HỒI 76
Dựng lầu gấm, cung tần bình thơ,
Dạo phố phường, đế hậu hành lạc.
Dựng lầu gấm, cung tần bình thơ,
Dạo phố phường, đế hậu hành lạc.
Từ rằng:
Thiên "Tư can " Kinh
Thi dạy gái(1)
Chí phép nhà lẽ phải nào sai
Hợm mình giỏi dám khoe tài
Những là bình luận ngân dài thơ văn
Cả vua, hậu, phi tần, công chúa
Việc tôn nghiêm sao nỡ khinh thường
Trong ngoài trà trộn lăng nhăng
Dưới trên ngâm vịnh bông phèng mỉa mai.
Theo điệu "Tây giang nguyệt"
1 Tư can: tên một bài thơ trong Kinh Thi, phần Tiểu Nhã, ca hát mừng làm xong nhà mới, có ý răn dạy dàn bà con gái giữ gìn nề nếp đoan trang, lo lắng công việc trong gia đình.
Chí phép nhà lẽ phải nào sai
Hợm mình giỏi dám khoe tài
Những là bình luận ngân dài thơ văn
Cả vua, hậu, phi tần, công chúa
Việc tôn nghiêm sao nỡ khinh thường
Trong ngoài trà trộn lăng nhăng
Dưới trên ngâm vịnh bông phèng mỉa mai.
Theo điệu "Tây giang nguyệt"
1 Tư can: tên một bài thơ trong Kinh Thi, phần Tiểu Nhã, ca hát mừng làm xong nhà mới, có ý răn dạy dàn bà con gái giữ gìn nề nếp đoan trang, lo lắng công việc trong gia đình.
Người đàn ông có đức chính là có tài, người đàn bà vô tài lại chính là đức vậy. Cũng có khi, người đàn ông vừa có đức vừa có tài, nhưng người đàn bà có tài lại thường không có đức. Vì vậy, người đàn bà có tài, thường lại không được bằng người đàn bà tầm thường. Nàng Ấp Khuông mở đầu cho loạn lạc thời nhà
Thật đáng tiếc thay. Ở người đàn ông chữ tài có khi khuynh loát trước chữ đức, nhưng ở người đàn bà, thì đức hạnh xấu để tiếng nghìn đời, dẫu có đủ tài sắc thế nào nữa vẫn thành chuyện cười cho đời sau. Vì vậy, người đàn bà có tài, không được tự huyễn hoặc, thì đó chính là đức vậy. Nhưng sự huyễn hoặc đó của người đàn bà, phần lớn lại đều do bởi người đàn ông mà có. Việc này ở hạng sĩ dân cũng đã không xong rồi, huống chi lại ở bậc vua chúa, hoàng hậu, công chúa chí tôn. Trong cung cấm đã không nghiêm, mà từ trăm quan cho đến phi tần, hoàng hậu công chúa, rượu tiệc thơ phú đủ chuyện lố lăng. Lại thêm bọn hoạn quan, lũ hề lùn ăn nói linh tinh, không phân ngôi thứ, thành một trò cười cho mai sau.
***
Nay hãy khoan nói việc
Trung Tôn hôn ám, Vi Hoàng hậu lộng quyền, hãy nói chuyện trong số triều thần,
có hai tài tử: một người họ Tống, tên Chi Vấn, tự Diễn Thanh, người Phần Châu,
giữ chức Khảo công viên ngoại lang, một người họ Thẩm, tên Thuyên Kỳ, tự Vân
Khanh, người Nội Hoàng, giữ chức Khởi cự lang.
Nếu nói chuyện tài năng thì một người tám lạng, một kẻ nửa cân. Nhưng Tống Chi Vấn mặt mày tuấn tú, cử chỉ phong lưu, chuyện trai gái lại rất thành thạo. Chi Vấn làm quan từ thời Vũ Tắc Thiên, nhân thấy bọn Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông, cũng vì đẹp trai mà được Tắc Thiên sủng ái, phú quý không ai bằng, cho nên trong lòng không khỏi so sánh. Mỗi lần tấu bày trước mặt Vũ Tắc Thiên, thấy mặt mày Vũ Tấc Thiên nhìn ngó đong đưa, cũng có vẻ yêu thương, nhưng cuối cùng vẫn chẳng được triệu vào nội cung. Chi Vấn không nhẫn nại được nữa, phải nhờ một nội giám thân tín với Vũ Tắc Thiên tiến dẫn, khoe đủ tài năng trong ngoài của mình.
Tắc Thiên cười mà đáp rằng:
- Trẫm không phải không yêu tài, nhưng nghe nói người này miệng hôi lắm, cho nên không thể gọi vào hầu hạ ngay cạnh nữa.
Nguyên là Chi Vấn, tuy đẹp trai, nhưng từ nhỏ đã có bệnh thối miệng, có người đã thưa cho Tắc Thiên rõ, vì vậy Tắc Thiên không muốn gần. Viên nội giám lại đem những lời này nói lại cho Chi Vấn biết. Chi Vấn vô cùng hổ thẹn, từ đó, thường hay ngậm kê thiệt hương, để lỡ may được triệu đến. (1) Chỉ cần một mẩu ngắn thế, cũng đủ rõ phẩm hạnh của bậc tài tử này vậy.
1 "Tùy đường giai thoại": Vũ Hậu ra chơi Long Môn, lệnh cho các quan làm thơ, ai xong trước sẽ được thưởng cẩm bào. Có người làm xong, được thưởng chưa về tới chỗ thì Tống Chi Vấn làm xong, đưa trình, thơ rất hay, Vũ Hậu bèn cướp áo bào của người kia, thưởng cho Chi Vấn.
Thẩm Thuyên Kỳ cũng vốn đi lại với Chi Vấn một bọn, về sau làm tay chân cho An Lạc công chúa, nhận ăn hối lộ bị người tố cáo, phải đày đi Hoan Châu, may được An Lạc công chúa che chở, lại được gọi về dùng. Lúc này An Lạc chiếm phủ đệ cũ của Lâm Xuyên Trường Minh Công chúa, tu tạo lại, rồi mời Trung Tôn ngự giá tới thăm, sai Thuyên Kỳ hầu yến, lệnh cho làm thơ, để ghi lại việc hiếm có, hạn vần "Thiên". Thuyên Kỳ vâng mệnh, làm ngay một bài thơ luật sau đây:
Hoàng gia phú quý bậc thần tiên
Nhà dựng sông Ngân ở sát bên
Xây núi đã hơn hòn Phượng Lĩnh
Đào hồ chẳng kém nước Long Xuyên
Màn trao phí thúy thơm lầu trước
Thềm lát hoàng kim sáng cửa bên
Kính cẩn theo xe dong đến đó
Rượu đà chúc thọ lạc quân thiên.
Trung Tôn cùng công chúa xem thơ, ca ngợi mười phần, công chúa nói thêm:
- Khanh với Tống Chi Vấn tên tuổi ngang nhau, người đời vẫn gọi chung là "Thẩm Tống “, nay làm thơ phú, lẽ nào có Thẩm mà lại không có Tống hay sao?
Liền sai nội thị, triệu Chi Vấn tới. Công chúa trước tiên đưa cho xem bài thơ của Thuyên Kỳ, sau đó nói tiếp:
- Thẩm Khanh đã làm thơ thất ngôn, nay khanh hãy làm một bài ngũ ngôn luận xem sao.
Chi Vấn thưa:
- Thuyên Kỳ đội ơn thượng hoàng ra vần, nay thần cũng xin công chúa hạn vần cho.
Công chúa cười:
- Khanh tài không trời đất, hãy lấy vần "không" có nên chăng?
Chi Vấn vâng mệnh, viết bài ngũ ngôn sau:
Tôi hiền xây quán thụ
Chúa thành ngự nhà vàng
Khách đến sông Ngân hiện
Tiên về ánh nguyệt không
Đói mồi cột én hót
Vàng chói sắc cầu vồng
Đài Tần tiêu thánh thót(1)
Tường Lỗ sách trùng trùng (2)
Điệu múa trêu làn gió
Lời ca níu ánh hồng
Tìm nơi dừng gót ngọc
Rực rỡ hoa rưng rưng.
1 Tiêu Sử thổi tiêu rất hay, vua Tần Mục Công gả công chúa Lộng Ngọc, xây Phượng Đài cho vợ chồng ở. Sử dạy Lộng Ngọc thổi tiêu, chim phượng nghe bay tới đậu trước đài. (Điển cố văn học).
2 Sau “đốt sách, chôn học trò" của Tần Thủy Hoàng, người ta tìm thấy trong vách hai lớp, ở đền Khổng Tử nước Lỗ, những thẻ tre chép ngũ kinh (Từ điển tầm nguyên).
Thơ xong, công chúa vừa xem vừa khen. Trung Tôn cũng không tiếc lời ngợi ca, lệnh thưởng cho hai tấm đoạn, công chúa lại còn thưởng thêm. Hai người tạ ơn mà ra. Lần này Thuyên Kỳ trong lòng cũng có vẻ hậm hực, vì lâu nay tiếng tăm cả hai bằng nhau, không ai trên ai dưới. Nay chỉ thấy công chúa khen tài Chi Vấn trên đời không ai sánh, nên trong lòng không phục.
Đến năm Cảnh Long thứ ba, ngày ba mươi tháng giêng. Trung Tôn đi chơi hồ Côn Minh, ban yến cho quần thần. Hồ Côn Minh này đào từ thời Hán Vũ Đế. Vũ Đế vốn là một hoàng đế "hiếu đại hý công", muốn chinh phạt nước Côn Minh, nhân nước này có hồ rộng tới ba trăm dặm, cực kỳ hiểm trở, nên mới đào hồ này ở đây, để theo đó mà tập thủy quân. Vì vậy hồ vừa rộng vừa hùng vĩ, trong hồ có lầu các đình tạ, sẵn mọi thứ cho việc ngự du. Trước đó hai ngày, Trung Tôn đã truyền dụ cho trăm quan, mỗi người phải dâng một bài ngũ ngôn bài luật tức sự, sẽ tuyển bài thơ hay nhất, để phổ vào khúc điệu mới, vì vậy các quan đua nhau đem những lời hoa diễm nhất vào thơ. Vi Hoàng hậu nói với Trung Tôn:
- Các quan trong triều tự phụ tài cao, không tin rằng phi tần trong nội cung, cũng có người sẵn tài năng chẳng kém gì đàn ông. Cứ như ngụ ý của thiếp, ngày mai nên cho những bài thơ của quần thần làm ra, lệnh cho Thượng Quan Chiêu nghi bình duyệt, để mọi người thấy trong cung cũng có bậc tài tử, từ đó về sau, mỗi lần làm thơ ứng chế, không ai là không gắng hết sức.
Trung Tôn thích ý mà rằng:
- Những lời này thật hợp ý trẫm!
Uyển Nhi vội thưa:
- Thần thiếp chỉ là một cung nga, nay đứng ra bình phẩm thơ ca của trăm quan, liệu mọi người có phục chăng?
Trung Tôn cười:
- Chỉ cần khanh bình cho công bằng xác đáng, thì chẳng có điều gì đáng ngại cả.
Liền truyền lệnh dựng ngay trên bờ hồ. Côn Minh một tòa lầu phủ đầy lụa là, gấm vóc, để Thượng Quan Chiêu nghi ngồi bình thơ.
Thánh chỉ ban ra, người người nghị luận xôn xao, kẻ cho rằng coi thường trăm quan, nên lấy làm hậm hực. Cũng có người lại vui mừng, cho rằng đó là chuyện phong nhã. Đến ngày hôm ấy, Trung Tôn cùng Vi Hoàng hậu, Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa, Trường Ninh công chúa, Thượng Quan Chiêu nghi đến hồ Côn Minh. Tiệc rượu đã bày sẵn, trăm quan triều bái xong xuôi, Trung Tôn ban yến ngay bên bờ hồ. Hoàng hậu cùng các công chúa thì dự yến ngay trong nội điện. Tiệc rượu xong, triều thần dâng thơ. Trung Tôn phán:
- Chủ khanh đều là bậc tài cao, nhưng lý ra phải có người cao kẻ thấp. Trẫm nhất thời hãy khoác áo ngồi nhàn, để xem Thượng Quan Chiêu nghi, tài giỏi bậc nhất của nội cung, thử duyệt bình giai phẩm của bách quan, cũng là làm nên một giai thoại cho đời sau. Các khanh hãy trổ hết tài năng xem sao!
Triều thần cúi đầu tạ ơn. Trung Tôn truyền cho mọi người ngồi ngay trong điện, hoặc dọc theo lan can, chia làm hai bên, ai thơ không được chọn đứng sang phải, còn ban đầu đều đứng trình trái điện.
Lát sau thấy Thượng Quan Uyển Nhi, đầu đội mũ phượng, khoác áo gấm thêu, hai tay áo rũ dài tha thướt, chẳng khác gì tiên nữ xuống trần, trước tiến về phía Trung Tôn cùng hoàng hậu tạ ơn, rồi cung nga đỡ lên lầu gấm, ngồi ngay trước lầu. Bên ngoài lầu treo một tấm biển, viết chữ lớn bằng sơn:
Thượng Quan Chiêu nghi, vâng mệnh hoàng thượng bình thơ, chỉ chọn một bài hay nhất, dâng lên hoàng thượng ngự xem. Những bài không trúng, sẽ trả xuống lầu, của ai người nấy nhận lại.
Ngay trước lầu, bày rất nhiều án thư, đặt đủ văn phòng tứ bảo, rồi nội thị lần lượt dâng trình thơ của các quan lên lầu để Uyển Nhi cầm bút chấm. Các quan đều ngồi ngửa mặt nhìn, chẳng mấy chốc thì thấy những bài thơ không được chọn liệng bay xuống, mỗi lần như vậy, mọi người lại tranh nhau cướp xem có phải của mình chăng, nếu đúng thì giấu ngay vào ống tay áo, lẳng lặng không một lời đứng về phía bên phải điện. Riêng Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, mặc cho giấy bay xuống như bươm bướm, vẫn đứng yên không động đậy, chẳng thèm nhặt xem, họ tự tin rằng thơ của mình nhất định hơn hẳn mọi người, không thể không được chọn. Cuối cùng thơ của xung quanh đều liệng xuống lầu hết, mà thơ của Thẩm lẫn Tống đều chưa thấy ném xuống. Thuyên Kỳ nói khẽ với Chi Vấn:
- Lệnh chúa thượng chỉ chọn một bài, nên trong số hai bài này phải có một bài bỏ ra. Hai chúng ta lâu nay tài danh tương đồng, khó phân hơn kém. Chỉ cần hôm nay, bài của ai được chọn thì hơn thua rất rõ ràng, mai nay không phải tranh nhau hơn kém lôi thôi.
Chi Vấn gật đầu tán thưởng. Mãi sau mới lại thấy một tờ giấy bay xuống, ai nấy đua nhau giành xem, thì ra là của Thuyên Kỳ, bài thơ như sau:
Xe vua dẫn xuân đến
Ao thánh đem Hán về
Hai sao rơi thềm cũ
Ánh nguyệt dẫn tro đi
Kìa tượng hình sấm động
Nọ thuyền ích gặp thì
Căng gấm hoa che núi
Buông màn liễu phủ đê
Ca Phần trỗi lời đẹp(1)
Tiệc Cảo dâng điệu quê (2)
Bầy tôi phận nhỏ mọn
Lạm dự hàng đẩu khuê.
1 Phần: Thành Phần Dương, nổi tiếng thời Hán, được coi là thời thịnh của phong kiến Trung Quốc.
2 Cảo: Kinh đô nhàChu , cũng được coi là
thịnh trị.
Ở cuối bài thơ có ghi cả lời bình rằng:
"Hai bài thơ của họ Thẩm, họ Tống, tài lực tương đương. Nhưng những câu cuối của bài thơ họ Thẩm, hơi văn đã cạn, còn của họ Tống vẫn rất dồi dào, bởi vậy bài này hơn bài kia vậy!
Trăm quan đang xúm lại xem, thì Uyển Nhi đã xuống lầu phục mệnh, đưa trình bài thơ của Chi Vấn. Trung Tôn, hoàng hậu cùng các công chúa truyền tay nhau xem, đều xuýt xoa ngợi ca tài người làm thơ, sáng suốt của người chấm. Trung Tôn truyền quần thần đến bên điện, đưa cho xem bài thơ của Chi Vấn:
Hồ xuân mừng gặp hội trời
Sóng vờn trướng phủ khắp nơi điện vàng
Cá kình uốn lượn tung tăng
Đoái trông bè trẩy lên từng đẩu ngưu
Cuối mùa cây cỏ nhấp nhô
Hơi xuân chầm chậm, lơ thơ liễu mành
Cảnh tình như tắm biển xanh
Kiếp xưa ai khiến cháy thành than đen
Nhà Chu đất Cảo rượu liên
Phần Dương Hán chúa thánh hiền nhạc ca
Chớ phiền là nỗi trong tà
Mừng xem châu ngọc chói lòa ngày đêm.
Vốn khi Vũ Hán đế đào hồ Côn Minh này, xúc được đến mấy vạn hộc than đen, không biết loại gì mới gọi Đông Phương Sóc tới hỏi. Đông Phương Sóc thưa:
- Việc này phải triệu nhà sư ở Tây Vực tới hỏi thì mớibiết được?
Về sau có nhà sư Trúc Pháp Lan ở Tây phương tới, nhân đem than này hỏi, Trúc Pháp Lan thưa:
- Thế giới đến lúc tận diệt, tất cả các kiếp đều bị thiêu cháy thành từng vùng lớn, cái này chính là cái kiếp đó cháy chưa hết còn lại tro tàn này vậy. Đông Phương Sóc cũng biết chuyện này, sao lại phải đợi đến bần tăng thưa trình.
Trong hồ lại có xây đài, chính là Dự Chương đài, dưới đài có tạc những con cá kình bằng đá, mỗi khi có sấm có mưa, những con cá bằng đá này cũng gào thét. Hai bên đài lại có hai tượng người đá, tương truyền đó là những phiến đá từ trên trời rơi xuống, nên mới sai tạc thành tượng, những kỳ tích đó, đều được hai bài thơ nhắc tới. Các quan xem thơ đều không ngớt lời tán thưởng. Thuyên Kỳ cũng tự thấy mình không sánh kịp. Trung Tôn cũng đòi xem cả bài thơ của Thuyên Kỳ, lại đọc cả lời bình của Uyển Nhi, liền cười phán:
- Uyển Nhi phẩm bình thế, hai khanh thấy thế nào?
Hai người thưa thật xác đáng. Trung Tôn lại phán:
- Còn như bách quan thì thấy có công bằng chăng?
Triều thần đều thưa:
- Quả là cao tài trác việt thì phải nhường cho họ Thẩm, họ Tống. Đến bọn họ cũng phải phục, huống gì chúng thần.
Trung Tôn rất vừa ý, hôm ấy tiệc rượu rất vui vẻ, say sưa mới tan. Từ đó Thuyên Kỳ phải nhường Chi Vấn một bậc, không dám tranh hơn thua nữa.
Chính là:
Khoan nói tài thơ so Thẩm Tông
Hãy nghe nữ sĩ định hơn thua.
Nếu nói chuyện tài năng thì một người tám lạng, một kẻ nửa cân. Nhưng Tống Chi Vấn mặt mày tuấn tú, cử chỉ phong lưu, chuyện trai gái lại rất thành thạo. Chi Vấn làm quan từ thời Vũ Tắc Thiên, nhân thấy bọn Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông, cũng vì đẹp trai mà được Tắc Thiên sủng ái, phú quý không ai bằng, cho nên trong lòng không khỏi so sánh. Mỗi lần tấu bày trước mặt Vũ Tắc Thiên, thấy mặt mày Vũ Tấc Thiên nhìn ngó đong đưa, cũng có vẻ yêu thương, nhưng cuối cùng vẫn chẳng được triệu vào nội cung. Chi Vấn không nhẫn nại được nữa, phải nhờ một nội giám thân tín với Vũ Tắc Thiên tiến dẫn, khoe đủ tài năng trong ngoài của mình.
Tắc Thiên cười mà đáp rằng:
- Trẫm không phải không yêu tài, nhưng nghe nói người này miệng hôi lắm, cho nên không thể gọi vào hầu hạ ngay cạnh nữa.
Nguyên là Chi Vấn, tuy đẹp trai, nhưng từ nhỏ đã có bệnh thối miệng, có người đã thưa cho Tắc Thiên rõ, vì vậy Tắc Thiên không muốn gần. Viên nội giám lại đem những lời này nói lại cho Chi Vấn biết. Chi Vấn vô cùng hổ thẹn, từ đó, thường hay ngậm kê thiệt hương, để lỡ may được triệu đến. (1) Chỉ cần một mẩu ngắn thế, cũng đủ rõ phẩm hạnh của bậc tài tử này vậy.
1 "Tùy đường giai thoại": Vũ Hậu ra chơi Long Môn, lệnh cho các quan làm thơ, ai xong trước sẽ được thưởng cẩm bào. Có người làm xong, được thưởng chưa về tới chỗ thì Tống Chi Vấn làm xong, đưa trình, thơ rất hay, Vũ Hậu bèn cướp áo bào của người kia, thưởng cho Chi Vấn.
Thẩm Thuyên Kỳ cũng vốn đi lại với Chi Vấn một bọn, về sau làm tay chân cho An Lạc công chúa, nhận ăn hối lộ bị người tố cáo, phải đày đi Hoan Châu, may được An Lạc công chúa che chở, lại được gọi về dùng. Lúc này An Lạc chiếm phủ đệ cũ của Lâm Xuyên Trường Minh Công chúa, tu tạo lại, rồi mời Trung Tôn ngự giá tới thăm, sai Thuyên Kỳ hầu yến, lệnh cho làm thơ, để ghi lại việc hiếm có, hạn vần "Thiên". Thuyên Kỳ vâng mệnh, làm ngay một bài thơ luật sau đây:
Hoàng gia phú quý bậc thần tiên
Nhà dựng sông Ngân ở sát bên
Xây núi đã hơn hòn Phượng Lĩnh
Đào hồ chẳng kém nước Long Xuyên
Màn trao phí thúy thơm lầu trước
Thềm lát hoàng kim sáng cửa bên
Kính cẩn theo xe dong đến đó
Rượu đà chúc thọ lạc quân thiên.
Trung Tôn cùng công chúa xem thơ, ca ngợi mười phần, công chúa nói thêm:
- Khanh với Tống Chi Vấn tên tuổi ngang nhau, người đời vẫn gọi chung là "Thẩm Tống “, nay làm thơ phú, lẽ nào có Thẩm mà lại không có Tống hay sao?
Liền sai nội thị, triệu Chi Vấn tới. Công chúa trước tiên đưa cho xem bài thơ của Thuyên Kỳ, sau đó nói tiếp:
- Thẩm Khanh đã làm thơ thất ngôn, nay khanh hãy làm một bài ngũ ngôn luận xem sao.
Chi Vấn thưa:
- Thuyên Kỳ đội ơn thượng hoàng ra vần, nay thần cũng xin công chúa hạn vần cho.
Công chúa cười:
- Khanh tài không trời đất, hãy lấy vần "không" có nên chăng?
Chi Vấn vâng mệnh, viết bài ngũ ngôn sau:
Tôi hiền xây quán thụ
Chúa thành ngự nhà vàng
Khách đến sông Ngân hiện
Tiên về ánh nguyệt không
Đói mồi cột én hót
Vàng chói sắc cầu vồng
Đài Tần tiêu thánh thót(1)
Tường Lỗ sách trùng trùng (2)
Điệu múa trêu làn gió
Lời ca níu ánh hồng
Tìm nơi dừng gót ngọc
Rực rỡ hoa rưng rưng.
1 Tiêu Sử thổi tiêu rất hay, vua Tần Mục Công gả công chúa Lộng Ngọc, xây Phượng Đài cho vợ chồng ở. Sử dạy Lộng Ngọc thổi tiêu, chim phượng nghe bay tới đậu trước đài. (Điển cố văn học).
2 Sau “đốt sách, chôn học trò" của Tần Thủy Hoàng, người ta tìm thấy trong vách hai lớp, ở đền Khổng Tử nước Lỗ, những thẻ tre chép ngũ kinh (Từ điển tầm nguyên).
Thơ xong, công chúa vừa xem vừa khen. Trung Tôn cũng không tiếc lời ngợi ca, lệnh thưởng cho hai tấm đoạn, công chúa lại còn thưởng thêm. Hai người tạ ơn mà ra. Lần này Thuyên Kỳ trong lòng cũng có vẻ hậm hực, vì lâu nay tiếng tăm cả hai bằng nhau, không ai trên ai dưới. Nay chỉ thấy công chúa khen tài Chi Vấn trên đời không ai sánh, nên trong lòng không phục.
Đến năm Cảnh Long thứ ba, ngày ba mươi tháng giêng. Trung Tôn đi chơi hồ Côn Minh, ban yến cho quần thần. Hồ Côn Minh này đào từ thời Hán Vũ Đế. Vũ Đế vốn là một hoàng đế "hiếu đại hý công", muốn chinh phạt nước Côn Minh, nhân nước này có hồ rộng tới ba trăm dặm, cực kỳ hiểm trở, nên mới đào hồ này ở đây, để theo đó mà tập thủy quân. Vì vậy hồ vừa rộng vừa hùng vĩ, trong hồ có lầu các đình tạ, sẵn mọi thứ cho việc ngự du. Trước đó hai ngày, Trung Tôn đã truyền dụ cho trăm quan, mỗi người phải dâng một bài ngũ ngôn bài luật tức sự, sẽ tuyển bài thơ hay nhất, để phổ vào khúc điệu mới, vì vậy các quan đua nhau đem những lời hoa diễm nhất vào thơ. Vi Hoàng hậu nói với Trung Tôn:
- Các quan trong triều tự phụ tài cao, không tin rằng phi tần trong nội cung, cũng có người sẵn tài năng chẳng kém gì đàn ông. Cứ như ngụ ý của thiếp, ngày mai nên cho những bài thơ của quần thần làm ra, lệnh cho Thượng Quan Chiêu nghi bình duyệt, để mọi người thấy trong cung cũng có bậc tài tử, từ đó về sau, mỗi lần làm thơ ứng chế, không ai là không gắng hết sức.
Trung Tôn thích ý mà rằng:
- Những lời này thật hợp ý trẫm!
Uyển Nhi vội thưa:
- Thần thiếp chỉ là một cung nga, nay đứng ra bình phẩm thơ ca của trăm quan, liệu mọi người có phục chăng?
Trung Tôn cười:
- Chỉ cần khanh bình cho công bằng xác đáng, thì chẳng có điều gì đáng ngại cả.
Liền truyền lệnh dựng ngay trên bờ hồ. Côn Minh một tòa lầu phủ đầy lụa là, gấm vóc, để Thượng Quan Chiêu nghi ngồi bình thơ.
Thánh chỉ ban ra, người người nghị luận xôn xao, kẻ cho rằng coi thường trăm quan, nên lấy làm hậm hực. Cũng có người lại vui mừng, cho rằng đó là chuyện phong nhã. Đến ngày hôm ấy, Trung Tôn cùng Vi Hoàng hậu, Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa, Trường Ninh công chúa, Thượng Quan Chiêu nghi đến hồ Côn Minh. Tiệc rượu đã bày sẵn, trăm quan triều bái xong xuôi, Trung Tôn ban yến ngay bên bờ hồ. Hoàng hậu cùng các công chúa thì dự yến ngay trong nội điện. Tiệc rượu xong, triều thần dâng thơ. Trung Tôn phán:
- Chủ khanh đều là bậc tài cao, nhưng lý ra phải có người cao kẻ thấp. Trẫm nhất thời hãy khoác áo ngồi nhàn, để xem Thượng Quan Chiêu nghi, tài giỏi bậc nhất của nội cung, thử duyệt bình giai phẩm của bách quan, cũng là làm nên một giai thoại cho đời sau. Các khanh hãy trổ hết tài năng xem sao!
Triều thần cúi đầu tạ ơn. Trung Tôn truyền cho mọi người ngồi ngay trong điện, hoặc dọc theo lan can, chia làm hai bên, ai thơ không được chọn đứng sang phải, còn ban đầu đều đứng trình trái điện.
Lát sau thấy Thượng Quan Uyển Nhi, đầu đội mũ phượng, khoác áo gấm thêu, hai tay áo rũ dài tha thướt, chẳng khác gì tiên nữ xuống trần, trước tiến về phía Trung Tôn cùng hoàng hậu tạ ơn, rồi cung nga đỡ lên lầu gấm, ngồi ngay trước lầu. Bên ngoài lầu treo một tấm biển, viết chữ lớn bằng sơn:
Thượng Quan Chiêu nghi, vâng mệnh hoàng thượng bình thơ, chỉ chọn một bài hay nhất, dâng lên hoàng thượng ngự xem. Những bài không trúng, sẽ trả xuống lầu, của ai người nấy nhận lại.
Ngay trước lầu, bày rất nhiều án thư, đặt đủ văn phòng tứ bảo, rồi nội thị lần lượt dâng trình thơ của các quan lên lầu để Uyển Nhi cầm bút chấm. Các quan đều ngồi ngửa mặt nhìn, chẳng mấy chốc thì thấy những bài thơ không được chọn liệng bay xuống, mỗi lần như vậy, mọi người lại tranh nhau cướp xem có phải của mình chăng, nếu đúng thì giấu ngay vào ống tay áo, lẳng lặng không một lời đứng về phía bên phải điện. Riêng Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, mặc cho giấy bay xuống như bươm bướm, vẫn đứng yên không động đậy, chẳng thèm nhặt xem, họ tự tin rằng thơ của mình nhất định hơn hẳn mọi người, không thể không được chọn. Cuối cùng thơ của xung quanh đều liệng xuống lầu hết, mà thơ của Thẩm lẫn Tống đều chưa thấy ném xuống. Thuyên Kỳ nói khẽ với Chi Vấn:
- Lệnh chúa thượng chỉ chọn một bài, nên trong số hai bài này phải có một bài bỏ ra. Hai chúng ta lâu nay tài danh tương đồng, khó phân hơn kém. Chỉ cần hôm nay, bài của ai được chọn thì hơn thua rất rõ ràng, mai nay không phải tranh nhau hơn kém lôi thôi.
Chi Vấn gật đầu tán thưởng. Mãi sau mới lại thấy một tờ giấy bay xuống, ai nấy đua nhau giành xem, thì ra là của Thuyên Kỳ, bài thơ như sau:
Xe vua dẫn xuân đến
Ao thánh đem Hán về
Hai sao rơi thềm cũ
Ánh nguyệt dẫn tro đi
Kìa tượng hình sấm động
Nọ thuyền ích gặp thì
Căng gấm hoa che núi
Buông màn liễu phủ đê
Ca Phần trỗi lời đẹp(1)
Tiệc Cảo dâng điệu quê (2)
Bầy tôi phận nhỏ mọn
Lạm dự hàng đẩu khuê.
1 Phần: Thành Phần Dương, nổi tiếng thời Hán, được coi là thời thịnh của phong kiến Trung Quốc.
2 Cảo: Kinh đô nhà
Ở cuối bài thơ có ghi cả lời bình rằng:
"Hai bài thơ của họ Thẩm, họ Tống, tài lực tương đương. Nhưng những câu cuối của bài thơ họ Thẩm, hơi văn đã cạn, còn của họ Tống vẫn rất dồi dào, bởi vậy bài này hơn bài kia vậy!
Trăm quan đang xúm lại xem, thì Uyển Nhi đã xuống lầu phục mệnh, đưa trình bài thơ của Chi Vấn. Trung Tôn, hoàng hậu cùng các công chúa truyền tay nhau xem, đều xuýt xoa ngợi ca tài người làm thơ, sáng suốt của người chấm. Trung Tôn truyền quần thần đến bên điện, đưa cho xem bài thơ của Chi Vấn:
Hồ xuân mừng gặp hội trời
Sóng vờn trướng phủ khắp nơi điện vàng
Cá kình uốn lượn tung tăng
Đoái trông bè trẩy lên từng đẩu ngưu
Cuối mùa cây cỏ nhấp nhô
Hơi xuân chầm chậm, lơ thơ liễu mành
Cảnh tình như tắm biển xanh
Kiếp xưa ai khiến cháy thành than đen
Nhà Chu đất Cảo rượu liên
Phần Dương Hán chúa thánh hiền nhạc ca
Chớ phiền là nỗi trong tà
Mừng xem châu ngọc chói lòa ngày đêm.
Vốn khi Vũ Hán đế đào hồ Côn Minh này, xúc được đến mấy vạn hộc than đen, không biết loại gì mới gọi Đông Phương Sóc tới hỏi. Đông Phương Sóc thưa:
- Việc này phải triệu nhà sư ở Tây Vực tới hỏi thì mớibiết được?
Về sau có nhà sư Trúc Pháp Lan ở Tây phương tới, nhân đem than này hỏi, Trúc Pháp Lan thưa:
- Thế giới đến lúc tận diệt, tất cả các kiếp đều bị thiêu cháy thành từng vùng lớn, cái này chính là cái kiếp đó cháy chưa hết còn lại tro tàn này vậy. Đông Phương Sóc cũng biết chuyện này, sao lại phải đợi đến bần tăng thưa trình.
Trong hồ lại có xây đài, chính là Dự Chương đài, dưới đài có tạc những con cá kình bằng đá, mỗi khi có sấm có mưa, những con cá bằng đá này cũng gào thét. Hai bên đài lại có hai tượng người đá, tương truyền đó là những phiến đá từ trên trời rơi xuống, nên mới sai tạc thành tượng, những kỳ tích đó, đều được hai bài thơ nhắc tới. Các quan xem thơ đều không ngớt lời tán thưởng. Thuyên Kỳ cũng tự thấy mình không sánh kịp. Trung Tôn cũng đòi xem cả bài thơ của Thuyên Kỳ, lại đọc cả lời bình của Uyển Nhi, liền cười phán:
- Uyển Nhi phẩm bình thế, hai khanh thấy thế nào?
Hai người thưa thật xác đáng. Trung Tôn lại phán:
- Còn như bách quan thì thấy có công bằng chăng?
Triều thần đều thưa:
- Quả là cao tài trác việt thì phải nhường cho họ Thẩm, họ Tống. Đến bọn họ cũng phải phục, huống gì chúng thần.
Trung Tôn rất vừa ý, hôm ấy tiệc rượu rất vui vẻ, say sưa mới tan. Từ đó Thuyên Kỳ phải nhường Chi Vấn một bậc, không dám tranh hơn thua nữa.
Chính là:
Khoan nói tài thơ so Thẩm Tông
Hãy nghe nữ sĩ định hơn thua.
***
Lại nói Trung Tôn ngày càng bị Vi Hoàng hậu mê hoặc, thêm một lũ hề, con hát, cùng những nịnh thần ngày đêm vây kín, nên chẳng lúc nào nghĩ đến việc nước, suốt sáng thâu đêm vui chơi yến tiệc. Ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc đông hết xuân về, đã là tháng giêng, năm thứ tư đời Cảnh Long rồi. Phong tục kinh thành mỗi tiết thượng nguyên, khắp ba sáu phố phường, ba chợ đêm đến đều treo đèn hoa, lầu lớn nhà nhỏ đều kết lụa giăng gấm, người đi lại như mắc cửi, chuông trống rộn ràng, thâu đêm suốt sáng, chẳng hề cấm đoán gì. Có bài "Niệm nô kiều” sau đây làm chứng:
Đèn đuốc tựa cây cao sáng rực
Đêm kim ngô thả mặc rong chơi
Băm sáu phố phường
Ấy kiến hay người
Ngựa xe chen chúc, ngược xuôi ồn ào
Kết mấy ả áo đào quần tía
Dáng như tiên hồn vía ngẩn ngơ
Trâm rơi, tóc xổ bơ phờ
Dưới đèn lánh mặt, thân sơ biết gì
Quay đầu nghe tiếng gọi xa xa
Tết thượng nguyên này mấy thuở mà
Nót nói cười cười khôn cất bước
Một đoàn sau trước rộn sênh ca
Trăng là là
Cán sao đẩu tà tà
Giục ngựa dong xe
Hát hết khúc thái hòa
Đêm sắp qua
Mệt mỏi trẻ già
Màn thơm đệm gấm, về nhà nghỉ thôi.
Vi Hoàng hậu nghe nói ngoài phố nhộn nhịp, lòng như phát cuồng, liền cùng Uyển Nhi, các công chúa mời Trung Tôn, thay đổi y phục ra khỏi cung xem đèn. Trung Tôn vui vẻ nghe theo, thay ngay quần áo, mũ mãng, giả làm người ngoài phố. Lại sai lũ cận thần Vũ Tam Tư, cũng thay đổi dạng đi theo. Rồi cùng kéo ra đường xem đèn, không chút thận trọng. Quan lính lẫn dân chúng, đều thầm thì bàn tán:
- Đoàn trai gái xem đèn này, nhất định là ở nội cung ra, chẳng phải công chúa thì cũng là phi tần, chẳng phải vương tử vương tôn, thì cũng công hầu phò mã. Thật đáng buồn cười cho Đại Đường Hoàng đế, khó mà nói bởi trong cung không có đèn đuốc để xem, mà phải cho họ ra phố, cùng xem đèn với trăm họ, trà trộn hỗn tạp với biển người, chẳng phân trai gái hiền dữ, chẳng chia sang hèn, thật không còn thể thống gì nữa!
Mặc cho dân chúng nghị luận xôn xao, Trung Tôn cùng hoàng hậu dẫn bọn nam nữ cứ tìm chỗ đông nhất mà tới, mặc cho xung quanh giương mắt ngạc nhiên. Lại cũng cho các cung nga hàng nghìn người, làm thành từng đội đi đâu tùy ý, lúc về đến cung điểm lại, thấy thiếu rất nhiều, nhưng rồi không tiện truy tìm, nên đành yên lặng bỏ qua.
Chính là:
Hoàng hậu xem đèn dạo phố phường
Dưới trên trố mắt dám khinh thường
Bỏ vua cung nữ theo trai mất
Chúa thượng được khen tiếng biết nhường!
Sau việc xem đèn này, tiết xuân ngày thêm ấm áp, Trung Tôn cùng hoàng hậu, công chúa ra chơi cửa Huyền Vũ, xem cung nga bơi lội lại ban yến cho quần thần, sai trăm quan đua tài mua vui. Có người đánh đàn cầm, kẻ đàn Hồ, hoặc gõ trống, đủ thứ linh tinh. Riêng tế tửu Quốc tử giám Chúc Khâm Minh xin múa điệu "Bát phong vén tay áo đến dưới điện, hoa chân múa tay, uốn lưng quỳ gối, liếc ngang ngó dọc, uốn éo đủ bề. Trung Tôn, hoàng hậu cùng các công chúa đều vỗ tay cười nghiêng ngửa, đến cả bọn nội thị, cung nga không ai là không phải bịt miệng cười. Lại bộ thị lang Lư Thặng Dung, nói khẽ với người ngồi cạnh:
- Họ Chúc thân đứng đầu Quốc tử giám, làm những trò xấu xa này, thì thực hết cả Ngũ kinh (1) rồi vậy!
1 Ngũ kinh: Năm bộ sách hàng đầu của Nho giáo: Thị, Thư, Dịch, Lễ và Xuân Thu. Tế tửu Quốc tử giám: giám đốc trường đại học lớn nhất ở kinh đô Thư nghiệp Quốc tử giám: như khoa trưởng, giáo sư của trường đại học trên.
Quốc tử giám tư nghiệp Quách Sơn Huy cũng có mặt, thấy quan tế tửu làm những chuyện lố lăng đến thế, không giấu được hổ thẹn, đợi đến khi Trung Tôn hỏi:
- Quách tư nghiệp có tài gì, hãy cho trẫm xem thử nào?
Quách Sơn Huy vội rời khỏi ghế cúi đầu thưa:
- Thần quả chẳng có trò gì, xin đọc "Kinh Thi" để trợ hứng chúa thượng vậy.
Trung Tôn phán:
- Khanh giỏi đọc "Kinh Thi" sao? Đọc bài gì bây giờ?
Sơn Huy thưa:
- Thần xin vì bệ hạ đọc bài "Lộc minh" cùng bài "Tất xuất" vậy!
Rồi lên giọng đọc đĩnh đạc, trước tiên là đọc bài "Lộc minh":
1.Tiếng hươu ao ao
Gồm cỏ đồng nào?
Khách ta đã quý lại nhiều.
Kèn, đàn cùng sáo thấp cao nhịp nhàng
Tơ lụa tốt, hãy đưa sang
Tặng cho các bạn, lại càng nêu ta
Chỉ ta các nẻo gần xa.
2. Tiếng hươu ao ao
Gặp đồng cỏ hao
Khách ta đã quí lại nhiều
Rõ ràng riêng tôi, đức cao hơn người
Dân khinh bạc đổi dời tính nết
Quân tử nay đáng thật yêu gương
Chuộc chén quỳnh tưng
Thảnh thơi dạo gót bên đường.
3. Tiếng hươu ao ao
Gặm cỏ đồng nào?
Khách ta đã quý lại nhiều
Đàn cầm đàn sắt dập dìu nổi lên
Cùng vui rót chén rượu tiên
Khiến cho lòng khách bình yên vui vầy. (1)
1 Có tham khảo ban "Thi Kinh tập truyện" của Tạ Quang Phát, tập II, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1669.
Sau đó lại đọc bài "Tất xuất":
1. Con dế trong nhà
Năm tháng dần dà
Ta không vui lắm
Ngày giờ lướt qua
Đời thái khanh sắp hết chăng là?
Cửa nhà coi sóc việc ta bộn bề
Vui thì vui, chớ đam mê
Đã là quân tủ sớm khuya chuyên cần.
2. Con dế trong nhà
Ngày qua tháng lại
Ta không vui lắm
Tháng trọn ngày tiêu
Đời thái khang còn chẳng bao nhiêu
Việc ngoài ta liệu chắt chiu mọi bề
Vui thi vui chớ say mê
Đã là quân tử sớm khuya nhọc nhằn.
3. Con dê trong nhà
Xe cộ nhẩn nha
Ta không vui lắm
Ngày tháng phôi pha
Đời thái khang sắp hết chăng là
Lòng ta lo lắng xót xa từng ngày
Vui thi vui chớ mê say
Đã là quân tử lòng hay chí bền.
Sơn Huy đọc xong, Trung Tôn quay lại nói với Vi Hoàng hậu:
- Chính là Quách tư nghiệp dùng thơ để can gián trẫm đó, ý tứ thật kín đáo. Vì vậy các quan khác không phải trình diễn tài nghệ gì thêm, liền lệnh bãi tiệc.
Chính là:
Thầy Tế tửu múa bài "Tám gió"
Khắp đất rơi lả tả "Ngũ kinh "
Ấy ai đọc "Tất xuất , "Lộc minh "
Là thầy Tư nghiệp giữ mình thẳng ngay.
Lúc này Công chúa An Lạc nhân dịp xin Trung Tôn cho hồ Côn Minh này làm hồ riêng, nhà vua phán:
- Từ tiên đế lại nay, chưa từng đem những thứ này cho riêng ai.
Công chúa không bằng lòng, liền khởi công đào một hồ khác, lấy tên là "Định Côn trì", với ý thi thắng cả "Côn Minh trì", nên mới đặt tên thế. Đích thân Tư nông khanh Triệu Phúc ôn đứng trông coi công việc, chẳng biết hao phí bao nhiêu sức dân, tiêu hết bao nhiêu tiền của đất nước, mới làm nên hồ này. Trên hồ cũng xây đủ cả thù nhu, con hát, kéo tới vui chơi. Công chúa bày yến tiệc, để khoản đãi ngự giá cùng tùy tòng. Trung Tôn xem xét, quả là tráng lệ hơn hẳn Côn Minh hồ, rất vừa ý, liền truyền cho quần thần, ngay trên tiệc mỗi người làm một bài thơ, để ngợi ca thắng cảnh, Bách quan vâng mệnh, đang nghĩ ngợi, thì đã thấy Hoàng môn thị lang Lý Nhật Tri rời khỏi ghế đến trước ngự tiền tâu:
- Thần phụng mệnh làm thơ, chưa thành bài, mới chỉ được hai câu xin hãy trình chúa thượng.
Rồi cao giọng đọc:
Chỉ khen người ở rung rinh thế
Đâu biết người làm vất vả thay.
Trung Tôn nghe xong, cười:
- Khanh cũng định bắt chước Quách Sơn Huy lấy thơ để can gián trẫm sao?
Trung Tôn trầm ngâm hồi lâu, truyền cho nội thị:
- Các quan không phải làm thơ nữa, chỉ cứ việc uống rượu thôi!
Rượu đã say, thù nhu, con hát diễn đủ trò vui xung quanh hồ, Trung Tôn rất thích thú, lại truyền cho trăm quan làm từ "Hồi ba khúc" để góp vui. Lúc này Tống Chi Vấn cáo ốm không có mặt, chỉ thấy Thẩm Thuyên Kỳ. Thuyên Kỳ vốn giữ chức Cấp sự trung khảo công lang, bị cách chức chịu lưu đày, nay dã được nhà vua gọi về dùng, nhưng vẫn chưa được cất nhắc, nay nhân việc làm thơ này, định viết mấy câu tự trào, để may nhà vua có rủ lòng thương đến chăng. Bài thơ như sau:
Sóng dồi này như Thuyên Kỳ
Đầy xa may sống mà về
Ơn vua gọi ra làm lại
Nhưng chưa được cấp mũ hia.
Trung Tôn nghe xong khẽ cười, còn An Lạc công chúa thì nói:
- Thẩm khanh tài quá, dẫu có ban lại cho hết ngà, áo bào không phải là quá.
Vi hoàng hậu tiếp:
- Xin bệ hạ hãy ban thánh chỉ ngay cho.
Trung Tôn phán:
- Hãy thăng cho chức Thái tử thiểm sự.
Thuyên Kỳ dập đầu tạ ơn. Lúc này có thù nhu Tang Phụng, tiến đến trước Trung Tôn cùng hoàng hậu thưa:
- Thần cũng đã làm xong bài từ, nhưng có hơi ngược ngạo, đụng chạm tới đấng chí tôn. Nếu chúa thượng cùng hoàng hậu tha cho tội chết vạn lần, mới xin đọc vậy.
Trung Tôn cùng hoàng hậu đều phán:
- Khanh cứ việc đọc, có gì cũng sẽ không bắt tội khanh.
Tang Phụng liền sang sảng đọc:
Sóng dồi này như cái bị
Sợ vợ là chuyện rất quý
Ngoài triều chỉ có Bùi Đàm
Trong cung ai bằng bác Lý (1)
Vốn là Ngự sử đại phu Bùi Đàm, rất chuộng đạo Phật, nhưng lại gặp một người vợ ngỗ nghịch. Bùi Đàm sợ chẳng khác gì đối với một vị vua hách dịch. Bài Đàm thường nói: "Đàn bà có ba điều đáng sợ: lúc còn ít tuổi, trông như Quan âm Bồ Tát sống, làm gì có người nào lại không sợ Quan âm sống cho được! Đến khi con cái đầy đàn, thì trông lại chẳng khác gì quỷ cái chín con, ai là người dám nói không sợ loại quỷ này nào? Kịp đến khi già, bôi son trát phấn, lúc xanh lúc đỏ trông khác nào con quạ khoang, ai là người dám đứng ra đối địch!". Nghe những lời này, không ai là không cười đùa, gọi Bùi Đàm là Bùi Sợ Vợ (2).
1 Trung Tôn: họ Lý, tục chưa lên ngôi là Tần Vương Lý trị.
2 Nguyên văn mọi người gọi là "Bùi Phạ Bà” và khi về già trông phụ nữ chẳng khác gì một "con tu hú”, thay bằng "con quạ khoang".
Vi Hoàng hậu lâu nay đang muốn theo gót Vũ Tắc Thiên, tìm đủ cách áp chế Trung Tôn, Trung Tôn cũng rất sợ, bởi biết thế nên Tang Phụng mới dám đọc những câu này, đã có Vi Hoàng hậu đứng chắn, không sợ gì Trung Tôn làm tội.
Chính là:
Thế gian sợ vợ khinh chồng
Coi thường, ác nghiệt là không ai bằng
Lạ cho bác Lý nhà Đường
Nàng dâu giống mẹ, trai thường giống cha.
Trung Tôn nghe xong cười ha hả, còn Vi Hoàng hậu cũng chỉ thản nhiên mỉm cười. Trong số bách quan, có Gián nghị đại phu Lý Cảnh Bá nghe thế, rất lấy làm buồn phiền, trước những chuyện ngứa mắt như vậy, nghe chẳng lọt tai, liền đứng dậy, tiến lên thưa:
- Thần cũng xin đọc một bài.
Rồi cất tiếng:
Sóng dồi này rượu một ly
Bầy tôi phải giữ lễ nghi
Tiệc vua chỉ uống ba chén
Cười đùa bắt tội tức thì. (1)
1 Những bài từ theo điệu "Hồi ba khúc" này đều có bốn câu, theo thể tục ngôn, và đều bắt đầu bằng chữ "Hồi ba nhi"... tạm dịch: "Sóng dồi này”...
Trung Tôn nghe xong có ý không vui. Đồng tam phẩm Tiêu Chí Trung lại tâu:
- Thật xứng bậc gián quan, xin bệ hạ hãy nghe theo lời Lý Cảnh Bá.
Trung Tôn truyền bãi yến, lên xe rồng về cung. Ngày hôm sau lâm triều, có người xin trị tội Tang Phụng, nhưng khi nghe Vi Hoàng hậu đã sai sứ đem vàng lụa thưởng cho Tang Phụng, chỉ đành thở dài rồi thôi.
Chú hề đùa cợt thật to gan ,
Vua chẳng nói gì, hậu lại khen
Nề nếp rối mù, đành mặc kệ
Khí âm thịnh thì khí dương tan.
Không biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải.
HỒI 77
Thuốc độc giết hôn quân, như trò con trẻ,
Đao hờn băm nghịch hậu, thật thỏa lòng dân
Từ rằng:
Thiên tử là bậc chí tôn
Lẽ nào phi hậu khinh nhờn lăng nhăng
Bởi vua mù điếc bất nhân
Lại thêm nhu nhược, nể nang, đốn lười
Chiếu văn sắc chỉ
Mặc kẻ lộng hành
Biến loạn cung đình
Tài tình xuống dốc
Giang sơn gấm vóc
Thế giới hương hoa
Ngoảnh đầu liếc qua
Đau thương thắt ruột
Thế mà cứ:
Gương Võ Hậu lại toan bắt chước
Thưởng cùng phạt
Một mình muốn nắm trong tay
Hòng dựng xây
Ngàn đời công nghiệp
Muôn thuở căn cơ
Nhưng hoang dâm làm trò quay quắt
Tội giết chồng, tột giết cả vua
Muôn đội hùng binh Lâm Truy
Nổi dậy phát cờ
Tội thì đền tội
Tiếng nhuốc nhơ, rửa bằng gì?
Theo điệu "Nội gia kiêu”
Thiên tử là bậc chí tôn
Lẽ nào phi hậu khinh nhờn lăng nhăng
Bởi vua mù điếc bất nhân
Lại thêm nhu nhược, nể nang, đốn lười
Chiếu văn sắc chỉ
Mặc kẻ lộng hành
Biến loạn cung đình
Tài tình xuống dốc
Giang sơn gấm vóc
Thế giới hương hoa
Ngoảnh đầu liếc qua
Đau thương thắt ruột
Thế mà cứ:
Gương Võ Hậu lại toan bắt chước
Thưởng cùng phạt
Một mình muốn nắm trong tay
Hòng dựng xây
Ngàn đời công nghiệp
Muôn thuở căn cơ
Nhưng hoang dâm làm trò quay quắt
Tội giết chồng, tột giết cả vua
Muôn đội hùng binh Lâm Truy
Nổi dậy phát cờ
Tội thì đền tội
Tiếng nhuốc nhơ, rửa bằng gì?
Theo điệu "Nội gia kiêu”
***
Nay lại nói chuyện
Thượng Quan Uyển Nhi, từ ngày kết lầu bình thơ, danh tài nổi như sóng cồn.
Trung Tôn càng thêm sủng ái, thăng lên làm tiệp dư, phục sức, ăn ở chẳng khác
gì phi tử, lại thêm Vi Hoàng hậu cùng các công chúa rất vừa ý Uyển Nhi. Uyển
Nhi ngày càng kiêu ngạo, ngang ngược, chẳng còn sợ ai. Trung Tôn lại đặt thêm
Tụ văn quán, tuyển các công khanh giỏi văn thơ như Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi
Vấn, Lý Kiều... khoảng hơn hai mươi người, phong cho làm Tụ văn quán học sĩ,
thường xuyên ban yến ở trong nội cung để ngâm thơ vịnh phú, đua tài thi đẹp,
đều sai Thượng Quan Uyển Nhi đứng ra định giá hơn kém, ghi chép thành sách,
truyền vào Nhạc phủ. Vì vậy sĩ tử trong thiên hạ, tranh nhau sao chép truyền
tụng, làm cho những nhà nho học chính trực, lẫn những lời công luận xác đáng
đều không sao theo nổi.
Chính là:
Chẳng thân kẻ hiền lương phương chính
Chỉ học câu tuyết nguyệt phong vân.
Uyển Nhi lại bàn riêng với Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, tâu với Trung Tôn, xin cho Uyển Nhi được lập phủ đệ ở ngoài cung, để tiện cho các học sĩ lui tới bàn luận thơ văn, nhân đó mà những kẻ quan viên không chút phẩm hạnh, ra vào phủ đệ lén lút rất nhiều, những mong được tiến dẫn, được trọng dụng. Uyển Nhi nhân đó mà giao thiệp với bọn thiếu niên lanh lợi, đêm hôm dẫn vào nội cung, đi lại với Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, rất suồng sã. Lại thêm bọn triều thần như Thôi Thực, Tôn Sở Khách, trước thì đến với Uyển Nhi, sau trở thành tâm phúc của Vi Hoàng hậu cùng các công chúa.
Trung Tôn từ ngày xem đèn, lại quen thói thay đổi trang phục ra khỏi cung chơi, hoặc là đến phủ đệ của Uyển Nhi một mình, hoặc cũng đi chơi ngoài phố với Hoàng hậu, công chúa. Uyển Nhi từ ngày có phủ đệ ở bên ngoài, bọn cung nga sớm tối đi vào cửa cung coi sóc tha hồ phóng túng, mặc lời dị nghị, lại cũng chẳng ai dám thẳng thắn can gián. Chỉ riêng Hoàng môn thị lang Tống Cảnh dâng lên một mật sớ, đại lược như sau:
Hạ thần vừa nghe tiếng đồn ngoài phố rằng Thiên tử cùng Hoàng hậu, Phi tần, Công chúa cải trang trà trộn ra phường chợ để xem đèn, dân chúng trố mắt lấy làm lạ lắm! Lúc đầu hạ thần nghĩ rằng không thể có việc ấy được.
Sau đó mới rõ là lời đồn không sai, thần rất lấy làm kinh sợ. Sách "Chu lễ” dạy rằng: Phu nhân mà vào chợ thì bị phạt một bức trướng, quan khanh, đại phu, sỹ nhân mà vào chợ thì phạt một tấm màn. Vua một nước mà vào chợ thì kẻ tù nhân được đại xá. Chợ búa là chốn bụi bặm huyên náo, chỉ bọn trục lợi mới lui tới, không phải là nơi đặt chân của các bậc quân tử. Xét thấy vua, thế tử, mệnh phụ, vào chợ thì đều chịu phạt, huống chi nay Hoàng đế, Hoàng hậu, Phi tần, Công chúa là bậc tôn kính, sao dám thay đổi trang phục, đoàn đoàn lũ lũ đang đêm xông vào chốn nhơ bẩn. Xưa, ba nghìn cung nữ được ra khỏi cung cấm để về nhà là do chính lệnh tốt đẹp của Thái Tông Hoàng đế, nay bệ hạ đã không theo được vết xe tốt đẹp dường ấy mà còn buông thả hàng nghìn cung nữ tha hồ ra vào đi lại, để đến nỗi nhiều kẻ bỏ trốn không thể tra hỏi gì được. Vậy thì còn thể thống gì nữa? Vả lại cung phi không thể cho ra ở nhà riêng ngoài cấm thành được, mà bề tôi bên ngoài cũng không được phép ra vào nơi ở của cung phi. Những việc đó làm nhơ bẩn quốc thể, cúi xin bệ hạ thay đổi những lỗi lầm đó, ra ngay lệnh cấm nghiêm ngặt, kiểm soát người ra vào trong cung cấm, càng không nên làm chuyện rồng vàng đổi lốt cá trắng để tùy tiện dạo chơi, cũng không nên vô cớ tụ tập yến tiệc, để bọn a dua, xiểm nịnh ngâm bậy hát càn, nhất là lũ thù nhu, con hát trà trộn vào đám triều thần, trước mắt Hoàng đế, Hoàng hậu, Cung phi, Công chúa đùa giỡn thô tục không kiêng nể gì cả, khinh nhờn cả đấng chí tôn vạn thống, làm nhục cả đến trăm quan, gây nên sự bàn tán xôn xao ngoài dân chúng vậy.
Trung Tôn xem hết không nói, không ngự phê, không gọi vào hỏi han, cũng chẳng gì thay đổi cả. Tống Cảnh không biết làm thế nào. Vi Hoàng hậu thì ngày càng ngang ngược, chẳng sợ gì nữa. Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa từ lâu đã được phép Trung Tôn cũng xây các phủ đệ riêng bên ngoài, sắp đặt các viện riêng, đều là phường vô sỉ, hãnh tiến tìm đến để mong còn leo cao hơn nữa.
Trong phủ của An Lạc công chúa, có hai gã thiếu niên được chọn vào hàng tâm phúc, một gã họ Mã, tên Tần Khách, một gã họ Dương, tên Quân. Mã Tần Khách thì thông thạo một vài môn thuốc, còn Dương Quân lại thạo việc chế biến các món ăn. Cả hai lại đều có diện mạo rất đẹp, nên được An Lạc công chúa sủng ái, đem tiến cho Vi Hoàng hậu, lại được hoàng hậu rất thương yêu, vì vậy Tần Khách chẳng mấy chốc đã leo lên đến chức Tán kỵ thường thị. Dương Quân cũng được nhắc tới Quang lộc thiếu khanh.
Lúc này Thôi Thục cùng Tôn Sở Khách tư thông với Thượng Quan Uyển Nhi, rồi qua Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, trước mặt Trung Tôn, lấy lời ngon ngọt khen ngợi, rằng cả hai đáng giữ chức tể tướng. Trung Tôn liền thăng Sở Khách làm Trung thư lệnh. Thôi Thực làm Đông bình chương sự. Từ đó bọn tiểu nhân dắt đàn kéo lũ tham dự việc triều đình. Trong các chức quan lúc này, vẫn còn ba chỗ trống, lắm người dòm ngó, đứng ngồi không yên, chính là chức tể tướng, ngự sử và viên ngoại lang. Lại bộ thị lang Trịnh Am nắm quyền tuyển bổ, nổi tiếng tham lam bẩn thỉu. Có người tới xin bổ dụng, đeo một trăm đồng tiền vào giày, Am hỏi tại sao, người này thưa:
- Ngày nay việc lựa chọn quan chức, không có tiền không xong!
Am nghe xong, không nói gì. Trung Tôn cũng biết chuyện, nhưng lại nghe theo lời lẽ của bọn tiểu nhân, giao mặc mọi sự cho Lại Bộ. Lại thêm những sắc phong bằng chữ đen của Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa cùng Trường Minh công chúa, cả Thượng Quan Uyển Nhi cũng mặc sức cất nhắc quan chức.
Vua Đột Quyết là Mặc Xuyết, quấy nhiễu biên giới nhiều lần đánh bại tổng quản Sóc phương Trương Nhân Nguyên. Mặc Quyết lại ngầm liên kết với Sở Khách trong triều, hối lộ rất nhiều để Sở Khách cản trở việc bình định vùng biên cương. Giám sát ngự sử Thôi Uyển dâng sớ hạch tội ngay trước triều đình. Nguyên là phép nhà Đường, quan đại thần mà bị các quan đàn hặc, thì cứ đối mặt mà bàn cãi ngày trước mặt hoàng dế. Lần này Khách không ra đối chất, cố giấu mặt giận dữ, tâu rằng những chuyện này đều do Thôi Uyển vu cáo, Tống Cảnh mới lớn tiếng căn dặn:
- Sở Khách sao còn lớn tiếng cãi liều, rõ ràng đã phạm luật pháp triều đình.
Trung Tôn cũng phất tay áo, chẳng hỏi đến, chỉ lệnh cho Thôi Uyển cùng với Sở Khách kết là anh em để hòa giải mọi chuyện kiện cáo. Người đời kể lại, lấy đó làm chuyện cười cho vui, và gọi Trung Tôn là "Chủ hòa thiên tử”.
Lúc này xử sĩ (1) Vi Nguyệt Tương dâng sớ, nói thẳng chuyện Vũ Tam Tư vào nội cung tư thông, dễ sinh chuyện nghịch loạn. Vi Hoàng hậu nghe thế, nổi giận, khuyên Trung Tôn giết đi. Tống Cảnh thưa:
- Việc Vũ Tam Tư tư thông với nội cung, bệ hạ chưa tra xét chu đáo mà đã giết người dâng sớ, thì làm sao thiên hạ phục cho được. Nếu bệ hạ giết Nguyệt Tương, thì trước hết hãy giết thần đã? Nếu không, thần không thể nào vâng mệnh được!
1 Xử sĩ: kẻ có tiếng học hành chữ nghĩa nhưng không ra làm quan.
Trung Tôn truyền lệnh tha tội chết, nhưng bắt đi đày lâu dài mãi tận Lĩnh Nam.
Từ đó Trung Tôn trong lòng phiền não, hoài nghi, lệnh tra xét nghiêm ngặt việc ra vào cung cấm, bọn tiểu nhân do vậy không yên. Thái tử Trọng Tuấn thì sáng suốt đoán rằng, Trung Tôn do dự không quyết nên mọi việc sẽ chẳng ra sao. Ngay sau đó Ngụy Nguyên Trung vào nội điện trình diện. Trung Tôn liền đem dự định lập Thái nữ, phế Thái tử hỏi riêng. Nguyên Trung tâu:
- Thái tử hiện không làm điều gì thất đức. Sao bệ hạ coi nhẹ việc lớn của nước nhà. Xưa nay chưa từng có chuyện xưng Hoàng thái nữ cả. Vả lại nếu công chúa xưng là Hoàng thái nữ, thì phò mã xưng là gì bây giờ. Việc này theo hạ thần không nên vậy.
Trung Tôn nghe ra, mới bỏ không làm. Vi Hoàng hậu lẫn công chúa đều tức tối. An Lạc công chúa liền giục Vi Hoàng hậu mau giành lấy quyền chính, để mình được phong Hoàng thái nữ, nhưng nhất thời chưa lo liệu kịp.
Một hôm Dương Quân lo việc nấu nướng xong đem vào nội cung dâng. Vi Hoàng hậu nhân đó mới gọi vào mật thất, đuổi tất cả tả hữu, ngầm bàn mưu tính kế. Vi Hoàng hậu nói:
- Lão già này gần đây hay nghe lời bọn quan lại bên ngoài, nên có ý nghi ngờ mọi việc trong nội cung, điều này không thể không lo trước đi được.
Dương Quân thưa:
- Thần trông dáng mặt nương nương rực sáng như mặt ngọc vậy. Mai kia tất sẽ vinh hạnh phú quý không lường hết, nếu mà hoàng thượng trăm tuổi, thì tất là hoàng hậu ngự triều đường mà xưng "chế” vậy, có điều gì mà phải lo lắng nhiều?
Vi Hoàng hậu ngạc nhiên hỏi:
- Nếu như lão già đã nghi hoặc, ta làm sao để chờ được đến ngày lão ta trăm tuổi cho được?
Dương Quân trầm ngâm một lúc rồi cất lời:
- Nếu đúng như lời hoàng hậu, thì việc này phải dùng mưu mẹo mới xong được.
Vi Hoàng hậu ghé tai Dương Quân:
- Có loại thuốc nào thật tốt, có thể xong được việc này không?
Dương Quân thưa:
- Thuốc thì chỉ hỏi Tần Khách là có ngay. Nhưng việc này không phải là việc nhỏ, phải chọn đúng lúc mà làm. Không có dịp làm lại một lần nữa đâu.
Chính là:
Chẳng thân kẻ hiền lương phương chính
Chỉ học câu tuyết nguyệt phong vân.
Uyển Nhi lại bàn riêng với Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, tâu với Trung Tôn, xin cho Uyển Nhi được lập phủ đệ ở ngoài cung, để tiện cho các học sĩ lui tới bàn luận thơ văn, nhân đó mà những kẻ quan viên không chút phẩm hạnh, ra vào phủ đệ lén lút rất nhiều, những mong được tiến dẫn, được trọng dụng. Uyển Nhi nhân đó mà giao thiệp với bọn thiếu niên lanh lợi, đêm hôm dẫn vào nội cung, đi lại với Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, rất suồng sã. Lại thêm bọn triều thần như Thôi Thực, Tôn Sở Khách, trước thì đến với Uyển Nhi, sau trở thành tâm phúc của Vi Hoàng hậu cùng các công chúa.
Trung Tôn từ ngày xem đèn, lại quen thói thay đổi trang phục ra khỏi cung chơi, hoặc là đến phủ đệ của Uyển Nhi một mình, hoặc cũng đi chơi ngoài phố với Hoàng hậu, công chúa. Uyển Nhi từ ngày có phủ đệ ở bên ngoài, bọn cung nga sớm tối đi vào cửa cung coi sóc tha hồ phóng túng, mặc lời dị nghị, lại cũng chẳng ai dám thẳng thắn can gián. Chỉ riêng Hoàng môn thị lang Tống Cảnh dâng lên một mật sớ, đại lược như sau:
Hạ thần vừa nghe tiếng đồn ngoài phố rằng Thiên tử cùng Hoàng hậu, Phi tần, Công chúa cải trang trà trộn ra phường chợ để xem đèn, dân chúng trố mắt lấy làm lạ lắm! Lúc đầu hạ thần nghĩ rằng không thể có việc ấy được.
Sau đó mới rõ là lời đồn không sai, thần rất lấy làm kinh sợ. Sách "Chu lễ” dạy rằng: Phu nhân mà vào chợ thì bị phạt một bức trướng, quan khanh, đại phu, sỹ nhân mà vào chợ thì phạt một tấm màn. Vua một nước mà vào chợ thì kẻ tù nhân được đại xá. Chợ búa là chốn bụi bặm huyên náo, chỉ bọn trục lợi mới lui tới, không phải là nơi đặt chân của các bậc quân tử. Xét thấy vua, thế tử, mệnh phụ, vào chợ thì đều chịu phạt, huống chi nay Hoàng đế, Hoàng hậu, Phi tần, Công chúa là bậc tôn kính, sao dám thay đổi trang phục, đoàn đoàn lũ lũ đang đêm xông vào chốn nhơ bẩn. Xưa, ba nghìn cung nữ được ra khỏi cung cấm để về nhà là do chính lệnh tốt đẹp của Thái Tông Hoàng đế, nay bệ hạ đã không theo được vết xe tốt đẹp dường ấy mà còn buông thả hàng nghìn cung nữ tha hồ ra vào đi lại, để đến nỗi nhiều kẻ bỏ trốn không thể tra hỏi gì được. Vậy thì còn thể thống gì nữa? Vả lại cung phi không thể cho ra ở nhà riêng ngoài cấm thành được, mà bề tôi bên ngoài cũng không được phép ra vào nơi ở của cung phi. Những việc đó làm nhơ bẩn quốc thể, cúi xin bệ hạ thay đổi những lỗi lầm đó, ra ngay lệnh cấm nghiêm ngặt, kiểm soát người ra vào trong cung cấm, càng không nên làm chuyện rồng vàng đổi lốt cá trắng để tùy tiện dạo chơi, cũng không nên vô cớ tụ tập yến tiệc, để bọn a dua, xiểm nịnh ngâm bậy hát càn, nhất là lũ thù nhu, con hát trà trộn vào đám triều thần, trước mắt Hoàng đế, Hoàng hậu, Cung phi, Công chúa đùa giỡn thô tục không kiêng nể gì cả, khinh nhờn cả đấng chí tôn vạn thống, làm nhục cả đến trăm quan, gây nên sự bàn tán xôn xao ngoài dân chúng vậy.
Trung Tôn xem hết không nói, không ngự phê, không gọi vào hỏi han, cũng chẳng gì thay đổi cả. Tống Cảnh không biết làm thế nào. Vi Hoàng hậu thì ngày càng ngang ngược, chẳng sợ gì nữa. Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa từ lâu đã được phép Trung Tôn cũng xây các phủ đệ riêng bên ngoài, sắp đặt các viện riêng, đều là phường vô sỉ, hãnh tiến tìm đến để mong còn leo cao hơn nữa.
Trong phủ của An Lạc công chúa, có hai gã thiếu niên được chọn vào hàng tâm phúc, một gã họ Mã, tên Tần Khách, một gã họ Dương, tên Quân. Mã Tần Khách thì thông thạo một vài môn thuốc, còn Dương Quân lại thạo việc chế biến các món ăn. Cả hai lại đều có diện mạo rất đẹp, nên được An Lạc công chúa sủng ái, đem tiến cho Vi Hoàng hậu, lại được hoàng hậu rất thương yêu, vì vậy Tần Khách chẳng mấy chốc đã leo lên đến chức Tán kỵ thường thị. Dương Quân cũng được nhắc tới Quang lộc thiếu khanh.
Lúc này Thôi Thục cùng Tôn Sở Khách tư thông với Thượng Quan Uyển Nhi, rồi qua Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, trước mặt Trung Tôn, lấy lời ngon ngọt khen ngợi, rằng cả hai đáng giữ chức tể tướng. Trung Tôn liền thăng Sở Khách làm Trung thư lệnh. Thôi Thực làm Đông bình chương sự. Từ đó bọn tiểu nhân dắt đàn kéo lũ tham dự việc triều đình. Trong các chức quan lúc này, vẫn còn ba chỗ trống, lắm người dòm ngó, đứng ngồi không yên, chính là chức tể tướng, ngự sử và viên ngoại lang. Lại bộ thị lang Trịnh Am nắm quyền tuyển bổ, nổi tiếng tham lam bẩn thỉu. Có người tới xin bổ dụng, đeo một trăm đồng tiền vào giày, Am hỏi tại sao, người này thưa:
- Ngày nay việc lựa chọn quan chức, không có tiền không xong!
Am nghe xong, không nói gì. Trung Tôn cũng biết chuyện, nhưng lại nghe theo lời lẽ của bọn tiểu nhân, giao mặc mọi sự cho Lại Bộ. Lại thêm những sắc phong bằng chữ đen của Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa cùng Trường Minh công chúa, cả Thượng Quan Uyển Nhi cũng mặc sức cất nhắc quan chức.
Vua Đột Quyết là Mặc Xuyết, quấy nhiễu biên giới nhiều lần đánh bại tổng quản Sóc phương Trương Nhân Nguyên. Mặc Quyết lại ngầm liên kết với Sở Khách trong triều, hối lộ rất nhiều để Sở Khách cản trở việc bình định vùng biên cương. Giám sát ngự sử Thôi Uyển dâng sớ hạch tội ngay trước triều đình. Nguyên là phép nhà Đường, quan đại thần mà bị các quan đàn hặc, thì cứ đối mặt mà bàn cãi ngày trước mặt hoàng dế. Lần này Khách không ra đối chất, cố giấu mặt giận dữ, tâu rằng những chuyện này đều do Thôi Uyển vu cáo, Tống Cảnh mới lớn tiếng căn dặn:
- Sở Khách sao còn lớn tiếng cãi liều, rõ ràng đã phạm luật pháp triều đình.
Trung Tôn cũng phất tay áo, chẳng hỏi đến, chỉ lệnh cho Thôi Uyển cùng với Sở Khách kết là anh em để hòa giải mọi chuyện kiện cáo. Người đời kể lại, lấy đó làm chuyện cười cho vui, và gọi Trung Tôn là "Chủ hòa thiên tử”.
Lúc này xử sĩ (1) Vi Nguyệt Tương dâng sớ, nói thẳng chuyện Vũ Tam Tư vào nội cung tư thông, dễ sinh chuyện nghịch loạn. Vi Hoàng hậu nghe thế, nổi giận, khuyên Trung Tôn giết đi. Tống Cảnh thưa:
- Việc Vũ Tam Tư tư thông với nội cung, bệ hạ chưa tra xét chu đáo mà đã giết người dâng sớ, thì làm sao thiên hạ phục cho được. Nếu bệ hạ giết Nguyệt Tương, thì trước hết hãy giết thần đã? Nếu không, thần không thể nào vâng mệnh được!
1 Xử sĩ: kẻ có tiếng học hành chữ nghĩa nhưng không ra làm quan.
Trung Tôn truyền lệnh tha tội chết, nhưng bắt đi đày lâu dài mãi tận Lĩnh Nam.
Từ đó Trung Tôn trong lòng phiền não, hoài nghi, lệnh tra xét nghiêm ngặt việc ra vào cung cấm, bọn tiểu nhân do vậy không yên. Thái tử Trọng Tuấn thì sáng suốt đoán rằng, Trung Tôn do dự không quyết nên mọi việc sẽ chẳng ra sao. Ngay sau đó Ngụy Nguyên Trung vào nội điện trình diện. Trung Tôn liền đem dự định lập Thái nữ, phế Thái tử hỏi riêng. Nguyên Trung tâu:
- Thái tử hiện không làm điều gì thất đức. Sao bệ hạ coi nhẹ việc lớn của nước nhà. Xưa nay chưa từng có chuyện xưng Hoàng thái nữ cả. Vả lại nếu công chúa xưng là Hoàng thái nữ, thì phò mã xưng là gì bây giờ. Việc này theo hạ thần không nên vậy.
Trung Tôn nghe ra, mới bỏ không làm. Vi Hoàng hậu lẫn công chúa đều tức tối. An Lạc công chúa liền giục Vi Hoàng hậu mau giành lấy quyền chính, để mình được phong Hoàng thái nữ, nhưng nhất thời chưa lo liệu kịp.
Một hôm Dương Quân lo việc nấu nướng xong đem vào nội cung dâng. Vi Hoàng hậu nhân đó mới gọi vào mật thất, đuổi tất cả tả hữu, ngầm bàn mưu tính kế. Vi Hoàng hậu nói:
- Lão già này gần đây hay nghe lời bọn quan lại bên ngoài, nên có ý nghi ngờ mọi việc trong nội cung, điều này không thể không lo trước đi được.
Dương Quân thưa:
- Thần trông dáng mặt nương nương rực sáng như mặt ngọc vậy. Mai kia tất sẽ vinh hạnh phú quý không lường hết, nếu mà hoàng thượng trăm tuổi, thì tất là hoàng hậu ngự triều đường mà xưng "chế” vậy, có điều gì mà phải lo lắng nhiều?
Vi Hoàng hậu ngạc nhiên hỏi:
- Nếu như lão già đã nghi hoặc, ta làm sao để chờ được đến ngày lão ta trăm tuổi cho được?
Dương Quân trầm ngâm một lúc rồi cất lời:
- Nếu đúng như lời hoàng hậu, thì việc này phải dùng mưu mẹo mới xong được.
Vi Hoàng hậu ghé tai Dương Quân:
- Có loại thuốc nào thật tốt, có thể xong được việc này không?
Dương Quân thưa:
- Thuốc thì chỉ hỏi Tần Khách là có ngay. Nhưng việc này không phải là việc nhỏ, phải chọn đúng lúc mà làm. Không có dịp làm lại một lần nữa đâu.
***
Khoan nói hai đứa ngầm
bàn mưu tính kế, hãy nói chuyện Thái tử Trọng Tuấn, nghe được chuyện Vi Hoàng
hậu định mưu phế nghịch, trong lòng sợ hãi, lại thêm ngờ cả Tam Tư, Uyển Nhi
mưu hại, nên định làm trước để trừ nguy, liền cùng bọn liêu độc trong Đông cung
là Lý Đa Tộ, kéo ngự quân đến phủ đệ của Vũ Tam Tư, gặp ngay lúc Vũ Sùng Huấn
đang tiệc rượu ở đây, đều bị bắt gọn.
Thái tử rút kiếm mà chém, rồi lệnh quân sĩ băm nát thây. Tất cả già trẻ nam nữ trong phủ đều bị giết hết. Lại kéo binh lính tới phủ Uyển Nhi. Trung Tôn nghe tin hoảng sợ vô cùng, vội ra cửa Huyền Vũ, trèo lên lều cao, hiểu dụ quân sĩ, một mặt sai vi lệnh Dương Tư Trợ ra đánh Lý Đa Tộ. Đa Tộ thua, tự đâm cổ mà chết. Thái tử cũng bị giết trong đám loạn quân.
Chính là:
Thái tử trừ gian, thân bị hại
Anh hùng chớ kể việc thành bại
Cung cấm lúc đó mà quét xong.
Làm sao Lâm Truy sau thành công?
Vũ Sùng Huấn chết rồi, Trung Tôn liền lệnh cho Vũ Đình Tú nối làm phò mã, lấy An Lạc công chúa. Đình Tú chính là em ruột của Sùng Huấn, thế là em trai lấy chị dâu, luân thường bị quét sạch khỏi mặt đất. Từ đó Vi Hoàng hậu quyền hành càng lớn.
Lúc này Tham quân Hứa Chân Yên Khâm Dung dâng sớ, nói rõ việc Vi Hoàng hậu lộng quyền dâm loạn, bọn Tôn Sở Khách lắm mưu nghịch, nguy hại cho xã tắc. Trung Tôn xem xong, chưa kịp ngự phê, thì Vi Hoàng hậu dã ra lệnh giết ngay Yên Khâm Dung. Trung Tôn trong lòng bực tức, nhưng vẫn không hiện ra mặt. Vi Hoàng hậu càng nghi ngờ không yên, liền ngầm bàn với Dương Quân:
- Lão già càng ngày càng trở chứng. Hôm trước đã bàn tới việc dùng thuốc, nay nếu không làm gấp, tai họa không biết sẽ đến lúc nào mà lường.
Dương Quân thưa:
- Mã Tần Khách có một loại thuốc, uống vào thì bụng đau, nhưng miệng không nói được, nếu uống thêm nhân sâm vào, lập tức chết ngay, không để lại dấu vết gì cả.
Vi Hoàng hậu bèn nói:
- Nếu thế, hãy đem ngay thuốc vào đây!
Dương Quân cười nói:
- Sau khi công việc mà thành, phải phong cho thần làm Vũ An Quân!
Vi Hoàng hậu đáp:
- Không phải nhiều lời. Phú quý cùng hưởng?
Dương Quân liền cùng Mã Tần Khách lẻn đem thuốc độc vào cung. Vi Hoàng hậu biết rõ Trung Tôn thích ăn bánh bao nhân sữa, liền đem thuốc trộn vào làm nhân, thừa lúc Trung Tôn đang ngồi nhàn trên Thần Long điện, chưa dâng ngự thiện vội, tự thân mang bánh dâng lên, Trung Tôn ăn ngay mấy cái, ban đầu thấy bụng hơi đau, sau đó thì đau dữ dội, đứng ngồi không yên, lăn lộn trên giường.
Vi Hoàng hậu giả vờ kinh ngạc hỏi han, Trung Tôn không tài nào nói được đưa tay chỉ vào miệng. Vi Hoàng hậu vội sai ngay nội thị:
- Chúa thượng muốn uống nước, mau đem nước nhân sâm tới đây!
Thực ra nước nhân sâm cũng đã được sắp sẵn rồi. Vi Hoàng hậu cầm ngay lấy, đổ vào miệng Trung Tôn. Trung Tôn uống xong, liền không động đậy gì nữa, cứ thế đến chiều thì, Ô hô! Qua đời!
Chính là:
Thánh đế xưa đà đếm lịch quen
Ơn vua, nay bánh vội dâng lên
Thương thay chả chết vì tay bố
Lại chết vì tay bà vợ hiền.
Vi Hoàng hậu làm xong chuyện thí nghịch rồi, giữ kín không chịu phát tang. Thái Bình công chúa hay tin Trung Tôn chết đột ngột, biết ngay là có sự mờ ám, nhưng không biết làm thế nào để cho rõ ràng, nên đành phải yên lặng chờ xem, rồi cùng bàn với Uyển Nhi, thảo sẵn một di chiếu, ý muốn đưa Trương Vương lên ngôi. Nhưng Vi Hoàng hậu cùng An Lạc công chúa không chịu, đòi lập Ôn Vương Trọng Mậu. Di chiếu thảo xong liền gọi đại thần vào cung. Vi Hoàng hậu nói thác Trung Tôn mất đột ngột, có di chiếu lập Ôn Vương.
Lúc này Trọng Mậu mới mười lăm tuổi. Vi Hoàng hậu lâm triều nắm mọi việc. Tần Khách khuyên Vi Hoàng hậu bắt chước Vũ Tắc Thiên, lấy con cháu họ Vi nắm quyền binh mã trong ngoài. Sợ bọn Tương Vương cùng Thái Bình công chúa không chịu, nên muốn tìm cách trừ đi, để vọng tưởng tiếm ngôi cao. Việc này đã được bàn định, ước hẹn thời gian hẳn hoi, giữa Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa cùng bọn Đô tri binh mã sứ Vi ôn.
Nhưng rồi con thứ ba của Trương vương là Lâm Truy Vương Long Cơ, đã từng làm biệt giá ở Lộ Châu, bị bãi chức trở về kinh, nhân thấy bọn tiểu nhân ngang dọc, mới ngầm tụ tập bọn dũng sĩ, mưu đồ sự yên ổn cho xã tắc. Binh bộ thị lang là Thôi Nhật Dung vốn theo bọn họ Vi, nay cũng sợ tài thao lược của Long Cơ, lại thấy Sở Khách một mình nắm giữ mọi việc, biết bọn này có mưu thoán nghịch, sợ mai sau liên lụy đến thân mình; liền mật sai một nhà sư ở chùa Báo Lâm là Phổ Nhuận, tới chỗ Lâm Truy vương tố giác mọi chuyện. Lâm Truy vương cả sợ, lập tức báo cho Thái Bình công chúa biết. Mặt khác mật bàn với Nội Uyển tổng giám Chung Thiêu Kinh, Quả nghị hiệu úy Cát Phúc Thuận, Ngự sử Lưu U Cầu, Lý Tiên Phù, đều thấy phải khởi sự trước, diệt ngay lũ thoán nghịch, ai nấy đều sẵn sàng liều chết lập công. Thái Bình công chúa cũng sai ba con là Tiết Sùng Hạnh, Sùng Mẫn, Sùng Giản tới giúp. Cát Phúc Thuận còn khuyên:
- Hiền vương khởi sự, lẽ nên tấu rõ cho Tương Vương Điện hạ rõ !
Lâm Truy Vương đáp:
- Ta làm việc lớn này là vì xã tắc. Công việc thành thì thuộc về phụ vương, nếu như không, một thân ta chịu chết, không lụy đến người thân. Nay mà thưa trình, nếu được nghe thì đưa người thân vào nơi nguy hiểm, nếu phụ vương không nghe, thì hỏng cả kế lớn, chi bằng không tâu trình gì cả là hơn.
Rồi thay đổi trang phục, dẫn mọi người lẻn vào nội uyển gần nửa đêm, bỗng thấy sao sa như mưa. Lưu U Cầu thưa:
- Ý trời đã vậy, đừng để lỡ dịp!
Cát Phúc Thuận rút kiếm tranh đi trước, vào thẳng trại của Vũ lâm điển quân. Bọn Vi Ôn, Vi Tuyền, Vi Phán, Cao Tung... xuất kỳ bất ý, trở tay không kịp, đều bị Phúc Thuận giết chết. Lưu U Cầu hô lớn:
- Vi Hoàng hậu đánh thuốc độc giết chết tiên đế, mưu lật xã tắc. Đêm nay chúng ta hưng binh trừ diệt lũ thoán nghịch, lập Tương Vương để yên thiên hạ, kẻ nào ở hai lòng, mưu giúp bọn phản loạn, sẽ bị tội cả ba họ!
Bọn Vũ Lâm quân cúi đầu nghe theo, Lâm truy vương dẫn mọi người ra khỏi cửa Nam Uyển, Chung Thiệu Kinh dẫn hơn hai trăm người làm trong Nam Uyển, cầm búa xách dao đi theo, lại có thêm cả lũ vệ binh cũng tiếp ứng.
Lúc này linh cữu Trung Tôn vẫn quàn ở Thái Cực điện, nhưng không thấy Vi Hoàng hậu ở đó, Lâm Truy Vương lại kéo binh lính tới Huyền Vũ môn, phá cửa mà vào. Bọn quân sĩ túc trực bên linh cữu, hò hét ầm ĩ đi theo. Vi Hoàng hậu hoảng sợ, nhất thời chẳng biết cậy vào ai, chỉ kịp mặc một áo trong mỏng, chạy ra khỏi cửa điện, gặp ngay bọn Dương Quân, Mã Tần Khách. Vi Hoàng hậu vội kêu cứu, hai gã dìu hai bên, chạy đến Phi kỵ doanh, những hòng tạm lánh cho qua, nhưng bị ngay tướng sĩ trong doanh, chém ngay đầu Dương Quân lẫn Mã Tần Khách, rồi băm thịt nát nhừ như bùn. Vi Hoàng hậu vội van xin tha thiết, tất cả tướng sĩ đều lớn tiếng quát:
- Giết vua dâm dục, người người đều thù oán!
Nhất tề cầm dao xông lên chém loạn, Vi Hoàng hậu chết ngay dưới làn đao.
Lâm Truy vương thấy Vi Hoàng hậu đã bị giết, truyền lệnh quét sạch lũ trốn trong cung. Vũ Đình Tú cùng Vân Tòng ngủ trộm trong Ngọc thụ hiên, cũng bị Lý Tiên Phú bắt được, cho hai đứa mỗi đứa một búa. Lưu U Cầu kéo Thượng Quan Uyển Nhi đến trước mặt Lâm Truy vương. Có người tâu, kẻ đã từng cùng Thái Bình Công chúa thảo di chiếu, định lập Tương Vương, lẽ nên tha tội chết. Lâm Truy Vương đáp:
- Con tiện tỳ này vốn một phường yêu dâm, làm loạn nghịch trong nội cung, tội không thể tha vậy!
Lập tức đem chém, rồi sai Lưu U Cầu đi bắt An Lạc công chúa. Trời đã sáng rõ, An Lạc công chúa ở dinh thự riêng cách biệt hẳn, chẳng biết gì đến chuyện biến động này cả, mới trở dậy rửa mặt, tô mày trước gương, Lưu U Cầu dẫn mọi người kéo lên chém bừa, vỡ nát sọ mà chết. Tất cả già trẻ trong dinh cũng đều bị giết sạch. Tôn Sở Khách chạy trốn, ra đến cửa Thông Hóa, cũng bị tướng sĩ coi cửa bắt lại giải ngay ra chợ, chém ngang lưng. Trong ngoài thế là đều yên.
Lâm Truy vương liền đến lạy Tương Vương, tạ lỗi không tâu trình trước. Tương Vương nói:
- Xã tắc tôn miếu không đến nỗi nghiêng đổ đều là do công của con cả .
Bọn Lưu U Cầu mời Tương Vương lên ngôi. Ngay sáng hôm ấy lâm triều, Thiếu Đế Trọng Mậu lên trên điện, Thái Bình công chúa dắt tay khỏi ngai vàng mà rằng:
- Chỗ này không phải là chỗ của lũ trẻ con ngồi. Phải nhường ngay cho Tương Vương.
Thế rồi quần thần cùng tôn Tương Vương lên ngôi hoàng đế, là Duệ Tôn, đổi niên hiệu làm Cảnh Vân nguyên niên. Trọng Mậu lại quay về làm Ôn Vương. Phong Lâm Truy Vương làm Bình Vương, làm lễ tế cố Thái tử Trọng Tuấn, tặng hậu tuất cho Lý Đa Tộ, Yên Khâm Dung... Truy phục quan chức cho bọn năm người Trương Giản Thi, truy phế Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa làm thứ dân, lùng kỳ hết bè đảng họ Vi. Duy có Thôi Nhật Dung đã sớm ra đầu thú có công, vẫn cho giữ chức cũ, còn lại đều trị tội. Em gái Vi Hoàng hậu là Sùng Quốc phu nhân, vốn là vợ của Bí thư giám Vương Hỗ, Vương Hỗ sợ vì vợ mà mang họa, mới đánh thuốc độc giết chết vợ, rồi ra tự thú. Ngự sử đại phu Đậu Tông Nhất, vợ vốn là nhũ mẫu của Vi Hoàng hậu, tục vẫn gọi chồng nhũ mẫu là a xa. Đậu Tông Nhất ngày thường lưỡi uốn dẻo kẹo không hề biết xấu hổ, đến giờ cũng tự giết vợ mình rồi đem nạp quan.
Chính là:
Xưa nhờ thế vợ nổi uy danh
Giết vợ nay mang tiếng bạc tình
Học được chính tông Ngô Khởi dạy (1)
Bố nuôi, chú dượng trọng hay khinh?
1 Ngô Khởi: Người nước Vệ thời Đông Chu, một có tướng có tài, không đức. Hay tin mẹ chết không hề thương xót, Tăng Sâm đuổi không cho học nữa. Lỗ kéo quân đánh Tề, vua Lỗ sợ Ngô có vợ người Tề, sẽ không hết lòng. Ngô bèn giết vợ để được vua Lỗ dùng làm tướng. (Tầm nguyên tử điển).
Cảnh Vân nguyên niên, bàn việc lập Đông cung Thái tử, Duệ tôn thấy Tống Vương Thành Khí vẫn là trưởng đích đáng ở ngôi, nhưng Bình Vương Long Cơ lại có công lớn, nên do dự không quyết.
Tống Vương liền dập đầu, khóc mà thưa rằng:
- Từ xưa đến nay chọn ngôi Thái tử, lúc quốc gia yên thì lấy con đích trưởng, khi quốc gia nguy thì lấy công làm đầu. Nay Long Cơ có công với xã tắc, thần dẫu có chết cũng không dám ngồi trên.
Lưu U Cầu cũng thưa:
- Bình Vương có công lớn. Tống Vương đã có đức nhường nhịn, xin bệ hạ hãy đền đáp công lao của Bình Vương, cũng là để tác thành cho cái đức khiêm nhượng của Tống Vương vậy.
Duệ Tôn liền ban chỉ, lập Bình Vương Long Cơ làm Thái tử. Về sau có người làm thơ, ngợi ca sự hiền đức của Tống Vương như sau:
Con trưởng là để nối ngôi
Đáng khen lại biết nhường người có công
Kiến Thành xưa nếu rộng lòng
Thì anh em sống vuông tròn cùng nhau.
Không hiểu sự thể sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
Thái tử rút kiếm mà chém, rồi lệnh quân sĩ băm nát thây. Tất cả già trẻ nam nữ trong phủ đều bị giết hết. Lại kéo binh lính tới phủ Uyển Nhi. Trung Tôn nghe tin hoảng sợ vô cùng, vội ra cửa Huyền Vũ, trèo lên lều cao, hiểu dụ quân sĩ, một mặt sai vi lệnh Dương Tư Trợ ra đánh Lý Đa Tộ. Đa Tộ thua, tự đâm cổ mà chết. Thái tử cũng bị giết trong đám loạn quân.
Chính là:
Thái tử trừ gian, thân bị hại
Anh hùng chớ kể việc thành bại
Cung cấm lúc đó mà quét xong.
Làm sao Lâm Truy sau thành công?
Vũ Sùng Huấn chết rồi, Trung Tôn liền lệnh cho Vũ Đình Tú nối làm phò mã, lấy An Lạc công chúa. Đình Tú chính là em ruột của Sùng Huấn, thế là em trai lấy chị dâu, luân thường bị quét sạch khỏi mặt đất. Từ đó Vi Hoàng hậu quyền hành càng lớn.
Lúc này Tham quân Hứa Chân Yên Khâm Dung dâng sớ, nói rõ việc Vi Hoàng hậu lộng quyền dâm loạn, bọn Tôn Sở Khách lắm mưu nghịch, nguy hại cho xã tắc. Trung Tôn xem xong, chưa kịp ngự phê, thì Vi Hoàng hậu dã ra lệnh giết ngay Yên Khâm Dung. Trung Tôn trong lòng bực tức, nhưng vẫn không hiện ra mặt. Vi Hoàng hậu càng nghi ngờ không yên, liền ngầm bàn với Dương Quân:
- Lão già càng ngày càng trở chứng. Hôm trước đã bàn tới việc dùng thuốc, nay nếu không làm gấp, tai họa không biết sẽ đến lúc nào mà lường.
Dương Quân thưa:
- Mã Tần Khách có một loại thuốc, uống vào thì bụng đau, nhưng miệng không nói được, nếu uống thêm nhân sâm vào, lập tức chết ngay, không để lại dấu vết gì cả.
Vi Hoàng hậu bèn nói:
- Nếu thế, hãy đem ngay thuốc vào đây!
Dương Quân cười nói:
- Sau khi công việc mà thành, phải phong cho thần làm Vũ An Quân!
Vi Hoàng hậu đáp:
- Không phải nhiều lời. Phú quý cùng hưởng?
Dương Quân liền cùng Mã Tần Khách lẻn đem thuốc độc vào cung. Vi Hoàng hậu biết rõ Trung Tôn thích ăn bánh bao nhân sữa, liền đem thuốc trộn vào làm nhân, thừa lúc Trung Tôn đang ngồi nhàn trên Thần Long điện, chưa dâng ngự thiện vội, tự thân mang bánh dâng lên, Trung Tôn ăn ngay mấy cái, ban đầu thấy bụng hơi đau, sau đó thì đau dữ dội, đứng ngồi không yên, lăn lộn trên giường.
Vi Hoàng hậu giả vờ kinh ngạc hỏi han, Trung Tôn không tài nào nói được đưa tay chỉ vào miệng. Vi Hoàng hậu vội sai ngay nội thị:
- Chúa thượng muốn uống nước, mau đem nước nhân sâm tới đây!
Thực ra nước nhân sâm cũng đã được sắp sẵn rồi. Vi Hoàng hậu cầm ngay lấy, đổ vào miệng Trung Tôn. Trung Tôn uống xong, liền không động đậy gì nữa, cứ thế đến chiều thì, Ô hô! Qua đời!
Chính là:
Thánh đế xưa đà đếm lịch quen
Ơn vua, nay bánh vội dâng lên
Thương thay chả chết vì tay bố
Lại chết vì tay bà vợ hiền.
Vi Hoàng hậu làm xong chuyện thí nghịch rồi, giữ kín không chịu phát tang. Thái Bình công chúa hay tin Trung Tôn chết đột ngột, biết ngay là có sự mờ ám, nhưng không biết làm thế nào để cho rõ ràng, nên đành phải yên lặng chờ xem, rồi cùng bàn với Uyển Nhi, thảo sẵn một di chiếu, ý muốn đưa Trương Vương lên ngôi. Nhưng Vi Hoàng hậu cùng An Lạc công chúa không chịu, đòi lập Ôn Vương Trọng Mậu. Di chiếu thảo xong liền gọi đại thần vào cung. Vi Hoàng hậu nói thác Trung Tôn mất đột ngột, có di chiếu lập Ôn Vương.
Lúc này Trọng Mậu mới mười lăm tuổi. Vi Hoàng hậu lâm triều nắm mọi việc. Tần Khách khuyên Vi Hoàng hậu bắt chước Vũ Tắc Thiên, lấy con cháu họ Vi nắm quyền binh mã trong ngoài. Sợ bọn Tương Vương cùng Thái Bình công chúa không chịu, nên muốn tìm cách trừ đi, để vọng tưởng tiếm ngôi cao. Việc này đã được bàn định, ước hẹn thời gian hẳn hoi, giữa Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa cùng bọn Đô tri binh mã sứ Vi ôn.
Nhưng rồi con thứ ba của Trương vương là Lâm Truy Vương Long Cơ, đã từng làm biệt giá ở Lộ Châu, bị bãi chức trở về kinh, nhân thấy bọn tiểu nhân ngang dọc, mới ngầm tụ tập bọn dũng sĩ, mưu đồ sự yên ổn cho xã tắc. Binh bộ thị lang là Thôi Nhật Dung vốn theo bọn họ Vi, nay cũng sợ tài thao lược của Long Cơ, lại thấy Sở Khách một mình nắm giữ mọi việc, biết bọn này có mưu thoán nghịch, sợ mai sau liên lụy đến thân mình; liền mật sai một nhà sư ở chùa Báo Lâm là Phổ Nhuận, tới chỗ Lâm Truy vương tố giác mọi chuyện. Lâm Truy vương cả sợ, lập tức báo cho Thái Bình công chúa biết. Mặt khác mật bàn với Nội Uyển tổng giám Chung Thiêu Kinh, Quả nghị hiệu úy Cát Phúc Thuận, Ngự sử Lưu U Cầu, Lý Tiên Phù, đều thấy phải khởi sự trước, diệt ngay lũ thoán nghịch, ai nấy đều sẵn sàng liều chết lập công. Thái Bình công chúa cũng sai ba con là Tiết Sùng Hạnh, Sùng Mẫn, Sùng Giản tới giúp. Cát Phúc Thuận còn khuyên:
- Hiền vương khởi sự, lẽ nên tấu rõ cho Tương Vương Điện hạ rõ !
Lâm Truy Vương đáp:
- Ta làm việc lớn này là vì xã tắc. Công việc thành thì thuộc về phụ vương, nếu như không, một thân ta chịu chết, không lụy đến người thân. Nay mà thưa trình, nếu được nghe thì đưa người thân vào nơi nguy hiểm, nếu phụ vương không nghe, thì hỏng cả kế lớn, chi bằng không tâu trình gì cả là hơn.
Rồi thay đổi trang phục, dẫn mọi người lẻn vào nội uyển gần nửa đêm, bỗng thấy sao sa như mưa. Lưu U Cầu thưa:
- Ý trời đã vậy, đừng để lỡ dịp!
Cát Phúc Thuận rút kiếm tranh đi trước, vào thẳng trại của Vũ lâm điển quân. Bọn Vi Ôn, Vi Tuyền, Vi Phán, Cao Tung... xuất kỳ bất ý, trở tay không kịp, đều bị Phúc Thuận giết chết. Lưu U Cầu hô lớn:
- Vi Hoàng hậu đánh thuốc độc giết chết tiên đế, mưu lật xã tắc. Đêm nay chúng ta hưng binh trừ diệt lũ thoán nghịch, lập Tương Vương để yên thiên hạ, kẻ nào ở hai lòng, mưu giúp bọn phản loạn, sẽ bị tội cả ba họ!
Bọn Vũ Lâm quân cúi đầu nghe theo, Lâm truy vương dẫn mọi người ra khỏi cửa Nam Uyển, Chung Thiệu Kinh dẫn hơn hai trăm người làm trong Nam Uyển, cầm búa xách dao đi theo, lại có thêm cả lũ vệ binh cũng tiếp ứng.
Lúc này linh cữu Trung Tôn vẫn quàn ở Thái Cực điện, nhưng không thấy Vi Hoàng hậu ở đó, Lâm Truy Vương lại kéo binh lính tới Huyền Vũ môn, phá cửa mà vào. Bọn quân sĩ túc trực bên linh cữu, hò hét ầm ĩ đi theo. Vi Hoàng hậu hoảng sợ, nhất thời chẳng biết cậy vào ai, chỉ kịp mặc một áo trong mỏng, chạy ra khỏi cửa điện, gặp ngay bọn Dương Quân, Mã Tần Khách. Vi Hoàng hậu vội kêu cứu, hai gã dìu hai bên, chạy đến Phi kỵ doanh, những hòng tạm lánh cho qua, nhưng bị ngay tướng sĩ trong doanh, chém ngay đầu Dương Quân lẫn Mã Tần Khách, rồi băm thịt nát nhừ như bùn. Vi Hoàng hậu vội van xin tha thiết, tất cả tướng sĩ đều lớn tiếng quát:
- Giết vua dâm dục, người người đều thù oán!
Nhất tề cầm dao xông lên chém loạn, Vi Hoàng hậu chết ngay dưới làn đao.
Lâm Truy vương thấy Vi Hoàng hậu đã bị giết, truyền lệnh quét sạch lũ trốn trong cung. Vũ Đình Tú cùng Vân Tòng ngủ trộm trong Ngọc thụ hiên, cũng bị Lý Tiên Phú bắt được, cho hai đứa mỗi đứa một búa. Lưu U Cầu kéo Thượng Quan Uyển Nhi đến trước mặt Lâm Truy vương. Có người tâu, kẻ đã từng cùng Thái Bình Công chúa thảo di chiếu, định lập Tương Vương, lẽ nên tha tội chết. Lâm Truy Vương đáp:
- Con tiện tỳ này vốn một phường yêu dâm, làm loạn nghịch trong nội cung, tội không thể tha vậy!
Lập tức đem chém, rồi sai Lưu U Cầu đi bắt An Lạc công chúa. Trời đã sáng rõ, An Lạc công chúa ở dinh thự riêng cách biệt hẳn, chẳng biết gì đến chuyện biến động này cả, mới trở dậy rửa mặt, tô mày trước gương, Lưu U Cầu dẫn mọi người kéo lên chém bừa, vỡ nát sọ mà chết. Tất cả già trẻ trong dinh cũng đều bị giết sạch. Tôn Sở Khách chạy trốn, ra đến cửa Thông Hóa, cũng bị tướng sĩ coi cửa bắt lại giải ngay ra chợ, chém ngang lưng. Trong ngoài thế là đều yên.
Lâm Truy vương liền đến lạy Tương Vương, tạ lỗi không tâu trình trước. Tương Vương nói:
- Xã tắc tôn miếu không đến nỗi nghiêng đổ đều là do công của con cả .
Bọn Lưu U Cầu mời Tương Vương lên ngôi. Ngay sáng hôm ấy lâm triều, Thiếu Đế Trọng Mậu lên trên điện, Thái Bình công chúa dắt tay khỏi ngai vàng mà rằng:
- Chỗ này không phải là chỗ của lũ trẻ con ngồi. Phải nhường ngay cho Tương Vương.
Thế rồi quần thần cùng tôn Tương Vương lên ngôi hoàng đế, là Duệ Tôn, đổi niên hiệu làm Cảnh Vân nguyên niên. Trọng Mậu lại quay về làm Ôn Vương. Phong Lâm Truy Vương làm Bình Vương, làm lễ tế cố Thái tử Trọng Tuấn, tặng hậu tuất cho Lý Đa Tộ, Yên Khâm Dung... Truy phục quan chức cho bọn năm người Trương Giản Thi, truy phế Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa làm thứ dân, lùng kỳ hết bè đảng họ Vi. Duy có Thôi Nhật Dung đã sớm ra đầu thú có công, vẫn cho giữ chức cũ, còn lại đều trị tội. Em gái Vi Hoàng hậu là Sùng Quốc phu nhân, vốn là vợ của Bí thư giám Vương Hỗ, Vương Hỗ sợ vì vợ mà mang họa, mới đánh thuốc độc giết chết vợ, rồi ra tự thú. Ngự sử đại phu Đậu Tông Nhất, vợ vốn là nhũ mẫu của Vi Hoàng hậu, tục vẫn gọi chồng nhũ mẫu là a xa. Đậu Tông Nhất ngày thường lưỡi uốn dẻo kẹo không hề biết xấu hổ, đến giờ cũng tự giết vợ mình rồi đem nạp quan.
Chính là:
Xưa nhờ thế vợ nổi uy danh
Giết vợ nay mang tiếng bạc tình
Học được chính tông Ngô Khởi dạy (1)
Bố nuôi, chú dượng trọng hay khinh?
1 Ngô Khởi: Người nước Vệ thời Đông Chu, một có tướng có tài, không đức. Hay tin mẹ chết không hề thương xót, Tăng Sâm đuổi không cho học nữa. Lỗ kéo quân đánh Tề, vua Lỗ sợ Ngô có vợ người Tề, sẽ không hết lòng. Ngô bèn giết vợ để được vua Lỗ dùng làm tướng. (Tầm nguyên tử điển).
Cảnh Vân nguyên niên, bàn việc lập Đông cung Thái tử, Duệ tôn thấy Tống Vương Thành Khí vẫn là trưởng đích đáng ở ngôi, nhưng Bình Vương Long Cơ lại có công lớn, nên do dự không quyết.
Tống Vương liền dập đầu, khóc mà thưa rằng:
- Từ xưa đến nay chọn ngôi Thái tử, lúc quốc gia yên thì lấy con đích trưởng, khi quốc gia nguy thì lấy công làm đầu. Nay Long Cơ có công với xã tắc, thần dẫu có chết cũng không dám ngồi trên.
Lưu U Cầu cũng thưa:
- Bình Vương có công lớn. Tống Vương đã có đức nhường nhịn, xin bệ hạ hãy đền đáp công lao của Bình Vương, cũng là để tác thành cho cái đức khiêm nhượng của Tống Vương vậy.
Duệ Tôn liền ban chỉ, lập Bình Vương Long Cơ làm Thái tử. Về sau có người làm thơ, ngợi ca sự hiền đức của Tống Vương như sau:
Con trưởng là để nối ngôi
Đáng khen lại biết nhường người có công
Kiến Thành xưa nếu rộng lòng
Thì anh em sống vuông tròn cùng nhau.
Không hiểu sự thể sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
HỒI 78
Thượng hoàng tốt, không cứu nổi công chúa hư,
Trương Duyệt sống, phải chịu thua Diêu Sùng chết.
Từ rằng:
Tên là công chúa Thái Bình
Cái tên thật đẹp, thật lành lắm thay
Thế mà chẳng được mảy may
Ác nghiệt chứa đầy, trời quyết chẳng dung
Khách thì cát, chủ thì hung
Chè rượu tiệc tùng rằng phụng mệnh vua
Bài văn kia đại hùng từ
Đã bị người chết toan lo trước rồi
Theo điệu “Giám tự Mộc lan hoa"
Bốn chữ tửu, sắc, tài, khí, người ta đều muốn thoát ra nhưng cũng chẳng được. Trong bốn chữ này, thì hai chữ tài, sắc lại đứng hàng đầu, vô luận phú quý, bần tiện thông minh, ngu độn, chẳng ai thoát khỏi hiếu sắc, tham tài. Về việc tham tài chính là ở chỗ keo kiệt với cái mình có, muốn lấy cái của người khác, để rồi bị người khác lung lạc mà không tự biết. Còn kẻ hiếu sắc, chẳng kể đàn ông say mê vẻ đẹp của đàn bà, hay đàn bà say đàn ông. Đàn ông thích đàn bà, còn có điều khả dĩ, ngược lại đàn bà si mê đàn ông, đến nỗi quên cả liêm sỉ, táng tận lương tâm, bại hoại luân thường như Vũ Tắc Thiên, Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa, Thái Bình công chúa thì thật là ..
Tên là công chúa Thái Bình
Cái tên thật đẹp, thật lành lắm thay
Thế mà chẳng được mảy may
Ác nghiệt chứa đầy, trời quyết chẳng dung
Khách thì cát, chủ thì hung
Chè rượu tiệc tùng rằng phụng mệnh vua
Bài văn kia đại hùng từ
Đã bị người chết toan lo trước rồi
Theo điệu “Giám tự Mộc lan hoa"
Bốn chữ tửu, sắc, tài, khí, người ta đều muốn thoát ra nhưng cũng chẳng được. Trong bốn chữ này, thì hai chữ tài, sắc lại đứng hàng đầu, vô luận phú quý, bần tiện thông minh, ngu độn, chẳng ai thoát khỏi hiếu sắc, tham tài. Về việc tham tài chính là ở chỗ keo kiệt với cái mình có, muốn lấy cái của người khác, để rồi bị người khác lung lạc mà không tự biết. Còn kẻ hiếu sắc, chẳng kể đàn ông say mê vẻ đẹp của đàn bà, hay đàn bà say đàn ông. Đàn ông thích đàn bà, còn có điều khả dĩ, ngược lại đàn bà si mê đàn ông, đến nỗi quên cả liêm sỉ, táng tận lương tâm, bại hoại luân thường như Vũ Tắc Thiên, Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa, Thái Bình công chúa thì thật là ..
***
Hãy nói chuyện Thái
Bình công chúa, cùng góp tay với Thái tử Long Cơ để diệt trừ Vi Hoàng hậu, lập
Duệ Tôn lên ngôi hoàng đế, quả có công lớn. Duệ Tôn cũng vì coi trọng công lao
đó, thêm là họ hàng gần gũi, nên càng thương yêu.
Công chúa vốn thông minh, nhiều mưu mẹo quyền biến. Phàm công việc triều đình, Duệ Tôn đều bàn bạc với công chúa. Từ ngôi tể tướng trở xuống, dựng nên hoặc hạ xuống, đều chỉ quan hệ bởi một lời. Những kẻ xu thời, muốn tìm đường tiến thân, chen vai thích cánh trước công chúa đông như chợ. Tiết Sùng Hạnh, Sùng Giản, Sùng Mẫn, đều được phong vương, dinh thự vườn rộng rải khắp trong ngoài kinh thành.
Công chúa dựa vào việc được sủng ái, ngày càng lộng quyền kiêu sa phóng túng, ngầm kéo bọn thiếu niên đẹp trai vào trong phủ để cùng dâm loạn.
Lại thêm bọn sư hổ mang Tuệ Phạm, ngày càng được yêu chìu. Cả lũ này toàn bọn tiểu nhân, dựa thế tác oai, tác quái, làm tình làm tội dân chúng trăm chiều. Cũng may, trong triều lúc này cũng còn những đại thần chính trực như Diều Sùng, Tống Cảnh... vốn đường đường ngay thẳng, không sợ quyền gian, lại có Thái tử Long Cơ, nghiêm minh anh tuấn, lũ gian tham này vẫn ít nhiều sợ sệt mà không dám quá ngang ngược trắng trợn mười phần.
Lại nói Thái tử vốn là người có công dùng binh lính để dẹp loạn, nên dẫu lúc thái bình, vẫn không quên việc khí giới. Một hôm, nhàn rỗi, mới dẫn bọn nội thị lẫn quân sĩ hộ vệ Đông cung ra ngoài thành đi săn. Đến vùng đồi núi rộng ngoài thành, theo lệnh Thái tử, ai nấy bắn cung, thả chim săn, chó nòi, huyên náo một hồi, chim thú săn được không kể hết. Đang lúc ruổi ngựa say mê, thấy một con chương màu vàng óng (1) cứ men sườn núi mà chạy, Thái tử rượt ngựa đuổi bắn một mũi tên, không trúng, con chương càng chạy nhanh hơn. Thái tử nhất định không bỏ, theo sát con vật. Bỗng đến rìa một thôn nhỏ, không thấy con chương đâu nữa, lại thấy một phụ nữ, đang hái chè ngay sườn đồi. Thái tử dừng ngựa hỏi:
- Người có thấy một con chương màu vàng chạy qua đây không?
1 Chương giống như hươu nhưng nhỏ hơn, không có sừng, lọng vàng, rất phổ biến ở rừng núi Trung Quốc, Việt Nam (Thiều Chửu).
Người này chẳng đáp một lời, lặng lẽ hái chè. Lúc bấy giờ Thái tử chỉ thấy có hai tên nội thị theo kịp, một tên lớn tiếng quát:
- Con này cả gan thật, tại sao điện hạ hỏi ngươi, mà ngươi dám không trả lời một câu là sao?
Người phụ nữ không hề hoảng sợ, đưa tay chỉ ruộng chè xung quanh mình:
- Ta trong lòng chỉ biết có chè, chứ có biết con chương nào, điện hạ nào?
Nói rồi khoác giỏ, thong thả bước vào cổng tre sơ sài. Thái tử thấy cử chỉ khác thường, liền ra hiệu cho nội thị không được quát nạt, nhìn vào trong cảnh vườn thật là u nhã đáng yêu.
Đang lúc nhìn ngó, thì một thư sinh, cưỡi lừa ở đâu về cổng, thấy Thái tử đầu đội mũ kim, thân khoác hoàng bào, biết ngay là bậc quý nhân, vội vàng xuống ngựa cúi chào. Nội thị cất tiếng:
- Đây chính là Đông cung điện hạ?
Thư sinh bái lạy, thưa:
- Kẻ quê mùa này, không biết điện hạ giáng lâm, không kịp nghênh tiếp, xin điện hạ tha tội.
Thái tử đáp:
- Ta nhân đi săn, không ngờ tới đây!
Rồi chỉ ra cổng tre mà hỏi:
- Đây có phải nhà khanh chăng?
Thư sinh thưa:
- Thần hiện nương tạm ở đây, nhà lá vách nứa, nếu được điện hạ dừng ngựa nghỉ ngơi, thì thật lấy làm vinh hạnh.
Thái tử nghe nói, lập tức xuống ngựa tiến vào cổng, hoa lá tốt tươi sân thềm thanh nhã. Vào tới thảo đường, sách vở đầy án, kiếm cung, đàn nguyệt treo đầy vách trông rất đẹp mắt, gọn gàng. Thái tử trong lòng vui vẻ ngồi xuống, mới hỏi tên tuổi, thư sinh đáp:
- Thần họ Vương, tên Cư, nguyên là người Hà Nam.
Thái tử tiếp:
- Xem khanh dung mạo hiên ngang, nhà cửa phi phàm nhất định là bậc danh sĩ. Vừa rồi lại thấy người đàn bà hái chè, ngôn từ kín đáo, liệu có phải hiền thê của khanh chăng?
Vương Cư cúi đầu thưa:
- Đàn bà quê mùa, không biết thưa gửi, tội thật đáng chết.
Thái tử cười nói:
- Nhà khanh có nghề trồng chè, tất có trà ngon uống, hãy cho ta một chén giải cơn khát xem sao?
Vương Cư lĩnh mệnh, vội vào nhà trong. Thái tử ngẫu nhiên lật xem sách vở trên án, thấy trong một quyển sách, kẹp một tờ giấy, thì ra là thư của Diều Sùng, tự tay viết khuyên Vương Cư ra làm quan đại để như sau:
"Túc hạ tài năng kỳ vĩ, lâu nay Diều Sùng này đã được biết.
May gặp buổi ra giúp đời thật tốt, thật cơ hội hiếm có vậy. Nếu cứ bo bo cất giữ ngọc quý trong rương hòm, thật uổng phí tài năng, không phải là điều đáng trông mong ở bậc chí sĩ vậy.
Một câu gửi tới
Đừng ngại đổi thay. "
Thái tử xem xong, lại bỏ vào trong sách như cũ, lòng nghĩ:
"Người này vốn đi lại với Diều Sùng, lại được Diều Sùng kính mộ thế này, tất là người có tài lạ chăng?".
Vương Cư bưng trà ra dâng lên. Thái tử uống một chén, Thái tử ban cho Vương Cư ngồi rồi hỏi:
- Kẻ sĩ ôm tài, bao giờ cũng muốn thi thố, mà còn phải nghĩ tới chuyện ra cửa cho kịp thời, sao lại cứ mai danh ẩn tích mãi ở chốn hoang dã.
Vương Cư thưa:
- Đại phàm kẻ sĩ khi ra về, không thể cẩu thả, phải xem xét thời thế, mới có thể thi thố được cái chí của mình, mà chỉ cần một lần ra khỏi cửa là đủ. Thần nghe cổ nhân nói: "Quay lui thì dễ, nhưng bước ra thì phải thận trọng”. Nên không dám coi thường việc ra khỏi cửa, chứ đâu dám nằm cao ở ẩn mà cao ngạo với đời.
Thái tử gật đầu đáp:
- Khanh đúng là có phẩm tiết của kẻ sĩ vậy!
Đang lúc trò chuyện, đội tùy tòng rầm rầm rộ rộ kéo đến, Thái tử đứng dậy ra cửa, Vương Cư đưa tiễn tận cổng ngoài. Thái tử lên ngựa, trân trọng từ biệt. Chuyện không nói nữa.
Công chúa vốn thông minh, nhiều mưu mẹo quyền biến. Phàm công việc triều đình, Duệ Tôn đều bàn bạc với công chúa. Từ ngôi tể tướng trở xuống, dựng nên hoặc hạ xuống, đều chỉ quan hệ bởi một lời. Những kẻ xu thời, muốn tìm đường tiến thân, chen vai thích cánh trước công chúa đông như chợ. Tiết Sùng Hạnh, Sùng Giản, Sùng Mẫn, đều được phong vương, dinh thự vườn rộng rải khắp trong ngoài kinh thành.
Công chúa dựa vào việc được sủng ái, ngày càng lộng quyền kiêu sa phóng túng, ngầm kéo bọn thiếu niên đẹp trai vào trong phủ để cùng dâm loạn.
Lại thêm bọn sư hổ mang Tuệ Phạm, ngày càng được yêu chìu. Cả lũ này toàn bọn tiểu nhân, dựa thế tác oai, tác quái, làm tình làm tội dân chúng trăm chiều. Cũng may, trong triều lúc này cũng còn những đại thần chính trực như Diều Sùng, Tống Cảnh... vốn đường đường ngay thẳng, không sợ quyền gian, lại có Thái tử Long Cơ, nghiêm minh anh tuấn, lũ gian tham này vẫn ít nhiều sợ sệt mà không dám quá ngang ngược trắng trợn mười phần.
Lại nói Thái tử vốn là người có công dùng binh lính để dẹp loạn, nên dẫu lúc thái bình, vẫn không quên việc khí giới. Một hôm, nhàn rỗi, mới dẫn bọn nội thị lẫn quân sĩ hộ vệ Đông cung ra ngoài thành đi săn. Đến vùng đồi núi rộng ngoài thành, theo lệnh Thái tử, ai nấy bắn cung, thả chim săn, chó nòi, huyên náo một hồi, chim thú săn được không kể hết. Đang lúc ruổi ngựa say mê, thấy một con chương màu vàng óng (1) cứ men sườn núi mà chạy, Thái tử rượt ngựa đuổi bắn một mũi tên, không trúng, con chương càng chạy nhanh hơn. Thái tử nhất định không bỏ, theo sát con vật. Bỗng đến rìa một thôn nhỏ, không thấy con chương đâu nữa, lại thấy một phụ nữ, đang hái chè ngay sườn đồi. Thái tử dừng ngựa hỏi:
- Người có thấy một con chương màu vàng chạy qua đây không?
1 Chương giống như hươu nhưng nhỏ hơn, không có sừng, lọng vàng, rất phổ biến ở rừng núi Trung Quốc, Việt Nam (Thiều Chửu).
Người này chẳng đáp một lời, lặng lẽ hái chè. Lúc bấy giờ Thái tử chỉ thấy có hai tên nội thị theo kịp, một tên lớn tiếng quát:
- Con này cả gan thật, tại sao điện hạ hỏi ngươi, mà ngươi dám không trả lời một câu là sao?
Người phụ nữ không hề hoảng sợ, đưa tay chỉ ruộng chè xung quanh mình:
- Ta trong lòng chỉ biết có chè, chứ có biết con chương nào, điện hạ nào?
Nói rồi khoác giỏ, thong thả bước vào cổng tre sơ sài. Thái tử thấy cử chỉ khác thường, liền ra hiệu cho nội thị không được quát nạt, nhìn vào trong cảnh vườn thật là u nhã đáng yêu.
Đang lúc nhìn ngó, thì một thư sinh, cưỡi lừa ở đâu về cổng, thấy Thái tử đầu đội mũ kim, thân khoác hoàng bào, biết ngay là bậc quý nhân, vội vàng xuống ngựa cúi chào. Nội thị cất tiếng:
- Đây chính là Đông cung điện hạ?
Thư sinh bái lạy, thưa:
- Kẻ quê mùa này, không biết điện hạ giáng lâm, không kịp nghênh tiếp, xin điện hạ tha tội.
Thái tử đáp:
- Ta nhân đi săn, không ngờ tới đây!
Rồi chỉ ra cổng tre mà hỏi:
- Đây có phải nhà khanh chăng?
Thư sinh thưa:
- Thần hiện nương tạm ở đây, nhà lá vách nứa, nếu được điện hạ dừng ngựa nghỉ ngơi, thì thật lấy làm vinh hạnh.
Thái tử nghe nói, lập tức xuống ngựa tiến vào cổng, hoa lá tốt tươi sân thềm thanh nhã. Vào tới thảo đường, sách vở đầy án, kiếm cung, đàn nguyệt treo đầy vách trông rất đẹp mắt, gọn gàng. Thái tử trong lòng vui vẻ ngồi xuống, mới hỏi tên tuổi, thư sinh đáp:
- Thần họ Vương, tên Cư, nguyên là người Hà Nam.
Thái tử tiếp:
- Xem khanh dung mạo hiên ngang, nhà cửa phi phàm nhất định là bậc danh sĩ. Vừa rồi lại thấy người đàn bà hái chè, ngôn từ kín đáo, liệu có phải hiền thê của khanh chăng?
Vương Cư cúi đầu thưa:
- Đàn bà quê mùa, không biết thưa gửi, tội thật đáng chết.
Thái tử cười nói:
- Nhà khanh có nghề trồng chè, tất có trà ngon uống, hãy cho ta một chén giải cơn khát xem sao?
Vương Cư lĩnh mệnh, vội vào nhà trong. Thái tử ngẫu nhiên lật xem sách vở trên án, thấy trong một quyển sách, kẹp một tờ giấy, thì ra là thư của Diều Sùng, tự tay viết khuyên Vương Cư ra làm quan đại để như sau:
"Túc hạ tài năng kỳ vĩ, lâu nay Diều Sùng này đã được biết.
May gặp buổi ra giúp đời thật tốt, thật cơ hội hiếm có vậy. Nếu cứ bo bo cất giữ ngọc quý trong rương hòm, thật uổng phí tài năng, không phải là điều đáng trông mong ở bậc chí sĩ vậy.
Một câu gửi tới
Đừng ngại đổi thay. "
Thái tử xem xong, lại bỏ vào trong sách như cũ, lòng nghĩ:
"Người này vốn đi lại với Diều Sùng, lại được Diều Sùng kính mộ thế này, tất là người có tài lạ chăng?".
Vương Cư bưng trà ra dâng lên. Thái tử uống một chén, Thái tử ban cho Vương Cư ngồi rồi hỏi:
- Kẻ sĩ ôm tài, bao giờ cũng muốn thi thố, mà còn phải nghĩ tới chuyện ra cửa cho kịp thời, sao lại cứ mai danh ẩn tích mãi ở chốn hoang dã.
Vương Cư thưa:
- Đại phàm kẻ sĩ khi ra về, không thể cẩu thả, phải xem xét thời thế, mới có thể thi thố được cái chí của mình, mà chỉ cần một lần ra khỏi cửa là đủ. Thần nghe cổ nhân nói: "Quay lui thì dễ, nhưng bước ra thì phải thận trọng”. Nên không dám coi thường việc ra khỏi cửa, chứ đâu dám nằm cao ở ẩn mà cao ngạo với đời.
Thái tử gật đầu đáp:
- Khanh đúng là có phẩm tiết của kẻ sĩ vậy!
Đang lúc trò chuyện, đội tùy tòng rầm rầm rộ rộ kéo đến, Thái tử đứng dậy ra cửa, Vương Cư đưa tiễn tận cổng ngoài. Thái tử lên ngựa, trân trọng từ biệt. Chuyện không nói nữa.
***
Hãy nói chuyện Thái
Bình công chúa, sợ Thái tử anh minh, nên định lập kế phế bỏ, ngày đêm xiểm nịnh
Duệ Tôn, kể nhiều tội Thái tử cả việc mưu kết nhân tâm, định làm những việc
không lường tới. Duệ Tôn trong lòng hoài nghi, một hôm ngồi ngay trên điện, nói
riêng với thị thần Vi An Thạch:
- Gần đây trong ngoài nhiều người nghiêng theo Thái tử, khanh thấy thế nào?
Vi An Thạch thưa:
- Bệ hạ nghe những lời vong quốc đó làm gì, đây chẳng qua chỉ là âm mưu của Thái Bình công chúa. Thái tử vốn hiếu thuận thủy chung, lại có công lớn với xã tắc, xin bệ hạ đừng tin những lời sàm báng.
Duệ Tôn sực tỉnh:
- Trẫm hiểu ra rồi?
Từ đó, những lời này không làm Duệ Tôn lo ngại nữa, Thái Bình công chúa càng hành động quyết liệt hơn, sai người phao nhiều tin nhảm về một vụ phiến loạn sẽ tới. Đến tai Duệ Tôn, nhà vua hèn phán:
- Ai nấy đều đồn năm ngày tới tất có việc binh biến trong nội cung, các khanh hãy lo liệu chu đáo cho trẫm.
Trương Duyệt thưa:
- Lời này tất là do bọn gian trá dựng nên, để hòng ly gián Đông cung với chúa thượng. Nay nếu bệ hạ để cho Thái tử giám quốc, thì lập tức những lời này cũng hết.
Diêu Sùng cũng thưa:
- Những lời của Trương Duyệt, đúng là mưu kế lớn vì xã tắc, xin bệ hạ hãy nghe theo.
Duệ Tôn bèn theo lời, ngày hôm sau hạ chiếu, mật lệnh cho Thái tử giám quốc. Thái tử vâng mệnh, lập tức sai sứ, đem lễ đến mời Vương Cư vào triều. Vương Cư không dám trái mệnh, cùng sứ giả vào ngay triều kiến, gặp lúc Thái tử cùng Diêu Sùng đang ngồi nghị sự ở nội điện. Vương Cư lên điện, cố tình đi chậm rãi, sứ giả khoát tay lia lịa mà giục.
- Điện hạ đang ngồi ngay trong nội trướng, không được dềnh dàng.
Vương Cư lớn tiếng:
- Ngày nay chẳng ai biết là có điện hạ, chỉ biết có Thái Bình công chúa thôi!
Thái tử nghe, vội chạy ra cửa xem, Vương Cư lạy chào xong, Thái tử cất tiếng:
- Vừa gặp lúc bạn quen cũ của khanh đang ở đây, hay cùng gặp gỡ.
Liền dẫn Vương Cư vào nội điện, chỉ Diêu Sùng mà hỏi:
- Đây không phải là bạn cũ của khanh sao?
Vương Cư đáp:
- Diêu Sùng quả có đi lại với thần, không hiểu sao điện hạ lại biết điều này.
Thái tử cười đáp:
- Hôm trước ở nhà khanh, trên án, thấy có thư do Diễn Sùng viết nên ta mới biết. Những lời lẽ trong thư, liệu nay khanh có nghe theo được chăng.
Vương Cư cúi đầu thưa:
- Thần không phải không muốn làm quan, mà thực là do chưa hề gặp bậc biết mình, nay may mắn được thấy điện hạ, không dám không đem theo thân báo đền. Nhưng không biết những lời thần vừa nói ngoài cửa, điện hạ có nghe thấy chăng?
Thái tử đáp:
- Nghe rõ cả .
Vương Cư nhân đó tâu:
- Thái Bình công chúa chuyên quyền dâm loạn, lại nuôi chứa lũ gian tăng Tuệ Phạm, ỷ thế ngang ngược, người đi đường không dám nhìn thẳng. Công chúa càn bậy đến thế, thì trăm quan có để làm gì, đều là những việc không hay gì cho điện hạ, sao không lo sớm đi.
Diêu Sùng tiếp lời:
- Vương Cư mới đến, nhất định nói toàn lời trung nghĩa, chính thế mà thần đi lại với Vương Cư vậy.
Thái tử đáp:
- Lời này quả là đúng rồi. Nhưng phụ hoàng ta có mỗi người em gái này, nếu có chuyện ra tay, sợ có phạm đến chữ hiếu chăng?
Vương Cư thưa:
- Chữ hiếu lớn nhất, chính là việc tận tâm với tôn miếu, xã tắc, đâu phải ở những chuyện nhỏ nhặt này!
Thái tử gật đầu:
- Hãy thư thư rồi lo liệu.
Liền lệnh cho Vương Cư đứng trong Đông cung thị ban, cùng bàn bạc mưu lược.
Tháng bảy, năm đầu hiệu Thái Cực (1).có sao Tuệ mọc ở phương Tây, xâm phạm Thái vi, Thái Bình công chúa ngầm sai lục phương sĩ tâu lên Duệ Tôn:
- Sao Duệ chủ diệt trừ việc cũ, lập việc mới, mà lại xâm phạm đến đế tòa. Hoàng Thái tử sắp lên ngôi thiên tử, phải tính toán cho chu đáo bởi sự ra đời của ngôi sao loạn lạc này!
1 Nhà Đường, một đời vua, thay niên hiệu rất nhiều lần, vì vậy có rất nhiều "nguyên niên".
Những lời này làm Duệ Tôn nghĩ ngợi, nhằm đánh vào Thái tử. Nào ngờ Duệ Tôn nhân điềm trời như vậy, trong lòng cũng đã đắn đo, nay những lời biện thuyết của lũ phương sĩ, liền điềm nhiên phán rằng:
- Điềm trời đã thế, ý trời đã rõ, sửa đức để trừ tai họa, ý trẫm đã quyết.
Liền giáng chiếu, truyền ngôi cho Thái tử. Thái Bình công chúa cả kinh, ra sức can gián không được. Thái tử cũng dâng biểu từ chối. Duệ Tôn đều không nghe, liền chọn ngày tốt của tháng tám, lệnh cho Thái tử lên ngôi hoàng đế, mang hiệu Huyền Tông. Phụng đưa Duệ Tôn lên Thái thượng hoàng, lập phi Vương Thị làm hoàng hậu, đổi Thái Cực nguyên niên làm Tiên Thiên nguyên, trọng dụng bọn Diêu Sùng, Tống Cảnh, lấy Vương Cư làm trung thư thị lang, bỏ những điều gian trá, tiến tới sự rõ ràng, trong sạch, mọi việc đều khởi sắc, thiên hạ đều hân hoan chào đón.
Chỉ có Thái Bình công chúa, ỷ thế thượng hoàng, chẳng thèm coi pháp độ vào đâu. Huyền Tông mới ngỏ ý cấm ngăn, công chúa đã nổi giận cùng với bọn triều thần Tiêu Chí Trung, Sầm Hy, Đậu Hoài Trinh, Thôi Thực kết bè đảng, bàn tính mưu kế chống đối, mong sao thượng hoàng phế vua cũ, lập vua mới, mật gọi thị ngự Lực Tượng Tiên cùng vào hội. Tượng Tiên sợ hãi lên tiếng:
- Không được! Không được! Chuyện này là chuyện gì mà dám làm càn thế này.
Công chúa đáp:
- Bỏ trưởng lập thứ, đã là chuyện không thuận rồi, nay lại thất đức phế đi thì có hại gì?
Tượng Tiên đáp:
- Nếu đã nóilấy công mà lập, thì phải lấy tội mà phế. Nay chúa thượng mới lên ngôi, thiên hạ đều theo, chưa làm gì thất đức, nào có tội gì mà phế được. Tượng Tiên này không dám nghe vậy.
Nói rồi, phất tay áo mà bỏ đi.
Công chúa liền thương nghị với bọn Thôi Thực, dựa vào chuyện phế lập, sợ lòng người không nghe, lại sinh họa, chi bằng hãy dùng thuốc độc mà mưu chuyện thí nghịch thì tốt hơn. Liền tìm cách đi lại với Nguyên Thị ở trong cung, tính chuyện bỏ thuốc độc vào trong thức ăn dâng lên Thái Tông. Vương Cư nghe được mưu này. Ngày mùng một tháng bảy, năm đầu đời Khai Nguyên, tan buổi chầu sớm, Huyền Tông lui vào điện trong, Vương Cư mật tâu:
- Việc Thái Bình công chúa đã bức thiết lắm rồi, không thể không phế trừ cho được.
Huyền Tông vẫn đang do dự. Trương Duyệt có việc, phải đi làm sứ giả Đông Đô, còn kịp sai người dâng lưỡi kiếm ngày thường vẫn đeo. Trương sử Thôi Nhật Dụng tâu:
- Duyệt dâng kiếm, chính là giục bệ hạ mau hành sự. Bệ hạ hãy nhớ thuở ở Đông cung, việc còn khó hơn nhiều. Nay quyền lớn trong tay, ra lệnh diệt trừ lũ phản nghịch, ai là không nghe theo, cớ sao vẫn còn trừ trừ?
Huyền Tông nói:
- Đúng như lời khanh nói, trẫm chỉ sợ làm kinh động thượng hoàng.
Vương Cư thưa:
- Nếu như gian thần đắc ý, xã tắc đảo điên, thượng hoàng liệu có được ngồi yên một chỗ chăng?
Đang bàn cãi, thị lang Ngụy Tri Cổ tiến lên điện, thưa có một lời mật cần tâu. Huyền Tông gọi lại bên án hỏi. Tri Cổ thưa:
- Thần dò ra mưu phản của tụi gian thần, định ngày mùng bốn tháng này khởi loạn, xin gấp diệt trừ ngay.
Cũng vậy nên Huyền Tông mới định kế, cùng với Kỳ Vương Phạm, Tiết Vương Nghiệp, Binh bộ thượng thư Quách Nguyên Chấn, Long Vũ tướng quân Vương Mao Trọng. Nội thị Cao Lực Sĩ, cùng với Vương Cư, Thôi Nhật Dụng, Ngụy Tri Cổ kéo lính vào Kiến Hóa Môn, bắt Sầm Hy, Tiêu Chí Trung, chém ngay ở triều đường. Đậu Hoài Trinh thắt cổ chết, Thôi Thực cùng cung nhân Nguyên Thị đều giết chết. Thái Bình công chúa trốn vào chùa, cũng bắt ngay ra, cho phép chết ở nhà. Không quên giết cả gian tăng Tuệ Phạm, ngoài ra bè đảng cũng bị giết rất nhiều.
Thượng Hoàng nghe tin biến loạn, vô cùng kinh hãi, ngự xe nhỏ ra khỏi cung trèo lên lều Thừa Thiêm môn hỏi nguyên do. Huyền Tông vội lệnh cho Cao Lực Sĩ tâu trình, nói rõ Thái Bình công chúa kết đảng làm loạn, nên phải trừ diệt, việc đã xong xuôi, không dám làm kinh động thượng hoàng, xin đừng lo ngại. Thượng hoàng nghe xong, thở dài về cung.
Chính là:
Mang tên công chúa Thái Bình
Việc làm lại chẳng dính dinh Thái Bình
Phải giết công chúa Thái Bình
Thì thiên hạ mới thái bình làm ăn!
Huyền Tông trừ xong bọn phản nghịch, nghe chuyện Lục Tượng Tiên một mình mà vẫn không chịu theo gian đảng, giữ được lòng trung nghĩa liền thăng ngay cho làm thứ sử Bồ Châu, lại còn gọi đến trước điện rồng khuyến khích.
- Đúng là mùa đông rét giá mới biết tùng bách cứng rắn vậy.
Tượng Tiên liền thưa:
- Kinh Thư dạy: "Chỉ giết kẻ cầm đầu, còn bọn a tòng thì không thèm trị". Nay những tên chủ mưu đã trừ xong, dư đảng xin hãy mở lượng khoan hồng để yên lòng người.
Huyền Tông theo lời, tha cho tất cả, lại thấy con của Thái Bình công chúa thường khuyên can mẹ là Triết Sùng Giản, nên nhiều lần bị đánh đập, đặc chỉ cho được khỏi tội chết, lại ban cho họ Lý, vẫn cho được giữ quan tước cũ, còn các phản thần khác cũng hạ quan tước, hơn kém khác nhau. Từ đó triều đình vô sự. Huyền Tông muốn đưa Diêu Sùng lên làm tể tướng. Trương Duyệt vốn sợ họ Diêu, nên xúi Diện trung giám Khương Kiểu tâu:
- Bệ hạ đang tìm người làm tổng quản Hà Đông, thần thấy có vị này là xứng đáng hơn cả.
Huyền Tông hỏi, Khương Kiểu đáp:
- Diêu Sùng văn võ toàn tài, thật đáng chọn vậy!
Huyền Tông cười:
- Đó vốn là ý của Trương Duyệt. Khanh sao dám lừa cả trẫm.
Khương Kiểu hoảng sợ, dập đầu tạ tội. Ngay ngày hôm sau, Huyền Tông giáng chỉ phong cho Diêu Sùng làm Trung thư lệnh. Trương Duyệt hoảng sợ, ngầm hối lộ Kỳ Vương, mong được che chở. Diêu Sùng biết chuyện lấy làm khó chịu. Một hôm vào triều, bước lên điện, giả vờ đi hơi khập khễnh. Huyền Tông liền hỏi:
- Khanh có tật chân sao?
Diêu Sùng nhân đó mới tâu:
- Thần có tật ở trong lòng, nào phải tật ở chân đâu!
Huyền Tông lại hỏi:
- Thế nào là tật ở trong lòng?
Diều Sùng thưa:
- Kỳ Vương là em trai yêu của bệ hạ. Trương Duyệt vốn là đại thần, ngầm đi lại kết thân, sợ có điều gì sai sót, thì thật đáng ngại thay.
Huyền Tông giận dữ:
- Trương Duyệt định làm gì đây. Ngày mai sai ngay ngự sử tra xem sao!
Diêu Sùng về đến Trung thư tỉnh, không nói một lời. Trương Duyệt cũng không ngờ, vẫn điềm nhiên ngồi ở sảnh đường, nha lại bỗng đưa một tờ thiếp vào, thì ra là của Giả Hoàn Hủ, nói chuyện rất gấp muốn xin gặp ngay. Trương Duyệt ngạc nhiên nói:
- Từ ngày y cùng đi với Tỉnh Hoa đến nay, chẳng hề nghe tin tức gì cả hôm nay bỗng xuất hiện, nhất định là có việc lạ.
Liền sửa áo mũ ra gặp, Toàn Hủ bái chào xong mới nói:
- Kẻ ngỗ ngược này từ ngày mang ơn đại nhân ẩn thân nơi rừng sâu núi thẳm, gần đây nhân nghèo túng không biết làm gì, mới quay về kinh sư đổi tên thay họ, viết thuê cho một viên nội thần. Vừa nhân cùng ngồi chuyện vãn với đại nhân cùng Kỳ Vương. Việc này Diêu Sùng đã tâu lên với chúa thượng. Chúa thượng rất giận. Ngày mai chúa thượng sẽ làm án trị, tai họa không thể lường. Kẻ ngỗ ngược này nghe tin, vội tới báo ngay cho đại thần rõ.
Trương Duyệt hoảng sợ:
- Bây giờ thì biết làm thế nào?
Toàn Hủ đáp:
- Nay đại nhân chỉ có một cách, phải tới cầu cứu Cửu Công chúa rất được hoàng thượng yêu quý thì may ra mới thoát nạn này.
Trương Duyệt băn khoăn:
- Kế này thật hay, nhưng trong lúc vội vã như thế này thì làm sao mà đến dinh công chúa được:
Toàn Hủ đáp:
- Kẻ ngỗ ngược này đã tính sẵn đường rồi, có thể mang lễ đến thưa chuyện với công chúa, nhưng đại thần phải có được một vật gì thật đáng giá mới xong.
Trương Duyệt cả mừng, lập tức giở hết vàng bạc, châu ngọc lâu nay ra. Toàn Hủ xem qua rồi đáp:
- Đều chẳng được việc đâu!
Trương Duyệt bỗng nhớ ra:
- Quận Kế Lâm từng biếu một rèm ngọc bằng dạ minh châu có thể dùng được.
Toàn Hủ nói:
- Hãy đem ra đây xem sao?
Trương Duyệt sai tả hữu lấy ra. Toàn Hủ xem rồi nói:
- Có thể được đây! Việc không thể chậm, phải xong trong đêm nay.
Trương Duyệt liền viết ngay một thư khẩn khoản cầu xin, rồi đưa cả hai thứ cho Toàn Hủ. Ngay hôm đó, Toàn Hủ gặp Cửu Công chúa, nói rõ ngọn ngành rồi đưa trình tấm rèm ngọc, lẫn thư tay ra.
Công chúa thấy tấm rèm, thích lắm, mười phần vừa ý, lập tức nhận lời.
Chính là:
Hiến đao quyết đoán vì vua
Hiến rèm là ý muốn nhờ chở che
Trên là trung nghĩa dũng vi
Dưới là hối lộ, là vì riêng tư.
Sáng hôm sau, công chúa vào ngay trong cung gặp phụ hoàng, thì Huyền Tông đã xuống chỉ, truyền Ngự sử trung thừa cùng đến Trung thư tỉnh tra xét chuyện Trương Duyệt ngầm giao kết với thân vương. Cửu Công chúa nghe thấy thế, liền tâu:
- Trương Duyệt vốn là thị thần của Đông cung lại có công trong giữ gìn ngôi báu, nay không đắn do kỹ mà làm tội nặng, chỉ mới nghi tư thông với Kỳ Vương, sai người tra xét. Sợ sẽ làm cho các vương lo lắng, không phải là điều mà hoàng thượng lâu nay vẫn đối xử với anh em vậy.
Nguyên là anh em Huyền Tông đối với nhau rất thân thiết. Thường vẫn dùng một cái gối thật dài, một cái chân thật lớn, rồi anh em các vương cùng nằm chung mà ngủ. Ngày thường ở trong cung, có làm lễ gia đình với nhau mà thôi. Tiết Vương bị bệnh nặng, Huyền Tông tự mình sắc thuốc, thổi lửa đến nỗi cháy cả râu. Tả hữu hoảng sợ, Huyền Tông thong thả đáp:
- Chỉ mong Tiết Vương uống thuốc này khỏi ngay, râu của trẫm thì có gì đáng tiếc!
Tình anh em vốn như thế, nên nay nghe công chúa nói, Huyền Tông bỗng động lòng truyền cho Cao Lực Sĩ , sang ngay Trung thư tỉnh, ban dụ miễn nghị tội, giáng Trương Duyệt đi làm thứ sử Tương Châu.
Trương Duyệt biết rõ công lao Giả Toàn Hủ, muốn trả ơn thật hậu, nào ngờ Toàn Hủ đã đi đâu từ lúc nào, tìm không tài nào thấy, cũng chẳng biết hỏi ai, thật đúng là bậc kỳ nhân.
Chính là:
Cứu nguy gỡ nạn không cần báo
Chỉ bởi rằng xưa tặng mỹ nhân.
Diêu Sùng làm tể tướng mấy năm rồi cáo tuổi già về nghỉ, tiến cử Tống Cảnh thay mình. Thời Vũ Tắc Thiên, Tống Cảnh vốn là người không a dua, nịnh bợ, đến khi được ở ngôi tể tướng, phong thái càng chính trực, trang nghiêm, ai cũng vừa kính trọng, vừa sợ hãi.
Lúc này nội thần có Cao Lực Sĩ, cùng Nhàn cứu sứ (1) Vương Mao Trọng, cả hai đều có công dẹp phản nghịch, được cất nhắc nhiều. Mao Trọng làm tới Mục mã phiên thứ, lại được mở phủ đệ, hàm ngang với tam ty, vinh sủng không ai bằng, triều thần nhiều kẻ phải đến cửa lạy lục. Riêng Tống Cảnh coi như không có.
1 Nhàn cứu sứ: coi sóc việc nuôi ngựa trong nội cung.
Hôm ấy, con gái Mao Trọng làm lễ cưới với con một bậc tai tiếng trong triều. Mọi chuyện xếp đặt xong xuôi. Huyền Tông biết, mới hỏi:
- Khanh gả con gái, mọi chuyện đã gọn gàng cả chưa?
Mao Trọng thưa:
- Mọi chuyện thần đã lo đủ cả. Chỉ còn chuyện mời khách để cho thêm danh giá thì thật là chưa ổn.
Huyền Tông cười:
- Aicũng mời được, chỉ còn một người mà khanh không dám mời thì tất là Tống Cảnh rồi. Việc này để trẫm sẽ lo cho khanh nhé!
Liền ban chiếu rằng từ tể tướng tới các quan đại thần, ngày mai đều phải dự yến ở nhà Vương Mao Trọng.
Ngày mai, các quan đều tới sớm, Tống Cảnh vẫn chẳng thấy đâu Mao Trọng vội sai người thăm dò xem sao. Tống Cảnh nói thác ốm, không thể tới sớm, rồi cứ dềnh dàng mãi, quan khách ai nấy cung kính chắp tay chờ. Mãi tới quá ngọ (1) Tống Cảnh mới bước vào, cũng chẳng chào hỏi gì chủ nhân lẫn khách khứa, gọi lấy ngay rượu ra, cầm chén rượu trên tay, cất tiếng:
- Hôm nay vâng chiếu vua đến đây uống rượu, trước tiên xin được tạ ơn.
Rồi hướng về phương Bắc mà lạy (2), dốc uống chưa hết một chén, đã thấy la lớn đau bụng, không thể ngồi dự tiệc, quay về phía quan khách tạ lỗi, rồi trèo lên xe mà về ngay.
1 Giờ ngọ: Tử 11 đến 13 giờ.
2 Vua ngồi quay hướng Nam, nên bề tôi quay hướng Bắc mà lạy!
Mao Trọng tức giận mười phần, nhưng Tống Cảnh vốn chính trực, trong sạch, cả triều đình đều kính sợ, làm thế nào được bây giờ. Nên chỉ dám giận mà không dám nói. Rồi cùng mọi người tiệc rượu, mãi tối mới tan.
Chính là:
Chủ nhà chọn khách mà mời
Khách phải chọn chủ mà đến
Khách xấu thì đừng có chơi
Chủ xấu thì đừng đánh bạn.
Về sau Mao Trọng cậy mình được sủng ái, có hiềm khích với Cao Lực Sĩ, nhân vợ mới sinh con trai, được ba ngày. Huyền Tông sai Cao Lực Sĩ đem vật quý đến ban cho, lại phong cho đứa trẻ mới đẻ tước quan ngũ phẩm. Mao Trọng vừa làm lễ tạ ơn, vừa giương giương tự đắc bồng đứa trẻ mới sinh ra khoe Cao Lực Sĩ xem, rồi nói thêm:
- Đứa bé như thế này mà không đáng được phong tước tam phẩm sao?
Cao Lực Sĩ yên lặng không nói, trở về cung phục mệnh, đem ngay lời này tâu lên, lại thêm vài câu hiểm độc nữa. Huyền Tông cả giận quát:
- Thằng chăn ngựa này chịu ơn sâu của trẫm như vậy, mà lại dám buông lời oán vọng sao?
Liền giáng chỉ tướt hết quan tước, lưu đày ra châu xa. Lực Sĩ lại sai người tố cáo, bới móc những chuyện kiêu ngạo, ngang ngược coi thường phép nước của Mao Trọng, cuối cùng Mao Trọng phải chịu tội chết. Nhưng đó là chuyện sau này.
- Gần đây trong ngoài nhiều người nghiêng theo Thái tử, khanh thấy thế nào?
Vi An Thạch thưa:
- Bệ hạ nghe những lời vong quốc đó làm gì, đây chẳng qua chỉ là âm mưu của Thái Bình công chúa. Thái tử vốn hiếu thuận thủy chung, lại có công lớn với xã tắc, xin bệ hạ đừng tin những lời sàm báng.
Duệ Tôn sực tỉnh:
- Trẫm hiểu ra rồi?
Từ đó, những lời này không làm Duệ Tôn lo ngại nữa, Thái Bình công chúa càng hành động quyết liệt hơn, sai người phao nhiều tin nhảm về một vụ phiến loạn sẽ tới. Đến tai Duệ Tôn, nhà vua hèn phán:
- Ai nấy đều đồn năm ngày tới tất có việc binh biến trong nội cung, các khanh hãy lo liệu chu đáo cho trẫm.
Trương Duyệt thưa:
- Lời này tất là do bọn gian trá dựng nên, để hòng ly gián Đông cung với chúa thượng. Nay nếu bệ hạ để cho Thái tử giám quốc, thì lập tức những lời này cũng hết.
Diêu Sùng cũng thưa:
- Những lời của Trương Duyệt, đúng là mưu kế lớn vì xã tắc, xin bệ hạ hãy nghe theo.
Duệ Tôn bèn theo lời, ngày hôm sau hạ chiếu, mật lệnh cho Thái tử giám quốc. Thái tử vâng mệnh, lập tức sai sứ, đem lễ đến mời Vương Cư vào triều. Vương Cư không dám trái mệnh, cùng sứ giả vào ngay triều kiến, gặp lúc Thái tử cùng Diêu Sùng đang ngồi nghị sự ở nội điện. Vương Cư lên điện, cố tình đi chậm rãi, sứ giả khoát tay lia lịa mà giục.
- Điện hạ đang ngồi ngay trong nội trướng, không được dềnh dàng.
Vương Cư lớn tiếng:
- Ngày nay chẳng ai biết là có điện hạ, chỉ biết có Thái Bình công chúa thôi!
Thái tử nghe, vội chạy ra cửa xem, Vương Cư lạy chào xong, Thái tử cất tiếng:
- Vừa gặp lúc bạn quen cũ của khanh đang ở đây, hay cùng gặp gỡ.
Liền dẫn Vương Cư vào nội điện, chỉ Diêu Sùng mà hỏi:
- Đây không phải là bạn cũ của khanh sao?
Vương Cư đáp:
- Diêu Sùng quả có đi lại với thần, không hiểu sao điện hạ lại biết điều này.
Thái tử cười đáp:
- Hôm trước ở nhà khanh, trên án, thấy có thư do Diễn Sùng viết nên ta mới biết. Những lời lẽ trong thư, liệu nay khanh có nghe theo được chăng.
Vương Cư cúi đầu thưa:
- Thần không phải không muốn làm quan, mà thực là do chưa hề gặp bậc biết mình, nay may mắn được thấy điện hạ, không dám không đem theo thân báo đền. Nhưng không biết những lời thần vừa nói ngoài cửa, điện hạ có nghe thấy chăng?
Thái tử đáp:
- Nghe rõ cả .
Vương Cư nhân đó tâu:
- Thái Bình công chúa chuyên quyền dâm loạn, lại nuôi chứa lũ gian tăng Tuệ Phạm, ỷ thế ngang ngược, người đi đường không dám nhìn thẳng. Công chúa càn bậy đến thế, thì trăm quan có để làm gì, đều là những việc không hay gì cho điện hạ, sao không lo sớm đi.
Diêu Sùng tiếp lời:
- Vương Cư mới đến, nhất định nói toàn lời trung nghĩa, chính thế mà thần đi lại với Vương Cư vậy.
Thái tử đáp:
- Lời này quả là đúng rồi. Nhưng phụ hoàng ta có mỗi người em gái này, nếu có chuyện ra tay, sợ có phạm đến chữ hiếu chăng?
Vương Cư thưa:
- Chữ hiếu lớn nhất, chính là việc tận tâm với tôn miếu, xã tắc, đâu phải ở những chuyện nhỏ nhặt này!
Thái tử gật đầu:
- Hãy thư thư rồi lo liệu.
Liền lệnh cho Vương Cư đứng trong Đông cung thị ban, cùng bàn bạc mưu lược.
Tháng bảy, năm đầu hiệu Thái Cực (1).có sao Tuệ mọc ở phương Tây, xâm phạm Thái vi, Thái Bình công chúa ngầm sai lục phương sĩ tâu lên Duệ Tôn:
- Sao Duệ chủ diệt trừ việc cũ, lập việc mới, mà lại xâm phạm đến đế tòa. Hoàng Thái tử sắp lên ngôi thiên tử, phải tính toán cho chu đáo bởi sự ra đời của ngôi sao loạn lạc này!
1 Nhà Đường, một đời vua, thay niên hiệu rất nhiều lần, vì vậy có rất nhiều "nguyên niên".
Những lời này làm Duệ Tôn nghĩ ngợi, nhằm đánh vào Thái tử. Nào ngờ Duệ Tôn nhân điềm trời như vậy, trong lòng cũng đã đắn đo, nay những lời biện thuyết của lũ phương sĩ, liền điềm nhiên phán rằng:
- Điềm trời đã thế, ý trời đã rõ, sửa đức để trừ tai họa, ý trẫm đã quyết.
Liền giáng chiếu, truyền ngôi cho Thái tử. Thái Bình công chúa cả kinh, ra sức can gián không được. Thái tử cũng dâng biểu từ chối. Duệ Tôn đều không nghe, liền chọn ngày tốt của tháng tám, lệnh cho Thái tử lên ngôi hoàng đế, mang hiệu Huyền Tông. Phụng đưa Duệ Tôn lên Thái thượng hoàng, lập phi Vương Thị làm hoàng hậu, đổi Thái Cực nguyên niên làm Tiên Thiên nguyên, trọng dụng bọn Diêu Sùng, Tống Cảnh, lấy Vương Cư làm trung thư thị lang, bỏ những điều gian trá, tiến tới sự rõ ràng, trong sạch, mọi việc đều khởi sắc, thiên hạ đều hân hoan chào đón.
Chỉ có Thái Bình công chúa, ỷ thế thượng hoàng, chẳng thèm coi pháp độ vào đâu. Huyền Tông mới ngỏ ý cấm ngăn, công chúa đã nổi giận cùng với bọn triều thần Tiêu Chí Trung, Sầm Hy, Đậu Hoài Trinh, Thôi Thực kết bè đảng, bàn tính mưu kế chống đối, mong sao thượng hoàng phế vua cũ, lập vua mới, mật gọi thị ngự Lực Tượng Tiên cùng vào hội. Tượng Tiên sợ hãi lên tiếng:
- Không được! Không được! Chuyện này là chuyện gì mà dám làm càn thế này.
Công chúa đáp:
- Bỏ trưởng lập thứ, đã là chuyện không thuận rồi, nay lại thất đức phế đi thì có hại gì?
Tượng Tiên đáp:
- Nếu đã nóilấy công mà lập, thì phải lấy tội mà phế. Nay chúa thượng mới lên ngôi, thiên hạ đều theo, chưa làm gì thất đức, nào có tội gì mà phế được. Tượng Tiên này không dám nghe vậy.
Nói rồi, phất tay áo mà bỏ đi.
Công chúa liền thương nghị với bọn Thôi Thực, dựa vào chuyện phế lập, sợ lòng người không nghe, lại sinh họa, chi bằng hãy dùng thuốc độc mà mưu chuyện thí nghịch thì tốt hơn. Liền tìm cách đi lại với Nguyên Thị ở trong cung, tính chuyện bỏ thuốc độc vào trong thức ăn dâng lên Thái Tông. Vương Cư nghe được mưu này. Ngày mùng một tháng bảy, năm đầu đời Khai Nguyên, tan buổi chầu sớm, Huyền Tông lui vào điện trong, Vương Cư mật tâu:
- Việc Thái Bình công chúa đã bức thiết lắm rồi, không thể không phế trừ cho được.
Huyền Tông vẫn đang do dự. Trương Duyệt có việc, phải đi làm sứ giả Đông Đô, còn kịp sai người dâng lưỡi kiếm ngày thường vẫn đeo. Trương sử Thôi Nhật Dụng tâu:
- Duyệt dâng kiếm, chính là giục bệ hạ mau hành sự. Bệ hạ hãy nhớ thuở ở Đông cung, việc còn khó hơn nhiều. Nay quyền lớn trong tay, ra lệnh diệt trừ lũ phản nghịch, ai là không nghe theo, cớ sao vẫn còn trừ trừ?
Huyền Tông nói:
- Đúng như lời khanh nói, trẫm chỉ sợ làm kinh động thượng hoàng.
Vương Cư thưa:
- Nếu như gian thần đắc ý, xã tắc đảo điên, thượng hoàng liệu có được ngồi yên một chỗ chăng?
Đang bàn cãi, thị lang Ngụy Tri Cổ tiến lên điện, thưa có một lời mật cần tâu. Huyền Tông gọi lại bên án hỏi. Tri Cổ thưa:
- Thần dò ra mưu phản của tụi gian thần, định ngày mùng bốn tháng này khởi loạn, xin gấp diệt trừ ngay.
Cũng vậy nên Huyền Tông mới định kế, cùng với Kỳ Vương Phạm, Tiết Vương Nghiệp, Binh bộ thượng thư Quách Nguyên Chấn, Long Vũ tướng quân Vương Mao Trọng. Nội thị Cao Lực Sĩ, cùng với Vương Cư, Thôi Nhật Dụng, Ngụy Tri Cổ kéo lính vào Kiến Hóa Môn, bắt Sầm Hy, Tiêu Chí Trung, chém ngay ở triều đường. Đậu Hoài Trinh thắt cổ chết, Thôi Thực cùng cung nhân Nguyên Thị đều giết chết. Thái Bình công chúa trốn vào chùa, cũng bắt ngay ra, cho phép chết ở nhà. Không quên giết cả gian tăng Tuệ Phạm, ngoài ra bè đảng cũng bị giết rất nhiều.
Thượng Hoàng nghe tin biến loạn, vô cùng kinh hãi, ngự xe nhỏ ra khỏi cung trèo lên lều Thừa Thiêm môn hỏi nguyên do. Huyền Tông vội lệnh cho Cao Lực Sĩ tâu trình, nói rõ Thái Bình công chúa kết đảng làm loạn, nên phải trừ diệt, việc đã xong xuôi, không dám làm kinh động thượng hoàng, xin đừng lo ngại. Thượng hoàng nghe xong, thở dài về cung.
Chính là:
Mang tên công chúa Thái Bình
Việc làm lại chẳng dính dinh Thái Bình
Phải giết công chúa Thái Bình
Thì thiên hạ mới thái bình làm ăn!
Huyền Tông trừ xong bọn phản nghịch, nghe chuyện Lục Tượng Tiên một mình mà vẫn không chịu theo gian đảng, giữ được lòng trung nghĩa liền thăng ngay cho làm thứ sử Bồ Châu, lại còn gọi đến trước điện rồng khuyến khích.
- Đúng là mùa đông rét giá mới biết tùng bách cứng rắn vậy.
Tượng Tiên liền thưa:
- Kinh Thư dạy: "Chỉ giết kẻ cầm đầu, còn bọn a tòng thì không thèm trị". Nay những tên chủ mưu đã trừ xong, dư đảng xin hãy mở lượng khoan hồng để yên lòng người.
Huyền Tông theo lời, tha cho tất cả, lại thấy con của Thái Bình công chúa thường khuyên can mẹ là Triết Sùng Giản, nên nhiều lần bị đánh đập, đặc chỉ cho được khỏi tội chết, lại ban cho họ Lý, vẫn cho được giữ quan tước cũ, còn các phản thần khác cũng hạ quan tước, hơn kém khác nhau. Từ đó triều đình vô sự. Huyền Tông muốn đưa Diêu Sùng lên làm tể tướng. Trương Duyệt vốn sợ họ Diêu, nên xúi Diện trung giám Khương Kiểu tâu:
- Bệ hạ đang tìm người làm tổng quản Hà Đông, thần thấy có vị này là xứng đáng hơn cả.
Huyền Tông hỏi, Khương Kiểu đáp:
- Diêu Sùng văn võ toàn tài, thật đáng chọn vậy!
Huyền Tông cười:
- Đó vốn là ý của Trương Duyệt. Khanh sao dám lừa cả trẫm.
Khương Kiểu hoảng sợ, dập đầu tạ tội. Ngay ngày hôm sau, Huyền Tông giáng chỉ phong cho Diêu Sùng làm Trung thư lệnh. Trương Duyệt hoảng sợ, ngầm hối lộ Kỳ Vương, mong được che chở. Diêu Sùng biết chuyện lấy làm khó chịu. Một hôm vào triều, bước lên điện, giả vờ đi hơi khập khễnh. Huyền Tông liền hỏi:
- Khanh có tật chân sao?
Diêu Sùng nhân đó mới tâu:
- Thần có tật ở trong lòng, nào phải tật ở chân đâu!
Huyền Tông lại hỏi:
- Thế nào là tật ở trong lòng?
Diều Sùng thưa:
- Kỳ Vương là em trai yêu của bệ hạ. Trương Duyệt vốn là đại thần, ngầm đi lại kết thân, sợ có điều gì sai sót, thì thật đáng ngại thay.
Huyền Tông giận dữ:
- Trương Duyệt định làm gì đây. Ngày mai sai ngay ngự sử tra xem sao!
Diêu Sùng về đến Trung thư tỉnh, không nói một lời. Trương Duyệt cũng không ngờ, vẫn điềm nhiên ngồi ở sảnh đường, nha lại bỗng đưa một tờ thiếp vào, thì ra là của Giả Hoàn Hủ, nói chuyện rất gấp muốn xin gặp ngay. Trương Duyệt ngạc nhiên nói:
- Từ ngày y cùng đi với Tỉnh Hoa đến nay, chẳng hề nghe tin tức gì cả hôm nay bỗng xuất hiện, nhất định là có việc lạ.
Liền sửa áo mũ ra gặp, Toàn Hủ bái chào xong mới nói:
- Kẻ ngỗ ngược này từ ngày mang ơn đại nhân ẩn thân nơi rừng sâu núi thẳm, gần đây nhân nghèo túng không biết làm gì, mới quay về kinh sư đổi tên thay họ, viết thuê cho một viên nội thần. Vừa nhân cùng ngồi chuyện vãn với đại nhân cùng Kỳ Vương. Việc này Diêu Sùng đã tâu lên với chúa thượng. Chúa thượng rất giận. Ngày mai chúa thượng sẽ làm án trị, tai họa không thể lường. Kẻ ngỗ ngược này nghe tin, vội tới báo ngay cho đại thần rõ.
Trương Duyệt hoảng sợ:
- Bây giờ thì biết làm thế nào?
Toàn Hủ đáp:
- Nay đại nhân chỉ có một cách, phải tới cầu cứu Cửu Công chúa rất được hoàng thượng yêu quý thì may ra mới thoát nạn này.
Trương Duyệt băn khoăn:
- Kế này thật hay, nhưng trong lúc vội vã như thế này thì làm sao mà đến dinh công chúa được:
Toàn Hủ đáp:
- Kẻ ngỗ ngược này đã tính sẵn đường rồi, có thể mang lễ đến thưa chuyện với công chúa, nhưng đại thần phải có được một vật gì thật đáng giá mới xong.
Trương Duyệt cả mừng, lập tức giở hết vàng bạc, châu ngọc lâu nay ra. Toàn Hủ xem qua rồi đáp:
- Đều chẳng được việc đâu!
Trương Duyệt bỗng nhớ ra:
- Quận Kế Lâm từng biếu một rèm ngọc bằng dạ minh châu có thể dùng được.
Toàn Hủ nói:
- Hãy đem ra đây xem sao?
Trương Duyệt sai tả hữu lấy ra. Toàn Hủ xem rồi nói:
- Có thể được đây! Việc không thể chậm, phải xong trong đêm nay.
Trương Duyệt liền viết ngay một thư khẩn khoản cầu xin, rồi đưa cả hai thứ cho Toàn Hủ. Ngay hôm đó, Toàn Hủ gặp Cửu Công chúa, nói rõ ngọn ngành rồi đưa trình tấm rèm ngọc, lẫn thư tay ra.
Công chúa thấy tấm rèm, thích lắm, mười phần vừa ý, lập tức nhận lời.
Chính là:
Hiến đao quyết đoán vì vua
Hiến rèm là ý muốn nhờ chở che
Trên là trung nghĩa dũng vi
Dưới là hối lộ, là vì riêng tư.
Sáng hôm sau, công chúa vào ngay trong cung gặp phụ hoàng, thì Huyền Tông đã xuống chỉ, truyền Ngự sử trung thừa cùng đến Trung thư tỉnh tra xét chuyện Trương Duyệt ngầm giao kết với thân vương. Cửu Công chúa nghe thấy thế, liền tâu:
- Trương Duyệt vốn là thị thần của Đông cung lại có công trong giữ gìn ngôi báu, nay không đắn do kỹ mà làm tội nặng, chỉ mới nghi tư thông với Kỳ Vương, sai người tra xét. Sợ sẽ làm cho các vương lo lắng, không phải là điều mà hoàng thượng lâu nay vẫn đối xử với anh em vậy.
Nguyên là anh em Huyền Tông đối với nhau rất thân thiết. Thường vẫn dùng một cái gối thật dài, một cái chân thật lớn, rồi anh em các vương cùng nằm chung mà ngủ. Ngày thường ở trong cung, có làm lễ gia đình với nhau mà thôi. Tiết Vương bị bệnh nặng, Huyền Tông tự mình sắc thuốc, thổi lửa đến nỗi cháy cả râu. Tả hữu hoảng sợ, Huyền Tông thong thả đáp:
- Chỉ mong Tiết Vương uống thuốc này khỏi ngay, râu của trẫm thì có gì đáng tiếc!
Tình anh em vốn như thế, nên nay nghe công chúa nói, Huyền Tông bỗng động lòng truyền cho Cao Lực Sĩ , sang ngay Trung thư tỉnh, ban dụ miễn nghị tội, giáng Trương Duyệt đi làm thứ sử Tương Châu.
Trương Duyệt biết rõ công lao Giả Toàn Hủ, muốn trả ơn thật hậu, nào ngờ Toàn Hủ đã đi đâu từ lúc nào, tìm không tài nào thấy, cũng chẳng biết hỏi ai, thật đúng là bậc kỳ nhân.
Chính là:
Cứu nguy gỡ nạn không cần báo
Chỉ bởi rằng xưa tặng mỹ nhân.
Diêu Sùng làm tể tướng mấy năm rồi cáo tuổi già về nghỉ, tiến cử Tống Cảnh thay mình. Thời Vũ Tắc Thiên, Tống Cảnh vốn là người không a dua, nịnh bợ, đến khi được ở ngôi tể tướng, phong thái càng chính trực, trang nghiêm, ai cũng vừa kính trọng, vừa sợ hãi.
Lúc này nội thần có Cao Lực Sĩ, cùng Nhàn cứu sứ (1) Vương Mao Trọng, cả hai đều có công dẹp phản nghịch, được cất nhắc nhiều. Mao Trọng làm tới Mục mã phiên thứ, lại được mở phủ đệ, hàm ngang với tam ty, vinh sủng không ai bằng, triều thần nhiều kẻ phải đến cửa lạy lục. Riêng Tống Cảnh coi như không có.
1 Nhàn cứu sứ: coi sóc việc nuôi ngựa trong nội cung.
Hôm ấy, con gái Mao Trọng làm lễ cưới với con một bậc tai tiếng trong triều. Mọi chuyện xếp đặt xong xuôi. Huyền Tông biết, mới hỏi:
- Khanh gả con gái, mọi chuyện đã gọn gàng cả chưa?
Mao Trọng thưa:
- Mọi chuyện thần đã lo đủ cả. Chỉ còn chuyện mời khách để cho thêm danh giá thì thật là chưa ổn.
Huyền Tông cười:
- Aicũng mời được, chỉ còn một người mà khanh không dám mời thì tất là Tống Cảnh rồi. Việc này để trẫm sẽ lo cho khanh nhé!
Liền ban chiếu rằng từ tể tướng tới các quan đại thần, ngày mai đều phải dự yến ở nhà Vương Mao Trọng.
Ngày mai, các quan đều tới sớm, Tống Cảnh vẫn chẳng thấy đâu Mao Trọng vội sai người thăm dò xem sao. Tống Cảnh nói thác ốm, không thể tới sớm, rồi cứ dềnh dàng mãi, quan khách ai nấy cung kính chắp tay chờ. Mãi tới quá ngọ (1) Tống Cảnh mới bước vào, cũng chẳng chào hỏi gì chủ nhân lẫn khách khứa, gọi lấy ngay rượu ra, cầm chén rượu trên tay, cất tiếng:
- Hôm nay vâng chiếu vua đến đây uống rượu, trước tiên xin được tạ ơn.
Rồi hướng về phương Bắc mà lạy (2), dốc uống chưa hết một chén, đã thấy la lớn đau bụng, không thể ngồi dự tiệc, quay về phía quan khách tạ lỗi, rồi trèo lên xe mà về ngay.
1 Giờ ngọ: Tử 11 đến 13 giờ.
2 Vua ngồi quay hướng Nam, nên bề tôi quay hướng Bắc mà lạy!
Mao Trọng tức giận mười phần, nhưng Tống Cảnh vốn chính trực, trong sạch, cả triều đình đều kính sợ, làm thế nào được bây giờ. Nên chỉ dám giận mà không dám nói. Rồi cùng mọi người tiệc rượu, mãi tối mới tan.
Chính là:
Chủ nhà chọn khách mà mời
Khách phải chọn chủ mà đến
Khách xấu thì đừng có chơi
Chủ xấu thì đừng đánh bạn.
Về sau Mao Trọng cậy mình được sủng ái, có hiềm khích với Cao Lực Sĩ, nhân vợ mới sinh con trai, được ba ngày. Huyền Tông sai Cao Lực Sĩ đem vật quý đến ban cho, lại phong cho đứa trẻ mới đẻ tước quan ngũ phẩm. Mao Trọng vừa làm lễ tạ ơn, vừa giương giương tự đắc bồng đứa trẻ mới sinh ra khoe Cao Lực Sĩ xem, rồi nói thêm:
- Đứa bé như thế này mà không đáng được phong tước tam phẩm sao?
Cao Lực Sĩ yên lặng không nói, trở về cung phục mệnh, đem ngay lời này tâu lên, lại thêm vài câu hiểm độc nữa. Huyền Tông cả giận quát:
- Thằng chăn ngựa này chịu ơn sâu của trẫm như vậy, mà lại dám buông lời oán vọng sao?
Liền giáng chỉ tướt hết quan tước, lưu đày ra châu xa. Lực Sĩ lại sai người tố cáo, bới móc những chuyện kiêu ngạo, ngang ngược coi thường phép nước của Mao Trọng, cuối cùng Mao Trọng phải chịu tội chết. Nhưng đó là chuyện sau này.
***
Lại nói chuyện Diêu
Sùng sau khi thôi chức tể tướng, được phong tước Lương Quốc Công, trở về ở
trong dinh thự riêng của mình. Đến năm thứ chín hiệu Khai Nguyên, tuổi cũng đã
cao, bị cảm gió lạnh nhiễm thành bệnh, mời thầy thuốc chữa chạy, chẳng ăn thua
gì. Diêu Sùng cả đời vốn chẳng tin Phật giáo lẫn Đạo giáo, không cho người nhà
làm tế lễ gì cả, mấy ngày sau, bệnh càng nặng thêm, tự biết không thể qua khỏi,
bèn gọi con đến trước giường, đọc cho con viết một tờ biểu, dâng lên Huyền Tông
xin triều đình bãi ngay những quan lại thừa, sửa sang lại pháp độ, tập luyện
binh sĩ, cấm tiệt những mê tín nhảm nhí, các quan chức nên dùng những kẻ đã lâu
năm, quen việc, nhưng pháp luật thì lại nên rộng rãi. Hết điều này sang điều
khác cộng có hàng trăm mục đều là những điều rất quan yếu trong việc nước, được
viết rất cẩn thận, dâng lên. Sau đó lại mới dặn dò chuyện nhà; dặn kỹ sau khi
chết, không được theo thói thường của người đời, mời nhà sư, thầy pháp để đưa
linh, cầu hồn, lấy đó làm phép nhà mãi mãi. Người con thứ nhất vâng theo. Mãi
tới lúc lâm chung, lại nói với con rằng:
- Ta làm tể tướng mấy năm, tuy chẳng nên công nghiệp gì lớn, nhưng cũng được người đời đều gọi là "Cửu thời tể tướng", từ lời nói đến việc làm, cũng có nhiều điều đáng thuật lại. Sau khi ta chết rồi, bài văn bia khắc trên mộ, nên chọn được một tay bút đại tài, để có thể truyền cho đời sau. Điểm mặt các tay văn chương bây giờ, chỉ còn mỗi Trương Duyệt, nhưng ta với họ Trương chẳng đằm thắm gì, nếu có khuất mình mà đến xin chữ nghĩa họ Trương, nhất định y sẽ chối từ không chịu nhận. Con hãy theo kế hoạch này của ta mà làm: khi ta chết rồi, con lấy các đồ vàng ngọc, bày biện ngay cạnh linh sàng, y nghe tin ta chết, nhất định sẽ tới phúng. Nếu thấy những thứ quý giá đó, mà không thèm nhìn, bỏ đi, thế mà y vẫn còn oán ta chuyện ngày xưa mà còn nghĩ đến chuyện báo thù, thì thật là đáng ngại. Còn nếu y lại cầm lấy để xem, có ý ham muốn, thì con hãy nói rằng đó là những thứ của tiên nghiêm (l) để lại, đem biếu tất cả. Ngay sau đó nhờ y viết văn bia. Y sẽ sẵn sàng nhận lời. Con phải nói y viết nhanh, viết xong, con lập tức khắc ngay vào đá, mặt khác liền trình ngay lên cho nhà vua xem thì tốt nhất. Con người này vốn tham lam, nhiều mưu mẹo, nếu để lâu hoặc chưa kịp khắc vào bia đá, y tất sinh hối hận, đòi đưa lại. Nay đã đưa nhà vua ngự lãm, tất không thể sửa, bài văn dẫu có nhiều lời khen đi nữa, sau này muốn chữa bằng những câu "bới lông tìm vết", để báo thù xưa, cũng không kịp nữa. Nhớ lấy! Nhớ lấy!
1 Tiên nghiêm: chỉ kính trọng người cha đã mất (của mình hoặc của người đều được)
Nói xong, nhắm mắt, qua đời. Người con dậm chân than khóc, lập tức dâng biểu lên tâu trình, cáo phó các quan viên, xếp đặt tang ma.
Đại liệm xong xuôi, liền bày mành trướng để làm lễ phúng, các quan trong triều đều tới lễ lạy. Trương Duyệt lúc này đang làm học sĩ ở Tập hiền viện, cũng có mặt.
Người con theo đúng như lời dặn dò, đêm rất nhiều đồ vàng ngọc quý, bày ra bàn ngay cạnh linh sàng. Trương Duyệt phúng xong, người con cúi đầu tạ ơn, họ Trương bỗng thấy rất nhiều thứ bày trên bàn, nhân mới chỉ tay mà hỏi:
- Tại sao lại bày những thứ này ở đây?
Người con đáp:
- Những thứ này đều là những thứ tiên nghiêm ngày thường vẫn thích, chọn một vài thứ, bày ra đấy gọi là vậy.
Trương Duyệt đáp:
- Lệnh tiên công đã thích, tất phải là những thứ khác thường.
Liền bước tới bên bàn, cầm lấy từng thứ xem xét, tán thưởng không ngớt. Người con liền thưa:
- Những thứ này không đáng để tiên sinh để ý, nếu không chê là thô lậu, xin được đưa sang dâng tiên sinh.
Trương Duyệt thản nhiên đáp:
- Thật được công tử quá thương đến, nhưng chẳng lẽ lại định đoạt lấy những thứ lệnh công ngày xưa thích sao?
Người con thưa:
- Tiên sinh vốn là chỗ bạn bè của tiên nghiêm, dẫu tiên nghiêm có còn, cũng chẳng tiếc. Phương chi tiên nghiêm từng dặn lại, muốn được cây bút lớn của tiên sinh viết cho một bài văn bia, sao lại dám tiếc gì châu ngọc. Chỉ mong tiên nghiêm dẫu chết cũng còn tiếng danh, kẻ bất hiếu này xin kết cỏ ngậm vành để báo ơn, mấy thứ đồ này liệu có đáng gì đâu!
Nói xong, khóc mà lạy sát đất. Trương Duyệt nâng dậy mà rằng:
- Bút thô lỗ này lấy gì đã làm quý, nay đã được để tâm đến thế, sao lại không dám đem hết tài để ngợi ca lệnh tiên công.
Người con lại lạy tạ tạ ơn. Trương Duyệt đã về. Người con đem tất cả những thứ đã bày, sai người đưa sang, lại nhờ người dùng lời mềm mỏng, để lấy lại ngay được bài văn, gọi thợ đục đá, mài bia chờ sẵn, chỉ đợi được bài văn về là khắc ngay.
Trương Duyệt mới nhận được những đồ tặng quý của người con, trong lòng hoan hỷ, liền viết ngay một bài văn bia thật hay, ngợi ca công nghiệp của Diêu Sùng mấy năm làm tể tướng thật hùng hồn, hoa mỹ, lại thêm tỏ tình cảm phục hàng ngày của mình ra sao. Văn vừa viết xong, người nhà họ Diêu đã chờ sẵn để xin về.
Người con được bài văn, lệnh ngay cho thợ đá khắc suốt đêm ngày. Đang định đưa trình Huyền Tông, thì gặp ngay lúc Huyền Tông sai Cao Lực Sĩ tới để lấy những trước tác của Diêu Sùng. Người con nhân dịp đưa cả bài văn bia của Trương Duyệt, nhờ Cao Lực Sĩ trình ngay lên hoàng thượng, Huyền Tông xem xong liền khen:
- Con người này phải có bài văn này để biểu dương mới đáng.
Lại nói Trương Duyệt qua một đêm bỗng nghĩ ra:
"Ta với họ Diêu vốn bất hòa, mấy lần chịu họa với lão già này. Nay họ Diêu chết, ta chẳng nghĩ tới chuyện báo thù cũng là đã rộng rãi lắm rồi, sao lại còn làm văn ngợi ca. Nay đã trót khen, mai kia làm sao mà chê được nữa. Thế là dẫu có người chê họ Diêu, ta lại phải đứng ra mà bênh vực sao, điều này quả không xong rồi".
Lại nghĩ bài văn vừa đưa xong, nhất định chưa khắc, còn có thể đòi về viết thêm một bài khác, mang đầy đủ ý bao biếm của kinh "Xuân thu” Khổng Tử. Liền sai ngay người sang nhà họ Diêu đòi bài văn, nói là để thêm vào mấy câu nữa. Con trai họ Diêu liền nói với tên tay chân sang:
- Hôm qua nhờ ơn học sĩ múa bút, một chữ cũng không dám sửa, lập tức cho khắc vào bia, rồi lại đã trình lên thánh hoàng ngự lãm, thật không thể nào chữa được nữa!
Tay chân cứ thế về thưa lại, Trương Duyệt dậm chân mà than:
- Thế là hoàn toàn ở trong vòng tính toán của họ Diêu rồi. Ta là một Trương Duyệt sống hẳn hoi, mà lại thua Diêu Sùng đã chết vậy. Cũng đủ thấy tài ta không bằng họ Diêu vậy!
Chính là:
Mắc mẹo la oai oái
Ăn năn sự đã rồi.
Diêu Sùng chết rồi, triều đình ban cho thụy là Văn Hiến. Sau đó Trương Duyệt, Tống Cảnh, Vương Cư lần lượt qua đời, lại có các tướng hiền lương như Hàn Hưu, Trương Cửu Linh, đều là những người được nhà vua vừa kính, vừa sợ. Nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu, người thì cáo tuổi già, người thì qua đời, trong triều ngày càng tiêu điều. Huyền Tông ở ngôi lâu, công việc triều chính ngày càng nhác. Lúc mới lên ngôi, chăm việc, tước ước, mấy lần đốt châu ngọc, lụa là trước điện, lại thả cho ra mấy ngàn cung nữ. Nhưng càng về sau càng học thói xa hoa, sủng ái người đẹp ngày càng quá quắt. Trong số phi tần, chỉ có Vũ Huệ Phi là người được yêu quý hơn cả. Hoàng hậu Vương Thị mấy lần bị dèm pha, vô số bị phế bỏ. Tiếp đó, Thái tử Anh, rồi Ngạc Vương, Quang Vương, đều bị giết cùng một ngày. Chuyện một ngày giết ba người con này, thiên hạ không ai là không kinh ngạc, ca thán. Không ngờ sau đó, Vũ Huệ Phi cũng nhân sinh đẻ, băng huyết mà chết. Huyền Tông không ngăn được bi thương. Từ đó, trong cung không còn người nào vừa ý. Cao Lực Sĩ khuyên Huyền Tông tìm tuyển rộng mỹ nhân để có người sẵn hầu hạ. Huyền Tông liền giáng chỉ tuyển trong dân gian những con gái có tài sắc vào cung.
Chính là:
Phải có nhân trước
Mới thành quả sau
Khai Nguyên, Thiên Bảo
Chẳng giống nhau chút nào!
- Ta làm tể tướng mấy năm, tuy chẳng nên công nghiệp gì lớn, nhưng cũng được người đời đều gọi là "Cửu thời tể tướng", từ lời nói đến việc làm, cũng có nhiều điều đáng thuật lại. Sau khi ta chết rồi, bài văn bia khắc trên mộ, nên chọn được một tay bút đại tài, để có thể truyền cho đời sau. Điểm mặt các tay văn chương bây giờ, chỉ còn mỗi Trương Duyệt, nhưng ta với họ Trương chẳng đằm thắm gì, nếu có khuất mình mà đến xin chữ nghĩa họ Trương, nhất định y sẽ chối từ không chịu nhận. Con hãy theo kế hoạch này của ta mà làm: khi ta chết rồi, con lấy các đồ vàng ngọc, bày biện ngay cạnh linh sàng, y nghe tin ta chết, nhất định sẽ tới phúng. Nếu thấy những thứ quý giá đó, mà không thèm nhìn, bỏ đi, thế mà y vẫn còn oán ta chuyện ngày xưa mà còn nghĩ đến chuyện báo thù, thì thật là đáng ngại. Còn nếu y lại cầm lấy để xem, có ý ham muốn, thì con hãy nói rằng đó là những thứ của tiên nghiêm (l) để lại, đem biếu tất cả. Ngay sau đó nhờ y viết văn bia. Y sẽ sẵn sàng nhận lời. Con phải nói y viết nhanh, viết xong, con lập tức khắc ngay vào đá, mặt khác liền trình ngay lên cho nhà vua xem thì tốt nhất. Con người này vốn tham lam, nhiều mưu mẹo, nếu để lâu hoặc chưa kịp khắc vào bia đá, y tất sinh hối hận, đòi đưa lại. Nay đã đưa nhà vua ngự lãm, tất không thể sửa, bài văn dẫu có nhiều lời khen đi nữa, sau này muốn chữa bằng những câu "bới lông tìm vết", để báo thù xưa, cũng không kịp nữa. Nhớ lấy! Nhớ lấy!
1 Tiên nghiêm: chỉ kính trọng người cha đã mất (của mình hoặc của người đều được)
Nói xong, nhắm mắt, qua đời. Người con dậm chân than khóc, lập tức dâng biểu lên tâu trình, cáo phó các quan viên, xếp đặt tang ma.
Đại liệm xong xuôi, liền bày mành trướng để làm lễ phúng, các quan trong triều đều tới lễ lạy. Trương Duyệt lúc này đang làm học sĩ ở Tập hiền viện, cũng có mặt.
Người con theo đúng như lời dặn dò, đêm rất nhiều đồ vàng ngọc quý, bày ra bàn ngay cạnh linh sàng. Trương Duyệt phúng xong, người con cúi đầu tạ ơn, họ Trương bỗng thấy rất nhiều thứ bày trên bàn, nhân mới chỉ tay mà hỏi:
- Tại sao lại bày những thứ này ở đây?
Người con đáp:
- Những thứ này đều là những thứ tiên nghiêm ngày thường vẫn thích, chọn một vài thứ, bày ra đấy gọi là vậy.
Trương Duyệt đáp:
- Lệnh tiên công đã thích, tất phải là những thứ khác thường.
Liền bước tới bên bàn, cầm lấy từng thứ xem xét, tán thưởng không ngớt. Người con liền thưa:
- Những thứ này không đáng để tiên sinh để ý, nếu không chê là thô lậu, xin được đưa sang dâng tiên sinh.
Trương Duyệt thản nhiên đáp:
- Thật được công tử quá thương đến, nhưng chẳng lẽ lại định đoạt lấy những thứ lệnh công ngày xưa thích sao?
Người con thưa:
- Tiên sinh vốn là chỗ bạn bè của tiên nghiêm, dẫu tiên nghiêm có còn, cũng chẳng tiếc. Phương chi tiên nghiêm từng dặn lại, muốn được cây bút lớn của tiên sinh viết cho một bài văn bia, sao lại dám tiếc gì châu ngọc. Chỉ mong tiên nghiêm dẫu chết cũng còn tiếng danh, kẻ bất hiếu này xin kết cỏ ngậm vành để báo ơn, mấy thứ đồ này liệu có đáng gì đâu!
Nói xong, khóc mà lạy sát đất. Trương Duyệt nâng dậy mà rằng:
- Bút thô lỗ này lấy gì đã làm quý, nay đã được để tâm đến thế, sao lại không dám đem hết tài để ngợi ca lệnh tiên công.
Người con lại lạy tạ tạ ơn. Trương Duyệt đã về. Người con đem tất cả những thứ đã bày, sai người đưa sang, lại nhờ người dùng lời mềm mỏng, để lấy lại ngay được bài văn, gọi thợ đục đá, mài bia chờ sẵn, chỉ đợi được bài văn về là khắc ngay.
Trương Duyệt mới nhận được những đồ tặng quý của người con, trong lòng hoan hỷ, liền viết ngay một bài văn bia thật hay, ngợi ca công nghiệp của Diêu Sùng mấy năm làm tể tướng thật hùng hồn, hoa mỹ, lại thêm tỏ tình cảm phục hàng ngày của mình ra sao. Văn vừa viết xong, người nhà họ Diêu đã chờ sẵn để xin về.
Người con được bài văn, lệnh ngay cho thợ đá khắc suốt đêm ngày. Đang định đưa trình Huyền Tông, thì gặp ngay lúc Huyền Tông sai Cao Lực Sĩ tới để lấy những trước tác của Diêu Sùng. Người con nhân dịp đưa cả bài văn bia của Trương Duyệt, nhờ Cao Lực Sĩ trình ngay lên hoàng thượng, Huyền Tông xem xong liền khen:
- Con người này phải có bài văn này để biểu dương mới đáng.
Lại nói Trương Duyệt qua một đêm bỗng nghĩ ra:
"Ta với họ Diêu vốn bất hòa, mấy lần chịu họa với lão già này. Nay họ Diêu chết, ta chẳng nghĩ tới chuyện báo thù cũng là đã rộng rãi lắm rồi, sao lại còn làm văn ngợi ca. Nay đã trót khen, mai kia làm sao mà chê được nữa. Thế là dẫu có người chê họ Diêu, ta lại phải đứng ra mà bênh vực sao, điều này quả không xong rồi".
Lại nghĩ bài văn vừa đưa xong, nhất định chưa khắc, còn có thể đòi về viết thêm một bài khác, mang đầy đủ ý bao biếm của kinh "Xuân thu” Khổng Tử. Liền sai ngay người sang nhà họ Diêu đòi bài văn, nói là để thêm vào mấy câu nữa. Con trai họ Diêu liền nói với tên tay chân sang:
- Hôm qua nhờ ơn học sĩ múa bút, một chữ cũng không dám sửa, lập tức cho khắc vào bia, rồi lại đã trình lên thánh hoàng ngự lãm, thật không thể nào chữa được nữa!
Tay chân cứ thế về thưa lại, Trương Duyệt dậm chân mà than:
- Thế là hoàn toàn ở trong vòng tính toán của họ Diêu rồi. Ta là một Trương Duyệt sống hẳn hoi, mà lại thua Diêu Sùng đã chết vậy. Cũng đủ thấy tài ta không bằng họ Diêu vậy!
Chính là:
Mắc mẹo la oai oái
Ăn năn sự đã rồi.
Diêu Sùng chết rồi, triều đình ban cho thụy là Văn Hiến. Sau đó Trương Duyệt, Tống Cảnh, Vương Cư lần lượt qua đời, lại có các tướng hiền lương như Hàn Hưu, Trương Cửu Linh, đều là những người được nhà vua vừa kính, vừa sợ. Nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu, người thì cáo tuổi già, người thì qua đời, trong triều ngày càng tiêu điều. Huyền Tông ở ngôi lâu, công việc triều chính ngày càng nhác. Lúc mới lên ngôi, chăm việc, tước ước, mấy lần đốt châu ngọc, lụa là trước điện, lại thả cho ra mấy ngàn cung nữ. Nhưng càng về sau càng học thói xa hoa, sủng ái người đẹp ngày càng quá quắt. Trong số phi tần, chỉ có Vũ Huệ Phi là người được yêu quý hơn cả. Hoàng hậu Vương Thị mấy lần bị dèm pha, vô số bị phế bỏ. Tiếp đó, Thái tử Anh, rồi Ngạc Vương, Quang Vương, đều bị giết cùng một ngày. Chuyện một ngày giết ba người con này, thiên hạ không ai là không kinh ngạc, ca thán. Không ngờ sau đó, Vũ Huệ Phi cũng nhân sinh đẻ, băng huyết mà chết. Huyền Tông không ngăn được bi thương. Từ đó, trong cung không còn người nào vừa ý. Cao Lực Sĩ khuyên Huyền Tông tìm tuyển rộng mỹ nhân để có người sẵn hầu hạ. Huyền Tông liền giáng chỉ tuyển trong dân gian những con gái có tài sắc vào cung.
Chính là:
Phải có nhân trước
Mới thành quả sau
Khai Nguyên, Thiên Bảo
Chẳng giống nhau chút nào!
Nguồn truyenviet.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét