉnh bước theo để vào triều phòng (căn phòng dành cho các quan đợi giờ vào chầu vua trong cung).

Theo quy lệ của cung Thanh thì trong Tử Cấm thành không được thắp đèn. Chi có tấn sự quan, giảng quan được dùng đèn và ở Nam Thư phòng được đốt đèn mà thôi. Các quan muốn vào triệu bệ kiến đều phải đứng đợi ngoài cửa Đông Hoa môn. Khi thấy một chiếc đèn cầm tới, tức thì họ ráp thành một cái đuôi dài, lũ lượt tiến vào Tử Cấm thành.

Bà già nọ đánh xe heo, sau khi qua khỏi Đông Hoa môn, bèn dọc theo bức tường tiến về ngả đông bắc, dừng lại ở trước cửa miếu Vạn Lịch má má. Rồi từ phía trong có người bước ra, giúp bà già làm thịt heo, cạo lông rửa sạch, bắc nồi luộc chín. Heo đem tế Vạn Lịch má má rồi cắt thành những miếng lớn, đưa tới cho bọn thị vệ đánh chén. Còn nước xáo thì đựng trong mấy cái tô lớn. Khi đánh chén, bọn thị vệ cấm không được gia vị muối mắm, cấm dùng thìa, dùng đũa, mà chỉ được dùng dao nhỏ chặt thịt thành từng miếng nhỏ bỏ vào trong cái bát rồi bốc mà ăn. Lúc đầu bọn thị vệ ăn không có mắm muối, nhạt quá chẳng thấy ngon, sau họ bèn nghĩ ra một cách, lấy giấy Cao Ly dày cắt thành miếng vuông nhỏ ngâm vào nồi nước tương, cô mãi lại cho tương ngấm vào giấy. Xong họ đem phơi nắng cho khô, gói sẵn trong mình. Đêm nào đúng phiên trực, họ bỏ vài ba miếng giấy tương vào cho nó tan trong nước xáo mà ăn, mùi vị đâm ra cũng đậm đà hết sức. Cái món nhậu khoái khẩu này, bọn thị vệ ngự tiền (thị vệ canh gác ở trước vua) quả không được nếm bao giờ.

Vừa thấy họ Ân, cả bọn vội đứng dậy, đứng thành hàng thứ nhất thỉnh an rồi nói:

- Mời đại gia.

Ban thị vệ cửa đại môn này tuy cũng làm quan thị vệ nhưng cấp bậc khác nhau. Đây chính là ban thị vệ của cửa Đại Thanh môn, chia ra làm ba cấp. Những cấp bậc này đều do kết quả cuộc thi võ mà có. Nhưng ban trực ở Kiều Thanh môn, thường gọi là ngự tiền thị vệ, vốn là bọn con ông cháu cha của các vương công đại thần mới được sung vào. Bởi thế, ban thị vệ cửa Đại môn vừa thấy họ Ân đã vội vàng đứng dậy và tỏ vẻ tôn kính hết sức. Gã thị vệ họ Ân vừa bị xúc động mạnh, lại vất vả cả đêm nên bụng cảm thấy đói. Hắn thấy một miếng thịt heo luộc bự nằm trong đĩa lớn, vội chạy tới ngồi xuống ăn luôn.

Ngọn đèn dầu thắp trên vách vẫn cháy sáng. Anh sáng rọi vào mặt họ Ân, bỗng bọn thị vệ giật mình đánh thót một cái, đồng thanh hỏi:

- Ân đại gia làm sao vậy? Mặt đại gia đầy máu kìa!

Họ lại xem kỹ quần áo của Ân thấy cũng lấm tấm những giọt máu. Cả bọn la lên một tiếng lớn, vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi. Gã họ Ân thấy hỏi, thở dài một tiếng rồi vừa ăn thịt heo vừa kể lại chuyện Nhị Hương.

Đến chỗ thê thảm rùng rợn nhất, cả bọn ai nấy đều rùng mình rởn gáy cả.

Sau đêm đó, họ Ân ra khỏi cung, trở về nhà bỗng nhuốm bệnh nặng, nằm liệt giường chiếu. Và cũng từ đêm đó, chàng ta xin không làm thị vệ nữa.

Hoàng đế và hoàng hậu cãi nhau kịch liệt vì chuyện này. Cuối cùng hoàng đế phải nhận là mình lầm lỗi hoàng hậu mới chịu thôi. Cũng từ hôm đó, hoàng đế sợ hoàng hậu lại nổi cơn ghen nên phải thường đến ngủ tại cung của bà. Và mỗi khi muốn triệu hạnh một phi tần nào, ngài phải nhờ hoàng hậu đóng cho con dấu nhỏ vào giấy triệu, lúc đó, bọn phi tần mới dám tới với ngài.

Theo luật lệ trong cung Thanh, thì hoàng đế triệu hạnh phi tần, phải được hoàng hậu hạ dụ mới được. Nhưng từ khi Càn Long hoàng đế phế bỏ hoàng hậu thì luật lệ này không được áp dụng nữa. Đạo Quang hoàng hậu nhân dịp đánh ghen này, bèn mang Tô chế (thể chế đặt ra do các tổ tiên) này ra, thế là Đạo Quang hoàng đế chẳng dám không tuân theo.

Cái gọi Tố chế ấy là như thế nào? Ngoại trừ hoàng hậu, cứ mỗi lần hoàng đế muốn lâm hạnh một bà phi nào thì bắt buộc phải ngay tại tẩm cung của mình chứ không được tới nhà riêng của phi đó. Trông coi việc bí mật tại thâm cung của hoàng đế và hậu phi thuộc về Kính sự phòng, gồm có một viên tổng quản thái giám, bốn viên thái giám đi mời phi tử, hai viên thái giám đi xin ấn. Viên tổng quản thái giám chuyên việc dâng thiện bài, gọi dậy và sắp đặt công việc. Viên thái giám xin ấn chuyên việc đi xin hoàng hậu ký và đóng dấu cho phép tại cung của bà.

Thiện bài là gì? Trong cung có bao nhiêu phi tần thì phải viết đủ bấy nhiêu cái thẻ nhỏ, cứ mỗi phi tần có một cái thẻ đó, trên đầu chiếc thẻ này sơn xanh nên còn gọi là Lục đầu bài. Hằng ngày viên tổng quản thái giám phải đem những Lục đầu bài này bày trên mâm bạc. Nếu bà phi nào hôm đó có tháng (kinh nguyệt) thì viên tổng quản thái giám phải cắm cái thẻ đó nghiêng đi để cho hoàng đế biết mà tránh.

Nhằm lúc vẩn thiện (ăn cơm tối), viên thái giám tổng quản đầu đội chiếc mâm thẻ đó tới trước mặt hoàng đế, quỳ xuống, cho ngài tuỳ sức chọn lựa. Nếu đêm đó muốn tới với hoàng hậu thì ngài chỉ cần nói "để đó", tức thì viên tổng quản thái giám gác cái mâm lên giá, khom mình lui ra ngoài. Nếu ngài không tới cung hoàng hậu, cũng không triệu hạnh phi tần thì chi nói một tiếng "Cất đi", tức thì viên tổng quản thái giám bưng cái mâm đi luôn. Còn khi ngài muốn triệu hạnh bà phi nào, thì chỉ việc lật úp cái thẻ lại, để phía lưng hướng lên trên. Viên tổng quản thái giám bưng mâm ra, nhặt cái thẻ đó giao cho viên thái giám xin ấn đưa vào cung bà hoàng hậu mà xin ấn. Xin được rồi, hắn bèn giao lại thái giám nhận được tờ giấy này đem về lại giao cho viên thái giám chuyên đi mời phi tần. Viên thái giám này, khi thấy Thiện bài và giấy đóng ấn, liền đi lấy chiếc áo khoác đoạn vàng bằng lông tơ, chạy tới nhà bà phi đó, giao tờ giấy đóng ấn cho một cung nữ để cô ta đưa ngay vào cho bà phi nọ xem.

Bà phi này biết được lệnh triệu hạnh, bèn cho gọi bọn cung nữ hầu hạ, giúp mình tắm rửa sạch sẽ, tô son điểm phấn, ngắm lại tấm thân nõn nà của mình trước kính rồi mới ra đi. Một tên thái giám bước tới, cầm chiếc chăn mỏng đoạn vàng bằng lông tơ khoác lên mình bà phi nọ, rồi cõng bà ta tới trước giường của hoàng đế. Viên thái giám đặt bà phi xuống đất, cởi chiếc chăn đoạn vàng treo lên móc. Xong đâu đấy, viên thái giám lại giúp hoàng đế cởi hết áo quần, để ngài nằm trên giường ngủ, đắp lên một chiếc khăn ngắn để hở mặt và đôi chân, rồi lặng lẽ rút lui ra ngoài phòng. Bà phi tử nhè nhẹ bước đến cuối giường rồi chui vào trong chăn.

Trong lúc đó, viên tổng quản thái giám Kính sự phòng đem cả bọn thái giám đứng thành hàng ngoài cửa phòng. Chờ chực như vậy độ hai giờ đồng hồ, bọn thái giám bèn quỳ xuống đồng thanh cất cao tiếng xướng: "Đúng lúc rồi!" Câu xướng này ngân dài ra, đủ cho bên trong chú ý và nghe kịp. Nếu bên trong không có tiếng trả lời, cả bọn lại xướng lần thứ hai, hoặc có khi phải đến lần thứ ba. Đến tiếng thứ ba này, cả bọn nghe thấy hoàng đế gọi lên một tiếng, tức thì viên thái giám chuyên đi mời phi tử chạy vào trong phòng. Bà phi nọ, lúc đó đã chui ra khỏi chăn, đứng ngay ở trước giường. Viên thái giám tiến tới, lại dùng chiếc chăn đoạn vàng lông tơ khoác vào người bà phi như cũ, ghé vai cõng đưa về cung. Sau đó, viên tổng quản thái giám cũng tiến vào phòng, quỳ ở trước giường hỏi:

- Lưu lại hay không?

Hoàng đế đáp:

- Lưu lại!

Nghe được tiếng này, viên tổng quản thái giám bèn về Kính sự phòng, ghi vào trong sổ hàng chữ sau, "Năm này, tháng này, ngày này, giờ này, hoàng đế đã lâm hạnh bà phi này (tên bà phi nọ)".

Luật lệ này của Thanh cung vốn phỏng theo luật lệ của triều Minh. Nay Đạo Quang hoàng hậu muốn sử dụng oai quyền của mình và đề phòng hoàng đế hoang dâm vô độ nên mới lôi cái "Tổ chế" này ra. Đạo Quang hoàng đế chẳng biết làm cách nào hơn, đành phải chấp nhận và cũng từ đó những cái án tình thê thảm trong thâm cung mới không còn có cớ mà xảy ra nữa.


Trong thâm cung vừa tạm yên thì tại Dự Vương phủ lại xảy ra một vụ án tình hi hữu khác. Số là Dự Thân Vương tên gọi Dự Hưng vốn dòng tôn thất rất gần đối với hoàng đế. Theo thể chế của nhà Thanh, khi làm Vương gia thì không được có một chức vụ gì. Do đó Dự Hưng ăn no uống say rồi phởn rốn nằm kềnh ra ngủ, chẳng có gì làm cả. Hưng ngủ chán rồi đi chơi. Từ hang cùng đến ngõ hẻm, bất cứ chỗ nào Hưng cũng đặt chân tới. Vốn hiếu sắc, lại cậy mình có tiền, có thế, hễ thấy cô gái nào sạch nước cản, mặt mui xinh xắn, là Hưng tìm đủ cách đủ lối để ve vãn, tán tỉnh cho bằng được. Nhiều lầu xanh trong kinh thành đều do Vương gia đứng chủ. Bởi thế, người ta mới tặng Hưng cái biệt hiệu "Hoa Hoa thái tuế".

Đã có rất nhiều bà trong những gia đình tử tế, có sắc đẹp, bị Hưng để mắt tới. Bất chấp đó là con ông này hay cháu bà kia, Hưng cứ xông vào nhà cưỡng gian bừa đi. Nhiều người bị ô nhục đã phải treo cổ trên xà nhà hoặc nhảy xuống giếng mà tự tử. Gia đình của họ cũng bị nhục lây. Nhưng thế lực của Dự Vương quá lớn, họ đành phải nhẫn nhục, không dám hở môi kêu kiện gì. Sau cùng, Dự Hưng gia đã làm cho một con a đầu của chính mình phải mất mạng.



Con a đầu ấy tên gọi Dân Cách, vốn trước theo phúc tấn qua phủ Dự vương. Dân Cách có sắc đẹp lại thêm tính tình hoà nhã. Trong vương phủ, ai nấy cũng đều đối xử tốt với nàng. Dự Vương có cậu công tử lớn tên gọi Chấn Đức, cùng tuổi với Dân Cách. Chẳng biết duyên số thế nào mà đôi trai gái đâm mê nhau, hết sức tâm đầu ý hợp. Thường những lúc vắng người, họ thủ thỉ với nhau không biết bao nhiêu chuyện.

Bà phúc tấn lại thích đám gái đẹp. Bởi thế, bà cho Dân Cách sửa sang trang điểm hết sức duyên dáng, chẳng khác gì một giò thuỷ tiên vừa trong sạch, vừa cao quý. Vị đại công tử trông thấy thế càng đâm ra thầm yêu trộm nhớ. Trong mắt xanh của Dân Cách thì cũng chỉ có công tử mới là người tình lý tưởng duy nhất của nàng.

Ngờ đâu Dân Cách càng son phấn bao nhiêu thì Dự vương lại càng cảm thấy mê say bấy nhiêu. Bà phúc tấn cũng biết chồng mình thuộc loại quỷ râu xanh nên canh chừng nàng chằn chặt. Dự vương thấy khó bề hạ thủ, chỉ đành nuốt nước miếng than thầm trước người đẹp và rình chờ cơ hội.


Hồi 104: Một vụ án cưỡng gian chấn động

Con ả đầu Dân Cách chẳng bao lâu đã mười tám tuổi. Cách biết vương gia có lòng chẳng đẹp. Những lúc vắng người, Vương thường buông lời ong bướm trêu ghẹo. Thậm chí có những lúc Vương vuốt ve, nắn khắp người nàng. Dân Cách nghiêm nét mặt, tỏ ý không bằng lòng, rồi giật khỏi tay Vương mà chạy ra ngoài. Những trường hợp như vậy xảy ra đã nhiều lần lắm.

Một hôm Dự vương có việc phải vào cung. Hôm đó là mồng sáu tháng giêng, hôm mà họ hàng tôn thất thân thuộc xa gần phải vào triều bái yết đầu năm. Sáng hôm đó Dự Thân vương đem theo phúc tấn. Hoàng hậu và bà phúc tấn vốn chơi thân với nhau, hoàng hậu lưu bà phúc tấn lại trò chuyện nên đêm đó bà không trở về phủ.

Dự Thân vương chờ bên ngoài thấy phúc tấn không trở ra, bỗng nhớ tới người đẹp Dân Cách ở nhà Vương cho đây là một cơ hội ngàn năm một thuở, thế là bèn thoăn thoắt ra khỏi cung, trở về phủ. Vào nhà trong, sai bốn ả đầu, bộc phụ, mấy cô hầu thiếp đi mỗi người mỗi việc hết cả, Vương lẻn vào phòng của phúc tấn. Vương biết rằng Dân Cách thế nào cũng đang ở đấy dọn dẹp.

Không ngờ khi bước vào phòng, Vương chẳng thấy một ai. Nhìn kỹ khắp phòng, mới thấy phía dưới bức trướng lụa rủ thấp có một đôi hài đế trắng, lòng uốn cao, chung quanh thêu hoa khắp cả. Dự vương hằng ngày đã biết đôi hài này của Dân Cách, lòng bỗng mừng rơn. Ngồi coi phòng được một lúc lâu rồi, trong cảnh vắng lặng ấy, Dân cách cảm thấy buồn ngủ. Nàng định về phòng riêng, nhưng thấy phòng bà phúc tấn không còn ai canh giữ, nên không yên tâm, hơn nữa, bà đã có dặn nàng ở nhà coi giữ phòng cẩn thận. Nàng bèn leo lên giường bà và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Dự vương rón rén đóng cửa lại rồi nhón chân bước cạnh giường. Vương lấy tay khẽ nâng bức trướng lụa lên, miệng thốt lên một tiếng nhỏ, đầy khoái cảm: "Tuyệt quá!". Thì ra, Vương thấy Dân Cách đang nằm say ngủ. Đôi môi son tươi như hoa, đôi má điển qua chút phấn hồng, cặp lông mày lá liễu, tất cả đều làm cho nàng thêm đẹp, thêm quyến rũ mơ màng.

Dân Cách thấy động, bỗng giật mình tỉnh dậy thì đã không kịp nữa. Nàng chỉ còn biết kêu khóc, van xin, nhưng chẳng an thua gì. Tấm thân trinh bạch như đoá trà mi vừa mới nở buổi ban mai đã bị Vương gia làm ô uế mất rồi.

Dư vương đã thoả mãn thú tính, bỏ nàng nằm đó, dương dương đắc ý bước ra khỏi phòng. Dân Cách xót xa cho thân phận, khóc lóc thảm thiết. Nàng cố gượng dậy, chệnh choạng bước ra cài then cửa, cởi sợi dây lưng, thắt cổ chết ngay trên đầu giường của bà phúc tấn chủ nàng. Đáng thương cho nàng lúc sắp chết còn kêu lên mấy tiếng:

- Đại công tử ơi! Kiếp này thiếp không thể hầu hạ chàng được nữa!

Nhà cửa trong Vương Phủ vừa lớn vừa rộng. Phòng ngủ của phúc tấn lại không phải là chỗ mà bọn đầy tớ vào ra dễ dàng. Bởi thế, Dân Cách chết treo trong phòng mà chẳng một ai biết.

Mãi cho đến tối hôm đó, bà phúc tấn mới đem các công tử trở về phủ. Đại công tử vốn nhớ nhung Dân Cách, vội chạy lên trước, xông vào trang viện, đẩy mạnh cửa phòng. Nhưng cửa đóng, bên trong có then cài. Chàng đập luôn mấy cái mà chẳng thấy ai thưa. Chàng đâm nghi, vội quay bước trở ra báo với mẹ. Mẹ chàng lúc đó còn ở thư phòng của cha chàng để thuật lại chuyện yết kiến hoàng hậu. Bà nghe con kể, lấy làm lạ hết sức, vội chạy về phòng, trong khi đó Dự vương làm bộ như không biết gì, cũng lẽo đẽo theo sau. Bọn ả đầu, nữ bộc xô cửa để vào, cánh cửa bị sức mạnh bật tung ra. Người ta chỉ nghe một tiếng rú hoảng hồn của cả bọn, thì ra họ trông thấy một thây ma treo lủng lẳng ngay trên đầu giường của phúc tấn. Mọi người nhìn kỹ lại thì đúng là xác của Dân Cách.

Người đau đớn nhất lúc đó là Đại công tử. Đứng trước đông người, chả lẽ lại khóc lên hu hu. Chàng chỉ còn biết mặc cho nước mắt rơi lã chã. Bà phúc tấn thấy con a đầu yêu quý nhất của mình chết, bất giác nhỏ lệ, sai gia nhân cởi dây, hạ xác khiêng xuống nhà dưới. Mụ quản sự bước tới nói với bà phúc tấn:

- Trong phủ xảy án mạng. Chiếu lệ thì phải báo Tôn nhân phủ biết để khám nghiệm rồi mới khâm liệm và đem chôn được Ngưng giây lát, mụ ta lại tiếp:

- Trong nhà nào màn trướng nào đồ đạc, tất thảy đều nguyên vẹn. Cần phải mời quan tới khám nghiệm mới được.

Dự vương nghe câu nói này, chột dạ, liền lên tiếng:

- Chết một con a đầu tôi mọi chứ có gì mà phải báo với Tôn nhân phủ?

Dự vương phúc tấn thấy con a đầu yêu quý của mình chết một cách thê thảm nên đoán phải có chuyện oan khuất chi đây. Bà suy tính mãi, cuối cùng đoan kết rằng vụ án này xảy ra hẳn chỉ do chồng bà chứ không phải ai khác. Nhưng lòng bà lúc đó chỉ uất ức bới cái chết của con a đầu, cho nên chẳng tính suy tới lui gì nữa, chạy một mạch tới báo cho Tôn nhân phủ biết.

Dự vương gây ra chuyện nên chẳng tiện ngăn cản. Hơn nữa, Vương đinh ninh rằng mình thuộc dòng tôn thất, dù việc có tới Tôn nhân phủ đi nữa cũng chẳng hề hấn gì.

Ai ngờ vị quản lý Tôn nhân phủ lại là một tay mặt sắt đen sì, chí công vô tư, tên gọi Long Cách Thân Vương. Nếu đem so sánh thứ bậc trong họ, thì Long Cách thuộc hàng chú của Dự vương. Long Cách được báo, bèn đích thân tới Dự vương phủ khám nghiệm. Trông thấy tấm trướng lục rũ thấp, chăn gối ngổn ngang, ông đã có đôi phần nghi hoặc rồi. Lúc khám tới cửa mình Dân Cách, thấy nơi đây bị đập nát, chiếc quần lót máu me bê bết thì ông đã rõ rằng nàng bị cưỡng gian nên quá xấu hổ mà tự vận. Khám nghiệm xong, Long Cách thân vương suy nghĩ mãi vẫn chưa đoán ra đầu mối. Ông phân vân tự hỏi; trong Vương phủ oai nghiêm như thế, kẻ nào dám to gan cưỡng hiếp đứa thị nữ hầu cận bà phúc tấn được? Lúc đầu, ông nghi cho đại công tử của Dự vương gây ra. Nhưng khi cho gọi tới thẩm vấn ông thấy cậu tỏ ra đau đớn cùng cực thì bèn quyết ngay rằng cậu chẳng thể là người đã gây nên việc dâm ác này được. Giữa lúc ông băn khoăn, bỗng tên lính nghiệm xác tới đưa cho ông một chiếc cúc bằng vàng, trên có khắc chữ "Dự", mà chữ Dự lại chính là tên của Dự Thân vương.

Đại công tử vừa thấy chiếc cúc này bèn la lên:

- Chiếc cúc này vốn khâu trên áo choàng của cha tôi đây mà!

Long Cách thân vương cầm chiếc cúc xem kỹ quả nhiên thấy những mối chỉ đứt còn sót lại ở chân cúc. Thế là ông cho gọi con a đầu trông coi về y phục tên là Hỷ Tử tới thẩm vấn Hỷ Tử vốn là một đứa ngốc nghếch, vừa trông thấy chiếc cúc vàng, vội la lên:

- Trời đất! Thì ra nó rớt tại nơi đây. Tôi cứ lấy làm lạ tại sao áo Vương gia thiếu mất một cái cúc.

Long Cách thân vương nghe nói vậy, liền bảo con Hỷ Tử đi lây ngay cái áo choàng đem tới, mới biết chiếc cúc thứ ba trên ngực áo đã bị mất, là do có sự kéo giật mạnh. Ngoài ra chiếc áo còn bị rách một mảnh nhỏ ở chỗ khâu giữa thân dính với mảnh tà. Ông hỏi con Hỷ Tử:

- Chiếc áo này, Vương gia mặc hồi nào?

Hỷ Tử đáp:

- Thưa, hôm qua tôi lấy ra để Vương gia mặc mà vào cung.

Long Cách thân vương lại hỏi:

- Vương gia quay về phủ hồi lúc nào?

Hỷ Tử đáp:

- Chiều thì ngài về.

Lại hỏi:

- Mi có chắc lúc ra đi Vương gia mặc áo này còn đủ cúc chứ?

Hỷ Tử đáp:

- Bộ cúc hoàn toàn đầy đủ, chẳng thiếu cái nào?

Hỏi:

- Lúc trở về phủ, Vương gia có mặc chiếc áo này không?

Đáp:

- Có Vương gia mặc đúng chiếc áo này?

Hỏi:

- Vương gia có chiếc áo này vào lúc nào?

Đáp:

- Vương gia trở về phủ trước một người. Khi ngài về tới nơi, tỳ nữ bước tới xin Vương gia cởi bỏ áo ngoài cho. Nhưng Vương gia lặng thinh, cũng chẳng bảo cởi, vội vã bước vào phòng ngay.

Long cách bèn tới phòng Dự Vương, chìa ra chiếc cúc áo và hỏi:

- Chiếc cúc này của Vương gia phải không?

Tuy đã mất cái cúc này, nhưng Dự Thân vương quả chưa hề biết. Thấy Long Cách thân vương hỏi, Vương bèn đáp:

- Phải! Chiếc cúc này vốn do Hoàng thái hậu ban thưởng cho. Năm đó vào cung chúc thọ, bà tự tay ban cho nên trên đó mới có khắc chữ tên của tôi là thế. Thuần thân vương, Đoạn Thân vương cũng được bộ cúc như tôi vậy. Vì đó là vật thưởng của thái hậu, nên tôi rất quý, đem khâu vào chiếc áo choàng. Nay Vương gia đột nhiên hỏi tới chiếc cúc đó là có ý gì?

Long Cách thân vương nói:

- Vương gia đánh mất một chiếc cúc, Vương gia đã biết rồi chứ?

Dự Vương nghe xong mắt bỗng trợn ngược lên, rồi ra vẻ suy nghĩ lung lắm. Long Cách Thân Vương lại hỏi:

- Tôi vừa tìm giúp cho Vương gia đó!

Dự vương vội hỏi lại:

- Tìm giúp! Tìm ở đâu vậy?

Long Cách Thân Vương đáp:

- Tìm được ngay trong lòng bàn tay xác chết của con a đầu Dân Cách đấy!

Dự vương vừa nghe xong câu nói, sắc mặt bỗng biến đổi hẳn, đỏ gay lên được vài giây rồi bỗng biển thành xám ngoét.

Thì ra lúc cưỡng hiếp Dân Cách, Vương đã bị nó giật đứt mất một cái cúc mà không hay biết. Nay bỗng thấy Long Cách thân vương đột ngột nói vậy, lời lẽ Vương đâm ra luống cuống, hết thế che chống, tay chân Vương run lên, không biết đặt đâu cho yên nữa.

Long Cách thân vương nhìn qua đã biết Dự Vương phạm tội mười phần mười rồi, ông liền quát:

- Bắt lấy!

Tức thì mười mấy tên sai dịch xông tới giữ chặt lấy Dự vương và lôi ra khỏi phủ…

Hồi 105: Ai thích làm công chúa nhà Thanh

Đạo Quang hoàng đế đang bực mình vì việc hoàng hậu giết mất nàng phi Nhị Hương sủng ái của ngài, bỗng thấy Tôn nhân phủ tâu lên nói Dự vương dâm bức thị nữ Dân Cách, bất giác cả giận đùng đùng, lập tức cầm bút phê ngay trên tập sớ hai chữ: "Tứ tử" (cho chết).

Dự vương phúc tấn vốn thân với hoàng hậu nên vừa được tin này bà vội đem theo công tử vào cung, quỳ trước mặt hoàng đế và hoàng hậu cầu xin tha mạng cho chồng. Hoàng hậu cũng nói thêm vào giúp bà phúc tấn. Lại còn có Thuần Thân vương, Thuỵ Thân vương, vì thể diện anh em, cũng nhất tề hẹn nhau vào cung, cầu xin cho Dự Vương. Bà Dự vương phúc tấn còn đến cả phủ Long Cách thân vương để cầu xin nữa. Thế là nỗi giận của hoàng đế hạ xuống ngay.

Ngài giao nội vụ cho đại thần Tôn nhân phủ họp cùng với Hình bộ đại thần định tội.

Ít hôm sau, toà định tội như sau: Dự vương bị cách tuột tước vương, phát giao cho Tôn nhân phủ giam cấm ba năm, mãn án về nhà, không được ra ngoài gây hoạ.

Bà Dự vương phúc tấn chạy đông chạy tây gỡ tội cho chồng, tiêu hết mất 30 vạn lạng bạc mới còn giữ được cái đầu đội nón trên cổ Vương ông. Thôi thì tiền mất chẳng kể chi, có điều đằng đẵng ba năm xa chồng, bà phúc tấn chiếc thân vò võ cô phòng, nghĩ mà thê thảm. Đạo Quang hoàng hậu biết bà buồn rầu lắm, nên hay cho gọi bà vào cung trò chuyện. Cũng có khi hậu cho gọi cả đại công tử theo vào cung nữa.

Đạo Quang hoàng hậu thấy mặt mũi cậu cả khôi ngô tuấn tú, tính tình lại nhu thuận, bèn xin hoàng đế cho tập tước Dự vương, do đó mọi người mới gọi là Tiểu Dự Thân vương.

Tiểu Dự Thân Vương cũng đã đến tuổi thanh niên. Hoàng hậu lại làm mai cho cô Cách Cách, con gái Phúc Quận Vương.

Thế rồi ngày nghênh hôn tới. Chính hoàng hậu lại cầu xin hoàng đế thả cho Dự vương ra khỏi lao Tôn nhân phủ trở về nhà. Từ đó, cả nhà Dự Thân vương đều cảm kích và nhớ ơn hoàng hậu.

Bà Dự vương phúc tấn rắp tâm trèo cao đã từ lâu. Bà đã nhắm Đại công chúa, mặt mũi xinh tươi, tính tình lại hào sảng. Cứ mỗi lần vào cung gặp công chúa, bà lại tay bắt mặt mừng, hỏi đủ chuyện, hết sức thân mật.

Theo luật lệ trong cung nhà Thanh thì khi sinh ra, công chúa sẽ chủ yếu sống với bà bảo mẫu, nếu không phải là ngày lễ sinh nhật, Vạn thọ thì không được gặp mặt cha mẹ. Một nàng công chúa từ khi sinh ra cho đến lúc đi lấy chồng, chỉ được gặp cha mẹ có mười mấy lần, thật tội nghiệp. Uy quyền của người bảo mẫu rất lớn, còn công chúa với cha mẹ mình thì thương yêu trở nên nhạt nhẽo, thậm chí có công chúa khi gặp cha mẹ cũng không dám tỏ bày nỗi khổ cực của mình ra nữa.

Duy chỉ có Đại công chúa này là khác hẳn. Nàng được Đạo Quang hoàng hậu hết sức sủng ái và nuôi nấng từ nhỏ tại cung nội. Bên cạnh nàng có hai chục thị nữ, tám người bảo mẫu hầu hạ. Nàng tuy là gái nhưng tính nết con trai. Suốt ngày, nàng cười nói, vui đùa, cưỡi ngựa, bắn cung. Bà Dự vương phúc tấn đã tính làm mai nàng cho chính con trai bà tên gọi Phù Trân.

Phù Trân năm đó tuổi đã hai mươi. Trân tuy là con trai nhưng tâm tính lại như con gái. Chàng có làn da trắng mịn, thân hình yểu điệu, lại có tính hay mắc cỡ, đụng tẹo là đỏ mặt tía tai lên.

Bà Dự vương phúc tấn cho người mai mối xin Đại công chúa cho con trai. Hoàng hậu hỏi ý nàng thì nàng bằng lòng ngay, chỉ nhờ có một điều là nàng nghe nói anh chàng Phù Trân tính nết rất hiền lành, nhu thuận. Hoàng hậu nói chuyện cưới gả này với hoàng thượng xong bèn cho xây cất ngay một toà phò mã phủ.

Đợi đến ngày lành tháng tất, Đại công chúa từ biệt cha mẹ, lên kiệu hoa về phò mã phủ, làm hôn lễ. Sau đó hai ông bà bố mẹ chồng tới triều kiến cô dâu. Nhưng sau cuộc triều kiến này, nàng công chúa bị khoá trái cửa lại, sống một mình lạnh lẽo trong phòng vắng, chẳng được gặp mặt chồng lấy một lần. Đại công chúa lấy làm lạ. Khi bà Dự vương phúc tấn tới thăm, nàng bèn hỏi lý do tại sao phò mã không thấy tới. Bà phúc tấn an ủi nàng và nói:

- Đó vốn là luật lệ của bản triều ta. Công chúa hãy nhẫn nại ít lâu.

Nghe nói vậy, Đại công chúa càng nghi hoặc, càng không rõ lý do tai sao. Còn Phù Trân phò mã từ lúc lấy công chúa, thực quả cũng chưa từng được thấy nàng mặt ngang mũi dọc thế nào. Suốt ngày chàng bị nhốt trong thư phòng phía ngoài viện, có muốn vào thăm vợ cũng chẳng được cho nên lòng rất lấy làm hối hận rằng mình đã lỡ phải làm phò mã, lấy công chúa con vua.

Thời giờ thấm thoắt thoi đưa, chẳng bao lâu đã năm tháng qua mà vợ chồng công chúa vẫn chưa từng được gặp mặt lần nào. Nàng vốn là người hào sảng, thẳng thắn, không chịu nổi cái luật lệ kỳ cục ấy bèn bảo thị nữ cho tuyên triệu phò mã tới.

Nào ngờ lệnh của công chúa bị ngay chính bọn bảo mẫu ngăn cản. Họ nói:

- Điều đó quyết không được đâu! Thiên hạ sẽ đồn rầm lên là công chúa không có liêm sỉ gì cả đấy!

Thế là nàng đành khoanh tay, đợi chờ. Ba tháng sau, nàng lại muốn cho thị nữ đi tuyên triệu phò mã. Bọn bảo mẫu lại ngăn cản, song lần này họ "mách nước":

- Nếu công chúa nhất sinh tuyên triệu phò mã tới thì cần phải bỏ ra ít tiền gọi là tiền "che xấu".

Đại công chúa nghe nói vậy, vội bỏ ra một trăm lạng bạc.

Bọn bảo mẫu chê ít, nàng lại thêm một trăm lạng nữa. Bọn bảo mẫu vẫn chê ít, nàng lại thêm lên tới năm trăm. Nhưng bọn bảo mẫu vẫn chê ít mà nói:

- Cung nội sai bọn tôi tới phò mã phủ để hầu hạ công chúa, một khi để công chúa tuyên triệu phò mã, tức là bọn tôi đã phải chịu tội thay cho công chúa rồi đó!

Đại công chúa nghe nói tức mình lắm, thế là lệnh lại bỏ.

Mãi đến ngày mồng một tháng giêng (ngày Tết Nguyên đán), nàng vào cung chúc tết, gặp cha bèn hỏi:

- Phụ hoàng đem con gả cho ai vậy?

Đạo Quang hoàng đế nghe đoạn, lấy làm lạ hết sức, bèn hỏi:

- Phù Trân không phải là chồng mày sao?

Đại công chúa liền nói với cha:

- Phù Trân là ai vậy? Phù Trân là người như thế nào? Con lấy chồng đã một năm rồi mà chưa từng được gặp chồng lần nào!

Đạo Quang hoàng đế hỏi thêm:

- Hai vợ chồng tụi bay sao mà không gặp mặt nhau?

Đại Công chúa đáp:

- Bọn bảo mẫu không cho phép con được gặp mặt chồng, thì làm sao mà con gặp được.

Đạo Quang hoàng đế nói:

- Đó là chuyện riêng của vợ chồng tụi bay, bọn bảo mẫu quyền gì mà can dự vào?

Đại công chúa lại nói:

- Có phải phụ hoàng cho bọn bảo mẫu tới phò mã phủ để cai quản con không?

Đạo Quang hoàng đế nói;

- Làm gì có chuyện đó bao giờ!

Đại công chúa nhớ lấy lời đó, cất kín trong bụng, quay về phủ. Nàng trước hết cho gọi bọn bảo mẫu đến, chửi cho một trận, đuổi hết ra khỏi phủ, rồi tuyên triệu phò mã vào nội viện. Thế là từ đó, hai vợ chồng đoàn tụ dưới một nếp nhà ấm cúng, vui vẻ, đẻ liền một dây tám đứa, đủ trai lẫn gái. Từ khi nhà Thanh dựng nước đến lúc đó là hai trăm năm, sinh con đẻ cái thực chỉ có mỗi mình nàng Đại công chúa này.




Đã từ lâu, các công chúa triều nhà Thanh đều không được gặp mặt phò mã? Nhiều nàng ốm bệnh tương tư đến chết, đều do bọn bảo mẫu kiếm chuyện gây trò mà nên. Công chúa chết đi rồi, tức thì phò mã bị đuổi ra khỏi phủ. Trừ những phòng ốc nhà cửa giao lại cho nội vụ, tất cả những đồ đạc của công chúa như quần áo, vàng ngọc, trang sức đều bị bọn bảo mẫu nuốt sạch. Bọn này vì tham lam những của cải đó nên đã nghĩ ra mọi cách, gọi là để bức tử công chúa. Chuyện thật kỳ quặc song lại có thực dưới triều nhà Thanh.

Lại nói Đạo Quang hoàng đế bị hoàng hậu quản thúc ở trong cung và thường bị những tên thái giám tâm phúc của bà rình rập coi chừng. Ngài chẳng có cách nào tiêu khiển, suốt ngày buồn bã, chán ngán. Lúc còn trẻ, ngài có tập luyện cung tên cưỡi ngựa, bởi vậy, thường đem bọn hoàng tử ra ngoài ngự hoa viên tập dượt giải khuây.

Theo lệ trong cung nhà Thanh, cứ mỗi khi sinh ra, các hoàng tử được bế ra khỏi cung giao cho vú nuôi trông coi và nuôi nấng. Đúng lệ thì cứ mỗi hoàng tử có tám bảo mẫu, tám vú nuôi, tám người khâu vá, tám người tắm giặt, bốn đèn đóm và bốn nhà bếp. Khi lên ba thôi bú rồi thì bỏ bớt bọn vú nuôi, nhưng lại thêm tám tên thái giám, thường gọi là Ám Đạt để dạy hoàng tử cách ăn uống, tập cách nói năng, trò chuyện, luyện cách đi đứng, cách cư xử theo lễ đạo. Đến sáu tuổi, bọn này còn dạy hoàng tử đi giầy, đội mũ, mặc áo, đưa đi theo ban đại thần đứng tại triều đình để sai khiến.

Hằng ngày cứ canh năm trở dậy, bọn hoàng tử mặc áo trào phục đi vào cửa Kiều Thanh, khi tới bực cửa lớn, có thái giám bế vào cửa, đưa mãi vào trước ngự toạ để cùng chầu với bọn Thân Vương.

Triều bái xong, các hoàng tử được đưa lên thư phòng đọc sách, làm văn. Đến mười ba tuổi lại có những viên Ám Đạt giỏi chữ Mãn Châu, dạy cho cách đọc chữ Mãn, rồi mười bốn tuổi, dạy cưỡi ngựa bắn cung. Trong cung gọi hoàng tử là A Kha Sở, cũng gọi là Thanh cung (cung xanh). Mãi đến khi Phụ hoàng băng giá, hoàng tử mới được đem mẹ đẻ, con cái ra khỏi cung, ở bên ngoài. Suốt thời gian làm hoàng tử, trừ những buổi vào chầu nơi triều đình ra, chỉ được gặp mặt phụ hoàng độ mười mấy lần. Trong lúc gặp, lại không được nói chuyện. Bởi thế giữa hoàng tử với hoàng đế, tình cảm thật hết sức lạnh nhạt.

Trên đây là luật lệ chung tại Thanh cung. Nhưng đặc biệt với Đạo Quang hoàng đế thì lại khác. Ngài thường triệu hoàng tử vào cung, đem cả đoàn theo bên cạnh mình đi du ngoạn.

Về sau, ngài nhận thấy nơi hoa viên quá nhỏ, bèn đem theo ngự lâm quân tới khu rừng mộc lan săn bắn.

Đạo Quang hoàng đế rất yêu quý hoàng tử thứ tư Dịch Trữ và hoàng tử thứ sáu Dịch Hân. Phen nào tuần du ra ngoài, ngài đem hai hoàng tử này theo bên cạnh. Mục Chương A thấy hoàng đế sủng ái Dịch Hân hơn cả Dịch Trữ, bèn ngầm liên kết với Hân, thường đưa lễ vật và dặn bảo Hân:

- Hoàng thượng là một vị thanh chúa, thông minh anh dũng, Đại A Kha nên cống hiến bản lĩnh phi thường trước phụ hoàng khiến ngài vui lòng hơn thì ngôi báu coi như đã nằm trong tay mình rồi.

Dịch Hân nghe lời A, suốt ngày luyện tập võ nghệ. Bởi thế cứ mỗi lần cưỡi ngựa, bắn cung y như Hân được thưởng tứ nhiều nhất. Đạo Quang hoàng đế càng ngày càng yêu Hân, Dịch Trữ ở bên cạnh, lặng lẽ đứng nhìn, cũng biết rằng phụ hoàng yêu Lục hoàng tử hơn mình. Lục hoàng tử thấy được cha yêu, lại làm bộ kiêu ngạo hơn xưa khiến Trữ thấy khó chịu lắm. Dịch Trữ cho mời sư phó của mình tên gọi Đỗ Thụ Điền tới thương lượng. Điền vốn xuất thân nơi Hàn lâm, lòng đầy ứ kế mưu, bèn ri tai Trữ bảo làm như thế như thế, Trữ nghe lời thày dạy, nhớ kỹ trong lòng chờ ngày thực hiện.

Cách ít hôm, vùng Nhiệt Hà đầy nghẹt tuyết, hoàng đế dặn chuẩn bị trước: ngày mai đi săn tại sườn núi phía tây.

Ngài triệu tập khá đông thân vương, bối lặc. Mọi người sửa soạn kỹ lưỡng vâng theo, ngày hôm sau, hoàng đế xuất môn, bên cạnh có bảy vị hoàng tử theo hầu. Khi đến vùng núi phía tây, đoàn người ngựa bắt đầu khởi sự. Duy chỉ có Tứ Hoàng tử Dịch Trữ kìm cương ngựa đứng yên bên cạnh cha, không nhúc nhích.

Đạo Quang hoàng đế thấy vậy, lấy làm lạ bèn hỏi:

- Trữ, con! Sao con không đi săn hả?

Dịch Trữ ngồi trên ngựa, khom mình đáp lời cha:

- Con nghĩ rằng đang là mùa xuân, chim muông đang mùa sinh nở, nên không nỡ giết hại chúng, e trái với đức nhân hoà của Trời Đất. Con cũng chẳng muốn lấy cái hay về cung kiếm để cạnh tranh với anh em con làm gì!

Không ngờ mấy lời nói đó của Trữ đã làm cho Đạo Quang hoàng đế trầm ngâm hẳn đi, lát sau ngài thở dài nói:

- Con ta thật đã có cái độ lượng của người quân trưởng (ông vua).

Nói đoạn, ngài ra lệnh ngừng cuộc săn. Cả đoàn Vương gia đang mặc sức đuổi nai bắn hoẵng, bỗng nghe có lệnh ngừng, lấy làm lạ lắm. Nhưng đó là lệnh vua thì kẻ nào dám trái? Thế là cuộc săn phút chốc đã êm ru, ông nào ông nấy cuốn cờ dẹp trống, tiu nghỉu trở về.

Hồi 106: Chết mà còn hên

Đêm hôm đó Đạo Quang hoàng đế trằn trọc không ngủ. Ngài vắt tay lên trán suy nghĩ, nhớ lại lời nói của Dịch Trữ lúc ban ngày, cho Trữ là người nhân từ quảng đại lắm.

Thế rồi ngài quyết truyền ngôi cho Dịch Trữ, ngầm viết sẵn tên Trữ vào di chiếu.

Đạo Quang hoàng đế tuy đã bỏ lệnh săn bắn nhưng thấy ở lại hành cung có vẻ tự do hơn nên chẳng nghĩ gì tới chuyện hồi kinh. Ngài chỉ mang theo bên mình có một mình nàng Tĩnh phi tên Bác Nhĩ Tế Cẩm. Tĩnh phi người nhỏ nhắn, xinh tươi, nàng lại nhanh miệng lưỡi, suốt ngày nói cười. Nhờ nàng, hoàng đế có bầu bạn khiến cũng đỡ buồn.

Một hôm, hoàng đế muốn đi săn. Tĩnh phi xin theo. Ngũ hoàng tử Dịch Tôn cũng xin luôn. Tôn vốn là con đẻ của Tĩnh phi, tính tình ương bướng từ nhỏ, giỏi cung kiếm, nên thường được hoàng đế cho đi cùng. Thế là vợ chồng mẹ con cả thảy bốn người đem một đội lính thần cơ vào rừng, hết sức thích thú.

Nàng Tĩnh phi nai nịt đồ săn, bề ngoài trông cũng có vẻ dũng mãnh. Hai mẹ con phóng ngựa khắp rừng, xông bên này chạy bên kia khiến chẳng mấy chốc đã cách khá xa hoàng đế. Bên ngoài chỉ còn có vài tên thái giám và ngự tiền thị vệ.

Bỗng một con mang vụt chạy ra trước mặt, hoàng đế rút tên giương cung bắn tới. Con mang đeo cả mũi tên chạy đi mất hút. Ngài bảo bọn lính thần cơ đứng lại, chỉ một mình phóng ngựa ra khỏi rừng. Ngài phóng tầm mắt thìn quanh bốn phía, chẳng thấy con mang đâu mà chỉ thấy phía xa xa một anh chàng đang sửa soạn tự treo cổ lên cành cây. Ngài thấy y dùng dây lưng buộc một cái thòng lọng, đút cổ vào, hai cẳng bốc lên không, lủng lẳng đung đưa.

Đạo Quang hoàng đế bỗng nối lòng thương. Ngài vội lấy mũi tên lắp vào cung, bắn vút tới. Mũi tên cắt dây lưng đứt làm đôi khiến anh chàng nọ rớt phịch xuống đất.

Chàng nọ lấy làm lạ, nhìn quanh bốn phía tìm kiếm, nhưng Đạo Quang hoàng đế núp trong bụi cây, y không nhìn ra.

Thấy không có ai anh ta lại lượm cái dây lưng lên định thắt cổ nữa. Thấy vậy, Đạo Quang hoàng đế giục ngựa phóng tới, giật lấy chiếc dây lưng. Lúc đó ngài ăn vận bộ đồ săn nên anh chàng nọ không biết đó là hoàng đế, y lấy làm giận, hằn học nói:

- Ta muốn tìm cái chết! Cớ sao ngươi cứ trêu ghẹo ta như vậy?

Đạo Quang hoàng đế hỏi:

- Tại sao ngươi không muốn làm người nữa mà lại muốn làm ma?

Anh chàng nọ đáp;

- Đói rét suốt đời, chẳng chết thì còn sống làm gì nữa?

Nói đoạn anh chàng oà lên khóc. Đạo Quang hoàng đế hỏi:

- Ngươi từ nơi đâu tới đây?

Anh chàng trai nọ gạt lệ nói:

- Tôi vốn người Tứ Xuyên, cũng có chút công danh, lên kinh để thi tuyển, và đã đậu thứ nhì. Tưởng chẳng bao lâu nữa thì được bổ dụng, tôi liền đem hết gia quyến lên kinh chờ đợi. Nào ngờ, đợi chờ luôn ba năm, chẳng thấy tin gì, trong khi đó, người đậu thứ ba, thứ tư, thậm chí đến người thứ mười lăm đều được bổ dụng cả rồi. Mỗi tôi là người duy nhất không được Thời gian chờ đợi tại kinh, có chút của, tiêu xài hết sạch, vợ phải đi khâu thuê vá mướn, con gái phải đi thêu hoa cho người để độ nhật, xem chừng rồi đây cũng khó sống nổi. Tôi tính tới hỏi xem thì bọn sai dịch ngăn chặn, không cho vào, tức đến muốn chết! Tôi được tin hoàng thượng xuất tuần Nhiệt Hà, bèn dối gia đình, lên tới nơi đây tìm một cái chết. Tôi chẳng còn nghĩ gì hơn, chi mong Vạn tuế gia biết mà thương cho một linh hồn vất vưởng nơi đất khách quê người, đại phát từ bi, ban cấp cho ít tiền để gia đình tôi có thể đưa quan tài về được Tứ Xuyên. Cái ơn đức ấy dù tôi có làm quỷ dưới suối vàng cũng không bao giờ dám quên.

Nói đoạn, anh chàng lại khóc hu hu. Đạo Quang hoàng đế sinh trưởng nơi lầu vàng điện ngọc, đâu có thấu rõ được cảnh khổ chốn dân gian chỉ còn biết đứng sững mà nhìn anh ta khóc. Khóc một lúc qua rồi, anh chàng rút ở trong mình ra một tờ sớ đưa cho hoàng đế. Nhưng Đạo Quang không xem.

Ngài cũng rút trong mình ra một viên ngọc gọi là "Bạch ngọc ty yên hồ" đưa cho anh nọ, và dặn rằng:

- Ngươi đem vật này tới công đường của bộ Lại thì thế nào cũng được bổ dụng. Ngươi hãy rời khỏi nơi đây ngay, vì đây là vùng cấm của hoàng gia, chẳng may bị bắt thì ngươi chỉ có mất đầu thôi!

Đạo Quang hoàng đế nói xong, quất ngựa quay mình đi ngay. Anh chàng đàn ông nọ cầm viên "Bạch ngọc ty yên hồ" trong lòng nửa tin nửa ngờ. Nhìn vào viên ngọc, thấy nó sáng đẹp, biết là vật trân bảo quý giá, liền nghĩ rằng nếu không được bổ dụng đi nữa thì bán nó đi cũng sống cũng được ít lâu. Thế là anh ta bỏ ngay cái ý nghĩ, quyện sinh, vội vàng lên kinh, mình mặc chiếc áo dài rách rưới thê thảm, xông bừa vào nha môn bộ lại.

Bọn sai dịch tưởng anh ta là thằng điên vội chạy ra ngăn lại. Anh ta đâu có chịu lép, la rầm lên, khiến đường quan cũng phải chú ý, sai ngay người ra hỏi. Anh ta nhất định không thèm nói với người này, nằng nặc đòi gặp cho bằng được đường quan mới chịu.

Vị đường quan nghe nói bèn đích thân bước ra. Lúc đó anh chàng nọ mới chịu đưa viên "Bạch ngọc ty yên hồ" ra ("Bạch ngọc ty yên hồ" vốn là của nước Việt Nam, Tôn Sĩ Nghị sang Việt Nam cướp được viên ngọc này đem về dâng cho vua Càn Long).

Vị đường quan xem viên ngọc, chẳng rõ đầu đuôi ra sao, vội cầm vào đưa cho quan thượng thư. Vị quan thượng thư này vốn người Mãn tên gọi Dục Minh, thoạt nhìn thấy viên ngọc đã nhận ra là của hoàng đế, vội cung kính đặt lên bàn rồi cả bọn quỳ xuống lạy lấy lạy để. Lạy xong, thượng thư Dục Minh trở ra, tiếp rước anh chàng nọ vào trong sảnh rồi hỏi xem viên ngọc này từ đâu tới thì anh chàng cứ thật thà kể lại và cuộc gặp gỡ và sự cứu mạng của người thợ săn trong rừng.

Dục Minh nghe xong, bèn bảo cho anh ta biết người thợ săn đó chẳng ai xa lạ mà chính là đương kim hoàng đế!

Anh ta giật nảy mình, vội bò mọp xuống đất, dập đầu lạy mãi trước viên ngọc Ty Yên hồ đặt trên bàn. Quan thượng thư Dục Minh sai người đỡ anh ta dậy, rồi hỏi xem, anh ta muốn gì. Anh ta giơ tay lên dập đập vào trán nói:

- Tôi mơ tưởng đã hơn mười năm nay cái chức biên khuyết tại huyện Hoàng Ba tỉnh Hồ Bắc…

Câu nói còn chưa hết, vị thượng thư Dục Minh đã vội sai viết trát cấp kỳ, viện đường quan viết ngay trát bổ nhiệm, rồi giao tận tay cho anh chàng kia. Anh kia tay cầm tờ trát, cúi khom mình lạy chào, bước ra khỏi nha môn để tới nhiệm sở.

Ít lâu sau, khi Đạo Quang hoàng đế trở về kinh, thượng thư Dục Minh đem viên ngọc Ty Yên hồ hoàn lại cho ngài thì ngài nói:

- Anh chàng cùng khổ ấy được bổ nhiệm nơi đâu?

Dục minh hồi tấu:

- Tâu thánh thượng! Bổ nhiệm làm quan huyện Hoàng Ba.

Đạo Quang hoàng đế cười nói:

- Anh chàng ta kể cũng bạc phước thật! Chi vì một cái chức quan nhỏ ấy mà tính đổi cả mạng sống!

Sau khi đáo nhiệm, nhờ được ơn tiến cử của hoàng đế nên thượng ty có biệt nhãn khiến anh ta, đâm cậy thế, vơ vét quá sá, mà thượng ty cũng chẳng dám cách chức. Sáu năm vơ vét, anh ta đã nhen nhúm được cái vốn hơn năm mươi vạn lạng bạc. Khi Đạo Quang hoàng đế biết ra thì câu chuyện đã rồi, đành bỏ qua luôn.

Lại nói Đạo Quang hoàng hậu vốn là con gái của viên thị vệ Di Linh, tên gọi Nữu Cô Lộc. Di Linh có ra ngoài làm quan, nhận chức tướng quân tại tỉnh Tô Châu. Nữu Cô Lộc cũng theo cha tới nhiệm sở. Nàng rất thông minh, lanh lẹn. Tướng quân Di Linh hằng ngày thường qua lại thăm viếng bọn thân sĩ địa phương. Bọn thân sĩ này cũng thường đưa vợ con vào nha môn tướng quân để đáp lễ và giao du trò chuyện. Do đó, Nữu Cô Lộc chơi thân với các cô gái con các vị thân sĩ này. Cùng bạn gái, nàng học hỏi nào thêu thùa may vá, nào ca hát đàn địch, nào cờ quạt, nào làm thơ viết chữ, tất cả những việc này nàng đều tinh thông cả.

Nữu Cô Lộc về sau vào cung, thấy nàng vừa có sắc đẹp, lại tài nghệ hơn người, Đạo Quang hoàng đế phong làm trưởng phi. Ít năm sau, nàng được phong làm hoàng quý phi. Đến khi bà hậu Đông Giai chết thì nàng được sắc phong lên làm hoàng hậu.




Hoàng hậu Nữu Cô Lộc ỷ mình thông minh đứng đắn, việc nào cũng muốn tranh thắng. Bà lại muốn tự mình cai quản hết sáu cung. Bà lấy quyền hoàng hậu, giám sát luôn cả hoàng đế, không cho phép hoàng đế tự ý triệu hạnh bất cứ cô nào, bà nào trong đám phì tần cung nữ. Cũng vì vậy tình nghĩa vợ chồng càng ngày càng hỏng.

Lần này, hoàng đế đem nàng Bác Nhĩ Tế Cẩm đi Nhiệt Hà, ở lại quá lâu, nên bà tỏ ra khó chịu hết sức. Đến khi Tĩnh phi trở về cung, bà thấy mặt, liền nói bóng nói gió, khi mỉa mai, lúc nặng nhẹ, chẳng thèm ý tứ nữa.

Tĩnh phi Bác Nhĩ Tế Cẩm nào phải vừa; nàng cũng là một tay dám chơi, lại đang được hoàng đế sủng ái, bởi vậy quyết không nhượng bộ. Song một đằng là phi tử, một đằng là hoàng hậu, danh phận, thế lực đôi bên chênh nhau quá xa. Tĩnh phi biết vậy, bèn dùng kế hiểm.

Trước hết, nàng tới Hoàng thái hậu, tỏ lòng ân cần với bà. Hồi đó vì Đạo Quang hoàng đế chuộng sự tiết kiệm, Hoàng thái hậu phải chịu cảnh cơ cực hết mức trong cung Từ Ninh.

Nhìn rõ điểm đó, Tĩnh phi thường đưa lễ vật tới dâng cho bà. Thái hậu đâm ra cảm kích, và tỏ ra quý mến nàng.

Tĩnh phi thấy Hoàng thái hậu đã cùng đi với mình một đường rồi, bèn rỉ rả kể lại những chuyện xấu của hoàng hậu.

Thái hậu thấy hoàng hậu thường cậy mình thông minh tài trí, tính tình lại hiếu thắng, vốn đã chẳng ưa sẵn. Trước đây hoàng hậu Đông Giai vốn là nội thân của Thái hậu, nay hoàng hậu Nữu Cô Lộc lại từ quý phi thẳng lên hoàng hậu nên Thái hậu không ưa. Đã thế, Tĩnh phi lại hay nói ra nói vào, đặt điều nọ thêm điều kia trước mặt thái hậu, khiến bà càng ngày càng ghét hoàng hậu.



Hoàng hậu cũng biết Thái hậu chẳng ưa mình, lại được Tĩnh phi xúi bẩy thêm vào nên mỗi lần gặp Tĩnh phi là một lần bà hậm hực bực tức, trong khi đó Tĩnh phi khôn khéo, lúc nào cũng tỏ ra kính trọng hoàng hậu hết mình. Cứ mỗi lần được triệu hạnh. Tĩnh phi lại khóc tỉ tê bên cạnh hoàng đế, nói hoàng hậu ghen tuông với mình thế nào, ngược đãi mình ra sao.

Nước mắt đàn bà vốn đã có sức mạnh ghê gớm, huống hồ đây là nước mắt của một sủng phi thì sức mạnh còn khủng khiếp hơn nhiều. Việc hoàng hậu bắt hoàng đế phải chịu nước lép với mình đã là một điều khiến hoàng đế giận ghét bà, nay được nghe Tĩnh phi tỉ tê kể lể, hoàng đế dần dần đâm ra căm thù hoàng hậu.

Giữa lúc ba người đang cùng sát cánh đi một đường để đối phó với hoàng hậu thì Ngũ hoàng tử bỗng gây chuyện rắc rối, suýt làm cho Tĩnh phi bị thất sủng.

Sổ là Ngũ hoàng tử Dịch Tôn, con của Tĩnh Phi, sinh cùng năm cùng tháng, cùng ngày với Dịch Trữ, chỉ sai có một giờ mà thôi, theo truyền thuyết trong cung nội thì Ngũ hoàng tử sinh ra trước rồi Tứ hoàng tử mới sinh và như thế chậm mất một giờ. Nhưng Toàn phi ranh mãnh, bỏ tiền ra mua chuộc mấy bà mụ cố ý cho báo chậm, do đó Tứ hoàng tử được làm anh mà Ngũ hoàng tử lại bị làm em.

Dịch Trữ tính thô bạo ngay từ lúc nhỏ, đã lớn mật lại hay làm bậy và chẳng ưa đọc sách chút nào. Ở trong A Kha Sở, Trữ thường cậy mạnh khiến bọn anh em ai cũng phải chịu lép, cũng vì vậy mà ai cũng ghét Trữ và để bụng căm giận.

Giận thì giận, ghét thì ghét, nhưng ai cũng sợ Trữ nổi máu hung lên, nên đành phải chịu vậy.

Ngũ hoàng tử nhờ lúc mẹ mình được sủng ái nên tuổi tuy còn nhỏ mà đã được phong làm Thuần Quận vương.

Thuần Quận vương danh vị tuy cao nhưng lại dốt nát, chẳng học hành gì.



Hồi 107: Cho thầy uống nước tiểu


Hồi đó Thuần Quận vương cũng phải theo bọn anh em tới thư phòng dạy tập. Thầy học là đại học sĩ Từ Hồng Lục, vốn là ông thầy cực kỳ nghiêm khắc. Bọn hoàng tử đều sợ ông, duy có một mình Dịch Tôn là không, đôi khi còn đám chọc phá cả thầy. Tôn lấy một trái quả để ngay trên mặt ghế khiến thầy không để ý ngồi trúng ngay vào, đũng quần ố một đám vàng vàng chẳng khác gì cứt. Lối chơi mất dạy này, Tôn thường hay làm vào mùa hè.

Tôn lại bắt một con cóc bỏ vào tráp mực của thầy. Thầy không ngờ, mở nắp ra, tức thì chú cóc chân đẩy mực, nhảy tung ra dẫm dấu mực lên khắp mặt bàn, mặt ghế, mặt sách, nhọ nhem be bét hết. Trò chơi này, Tôn hay xài nhất. Ông Lục tuy giận lắm, nhưng chẳng biết phạt Tôn cách gì!

Có một hôm, bọn Kha (hoàng tử) trong thư phòng la hoảng rằng Ngũ hoàng tử mất tích. Ông Lục vội cho thái giám đi tìm. Tìm mãi một lúc lâu chẳng thấy, về sau bỗng thấy Tôn nhảy từ đầu cây cột điện Chính Đại Quang Minh xuống.

Trong điện Chính Đại Quang Minh có đặt một ngai vàng. Theo luật lệ nơi cung cấm thì hễ ai qua đây, bắt buộc phải vòng ra đằng sau chứ không bao giờ được phép đi trong điện, ngoại trừ dịp có lễ lớn. Thế mà nay Ngũ hoàng tử lại dám phạm cái tội đại bất kính đó. Ông thầy Lục liền đem "Tổ huấn" ra đánh vào lòng bàn tay ngũ hoàng tử ba roi. Từ đó Ngũ hoàng tử giận thầy, lúc nào cũng chỉ muốn báo thù.

Hồi đó vào giữa mùa hè. Từ Hồng Lục học sĩ người mập ú lại thích uống trà. Ông thầy đang giảng sách, bọn hoàng tử quây chung quanh. Từ học sĩ thấy khát, bèn nâng chén trà kế bên uống một hơi cạn chén rồi giảng tiếp.

Thấy vậy, Dịch Tôn sinh kế, lén lại rót gì đó chén trà đặt trên bàn, không có ai ngoài Tứ hoàng tử nhìn thấy.

Một lát sau, ông thầy Lục lại giơ tay với chén trà uống một ngụm. Nhưng trà chưa qua cổ, ông đã "ọe" lên một tiếng lớn, phun hết ra ngoài. Ông tức điên lên, mặt hầm hầm, mắt trợn ngược quát hỏi:

- Đứa nào đổ nước đái vào trà, hả?

Bọn hoàng tử giật nẩy mình đánh thót một cái, chẳng cậu nào dám hở răng. Vài phút sau, Tứ hoàng tử nhịn không nổi nữa, bèn khai ra:

- Tôi thấy Ngũ hoàng tử bưng chén đặt đó!

Dịch Tôn nghe xong đang tính che chống, nhưng ông thầy Lục đã quát vang, nhảy phóc tới tóm ngay lấy cổ Tôn. Tôn hoảng lên, la hét om sòm.

Giữa lúc đó, Đạo Quang hoàng đế không biết từ đâu xuất hiện, Ngài thấy cảnh đó, vội hỏi:

- Cái gì thế? Ngũ A kha không thuộc bài hả?

Từ Hồng Lục thấy hoàng đế tới vội chạy ra đón. Ông nói:

- Ngũ A kha đem cho thần một chén trà, trong có mùi vị hết sức lạ! Thỉnh hoàng thượng ngửi qua sẽ rõ.

Đạo Quang hoàng đế cầm lấy chén trà đưa lên mũi, Ngũ hoàng tử biết nguy, vội co cẳng chạy vắt giò khỏi cửa.

Đạo Quang hoàng đế cả giận, quát một tiếng lớn:

- Bắt nó lại!

Tức thì hai tên thái giám xông tới tóm cổ ngay Dịch Tôn điệu vào.

Đạo Quang hoàng đế tức giận đến cực điểm, tuốt ngay cây bội đao, nhè Dịch Tôn chém tới. May thay Từ Hồng Lục ngăn kịp rồi quỳ xuống xin tha cho Ngũ hoàng tử.

Đạo Quang hoàng đế thấy Từ học sĩ quỳ trên nền gạch, nguôi cơn giận, vội vực ông dậy. Từ học sĩ thấy hoàng đế bớt giận bèn bịa chuyện nói tốt cho Ngũ hoàng tử. Dịch Tôn nhân đó vội quỳ xuống đất, dập đầu luôn mấy cái xin tha tội.

Đạo Quang hoàng đế chưa hết giận giơ chân đá một phát vào ngực Tôn khiến Tôn ngã quị xuống sàn nhà. Ngài lại lấy một chiếc hèo lớn đưa cho ông thầy Lục, giục ông đánh mười hèo vào đít Tôn.

Đạo Quang hoàng đế nghĩ rằng Dịch Tôn là con đẻ của Tĩnh phi, nay dám làm điều điên rồ ấy, tất hẳn mẹ cũng có tội. Ngài hầm hầm chạy vội vào cung. Ai ngờ Tĩnh phi đã biết được chuyện này cách đó ít phút. Nàng vội nhổ hết trâm, buông tóc xoã, tay cầm nào sách, nào mũ, nào dây lưng, quỳ lạy tại cửa cung. Thấy hoàng đế bước tới, nàng vội dập đầu, miệng tâu:

- Thần thiếp không biết cách dạy con, khiến hoàng thượng phải tức giận, tội thật muôn thác. Thần thiếp nguyện xin đem sách, mũ, dây lưng trả về, chỉ mong hoàng thượng đại phát từ bi cho thiếp một cái chết.

Nói đoạn, đôi mắt nàng tuôn lệ như mưa. Lúc mới tới, Đạo Hoàng hoàng đế quả có giận lắm, nhưng thấy tình cảnh đáng thương của Tĩnh phi thì lòng se lại. Ngài giơ tay vực Tĩnh phi lên, bảo nàng:

- Yên tâm! Khanh không có tội chi, chỉ riêng thằng nghịch tử đó có tội thôi! Cần phải cho nó một trận mới được!

Tĩnh phi bước tới vài bước, đớ hoàng đế về cung. Lúc vắng người. Tĩnh phi thì thầm cầu xin cho Ngũ hoàng tử.

Qua ngày hôm sau, Đạo Quang hoàng đế truyền dụ cách hết chức tước của Thuần Quận vương Dịch Tôn, nhốt trong thâm cung xanh (Thanh cung) ba năm, không cho ra ngoài.

Đạo Quang hoàng đế tuy trừng phạt nặng Ngũ hoàng tử nhưng lại vẫn sủng ái Tĩnh phi hết sức. Ngũ hoàng tử là con Tĩnh phi. Tình mẫu tử sâu nặng. Bởi thế Tĩnh phi bỏ ra rất nhiều tiền đút lót bọn thái giám Thanh cung. Nàng thường đưa quần áo, đồ ăn thức uống vào, nhờ người trao lời an ủi hoàng tử bảo nhẫn nại chờ ít lâu khi nào hoàng thượng hết giận, sẽ cầu xin tha tội cho.

Tin này đến tai hoàng hậu. Bà kết án Tĩnh phi tư thông với bọn thái giám bên ngoài, kết giao với Thanh cung, rồi dâng một bản sớ lên hoàng đế nói Tĩnh phi không biết an phận thủ thường, cần phải quản thúc gắt gao.

Đạo Quang hoàng đế đang lúc say mê Tĩnh phi thấy tờ sớ, cười khẩy một tiếng, vò nát ném vào sọt rác. Từ đó, mối ác cảm tình giữa hoàng hậu và Tĩnh phi lộ hẳn ra. Suốt ngày Tĩnh phi nghĩ mưu tìm kế hãm hại hoàng hậu. Nàng vốn thân với bọn thị nữ hầu cận thái hậu, bèn xui bọn này nói xấu hoàng hậu trước mặt bà. Chúng đặt điều bảo hoàng hậu những lúc vắng người thường trù rủa thái hậu, mong cho thái hậu chết sớm để nắm trọn uy quyền trong cung cấn.

Hoàng thái hậu tuổi đã già, đâu còn sáng suốt để phân biệt phải trái, nay nghe những lời gièm pha đó, đâm ra nửa tin nửa ngờ. Về sau, một cung nữ cung Từ Ninh qua chơi bên cung hoàng hậu, vô tình lượm được một thằng bù nhìn trên găm bảy chiếc kim tú hoa; rất lấy làm lạ. Cung nữ này vốn hầu cận thái hậu. Nó vội cầm thằng bù nhìn lén, đưa về cho bà coi.

Hoàng thái hậu xem qua thấy trên thằng bù nhìn viết tám chữ ngày sinh tháng đẻ, lại chính là ngày sinh tháng đẻ của mình. Bà đùng đùng nổi giận, cật vấn xem bù nhìn lượm được tại nơi nào.




Con cung nữ thấy thái hậu cả giận, sợ quá, vội đem chuyện mình sang chơi bên cung hoàng hậu rồi lượm được bù nhìn ra sao, kể hết đầu đuôi. Thái hậu nghe đoạn, càng tức, nghiến răng hậm hực nói:

- Tám chữ ngày sinh tháng đẻ của tao, ngoài hoàng hậu ra chẳng ai được biết. Thằng bù nhìn, chắc do con khốn nạn đó làm ra! Ni trù rủa mãi chẳng thấy tao chết, nên nghĩ ra trò bùa ngải nầy để diệt trừ chứ gì? Hừ! Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt, thằng bù nhìn đã vào tay tao rồi, con khốn nạn phải chết! Tao phải đích thân tới hỏi tội mới được!

Miệng nói tay chân bà run lên vì giận dữ. Bà cầm thằng bù nhìn chống tay đứng dậy hầm hầm bước ra khỏi cung, kêu đem nhuyễn kiệu lại để tới cung Dực Khôn hỏi tội cô con dâu khốn nạn kia, con thị nữ hoảng quá. Nó vô tình lượm thằng bù nhìn về, ai ngờ chuyện đâm ra to. Nó sợ bị tai vạ vội quỳ xuống ngăn thái hậu và nói:

- Xin Thái hậu đừng quá nóng. Chuyện này nên cho người tra xét kỹ rồi hãy hỏi tội cũng chưa muộn!

Thái hậu vội ngắt lời, hỏi kế Tĩnh phi. Nàng nhích gần lại bên cạnh, ghé sát tai bà khẽ nói mấy câu. Thái hậu gật đầu lia lịa. Sau đó bà truyền lệnh cho thị nữ nói lại cho đám cung nữ tuyệt nhiên không được đề cập tới chuyện xảy ra hôm đó, đứa nào hé miệng sẽ mất mạng.

Được lệnh đó đám cung nữ như ngậm hột thị cả, hai cung Từ Ninh và Dực Khôn chẳng hề nghe thấy lời nào bàn tán xì xào.

Đôi khi hoàng hậu Nữu Cô Lộc tới triều kiến, thái hậu tuyệt nhiên không lộ vẻ gì khác biệt, vẫn dùng lời ngon lẽ ngọt mà nói.

Hoàng hậu không ngờ, cứ tưởng rằng thái hậu đã chuyển ý đối với mình, trong lòng rất lấy làm sung sướng.

Ngày lễ Vạn thọ của thái hậu đã tới. Mục tướng quốc lại dâng lên cho thái hậu ban nữ nhạc của mình để hát chúc thọ.

Đạo Quang hoàng đế, nhìn gánh hát, nhớ tới Nhị Hương phi thuở nọ chết một cách đáng thương. Thoạt đầu, ngài tính lên đài đóng vai Lão lai tử chúc thọ, nhưng khi nhớ tới cái chết của Nhị Hương phi thì lòng đầy thê thảm, không muốn diễn nữa, bèn bảo tứ hoàng tử Dịch Trữ diễn thay ngài.

Nhân lúc mọi người không để ý ngài chuồn ra ngoài trở về cung, sau chân có một thái giám theo hầu. Tên thái giám thấy ngài chạy vào tẩm cung lôi ra một bức tranh vẽ hình Nhị Hương phi treo lên đầu giường, thắp nhang lạy mấy cái, miệng gọi phi tử rồi thì thầm nói với bức ảnh:

- Trẫm đã hại nàng rồi. Bọn chị em của nàng hiện đang diễn hát tại đây. Nàng ở mãi nơi đâu? Trẫm mỗi khi đi nằm, thường thấy nàng trong mộng. Tại sao nàng không tới thăm trẫm?

Mấy câu nói nghe có vẻ thảm thiết quá, khiến tên thái giám đứng sát bên cạnh nghe thấy cũng phải rơi lệ. Hoàng đế khấn khứa thêm một hồi, rồi lặng lẽ ngồi nhìn bức tranh.

Sau cùng, ngài bảo thái giám buộc tranh cất đi, rồi trở về chỗ cũ xem hát.

Trên sân khấu, Tứ hoàng tử đang đóng vai Lão lai tử, tay cầm một chiếc trống nhỏ, vừa gõ vừa nằm dưới đất cất tiếng hát vang.

Đạo Quang hoàng đế xem thấy cũng phá lên cười ha hả, chỉ có thái hậu, trong lòng đang có việc không vui, nên ngồi im lặng, chẳng nói chẳng cười.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc thấy chính con trai mình diễn hát trên sân khấu, muốn lấy lòng Thái hậu, bèn làm một bài thơ tứ tuyệt, để chúc thọ Thái hậu ngay lúc đó, rồi đem dâng bà.

Thái hậu cầm thơ xem, luôn mồm khen hay, lại bảo rót rượu thưởng. Tĩnh phi ngồi phía sau, sửa soạn xong từ lúc nào, chỉ cần nghe có một câu "thưởng rượu" là vội mang hồ rượu bước tới. Một con cung nữ đứng cạnh, tay bưng cái khay vàng trong đựng ba chiếc chén vàng nhỏ xinh. Tĩnh phi rót luôn ba chén rượu đầy.

Hoàng hậu thấy Thái hậu thưởng rượu, mừng như mở cờ trong bụng, vội quỳ xuống, thẳng ngay cổ, nốc một hơi cạn luôn ba chén rồi lạy tạ ơn. Một luồng nhiệt khí chạy vuốt từ cồ xuống tới đan điền hoàng hậu.

Trên sân khấu Tứ hoàng tử diễn trò cũng vừa xong. Thái hậu cho gọi tới, đích thân chọn một dây chuỗi toàn trân bảo đeo vào chéo cổ áo cho tứ hoàng tử, lại bảo:

- Ca hát nhiều sợ hơi lạnh lọt vào bụng, nên uống một chút rượu cho ấm.

Tứ hoàng tử dạ một tiếng, tức thì bưng rượu uống cạn luôn. Thái hậu ngồi lại một lát nữa, bảo đau lưng không chịu nổi, bèn bỏ cuộc trở về cung Từ Ninh. Hoàng hậu cùng các phi tần thấy thái hậu đã về, cũng rút êm cả.

Hoàng hậu vốn không biết uống rượu, nay nốc liền mấy chén, khi trở về cung, đầu nặng và nhức như búa bổ. Toàn thân rã rời, bà lăn ra giường ngủ ngay. Sáng mai ra, bà thấy mình phát sốt nóng như thiêu như đốt, tâm thần mơ hồ bải hoải, chẳng biết bệnh gì.

Qua ngày thứ hai, bệnh tình bà càng trầm trọng, có cơ nguy đến tính mạng. Đạo Quang đế chỉ vì hoàng hậu ghen tuông và áp chế quá nên tình nghĩa vợ chồng nhạt nhẽo từ lâu, nay được tin này, bèn bảo Tứ hoàng tử vào cung thăm mẹ.

Hoàng hậu thấy con bước vào, tỉnh táo đôi phần, cầm tay mà oà lên khóc, miệng muốn nói song chẳng nói được câu nào.

Đang khóc, bỗng bà thét lên một tiếng lớn, đôi mắt trợn ngược, hai tay cào mạnh vào trước ngực khiến mấy lớp áo đều rách nát, để lộ cả vú ra. Mấy con cung nữ chạy vội tới, kéo chăn che kín lại cho bà. Hoàng hậu lại thét lên một tiếng nữa, nhảy vọt từ trên giường xuống đất rồi cứ chân trần như thế, chạy khắp phòng, miệng la hét om sòm, tay xé nát hết quần áo, thân thể bà gần như loã lồ, phía trên ngực chỉ còn sót lại một chiếc yếm rách tươm, phía dưới chỉ còn dính có cái quần lót màu hồng, hùng hổ gạt phắt mấy con cung nữ, chực xông ra ngoài phòng. Tứ hoàng tử thấy thế vội ôm ghì lấy mẹ. Nhưng không biết lúc đó hoàng hậu lấy sức nơi đâu mà mạnh đến nỗi chỉ có một cái đẩy mà Tứ hoàng tử đã ngã lăn ra đất.

Bà thoát được tay Tứ hoàng tử, chạy xông xộc ra ngoài phòng. Bọn thị nữ hầu cận la rầm lên. Tức thì đám cung nữ đứng chực phía ngoài xông tới, níu bà lại, đưa vội trở vào.

Đôi mắt bà lúc đó đỏ ngầu, thấy ai là đánh, thấy đồ là đập. Bên ngoài chỉ nghe tiếng đổ vỡ chen lẫn tiếng bọn cung nữ kêu khóc om sòm vang động cả lên.

Tứ hoàng tử sợ quá, vội chạy ra khỏi cung, vừa khóc vừa kể cho phụ hoàng nghe, Đạo Quang hoàng đế cũng phát hoảng, chạy tới cung Dực Khôn, đứng ngoài cửa sổ ngấp ngó nhìn vào. Rồi ngài truyền ngự y tới. Thấy hoàng hậu thân thể trần truồng, ngây ngây dại dại, viên y ngự không dám tới chẩn mạch, tất nhiên cũng vô phương cho thuốc. Cả đám thúc thủ vô sách, đành đóng chặt cửa cung, mặc sức cho hoàng hậu nhảy nhót, phá đồ phá đạc, kêu khóc nói cười trong đó.

Hoàng hậu phát cuồng luôn ba ngày, đến khi quá mệt mỏi, tinh thần gần như mất hết, cổ họng la hét cũng khản đặc lại rồi, bà mới lăn ra giường, nằm im. Bọn cung nữ đem chăn lại đắp cho bà. Viên ngự y lúc này mới dám tới chẩn mạch, hết thuốc. Uống đã mấy thang, mà hoàng hậu bệnh tình vẫn như cũ, không có chút nào thuyên giảm. Đêm đến, vào giữa lúc canh khuya, hậu bỗng thét lên những tiếng hết sức kỳ dị nghe như tiếng quỷ kêu ma rống.

Ngày hôm sau Hoàng thái hậu đã biết rõ cả, tới cung Dực Khôn thăm hoàng hậu. Tĩnh phi hẩu cạnh cũng bước vào.

Lúc đó hoàng hậu đang nằm mê man trên giường, mơ mơ màng màng, chẳng biết gì cả. Bọn cung nữ bưng một chén thuốc tới. Tĩnh phi vội đưa tay ra tiếp lấy, thổi cho bớt nóng rồi đích thân đố vào miệng cho hoàng hậu uống thử. Rồi nàng lấy cái trâm vàng gắn trên mái tóc quậy bát thuốc lên cho đều, xong đưa cho hoàng hậu uống nốt. Thái hậu và Tĩnh phi còn ngồi lại một lát nữa rồi mới trở gót về cung.

Cách ba ngày sau, Thanh cung truyền chỉ dụ ra ngoài là hoàng hậu Nữu Cô Lộc đã chết. Nội vụ phủ vội vàng lo việc tang ma. Lễ bộ cũng vội trù bị việc tế lễ cúng viếng.

Chỉ có thái hậu và Tĩnh phi khoan khoái trong lòng. Hoàng hậu chết chẳng phải ai hạ thủ mà chính tay hai bà này đầu độc đó thôi.

Tất cả kế hoạch ám hại hoàng hậu đều do Tĩnh phi bày ra. Nàng cùng với Thái hậu ước định trong ngày lễ Vạn thọ sẽ cố tìm cách thưởng rượu cho hoàng hậu. Tĩnh phi đã lén đổi chiếc bầu rượu trong hoà bảy viên thuốc A Tô Cơ từ trước.

Hoàng hậu uống phải thuốc nầy đâm ra cuồng loạn như điên. Trong cung nhà Thanh chỉ có bọn tăng Lạt Ma chế được thuốc này. Thuốc có thể chữa trăm bệnh, nhưng cũng lấy tính mạng người rất dễ dàng. Đời vua Khang Hi, thái tử Dân Nhung cũng đã bị vua Ung Chính thông đồng với đại quốc sư cho uống thuốc này, cuối cùng đâm ra si ngốc và bị phế bỏ. Đạo Quang hoàng hậu cũng bị thuốc này làm cho điên khùng và chết một cách thê thảm.

Đạo Quang hoàng đế cũng biết hoàng hậu bệnh một cách quái lạ và chết có vẻ đáng nghi, nhưng vì tính nghĩa vợ chồng giữa ngài và hậu đã từ lâu không còn gì nên cũng chẳng thèm tra vấn kỹ. Hơn nữa, ngài còn cho rằng hậu chết đi như nhổ được cái đinh trước mắt.

Đạo Quang hoàng đế thấy tuổi mình đã già, nên chẳng có ý muốn lập hoàng hậu kế nữa. Ngài chỉ phong nàng Bắc Nhĩ Tề Cẩm làm quý phi mà thôi. Từ đó, hai người tha hồ tự do hú hí với nhau trong cung cấm, chẳng còn phải e ngại điều gì nữa.

Từ khi Nhị Hương phi chết, Đạo Quang hoàng đế đâm ra chán nản, làm biếng, chẳng nhòm ngó gì tới triều chính. Ngài tín nhiệm Mục Chương A, nhất nhất mọi việc đều giao cho A xử lý.

Mục Chương A tính chỉ ham tiền, thích làm tiền, ngoài ra chẳng còn biết gì nữa. Người Anh làm trời làm đất gì ở Quảng Đông, A đều giấu biệt, chẳng hề cho hoàng đế biết một tin tức gì.

Tổng đốc Lưỡng Quảng Dịch Sơn vốn là tay tâm phúc của Mục tướng quốc. Vừa đáo nhiệm, Sơn đem ngay thuỷ quân đánh tàu chiến của người Anh. Tàu Anh phản công bằng đại bác như mưa rào, khiến thuỷ quân của Sơn tan tác tơi bời.

Đã thế, quân Anh còn bảo Trung Quốc vô cớ gây hấn, hè nhau kéo lên bờ bắn phá tan nát hết các pháo đài của Trung Quốc dọc bờ bể. Dịch Sơn thấy quân mình đại bại, không biết làm cách nào, đành quay ra giảng hoà với người Anh. Người Anh bắt nhượng Hương Cảng nhưng Trung Quốc không chịu. Thế là thuỷ quân Anh xông lên bờ, nào súng lớn, nào súng nhỏ nhả đạn tới tấp vào Phúc Kiến và Hạ Môn. Tổng đốc Hạ Môn không đề phòng gì cả, bị quân Anh đánh thốc vào mãi tới miền nội trì. Ngoài ra, còn có vài chiến thuyền ngoại quốc khác nhả đạn đại bác tấn công miền Định Hải, Ninh Ba nữa.

Tổng đốc Chiết Mân vội phi báo tổng binh trấn Định Hải là Cát Vân Phi, tổng binh trấn Xứ Châu là Trịnh Quốc Hồng, tổng binh trấn Thọ Xuân là Vương Tích Minh, chia ba lộ quân trấn thủ các nơi. Không ngờ hai tổng binh Trịnh và Vương, khi tới Định Hải lại án binh bất động, đứng nhìn quân của Cát Vân Phi bị quân Anh vây khắp bốn phía, tấn công kịch liệt khiến Trúc Sơn thất thủ, Phi trúng đạn đại bác lủng ngực chết ngay dưới chân đồi hoang. Quân Anh đem thây ma Cát Vân Phi về dinh tạm cất. Cát tổng binh đem theo một ái thiếp trong quân. Khi nghe tin chồng tử trận, người ái thiếp khóc lóc, chết đi sống lại nhiều phen. Dứt tiếng khóc nàng bèn quỳ trước mặt bọn tỳ nữ và binh sĩ, dập đầu liền liền. Bọn binh sĩ thấy vậy cũng vội vàng quỳ xuống đáp lễ không thôi. Bà Như phu nhân cất tiếng khóc, khẩn khoản mọi người đưa bà tới đồn quân Anh để cướp thây chồng mang về. Bọn binh sĩ thấy bà này có lòng trung liệt như vậy, lấy làm cảm động, nguyện liều mạng giúp chủ mẫu.

Đêm đó trời tối như mực, đồn quân Anh đóng trên bờ. Bà Như phu nhân đi đầu, đem toán lính lặng lẽ tới đồn quân Anh, xông vào đánh cho chúng một trận liểng xiểng, cướp được xác chồng mang về làm ma chay tống táng đàng hoàng…

Nguồn: http://vnthuquan.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved