Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

5 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 73,74,75

HỒI 73
An Kim Tàng mổ bụng kêu oan
Lạc Tân Vương viết hịch kể tội
Từ rằng: 
1. Thỏ chạy chim bay 
Đó lại đây 
Tưng bừng nước mắt 
Kể tội đầy 
Đặt giàm bủa lưới 
Khảo tra tàn khốc 
Giữa đất lòng son gan một lá 
Bên trời lệ máu sầu muôn hộc. 

2. Dốc hết ruột gan thảo hịch 
Thấu thiên đình 
Oán cừu trả sạch 
Ngẫm cơn giận rượu say bầu dốc 
Cảnh điện đài ngọn đuốc giơ cao 
Nhìn ra gió gác trang lầu 
Tột tình kể hết trước sau rạch ròi 
Rồi ra ly biệt đôi hồi 
Gió đông đổi lấy lòng người Thượng Lâm, 
Đủ rồi hai chữ song tâm... 
Theo điệu "Mãn gian hồng” 


Từ xưa đến nay, kẻ sĩ chết vì nghĩa, kẻ hiếu sắc chết vì tình, bọn bỏ mạng vì tình thì vô số, còn chết vì nghĩa thì trong một trăm, không được một hai người. Trước tiên phải kể đến Hoàng Diễn người thời Xuân Thu, tự mỗ bụng mình để nhét lá gan của Vệ ý Công vào; thêm bề tôi của nước Tề là Vương Xúc, nghe tin Tề Mẫn Công chết, treo cổ lên cây mà tự tử. Những người chí hướng khác thường như thế trong thiên hạ, không nhiều.

***
Nay nói chuyện thái hậu ở trong cung truy hoan hưởng lạc, chẳng mấy chốc mà tiết thu đã tàn, trời đông sắp đến. Thái Bình công chúa, con gái yêu của thái hậu, vốn cũng khuynh quốc khuynh thành phong tư yểu điệu, tính tình nhẹ nhàng, được thái hậu yêu chiều hết mực, lúc đầu lấy Tiết Thiệu, chưa được hai ba năm thì Thiệu chết trở về cung, không chịu yên phận, chạy đông tìm tây. 



Thái hậu sợ xảy ra chuyện không hay, lại đem Thái Bình gả cho đại phu Vũ Du Kỵ. 
Hôm ấy Vũ Tam Tư dạo chơi trong ngự uyển, thái hậu nói: 
- Mấy ngày hôm nay tiết trời thật ấm áp!. 
Tam Tư thưa: 
- Thời khí tuy tốt nhưng cây cỏ úa vàng rơi rụng làm người ta có cảm giác lụi tàn, già cỗi, sao cho bằng cảnh mùa xuân rực rỡ, danh hoa đua sắc, muôn hồng nghìn tía cho được. 
Thái hậu phán: 
- Thếthì có khó gì, hôm trước ở vườn Thượng Lâm, tâu rằng hoa lê nở rất nhiều. Hoa lê đã nở được, hà cớ các hoa khác không nở, huống chi đầu xuân rồi. Ngày mai Vũ Du Kỵ tất vào tạ ơn, ban yến ngay trong vườn, đáng khiến trăm hoa cùng nở, rạng vẻ tốt tươi. 
Tam Tư thưa: 
- Lòng người như vậy, chẳng biết ý trời thì ra sao? 
Thái hậu cười: 
- Ngày mai mà hoa nở, ta sẽ phạt khanh ba chén rượu lớn! 
Tam Tư cũng cười: 
- Rượu trong chén bạch ngọc, lâu nay bệ hạ vẫn ban thưởng cho thần luôn. Chỉ sợ nay vào lúc cuối thu hết, đông về, làm thế nào mà trăm hoa đua nở cho được! 


Thái hậu đưa mắt giận dữ nhìn Tam Tư rồi quay về cung, liền truyền gọi Quy Nghĩa Vương Trần Thạc Trinh vào triều, đem mọi chuyện kể hết, sai Thạc Trinh dùng pháp thuật để các cây trong vườn ngự đều ra hoa ngay khoảnh khắc, tỏ rõ điềm lành. Thạc Trinh thưa: 
- Nếu ngày mai đã khai yên, bệ hạ chỉ cần một hai loại hoa, thần có thể mượn tạm ngay của thần hoa. Nhưng đòi vạn hoa đều nở, lại quan hệ đến cả sự chủ trì của Đông quân, xin bệ hạ viết một chiếu chỉ, để thần tuyên đọc cho thần hoa, chuyển tâu lên thiên đình, tự nhiên sẽ vâng lệnh. 


Thái hậu liền giở giấy vàng, viết ngay: 
Ngày mai chơi vườn ngự 
Ra lệnh cho xuân hay, 
Nội đêm nay hoa nở 
Không đợi gió cùng mây. 


Thái hậu viết xong, đưa cho Thạc Trinh, Thạc Trinh lại viết thêm một đạo hịch, từ giã thái hậu, vào trong vườn làm bùa phép, rồi hỏa thiêu cho thần hoa. Thái hậu lại truyền chỉ cho Quang lộc tự chính khanh Tô Lương Tự, sắp sẵn yến tiệc trong vườn ngự vào ngày mai.
***
Lại nói chuyện Tam Tư về nhà, gặp Hoài Nghĩa, Hoài Nghĩa hỏi: 
- Đại nhân sao không ngủ trong cung mà lại phải lặn lội trên đường thế này? 
Tam Tư đáp: 
- Buồn cười thay, thái hậu lại định khiến cả thần hoa xuân đem tới đòi trăm hoa đều phải đủ mặt. Ta nghĩ rằng con người sinh tử có thể quyền thái hậu định đoạt, còn chuyện cây cỏ là thuộc luật lệnh của thượng đế, phải đâu quyền hành gì của thần hoa. Ngày mai đại nhân hãy cùng ta vào ngự uyển, xem ý trời ra sao. 
Cả hai cười lớn mà chia tay. 
Sáng hôm sau, khí trời mát mẻ. Hoài Nghĩa không thể chờ hơn, vội vào ngay vườn ngự, thì thấy vạn đóa khoe tươi, nghìn cành khoe sắc liền đi ngay vào Sướng Hoa đường. Một viên quan đang quản nơi đây, vốn là Tô Lương Tự tiếp chiếu chỉ, lệnh bày yến tiệc trong vườn, nên phải tới đây rất sớm. Thấy Hoài Nghĩa, Lương Tự liền quát: 
- Con lừa trọc này ở đâu dám vào đây? 
Hoài Nghĩa thấy Lương Tự chửi thế, nghĩ rằng Lương Tự mắt kém, nhìn không ra, nên cố nén giận trả lời: 
- Tô Chính khanh, chẳng lẽ tiểu nhân này vào đây không được sao? 
Lương Tự vẫn lớn tiếng: 
- Hôm nay Vũ Phò mã vào tạ ơn thái hậu, nên mở tiệc mừng, triều đình sai ta sắp đặt ở đây. Ngươi có học hành đỗ đạt gì mà dám ngồi ở ngôi cao, tự mình làm ra vẻ ta đây. Nếu không cút ngay, ta sẽ lấy ngay hốt ngà này mà đập vào giữa trán xem ngươi có dám làm gì ta nào? 
Hoài Nghĩa giương mắt nhìn, định mở miệng cãi, không ngờ Lương Tự cứ cầm hốt đánh vào giữa mặt mấy cái luôn. Hoài Nghĩa chẳng còn cách nào khác, đành phải bỏ chạy vào cung thái hậu, quỳ lạy cả hai gối. Thái Hậu hỏi: 
- Sao khanh lại đến nỗi thế? 
Hoài Nghĩa thưa: 
- Tô Lương Tự vô lễ, trông thấy thần, cứ trán thần mà đập, ngay trong Sướng Hoa đường ở ngự uyển. 
Thái hậu liền kéo Hoài Nghĩa dậy mà rằng: 
- Chính trẫm sai Lương Tự chủ trì tiệc rượu tại đó. Khanh có công việc gì mà tới. Cửa nam là nơi trăm quan ra vào, từ nay về sau khanh hãy ra vào bằng lối cửa bắc thôi. 
Rồi gọi viên quan coi cửa bắc tới: 
- Từ nay về sau, bao giờ trưởng lão Hoài Nghĩa ra vào không được ngăn trở. 
Lại nói với Hoài Nghĩa: 
- Nay khanh đã vào đây, đợi chúng ta tàn tiệc rượu rồi, trẫm với khanh sẽ cùng ra dạo chơi có được chăng?
***
Lại nói chuyện Lương Tự bày biện ở Sướng Hoa đường, nào bình phong vẽ chim công, nào rèm hoa phù dung, khắp núi, khắp hồ, trăm hoa đua sắc, lại thêm tĩnh mịch thật đáng yêu. Giờ lâu ngự sử Địch Nhân Kiệt dẫn trăm quan vào, thấy quang cảnh như vậy, không khỏi lời thán phục: 
- Lạ thay! Lòng trời còn thế, lòng người ra sao bây giờ? 
Nội sử An Kim Tàng đáp: 
- Không biết trong số muôn hoa, có loài nào không chịu nở chăng? 
Các quan dạo xem một vòng, duy chỉ cây hoa dâm bụt đến mầm non cũng chẳng thấy, vẫn trong điêu tàn của tiết đông sơ. Bất giác Kim Tàng liền than thở: 
- Diệu kỳ thay cho cây dâm bụt, đúng là một mình riêng giữ sự chính trực mà không chịu a dua theo thói thường vậy! 
Lúc này phò mã Vũ Du Kỵ sau khi vào cung lạy chào thái hậu, kéo ra Sướng Hoa đường lĩnh yến được ban, thêm nữa là bọn cung nữ theo hầu thái hậu, lệnh cho các đại thần không phải hành lễ, cứ theo thứ tự mà ngồi. Thái Hậu lên tiếng: 
- Thảo mộc điêu linh, trông cũng đau lòng. Đêm qua trẫm đặc ban chiếu chỉ, hướng thần hoa thử mượn trước mùa xuân, không ngờ sáng nay vạn hoa đều nở, cũng đủ thấy cảnh thái bình thịnh trị của triều đình. Lúc này uống cho say, ai nấy đều hãy vui vẻ mà về. Hoặc có thơ có phú ghi lại chuyện này chăng? 




Lại sai tả hữu xem trong số thảo mộc có loài nào dám coi thường chiếu chỉ mà không chịu nở hoa chăng. Tả hữu thưa: 
- Muôn hoa đều nở, duy chỉ hoa dâm bụt là không chịu vâng lệnh. 
Thái hậu liền lệnh cho cắt hết cành, đày ra bãi hoang, làm bờ rào, không cho trồng trong vườn nữa. 
Bọn Vũ Tam Tư vốn phường xiểm nịnh, tìm hết lời hoa mỹ để ngợi ca, riêng Địch Nhân Kiệt cùng một vài viên quan nữa thì tâu: 
- Mùa xuân sinh sôi, mùa thu thì tàn úa, đó là lẽ thường của tạo hóa. Nay trăm hoa bỗng nở đầy, đúng là uy phúc của bệ hạ rộng lớn. Nhưng mùa đông mà lại thể hiện tiết xuân cũng cần phải tỉnh táo mà sửa mình vậy. 


Rượu được ba tuần, quần thần cáo lui, thái hậu nhân Hoài Nghĩa chờ trong nội cung, nên cũng quay ngay về. Vũ Tam Tư thấy thái hậu không mời mình về cung, trong lòng nghi hoặc, đi qua Ngoạn Nguyệt đình, rẽ sang Thúy Bích hiên, thấy Thượng Quan Uyển Nhi đang dựa lan can mơ mộng. 



Chính là: 
Mặt tươi phấn điểm hoa lê 
Lưng ong thân liễu tròn xuê nhẹ nhàng 
Buồn tênh tựa hẫng lan can 
Đong đưa ai biết hồn tan nơi nào 



Tam Tư ở chỗ thái hậu, vẫn thường thấy Uyển Nhi đã có để ý tới, nay thấy mỗi mình Uyển Nhi ở đây, lấy làm mừng rỡ, cất tiếng: 
- Uyển Nhi, một mình ở đây tư lự điều gì thế? Có phải đang nghĩ đến ta chăng 
Uyển Nhi quay đầu lại, thấy Tam Tư, liền cười: 
- Thiếp chẳng nghĩ đến ngài đâu, mà đã có bậc trên cao nghĩ đến rồi. 
Tam Tư hỏi: 
- Là ai thế? 
Uyển Nhi đáp: 
- Thiếp xin hỏi ngài, hôm nay dự yến ở Sướng Hoa đường kia mà, sao lại lạc bước tới đây? 


Tam Tư đáp: 
- Ngươi chẳng cần phải theo dõi. Ta đến tìm ngươi ở Thúy Bích hiên này, có chuyện gì muốn nói đây. 
Uyển Nhi giục: 
- Có chuyện gì thì hãy nói ngay xem nào 
Tam Tư cười: 
- Ngươi hãy vào góc này đã, ta mới nói. 
Uyển Nhi đành phải theo đến. Tam Tư hỏi: 
- Ai đang cùng vui đùa với thái hậu ỡ trong cung vậy? 
Uyển Nhi đáp: 
- Phùng Trưởng lão chứ còn ai nữa! 
Tam Tư liền ôm lấy Uyển Nhi mà rằng: 
- Cô em ơi, vừa rồi cô em bảo có người nghĩ đến ta, đúng ra ai thế? 
Uyển Nhi liền kể chuyện lúc Vi Hoàng hậu còn ở trong cung: 
- Thiếp thường vẫn trước mặt Vi Hoàng hậu khen ngợi ngài phong lưu, thân mật ra sao, lại kể ngài ở trong cung, quan hệ với thái hậu thế nào. Hoàng hậu hay thở dài, rồi cất tiếng than: "Thảo nào thái hậu yêu dấu Tam Tư đến thế! Thếkhông phải là hoàng hậu nghĩ đến ngài còn gì? Đáng tiếc là giờ lại đã theo chúa thượng ra tận Phòng Châu mất rồi. Nếu Hoàng hậu mà được về, thiếp sẽ dẫn ngài đến, lại không hơn trong cung kia sao? 
Tam Tư đáp: 
- Vi Hoàng hậu nếu đã có lòng yêu thế, ta sẽ hết sức chu toàn trước mặt thái hậu, để Lư Lăng Vương cũng sẽ được triệu về. 
Nói xong, liền chia tay.
***
Lại nói Sách Nguyên Lễ, Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cũng được dự yến ở hướng Hoa đường, thấy bọn người chính trực Địch Nhân Kiệt, An Kim Tàng dáng vẻ ngang nhiên, không coi bọn chúng vào đâu trong lòng đều giận dữ, khác nào Hoài Nghĩa căm tức Lương Tự vậy. Gặp ngay chuyện Dương Sơ Thành ở Quắc Châu, kéo bè cánh định nghênh giá nhà vua ở Phòng Châu về, thái hậu ra lệnh bắt giam. Hoài Nghĩa cùng vào hùa với bọn Chu Hưng, vu cho Tô Lương Tự, Địch Nhân Kiệt cùng An Kim Tàng liên hệ với bọn Sơ Thành để mưu phản. Lai Tuấn Thần lại vứt một cái quạt vào trong hòm đựng tấu chương của triều đình, trên có viết hai bài từ "Túy hoa Âm" nói là Lương Tự mỉa mai thái hậu, cũng nhằm mưu phản nghịch: 


1. Xuân về hoa nở lẽ thường, 
Phá mùa đông tuyết phải nhường cho mai. 
Nhưng đâu cứ mãi thế này 
Một còn không chắc dễ hai được nào 
Đem "đan chiếu” (1) truyền vào thượng uyển 
Bắt muôn hoa nở rộn một khi 
Cỏ cây nào biết nói gì. 
Mặt rồng đẹp ý là tùy tay ai? 
2. Nở trái tiết, lẽ khác thường 
Chẳng qua chỉ muốn tìm đường a dua 
Đêm qua "đan chiếu” một tờ 
Muôn hoa nở cả, ai ngờ một không! 
Ấy dâm bụt dửng dừng dưng 
Căm quân xiểm nịnh, ghét phường quyền gian 
Muôn hồng nghìn tía thẹn chăng? 
1 Dùng chữ "oan" để chế giễu. "Chiếu” theo nghĩa khác: chiếu chăn. 


Thái hậu thấy thế, vô cùng giận dữ, nhưng vẫn biết Địch Nhân Kiệt vốn là viên quan trung trực lâu nay liền cầm bút xóa tên đi, còn lại lệnh cho Sách Nguyên Lễ tra hỏi. Nguyên Lễ được dịp tra tấn rất tàn khốc, chẳng rõ vu hại được nhiều ít, nhưng riêng Tô Lương Tự thì nhất quyết bắt phải nhận có mưu phản, Lương Tự gào thét: 
- Còn có chín miếu linh thiêng của trời đất ở trên, nếu như Tô Lương Tự này mà có lòng khác, thì xin chịu tội chết cả họ. 
Bọn này lại kéo An Kim Tàng lên tra khảo, Kim Tàng nói: 
- Làm con thì phải hiếu, làm bề tôi thì phải trung, nay nhà vua đã muốn bề tôi chết, việc gì phải bức bề tôi mưu hại nhà vua, cái việc mà bề tôi không làm. Còn nếu không tin vào lời Kim Tàng này, xin được mổ bụng để rõ Kim Tàng này không hề có mưu toan phản loạn. 
Liền cầm lấy đoản kiếm, tự mổ bụng mình, ngũ tạng đều lộ ra cả máu chảy lênh láng cả pháp đường. Đỗ Cảnh Kiểm, Lý Bạch biết rõ Kim Tàng lâu nay lòng dạ ngay thẳng, vội quát tả hữu giằng lấy đoản kiếm, tâu lên thái hậu rõ. Thái hậu liền truyền lệnh bọn Tuấn Thần không được tra hỏi nữa, và gọi ngay Thái y viện vào chăm sóc. 
Việc làm của An Kim Tàng xa gần đều nghe, thứ sử Mị Châu là Anh Công Từ Kính Nghiệp, cùng em là Kính Du, đi qua Dương Châu, nghe tin này không giấu được giận dữ: 
- Đáng tiếc thay tiên đế anh hùng khắp thiên hạ, biết bao năm xông pha chiến trường, mới có được cuộc thái bình này, để đến nay bị một con đàn bà ngang nhiên tọa hưởng, đem con cái tiên đế giết hại gần hết. Chẳng nhẽ nước non này, cuối cùng lại rơi vào tay họ Vũ? Khắp triều công khanh đều chỉ là tượng gỗ cả hay sao? 
Kính Du thêm: 
- Sao anh nỡ nói thế, trăm quan bây giờ đều thuộc lũ đàn em, ai cũng chỉ giữ thân mình, lo cho nhà mình. Họ có dâm loạn, nhưng kỷ cương của triều đình vẫn còn đó. Đáng giận là lũ chuột cáo, nay nếu có bậc trung thần nghĩa sĩ nào đứng ra trừ diệt bọn này, thì ai cấm nổi được. 
Bỗng thấy Đường Chi Kỳ, Lạc Tân Vương tới, cũng bởi họ Đường, họ Lạc bị biếm trích nên mới về Dương Châu cả. Hai người cất tiếng hỏi: 
- Các người nói chuyện bất đắc chí gì thế này? 
Kính Nghiệp đáp: 
- Nhị vị tới đúng lắm, có việc ở kinh vừa báo về, xin hai vị cứ xem sẽ rõ ! 
Hai người xem xong, Chi Kỳ không ngớt than thở, còn Tân Vương thì nói với Kính Nghiệp: 
- Chuyện này, tiên nghiêm mà còn, thì may có thể vãn hồi! Nay nói cũng biết vậy thôi. 
Kính Nghiệp cãi: 
- Sao hiền huynh lại nói vậy. Gặp lúc hoạn nạn, hãy giương cao cờ nghĩa, kéo binh về kinh, cũng có thể thay đổi được chứ sao? 
Chi Kỳ hỏi: 
- Nếu đúng như thế, sao đại huynh lại ngồi yên một chỗ. 
Tân Vương thêm: 
- Nếu đại huynh muốn giương cao cờ nghĩa, tiểu đệ xin viết tặng một bài hịch vậy! 
Kính Nghiệp đáp: 
- Hiền huynh mà định giúp thực, tiểu đệ xin đứng ra gánh vác việc này, nay mai làm lễ cáo trời đất, tế Đường Cao Tổ, ra lệnh cho ba quân, giương thẳng cờ nghĩa. Giờ thì hãy thong thả uống rượu, rồi hiền huynh nghĩ dần bài hịch cho. 
Tân Vương đáp: 
- Việc gì mà phải nghĩ, cứ theo việc mà bàn là đã thành sách kể không hết tội còn gì! 
Kính Du nói: 
- Chỉ cần nói chuyện chặt tay chân hoàng hậu cùng phi tử, thì lòng dạ ấy thực đàn ông cũng không thể có vậy. 
Tiểu đồng bưng rượu ra, tất cả đều dùng chén lớn uống luôn mấy chén. Tân Vương đứng dậy nói: 
- Hãy để tiểu nhị viết đã, chư huynh xem qua, phủ chính cho ít nhiều. 
Rồi tới bên án, mở rộng giấy viết ngay:
Ngụy triều, Vũ Thị tính đâu có hòa thuận xuất thân hàn tiện. 
Xưa thời Thái Tôn được vào hầu trong cung. Kịp khi có tuổi, đã mang tiếng làm nhơ bẩn nội tẩm. Về sau, che giấu việc hầu Thái Tôn, lại được vào hầu tiên đế, sinh ra ghen tuông, nhân có chút nhan sắc, không chịu nhường ai, rồi dèm pha, nịnh hót, làm mê hoặc lòng chúa. Lên ngôi hoàng hậu đưa đường tiên đế vào thói hươu nai. Tính tình sài lang, gian ác, tàn hại trung lương, giết chị, giết anh, giết vua, giết mẹ. Thần người đều ghét, trời đất không dung, sinh lòng phản nghịch. Muốn đổi ngôi vua, giao cho họ mình quyền cao chức trọng. 
Kính Nghiệp tướng quân, vốn cựu thần nhà Đường ta, dòng dõi công hầu, đã từng cùng tiên quân dựng nên nghiệp lớn, được hậu ân bản triều, như Vi Tử như Viên Quân Sơn xưa, buồn thốt ra lời than, giọt nước mắt không phải là không có cớ. Thế cho nên nghĩa khí nổi lên như mây bay, như gió cuốn, chí muốn yên xã tắc, thấy thiên hạ thất vọng, vậy thuận lòng mong muốn của dân, phất cờ khởi nghĩa để tảo trừ loài yêu nghiệt. 
Các nghi hoặc ở trong đất nước, hoặc trọng hàng tôn thân, hoặc chịu lời ký thác xưa, hoặc được truyền di mệnh, lời ban còn văng vẳng bên tai, lòng trung đâu đã đổi: Đất lăng chưa ráo, vua nhỏ nhờ ai. Nếu được chuyển họa thành phúc, nhớ vua trước, giúp vua sau, cần vương nên việc, thì không phụ mệnh tiên quân, Có lòng tất có thưởng, lấy sông núi chứng minh. Nếu còn cố giữ thành trì cho giặc, do dự không theo đường chính, ngu tối không đoán việc trước, thế tất chậm trễ là bị cực hình. 
Cứ xem tình hình trước mắt sẽ biết thiên hạ về ai. (1) 
1 Theo bản dịch của Hoàng Khôi, "Cổ văn" tập 11, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1970, có thay một vài chữ. 

Kính Nghiệp ngồi ở bên, vừa xem Tân Vương viết, vừa chảy nước mắt khóc, mà vẫn theo dõi Tân Vương viết cho đến tận chữ cuối cùng, chén rượu trong tay rơi vỡ lúc nào không biết, tay đập án mà thở than. Tân Vương viết xong, vứt bút xuống đất chửi thề: 
- Kẻ nào đọc bài hịch này mà không động tâm, thì đúng là loài cầm thú vậy! 
Mọi người xúm lại đọc một lần nữa, không ai là không rơi nước mắt. Ai có thể ngờ rằng, chỉ với một bài hịch, mà chẳng khác gì một đạo luật trị nước an dân, có thể làm cho người này đau xót, kẻ khác nước mắt ngắn dài, người người than thở, ai nấy thương tâm. Kính Du cất tiếng: 
- Lúc này không phải lúc khóc than, mà chính là lúc các ngài nên bàn bạc xem phải hành động như thế nào! 
Tất cả ngồi lại, Kính Nghiệp lên tiếng: 
- Ngày mai xin tất cả các vị tới sớm, còn có mấy người bạn quen biết, cần phải mời họ cùng bàn luận. 
Họ Lạc họ Đường nghe lời ra về.
***
Lại nói chuyện lúc này Địch Nhân Kiệt làm tể tướng, xem xét số tù nhân trong ngục chưa thành án, còn tới hơn tám trăm năm mươi người. Nhân Kiệt mới dâng sớ kể tội Sách Nguyên Lễ dùng nhục hình tàn khốc tâu lên thái hậu. Thái hậu bèn lệnh cho Nghiêm Tư Thiện tra xét. Tư Thiện liền mời Chu Hưng đến cùng uống rượu, rồi nói với Chu Hưng: 
- Bọn tù phạm nhất định không chịu nhận tội, thì làm thế nào bây giờ? 
Chu Hưng đáp: 
- Bắt nhét vào chum, rồi đốt lửa hun thật nóng, thì tội gì mà chẳng phải nhận. 
Tư Thiện gọi lấy ra một cái chum lớn, đốt than rừng rực ở bên ngoài, rồi đứng dậy nói với Chu Hưng: 
- Có kẻ trong bọn tội phạm khai tội cho ngài, xin mời ngài vào chum cho! 


Chu Hưng đành phải cúi đầu nhận tội, bị đày ra Lĩnh Nam, nhưng rồi những nhà bị Hưng bức hại tìm cách giết chết. Còn bọn Sách Nguyên Lễ, Lai Tuấn Thần, đem chém thây bêu ngoài chợ, dân chúng đua nhau giành cướp thịt về ăn, chẳng mấy chốc hết sạch. 
Thái Hậu biết rõ thiên hạ oán ghét, bèn xuống chiếu làm tội bọn ác nghiệt này, nhiều kẻ bị tru di ba họ. Vì vậy những chuyện tàn khốc, chỉ một sớm đã hết sạch, tất cả quân cho đến dân đều mừng rỡ mà rằng: 
- Từ nay ngủ lưng mới được dính chiếu. 
Một hôm, Vũ Tam Tư vào cung, đem tờ hịch của Từ Kính Nghiệp cho thái hậu xem. Xem xong thái hậu rùng mình than dài, rồi hỏi: 
- Ai là người viết tờ hịch này? 
Tam Tư thưa: 
- Lạc Tân Vương? 
Thái hậu phán: 
- Có tài như thế mà không dùng được, đến nỗi phải lưu lạc, tức là lỗi ở bậc tể tướng trước kia vậy! 
Tam Tư nhân đó đem chuyện Kính Nghiệp có hẹn với Bùi Diễm làm nội ứng nhưng trong thư của Bùi Diễm chỉ có mỗi hai chữ "Thanh nga", chẳng ai hiểu gì cả. Thái hậu phán: 
- Có gì là khó hiểu. "Thanh" nghĩa là tháng mười hai. "Nga" nghĩa là cùng với ta. (1) Chính là dặn tháng mười hai này sẽ về kinh, ta sẽ cùng hưởng ứng vậy. Nay Bùi Diễm đang đi công cán ở bên ngoài, nên chưa truy bắt vội, chỉ cần sai đại tướng Lý Hiếu Dật đi tiễu trừ Từ Kính Nghiệp là đủ. Nhưng ta nghĩ rằng Lư Lăng Vương ở Phòng Châu, vốn là con trưởng của ta, nếu vương có lòng khác, thì thật là rầy rà. Nên phải tìm một kẻ tâm phúc, đi dò xem thực hư ra sao, mà chưa tìm được ai cả. 
1 "Thanh" là màu xanh, gồm chữ "nguyệt", chữ "thập", chữ "nhị” thành "thập nhị nguyệt": tháng mười hai. Chữ “Nga” gồm chữ "Ngã" là tôi, là ta, và chữ "Điều," gần giống chữ "Dữ" là cùng, với. 


Tam Tư nhớ lại những lời của Uyển Nhi, nói Vi Hoàng hậu ái mộ mình ra sao, bèn thưa: 
- Thần họ không phải tâm phúc của bệ hạ sao? Xin hãy cho thần được đi lần này! 
Thái hậu phán: 
- Khanh không đi được! 
Tam Tư thưa: 
- Việc này là việc quốc gia đại sự, nếu người khác đi, thật giả biết thế nào mà tin! 
Thái hậu vẫn do dự, thì cung nga vào quỳ thưa: 
- Phùng trưởng lão đã vào! 
Thái hậu hỏi Uyển Nhi: 
- Ngươi hãy đưa Vũ đại nhân ra. 
Uyển Nhi nói với Tam Tư: 
- Thiếp cùng ngài hãy theo phía trái mà ra thì hơn. 
Tam Tư hỏi: 
- Sao không đi đường đông này? 
Uyển Nhi đáp: 
- Phía tây sạch sẽ hơn nhiều! 
Tam Tư hiểu ý, bá vai Uyển Nhi, đùa rỡn một hồi, đem chuyện thái hậu sai đi Phòng Châu kể lại, để thăm dò Uyển Nhi xem sao. 
Uyển Nhi nói: 
- Việc này là bởi vì thiếp, thiếp có một ít lễ vật đưa trình Vi hoàng hậu, xin có thêm một lá thư, nhắc nhở hoàng hậu, mai này có gì cũng xin đừng quên thiếp vậy nhé? 
Tam Tư đáp: 
- Nhất quyết là thế rồi! 
Liền chia tay. 
Ngày hôm sau, thái hậu xuống chỉ, sai Tam Tư lập tức đi công cán Phòng Châu. Tam Tư liền vào cung từ biệt, Thái Hậu dặn dò kỹ lưỡng. Uyển Nhi lén đem lễ vật cùng thư viết giao cho Tam Tư. 
Mấy ngày sau, Tam Tư đã tới Phòng Châu, tìm quán trọ nghỉ ngơi, dặn tay chân giả xưng là khách thương tìm đến Phòng Châu mua hàng hóa. 
Tam Tư chờ mãi tới đêm khuya vắng vẻ, mới vờ hỏi dò chủ quán: 
- Lư Lăng Vương ở đây tiếng tăm ra sao? 
Chủ quán thưa: 
- Vương phụ rất tốt, thỉnh thoảng cũng có đi qua đường này. Chẳng là ở chùa Cảm Đức đây, có trưởng lão Tuệ Phạm, nên ngày rằm, mùng một, vương phụ vẫn ra chùa nghe trưởng lão giảng kinh. Thật đáng tiếc, một vị hoàng đế tốtđến thế, không biết vì lẽ gì, mà mẫu hoàng không vừa lòng, đày tận ra đây. 
Tam Tư thầm nghĩ: "Lư Lăng Vương làm những việc này rõ là không có lòng nào khác. May vừa hôm nay là mười bốn, mai là ngày rằm, đợi vương ra chùa, ta vào xem sao". 
Sáng ngày hôm sau, Tam Tư cùng với ba bốn tên tiểu lại, lên kiệu vào phủ. Lính canh biết Tam Tư, không hiểu sự thể ra sao, liền vội vào trình Vi Hoàng hậu. Vi Hoàng hậu liền gọi thái giám vào hỏi: 
- Có những ai đi theo Vũ Đại nhân nữa? 
Thái giám thưa rõ. Vi Hoàng hậu nói: 
- Nếu như thế, Vũ Đại nhân vốn là chỗ họ hàng thân thích, chẳng câu nệ, hãy mời vào trong cung gặp gỡ vậy. 
Thái giám ra rước vào. Tam Tư thấy Vi Hoàng hậu ra đón, đưa mắt nhìn, thì: 


Thân hình yểu điệu 
Phong thái thanh cao 
Mũi tựa ngọn quỳnh ngọc giao chung đức 
Mắt gồm sóng nước sóng tình hợp thành 
Tóc xanh tha thướt 
Khác nào rồng lượn giửa mây xanh 
Da trắng mịn màng 
Khó phân Tây Thi bên ngòi biếc. 



Tam Tư vội vàng quỳ lạy, Vi Hoàng hậu hoàn lễ, rồi mời ngồi, hỏi: 
- Thái hậu có khỏe không? 
Tam Tư cười thưa: 
- Dạo này cũng thư thái ít nhiều! 
Vi Hoàng hậu rớt nước mắt: 
- Lăng Vương ta vô ý nói một câu xúc phạm đến thái hậu, đến nỗi bị đuổi, giờ thì chẳng biết đến khi nào vợ chồng ta mới lại được trở về quỳ dưới gối? 
Tam Tư hỏi: 
- Vương phụ hiện không có trong cung sao? 
Vi Hoàng hậu đáp: 
- Sáng sớm ra chùa Cảm Đức, đã sai người mời về. Cũng bởi không biết Vũ Đại nhân đến vậy? 
Tam Tư tiếp: 
- Thượng Quan Uyển Nhi nhớ mong nương nương, nên có nhờ đưa thư trình. 
Rồi lấy thư trong hia, tả hữu bưng lễ vật, trình lên. Vi Hoàng hậu bóc thư Uyển Nhi ra xem, vừa xem vừa khẽ cười. Hầu gái vào thưa: 
- Vương phụ đã về ! 
Vi Hoàng hậu ra đón Trung Tôn vào, cùng Tam Tư chào lễ, an tọa, Trung Tôn vấn an thái hậu, rồi hàn huyên chuyện triều đình, chuyện hoàng tộc. Trung Tôn nói: 
- Vũ hiền huynh (1) hiện đang ở đâu? 
1 Vũ Tam Tư là cháu của thái hậu, nên Trung Tôn xưng hô thế! 


Tam Tư đáp: 
- Hiện đang ở quán cơm ngay trước phủ, định sáng ngày mai sẽ lên đường. 
Trung Tôn nói: 
- Sao lại thế được. Hiền huynh không xem ta là em sao, mà vội vàng thế, ta còn nhiều chuyện muốn hỏi. 
Liền sai tả hữu: 
- Hành lý của Vũ Đại nhân hiện đang ngoài quán hàng, hãy sai người lấy đem vào đây! 
Rồi đưa Tam Tư vào điện tiệc rượu. Tam Tư đem chuyện Kim An Tàng mổ bụng moi ruột, cùng chuyện Từ Kính Nghiệp thảo hịch, thái hậu sai Lý Hiếu Dật đi tiễu trừ, vừa sai mình đi Dương Châu, lệnh cho Lâu Sư Đức cùng phát binh thảo phạt, kể lại một lượt. Trung Tôn giận dữ nói: 
- Từ Mậu Công vốn là công thần, mẫu hậu đối đãi thế nào, mà đến nỗi con cháu phải ngang ngược đến vậy. Nay thì dẫu có bắt được Kính Nghiệp, băm xác làm trăm mảnh cũng không đủ chuộc tội vậy! 
Liền lệnh cho dọn dẹp thư phòng ở phía sau. Trung Tôn lui vào thay áo. Tam Tư đã thấy bày tiệc rượu sẵn, lại thêm người hầu gái đứng hầu Vi Hoàng hậu vừa rồi giả dạng mời trà, lại gần thưa khẽ với Tam Tư.
- Xin Vũ Đại nhân đừng uống quá say rượu ngon, nương nương còn có chuyện muốn nói với đại nhân. 
Trung Tôn đã ra ngồi vào bàn tiệc, mọi người cố tình mời Trung Tôn uống rõ say rồi dìu vào phòng trong.
Tam Tư thấy ở gian bên là giường đệm, sắp sẵn hoa lệ, liền lệnh cho mấy tay chân đi nghỉ trước, còn mình thì dựa án xem sách. 
Chẳng mấy lúc Vi Hoàng hậu đã ra, Tam Tư vội đứng dậy đón: 
- Hạ quan thật là may mắn, đội ơn nương nương thương đến! 
Vi Hoàng hậu khẽ đáp: 
- Đừng lên tiếng! 
Rồi rút ra ở trên mái tóc ra một cái trâm có gắn ngọc minh châu, tháo ở tay ra một xuyến bích ngọc liên hoàn đặt trên bàn, lên tiếng thì thầm: 
- Cũng bởi Vũ hiền huynh không thờ ơ với ta vậy! 
Tam Tư đáp: 
- Tam Tư này trở về, thưa ngay với thái hậu rõ vương phụ hiếu thuận ra sao, để làm thế nào vương phụ được gọi về triều ngay. 
Vi Hoàng hậu đáp: 
- Như thế thì còn gì bằng. Ta có một cành trâm này, gọi là tặng đại nhân để nhắc đại nhân đừng phụ ta. Còn Uyển Nhi thì ta không tiện viết thư, đại nhân hãy vì ta mà chuyển lời cảm ơn, có xuyến ngọc đây xin nhờ đại nhân đưa giùm. 
Nói rồi đứng dậy từ biệt Tam Tư mà vào. 
Tam Tư ở lại phủ, nhưng sợ dằng dai, thái hậu nghi ngờ, liền từ biệt Trung Tôn lên đường về kinh. 

Muốn biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải.

HỒI 74
Đổi tên nước, phụ nữ làm vua,
Dự tiệc quan, tiểu nhân giấu thịt.
Từ rằng: 
Vũ Thị ngang nhiên đổi tên nước 
Nhà Đường ngán nỗi gần hết phước 
Vì đâu mộng mị đúng cùng sai 
Lại khiến Lư Lăng sau hòa trước 
Lạ đời sư vãi dâm ô 
Bắt muôn dân phải giở trò ăn chay 
A dua vô lại một bầy, 
Tâng công mách lẻo phơi bày thối tha. 
Theo điệu "Tây giang nguyệt" 
***
Nay hãy nói chuyện có một người tên gọi Phó Duy Nghệ , quê quán đâu chẳng biết, nhân cùng với bạn là Đỗ Tiêu, vốn đi lại với Phùng Hoài Nghĩa rất thân thiết, Hoài Nghĩa tiến cử cả hai lên thái hậu, đều được sủng ái, cất ngay làm thị ngự. Du Nghệ tìm đủ mọi cách trình hót thái hậu nên thay quốc hiệu, xui lập Vũ Thừa Tự làm Thái tử. Thái hậu cả mừng, liền thay quốc hiệu Đường ra Chu, đổi ra niên hiệu Thiên Thụ nguyên niên (1), tự xưng là Thánh thần Hoàng đế lập nên bảy miếu thờ họ Vũ. Chính là: 
Hoàng hậu làm hoàng đế 
Vua lớn kém vua bé 
Trần đời không hai hề 
Muôn thuở có một nhé! 
1 Tức năm 690, sử sách gọi là thời Vũ Chu, thực kéo dài 20 năm, từ 685 đến 705, thay đổi niên hiệu 18 lần. 




Vũ Tam Tư về đến kinh, nghe tin Vũ Thừa Tự mưu làm Thái tử, trong lòng bất bình, liền vào ngay cung phục mệnh. Gặp Uyển Nhi, Tam Tư liền hỏi: 
- Thái hậu có khỏe không? 
Uyển Nhi đáp: 
- Thái hậu mấy hôm nay đau mắt, hiện đang gọi thái y Thẩm Nam Cầu vào chữa. Vương phụ ở Phòng Châu sự thể ra sao. 
Tam Tư đáp: 
- Vương phụ hàng ngày lễ Phật, công việc Vương phủ chu đáo. Vi Nương nương rất vừa ý, nhưng không kịp viết thư, chỉ gửi cho Uyển Nhi một xuyến ngọc, nhờ ta chuyển lời cám ơn. 
Rồi lấy trong ống tay áo ra chiếc xuyến đưa cho Uyển Nhi, Uyển Nhi nói: 
- Lúc này thái hậu đang rỗi rãi, đại nhân vào đi. Mấy hôm nay Vũ Thừa Tự đang ở trong ấy để mưu toan làm Thái tử, đại nhân hãy đối xử cho khéo. 


Tam Tư theo lời, vào cung, chúc tụng xong, kể chuyện Trung Tôn mong nhớ thái hậu ra sao, cầu niệm đức Phật cho thái hậu thế nào thưa lại tỉ mỉ. Thái hậu yên lặng không đáp một lời. 
Một hôm thái hậu nằm mộng không lành, gọi Địch Nhân Kiệt vào đoán. Thái hậu phán: 
- Trẫm nằm mộng thấy tiên đế ban cho một con anh vũ, hai cánh rã rời, trẫm mới vuốt ve nhẹ nhàng, thì lại thấy hai cánh chẳng cử động được nữa. 
Nhân Kiệt thưa: 
- Chữ "Vũ" trong anh vũ, lại đồng âm với họ của bệ hạ, cho nên có đủ con trai đủ con dâu là hai cánh thì sẽ bay được ngay thôi. (1) 
1 Cùng đọc là "Vũ”, có mấy chữ Vũ có nghĩa sau: Họ Vũ, chim anh Vũ, tông chi, múa, bay, các nghĩa khác không dính đến chuyện này. 


Thái hậu phán: 
- Khanh nói đúng lắm, nhưng hôm nay Vũ Thừa Tự đang xin làm Thái tử thì nên thế nào? 
Nhân Kiệt thưa: 
- Văn Hoàng đế xông pha mũi tên hòm đạn, mới định yên thiên hạ, truyền cho con cháu. Tiên đế đem hai con thác cho bệ hạ, nay lại định đổi cho họ khác, thì liệu có xứng ý trời chăng? Vả lại giữa cô cháu với mẹ con đường nào thân thiết hơn? Nếu bệ hạ lập con thì có thể dài nghìn năm vạn tuế sau này, được phối hưởng tế tự, mãi mãi không hết. Còn nếu bệ hạ định lập cháu thì từ xưa tới nay, chưa từng thấy cháu vào làm thiên tử mà thờ cô ở miếu đường cả. 


Thái hậu nghe ra, nên lệnh cho gọi Trung Tôn, mẹ con gặp nhau, vui mừng buồn giận cùng đến, chuyện không nói nữa. 
Một hôm thái hậu cùng Tam Tư đang to nhỏ ở bên song cửa sổ, gặp ngay anh em Xương Tông vào... Thái hậu cười nói: 
- Hiện đang có chín đề thơ người đẹp ở đây, các khanh chia nhau mà làm xem sao. 
Xương Tông lại án giở ra xem, thấy là những đề: Người đẹp tắm, người đẹp ngủ, người đẹp say... Chưa xem xong, lại thấy Thái Bình công chúa dắt tay Uyển Nhi bước vào, thì ra Xương Tông Dịch Chi, từ lâu cũng đã dính dáng với cả công chúa, thái hậu cũng đã hơi biết chuyện này. Hôm nay, gặp nhau cả ở đây, công chúa cất tiếng: 
- Trong vườn hoa sen nở rộ, sao quốc mẫu không ra xem lại ngồi buồn tẻ cả ở đây là sao? 
Thái hậu đáp: 
- Nếu thế thì tất cả cùng đi nào? 
Lệnh bày tiệc rượu ở trong vườn ngự. Mọi người kéo ra vườn, hạc dạo nhởn nhơ bên bờ hồ, sen nở đầy, màu hồng rực rỡ, biếc chen ánh mắt, hương đưa ngào ngạt. Thái hậu khen: 
- Thật là rực rỡ, đúng lúc chưa thật quá nhiều cũng không phải ít chẳng đậm mà chẳng nhạt vậy. 
Ai nấy dạo quanh nhìn ngó, rồi ngồi vào tiệc rượu một hồi, thái hậu phán: 
- Tiệc rượu này, mới thực là để thưởng hoa. Nhưng lẽ nào có thơ mà lại không có hoa, có hoa mà lại không thơ hay sao? 
Uyển Nhi thưa: 
- Hoa, rượu, thơ, bốn cái đẹp đều có cả, xin làm thế nào để đừng phụ người, phụ cảnh. 
Công chúa hỏi: 
- Hoa, rượu, thơ mới chỉ có ba, sao lại nói là bốn dược? 
Uyển Nhi thưa: 
- Thế thì còn người nữa, không phải là cái đẹp thứ tư sao? 
Ai nấy đều cười lớn. Dịch Chi cất tiếng: 
- Hoa sen đã dược ngâm vịnh nhiều rồi, chẳng thể bắt chước mà cũng chẳng thể ăn cắp được của người khác. 
Thái hậu phán: 
- Khanh nói đúng lắm, thế thì có mấy đề thơ ở trong cung, hãy mau đem ra đây. 
Xương Tông thưa: 
- Hiện đang ở trong túi áo thần đây rồi! 
Liền lấy ra đưa lên Thái hậu. Thái hậu cầm lấy cười nói: 
- Có mười hai đề mục tất cả, chỉ cần tùy ý mà viết, nhưng không được nói tới chuyện trong cung. Mỗi người bắt thăm chọn lấy hai đề, đủ cho sáu người ở đây. 
Liền lệnh cho Uyển Nhi viết mười hai thăm viên tròn lại, bỏ trong hộp. Trước tiên thái hậu bắt hai cái, còn lại các người khác lần lượt bắt. Thái hậu lại bàn cầm bút viết. Công chúa cùng Uyển Nhi, kéo lại bàn bên đông, Tam Tư với Dịch Chi, Xương Tông, ngồi ở bàn gần đó nghĩ ngợi. Thái hậu chẳng mấy chốc đã viết xong, đứng dậy phán: 
- May ra thì không đến nỗi bôi nhọ, cùng lắm cũng chỉ nói chưa hết được ý của đề mà thôi! 
Cung nga đem dâng mấy bó sen. Tam Tư cầm một bông, ghé sát vào tai Xương Tông mà đùa: 
- Mặt Trương dại nhân chẳng khác gì đóa hoa sen này! 
Thái hậu cười, nói: 
- Hay là hoa sen giống tai họ Trương? 
Uống rượu, cười đùa một hồi, Tam Tư, Dịch Chi, Xương Tông đứng dậy từ tạ. Thái Hậu sai nội giám Ngưu Tấn Khanh đi gọi Hoài Nghĩa, nào ngờ từ ngày Hoài Nghĩa được phong Ngạc Quốc Công, vàng lụa rất nhiều, thanh thế ngày càng lớn, giấu tìm rất nhiều mỹ nhân, ngày đêm hoan lạc, hôm ấy cũng đang say không biết trời đất. Thấy Tấn Khanh tới truyền chỉ tuyên triệu, Hoài Nghĩa tức giận nói: 
- Ở đây hoa đẹp nhị non, ta còn chẳng thèm bẻ, huống hồ cây già cành khô. Ngươi cứ về trước, ta sẽ vào sau. 
Tấn Khanh không biết nói thế nào, đành quay ra, đem những lời Hoài Nghĩa thực tâu lên. Thái hậu thịnh nộ quát: 
- Thằng trọc này vô lễ! Từ xưa lửa thiêng chùa chiền, tàn bén đến cả nơi minh đường đều từ lũ lừa trọc này cả. Nay lại còn dám hỗn láo thế này sao. 


Vừa lúc Thái Bình công chúa vào, thấy Thái Hậu giận dữ, hỏi nguyên cớ. Tấn Khanh kể lại lời Hoài Nghĩa. Công chúa nói: 
- Con lừa trọc vô lễ thật, quốc mẫu chẳng việc gì phải tức tối, để ngày mai con sẽ giết quách là yên chuyện. 
Thái hậu đáp: 
- Phải quét sạch lũ vô tích sự này mới xong. 
Công chúa lĩnh mệnh đi ra. 
Sáng sớm hôm sau, tuyển hai ba chục cung nữ khỏe mạnh, phục sẵn trong ngự uyển, sai hai thái giám, đi gọi Hoài Nghĩa. Hoài Nghĩa nhân đêm qua quá say lỡ lời, hối hận thì đã không kịp, nay lại thấy thái giám tới triệu, ý mong lấp liếm tội vừa rồi, nên vội vàng cùng hai thái giám theo cửa sau vào cung. Công chúa sai cung nga đón đường truyền lệnh: 
- Thái hậu hiện đang chờ ở ngự uyển, mau vào ngay. 
Hoài Nghĩa chẳng chút nghi ngờ, cứ thế đi theo, cung nga dẫn đến một chỗ vắng vẻ, thấy Thái Bình công chúa đang ngồi, đưa cho một tờ mật chỉ. Hoài Nghĩa cầm lấy xem, thì ra lệnh của thái hậu truyền vào làm tội cung hình để cắt đoạn dòng dõi Hoài Nghĩa. Hai viên nội giám lập tức hành động, vừa thiến vừa đánh, chẳng mấy chốc Hoài Nghĩa tắt thở, liền cho xác vào trong bao, đưa về chùa Bạch Mã để hỏa thiêu, rồi quay về tâu lại Thái hậu. Chuyện không nói nữa.
***
Lại nói thái hậu nhân việc nhà minh đường bị lửa thiêu trụi, đến nỗi điện thờ Phật cũng bị tổn hại, rồi bốn phương hạn hán xảy ra liên tiếp năm này sang năm khác, khắp nơi tâu về những điềm quái dị, thiên tai, bèn hạ chiếu lệnh cho trăm quan tu tỉnh, cấm dân chúng không được xa xỉ, thậm chí không cho phép dân gian được bắt cá, mò tôm. Lệnh nghiêm truyền ra, không ai không dám tuân mệnh. 
Lúc này Dục Quốc Công Tần Thúc Bảo đã trí sĩ ngồi ở nhà, vẫn còn được phụng dưỡng Tần Thái phu nhân. Con trai là Tần Hoài Ngọc, đội ơn Đường Cao Tổ tác thành với Ái Liên con gái Đơn Hùng Tín, sinh hai con trai, trưởng là Tần Tông, thứ là Tần Vũ. Tần Vũ lấy con gái của quan thập di Trương Đức, đẻ sinh đôi hai con trai. Trần Thái phu nhân cùng Thúc Bảo vô cùng hoan hỉ, gặp ngày đầy tháng, bèn làm lễ "Hội cơm canh". Các quan trong triều đều đến chúc mừng. Thúc Bảo bày tiệc rượu để mời quan khách, từ Trương Đức đến Phó Du Nghệ, Đỗ Tiêu đều đến chúc mừng, cùng ngồi nâng chén. Bát chén bày la liệt, sơn hào hải vị đều có đủ, Trương Đức cất tiếng với quan khách: 
- Nếu vâng lệnh cấm của triều đình, thì hôm nay lẽ không nên bày biện thế này, nhưng cũng bởi lão mẫu tuổi cao, lại có được tằng tôn, thật còn vui sướng nào bằng, lại may được các ngài hạ cố, chẳng dám xem thường, nên đành trái lệnh. Xin các ngài che chở cho ít nhiều. 
Cha con Thúc Bảo cũng chắp tay cung kính thưa: 
- Xin các ngài thể tất cho! 
Các quan không nói gì, chỉ có Du Nghệ, Đỗ Tiêu vốn phường tiểu nhân, ngoài miệng không rằng, nhưng trong lòng thì chẳng chịu yên, đã nghĩ tới chuyện về thưa với thái hậu để tâng công. Du Nghệ đưa mắt nhìn Đỗ Tiêu mà cười. Đỗ Tiêu hiểu ý, thừa lúc mọi người rượu say nghiêng ngả, liền lấy trộm một cái bánh bao nhân thịt trên bàn tiệc, giấu vào trong ống tay áo. Mãi đến chiều tiệc tan, ai về nhà nấy. 
Ngày hôm sau, tan buổi chầu, trăm quan đã về cả. Du Nghệ cùng Đỗ Tiêu vẫn ở lại để thưa chuyện hôm qua, nên theo thái hậu lên điện. Thái hậu hỏi: 
- Hai khanh định tâu điều gì chăng? 
Đỗ Tiêu thưa: 
- Bệ hạ đang gặp những chuyện thiên tai phải tính đến việc tĩnh thân, nên có lệnh cấm sát sinh, người người đều vâng lệnh, chẳng ai dám trái: Nhưng có nhà quan đại thần lại vi phạm lệnh cấm, đó chính là Tần Hoài Ngọc, con Dục Quốc Công, nhân con thứ Tần Vũ sinh con trai, bày tiệc rượu mời khách. Thần cùng Phó Du Nghệ đến dự, các thứ mĩ vị trân cam đều đủ cả, rõ ràng phạm thánh chỉ nghiêm lệnh. Thần đã lấy trộm được vật này làm chứng, xin bệ hạ lệnh cho trị tội kẻ trái lệnh, để làm cho trăm họ kính sợ, thì lệnh mới nghiêm được. (1) 
1 về việc cấm sát sinh này, sách "Hước lãng", thời nhà Minh, cũng có kể một chuyện sau: Triều Vũ Tắc Thiên, lệnh cấm sát sinh rất gắt. Lâu Lư Đức thay mặt triều đình thanh tra đất Thiểm Tây, nhà bếp dâng thịt. Lâu hỏi: "Làm gì ra thịt này?” Nhà bếp thưa: "Dạ thưa, sói cắn chết dê!". Lâu tiếp: "Sói cũng được việc đấy chứ!". Nhà bếp lại dâng chả cá. Lại hỏi, thưa: "Dạ thưa, sói cắn chết cá!" Lâu quát. "Sao không nói là rái cá?" 
Tâu xong, lấy bánh bao nhân thịt ăn cắp hôm qua dâng lên, Du Nghệ cũng tâu: 
- Thập di Trương Đức, nhân vì thông gia, lại đứng lên mong các quan bao che, cũng là vi phạm phép nước, xin bệ hạ trị tội. 
Thái hậu nghe tâu, mỉm cười, tức thì truyền chỉ triệu Tần Hoài Ngọc, Trương Đức. Thái hậu hỏi Hoài Ngọc:
- Nghe nói con thứ của khanh là Tần Vũ, sinh luôn hai trai một lần. Họ Tần được con, họ Trương được cháu, mừng lắm phải không? 
Hoài Ngọc cùng Trương Đức cúi lạy tạ ơn, thái hậu tiếp: 
- Ngày hôm qua mở tiệc mời khách phải không! 
Hoài Ngọc thưa: 
- Thân phụ thân cũng bởi tổ mẫu tuổi cao, lấy chuyện sinh cháu làm vui, cũng có mời thân thích tới uống vài chén rượu. Nhưng không hiểu sao bệ hạ lại biết? 
Thái hậu truyền tả hữu đưa bánh bao ra cho Hoài Ngọc xem, rồi cười hỏi: 
- Cái này có phải ở bàn tiệc nhà khanh mà ra không? Dẫu Trương Thập Di có tình che chở cho khanh, nhưng vẫn có người giấu thịt đem đến tố cáo thì làm sao bây giờ đây? 
Hoài Ngọc cùng Trương Đức cả sợ vội vàng quỳ thưa: 
- Chúng thần phạm lệnh cấm, tội thật vạn lần đáng chết! 
Thái hậu phán: 
- Trẫm xuống lệnh cấm sát sinh, là để dân thường không được vô cớ mà tụ họp ăn uống, rồi giết hại sinh vật. Nhưng việc xấu, việc tốt chuyện mừng, chuyện tang là những sự cần thiết, không nằm trong lệnh cấm đó. Phụ thân khanh là bậc khai quốc công thần, lại đã tuổi cao, thêm lão thái thái vẫn còn, nay mừng một lúc có thêm hai cháu, mở "Hội cơm canh", dẫu có bắt cá mổ lợn, cũng là lẽ tự nhiên, trẫm nào có cấm. Nhưng chỉ có điều, từ nay khanh có mời khách, cũng cần chọn lựa cho chu đáo! 




Rồi chỉ Du Nghệ cùng Đỗ Tiêu mà rằng: 
- Như cái lũ này, nhớ đừng bao giờ mời nữa! 
Hoài Ngọc, Trương Đức tạ ơn lui ra. Du Nghệ, Đỗ Tiêu hổ thẹn không có lỗ nẻ mà chui, thái hậu cho người đuổi ra. Cả hai bị trăm quan lẫn dân chúng xỉ vả không tiếc lời. 
Chính là: 
Đừng bảo yêu tinh tác quái 
Nhiều lúc chúng thiêng như thần 
Phạm cấm không cho xuất thú 
Tiêu nhân chết vẫn tiểu nhân. 


Thái hậu nghĩ đến công lao các bậc đại thần khai quốc, cũng đã lần lượt ra đi gần hết, vừa lại nghe tin Trình Giảo Kim tạ thế, nhìn lại hai mươi tư công thần được vẽ hình trên gác Lăng Yên, còn lại mỗi một Tần Thúc Bảo, nay may mừng có cháu, nên thái hậu đặc mệnh đem hai mươi tấm gấm đoạn, hai xâu tiền vàng, thân mừng việc này, lại ngự ban cho hai tên, một là Tư Hiếu, hai là Khắc Hiếu. 
Cha con Thúc Bảo đều vào triều tạ ơn. Không đầy một tháng sau, Tần Thái phu nhân qua đời, Thúc Bảo nhân khóc mẫu thân mà mang bệnh, chẳng bao lâu cũng mất. Thái hậu nghe báo tin, liền xuống lệnh nghỉ chầu ba ngày, thân ban lễ tế cùng tên thụy. 
Chính là: 
Khai quốc công thần đều rụng cả 
Lang Yên tượng vẽ đứng trơ ra.

HỒI 75
Thỏa tình si, chồng vợ đội ơn,
Vì việc nghĩa, anh em phải chết.
Từ rằng: 
Có ý nên duyên 
Há cứ phải chỉ hồng xoắn xuýt? 
Kìa xem như Hồng Phất tài cao 
Dược Sư tình tha thiết (1) 
Tư Mã Lâm cùng ngón đàn mê mệt 
Văn Quân tình nồng (2) 
Mới tương phùng 
Mà đã biết anh hùng 
Mừng khôn xiết 
Có một giống 
Duyên trời kết 
Có một giống 
Dấu bèo gặp 
Than tình thơm chưa dứt 
Hồn ngây chưa tuyệt. 
Bất Vi nhà Tần đem chém đầu, (3) 
Ngưu Kim Đông Tấn cũng bị giết 
Những chuyện này 
Sử sách phân minh 
Nói sao hết! 
Theo điệu "Mãn giang hồng” 

1 xem hồi thứ mười sáu, tập 1 . 
2 Tư Mã Tương Như, gảy khúc "Phụng cầu hoàng". Trác Văn Quân nghe cảm động, bỏ nhà trốn theo, cùng nhau chung thủy. (Tầm nguyên từ điển). 
3 Xem hồi thứ bảy mươi hai. Nhà Tây Tấn vốn họ Tư Mã, vì vậy dân gian mới nói "Dĩ ngưu dịch mã", lấy trâu thay ngựa.
***
Nay không nói chuyện Đường Trung Tôn được về kinh nhưng còn ở Đông cung, thái hậu vẫn cai quản triều chính như cũ, tuổi ngày càng cao, nhưng lửa dâm ngày càng mạnh. Mỗi lần Trương Xương Tông vào làm Phụng thời lệnh, mỗi lần yến tiệc, hội họp, kéo cả nhà họ Vũ, anh em họ Trương vào ăn uống, đùa cợt, lại tuyển thêm nhiều thiếu niên tuấn tú, để làm Phụng thời nội cung phụng, toàn những bọn bảnh bao, gian trá, ngày đêm hành lạc. 

Tể tướng Ngụy Nguyên Trung tâu rằng: 
- Thần tạm giữ ngôi Tể tướng, mà vẫn để bọn tiểu nhân ngay cạnh thánh chúa, thì chính là tội của thần vậy. 
Nguyên Trung vốn tính ngay thẳng, không sợ quyền thế, vì vậy bọn họ Vũ, họ Trương vừa sợ vừa oán, thái hậu cũng không thích. 
Xương Tông đã từng thưa với thái hậu, rằng: "Thái hậu đã già mà còn dâm loạn đến thế, chi bằng giúp cho Thái tử để tính kế lâu dài. Đông cung mà lên ngôi thì nhất định bọn tiểu nhân đều không còn đất đứng nữa". 


Thái hậu nghe được, vô cùng giận dữ, muốn trị tội Nguyên Trung. Xương Tông lại sợ việc không yên ổn, liền lẻn tới tìm Phượng các xá nhân Trương Duyệt, lấy rất nhiều vàng bạc hối lộ, hứa sẽ lo cho chức quan cao, chỉ cần Trương Duyệt làm chứng cho việc làm, lời nói của Nguyên Trung. Trương Duyệt nghĩ ngợi rồi từ chối. Xương Tông biến sắc mặt, chẳng cần giữ gìn gì, nói sẽ tìm người khác, lại là kẻ ngay gần tể tướng, nhưng có nhiều điều không tiện, nên nếu không tìm ra, sẽ quay lại thương lượng với Trương Duyệt. Chuyện chưa rõ ràng thì đã mỗi người mỗi nơi. 


Sáng hôm sau, thái hậu lâm triều, trăm quan đã ra về cả, chỉ giữ Nguyên Trung cùng Xương Tông ở lại. Thái hậu hỏi: Xương Tông, khanh nhiều lần nghe Nguyên Trung bàn tán thế nào, với những ai? 
Xương Tông thưa: 
- Nguyên Trung đi lại rất thân với các xá nhân Trương Duyệt, những chuyện này đều bàn với Trương Duyệt. Xin bệ hạ cứ hỏi Trương Duyệt thì biết thần nói sai hay đúng. 


Thái hậu liền sai nội giám đi triệu Trương Duyệt. Lúc này các đại thần đều ở quẩn quanh trong triều để nghe ngóng, chưa ai về, nghe tin thái hậu gọi Trương Duyệt biết ngay là chuyện Nguyên Trung. Trương Duyệt vào. Lại bộ thượng thư Tống Cảnh khuyên: 
- Trương Tiên sinh, danh nghĩa là điều thật đáng sợ, chuyện quỷ thần là chuyện khôn lường, việc đi đứng là việc phải thận trọng, đừng vì muốn yên thân mà cẩu thả, đắc tội với muôn đời. Nếu có chuyện gì nguy hiểm, bọn Cảnh này xin ghé chung vai, đồng sinh tử. Tên tuổi nghìn đời sau, chỉ vào lúc này thôi đây. 
Tả thị lang bộ Lại Lưu Tri Ký cũng nói: 
- Trương Tiên sinh chẳng thèm làm bẩn sử sách, liên lụy đến con cháu đâu. 
Trương Duyệt gật gật đầu, rồi vào nội điện. Thái hậu hỏi, Trương Duyệt yên lặng không đáp. Xương Tông đứng bên cạnh giục mãi. Trương Duyệt bèn thưa: 
- Thần thực không nghe Nguyên Trung nói những lời này bao giờ, mà chẳng qua Xương Tông cứ bức thần phải đứng ra làm chứng thôi vậy. 
Thái hậu giận dữ: 
- Trương Duyệt này đúng là phường tiểu nhân phản phúc, phải trị tội mới xong. 
Rồi quay vào nội cung. 


Mấy ngày sau, thái hậu lại triệu Trương Duyệt vào hỏi, Trương Duyệt vẫn thưa như cũ. Thái hậu giận dữ, biếm Nguyên Trung đi Cao Yếu, Trương Duyệt đi Lĩnh Biểu. Xương Tông dựa thế thái hậu, bức Trương Duyệt lên đường ngay.
***
Lại nói chuyện Trương Duyệt có người thiếp yêu họ Ninh, tên là Hoài Đường, tự Tỉnh Hoa, lúc sinh mẹ nằm mộng thấy có người cho một đóa hoa hải đường, nhân đấy có thai. Mọi người nói đùa: "Hoa hải đường ngủ chưa đẫy giấc cao?". Bà mẹ đáp: "Đã là danh hoa thì nên thức chứ không nên ngủ!". Vì vậy mới đặt tự là Tỉnh Hoa, đến lúc về với Trương Duyệt thì tuổi đã mười bảy, nhan sắc diễm kiều, văn tài mẫn tiệp, bao nhiêu công việc cơ mật, Trương Duyệt đều giao cho. 


Hôm ấy có một chàng trai, tuổi cũng suýt soát, họ Giả, tên Toàn Hủ, thân phụ là Giả Khác vốn là Thượng Thư bộ Lễ. Toàn Hủ cũng vừa kịp tuổi đội mũ, lên kinh đi thi, đến ra mắt Trương Duyệt. Nhân thấy Toàn Hủ tuổi thiếu niên có tài, giữ lại làm ký thất, phàm thư từ qua lại, đều do Toàn Hủ trông coi. Vì tin yêu nên cho Toàn Hủ ở ngay trong dinh. Bỗng một chiều mùa hạ, gió thu thổi sớm đưa hương, Toàn Hủ men theo ngọc đình (1) thong thả dạo chơi, bỗng gặp ngay Hoài Đường ở lối rẽ. Toàn Hủ hoàn toàn coi như không có chuyện gì, bước tới, hai tay chắp cung kính, từ tốn mà thưa: 
- Tiểu sinh là Giả Toàn Hủ ở Tô Châu; vô tình đi dạo, không kịp tránh. Xin tiểu thư tha tội! 
1 Tòa tầu nhỏ, dựng giữa vườn để hóng mát, nghỉ ngơi gặp bạn bè, ít người. 


Hoài Đường cũng không trả lời, chỉ đáp lễ, rồi đứng nhìn theo Toàn Hủ bước đi, trong lòng ngẫm nghĩ "Trương đại nhân nhà này nói tới tài văn chương của họ Giả, lại gia thế quý phái, hiển hách, không ngờ phong thái lại tao nhã dường ấy. Cứ trong cử chỉ mà xem, nhất định không phải người chịu lưu lạc. Ta nay thân phận thế này, có đầy đủ chăng nữa, nhưng cũng chẳng danh giá gì!” . Sau đó không một lần gặp lại, nào hiểu gì hơn, hỏi han ai bây giờ? Đành giữ kín trong lòng mà thôi. 


Hôm ấy, Toàn Hủ ra ngoài phố nghe được chuyện Trương Duyệt trở về, ngồi một mình trong thư phòng, trăng sáng như ban ngày, nghe bên ngoài hành lang có tiếng ho khẽ. Toàn Hủ mở cửa ra nhìn, thấy một cô gái đang đi tới. Toàn Hủ kinh ngạc hỏi, cô gái đáp: 
- Thiếp là Bích Liên, người hầu của Hoài Đường tiểu thư. Hôm trước tiểu thư có lần gặp, lòng thổn thức không yên. Nay cũng bởi Trương chủ nhân sắp lên đường, tiểu thư muốn được gặp Giả công tử một lần, nên sai thiếp đến đây thưa chuyện trước xem sao. 

Nói chưa xong, đã thấy Hoài Đường lặng lẽ đi tới, hương thầm phảng phất. Toàn Hủ bước tới lạy chào: 
- Duyên may ở ngọc đình ngày trước, được tiểu thư không theo thói thường tình, những mong tin nhạn vãng lai. Nay được tiểu thư giáng lâm, thật khác gì trời ban duyên kỳ ngộ. Nếu bằng tiểu thư không bỏ, xin được cùng kết nghĩa trăm năm vậy! 
Hoài Đường từ tốn đáp: 
- Thiếp đã ở trong phủ này hai ba năm, thấy khách quý, giàu sang cũng lắm, nhưng không có ai như công tử. Nếu công tử không coi thiếp là phường hoa tàn, lá héo, cũng xin được nâng khăn sửa áo suốt đời. Nay nhân lúc công việc bộn bề, sao chẳng theo gương Lý Vệ Công (1) với Trương Xuất Trần, hãy đi cho xa, không biết công tử có dám làm chăng? 
Toàn Hủ đáp: 
- May được tiểu thư thương đến. Toàn Hủ có điều gì mà chẳng dám làm. Chỉ sợ không hiểu ý tứ Trương chủ nhân sẽ thế nào? 
Hoài Đường đáp: 
- Việc này là việc chung thân đại sự của chúng ta, làm sao mà để ý cho khắp được, cứ đành theo mình thôi. 
Bích Liên mang hũ rượu, thức nhắm tới, cả hai ngồi vào bàn. Toàn Hủ cất tiếng: 
- Tiểu thư tự Tỉnh Hoa, nhưng chỉ sợ đêm nay lại ngủ say thì biết làm sao? 
Hoài Đường cười đáp: 
- Cùng với công tử đêm nay không ngủ, chỉ vì sợ phí mất cả một khắc nghìn vàng vậy đó. (2) 
1 Tức Lý Tĩnh, về sau được phong Vệ Quốc Công. 
2 Tỉnh Hoa: đóa hoa thức, không ngủ. Toàn Hủ: hoàn toàn trống rỗng, hủ không, mất mát...


Mọi người cùng cười. Bích Liên thưa: 
- "Bờ vách có tai", kế sách bây giờ, thì ba mươi sáu chước, chạy trốn là hay hơn cả. 
Liền vội vàng thu nhập đang đêm cùng trốn đi. 
Chính là: 
Vợ chồng tiền định do trời 
Ai đa tình tức là người có duyên. 

Chưa gì đã có người đi báo ngay cho Trương Duyệt biết, Trương Duyệt cho đi khắp nơi tìm bắt về. Trương Duyệt định giam cho đến chết. Toàn Hủ lên tiếng thưa: 




- Thấy nhan sắc mà không giữ mình, cũng là chuyện thường tình của người đời. Làm trai dẫu có chết vì chuyện này cũng có gì đáng tiếc. Nhưng đại nhân danh cao, đức cả, dẫu hiện giờ có tạm bị kiếm trách đi nữa, chẳng bao lâu lại sẽ được tôn vinh hơn trước. Biết đâu sau này lại có dịp phải dùng đến hạng người như tiểu sinh này chăng, chẳng chóng thì chầy thế nào cũng vậy thôi, vậy thì lẽ nào chỉ vì mất một người con gái mà đến nỗi xử bậc trượng phu vào chỗ chết, trộm nghĩ đó là việc đại nhân không dám làm vậy. Hãy xem gương xưa Sở Trang Vương không trị kẻ bị dứt giải mũ (1); Viên Áng không truy tìm thư sinh rủ người thiếp đi trốn (2); Dương Tố không đuổi theo Lý Tĩnh, về sau được báo ơn. Nay đại nhân định vì một người con gái mà giết kẻ sĩ sao? 
1 “Đông Chu liệt quốc” Sở Trang Vương đãi yến đêm gió mạnh, đèn nến đã tắt cả. Một viên quan nhân vậy, ghẹo người thiếp yêu của vua, người thiếp mách Trang Vương và trình giải mũ mình giật được của viên quan đó. Trang Vương không thắp đèn vội, bắt tất cả các quan đều phải dứt giải mũ đã. Về sau viên quan đó liều chết cứu Trang Vương xong, rồi thú tội. 
2 "Từ Hải": Viên Áng làm lang trung thời Hán Văn Đế, đến thời Cảnh Đế, làm thái thường, thông minh, chính trực. 


Trương Duyệt nghe những lời nói lạ lùng này, bèn đổi giận làm vui: 
- Công tử nói có lý lắm. Nay xin đem Tỉnh Hoa này tặng công tử lại sai cả gia nhân sắp đủ tiền bạc, vật dùng cùng xe ngựa cho công tử vậy! 
Toàn Hủ không từ chối, rồi đem theo Hoài Đường mà ra khỏi cửa. Thái hậu nghe chuyện này, cho Trương Duyệt là người biết thuận theo nhân tình, nên không tra hỏi chuyện cũ nữa, lại làm chức cũ, giao thêm ngôi sư phó cho con thứ ba của Duệ Tôn là Lý Long Cơ. Long Cơ chính là Đường Huyền Tông của thời trung hưng sau này, nhưng lúc này cũng bị thái hậu tiết chế, chưa gặp thời vậy. Kẻ được thái hậu yêu vì lúc này, ngoài con cháu họ Vũ ra, chỉ còn Thái Bình công chúa cùng An Lạc công chúa mà thôi. An Lạc vốn là con của trung Tôn, đã gã cho cháu của thái hậu là Vũ Sùng Huấn, bởi thái hậu yêu quý dòng dõi họ Vũ, nên cũng yêu lây cả An Lạc mà thôi. An Lạc ỷ thế nhà chồng, ra sức nịnh hót thái hậu, mặc sức kiêu sa dâm dật, ngang ngược tai quái chẳng kém gì Thái Bình công chúa cả. 
Hôm ấy, cả hai công chúa đều ngồi nhàn trong cung, bỗng thấy trên bức tường treo bức tranh "Người đẹp đấu lá", một bức tranh rất đẹp. Có bài tư "Tây Giang nguyệt" tả rất đúng rằng: 


Xuân ve tươi tốt cỏ xuân 
Buồng xuân, xuân hứng nồng nàn xuân 
Sai con hầu vào vườn tìm kiếm 
Đủ các trại lá hiếm cỏ hay 
Cỏ kia, cỏ ấy, cỏ này 
So đo cùng loại khác bày ra sao 
Cả cười hoan hỷ thế nào 
Cỏ nghi nam dục đẻ nhiều con trai.(1) 
1 "Bản thảo cương mục". Cỏ nghi nam, tên chính là huyên thảo, phụ nữ ăn nhiều hoa của cây này thường hay sinh con trai. 


Thái Bình công chúa xem bức tranh, nói với An Lạc công chúa: 
- Người đẹp đấu lá, chính là hợp với cảnh phòng khuê mùa xuân. Giữ mới tháng hai, cây cỏ chưa thật tươi tốt, đợi đến cuối xuân, hoa lá đủ đầy, ta cùng công chúa mở hội đấu lá, liệu có nên chăng? 



An Lạc công chúa bằng lòng. Ngay tuần đầu của tháng ba, đang lúc sai cung nga vào ngự uyển hái đủ loài kỳ mộc dị thảo, thì thấy Thượng Quan Uyển Nhi vào chơi, nghe kể chuyện, bèn khuyên rằng: 
- Công chúa nếu sai người tìm các loại lá, loại cỏ, chỉ sợ rằng phía bên kia cũng đều tìm được, thế thì làm sao mà thắng nổi. Phải làm thế nào mà có được thứ bên kia tìm không ra thì mới chắc thắng cho được. 
Công chúa hỏi: 
- Khanh bảo tìm cái gì mà bên kia không có được bây giờ? 
Uyển Nhi đáp: 
- Thứ này nói là cỏ mà lại không phải cỏ, chỉ là cùng loại với cỏ mà thôi! 
Công chúa giục: 
- Khanh nói là cái gì đi ngay xem nào? 
Uyển Nhi đáp: 
- Cỏ chính là lông của đất. Người ta cũng có năm thứ lông, chẳng khác gì cỏ của đất vậy. Trong số năm loại lông đó, râu là quý hơn cả. Thần nghe nói chùa Nam Hải Hằng Chi, tượng Phật Duy ma cật có bộ râu, chính là râu của danh sĩ Tạ Linh Vận đời Tấn (1), đó mới thật là vật mà ở thế gian có một không hai. Có được thứ này, thì làm gì mà không thắng. 
1 Tạ Linh Vận (385 - 433), người thời Nam Bắc Triều, quê ở Dương Hạ (nay thuộc Hồ Nam), giỏi vẽ, viết chữ, là người mở đầu cho loại thơ sơn thủy nổi tiếng ở Trung Quốc. Lúc đầu làm thái thú Vĩnh Gia, chỉ dạo chơi non nước, bị cách chức, về ở ẩn ở Đông Sơn, thuộc Cối Kê... (Từ điển tác gia...) 


An Lạc công chúa cả mừng. Nguyên là Tạ Linh Vận nổi tiếng một thời, được phong tước Lạc Quận Công, sinh thời, có bộ râu rất đẹp ai ai cũng ngợi khen, tự mình cũng rất trân trọng, về sau mắc tội lúc sắp chết, không nỡ chôn cả bộ râu, liền tự cắt ra giao lại cho người nhà, gặp lúc chùa Nam Hải Hằng Chi đang tô tượng Duy ma cật, liền dặn lại cúng bộ râu cho chùa để làm râu Duy ma cật. Vì vậy về sau, chùa này trở thành một thắng tích. Duy ma cật vốn đồng thời với đức Phật Thích ca mâu ni, giao du thân thiết với Văn Thù Bồ tát, việc qua lại chuyện trò này, đều có ghi rõ trong các kinh Phật. Ngay cả Tạng Kinh cũng hãy còn ghi những lời đàm luận của Duy ma cật, lại cũng là một vị cư sĩ của Tây phương chưa từng xuất gia nên chẳng cạo râu tóc, vì vậy khi làm tượng, cần phải dùng đến râu là thế. 


Ngày dài chuyện vãn, An Lạc công chúa thấy Uyển Nhi nói thế, liền ngầm sai nội thị Lâm Mậu, phi ngựa ngay đến chùa Nam Hải Hằng Chi, cắt lấy một nửa bộ râu của Duy ma cật để sẵn, chờ ngày đấu lá. Sau khi Lâm Mậu ra đi, công chúa lại nghĩ "Nếu ta chỉ lấy một nửa, chẳng may Thái Bình công chúa biết được, sai người lấy nốt phần còn lại, ai ra mà ngăn cho được. Chi bằng còn một nửa cắt nốt, một là để thế nào cũng thắng trong kỳ đấu lá sắp tới, hai là có toàn cả bộ râu, cũng lưu làm một vật hiếm, có phải hơn không?". Liền sai tiếp nội thị Dương Xuân Cảnh, phi ngựa cả ngày lẫn đêm, đến giữa đường, gặp Lâm Mậu đem nửa râu về kinh. Xuân Cảnh vẫn đi tiếp cắt nốt nửa râu còn lại. 


Thái Bình công chúa cũng đã kiếm sẵn đủ thứ kỳ mộc dị thảo, chất đầy cả một phần hiên Trường Xuân cung để mong thắng giải. Uyển Nhi được mời làm giám cuộc. An Lạc công chúa vui mừng, khi thấy Lâm Mậu đã đem được râu về, tin chắc thế nào phần thắng cũng về mình, vô cùng hoan hỷ, nhưng vẫn chưa nói vội. Trước tiên vẫn đem những thứ đã tìm kiếm lâu nay ra đấu, nhưng mình nhiều, người cũng không ít, ta có cái này, bên kia cũng chẳng không, nên vẫn chưa ai thắng ai. An Lạc công chúa cười nói: 
- Cỏ của đất chẳng bằng cỏ của người, cháu có loại cỏ này của cổ nhân lưu lại, mới đúng là trên đời không có hai vậy. 
Thái Bình công chúa hỏi cái gì. An Lạc thưa: 
- Chính là bộ râu của Tạ Linh Vận, người đời Tấn! 
Thái Bình hỏi: 
- Ta nghe Tạ Linh Vận lúc chết, nguyện hiến râu để làm tượng Duy ma cật ở chùa Nam Hải Hằng Chi, làm sao công chúa lại có được? 
An Lạc cười đáp: 
- Linh Vận bỏ ra, thì cháu nhặt lấy, hiện nay đang ở đây vậy. 


Liền gọi mau đem ra. Lâm Mậu đưa ra một túi gấm rồi lấy túm râu từ bên trong, đặt lên án. Quả là những sợi râu rất đẹp, chẳng khác gì vừa mới cắt ở người sống ra vậy, từng sợi, từng sợi vẫn óng ánh, mượt mà. Mọi người đang chăm chú xem, thì bỗng một cơn gió vừa mát vừa thơm từ đâu lại, cuốn tất cả những sợi râu lên không rồi mất hút. Lâm Mậu chẳng hiểu cao thấp ra sao, vội chạy đuổi theo cơn gió, nhảy lên túm được mấy sợi, không ngờ ngã xuống thềm đá cao, gãy ngay một cánh tay trái, nằm bệt dưới sân, không dậy được, bọn nội thị vội vàng đỡ dậy khiêng ra khỏi cung. Thái Bình công chúa nói: 
- Râu trên cằm của Phật, vốn không nên đụng đến, bây giờ bị báo ứng đến thế, tất bởi đức Phật giận dữ rồi! 
Thượng Quan Uyển Nhi thấy thế, liền nghĩ "Chuyện này, tất cả đều tại ta cả thôi!". Cho nên trong lòng lo lắng không yên, nhưng cũng không dám nói với ai. Còn An Lạc công chúa vốn tính hiếu thắng, vẫn còn cố giành: 
- Dù thế nào cũng phải nói cho ra nhẽ, cuộc đấu lá này coi như cháu thắng rồi! 
Thái Bình công chúa cười: 
- Chưa nói tới việc râu chứ không phải là cỏ là lá, nà ngay cả râu bây giờ cũng còn đâu. Tốt hơn hết là đừng nói chuyện ai được ai thua nữa! 
Vào tiệc yến ẩm một hồi, thế rồi mỗi người mỗi ngã. 


An Lạc công chúa tuy không được, nhưng cũng chẳng thua, chỉ tiếc số râu bị gió cuốn mất, may ra còn một nửa, tính chuyện giữ lại để làm của lạ chăng. 


Mấy ngày sau, Dương Xuân Cảnh đem nốt nửa râu còn lại về trình. Vốn là trên đường, Xuân Cảnh bị ngã ngựa, gãy mất tay phải, vì vậy mà về muộn. Công chúa thấy lấy được rồi rất mừng, cầm trong tay ngắm nghía một hồi, bỗng lại một trận gió như lần trước, cuốn rung lên không tất cả số râu còn lại. Gió thơm cuốn đi rồi, một trận gió dữ khác tiếp ngay khiến cây hoa đang nở rộ trước sân, rụng tàn kỳ hết, chỉ còn mỗi một bông hoa. Ai nấy đều vô cùng kinh hãi: 
Có bài từ làm chứng sau đây: 


Râu Linh Vận 
Mặt Duy ma 
Mặt người, mặt quỷ hay một Phật 
Để râu này mà nhổ bật râu ria 
Ác nghiệt chưa, chuyện chơi đùa 
Râu đem về bỗng gió lùa bay xa 
Không để lũ tà dâm được thấy 
Đứa cắt râu tội gãy cánh tay 
Liệu hồn sám hối đi ngay... (1) 
1 Không thấy nói điệu gì. 


An Lạc công chúa hoảng sợ, vội chắp hai tay nhìn lên trời cầu nguyện. Thái Bình công chúa cùng Uyển Nhi nghe chuyện, không hết kinh ngạc. Cả ba bèn góp lại khoảng một nghìn lạng vàng, cấp cho chùa Nam Hải Hằng Chi, sửa sang lầu các, điện đài, đắp lại tượng Phật. Chuyện không nói nữa.
***
Hãy nói chuyện các đại thần trong triều, từ sau khi Địch Nhân Kiệt chết, chỉ còn Tống Cảnh là người chính trực hơn cả, nên từ bọn gian nịnh cho đến thái hậu đều sợ hãi, kính nể, chẳng khác gì ngày xưa đối với Địch Nhân Kiệt vậy. 


Lúc Địch Nhân Kiệt còn sống, gặp khi hải quốc tiến cống một áo cừu gọi là "Tập thúy cừu", vốn là do những sợi lông mềm nhất của chim tập thúy mà đan thành, vừa nhẹ vừa đẹp, thật là một vật báu có một không hai vậy. Trương Xương Tông thích lắm, tìm đủ mọi cách chiều chuộng, âu yếm để xin bằng được, thái hậu bèn cho. Xương Tông tạ ơn, mặc ngay trước điện, thái hậu ngắm một hồi rồi cười nói: 
- Khanh mặc áo này, trông lại càng thêm duyên dáng! 


Xương Tông dương dương đắc ý, gặp lúc Địch Nhân Kiệt vào cung, sau khi tâu trình công việc xong xuôi. Nhân muốn gây sự thân mật giữa Nhân Kiệt với Xương Tông, lại thấy trên án sẵn bày bàn cờ, thái hậu bèn lệnh cho hai người đấu cờ. Cả hai vâng mệnh, ngồi vào ghế. Thái hậu phán: 
- Ai cao cờ hơn thì dùng quân trắng. Xương Tông có lẽ cao hơn chăng? 
Nhân Kiệt đứng dậy thưa: 
- Thần tin vào lòng trong trắng của mình, dẫu có nhận xuống bùn cũng không thể đen được. Chơi cờ tuy là việc nhỏ, nhưng cũng là thể hiện chí hướng, thần xin được chọn quân trắng. 
Thái hậu phán: 
- Thôi thì tùy ý khanh, nhưng đã thi đấu, thì cũng cần có giải thưởng, nay nên trao giải gì bây giờ? 
Nhân Kiệt thưa: 
- Nếu thần thắng, xin cho được cởi lấy áo cừu Xương Tông đang mặc vậy! 
Thái hậu hỏi: 
- Thế nếu khanh thua thì khanh mất cái gì? 
Nhân Kiệt thưa: 
- Thần cũng xin cởi áo bào tím đang mặc đây nếu thua. 
Thái hậu cười: 
- Áo "Tập thúy cừu” giá hơn nghìn vàng, áo bào của khanh so thế nào được? 
Nhân Kiệt thưa: 
- Áo bào này của thần là để vào chầu, thưa trình công việc quốc gia, còn áo cừu của Xương Tông, chẳng qua là vì được sủng ái mà có. Lấy áo bào này mà đổi cừu kia, chính thần thua thiệt nhiều mới đúng. 
Thái hậu nghe ra, cười mà không nói. Xương Tông trong lòng hậm hực, thua liền mấy ván. Nhân Kiệt liền cởi ngay lấy áo cừu, khoác lên người, tạ ơn ra khỏi cung, đến cửa Quang Phạm, liền cởi ngay ra, giao cho gia nhân mặc mà về. Thái hậu cũng biết cả, nhưng không hỏi đến. Sau chuyện này, trăm quan càng kính sợ Nhân Kiệt. Trong triều những kẻ chính trực như Trương Giản Chi, Hằng Ngạn Phạm, Kính Huy, Viên Như Kỷ, Thôi Nguyên Vĩ... đều do Nhân Kiệt tiến cử, cùng với Tống Cảnh một lòng trung thành, thề quyết diệt trừ bằng được lũ nghịch thần. 
Một hôm bọn năm người Giản Chi, cùng với Trung Tôn đi săn, vào một nơi vắng vẻ trong núi, năm người xuống ngựa thưa: 
- Chúng thần từ lâu đã muốn thưa chuyện cùng thánh thượng, nhưng tai mắt xung quanh nên không dám hở môi. Nay sự thế đã kíp lắm rồi, không thể trù trừ nữa. Chúng thần thấy bệ hạ về tuổi tác lẫn đức hạnh đều đủ đầy. Thái Hậu thì ngày càng tin lời anh em họ Trương, cố vị không chán. Gần đây lại nghe anh em họ Trương xúi giục, đang định nhường ngôi báu cho Lục Lang, nếu quả như vậy, thì bệ hạ thật không còn đất đứng. Chúng thần thấy tình thế bức bách, xin thưa để bệ hạ rõ còn liệu trù mưu kế. 
Trung Tôn cả sợ mà rằng: 
- Làm thế nào bây giờ? 
Giản Chi thưa: 
- Phải trừng trị ngay bọn loạn thần họ Trương, họ Vũ thì bệ hạ mới trở về ngôi được. 
Trung Tôn nói: 
- Thái hậu còn ngồi đó, làm thế nào mà diệt trừ cho dược? 
Giản Chi thưa: 
- Thần đã tính toán từ lâu, chẳng cần đến bệ hạ phải lo, nhưng chỉ sợ kinh động đến tình cảm bệ hạ, nên trước tiên muốn tâu để bệ hạ rõ đã. 
Trung Tôn nói: 
- Anh em họ Trương thì thật đáng giết, nhưng anh em họ Vũ với ta cũng là họ hàng cả, xin các khanh hãy nể mặt Thái hậu mà tha mạng cho chăng? 
Giản Chi thưa: 
- Khi binh sĩ kéo vào cung khuyết, không gặp thì thôi, nếu gặp, chỉ sợ đao kiếm vô tình, khó mà giữ ý được. 
Trung Tôn nói: 
- Ta mà về được ngôi báu, thay lại nhà Chu bằng nhà Đường, xin phong các khanh tước vương cả. 
Bọn Giản Chi tạ ơn, rồi tiếp tục giả săn bắn một hồi nữa mới quay về. 
Trung Tông đến Đông cung, gặp ngay lúc Vũ Tam Tư biết được ngày hôm đó Trung Tôn đi săn, nên lại tìm đến Vi Hoàng hậu, thấy tả hữu báo Vương phụ đã về. Tam Tư kinh sợ run lẩy bẩy, Vi Hoàng hậu nói: 
- Không việc gì phải sợ hãi đến thế, ta cùng khanh hãy ra phía ngoài thư phòng kia đánh song lục (1). Vương phụ lão vào, nhất định sẽ không hỏi khanh một câu nào đâu. Mọi chuyện cứ mặc ta. 
1 Song lục: Một hình thức đánh cờ, cũng có nguồn gốc từ ấn Độ, đánh hai người, có bàn gồm sáu cửa, nên gọi là "Song lục", chia thành nhiều ô, mỗi bên hai mươi quân, ai vào trước cửa là thắng (Từ Hải). 


Tam Tư chẳng còn cách nào khác, chỉ còn biết theo Vi Hoàng hậu mà làm. Trung Tôn vào thấy vậy, cười hỏi: 
- Hai khanh hơn ta nhiều, ngồi đánh song lục thật ung dung. 
Tam Tư vội đứng dậy chào, Trung Tôn hỏi tiếp: 
- Các khanh đánh được thì lấy gì làm phần thưởng? 
Vi Hoàng hậu thưa: 
- Ai thua thì mất một viên ngọc. 
Trung Tôn ngồi xuống bên cạnh tiếp: 
- Hãy để ta xem thử, ai thắng ai thua nào? 
Hai ván đầu, mỗi bên được một ván, thua một ván, ván thứ ba Tam Tư thua. Trung Tôn nói: 
- Hoàng hậu đã nói, ai thua thì mất một viên ngọc, nay hãy đem ngọc ra đi. 
Tam Tư thưa: 
- Ngọc của thần xấu xí, không đáng để bệ hạ xem, xin hôm khác sẽ lại đánh với hoàng hậu. Hôm nay sắp tối rồi, thần phải xin cáo tạ bệ hạ. 
Trung Tôn phán: 
- Đêm nay hãy ở đây dự yến đã, ngày mai về cũng không sao. 
Tam Tư cùng Trung Tôn vào thư phòng, đã thấy đèn nến huy hoàng, yến tiệc bày sẵn, cả hai ngồi xuống, Tam Tư lên tiếng thưa. 
- Hôm nay may mắn được vương thượng ban ơn thế này, thần thật không rõ nguồn cơn. 
Trung Tôn đáp: 
- Thì hãy cứ nhân dịp này ngồi chờ xem bên ngoài có chuyện gì chăng? 
Lại tiếp: 
- Hay là chúng ta cùng gieo trạng nguyên (1) để xem may rủi ra sao? 
1 Gieo trạng nguyên: một lối chơi hai người trở lên, bằng cách lần lượt gieo cùng một lần sáu con xúc xắc, rồi tùy theo đó mà nhận những thẻ cao thấp khác nhau, cao nhất là trạng nguyên, đến bảng nhãn. thám hoa... Khi đã hết thẻ, tính điểm ở số thẻ mỗi người lấy được, ai nhiều thì thắng. Ở Việt Nam ta, trước cách mạng vẫn thấy cỏn trò chơi này, gọi là đánh tam hường. (Chú theo Lê Nguyên Trạm). 


Tam Tư thưa: 
- Gieo trạng nguyên cũng vui, nhưng chỉ có hai người thì không hay lắm. . 
Trung Tôn đáp: 
- Ta với khanh vốn họ hàng hãy mời hoàng hậu cùng Thượng Quan Chiêu nghi ra, cả bốn người chơi thì tha hồ vui vẻ. 
Tam Tư thấy nói thế, mặt mày hớn hở thưa: 
- Thế thì hay lắm! 
Lát sau đã thấy Vi Hoàng hậu cùng Thượng Quan Chiêu nghi tuy chẳng son phấn nhưng đầy vẻ thướt tha bước ra, cả bốn người ngồi, lần lượt gieo xúc xắc. Đến lượt Trung Tôn gieo xong, cá ba người đều vỗ tay reo lớn: 
- Hay quá! Trạng nguyên về tay bệ hạ rồi! Hay quá! 
Trung Tôn đáp: 
- Nếu thế thì hay quá! Toàn mặt lục cả thì mấy ai theo kịp. 
Tam Tư thưa: 
- Chẳng cần phải thế, cũng đã tuyệt diệu rồi. Nhất định mọi chuyện sẽ như ý, mau lấy chén lớn ra đây để chúc mừng điện hạ. 
Trung Tôn uống một hơi cạn sạch. Thượng Quan Chiêu nghi gieo được bốn mặt tứ, vui vẻ nói: 
- Tốt lắm? Bảng nhãn phần thiếp rồi! 
Vi Hoàng hậu cất tiếng: 
- Chẳng biết bảng nhãn hay thám hoa, cũng nên uống một chén. Đợi ta gieo được cả sáu mặt tứ sẽ biết tay nhau. 
Hai người gieo tiếp. Trung Tôn thầm nghĩ: "Bây giờ đã đầu canh một rồi, sao vẫn chưa thấy động tĩnh gì cả. Nếu họ làm không xong, thì hãy cho Tam Tư về, sai người ra nghe ngóng xem sao?". Rồi bảo Uyển Nhi: 
- Khanh hãy hầu hai người chơi, xem Thám Hoa về tay ai. Ta ra ngoài này một chốc sẽ quay lại. 
Tam Tư thấy Trung Tôn đi khỏi, kéo ghế lại gần Vi Hoàng hậu, ngoài mặt là gieo xúc xắc, nhưng thực ra là để vua ve tay chân Hoàng hậu. Chiêu nghi Uyển Nhỉ thấy thế cười nói: 
- Nương nương, thiếp xin đi tìm điện hạ đã! 
Vi hoàng hậu đang chỉ mong có thế để cùng hú hý với Tam Tư. 
Lát sau, đã thấy Uyển Nhi quay lại rối rít: 
- Nương nương, nguy to rồi! 
Hai người nghe tiếng, vội quay ngay lại bàn ngồi, cất tiếng hỏi: 
- Có chuyện gì sao? 
Lại thấy Trung Tôn, từ cửa chính đi vào, lớn tiếng gọi: 
- Vũ đại nhân, hãy theo Uyển Nhi ra nhà sau ngồi một lát đã. 
Tam Tư hỏi: 
- Vừa rồi có chuyện gì mà bên ngoài huyên náo cả thế? 
Trung Tôn đem việc bọn Giản Chi năm người muốn giết họ Trương, họ Vũ, mình đã khuyên không nên giết họ Vũ như thế nào, kể lại cho Tam Tư nghe. Nghe xong, Tam Tư vội quỳ sụp xuống đất van nài: 
- Xin bệ hạ hãy cứu mạng thần! 
Rồi run lật bật. Vi Hoàng hậu cất tiếng: 
- Chúa thượng giữ khanh lại đây, vốn là có chủ ý, việc gì mà phải sợ hãi đến thế. 
Các cung nga vào quỳ thưa: 
- Bách quan đã tới ngoài kia, mời diện hạ ra. 
Trung Tôn vội sai Uyển Nhi dẫn Tam Tư đi, rồi quay ra. Bọn Trương Giản Chi dẫn quân sĩ vào cung gặp ngay lúc hai anh em họ Trương đang ngủ say với Thái Hậu, không kịp chạy trốn, bị quân sĩ cho mỗi đứa một đao, chia làm bốn đoạn. Thái Hậu cả kinh. Bọn Giản Chi liền mời Thái Hậu sang cung Thượng Dương, thu lại ngọc tỷ đến tìm Trung Tôn thưa: 
- Thái Hậu đã được đưa sang Thượng Dương, ngọc tỷ hiện đã ở đây trăm quan đều đã tới chờ ở bên điện, xin bệ hạ hãy mau mau lên ngôi báu. 


Trung Tôn lên điện, bọn Giản Chi dâng ngọc tỷ cùng đưa trình thủ cấp anh em họ Trương, sau đó các quan làm lễ chúc mừng, tuyên cáo phục hồi quốc hiệu Đường, lập họ Vi làm hoàng hậu như cũ, phong phụ thân Vi Nguyên Trinh làm Thượng Lạc Vương, mẫu thân Dương Thị làm Vinh Quốc phu nhân, bọn Giản Chi năm người đều được phong tước vương. 
Giản Chi thưa: 
- Một nhà Vũ Tam Tư, cũng cần giết cả đi như anh em họ Trương, đã nghe bệ hạ dặn dò, nên cũng đã tha. Nhưng vẫn được ở ngôi vương, chúng thần quả không dám sánh ngang vậy. 
Trung Tôn nghe vậy, bất đắc dĩ phải giáng Tam Tư làm tư không. Trăm quan tạ ơn ra khỏi cung. Trương sử Lạc Châu Tiết Quý Sướng nói với bọn Giản Chi: 
- Hai anh em họ Trương tuy đã trừ, nhưng sản nghiệp bổng lộc vẫn còn. Nhổ cỏ không trừ tận gốc, rồi lại mọc cái khác mất. 
Bọn Giản Chi đáp: 
- Việc lớn đã xong. Bọn chúng như miếng thịt thừa, chẳng làm gì nên chuyện. 
Quý Sướng than: 
- Tam Tư chưa chết, bọn ta không biết sẽ chết lúc nào? 
Trung Tôn cải niên hiệu Thần Long, tôn hiệu thái hậu Vũ Tắc Thiên là Đại Thánh hoàng đế, phong em Lý Đan làm Tương Vương, đại xá thiên hạ, trăm họ đều vui mừng. 


Thái hậu từ ngày bị bọn Giản Chi đưa sang cung Thượng Dương, nghĩ lại những ngày qua, thấy chẳng khác gì mộng dài, lúc nào cũng khóc than nên bệnh tình kéo đến, ngày càng trầm trọng. Tam Tư cũng chẳng phải là do thương yêu gì, vào cung thăm hỏi, thấy thái hậu nằm dài, nhan sắc võ vàng, thân hình gầy khô, không ngớt lời thở than: 
- Thần cũng nhiều việc phải lo, nên không thể thường xuyên vào hầu hạ, không ngờ thánh thể gầy yếu như vậy! 
Rồi đưa tay vuốt ve thái hậu. Thái hậu cất tiếng: 
- Cháu của ta ơi! Lâu ngày cháu không vào, không ngờ bệnh của ta đã vào đến cao hoang, chẳng qua một sớm một chiều phải đi hẳn thôi. Chẳng biết họ Vũ ta có còn giữ nổi chăng? 
Tam Tư thưa: 
- Bệ hạ chẳng nên lo lắng, thánh thượng đã hứa sẽ chu toàn cho họ Vũ. Thánh thể nếu được tĩnh dưỡng, nhất định sẽ khỏe mạnh ngay. 
Tam Tư lại mách chuyện bọn Giản Chi hung hãn tàn ác ra sao, nên không thể thường xuyên vào thăm nom thái hậu, vừa kể vừa khóc. Thái hậu thở dài mà than: 
- Cháu ơi? Gần đây ta nghe cháu tư thông với Vi Hoàng hậu, cả hai rất hoan hỷ. Cháu hãy nói với hoàng hậu, bảo hoàng hậu lập kế, trừ được năm kẻ gian này, thì ta mới yên lòng mà nằm gối cao ngủ kỹ được. 
Tam Tư gật đầu. Thái hậu lại tiếp: 
- Cháu hãy mời thánh thượng vào đây, ta có chuyện muốn nói. 
Tam Tư quay ra tâu, Trung Tôn vào cung Thượng Dương, thái hậu dặn dò một hồi. Sau đó hai ngày, thái hậu qua đời, Trung Tôn hạ chiếu tuyên cáo thiên hạ, làm tang lễ chu đáo. 
Chuyện không nói nữa.
***
Hãy nói chuyện Tam Tư, có binh bộ thượng thư Tôn Sở Khách, Ngự sử Trung thừa Chu Lợi Dung, Thị ngư sử Nhiễm Tổ Ung, Thái bộc Lý Tuấn Quang, Lộc thừa Tống Chi Tốn, Giám sát ngự sử Đào Thiện Chi làm tay chân, tai mắt, vốn được gọi là "Ngũ cẩu”, năm con chó, cùng với Vi Hoàng hậu, Uyển Nhi, ngày đêm nói xấu bọn Giản Chi. Tam Tư ngầm sai người viết bảng nói những điều xấu xa của Vi Hoàng hậu, treo ở cầu Thiên Tân, xin hoàng thượng phế truất trị tội. Cao Tôn biết ra, vô cùng giận dữ, lệnh cho Giám sát ngự sử Đào Thiện Chi tra hỏi đến cùng. 


Thiện Chi thưa chính bọn năm người Kinh Huy sai làm chuyện này, ngoài là muốn phế hoàng hậu, nhưng thực ra bên trong còn mưu phản nghịch, xin được tru di cả họ nhà bọn Giản Chi, để rửa sạch mối căm giận của hoàng hậu. Trung Tôn lệnh cho phát tư kết tội, bắt bọn Giản Chi, cả năm người vừa được phong vương đày đi các châu xa. Tam Tư lại sai tay chân phục sẵn ở dọc đường giết chết. Tam Tư từ đó thả cửa, quyền hành nghiêng thiên hạ, không ai là không sợ, Trung Tôn cũng chẳng để ý, mọi việc đều hỏi Tam Tư, thường nói với Tam Tư: 
- Ta cũng muốn được như cô của khanh, tự mình lên ngôi báu, mới thỏa lòng này. 


Không biết sự thể đến thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.


Nguồn truyenviet.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved