Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

5 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 79,80,81

HỒI 79
Lựa ý tứ, Giang Thái Tần truy hoan,
Cậy tài sắc Dương Quý Phi đoạt sủng.

Từ rằng: 
Trang quốc sắc tất là trúng tuyển 
Vào thâm cung quyến luyến nhất đời 
Mắt như dao, đổ đất sụp trời 
Mày lá liễu chim sa cá lặn 
Những tưởng: lòng này đã muốn... 
Ai dè: Sợi chỉ hồng gió cuốn đứt phăng 
Cho hay: nguyệt lão vô bằng 
Lòng này đã chính, lửa bừng cũng qua. 
Theo điệu: "Điệp luyến hoa" 

Người ta trên đời, chẳng tình thì lý, trung thần hiếu tử, cứ theo lẽ tuần hoàn mà hành động. Ngược lại, bọn đại gian độc ác, việc làm đều ngược với tình lý, là điều không đáng nói. Thật ra, thì cũng là một gốc mà ra cả thôi, Mạnh Tử nói: "Kẻ mà say sắc đẹp thì tất chuộng tuổi trẻ, thích vẻ kiều mỹ, đã có vợ con thì tất phải chiều chuộng vợ con vậy". Điều này thì xưa nay đều thế, chẳng ai mà dứt cho được. Hãy xem Tô Vũ, gặp lúc cùng quẫn ở Bắc Hải, ngậm tuyết nuốt lông cừu mà sống, chuyện sống chết không thể tin nữa, nhưng vẫn phải lấy vợ Hồ, sinh con (1) bị vua đất Hồ lặng lẽ đày ra vùng Bắc Hải mười năm, đến lúc về, lại được uống chén rượu trong vườn Hồ Thịở Tương Đàm, lại được đọc thơ tặng của người thiếp yêu là Lê Thiến. Thế mới người xa tình khác, ngay đến cả bậc hiền lương cũng không tránh khỏi, huống chi bậc phú quý thiên tử; sinh giữa thời thịnh. 

1 Theo "Chiêu Quân cống Hồ", thì Tô Vũ bị đày ra vùng Tuyết Bắc Hải, lấy vợ đười ươi, sinh được hai con, một trai, một gái. Tô Vũ được về Hán, đười ươi gửi hai con về, còn mình thì tu tiên đắc đạo. Con trai tên là vô Ngọc, con gái tên là Tô Kim, sau đều là những tướng giỏi.

***
Nay hãy nói chuyện tuyển mỹ nhân, ở vùng quê huyện Hưng Hóa, thôn Chân Châu, có một người tú tài, họ Giang tên Trọng Tốn, hiệu ức Chi, phong cách hiên ngang, gia tư giàu có, tuổi mới ngoài ba mươi, vẫn chưa có con trai nối dõi. Vợ là Liêu Thị, sinh được mỗi con gái, lúc nhỏ đặt tên là A Chân, chín tuổi đã thuộc lòng "Nhị Nam" (1) nói với cha rằng: 
- Con tuy là con gái, cũng có chí như trong hai bài thơ này. 


Trọng Tốn lấy làm lạ, bèn đặt tên là Thái Tần (2) chẳng khác gì đóa hoa, mặt trăng vậy, dẫu cho Hằng Nga ở cung Quảng cũng phải nhường mấy phần nhan sắc. Lại thêm văn tài sâu rộng, bách gia chư tử không gì là không biết, không thuộc, cầm kỳ thi họa, mọi thứ đều tinh thông. Thái Tần lại riêng thích hoa mai, Trọng Tốn sai người vào vùng núi Giang Triết, tìm đủ các loại mai cổ quái, trồng khắp trong sân trong vườn, viết tên là “Mai Đình". Thái Tần sớm tối thưởng ngoạn, tự đặt hiệu là Mai Phương. Lại thích thơ văn, làm tới tám bài phú sau: Tiêu Lan, Lê Viên, Mai Đình, Tùng Quế, Phượng Địch, Pha Bôi, Tiễn Đao, Ỷ Song, được người bấy giờ rất là truyền tụng, tiếng tăm lừng lẫy. 
1 Nhị Nam: Hai chương đầu, gồm nhiều bài của Kinh Thi, xưa cho là những bài có ý nghĩa giáo hóa các bậc vua, hoàng hậu, và cả thiên hạ. Ý nói có ước vọng cao! Chu Nam, Thiệu Nam. 
2 Thái Tần: tên một bài thơ trong chương “Thiệu Nam", nghĩa: hái rau tần. Khen tặng vợ quan đại phu biết lo việc cúng tế.
 


Cao Lực Sĩ từ Hồ Quảng, rồi đi khắp Lưỡng Việt, chỗ nào cũng tìm kiếm, nhưng chẳng được ai vừa ý, đến Hưng Hóa nghe danh Thái Tần mới mười sáu tuổi, chẳng người sánh kịp. Huyền Tông vừa thấy, mặt rồng rạng rỡ, liền ban ngay làm tần phi, rồi đưa vào nội cung. Thưởng cho Giang Trọng Tốn một nghìn lạng vàng, một trăm tấm đoạn để về dưỡng tuổi già, lại sai Cao Lực Sĩ dẫn vào ban yến ở Quang Lộc tự. Trọng Tốn gạt nước mắt mà quay ra. Huyền Tông vào cung, lập tức lệnh bày yến tiệc, cùng ngồi với Giang Phi ăn uống. Hồi sau, cùng đi nghỉ, mãi cho tới gà gáy, trống canh điểm, ánh nắng đã lên, Huyền Tông vẫn chưa ra điện chầu để nghe triều thần trình công việc. 


Một hôm, vào cung Huyền Tông thấy Giang Phi đang xem bài phú "Mai Đình", nên biết Giang Phi rất thích hoa mai, liền lệnh cho trong cung chỗ nào cũng trồng mai, để sớm thưởng thức, lại ban cho hiệu là Mai Phi. 

Huyền Tông phán: 
- Trẫm mấy hôm nay bận rộn việc triều chính, nay thấy hoa mai nở rộ, hương thơm phảng phất quanh mình, chẳng khác gì ngọc mà có mùi thơm, khiến trong người sảng khoái, sắc đẹp của Mai Phi, dung mạo của hoa mai, khiến cho không thể rời. Người đẹp trên đời, chẳng qua cũng đến như vẻ đẹp thiên nhiên của khanh cùng Triệu Phi Yến là cùng? 
Mai Phi thưa: 
- Chỉ sợ mai rụng, trăng tàn, lại đến thời võ vàng ngay thôi! 
Huyền Tông đáp: 
- Lòng trẫm như thế, xin có thần hoa chứng giám cho? 
Mai Phi thưa: 
- Chỉ xin đừng phụ lời này, thiếp dẫu có nát thân, cũng không đủ báo ơn vậy! 
Huyền Tông tiếp: 
- Phi tử tài cao, trước đã viết tám bài phú, các quan ở Hàn lâm viện không ai là không tán thưởng. Nay khanh hãy làm một bài phú về hoa mai đi, để trẫm ban cho bách quan xem? 
Mai Phi thưa: 
- Tiện thiếp vốn quê mùa thô lậu, sao có thể địch nổi các bậc hàn lâm tài cao. Chỉ sợ làm xấu ý thánh chúa, chuốc lấy trò cười cho thiên hạ vậy. 
Nói chưa dứt, đã thấy nội thị vào thưa: 
- Thứ sử Lĩnh Nam là Vi Ủng Vật, thứ sử Tô Châu là Lưu Vũ Tích, đều đã tìm được năm cây mai lạ, ngày đêm đem về tiến, đã đến kinh. 
Huyền Tông cả mừng, sai Cao Lực Sĩ để tâm thu nhận, chờ ngày ban thưởng, rồi cùng Mai Phi trở về cung. 
Một hôm, Huyền Tông yến ẩm với các vương ở Mai viên, lệnh cho đội Lê Viên tử đệ đến hầu. (1) 
1 Lê Viên tử đệ: Huyền Tông lấy ba trăm cung nữ, cho học âm nhạc, ca múa ở Lê Viên (vườn trồng lê), nên đội nữ nhạc về sau thường được gọi là Lê Viên tử đệ. (Tám nguyên từ điển). 


Tiếng tơ tiếng trúc rộn ràng, lời trong nhạc nhẹ. Có bài thơ làm chứng sau đây: 


Tinh vi chạm trổ sáng nhà vàng 
Cho phượng xem công rộn phách đàn 
Tiếng hát du dương vương vấn cột 
Quỳnh tương ai rót dạ quang tràn. 


Các vị vương uống đến nửa tiệc, bỗng nghe tiếng kêu thánh thót trong cung. Các vương hỏi nhau: 
- Tiêu nghe du dương, không hiểu ai thổi, chẳng khác gì ở trên trời cao vẳng xuống vậy kìa! 







Huyền Tông đáp: 
- Đấy chính là Giang Phi của trẫm thổi, anh em nếu không tỵ hiềm gì xin gọi đến đây hầu rượu có nên chăng? 
Các vương thưa: 
- Chúng thần nguyện xin rửa tai để được nghe. 
Lệnh cho Cao Lực Sĩ tuyên triệu Mai Phi tới. Mai Phi sau khi thi lễ cùng các vương. Huyền Tông phán: 
- Trẫm vẫn thường khen khanh là tinh chất của hoa mai chung đúc nên, lại thêm thổi tiêu làm bằng ngọc trắng, múa điệu "Kinh hồng vũ” thì thật là một kỳ công của tạo hóa. Nay các vương cùng yến tiệc ở đây, khanh hãy múa một lần xem sao! 
Mai Phi vâng lệnh, khăn áo gọn gàng xong, đến trước tiệc bắt đầu múa, có bài từ "Tây Giang Nguyệt" làm chứng sau: 

Cánh én tía nhẹ nhàng phơi phớt 
Đóa hải đường còn đợi sương rơi 
Tà áo the bỗng vươn dài 
Dừng tay chưa kịp, tiến rồi lại lui 
Bướm bay bổng dường quay dường đứng 
Chim tung tăng khi lượn lúc vòng 
Gót tiên thoăn thoát cánh hồng 
Bay loan đón gió, múa rồng vờn mây.
 





Múa xong, các vương ca ngợi không ngớt, Huyền Tông phán: 
- Đã xem múa đẹp, không thể không uống say. Nay có rượu ngon của Gia Châu vừa đem tiến, tên gọi là rượu Thụy Lộ Châu, mùi vị rất tốt, cũng nên đem ra đây cùng uống. 
Liền sai nội thị lấy rượu, rót vào chén vàng lệnh cho vai Phi đem mời khắp các vương. Lúc này Ninh Vương đã say, thấy Mai Phi đưa rượu đến mời đứng dậy đỡ chén, không ngờ một chân trượt, đá vào hài thêu của Mai Phi. Mai Phi nổi giận, lập tức quay về cung. 
Huyền Tông hỏi: 
- Tại sao Mai Phi không chào hỏi gì cả mà đã bỏ về? 
Tả hữu thưa: 
- Nương nương bị rơi hài ngọc, về thay cái khác sẽ xin quay lại. 
Chờ một hồi, lại sai người triệu đến. Mai Phi thưa: 
- Bỗng nhiên trong bụng thấy đau, không thể nào đứng dậy được? 
Huyền Tông phán: 
- Nếu đã thế thì nên bãi yến thôi? 
Ai nấy ra về. Ninh Vương lo sợ hồn xiêu phách lạc, bỗng nhớ tới phò mã Dương Quýnh, vốn túc trí đa mưu, lại được thánh thượng sủng ái liền mật sai người mời đến thương nghị. Dương Quýnh đến ngay, lễ chào xong, Ninh Vương cất tiếng: 
- Ta dự yến ở Mai Viên, cũng chỉ bởi uống nhiều rượu, lỡ gây chuyện không hay. 
Dương Quýnh hỏi: 
- Có phải là chuyện đùa Mai Phi chăng? 
Ninh Vương hỏi: 
- Sao phò mã biết? 
Dương Quýnh thưa: 
- Nếu không có người biết, trừ khi không làm. Bây giờ chỉ còn một người không biết chuyện này, đó là chúa thượng vậy. 
Ninh Vương tiếp: 
- Ta mời phò mã lại bàn, nếu như Mai Phi mách chuyện này với chúa thượng, ta phải làm thế nào bây giờ cho yên thân đây? 
Dương Quýnh nghĩ ngợi một hồi rồi nói: 
- Chẳng có điều gì đáng lo, Quýnh này có hai kế liền, khiến chẳng có việc gì cả! 
Rồi ghé tai Ninh Vương nói mấy câu. Ninh Vương cả mừng, theo kế mà làm; sáng ngày mai vào triều, cởi trần, lê gối đến trước sân rồng chịu tội: 
- Ơn thánh thượng ban yến, tinh thần không thắng nổi rượu mạnh, không để ý đến nỗi đụng phải hài của Mai Phi. Thần thật không còn lòng nào, tội thật đáng chết vạn lần. 
Huyền Tông phán: 
- Chuyện này nếu mà bàn cho kỹ, thì thiên hạ sẽ bảo trẫm trọng sắc đẹp, mà bỏ quên cả thiên luân. Nếu khanh đã vô tình như thế, trẫm cũng chẳng luận tội làm gì! 
Ninh Vương dập đầu tạ ơn đứng dậy. Dương Quýnh lại tâu riêng với Huyền Tông rằng: 
- Thần thấy tần phi ở các cung, có đến khoảng ba vạn người, (1) thế thì còn lệnh cho Cao Lực sĩ đi khắp nơi tìm người đẹp làm gì? 
1 Nguyên văn: "Ước hữu tam vạn dư nhân". 

Huyền Tông đáp: 
- Phi tần vốn nhiều, người đẹp chẳng có bao, chỉ cần có được một sắc đẹp nghiêng thành cũng đủ làm nguồn vui lớn của cả đời người ? 
Dương Quýnh thưa: 
- Bệ hạ muốn có sắc đẹp nhạn sa cá lặn như thế thì chẳng ai bằng Dương Ngọc Hoàn, phi tử của Thọ Vương, dung mạo tuyệt thế, thực là chẳng ai sánh được. 
Huyễn Tông hỏi: 
- So với Mai Phi ra sao? 
Dương Quýnh đáp: 
- Thần quả chưa thấy được tận mắt, chỉ nghe Thọ Vương làm từ ca ngợi Ngọc Hoàn trong đó có câu rằng: 


Ba tấc sóng lay màn nước xoáy 
Hai bàn tay thoảng tiếng đàn thơm. 
Năm thứ hai mươi mốt, đời Khai Nguyên, mùa đông, chư hầu đến Thọ để (1) có người được thấy, làm thơ ngợi ca: 
Chỉ có trời xanh thẳm 
Chả thấy Sơn thấy Tề. (2) 
Sao bệ hạ không triệu vào xem sao. 
1 Thọ để: nhà để cho các chư hầu đến hầu ở, hoặc ở dinh các vương hầu. 
2 Sơn: tức Thái Sơn, núi lớn của Trung Hoa. Tề, tức nước Tề, vùng đông dân, thịnh vượng thuộc phía đông. ý nói đứng trước Dương Phi thì mọi sự lớn nhỏ đều quên hết.



Huyền Tông nghe thích lắm, sai ngay Cao Lực Sĩ, đi triệu Dương Phi tới. 
Lực Sĩ lĩnh chỉ, lập tức tới Thọ Vương cung, tuyên triệu. Dương Phi hỏi: 
- Thánh thượng triệu ta làm gì? 




Lực Sĩ thưa: 
- Kẻ nô lệ này không biết. Xin nương nương cứ tới gặp, sẽ biết ngay thôi mà. 
Dương Phi lặng lẽ nói với Thọ Vương: 
- Thiếp thờ điện hạ, đã nguyện đến thuở bạc đầu, không ngờ thánh thượng sai Cao Lực Sĩ tới triệu thiếp vào cung. Nghĩ lần đi này thực là vĩnh quyết với điện hạ. 
Thọ Vương cầm tay Dương Phi, khóc mà nói rằng: 
- Thế đã đến thế, không thể trái lệnh. Chuyến đi này, không vừa ý thánh thượng, thì may ra còn có dịp gặp lại, muôn vàn trân trọng? 
Lực Sĩ giục giã bên ngoài, Dương Phi đành phải bái biệt Thọ Vương, rơi nước mắt ra khỏi cung. 
Chính là: 
Trân trọng tin đòi năn nỉ lắm 
Về hiên nên hỏi trước gương chăng? 
Lực Sĩ đưa Dương Phi về phục chỉ, Dương Phi cố giấu vẻ thẹn thùng bước ra lạy chào, rồi phủ phục dưới thềm. Huyền Tông ban cho đứng dậy. Lúc này trong cung đèn nến thắp cao, dưới ánh sáng ánh đèn, nhìn kỹ Dương Phi, chỉ thấy: 


Xanh biếc đôi mày 
Trán như sáp nặn 
Áo bướm nửa hẹp nửa thùng 
Quần loan không dài không ngắn 
Lưng ong như liễu, gót sen đưa 
Tóc mướt dường mây, trâm ngọc quấn 
Tây Thi đất Việt cũ, hẳn kém thanh tân 
Nam Tử nước Vệ xưa, còn thua phong vận 
Đẹp sao mà đẹp, hương lửa lọc lừa 
Xinh quá là xinh, gió mây vương vấn 
Một nụ cười ngàn vạn trẻ tươi 
Sáu cung son phấn phai mờ hẳn. 


Huyền Tông sai Cao Lực Sĩ, hỏi ước nguyện của Dương Phi. Phi thưa xin làm nữ đạo sĩ. Huyền Tông liền ban cho đạo hiệu Thái Chân, ở cung Thái Chân, rồi nói với Dương Quýnh: 
- Hai khanh hãy tạm lui, ngày mai trẫm sẽ thưởng hậu. 




Ninh Vương mới đỡ lo, cùng Dương Quýnh ra khỏi điện. 


Năm thứ tư đời Thiên Bảo, Huyền Tông đứng ra gả con gái của Tả vệ tướng quân Vi Chiêu Huấn cho Thọ Vương làm phi, rồi yên lặng chuyển Thái Chân vào trong cung. Lệnh cho trăm quan đến vườn Phượng hoàng, ghi vào sổ sách, đưa Thái Chân cung nữ, đạo sĩ Dương Thị làm quý phi. Phụ thân là Dương Nguyên Diễm, người ở Hoàng Nông thuộc Hoa Am, chuyển sang ở thôn Độc Đầu vùng Bồ châu, thời đầu niên hiệu Khai Nguyên làm tư hộ Thục Châu, vì vậy Dương Quý Phi sinh ở đất Thục, sớm mồ côi ở với chú làm ở dinh phủ Hà Nam là Dương Nguyên Khuê. Vào sổ quý phi rồi, liền truy phong Nguyên Diễm là Binh bộ thượng thư, mẹ là Lý Thị làm Lương Quốc phu nhân, chú Nguyên Khuê làm Quang lộc khanh. Anh tên Thiểm, làm thị ngự sử, anh con bác ruột là Chiêu, ban chức thị lang. 


Người anh Dương Chiêu này vốn là con của Trương Xương Tông, gửi nuôi ở nhà họ Dương. Huyền Tông thấy tên Chiêu có ý sắt thép, dao búa (1) mới ban đổi tên là Quốc Trung. Họ Dương từ đó quyền nghiêng thiên hạ. Ngay đêm Dương Quý Phi vào cung, múa điệu "Nghê thường vũ y khúc", được ban thoa, vòng tai vàng, hộp đựng cũng bằng vàng, Huyền Tông tự lấy nước quý lệ thủy, cất ở Tử khố, mài vàng thành dây tua gài đầu, thân mang đến lầu trang điểm, gài lên mái tóc Dương Quý Phi. 
1 Chữ chiêu gồm bộ kim: chỉ sắt thép, kim loại và chữ đao, nghĩa là đao kiếm. 




Từ ngày sủng ái Dương Quý Phi thì càng bỏ liều Mai Phi. Mai Phi vì vậy mới hỏi cung nữ thân cận là Yên Hồng: 
- Người có biết tại sao mấy hôm nay hoàng thượng không đến cung ta là tại làm sao? 
Yên Hồng thưa: 
- Tiện thiếp làm thế nào mà biết được. Trừ phi phải gọi Cao Lực Sĩ đến, thì mới hiểu nổi nguyên do. 
Mai Phi tiếp: 
- Người hãy tìm họ Cao đến đây, để ta hỏi xem sao? 
Yên Hồng vâng lệnh, vào đến ngự uyển, thấy Cao Lực Sĩ ngủ ngay ở hành lang, Yên Hồng nói: 
- Để ta đùa tay này chút chơi! 
Liền lại cây đào thiên điệp, hoa lá xanh tươi, lấy một cành nhỏ, ngắt từng bông một cắm vào mái tóc Cao Lực Sĩ, bẻ một ngọn nhỏ, ngoáy vào mũi họ Cao. Họ Cao chợt tinh, thấy Yên Hồng, liền hỏi: 
- Cô em Yên Hồng ơi! Cô em tới đây có việc gì thế? 
Yên Hồng cười: 
- Giang nương nương riêng sai tiện tỳ tìm Cao Thường thị đây! 
Cao Lực Sĩ liền cùng Yên Hồng quay về cung Mai Phi, chào thưa xong. Mai Phi hỏi: 
- Thánh thượng mấy hôm nay, vì sao không thấy đến cung ta là làm sao? 
Lực Sĩ thưa: 
- A hà? Thánh thượng hiện ở Nam cung, vừa mới triệu được Dương Phi của Thọ Vương, sủng ái không ai bằng. Nương nương thật không biết gì cả sao? 
Mai Phi đáp: 
- Ta nào có biết gì đâu. Hãy nói xem thánh thượng đối với họ Dương ra sao? 
Lực Sĩ thưa: 
- Từ ngày Dương Phi vào cung đến nay, mặt rồng hớn hở, tự tay ban thoa ngọc vòng vàng, lại phong quan chức cho cả họ, được ban xưng là nương tử, mọi thứ nghi thức chẳng gì khác hoàng hậu. 
Mai Phi nghe xong, lập tức nước mắt ứa hai hàng lặng lẽ: 
- Ta ngay từ ngày mới vào cung, đã nghĩ rồi sẽ có chuyện này, không ngờ lại thành sự thực, Cao Thường thị hãy lui ra, ta đã có dự liệu cả rồi! 
Cao Lực Sĩ lui ra. Yên Hồng đem cảnh ngự uyển nhộn nhịp, vui vẻ ra sao kể lại. Mai Phi nghe xong không giấu nổi giận hờn. Yên Hồng khuyên: 
- Nương nương chẳng nên phiền não, như ý nông cạn của tiện tỳ này, chi bằng nương nương cứ trang điểm gọn gàng, rồi tới Nam cung, xem ý tứ thánh hoàng ra sao. 
Mai Phi nghe ra, đến bên đài gương chải tóc, trang điểm soi mình trong "Lăng Hoa bảo kính", mà than thở: 
- Trời ơi! Giang Thái Tần ta dung mạo dường ấy, nay đã tiều tụy đến thế này, làm sao không đến đứt ruột cho được. 
Giọt ngắn nối giọt dài, chẳng còn lòng nào mà trang điểm nữa, Yên Hồng cùng bọn cung nga khuyên nhủ mãi, cùng nhau kẻ mày, đánh phấn, giắt trâm, đeo vòng cho Mai Phi, xong đâu đó, mới cùng sáu bảy cung nga, từ từ đi đến Nam cung. 



Gặp lúc Huyền Tông đang một mình, thơ thẩn dưới bóng cây mát, Mai Phi đến trước lạy chào. Huyền Tông hỏi: 
- Hôm nay có trận gió tốt lành nào mà lại thổi được khanh tới đây thế? 
Mai Phi khẽ cười thưa: 
- Thời tiết thuận hòa, gió nam luân chuyển, đưa thần thiếp đến đây giải chút tịch liêu. 
Huyền Tông phán: 
- Hoa đẹp ngay bên, đang định sai người đi triệu khanh tới, để cùng được say sưa! 
Mai Phi thưa: 
- Nghe nói bệ hạ vừa có thêm Dương Phi, thần thiếp xin đến mừng, vừa là để xem mặt cô dâu mới vậy! 
Huyễn Tông đáp: 
- Chẳng qua bỗng nhiên lại được hoa đồng nội, chẳng đủ dính răng. 
Mai Phi vẫn xin được gặp mặt, Huyền Tông bất đắc dĩ phải nói: 
- Ái khanh vẫn có lòng mến yêu đến thế, trẫm sẽ triệu đến đây. Nhưng khi Dương Phi đã đến rồi, ái khanh dừng đem lòng phiền muộn. 
Mai Phi thưa: 
- Thần thiếp xin vâng mệnh, chỉ được thấy mặt là lui ngay. 
Huyền Tông đáp: 
- Thế thì chẳng có gì khó! 
Liền lệnh triệu Dương Phi. Dương Quý Phi lễ chào Mai Phi xong, Huyền Tông truyền lệnh bày yến tiệc, rượu được hơn ba tuần, 
Huyền Tông phán: 
- Mai Phi vốn có tài Tự Nữ (1) đừng tiếc lời hãy làm một bài thơ xem sao? 
1 Tự Nữ: tức Tạ Đạo Uẩn, vợ Vương Ngưng Chi đời Tấn, thông minh, học rộng, có tài biện bác. Hiếu Chi, em của Ngưng Chi, ăn nói không thông. Đạo Uẩn ngồi trong màn gà cho em chồng. Nhờ vậy mà Hiến Chi khuất phục được khách khứa. (Tầm nguyên từ điển). 


Mai Phi thưa: 
- Vạn nhất không mang được ý ngợi ca, xin mong thánh thượng tha tội. 
Dương Quý Phi cất tiếng: 
- Thiếp vốn chẳng mang dáng bồ vóc liễu, đâu xứng để nương nương đem văn chương ngợi ca cho được!
Huyền Tông phán: 
- Cả hai khanh không cần phải quá khiêm nhường! 
Sai ngay tả hữu đem một bức cẩm tiên, đặt trước mặt Mai Phi. 
Mai Phi nâng bút, viết ngay một bài thất ngôn tuyệt cú: 


Gạt phăng mây Sở, đổ non Vu 
Xuân một đêm nghiêng ngửa ngọc lầu 
Da tuyết mặi hoa ai sánh kịp 
Sông trời gấm vóc những vì vua. 


Mai Phi viết xong, trình lên, Huyền Tông khen thưởng không ngớt, đưa cho Dương Quý Phi. Dương Quý Phi xem qua một lần, lòng thầm nghĩ: "Bài thơ tuy hay, nhưng vẫn mang nhiều ý châm biếm, nhắc tính mây Sở, non Vu, chính là để chọc việc ta từ chỗ Thọ vương mà vào cung. "Sông trời gấm vóc những vì vua", là để chỉ chuyện ta đẫy đà béo tốt đây. Ta hãy trả lời vài câu, xem ý tứ của họ Giang này ra sao!". Liền nói với Mai Phi: 
- Lời thơ của nương nương thật là dệt gấm thêu hoa, xưa nay không người sánh, xin để thiếp được họa vài câu liệu có được không? 
Mai Phi đáp: 
- Thơ vừa tả được muôn một, mà đã được người đẹp quá khen, thiếp thật thỏa nguyện. 
Dương Quý Phi cũng lấy một tờ cẩm tiên rồi viết một bài thất ngôn tứ tuyệt: 
Sắc nước chưa từng giảm vẻ xuân 
Cành mai trên tuyết ánh muôn phần 
Dám nhờ một sớm xuân đưa gió 
Đừng để hoa nào đọ trước sân.(1) 
1 Hai bài thơ của Mai Phi, Dương Phi cùng vần, vì hạn chế của việc dịch, nên phải dùng hai vần khác nhau. 


Huyền Tông thấy Dương Quý Phi viết xong, liền khen ngay: 
- Cũng thật đáng tài mẫn tiệp vậy! 
Rồi đưa cho Mai Phi: 
- Khanh hãy xem xem sao! 
Mai Phi đỡ lấy xem, nghĩ thầm: “Họ Dương nói "Cành mai trên tuyết ánh muôn phần", là cười cái dáng gầy của ta, "Đừng để hoa nào đọ trước sân", là nói ta đã quá thì rồi". Cả hai đều mặt mày có vẻ giận dữ. Cao Lực Sĩ cất tiếng thưa: 
- Các vị nương nương thơ từ xướng như thế này, kẻ nô lệ này xin có mấy lời thô thiển phân giải có nên chăng? 
Huyền Tông phán: 
- Khanh thử nói xem sao? 
Cao Lực Sĩ thưa: 
- Nay xin bệ hạ hãy cùng hai vị ngọc mỹ nhân thong thả dạo tới Cao Dương đài, cùng nhau uống rượu ngon, chờ trăng lên rải trên hoa hải đường, kẻ nô lệ này xin đánh ba hồi trống ca khúc "Hạ Tân Lang" (1). Tất cả đều ngà ngà say chờ đón gió đông lên, hoàng thượng cởi phanh áo bào, các nương nương cởi cả áo ngắn, một trận gió đưa hương thơm tới, cùng nhau nằm nghỉ trong Tiêu kim trướng, lúc nào lòng hoa khẽ động thời lại dậy, cả ba cùng vui vẻ. Việc gì mà phải "Niệm nô kiều” với "Tích nô kiều”. Hoàng thượng thì cứ thong thả làm "Điệp luyến hoa", "Ngự du xuân thủy", có phải là sự khoái lạc vạn đời trong thiên hạ không? 
1 Tên một từ khúc, nghĩa đen là "Mừng chú rể!", ý chỉ Đường Huyền Tông! 


Mai Phi, Dương Phi nghe nói đến câu "lòng hoa khẽ động, thời lại dậy, cả ba cùng vui vẻ", bất giác đều khe khẽ cười. Huyền Tông phán: 
- Lời của Lực Sĩ có lý lắm, hôm nay trẫm có cả người đẹp ở đây, chính là lúc nên hoan lạc, tranh cãi làm gì.
Huyền Tông kéo hai người về cung. 
Mai Phi vốn tính hiền lành, về sau Dương Phi ganh ghét nói xấu phải đày ra Thượng Dương cung, nhưng đó là chuyện sau này!
***
Hôm ấy, Huyền Tông đang dạo chơi trong Mai Viên, bỗng nhớ tới Mai Phi, liền sai Cao Lực Sĩ đến xem sao. Họ Cao vâng mệnh tới Thượng Dương cung thấy Mai Phi đang sầu khổ, họ Cao vào lạy chào. 
Mai Phi hỏi: 
- Cao Thường thị, từ ngày ta ra đây đến giờ, chẳng có tin tức gì hay. Hôm nay Thường thị khó nhọc đến dây có việc gì? 
Họ Cao thưa: 
- Hôm nay thánh thượng đi dạo trong vườn Mai Viên bỗng nhớ nương nương bội phần, đặc sai kẻ nô lệ này đến thăm xem sao! 
Mai Phi nghe ra, hớn hở hỏi họ Cao: 
- Thánh thượng sai Thường thị tới thăm, thế là vẫn chưa bỏ rơi ta. Thường thị hãy vì ta mà tạ ơn thánh thượng, tâu rằng không ngày nào ta không ngưỡng chờ thiên nhan, cầu chúc cho ơn thánh đế mãi mãi không thay đổi. 
Họ Cao đáp: 
- Kẻ nô này hiểu rồi! 
Rồi quay về Mai Viên, đem những lời của Mai Phi tâu lên, 
Huyền Tông than thở: 
- Trẫm nào có quên khanh đâu. Cao Lực Sĩ , ngươi hãy tới Lệ Viên, chọn ngay một con ngựa tốt nhất, rồi lặng lẽ triệu Mai Phi tới gác tây của cung Thúy Hoa gặp trẫm, đừng có sai sót. 
Họ Cao vâng mệnh đi ngay, Huyền Tông bỗng gọi lại: 
- Quay lại đã, ngươi hãy làm cho kín đáo, đừng để cho Dương Quý Phi biết. 
Họ Cao thưa: 
- Kẻ nô lệ này hiểu rồi! 
Liền tới Lệ Viên, chọn một con ngựa thật tốt, đến Thượng Dương cung, gặp Mai Phi, Mai Phi hỏi: 
- Cao Thượng thị quay lại có việc gì nữa? 
Họ Cao thưa: 
- Kẻ nô lệ tâu lại những lời của nương nương, hoàng thượng phàn nàn: "trẫm nào có quên khanh!". Sai kẻ nô lệ này chọn ngay một con tuấn mã, mật triệu nương nương tới Thúy Hoa lâu cùng trò chuyện. 
Mai Phi hỏi: 
- Đã là thánh thượng yêu mà gọi đến, thì việc gì mà phải lén lút? 
Cao Lực Sĩ thưa: 
- Bởi sợ Dương Quý Phi biết, rồi ra chuyện chẳng yên. 
Mai Phi tức tối: 
- Sao bệ hạ lại sợ cái con hầu béo ấy? 
Cao Lực Sĩ thưa: 
- Xin nương nương lên ngựa ngay. Thánh thượng chờ đã lâu rồi! 
Mai Phi lên ngựa, đến trước gác, Huyền Tông đón đỡ xuống: 
- Ái khanh, trẫm ngày nào chẳng nghĩ đến khanh. 
Mai Phi quỳ lạy: 
- Thần thiếp mang tội, những nghĩ suốt đời bị quên lãng, không ngờ lại được thấy mặt rồng. 
Huyền Tông lệnh bày yến tiệc, uống được vài tuần, Mai Phi rót một chén, dâng lên Huyền Tông mà thưa: 
- Bệ hạ quả là cuối cùng không bỏ thần thiếp, xin hãy cạn hết chén này! 
Huyền Tông uống cạn, lại rót ban cho Mai Phi một chén. Mai Phi cũng đã gần say, Huyền Tông hai tay ôm hai má Mai Phi, nhìn kỹ mà rằng: 
- Dung nhan ái khanh như thế này, hình như có gầy thêm ít nhiều. 
Mai Phi thưa: 
- Lúc nào cũng trông ngóng, làm sao mà không gầy mòn cho được! 
Huyền Tông an ủi: 
- Càng gầy lại trông càng thanh nhã! 
Mai Phi cười: 
- Chỉ sợ rằng béo lại tốt mới thôi! 
Huyền Tông cũng cười: 
- Cái gì cũng có cái hay. 
Lại uống thêm mấy chén nữa, rồi cùng Mai Phi vào buồng, một giấc say sưa, đã thấy trời sáng từ lúc nào.
Dương Quý Phi ở trong cung, không thấy Huyền Tông tới, liền hỏi Niêm Nô: 
- Thánh thượng hiện ở dâu? 
Niêm Nô thưa: 
- Tiện tỳ nghe chúa thượng sai Cao Lực Sĩ gọi Mai Phi tới gác tây của Thủy Hoa cung. 
Dương Quý Phi nghe xong, đi bộ ngay đến gác tây. Bọn thường thị giật mình, vội vào tâu với Huyền Tông: 
- Dương nương nương đã đến trước gác, làm thế nào bây giờ? 
Huyền Tông khoác áo, ôm Mai Phi giấu vào phía sau màn. Dương Quý Phi đến trước mặt Huyền Tông, lễ chào xong hỏi: 
- Tại sao bệ hạ lại dậy muộn thế? 
Huyền Tông đáp: 
- Chẳng qua vì quý phi đến quá sớm mà thôi! 
Dương Quý Phi tiếp: 
- Thần thiếp nghe nói Mai tinh ở đây, riêng đến để gặp mặt! 
Huyền Tông đáp: 
- Mai Phi ở Thượng Dương cung kia chứ? 
Dương Quý Phi vẫn không chịu: 
- Hôm nay được triệu đến đây để cùng nhau hoan lạc say sưa mà! 
Huyền Tông không biết trả lời sao, đành nhìn tả hữu, bọn này cũng không dám nói gì. Dương Quý Phi càng làm già: 
- Thức nhắm hoa quả còn bày đấy, dưới ngự tháp vẫn còn hài ngọc kia. Bên ngôi thì ngổn ngang trâm xuyến. Đêm qua ai hầu bệ hạ ngủ mà vui hoan mãi sáng bạch vẫn chưa dậy để bỏ cả buổi chầu, chẳng còn thể thống gì nữa, xin bệ hạ hãy ra ngay gặp trăm quan. Thiếp sẽ ở lại gác này, chờ ngự giá trở về. 
Huyền Tông lúng túng, hổ thẹn, kéo chăn quay vào phía bình phong ngủ nữa: 
- Hôm nay trẫm không được khỏe, không thể ra thị triều dược! 
Dương Quý Phi càng giận dữ, nhặt trâm xuyến vứt cả xuống đất, quay về cung mình. Bọn tiểu hoàng môn thấy Dương Quý Phi như thế, sợ sinh chuyện lớn, vội đưa Mai Phi về cung. Huyền Tông chờ Quý Phi đã đi khỏi, lại nghĩ tới chuyện cùng vui vẻ với Mai Phi nhưng biết tiểu hoàng môn đã đưa Mai Phi về từ lúc nào, giận lắm, sai đem chém. Rồi tự đứng dậy nhặt trâm xuyến gói lại, lấy thêm một chuỗi ngọc của sứ giả một nước ở biên giới tiến cống, đưa cả cho Vĩnh Tân, sai đem ban cho Mai Phi. 
Vĩnh Tân vâng mệnh, đến Thượng Dương cung, Mai Phi hỏi: 
- Ta động đến cơn ghen của con hầu béo tốt, nó ném những thứ này của ta phải không? Thứ nào vốn của ta, ta xin nhận. Còn vòng ngọc này thì không dám. Lại có một bài thơ đây, phiền người dâng lên chúa thượng, rồi thưa không phải ta ương bướng không nhận chuỗi ngọc, chỉ sợ Dương Phi biết, lại làm khổ chúa thượng mà thôi. 
Vĩnh Tân lĩnh mệnh quay về, đem theo cùng vòng ngọc dâng lên. Huyền Tông xé ra xem, thấy viết: 


Lá liễu mày ngài nhác điểm tô 
Phấn nhòe lệ đẫm, áo chưa khô 
Lãnh cung từ ấy gương mờ bóng 
Tịnh mịch buồn nâng chuỗi ngọc châu. 


Huyền Tông xem xong trong dạ buồn phiền, nhưng vẫn thấy thú vị bởi những lời thơ bay bổng, lệnh cho nhạc phủ tìm điệu mới phổ vào lấy tên là khúc "Nhất đầu châu". 


Về phía Dương Quý Phi, nhớ mãi mối hận này, dò biết đủ mọi chuyện to nhỏ, tìm mọi cách hại Mai Phi. Chẳng biết chuyện sẽ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

HỒI 80
An Lộc Sơn vào cung gặp quý phi,
Cao Lực Sĩ khắp phố tìm tân trạng.
Từ rằng: 
May mắn thay, chúa đoái mỉm cười 
Nhưng đừng được thể dại trêu ngươi 
Kia con sói dữ, con hùm thọt 
Dũa vuốt mài nanh quyết giữ mồi 
Cố dứt ra vẫn còn thôi 
Người người vui kể, việc đời ghê thay. . . 
Dối lừa, nham hiểm vần xoay... 
Theo điệu "Thái bình thời" 


Xưa nay, kẻ sĩ cùng thông, hiển loạn, đều bởi chữ thời, chữ mệnh, không thể nào cậy vào tài trí, sức lực. Dẫu có mệnh, nhưng chúng gặp thời, cũng chẳng thể nào là tung hoành, đó là lẽ thường, chẳng có gì lạ. Cái chính là ở chỗ người đàn bà, dù quý dù tiện, chẳng kể gì đến ngôi thứ, thân hèn nhưng vẫn giữ được nhân cách thanh cao, ngược lại, ngôi sang lại làm đủ điều ô nhục. Giả như Võ Tắc Thiên, Vi Hoàng Hậu, Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa, là những đàn bà dâm loạn, để tiếng xấu, tiếng cười cho muôn đời trong sử sách. Nhưng đáng tiếc, đáng giận là đến đời Đường Huyền Tông, lại vẫn còn sinh ra một Dương Quý Phi nữa. Họ Dương thân chịu ơn sâu chẳng ai quý hiển cho bằng, huống chi thiên tử lúc này vốn là bậc phong lưu khác thường, thế mà vẫn chưa vừa lòng, vừa thấy thằng nô bộc mọi rợ ở biên ải An Lộc Sơn, lại đã cùng y thông tư, làm bẩn cả cung khuyết, để dẫn đến họa không nhỏ sau này, chuyện thế cũng đủ lạ lùng rồi. 


*** 


Nay hãy nói chuyện An Lộc Sơn, là giống người Di ở Doanh Châu, vốn là họ Khang, lúc đầu tên là A Lạc Sơn, cũng bởi mẹ tái giá với họ An nên mới đổi họ An, tên đổi Lộc Sơn, vốn tính tình gian xảo giỏi dò ý tứ kẻ khác. Về sau bộ lạc của y tan vỡ, chạy tới U Châu, tìm đến tiết độ sứ Trương Thủ Khuê, ThủKhuê đem lòng yêu, nhận làm con nuôi, ra vào hầu hạ. 


Một hôm, Thủ Khuê rửa chân, Lộc Sơn đứng hầu ở bên, thấy Thủ Khuê ở gan bàn chân trái có tới năm nốt ruồi, nên cứ nhìn mà cười. Thủ Khuê nói: 
- Năm nốt ruồi này của ta, mọi người đều nói là quý tướng, sao ngươi lại cười? 
Lộc Sơn đáp: 
- Con là bậc hèn hạ, mà ở cả hai gan bàn chân đều có tới bảy nốt ruồi kia. Nay thấy ân tướng là bậc quý nhân, dưới gan bàn chân cũng có nốt ruồi đen, nên bất giác không nhịn được cười. 
Thủ Khuê nghe nói, bèn bảo cởi ngay giày xem sao, đúng là dưới gan cả hai bàn chân của Lộc Sơn đều có bảy nốt ruồi, xếp thành hình thất tinh (1) so với ThủKhuê còn to hơn, liền lấy làm kỳ lạ, vì vậy lại càng yêu quý Lộc Sơn hơn. Rồi nhờ mấy lần có quân công, liền đưa Lộc Sơn làm tới Bình Lô thảo kích sứ. Lúc này, có một bộ lạc thuộc Khiết Đan, làm loạn xâm phạm biên giới. ThủKhuê lệnh cho Lộc Sơn dẫn binh lính tiễu trừ. Lộc Sơn cậy khỏe không chịu nghe theo mưu kế của Thủ Khuê, dẫn binh coi thường xông vào, bị Khiết Đan đánh cho đại bại phải trốn chạy về. Thủ Khuê vốn nghiêm minh, các tướng mà phạm quân lệnh đến nỗi bại trận, đều chiếu theo pháp quân mà trị tội. Lộc Sơn cũng không vì là con nuôi mà được giảm nhẹ, một mặt viết sớ tâu về triều đình, một mặt lôi Lộc Sơn ra trước hàng quân để chịu chính pháp. Đến lúc lâm hình, Lộc Sơn hét to trước mặt Thủ Khuê rằng: 
- Ân tướng định dẹp giặc, tại sao lại nhẹ dạ giết cả đại tướng? 
1 Thất tinh: bảy ngôi sao, chỉ bảy ngôi của chòm bắc đẩu, xếp thành hình chiếc ghế dựa, còn gọi là chòm Đại hùng. 


Thủ Khuê cũng động lòng, liền lệnh hoãn gia hình, đem Lộc Sơn giải về kinh sư, chờ thánh ý định đoạt. Lộc Sơn hối lộ bọn nội thị, nhờ che chở cho trước mặt Huyền Tông. Lúc này, triều thần đều đồn là Lộc Sơn coi thường phép quân đến nỗi bại trận, đáng nên chém đầu, lại thêm có tướng làm phản, không nên để sống mà gây họa về sau. Huyền Tông bởi trước đó đã nghe lời ton hót của bọn nội thị, nên cuối cùng không chịu nghe lời tâu của trăm quan, giáng chỉ tha tội chết cho Lộc Sơn, lại cho giữ nguyên chức Bình Lô thảo kích sứ, được đái tội lập công. 


Lộc Sơn vốn thừa mưu mẹo nịnh hót, giả dạng hiền lương, trở về Bình Lô, phàm có bọn tay chân của Huyền Tông ghé qua, đều được tiếp đãi quà cáp rất hậu. Cho nên trong tai Huyền Tông chỉ thường được nghe những lời ngợi khen Lộc Sơn càng ngày càng tin y hiền đức, được thăng thưởng luôn luôn, chẳng mấy chốc đã tới Doanh Châu đô đốc Bình Lô tiết độ sứ. Đến năm thứ hai đời Thiên Bảo (1) triệu vào kinh, rồi được giữ lại kinh làm thị ngự. Lộc Sơn vốn giảo hoạt, bề ngoài ra vẻ ngu đần, ngay thẳng, nên được Huyền Tông cho là thành thực, ngày càng sủng ái, gặp mặt rồng lúc nào cũng được, nội cung nghiêm cấm là thế, nhưng muốn ra vào lúc nào cũng xong. 
1 Tức năm 743 sau công nguyên. Việt Nam đang thuộc Đường, Bắc thuộc lần thứ ba.


Một hôm, Lộc Sơn kiếm được con chim anh vũ lông trắng, rất giỏi nói tiếng người, liền nhốt trong một cái lồng đan bằng sợi vàng, định dâng lên Huyền Tông. Biết vua đang ngoài ngự uyển, nên xách lồng chim tìm đến. Huyền Tông đang cùng Thái tử dạo trước các luống hoa, Lộc Sơn liền treo lồng chim lên cành cây, chạy đến quỳ lạy Huyền Tông, mà không hề chào hỏi Thái tử. Huyền Tông hỏi: 
- Sao khanh không bái lạy Thái tử? 
Lộc Sơn giả vờ hỏi: 
- Thần vốn ngu độn, không hiểu Thái tử là loại quan chức gì? Mà đấng chí tôn lại lệnh cho bái lạy? 
Huyền Tông cười đáp: 
- Thái tử là bậc trừ quân (1) không phải là quan tước gì cả, mai kia mà trẫm thiên thu vạn tuế, là vua kế tục trẫm, sao khanh lại không lạy chào? 
1 Trừ quân: chuẩn bị lên ngôi vua, hoàng tử. 


Lộc Sơn thưa: 
- Thần vốn nòi man di, lâu nay chỉ biết có mỗi một mình hoàng thượng, chúng thần phải tận tâm báo đền ơn đức, mà chưa biết rõ Thái tử cũng là bậc đáng kính như hoàng thượng vậy! 
Huyền Tông quay lại bảo Thái tử: 
- Người này quả thật là quá thật thà! 
Chim anh vũ trong lồng bỗng cất tiếng: 
- An Lộc Sơn mau bái Thái tử đi! 
Lộc Sơn đến trước Thái tử lạy chào, rồi mới đem dâng anh vũ. 
Huyền Tông hỏi: 
- Chim này không những nói được tiếng người mà còn hiểu được cả ý người ta nữa. Khanh kiếm được ở đâu thế này? 
Lộc Sơn liền khoác lác: 
- Thần dạo trước chinh phạt Khiết Đan, đến mãi quận Bắc Bình nằm mơ thấy danh thần đã mất của triều trước là Lý Tĩnh, đòi thần phải cúng lễ, thần liền làm ngay. Trong lúc đang bái lạy trước đàn, bỗng anh vũ từ trên trời bay xuống, thần cho là điềm lành, bắt lấy nuôi, nay đã thuần thục, mới dám dâng lên. 
Anh Vũ cất tiếng: 
- Thôi đừng nhiều lời. Quý Phi Nương nương đã tới kia kìa! 


Lộc Sơn đưa mắt trông ra, thấy rất nhiều cung nga theo hầu xung quanh một hương xa, kẻ trước người sau rộn ràng. Gần tới nơi, Dương Quý Phi xuống xe, cung nga đỡ lấy trước Huyền Tông lạy chào. Thái tử cũng làm lễ xong, mọi người ngồi. Lộc Sơn tránh mặt phía sau, Huyền Tông lệnh cho đứng lại ra mắt. Lộc Sơn liền tiến lại, lạy chào Quý Phi rồi đứng vòng tay hầu dưới thềm. Huyền Tông chỉ lồng anh vũ, nói với Quý Phi: 
- Con chim này nói tiếng người rất thạo, lại còn biết cả ý người nữa kia đấy! 
Rồi nhìn Lộc Sơn, nói tiếp: 
- Chính là An Lộc Sơn này dâng, nên đem vào trong cung mà nuôi. 
Quý Phi thưa: 
- Anh vũ vốn là loài chim dễ học tiếng người, nhưng giống lông trắng như thế này hiếm lắm, nếu lại biết cả ý người nữa thì thật quý giá. 
Liền sai cung nữ Niêm Nô xách về cung, nhân đó liền hỏi: 
- Đây chính là An Lộc Sơn sao, hiện làm quan gì? 
Huyền Tông đáp: 
- Thuở trước vốn là con nuôi của Trương Thủ Khuê, nay hầu hạ trẫm đây, tức cũng như con nuôi trẫm vậy. 




Quý Phi thưa: 
- Nếu thực sự như ý thánh thượng, thì người chính là con nuôi thiếp sao? 
Huyền Tông cười: 
- Quý Phi nếu thấy có thể nhận làm con được thì cứ nhận mà nuôi. 
Quý Phi thấy Huyền Tông nói thế, nhìn thật kỹ Lộc Sơn, cười mà không đáp. Lộc Sơn vội tiến sát điện, bái lạy Quý Phi mà thưa: 
- Con mong quốc mẫu sống nghìn năm! 
Huyền Tông cười: 
- Lộc Sơn, khanh sai lễ rồi, muốn bái lạy quốc mẫu, trước tiên phải bái lạy phụ hoàng đã chứ! 
Lộc Sơn quỳ lạy thưa; 
- Thần vốn là người Hồ, phong tục Hồ trước mẹ rồi sau mới cha. 
Huyền Tông nhìn Quý Phi, phán: 
- Người này thực thà quá? 
Tả hữu bày xong yến, Thái tử nhân mới ốm khỏi không thể ngồi lâu xin về Đông cung trước. Huyền Tông liền lệnh cho Lộc Sơn đứng hầu, nhân lúc rót rượu dâng lên, liếc trộm dung mạo Quý Phi, thật quả là: 


Son thoa quá thắm 
Phấn dồi quá trắng 
Thêm vào quá dài 
Cắt đi quá ngắn 
Xem ra đầy đặn 
Nhưng rất nhẹ nhàng 
Muôn vàn kiều diễm 
Dung nhan sáng ngời 
Hỡi trời ơi! Hỡi vua ơi! 
Nghiêng thành nghiêng nước 
Nào phải riêng ai thẫn thờ! 


Từ lâu Lộc Sơn đã nghe nói đến vẻ đẹp của Quý Phi, nay bỗng được thấy, mười phần say mê, lại được nhận làm mẹ con, tha hồ mà gần gũi, vì vậy lòng này đã nảy ngay những ý định bất lương. Về phía Quý Phi thì vốn phong tình quen thói, chẳng còn gì phải xem mặt mới chọn người, chỉ cần trai khỏe mạnh càng hay, nay thấy Lộc Sơn thân hình nở nang, mũi má đầy đặn, cường tráng, tưởng như có thể vốc được, liền động ngay tà tâm. 


Chính là: 
Sắc đẹp vốn quý thật rồi 
Chê là ngắm vuốt xui người động tâm 
Huyền Tông dễ dãi là nhầm 
Xem hai con thú đã ngầm hẹn nhau.
***
Chuyện chia hai mối, nay hãy khoan nói việc An Lộc Sơn thân cận với Dương Quý Phi, hãy nói chuyện năm nay là có kỳ thi hội, Lễ bộ vâng mệnh mở khoa thi lấy nhân tài, nên lệnh cho các châu quận, truyền cho sĩ tử về kinh ứng thí. 


Lúc này ở Cẩm Châu thuộc Tây Thục, có một bậc tài tử, họ Lý tên Bạch tự Thái Bạch, nguyên là cháu chín đời chúa Tây Lương Lý Cao, mẹ nằm mộng thấy sao Trường Canh rơi xuống bụng mà sinh, vì vậy mới lấy tên thế.(1) Lý Bạch sinh ra thiên tư mẫn tiệp, tính cách thanh kỳ, nghiện rượu hay thơ, khinh tài nghĩa hiệp, tự lấy hiệu là Thanh Liên Cư sĩ, ai nấy thấy phong điệu khác thường nên gọi là Lý Trích Tiên (2). Họ Lý cũng chẳng cầu quan chức, chỉ thích ngao du bốn bể, xem kỳ hết núi sông kỳ vĩ trong thiên hạ, nếm cho khắp rượu ngon của chín châu. Trước đã trèo núi Nga Mi, rồi dạo vùng Vân Mộng, sau đó đặt chân đến Trúc Khuê, cùng với Khổng Sào Phù, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Trương Thúc Minh, Đào Miện, tối ngày uống say, mang tên là nhóm "Trúc Khuê lục dật". Nhân thấy mọi người nói rượu ở Ô Trinh vùng Hồ Châu cực ngon, không ngại xa cách ngàn dặm tìm đến. Đang lúc say sưa, trong quán rượu, vừa uống vừa ngâm thơ, coi xung quanh như không có người. Tư Mã Thích Châu là Ngô Quân, tình cờ đi qua, nghe giọng ngâm như người cuồng, sai người tra hỏi, Thái Bạch thuận miệng đọc ngay một bài thơ tuyệt cú thất ngôn để trả lời: 
Cư sĩ Thanh Liên, hiệu Trích Tiên 
Ẩn danh quán rượu ba mươi niên 
Hồ Châu tư mã hỏi gì đấy 
Kiếp trước Như Lai ấy thực tên. 


Ngô Quân nghe ra, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nói rằng: 
- Thì ra Lý Trích Tiên sao! Nghe tiếng đã lâu, sao giờ có may mắn gặp ở đây! 
1 Trưởng Canh: tức sao Kim, ngôi sao gần quả đất nhất của hệ mặt trời, nên ánh sáng rất rõ. Còn gọi là Thái Bạch, Kim Tinh, Minh Tinh, Khai Minh (Từ Hải). 
2 Lý Trích Tiên: Ông tiên bị đày xuống trần họ Lý.
 


Liền xuống xe, mời về thư phòng trong dinh tư mã trò chuyện, uống rượu làm thơ, giữ suốt ngày này sang ngày khác. Ngô Quân mấy lần khuyên Lý vào ứng thí, Lý Bạch đem việc lâu nay thi cử chẳng công minh gì, ý không muốn nghe. Trong lúc trù trừ, lại khớp Ngô Quân được thăng về kinh, ngay ngày hôm sau phải lên đường, liền kéo cả Lý Bạch theo về luôn. 


Một hôm, tình cờ dạo chơi ở Tử Cực cung, gặp thiếu giám Hạ Tri Chương, xưng hô họ tên, lập tức kính mộ lẫn nhau. Tri Chương mời Lý Bạch vào lầu rượu, cởi ngay thắt lưng vàng, đổi lấy rượu cùng uống, thật say sưa, vui vẻ mới chia tay. 


Kỳ thi tới gần, triều đình chấm Tri Chương làm Tri cống cử, lại ra đặc chỉ, mệnh Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ làm nội ngoại giám đốc kiểm điểm xếp quyển thi để quan chủ khảo phê duyệt. Hạ Tri Chương thầm nghĩ: "Nay ta phụng mệnh làm Tri cống cử, nếu Lý Bạch vào thi, nhất định là ta phải tiến cử rồi. Nhưng họ Lý vốn là một kẻ cao ngạo, nếu nói chuyện này với các quan trong trường thi thì họ Lý sẽ xem như bị coi thường lại không chịu thi. Thơ văn của họ Lý, nghìn người đều thấy, cũng chẳng cần gì phải nói trước với ai, vẫn đậu mà thôi. Chỉ cần quyển thi được các quan giám đốc sắp xếp đưa sang, nên ta cần nhắc Quốc Trung cùng Lực Sĩ, cho hai người này để ý cho là xong thôi." 


Thế rồi một mặt nói với Ngô Quân, cố khuyên giải Lý Bạch ra ứng vào trường thi. Nào ngờ họ Dương, họ Cao nguyên cùng cánh với Hạ Tri Chương, vốn tiểu nhân lấy cái hẹp hòi của mình để đo lòng người quân tử, những tưởng rằng Tri Chương nhận hối lộ của người ta rồi, lại chỉ dùng lời suông để thương lượng với bọn chúng, chúng bèn nhớ kỹ tên họ Lý Bạch, tìm cách làm hại. Đến ngày thi, Lý vào trường, qua mấy vòng thi, lần nào cũng chỉ cần vẫy bút là xong, giao nạp quyển thi đầu tiên bao giờ cũng là Lý Bạch. Dương Quốc Trung thấy quyển thi đề tên họ Lý, chẳng kể hay dở, cầm bút sổ toẹt, mà rằng: 
- Quyển này chữ viết ngoằn nghèo, làm sao mà đưa sang được. 
Lý Bạch đứng bên định cãi, Quốc Trung lớn tiếng nạt. 
Cao Lực Sĩ cũng nói thêm vào: 
- Mài mực cũng không đáng, chỉ đáng cởi giày cho ta thôi! 
Rồi quát tả hữu, kéo ngay Lý Bạch ra. 
Chính là: 


Vân chương bẻ họng 
Tranh cãi ra sao 
Dẫu rằng tài cao 
Sổ ngang đáng hỏng. 


Lý Bạch ra khỏi trường thi, tức giận thấu trời, Ngô Quân phải khuyên giải mãi. Họ Lý thề rằng, mai kia có ngày đắc chí, nhất định sẽ bắt Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ cởi giày, mới hả lòng uất ức ở trong trường thi, Hạ Tri Chương duyệt quyển, cũng đã để ý tìm xem sao, gặp quyển nào có vẻ tài năng, vẫn ngờ rằng của Lý Bạch chăng. Mãi tới khi phóng bảng, tìm khắp cũng chẳng thấy tên của họ Lý đâu cả, trong lòng vô cùng băn khoăn, kinh ngạc. Mãi khi ra khỏi trường thi, mới rõ chuyện họ Dương họ Trương vứt quyển làm nhục, mọi chuyện lại chính do bởi sự dặn dò gửi gắm mà ra. Tri Chương vô cùng ân hận, không nói cũng rõ.
* * *
Lại nói đậu đầu là Tần Quốc Tinh, người anh Tần Quốc Mô, đậu tiến sĩ thứ năm, cả hai là huyền tôn (1) của Tần Thúc Bảo, tài năng từ nhỏ. Anh em đều đậu cao, người người đều ca ngợi. Đến hôm vào điện thí, cả hai vào sân hầu đối sách, mãi tới trưa, mới nạp quyển ra khỏi cung khuyết, người nhà đã trực đón sẵn. Đi đến phường Tập Khanh, nghe chiêng trống rầm trời, thì ra đó là ngày mở hội Thái Bình, lập tức bị cuốn vào đám người đông nghịt, anh em, thầy tớ mỗi người lạc mỗi nơi. Qua được đám hội, Quốc Trinh đã không thấy anh đâu nữa, đành một mình tìm đường về. 
1 Huyền tôn: cháu sáu đời của Thúc Bảo, bảy đời của Tần thái thái, vậy hai người này là cháu nội của cặp sinh đôi nói ở hồi bảy mươi tư. 


Một tiểu đồng bước tới thưa: 
- Công tử, chủ nhân của tiểu nhân có lời mời, hiện đang ở trong vườn hoa đợi công tử! 
Quốc Trinh hỏi: 
- Chủ nhân của ngươi là ai? 
Tiểu đồng đáp: 
- Công tử cứ tới sẽ biết ngay. 
Quốc Trinh cũng nghĩ đây chính là bậc tôn quý trong triều nào, nhân việc thi cử gì đó muốn hỏi chuyện, nên không dám từ. Tiểu đồng dẫn di vào một ngõ nhỏ, qua một cổng kín đáo, đi thêm vài bước, thấy một tường hoa rất cao, cứ men theo tường mà đi nữa, thì đến một vườn hoa cây cối tươi tốt, hồng đưa, biếc đón, một con đường nhỏ, lát bằng đá trắng, phía trước là hồ hai bờ trồng toàn đào, dương liễu men hồ là chim loan, chim hạ dạo nhởn nhơ, từng đôi một tình tứ Trên hồ lại có cầu, lan can màu đỏ uốn vòng xinh đẹp. Đi một đoạn nữa, lại qua một lần cửa, tiểu đồng quay người khóa ngay lại, bên trong có hành lang dài, xung quanh lầu trồng toàn trúc, một mầu xanh lục khắp vườn, từng bước lên cầu cao, có bức đại tự đề ba chữ lớn: "Tử Hư đình", chú rõ “Tây Châu Lý Bạch đề", phía sau lầu lại là bức tường cao ngất, có hai tấm cửa bằng đá đóng kín mít. Tiểu đồng thưa: 
- Xin mời công tử ngồi chờ đây một lát, chủ nhân sẽ ra ngay. 
Rồi chạy ngay vào dinh trong nữa. Quốc Trinh nghĩ ngợi: "Đây không hiểu là dinh của ai, mà có cả vườn hoa đến thế này?". Còn đang băn khoăn, bỗng hai tấm cửa đã mở ra, một cô hầu mặc áo xanh, nhìn Quốc Trinh một thoáng lặng lẽ cười rồi thưa: 
- Chủ nhân có mời công tử vào dinh trong gặp gỡ! 
Quốc Trinh hỏi: 
- Chủ nhân là ai? Sao lại sai ra mời ta? 
Cô hầu không trả lời, chỉ khẽ cười, đưa Quốc Trinh qua cổng đá lầu hoa cao ngất. Trước lầu, hoa muôn màu đua nở, từ trên lầu hai cô hầu khác đi xuống, cùng đón Quốc Trinh lên lầu, tiếng rèm ngọc khẽ động, trong lồng, chim anh vũ cất tiếng: 
- Có khách! Có khách! 
Quốc Trinh đưa mắt nhìn, trên lầu trần thiết vô cùng hoa lệ, bình phong hoa lê, rèm châu ngọc, thủy tinh, óng ánh phản chiếu lóa mắt. Trên bàn hương khẽ đưa mùi long điên hương ngây ngất cả người. Một cô hầu báo phu nhân đã ra, ở cửa phía trái, một cô hầu khác đỡ một mỹ nhân thong thả bước ra, hình dáng ra sao: 


Làn thu thủy, nét xuân sơn 
Lưng eo như liễu, mặt gương hoa đào 
Nét cò lả yêu kiều say tỉnh 
Búi tóc mây khánh ngọc rung rinh 
Phất phơ tà áo bên mình 
Nhà vàng có phải, người quỳnh đây chăng? 


Quốc Trinh thấy vậy, vội quay ra. Hầu gái giữ lại thưa: 
- Phu nhân đang cần gặp công tử! 
Quốc Trinh đáp: 
- Tiểu sinh này là ai, mà dám đường đột gặp phu nhân? 
Vị phu nhân lên tiếng: 
- Công tử là ai, hãy xin cho biết tên tuổi vậy? 
Quốc Trinh vừa kinh ngạc, vừa nghi ngờ, không dám nói họ tên thật, liền đem chữ "Tần" họ mình, chữ "Trinh" tên mình, theo kiểu chiết tự mà dẫn rằng: 
- Tiểu sinh họ Dư, tên Trinh Mộc (1) chưa đến trường quận bao giờ, nhân dạo chơi, gặp tiểu đồng dẫn vào dinh, ngửa xin phu nhân tha tội, ban cho được quay ra! 
1 cho "Tần" bớt nét thành chữ "Dư”, chữ "Trinh" là gốc là cột, chia đôi thành chữ "mộc" và chữ "trinh" đồng âm, mang nghĩa chung thủy trinh tiết. 


Nói xong liền cúi chào rất thấp, phu nhân cũng vội vái trả lễ, đưa mắt liếc nhìn, thấy Quốc Trinh mặt mũi tuấn tú, cử chỉ khiêm nhường lễ phép, mười phần vừa ý, liền bước lại gần bên, giơ cánh tay trắng như ngọc mời Quốc Trinh ngồi. Quốc Trinh lúng túng từ tạ: 
- Tiểu sinh đường đột vào đây, đội ơn phu nhân không bắt tội, đâu lại dám mong được cùng ngồi? 
Phu nhân đáp: 
- Thiếp đêm qua mơ thấy một con chim thanh loan, bay vào trong gác nhỏ, hôm nay công tử tới đây, chính là ứng vào giấc mơ 
lành này. Mai kia công tử nhất định là đại quý, chẳng cần phải quá khiêm tốn đến thế! 
Quốc Trinh đành ngồi xuống, hầu gái dâng trà, phu nhân truyền lệnh dọn tiệc rượu. Quốc Trinh đứng dậy cáo từ, phu nhân cười: 
- Chồng thiếp hiện đi xa, ở đây chẳng ai khác, cứ việc ở lại chẳng có gì đáng ngại. Huống chi cửa khóa mấy từng, công tử đòi đi đâu bây giờ? 
Quốc Trinh nghe ra, cũng liều mọi sự mà ngồi xuống. Hầu gái bày bàn xong, phu nhân kéo Quốc Trinh cùng ngồi ăn uống, chẳng cái phải kể hết sơn hào hải vị, các hầu gái đứng xung quanh. Quốc Trinh lên tiếng hỏi: 
- Xin mạo muội thưa phu nhân họ gì? Chủ nhân hiện giữ quan chức gì? 
Phu nhân cười: 
- Công tử có duyên thế này, lại được người đẹp ngồi bên tiếp tận tình, thế đủ thỏa nguyện, hà tất phải tra hỏi nhiều. 
Quốc Trinh không nói họ tên thật của mình, thấy cũng không nên hỏi kỹ. Hai người hết chén này đến chén khác, uống mãi tới chiều tối, đèn nến thắp lên, cả hai đã ngà ngà. Quốc Trinh nói: 
- Tiệc rượu đã xong, xin cho tiểu sinh ra về. 
Phu nhân cười: 
- Hứng rượu tuy đã cạn, là lúc sóng tình nồng đượm, sao lại nói tới chuyện đi về! Gặp gỡ như hôm nay cũng là vạn nhất tình cờ, đêm khuya thanh vắng, sao lại nỡ để trôi qua vô tình cho được. 
Mãi đến ngày hôm sau, phu nhân cũng chưa chịu cho Quốc Trinh về, Quốc Trinh cũng quyến luyến, không nói lời từ biệt, cứ thế mãi bốn năm ngày. Nào ngờ đến ngày phóng bảng thi đình, Tần Quốc Trinh trúng trạng nguyên cập đệ, Tần Quốc Mô trúng đệ nhị giáp tiến sĩ, đệ nhất danh. (1) 
1 Đệ nhất giáp: gồm trạng nguyên, bâng nhãn, thám hoa. Đệ nhị giáp là những tiến sĩ còn lại. Số một của đệ nhị giáp tiến sĩ, ở Việt Nam còn gọi là hoàng giáp. 


Truyền lô, khắp thành đều biết. Các vị tân tiến sĩ đều tới chờ sẵn ở điện, nhưng mãi vẫn không thấy tân trạng nguyên đâu cả, bộ Lễ liền sai ngay quan đi tìm khắp nơi. 
Huyền Tông nghe biết Tần Quốc Mô là anh ruột Tần Quốc Trinh, liền truyền chỉ. 
- Không thể để em lại trên anh. Nay nhân Quốc Trinh chưa thấy đến, có thể thay Quốc Mô là trạng nguyên, tới dự yến ngay ở vườn Quỳnh Lâm. 
Quốc Mô tâu rằng: 
- Em trai thần ngay hôm vào điện thí ra khỏi cung, đến phường Tập Khánh, gặp đám hội lớn, tụ tập rất đông, anh em lạc nhau, đến nay vẫn chẳng thấy về. Thần sai gia đồng đi tìm khắp nơi, vẫn chẳng thấy tung tích, lòng thần thảng thốt không yên. Xin hoàng thượng hãy phá lệ cũ, tạm hoãn cuộc ban yến ở Quỳnh Lâm, đợi lúc nào em thần quay về. Thần đâu dám thay đổi thứ tự khoa danh. 
Huyền Tông chuẩn tấu, cho ngừng cuộc ban yến, lệnh cho Cao Lực Sĩ, tập hợp nha dịch, kéo về phường Tập Khánh, lùng khắp các ngõ phố, tìm trạng nguyên Tần Quốc Trinh, hạn trong ngày phải tìm cho ra về trình lại hoàng thượng. 
Việc kỳ lạ này, vang động kinh thành, sớm có người thưa đến tai phu nhân. Phu nhân xem đó như một tin mới lạ, thuật lại cho Quốc Trinh nghe: 
- Công tử có biết ở bên ngoài hiện không thấy tân trạng nguyên, triều đình phải sai thái giám Cao Lực Sĩ đi khắp kinh thành tìm cho ra. Thật là chuyện buồn cười. 
Quốc Trinh vội hỏi: 
- Tân khoa trạng nguyên là ai? 
Phu nhân đáp: 
- Cũng là người đứng đầu bảng thi hội, Tần Quốc Trinh, quê ở Tế Châu, trú quán Trường An, dòng dõi Tần Thúc Bảo. 
Quốc Trinh nghe xong, vừa sợ vừa mừng, vội hỏi tiếp: 
- Trạng nguyên không thấy, việc ban yến ở Quỳnh Lâm sẽ ra sao? 
Phu nhân đáp: 
- Nghe nói triều đình định đưa người đậu đầu bảng hai là Tần Quốc Mô lên thay trạng nguyên. Nhưng Quốc Mô từ chối, tâu xin hoãn cuộc ban yến Quỳnh Lâm, đợi tìm thấy trạng nguyên, sẽ xin vâng mệnh dự yến? 
Quốc Trinh nghe xong, vội cúi lạy phu nhân mà rằng: 
- Quý phu nhân, xin cứu tiểu sinh với. 
Phu nhân nâng dậy hỏi: 
- Có chuyện gì? 
Quốc Trinh đáp: 
- Thực không dám giấu nữa, hôm trước mới gặp không dám nói rõ họ tên, tiểu sinh thực là Tần Quốc Trinh vậy! 
Phu nhân nghe xong, ngẩn người một lúc lâu, nhìn Quốc Trinh mà rằng: 
- Nay công tử đã là quan trạng rồi, triều đình hiện đang tìm gấp. Thiếp cũng chẳng dám lưu giữ nữa, đành phải cùng quan trạng từ biệt thôi, thật còn khổ sở nào hơn! 
Vừa nói, nước mắt lặng lẽ hoen đầy hai má đào. Quốc Trinh cũng cảm động không giấu dược: 
- Tiểu sinh cùng phu nhân ân ái chừng ấy, may ra có dịp gặp lại cũng chẳng nên phiền não làm gì. Nhưng nay thánh thượng sai Cao thái giám tìm tiểu sinh, chuyện thành to, chẳng may trên có cật vấn, thì làm thế nào bây giờ? 
Phu nhân nghĩ ngợi một hồi: 
- Không can chi, thiếp đã có cách đây rồi! 
Liền gọi ngay hầu gái cầm ra một bức tranh, giở ra cho Quốc Trinh xem, phía trên là những đám mây ngũ sắc bồng bềnh, phía dưới là lầu gác vườn hoa, đình tạ, lại có cả một mỹ nhân đang dựa lan can ngắm hoa, Phu nhân chỉ bức họa mà rằng: 
- Quan trạng tới trước mặt rồng, chỉ cần tâu rằng gặp một bà già nói: "Phụng mệnh tiên nữ triệu công tử". Rồi dẫn tới thấy cảnh như thế này, người đẹp như thế này, khắp nơi, khắp chốn, từ nhà lầu cho đến đồ dùng nhỏ nhặt hàng ngày đều thật đẹp đẽ khác thường, bị giữ luôn mấy ngày không dám xưng họ tên thật cũng chẳng hỏi được lai lịch người đẹp. Mãi đến hôm nay được thả cho về, nhưng cũng bị họ lấy khăn bịt kín đầu, sai người dắt ra nên cũng chẳng biết đường lối nhà cửa ra vào làm sao. Quan trạng cứ thế mà tâu, nhất định sẽ chẳng tội tình gì cả. 
Quốc Trinh hỏi: 
- Cảnh này là ở đâu, người đẹp trong tranh là ai, tại sao nói rằng gặp họ thì vô sự được? 
Phu nhân đáp: 
- Không cần nói nhiều, quan trạng hãy nhìn cho kỹ, nhớ cho đủ rồi cứ như lời thiếp mà tâu, thiếp sẽ dặn dò cho vàng ngọc bọn nội thị, chúng sẽ ở ngay trong triều chu toàn cho. Đáng ra phải bày yến tiệc lớn để tiễn quan trạng, nhưng kỳ hạn tìm đã hết, hôm nay là ngày thứ hai rồi, không thể để lỡ. Chỉ xin được dâng ba chén rượu vậy! 
Liền lấy chén vàng, rót rượu đưa mời. Lệ ngọc nhỏ cả vào chén rượu, Quốc Trinh cũng nghẹn ngào rơi nước mắt. Cả hai cùng uống hết bầu rượu. Quốc Trinh cất tiếng: 
- Quý phu nhân, tiểu sinh nay dã đem họ tên thật nói rõ cùng quý phu nhân rồi, quý phu nhân cũng hãy nói cho tiểu sinh biết họ tên thật đi nào! Để rồi tiểu sinh còn biết mà ngày ngày tụng niệm. 
Phu nhân đáp: 
- Chồng thiếp cũng là bậc tôn quý trong triều, thiếp không tiện nói. Quan trạng nếu không quên được những ngày ân ái, hãy lo đến chuyện gặp gỡ sau này thì hơn. 
Cả hai lưu luyến không rời. Phu nhân thân tiễn Quốc Trinh ra cửa, không phải đường ngõ lúc vào mà là quanh co hơn, rồi cũng theo một cổng nhỏ mà ra phố. 
Vị phu nhân này là ai thế? Nguyên là mang họ kép: Đạt Hề, tên tự Doanh Doanh, cũng là phu nhân của một quý quan trong triều. Vị quý quan này đã già, không có con, nên mới sai người ra bên ngoài rồi cho Doanh Doanh riêng ở một nơi, cố tìm lấy một cách để có người nối dõi dòng giống. 


Chính là: 
Những mong kiếm được con nòi 
Được ngày tân trạng dạo chơi vườn nhà. 


Chính lúc Quốc Trinh ra cửa, cũng đã chập choạng tối, bước thấp, bước cao, trên đường dân phố tụm năm tụm ba, trao đổi chuyện trò. Có người nói: 
- Tại sao có mỗi một ông trạng tân khoa, mà tìm mãi không ra, đã hai ngày nay rồi, chứ ít ỏi gì nữa dâu! 
Người khác tiếp: 
- Triều đình sai Cao thái giám, khắp nội ngoại thành, chùa chiền, quán trọ, cho đến các tiệm trà, nhà kỹ nữ, khắp nơi tra xét, chẳng khác nào lùng giặc cướp vậy. 
Quốc Trinh nghe ra, lặng lẽ cười. Lại qua một phố, một đội cầm côn sơn đỏ, có đến hai ba chục quân lính cỡi ngựa theo sau một vị thái giám, rầm rập kéo đi. Quốc Trinh hoảng hốt, tránh không kịp, đâm sầm ngay vào toán lính đi đầu, bọn này quát tháo om sòm, còn định giơ côn đánh. Quốc Trinh vội kêu: 
- Ối? Ối! Đừng đánh! 
Lại thêm ngay bên cạnh một ngõ hẻm, cũng có người kêu giùm: 
- Không nên đánh! Không nên đánh! 
Ngõ hẹp, tường cao, tiếng kêu như phát ra từ núi sâu thẳm. Viên thái giám cưỡi ngựa, chính là Cao Lực Sĩ, vâng mệnh đi tìm tân trạng, Cao thái giám một mặt thân đi tìm khắp nơi, mặt khác sai tiểu đồng nhà họ Tần theo với bọn công sai cùng nhau rải khắp chốn. Bọn họ Tần, nhìn xa đã nhận ra chủ nhân, vội la tướng lên để cứu, khi thấy Quốc Trinh sắp bị bọn lính đánh, bọn tiểu đồng chạy như bay, hét lớn: 
- Quan trạng nhà ta đây rồi! 
Mọi người nghe nói, vây kín ngay lại. Cao Lực Sĩ xuống ngựa chào hỏi: 
- Không biết là quan tân khoa trạng nguyên, nên lỡ xúc phạm. Cao thường thị này không chỗ nào là không tìm. Mấy ngày hôm nay tân khoa trạng nguyên ở đâu? 
Quốc Trinh đáp: 
- Nói ra thật kỳ quái! Không biết có phải là gặp thần thánh không mà bị giữ lại, mãi đến hôm nay mới được tha về, làm phiền quan thái giám khó nhọc, thật đáng tội. Nay phải vào triều ngay ra mắt chúa thượng, xin quan thái giám chỉ đường vạch lối cho. 
Cao Lực Sĩ đáp: 
- Hiện nay chúa thượng đang ngự ở Hoa Ngạc lâu, hãy tới đó ngay. 
Rồi cưỡi ngựa cùng đi. Đến trước lầu, Lực Sĩ vào trước tâu trình. 
Huyền Tông liền lệnh cho Quốc Trinh đến trước lầu làm lễ rồi hỏi: 
- Khanh mấy ngày nay ở đâu? 
Quốc Trinh cứ nghe lời Doanh Doanh mà tâu lên. Huyền Tông nghe thế, khẽ cười mà rằng: 
- Cứ như lời khanh, thì đúng là khanh gặp tiên rồi, không phải hỏi kỹ làm gì nữa. 
Tại sao Huyền Tông lại không muốn hỏi kỹ, vốn là Dương Quý Phi còn ba chị em, đều nổi tiếng tài sắc, vì Huyền Tông vô cùng sủng ái Quý Phi, nên cả chị em đều được đặc ân, đều được vinh phong, được gọi là "Di". Dì lớn được phong Hàn Quốc phu nhân, dì thứ ba được phong Quắc Quốc phu nhân, dì thứ tám phong Tần Quốc phu nhân. Các dì mỗi lần được Quý Phi triệu vào cung, cũng đều cùng Huyền Tông đùa nghịch đủ trò, chẳng trừ một chuyện gì. 


Trong số đó, Quắc Quốc phu nhân, phong lưu, phóng đảng hơn cả vì vậy Huyền Tông cũng thường hay bỡn cợt hơn cả, phàm ở trong cung có thức ăn, đồ dùng gì đặc biệt, đều được vua sai ban cho, lại được đặc ân xây dinh ngay ở phường Tập Khánh, phu nhân đa tình, thường dụ dỗ bọn thiếu niên con nhà tới dinh thự cùng nhau vui chơi, hưởng lạc, điều này Huyền Tông biết, nhưng chẳng muốn câu thúc phu nhân quá đáng. Mẹ đẻ của Doanh Doanh đã từng ở trong phủ Quắc Quốc phu nhân, làm bảo mẫu thêu thùa kim chỉ, nên biết rõ những chuyện này. Bức họa kia, chính là vật của Quắc Quốc phủ, người mẹ ngẫu nhiên cầm về cho con gái bày biện, mỹ nhân trong tranh chính là Quắc Quốc phu nhân. Cho nên khi Quốc Trinh theo lời tâu trình, Huyền Tông nghi ngay là chuyện do Quắc Quốc phu nhân làm nên chẳng tiện hỏi kỹ. Nào ngờ lại là diệu kế của Doanh Doanh để khỏi bị tra vấn. 


Chính là: 
Bác Trương uống rượu, bác Lý sai điên 
Chú Ba đẻ mà chú Năm nhận phần. 


Huyền Tông liền truyền chỉ: Trạng nguyên Tần Quốc Trinh đã về tới ngay dự yến Quỳnh Lâm. Quốc Trinh tâu: 
- Hôm vừa rồi, đội ơn thánh thượng đưa anh thần Quốc Mô làm trạng nguyên, anh thần chối từ không nhận. Nay xin thánh ân hãy định lại việc này, tiểu thần quả không dám là em lại đứng trước anh vậy 
Huyền Tông phán: 
- Anh em đều khiêm nhường, thật đáng tuyên dương! 
Truyền lệnh ban trạng nguyên cập đệ cho cả hai, anh em Quốc Trinh tạ ơn. Nội thị liền sắp sẵn hai áo bào, hai đóa hoa vàng, đem đến Quỳnh Lâm, ban cho hai anh em họ Tần, thật chẳng còn vinh diệu nào bằng. 


Trời đã tối, khắp yến tiệc đèn nến thắp lên, treo lên, các vị tân khoa tiến sĩ cùng quan trường mới ngồi vào tiệc. Sau đó cùng vào ngự uyển thưởng hoa, khoa này cũng là xem đèn nữa. Đợi đến trước cửa ngọc điện, đọc rõ bảng vàng, ai nấy mới kinh ngạc, một khoa mà có hai trạng nguyên, thật là một sự lạ, chẳng thấy xưa nay! 


Ngày hôm sau, hai trạng nguyên dẫn các tân khoa tiến sĩ vào triều tạ ơn. Được thánh chỉ ban ra: Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh đều được làm Hàn lâm thừa chỉ, còn những người khác cứ theo lệ mà nhận chức.
Chuyện không nói nữa.
***
Lại nói chuyện trong cung bày yến tiệc thưởng hoa Dương Quý Phi triệu Quắc quốc phu nhân cùng dự. Minh Hoàng thấy Quắc quấc phu nhân, nghĩ ngay tới lời tâu của Quấc Trinh, nhân lúc Quý Phi đứng dậyvào trong thay áo, mới cười hỏi phu nhân: 
- Dì ba cớ sao dám giấu thiêu niên vào trong nhà? 


Nào ngờ quắc quốc phu nhân mấy hôm nay cũng được giữ rịt con trai quan Thiên ngự vệ ngay trong dinh mình, nghe Minh Hoàng nói như thế, nghĩ ngay rằng vua biết chuyện này, bèn cúi đầu, tay miết dải áo, khẽ chớp làn mi, tủm tỉm cười mà thưa: 
- Cũng là chuyện nữ nhi thường tình, không thể tự trói buộc, cúi xin thánh thượng rộng ơn đừng hỏi kỹ. 
Huyền Tông lấy ngón tay dí vào trán mà đùa: 
- Hãy bỏ qua cho lần này! 
Nói xong, cùng nhìn nhau mà cười. 


Chính là: 
Các dì phóng túng 
Anh dượng cũng chìu 
Tất cả cùng liều 
Nam Kha một giấc.

HỒI 81
Nuông chiều quá trớn: tắm con, ban tiền,
Mê hoặc đủ trò: đối sứ, cắt tóc.

Từ rằng: 
Thằng con nuôi giả ngây thực khéo 
Mắt mẹ nuôi thấy khéo thấy khôn 
Dở trò đùa nghịch làm con 
Bố nuôi liền cũng lon ton góp phần 
Nào thương nào giận nào hờn 
Sớm lìa cung cấm, chiều hôm gọi vào 
Tóc mây cắt ngọt lưỡi dao 
Đắm say mê muội lại yêu gấp mười 

Theo điệu "Lương thiện hiểu giác" 

Người ta sinh ra ở đời ai mà thoát khỏi "thất tình", "lục dục" (1). Trong số đó, thì sự hiếu sắc là điều khó mà dẹp hơn cả, sắc đẹp ngay trước mặt mà không động tâm, thì chẳng phải là bậc thánh nhân thì cũng phải là kẻ anh hùng, hoặc ngược lại là đứa ngu si, đần độn vậy thôi. Cho nên, ngay từ xưa, cổ nhân cũng chẳng dám cấm (2). Nhưng trong chuyện hiếu sắc, cũng phải có lẽ vậy, phóng túng việc tình dục mà không để ý đến danh nghĩa, thì tất hại đến thể thống, trên dưới đều buông tuồng, thì tiếng xấu truyền ngàn đời. Vậy thì làm thế nào cho vừa phải? 
1 Thất tình: bảy loại tình cảm của con người: Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Cung oán ngâm khúc: "Mối thất tình quyết dứt cho xong”. Lục dục: Tiếng nhà phật, sáu điều ham muốn, do "dục căn" mà ra: Mắt muốn nhìn đẹp, tai muốn nghe hay, mũi muốn ngửi thơm, lưỡi muốn nếm ngon, thân xác muốn sướng, ý nghĩ muốn vui. (Hán Việt tân từ điển). 
2 Luận ngữ, thiên "Vệ Linh Công": "Đức Khổng Tử nói: Cũng đành thôi! Ta chưa thấy người nào ham đức như ham sắc đẹp!".
***
Hãy nói chuyện Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh, cả hai anh em sau khi cùng được đậu trạng nguyên một khoa, đều được riêng bổ Hàn lâm thừa chỉ. Quốc Mô vốn cương trực, chỉ việc không chịu nghe theo thánh chỉ, nhận ngôi trạng nguyên của em, cũng đủ thấy chí khí, nhân phẩm con người này ra sao. Quốc Mô thấy Dương Quý Phi cậy vua sủng ái, làm nhiều việc càn bậy, họ Dương nắm mọi quyền hành, An Lộc Sơn coi thường phép nước, ra vào cung khuyết bừa bãi, lũ tiểu nhân cậy thế chủ để thỏa mãn lòng tà, liền cùng với anh em bàn bạc, đứng chung tên, viết một tờ sớ dâng lên, xin triều đình lựa chọn lại các quan thái giám, sửa đổi lại việc hoành hành của tệ sủng ái cung phi, chỉ rõ nguồn gốc An Lộc Sơn là một thằng có sức khỏe, không đáng được giữ phủ việt, mà nên đuổi ra biên giới chuộc tội, không thể nào cho tự do ra vào cung cấm, bàn bạc công chuyện triều đình. 


Lời lẽ trong bản sớ rất thống thiết, thẳng thắn, mới đọc qua, Huyền Tông không vừa lòng, lũ tiểu nhân xung quanh lại khéo buông lời dèm pha: Nào là anh em họ Tần chỉ chuyên bới móc, vượt quá chức việc, phải gia tội nặng. Huyền Tông giáng chỉ cho trăm quan bàn bạc. May có Hạ Chí Chương cùng Ngô Quân ra sức cứu đỡ, Huyền Tông mới phán rằng: 
- Quốc Mô cùng Quốc Trinh vượt quá chức vụ để dâng lời càn bậy, lẽ đáng trị tội, nhưng nghĩ tới dòng dõi huân thần, lại mới được đặt ở địa vị, nên miễn cho việc tra hỏi, hãy tạm cho nghỉ việc. Từ nay về sau mà còn dâng lời càn rỡ, sẽ trị tội nặng. 
Lời vua phán ra, trăm quan liếc mắt nhìn nhau. Lúc này gian thần Lý Lâm Phủ đang nắm quyền Tể tướng, muốn thừa cơ lấn vua chuyên quyền, liền nói với các gián quan: 
- Ngày nay chúa thượng anh minh, phận làm tôi chỉ có nghe theo, cần gì phải nhiều lời. Các ngài không thấy lũ ngựa đứng lễ chầu sao, ngày ngày ăn ba đấu thóc, chỉ cần hý ầm ĩ, là lập tức bị đuổi ra ngay. 
Từ đó các gián quan ngậm miệng, không can một lời. Huyền Tông vì vậy yên chí rằng thiên hạ thái bình vô sự, lại thường tự duyệt các kho tàng, thấy tiền của chất đầy, nên nảy ý xa hoa, hoang phí, coi vàng lụa như đất bùn, ban thưởng bừa bãi, công việc trong triều tất cả phó mặc cho lũ Lý Lâm Phủ. Lâm Phủ gian xảo khác thường, trong lòng tuy rất ghét Dương Quốc Trung, nhưng bên ngoài thì làm ra vẻ hòa hảo, lại còn sợ Thái tử thông minh, thường ngầm bàn với Quốc Trung tìm cách chèn lấn, tìm lời lẽ lắt léo để xúi bẩy, khêu gợi lòng ham muốn không đáy của Lộc Sơn, vừa là để thu phục, vừa là để cho Lộc Sơn kính phục không dám qua mặt mình, rồi mà kết thành bè đảng, đón ý nhà vua, làm cho địa vị ngày càng chắc chắn. 


Huyền Tông ở trong cung sâu, tối ngày say mê chuyện thanh sắc, ngay đến việc Dương Quý Phi tư thông với Lộc Sơn cũng chẳng hề biết. 
Chính là: 


Lộc Sơn bụng phệ béo tròn 
Quý Phi má phấn tươi son 
Vì đâu sinh ra dâm loạn 
Đạo người phép nước không còn? 


Bởi thế Lộc Sơn cậy thế ngang ngược chẳng sợ ai. Huyền Tông còn lệnh cho Lộc Sơn với anh em Dương Quốc Trung kết làm thân thuộc cùng nhau đi lại thường xuyên ban thưởng rất nhiều phú quý giàu có không lường. Lại ban ơn cho Hàn Quốc, Tần Quốc, Quắc Quốc, ba phu nhân mỗi tháng một vạn tiền, để dùng vào việc phấn sáp. Trong số ba vị phu nhân thì Quắc Quấc phu nhân yêu kiều hơn cả, chẳng cần tô son điểm phấn cũng thật mười phần tươi xinh. Đương thời Đỗ Công Bộ (1). Cũng có thơ rằng: 
Phu nhân Quắc Quốc, chúa nuông chiều 
Sáng sớm cung môn cưỡi ngựa vào 
Sợ nỗi phấn son hoen sắc đẹp 
Chầu vua, mày liễu chẳng tô nhiều. 
1 Đỗ Công Bộ: tức Đỗ Phủ (712 - 770), người huyện Củng, Hà Nam, thi không đỗ. An Lộc Sơn chiếm Trường An, theo vua lên Linh Vũ, được làm gián quan. Bất mãn bỏ quan, mang gia đình chạy loạn khắp nơi. Có "Đỗ Lang tập" gồm khoảng 1400 bài thơ. Một trong những nhà thơ nổi tiếng thời Đường. (Thơ Đường I). 


Hôm ấy, gặp sinh nhật An Lộc Sơn, Huyền Tông cùng Dương Quý Phi đều có quà ban. Anh em, chị em nhà họ Dương đều bày tiệc rượu chúc mừng, rộn rịp suốt hai ngày. Lộc Sơn vào cung tạ ơn, Huyền Tông đang ngự ở Nghi Xuân viện, Lộc Sơn chào bái xong, đang định đi gặp quốc mẫu Dương Quý Phi, Huyền Tông phán: 
- Quý Phi vừa mới dự yến ở đây, nay đã về cung, con hãy cứ tự vào mà gặp cũng được! 
Lộc Sơn vâng mệnh, vào ngay cung Quý Phi. Quý Phi vừa dự yến trở về, đang giữa lúc mơ màng nửa say nửa tỉnh, thấy Lộc Sơn tới tạ ơn, liền luôn miệng mẹ mẹ con con, bỡn cột mà rằng: 
- Ta nuôi được đứa con như vậy, ba ngày sau khi sinh, xưa nay đều có lệ tắm, nay vừa mới khớp ba ngày sau sinh nhật, ta phải đúng lệ tắm cho con mới được! 


Rồi nhân cơn say chưa tỉnh, gọi ngay nội thị lẫn cung nga đến, cởi quần áo của Lộc Sơn ra, lấy gấm bọc kín lại, làm giống như kiểu tả lót của trẻ con vậy, lại kết một cái kiệu bằng lụa, đặt Lộc Sơn vào trong, rồi cho cung nga đẩy đi khắp trong nội cung, huyên náo cười đùa không ngớt. 
Huyền Tông đang nằm nghỉ xem sách ở Nghi Xuân viện, liền hỏi tả hữu: 
- Hậu cung có việc gì mà ồn ào thế? 
Bọn bầy tôi thưa: 
- Chính là Quý Phi đang chơi trò tắm con! 
Huyền Tông cả cười, liền ngồi lên một xe nhỏ, vào cung Quý Phi xem, cũng là để cho vui vẻ, lại ban cho Quý Phi mười nghìn quan tiền tắm con. 
Chính là: 


Đánh cờ, đếm thẻ(1) 
Tắm con, ban tiền 

Phép nhà hoàng đế 
Sau trước nối liền. 
1 Đếm thẻ: Chỉ các trò chơi xúc xắc, trạng nguyên, tính số điểm trên thẻ. sau khi đã hết ván, xem ai thua cuộc, xem hài Đông lâu phú”.
***
Chuyện là hai mối, Quý Phi ngày càng được sủng ái, thì ngược lại Mai Phi Giang Thái Tần ngày càng bị quên lãng trong cung Thượng Dương. Một hôm có sứ Hải Namvề kinh. Mai Phi mới hỏi cung nhân: 
- Có phải sứ giả về để dâng hoa mai không? 


Cung nhân trả lời là sứ giả về dâng quả cho Dương quý Phi nương nương. Nguyên là Mai Phi rất thích mai , lúc còn được sủng ái, tứ phương tranh nhau tìm hoa mai lạ để tiến, nay thất sủng, chẳng còn ai nghĩ tới chuyện dâng mai. 

Dương Quý Phi là người đất Thục, rất thích ăn vải, vải vùng Hải Nam còn ngon hơn cả vải tây Thục. Muốn cho lúc dâng lên, vải vẫn còn được ngon, phải đặt các trạm dịch, không kể gì xa xôi hàng mấy nghìn dặm, ngựa thay nhau mà phi như bay. Vì thế mà Đỗ Mục đã viết: 
Ngựa bay, bụi cuốn. Phi cười 
Ai hay vải tiến từ nơi xa về. (1) 
1 Nguyên văn: “Nhất kỵ hồng trần, phi tữ tiếu, vô nhân chi thị lộ chi lai” (Quá hoa Thanh cung). Tương Như dịch:”Bụi hồng,ngựa ruổi, Phi cười nụ; Vải tiến mang về, ai biết đâu” (Thơ Đường). 


Mai Phi nghe nói không còn việc dâng hoa mai nữa, mà quả vải nghìn dặm đưa về, không ngăn nỗi lòng thương cảm, liền gọi Cao Lực Sĩ đến hỏi: 
- Khanh ngày ngày hầu hạ thánh thượng, có biết thánh thượng còn lúc nào nhỡ tới ba chữ Giang Thái Tần này nữa chăng? 
Lực Sĩ đáp: 
- Không phải phụ hoàng không nhớ tới nương nương, mà chỉ sợ Quý Phi nương nương ngăn trở thôi. 
Mai Phi nói: 
- Ta cũng biết con tiện tỳ phì nộn ganh ghét ta, còn phụ hoàng chưa nỡ dứt tình. Ta từng nghe Trần hoàng hậu đời Hán bị vua lạnh nhạt đem một nghìn vàng thuê Tư Mã Tương Như làm bài "Trường môn phú", dâng lên Hán Vũ Đế, Trần Hoàng hậu lại được ơn sủng như xưa. Ngày nay nào phải không có người tài như Tương Như, để vì ta làm phú, nói rõ nguồn cơn với chúa thượng, thì ta cũng chẳng tiếc gì nghìn vàng. Khanh hãy tìm hộ ta xem sao? 


Lực Sĩ sợ thế lớn của Dương Quý Phi, nên nói thác rằng hiện nay chẳng có người nào có tài làm phú. Mai Phi than: 
- Đấy chính là chỗ mà nay không theo kịp xưa chăng? 
Lực Sĩ thưa: 
- Nương nương đại tài hơn hẳn Trần hoàng hậu, sao lại không tự làm phú mà dâng lên chúa thượng 


Mai Phi cười gật đầu, Lực Sĩ lui ra, cung nhân trình bút nghiên lại Mai Phi bèn tự làm bài "Đông Lâu Phú" (1), có những đoạn sau: 
1 phú lầu phía Đông: tức Thượng Dương cung, lãnh cung, nơi ở của cung phi bị ruồng bỏ, ở phía đông. 
Bụi phủ gương tàn 
Phấn khô hộp triện 
Tóc cánh ve nhác gỡ lược ngà 
Giường gỗ quế nếp nhăn áo xuyến 
Bàng hoàng thức ngủ Huệ cung 
Ngơ ngác vào ra Lan điện 
Quả mai rơi rụng đã hết hề, không hay 
Cung cấm lạnh lùng xiết bao hề, có biết 
Thêm nỗi: 
Lòng hoa bứt rứt 
Mặt liễu âu sầu 
Chim non ríu rít 
Gió ấm rì rào 
Trên gác chiều vàng hề, nghe tiếng phượng giật mình ngoảnh lại, 
Cách non mây trắng hề, nhìn gương nga chột dạ quay vào 
Suối lành nhắc đến tin xưa, cái thẻ biết nâng niu là thế 
Cổng kín then cài buổi trước, con chim xanh hò hẹn ra sao? 
Nhớ những khi: 
Hồ rộng dạt dào 
Sóng biếc lao xao 
Sáo đàn yến tiệc 
Hầu chúa tiêu dao 
Cánh loan múa khúc Đông tường hề, dồn nhịp phách 
Thuyền rong lướt dòng Tây Tử hề, vỗ mái chèo 
Tình vua quyến luyến 
Ý thiếp dặt dìu 
Non thề biển hẹn hề mong dằng dặc 
Trời thẳm đất dày hề ước dài lâu 
Ai ngờ: 
Thói ghét má hồng 
Máu ghen lạ lùng 
Cướp ta mất ân ái 
Đẩy ta vào lãnh cung 
Vui thôi rồi xa tít 
Mộng cũ ơi hỡi mịt mùng 

Não nùng chừ, trong khuya hoa sớm 
Độc địa bấy! Gió thốc mưa lồng 
Muốn bắt chước Tương Như mà dâng phú 
Tìm đâu ra danh sĩ cho uổng công 
Ngâm dứt nối thơ sầu hề, ấm ức 
Vắng xa gần chuông sớm hề bính boong 
Thở với than nát lòng cửa Bắc 
Lui hay tới nặng gót lầu Đông. 


Làm xong, đưa dâng lên, Huyền Tông đọc, trầm ngâm than thở mãi không thôi, tình xưa khơi dậy, bất giác thương cảm. Dương Quý Phi nghe tin nổi giận, mặt hầm hầm tới thưa: 
- Con yêu hoa mai Giang Thái Tần quả là loài tiện tỳ, mới đó mà dám dâng lời oán trách, lẽ nên giết chết không tha! 
Huyền Tông yên lặng không. đáp. Quý Phi vẫn không chịu yên lời, Huyền Tông đành phán rằng: 
- Mai Phi chẳng có việc gì, làm bài phú này cũng chẳng có một lời khinh khi ngạo mạn, mà phải tội giết. Như ý trẫm hãy cứ để đó, không bàn luận gì cả là hơn. 



Quý Phi thưa: 
- Bệ hạ không quên được tình quyến luyến với con tiện tỳ này. Sao không làm một cuộc gặp gỡ ở gác tây Thúy Hoa cung như dạo trước? 
Huyền Tông thấy nhắc đến chuyện cũ, vừa thẹn vừa tức, những vốn yêu chiều đã quen, nên cũng cố nhẫn nại. Quý Phi thấy Huyền Tông không chịu theo lời, trong lòng ấm ức, từ lúc ấy trở đi, đứng hầu bên Huyền Tông nhưng mặt mày sa sầm, khác hẳn ngày thường, không nói không thưa gì nữa. 


Một hôm, Huyền Tông ban yến cho các vương ở nội diện, các vương xin được thấy mặt Quý Phi. Huyền Tông bằng lòng truyền lệnh triệu, mãi tới lần thứ hai, mới thấy tới, chào lễ với các vương xong, ngồi riêng một bàn. Tiệc rượu giữa chừng, Ninh Vương cùng với Niêm Nô hòa sáo ngọc, mãi tới khi bãi yến, các vương từ tạ ra về. Huyền Tông đứng dậy thay áo, Quý Phi ngồi một mình, thấy sáo ngọc Ninh Vương vừa thổi còn để trên giường ngự, liền giơ tay ngọc với xem, rồi cứ theo nốt cũ mà thổi. 



Điều này nhà thơ Trương Hổ đã có thơ rằng: 

Thâm cung tĩnh viện nào ai biết 
Đem sáo Ninh Vương dạo mấy bài. 



Huyền Tông trông thấy thế, bèn cười, đùa: 
- Khanh cũng có sáo ngọc, sao không lấy mà thổi, cái sáo làm bằng ngọc tím này là của Ninh Vương vừa mới thổi, nước miếng hãy còn, sao khanh lại lấy thổi là sao? 
Quý Phi coi như không, từ từ đặt sáo ngọc xuống, trả lời: 
- Ninh Vương thổi đã lâu rồi, thiếp mới thổi, cũng chẳng hề gì. Còn có người hai chân bị dầm nhừ, đến nỗi hài cũng văng cả ra ngoài, mà bệ hạ còn chẳng hỏi, sao lại chỉ trách mình thiếp thôi? 


Huyền Tông cũng nhận thấy Quý Phi ghen tuông với Mai Phi, lại thêm mấy ngày nay lúc nào cũng ra vẻ ngạo mạn, trong lòng vốn đã không bình thường. Hôm nay, sau tiệc rượu, cùng Quý Phi đùa vài câu, Quý Phi đã không nhận ra lỗi lầm vừa rồi, lại buông thêm những lời khinh khi, kéo về chuyện Mai Phi cũ, nên đột nhiên nổi giận, biến sắc mặt mà quát: 
- Con hầu này sao dám vô lễ đến thế! 
Liền đứng dậy vào cung, mặt khác liền truyền chỉ rằng: 
- Sai ngay Cao Lực Sĩ đem xe nhẹ đưa Dương Phi về nhà họ Dương, không cho vào hầu hạ nữa. 
Chính là: 


Ghen tư đáp lòng 
Kiêu ngạo ra mặt 
Ăn nói ngỗ ngược 
Tai biến ập ngay. 


Vốn Dương Quý Phi thường ngày được sủng ái thành quen thói, không ngờ hôm nay uy trời đột nhiên giận dữ, đang định sẽ chờ dịp vào tạ lỗi cầu xin, nhưng sợ cơn thịnh nộ còn tiếp không biết đến thế nào mà lường. Nay lại không cho gặp mặt, nên nào dám tới, chỉ đành nua nước mắt, lên xe ra khỏi cung, rồi cậy riêng Lực sĩ coi sóc một vài việc trong cung. Về tới dinh thự Dương Quốc Trung, kể lể nguồn cơn. Anh em, chị em họ Dương nghe việc này, đều kinh ngạc bàng hoàng, nhìn nhau nước mắt chứa chan, chẳng biết đối phó ra sao. 


An Lộc Sơn cũng có mặt định dạng lời cứu đỡ, nhưng sợ hiềm nghi, nên không dám coi thường, vào cung cũng không dám, tránh không đi lại nhà họ Dương nhiều lần để gặp gỡ Quý Phi, chỉ ngầm sai người thăm hỏi tin tức mà thôi. 


Chính là: 
Gái hỗn hào trái ý 
Khiến tiểu nhân thất thế 
Họa phúc khó mà lường 
Ân sủng đâu phải dễ. 


Huyền Tông nhân lúc giận dữ, đuổi Quý Phi khỏi cung, vào nội điện, thấy trong ngoài tịch mịch, đưa mắt tìm không người vừa ý. 


Những muốn gọi Mai Phi hầu hạ, nhưng không ngờ Mai Phi từ lúc nghe tin Dương Quý Phi tâu xin giết mình, trong lòng buồn bực, thương cảm, đến nỗi nhiễm bệnh mấy hôm nay, lại gặp đúng lúc nằm liệt giường, không tài nào dậy nổi. Huyền Tông buồn bã không chịu được hết đứng lại ngồi, bọn cung nga cho đến thái giám đều bị trách phạt, đánh đòn. Cao Lực Sĩ thấy vậy, biết ý Huyền Tông, liền lựa lời nói với Dương Quốc Trung: 
- Nếu muốn Quý Phi lại được vào cung, tìm một viên quan đại thần nào đó xin tâu là tốt hơn cả. 


Lúc này có quan pháp Tào Cát Ôn, cùng với điền trung thị ngự sử La Hy Thích đều dùng hình luật rất khắc nghiệt, người người đều sợ gọi họ là "thép già" và "kìm la sát". Cả hai đều là phường ác quan tham lại, Cát Ôn lại thêm xảo trá, được Tể tướng Lý Lâm Phủ rất ưa, vì vậy cũng được dự vào hàng thân tín của Huyền Tông. Dương Quốc Trung liền nhờ bọn này cứu cho, hứa sẽ đền đáp thật nhiều vàng ngọc. 
Cát Ôn giả bộ lên điện tâu trình công việc, bình thản tâu rằng: 
- Quý Phi họ Dương; dẫu có sao cũng là hạng đàn bà kiến thức hẹp hòi, làm thánh thượng không vui, nhưng cũng đã chịu ơn thánh thượng rất lớn. Nay tội quả đáng chết, nhưng nên cho chết ngay trong cung. Bệ hạ tiếc gì một miếng đất bằng chiếc chiếu ở trong này, để đến nỗi Quý Phi phải chịu nhục ở bên ngoài. 
Huyền Tông nghe tâu, gật đầu ưng thuận, rồi trở về hậu điện ngay: Tả hữu dâng ngự thiện, liền lệnh cho nội thị Địch Tháo Quang, đem theo thức ăn ngự thiện trước mặt, cùng các đồ vàng ngọc, tới nhà họ Dương, ban cho Quý Phi. Quý Phi tạ ơn trước mặt sứ giả, rồi khóc mà thưa: 
- Tội thiếp đáng chết vạn lần, may đội ơn trời biển của thánh thượng mà nay được rộng tha, thoát khỏi tội chết. Nhưng cũng bởi lâu nay ơn sâu được dội, bỗng chốc gặp chuyện này, còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời? Lẽ nên chết quách, nhưng vì chưa được tạ ơn, tất cả mọi thứ, từ y phục trên người, không gì không phải của ơn thánh đế duy chỉ có da thịt, mái tóc này là của mẹ cha sinh ra, nay xin trộm cắt, gọi là để báo ơn muôn một! 
Rồi cầm dao, cắt ngay một lọn tóc, đưa cho Địch Tháo Quang mà tiếp rằng: 
- Hãy vì ta mà dâng lên chúa thượng. Ta từ nay dẫu có chết cũng không để chúa thượng phải khổ công nhớ tiếc nữa! 
Địch Tháo Quang vâng mệnh, về ngay phục chỉ, thuật kỹ từng lời từng cử chỉ của Quý Phi, rồi đưa món tóc dâng lên. Huyền Tông vô cùng thương xót, liền truyền lệnh cho Cao Lực Sĩ, đang đêm lấy xe hương triệu Quý Phi về cung. 


Quý Phi điểm trang vào nội điện, phủ phục nhận tội, không nói một lời, chỉ có nức nở mãi không thôi. Huyền Tông không ngăn nổi cảm động, đưa tay nâng dậy, gọi ngay cung nga, chải đầu thay quần áo, dùng lời thân ái an ủi, lệnh cho tả hữu bày yến tiệc. Quý Phi rót một chén rượu quỳ xuống dâng lên: 
- Không ngờ đêm nay lại còn được thấy thiên nhan! 
Huyền Tông chỉ ghế bên cạnh cho ngồi, đêm ấy không ngủ, ân ái còn hơn xưa. 


Ngày hôm sau, anh em, chị em Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn đều vào cung chúc mừng, Thái Hoa công chúa cùng các vương tôn cùng kéo vào dâng lời vui vẻ, Huyền Tông ban yến, ai nấy đều hoan hỉ. 


Dương Quý Phi đắc tội bị đuổi, nếu như Huyền Tông căn cứ vào đó mà cắt hẳn chuyện sủng ái này, cấm không cho trở lại cung nữa thì bọn tiểu nhân hết a dua, cung cấm trở nên thanh sạch, làm gì mà lại có chuyện hoan lạc về sau này. Cũng chỉ bởi lòng đã mờ tối, nhất thời không thoát ra được, để đến nỗi kẻ cận thần bên trong giao thông được với bọn quyền gian bên ngoài, trong ứng ngoài hợp, giữa lúc lòng như "ngó sen tuy gãy nhưng dây tơ chưa dứt hẳn", đuổi mà còn triệu ngay về, để rồi gây họa lớn về sau. Lại vì cả hai vốn nghiệt duyên kiếp trước chưa xong (1), mà cũng bởi khí vận của đất nước nữa vậy 
1 Xem hồi thứ sáu mươi tám, tập 3, Đường Huyền Tông là hậu thân của Chu Quý Nhi, Dương Quý Phi là hậu thân của Tùy Dượng Đế. do Thập điện Diêm Vương sắp đặt để thực hiện lời nguyền ước của họ! 


Chính là: 
Tóc xanh cắt tạ ơn vua 
Mê hoặc từ nay gấp mấy xưa 
Cuối mắt đầu mày duyên dáng thế 
Thành nghiêng nước đổ đã gần chưa? 


Sau khi Dương Quý Phi quay lại cung, Huyền Tông yêu quý còn gấp mười lần. Anh em, họ hàng nhà họ Dương, tác uy tác phúc, lại hơn nhiều, chẳng cần phải kể.

Không biết chuyện sẽ tới đâu, xin xem hồi sau sẽ rõ.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved