Hồi 129: Lan Nhi thù gái Hán
Biết thế nào hoàng đế cũng
tuyên triệu. Lan Nhi hôm đó trổ hết tài nghệ tô điểm, quyết cướp ông vua phong
lưu đa tình này về mình. Sau bữa cơm tối, quả nhiên nàng thấy tổng thái giám
phòng kính sự đi tới, tay giơ cao tấm bài vuông đầu màu xanh, miệng nói lớn:
-
Lan quý nhân tiếp chỉ!
Nghe tiếng gọi đó, Lan Nhi biết
hoàng đế đã gia phong cho mình làm quý nhân, trong lòng biết bao vui sướng.
Nàng vội quỳ xuống lĩnh chỉ.
Yến Nhi vốn cùng ở với Lan Nhi từ Đồng Âm thâm xứ, song từ khi Lan quý nhân được sủng ái thì nàng rời qua Hương Viễn Ích Thanh lâu. Hàm Phong hoàng đế từ khi triệu hạnh Lan quý nhân rồi, thì quyến luyến không rời xa được nữa.
Hồi 130: Lan Quý Nhân có
thai
Giữa lúc đắc sủng, Lan quý
nhân lại còn được một tin mừng đặc biệt nữa: đó là nàng có thai, sau một năm
hầu hạ hoàng đế. Bởi thế nàng vội đem tin mừng này tâu lên hoàng thượng.
Hàm
Phong hoàng đế nghe tin vô cùng sung sướng và càng sủng ái Lan quý nhân hơn.
Ngài tự nhủ: Đã bao nhiêu năm ngài thưởng thức số người đẹp không đếm xuể, chỉ
cầu mong lấy một hoàng nam để kế nghiệp nhà Đại Thanh mà mãi vẫn chưa được.
Hiếu Trinh hoàng hậu đối với ngài lại ít dịp ăn ở cùng nhau, chuyện sinh hoàng
tử với bà quả là một việc khó khăn lắm… Nay Lan quý nhân có thai, nếu sinh cho
ngài một hoàng nam, thì thực chẳng uổng công ngài sủng ái.
Kể từ hôm đó, Lan quý nhân muốn
mưa thì được mưa, nàng muốn nắng thì được nắng, không có cái gì là không được.
Nàng nói một câu là hoàng đế nghe liền một câu, nói hai câu là hoàng đế nghe
ngay hai câu, thực là bảo sao nghe vậy Từ khi có thai, Lan Quý nhân hay chóng
mặt, tính tình sầu não, chán cả chuyện chăn gối. Không hoàn toàn là chuyện thay
đổi khi mang bầu. Có lê do nàng đã giết quá nhiều gái Hán trong cung. Hằng đêm,
vào canh khuya, nàng tỉnh dậy nghe những tiếng ma hú, quỷ gào quanh căn nhà
Thiên Địa Nhất Gia Xuân. Đã thế, cái thai của nàng hình như cũng hưng yêu tác
quái, khiến nàng nôn nao suốt ngày, nghĩ lằng mình đã bị ma nhập.
Nàng tính toán thấy chi còn vài
ba tháng nữa thì lâm bồn. Với nàng thì chẳng sao, nhưng với hoàng đế, nàng sợ
ngài sẽ không chờ được, lại triệu hạnh tới bọn Tứ Xuân kia chăng? Cho bằng hãy
khuyên ngài về cung nội để xa hẳn bọn yêu nữ đó. Nàng nghĩ là làm ngay.
Đã lâu rồi Hàm Phong hoàng đế
chưa về thăm chánh cung hoàng hậu. Lại cũng lâu rồi ngài chưa toạ triều. Thực
ra, ngài rất sợ việc này, chỉ thích chơi bời phóng đãng. Ngài chẳng muốn hồi
cung chút nào.
Thấy Hàm Phong hoàng đế có ý do
dự, Lan Quý nhân càng giục giã không thôi. Nay nàng nói, mai nàng lại nói. Nàng
nói mãi cho đến khi hoàng đế phải nghe mới thôi. Nàng tìm mãi để nói lên một
lời mà hoàng đế khó thể từ chối:
- Được bệ hạ sủng ái, đó là một
vinh hạnh cho tỳ tử. Song tỳ tử cũng xin bệ hạ mở cho một lối thoát: đó là đừng
cho nương nương biết là tỳ tử đã làm cho bệ hạ say mê để đến nỗi quên cả cung
nội. Ví thử điều tiếng này mà loan truyền ra thì tỳ tử thực không còn mặt mũi
nào để làm người nữa.
Lan quý nhân nói đến đây, bỗng
hai hàng lệ tầm tã tuôn rơi. Hàm Phong hoàng đế thấy vậy, trong lòng cũng cảm
thấy bi thương, có đôi chút bất nhẫn nữa, bèn hứa theo ý nàng, và quyết định
chỉ trong vòng ba ngày là sẽ về cung nội.
Văn võ khắp triều được tin
hoàng đế trở về cung, ai cũng đều tỏ vẻ cảm kích tấm lòng của Lan quý nhân.
Nhưng tại sao họ lại cảm kích như vậy?
Nguyên từ vườn Viên Minh đến
kinh thành xa hơn bốn mươi dặm. Bọn triều thần mỗi ngày lên triều bái, tất phải
dậy từ nửa đêm, rồi kẻ có xe thì đi xe, người có ngựa thì cưỡi ngựa, lếch thếch
kéo nhau để tới cổng vườn, vừa đúng gà gáy sáng. Đến lúc bình minh, bọn đại
thần các bộ mới đem mọi việc tâu lên, và sau đó vâng thánh chỉ để quay về kinh
thành thì trời cũng vừa trưa. Ngày nào cũng như ngày nào, bọn triều thần đều
phải như thế cả. Khổ nhất là vào những ngày đại tuyết, đại vũ, đại hàn, đại
thử, bá quan tha hồ mà xông pha mưa, tuyết, mặc sức mà dầu dãi phong sương.
Trên con đường bốn mươi dặm ấy, không một ai là không kêu khổ. Ấy thế mà nay,
chỉ nhờ có mỗi một lời nói của Lan quý nhân, hoàng thượng đã trở về cung, khiến
họ đỡ được tất cả những nỗi cơ cực thử hỏi họ không cảm kích sao được?
Khi trở về đến cung. Hàm Phong
hoàng đế thu xếp cho Lan quý nhân ở tại cung Hy Xuân. Ngài còn bảo bọn cung nữ
và thái giám tạm thời giấu chính cung, đợi khi Lan quý nhẩn sinh hạ hoàng nam
rồi hãy cho biết. Còn ngài vẫn ngày ngày sống bên cạnh Lan quý nhân như cũ.
Lan quý nhân từ khi có tin
mừng, lại thường hay bị bệnh. Ngày nào cũng vậy, ngự y luôn luôn phải túc trực
để bắt mạch và bốc thuốc. Nhưng phải cái thai hết sức kỳ quái, ba ngày yên thì
lại ba ngày phá, và cứ thế kéo dài mãi. Thấy Lan quý nhân như vậy, hoàng đế lại
cưng chiều hơn..
Phàm thuốc thang Lan quý nhân
uống, đều phải hoàng đế đích thân xem qua trước. Nàng thấy được cưng chiều, lại
càng nũng nịu thêm. Nàng thường bắt hoàng đế phải ngồi lại bên giường để trò
chuyện cho vui. Ấy cũng vì vậy, nên tại điện Mâu Cần tuy có thiết triều đấy,
nhưng mười lần thì ngài chỉ có mặt được một, hai. Những cuộc bê trễ này của
hoàng đế thực chỉ làm khổ văn võ bá quan phải chờ đợi rồi lại phải lủi thủi về
không.
Nhưng những cuộc bê trễ này
cũng đã chọc giận hai vị đại thần được trọng vọng trong triều: một người là đại
học sĩ Đỗ Thụ Điền, và một nữa là Tôn thất Túc Thuận. Thế rồi nhân một hôm vào
chầu, được bệ kiến nhà vua, đại học sĩ Đỗ Thụ Điền liền trịnh trọng cất lời
khuyên can nhà vua một phen. Ông nói:
- Hiện nay mối lo bên ngoài
cũng như cả bên trong thực hết sức cấp bách. Đấng thiên tử cần nên chú trọng để
mong bảo vệ được cơ nghiệp của tổ tông khỏi đổ nát mới phải.
Hàm Phong hoàng đế vốn kính
trọng đại học sĩ Đỗ Thụ Điền. Nay nghe ông khuyên can, lại còn đưa ra cả cơ
nghiệp của tổ tông, ngài chẳng biết nói sao, đành phải im lặng. Túc Thuận là
người có uy thế hơn, bởi rằng Thuận vốn người tôn thất, hiện đang nắm giữ Tôn
nhân phủ. Mọi chuyện trong cung Thuận đều biết hết. Thuận cũng biết rằng gần
đây hoàng đế sủng ái một Lan quý nhân, mà Thuận cho rằng không được không nên.
Tại sao vậy? Tại vì trước đây
Túc Thuận biết Huệ Trưng là cha ruột của Lan quý nhân có phạm phải một lỗi nhỏ,
hơn nữa Lan Nhi ngày trước chỉ là một con tú nữ chuyên dọn dẹp quét tước ở Đồng
Âm thâm xứ chứ chẳng phải lá ngọc cành vàng gì. Thuận bèn tìm cách thông tin
cho chính cung hoàng hậu. Hiếu Trinh bình nhật vốn ghét bọn gái được hoàng đế
quý yêu, nay được biết hoàng thượng say mê Lan quý nhân bỏ hết cả triều chính,
thì sao chả nổi giận.
Rồi một buổi sớm, hoàng hậu
ngồi trên chiếc xe vàng nhỏ tới cung Xuân Hy quỳ ngay phía ngoái, trước phòng
ngủ của hoàng đế, lấy Tổ huân ra, đội lên đỉnh đầu, rồi đọc lên oang oang.
Hàm Phong hoàng đế giật mình
đẩy Lan quý nhân ra một bên, nhảy xuống đất quỳ ngay bên cạnh giường để nghe
lời răn dạy, một mặt, truyền dụ khuyên hoàng hậu thôi đọc.
Sau đó, hoàng đế vội mặc áo đội
mão tới Mâu Cần điện. Tan trào, ngài đã vội chạy tới cung Xuân Hy. Mới tới cửa
cung, ngài thấy một tên thái giám hoảng hết chạy ra quỳ xuống đất.
Ngài quát hỏi chuyện gì, thì
tên thái giám tâu:
- Hoàng hậu đã chuyển chỉ ý,
tuyên triệu Lan quý nhân tới Khôn Ninh cung rồi.
Hàm Phong hoàng đế chưa nghe
xong câu nói đã hậm hực giậm chân, miệng nói liên hồi:
- Hỏng bét! Hỏng bét cả rồi!
Thì ra Khôn Ninh cung chính là
chính cung của hoàng hậu. Phàm xét hỏi phi tần phải dùng đến hình cụ là đều ở
cung này cả.
Hàm Phong hoàng đế nghe tên
thái giám nói xong không kịp thay áo đổi mũ nữa, vội chạy đến cung Khôn Ninh,
đi thẳng vào phòng giữa, nhìn thấy hoàng hậu mặt hầm hầm, ngồi phía trên, còn
Lan quý nhân vừa khóc vừa nói, quỳ ở phía dưới, cái áo dài phía ngoài đã lột
bỏ, chỉ còn có một tấm áo mỏng màu xanh lá hẹ lót mình. Hoàng hậu quát một
tiếng:
- "Đánh!" tức thì đám
cung nữ hai bên tả hữu, tay cầm gậy chu hồng nhè giữa lưng Lan quý nhân giáng
thẳng xuống.
Hàm Phong hoàng đế thấy quá
gấp, vội nhào tới lấy thân che đỡ Lan quý nhân rồi giơ tay cản mấy chiếc côn,
một mặt nói với hoàng hậu:
- Chớ đánh! Chớ đánh! Nàng có
thai đã năm tháng rồi đó!
Chỉ có mỗi một câu đó mới làm
cho Hiếu Trinh hoàng hậu thất sắc được. Bà vội chạy xuống đất, đích tay nâng
Lan quý nhân dậy. Lan Nhi vốn là một cô gái hết sức thông minh và khôn ngoan
quỷ quyệt, vội quỳ xuống, trước hết tạ ơn hoàng đế, sau tạ ơn hoàng hậu. Hoàng
hậu nói với hoàng thượng:
- Tại sao ngài không nói sớm
cho thiếp nghe? Xuân thu bệ hạ đã luống mà vẫn chưa có hoàng nam, bao hy vọng
trông ở cái thai của quý nhân đây. Thiếp dùng gậy đánh quý nhân, bất quá chỉ là
tuân giữ Tổ huấn. Tuy
nhiên nếu lỡ tay đánh quá cái thai bị thương, thiếp chẳng có tội với tổ tiên
sao?
Nói đoạn, chính bà cũng xúc
động, để đôi dòng lệ tuôn trào trên má. Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng Hiếu
Trinh hoàng hậu, thấy bà đang trách mắng đánh đáp Lan quý nhân, mà bỗng bỏ hết
giận tức trở lại xúc động thương khóc, ngài cũng lấy lời khuyên can và an ủi
bà.
Hiếu Trinh hoàng hậu cũng nhân
dịp này khuyên can hoàng thượng nên lưu tâm tới việc triều đình. Bà cho biết
hiện bọn giặc tóc dài đã khuấy động can qua ngập trời, mười tám tỉnh đã mất
phân nửa, thế mà ngài vẫn không bạ chỉ dụ để bảo toàn cơ nghiệp của tổ tông. Bà
còn khuyên ngài chớ nên mê luyến nữ sắc nữa.
Hàm Phong hoàng đế nghe Hiếu
Trinh hoàng hậu khuyên răn, bất giác kinh sợ muôn phần. Hiếu Trinh hoàng hậu
lúc đó chưa bao tuổi, mới hai mươi ba thôi. Tuy tô son điểm phấn mười phần kiều
diễm, nhưng thực ra bà chỉ là một người đàn bà có khuôn mặt xinh xắn mà thôi.
Đã từ lâu hoàng thượng và hoàng
hậu không chung chăn chung gối, bởi thế nhân dịp này, hoàng thượng bất giác
động lòng yêu thương đối với hoàng hậu. Ngay đêm đó ngài ở lại cung Khôn Ninh.
Cái việc bảo hợp giữa hoàng
thượng và hoàng hậu nơi cung cấm là một việc lớn chứ không phải chuyện chơi,
kính sự phòng có bổn phận phải coi từng giờ, từng phút, từng ngày, từng tháng,
từng năm mà ghi chép cẩn thận vào sổ. Hoàng đế ngủ một đêm thì sổ phải chép một
đêm, ngủ hai ngây phải chép hai ngày.
Không ngờ hoàng đế với hoàng
hậu lâu ngày xa nhau, nay mới gặp lại thành thử tình nồng, duyên thắm. Ngài ngủ
hết đêm này rồi đêm khác, ngủ mãi, ngủ hoài, khiến viên thái giám kính sự phòng
chép luôn một hơi là nửa năm.
Hiếu Trinh hoàng hậu lúc đó mới
khuyên hoàng thượng cần điều dưỡng thân thể cho cường tráng. Bà cho ngài biết
máu hươu rất bổ âm. Bởi thế trong cung đem về tới mấy trăm con hươu, mỗi ngày
làm thịt mỗi con, lấy máu cho ngài uống.
Đã thế, Hiếu Trinh hoàng hậu cứ
mỗi buổi sáng còn giục hoàng đế dậy sớm để toạ trào. Đến lúc đó, Hàm Phong
hoàng đế dần dần mới rõ được mọi việc đại sự bên ngoài, nhất là bọn Hồng Tú
Toàn đã cướp được Nam Kinh và đang tiến dần vào Bắc Kinh. Hàm Phong hoàng đế hoảng
hồn bạt vía, nhưng nhất thời chẳng tìm ra kế sách gì. Thoái trào hồi cung, ngài
đem việc triều chính ra bàn với hoàng hậu. Hậu nói:
- Thiếp chỉ là một người đàn bà
làm sao hiểu được việc triều đình. Huống hồ cung nhân can thiệp vào triều chính
là điều cấm kỵ của tổ tiên, mong bệ hạ chớ nên mưu tính việc lớn với đàn bà.
Ngài nên tìm một vài kẻ đại thần nào đó mà bàn tính thì hơn.
Lời khuyên giải đó của Hiếu
Trinh hoàng hậu vừa đúng ý, vừa nhũn nhặn, duyên dáng, càng làm cho Hàm Phong
hoàng đế thêm phần yêu kính. Ít hôm sau Hàm Phong hoàng đế hạ một đạo dụ sai
tổng đốc Trực Lệ là Nột Nhĩ Kính Ngạch làm khâm sai đại thần chuyên biện quân
vụ miền Hà Nam để chống lại đoàn quân tóc dài đang xông lên miền Bắc.
Lại nói hồi đó Hồng Tú Toàn đã
cướp được Nam Kinh, dựng nước tại đây, mở khoa thi chọn kẻ sĩ, khuyến khích
nghề nông, đôn đốc nghề thợ. Bọn ngoại quốc thấy Toàn thanh thế ngày thêm lớn
mạnh, quân đội lại đông, bèn hùa vào, miệng khen nào là cách mạng vì giống nòi,
nào là vì dân để diệt bạo. Bọn ngoại quốc càng về sau càng tin tưởng Toàn hơn.
Gã ngoại quốc đầu sỏ phải nói
là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ sai một chiếm hạm thẳng xuống Nam Kinh. Hồng Nhân Can là em
Hồng Tú Toàn biết ngoại ngữ ra tiếp viên thuyền trưởng.
Viên thuyền trưởng dâng quốc
thư, gọi Toàn là Thái bình Thiên quốc Thiên vương. Toàn chấp thuận cho người
ngoại quốc thông thương với điều kiện là yểm trợ cho Toàn.
Viên công sứ Hoa Kỳ tới Thượng
Hải thông cáo cho lãnh sự các nước khác như Anh, Pháp. Thế là đối với Thái bình
Thiên quốc, đám ngoại quốc Tây phương ai cũng bằng lòng vừa ý cả.
Hồng Tú Toàn cũng sai Hồng Nhân
Can làm khâm sai đi Hoa Kỳ đệ quốc thư. Từ đó, người ngoại quốc bất cứ quốc
tịch nào, thảy đều giúp Hồng Tú Toàn chống lại Thanh triều.
Tại Quảng Đông, các viên lãnh
sự ngoại quốc chống đối tổng đốc Kỳ Anh, nên Kỳ được rút về kinh làm đại học
sĩ, Từ Quảng Tấn ra thay làm tổng đốc Lưỡng Quảng và Diệp Danh Thám làm tuần
phủ Quảng Đông.
Chiến thuyền Anh tiến vào Quảng
Đông. Tấn đem quân Đoàn dũng chống lại. Quân Anh rút lui. Triều đình hạ chỉ
thưởng Tấn tước tử, và Thám tước nam. Về sau, Thám còn được làm tổng đốc nữa.
Không ngờ sau khi được làm tổng
đốc, Thám đâm ra kiêu căng, khinh thường hết quân Đoàn dũng. Quân Đoàn dũng
tinh Quảng Đông trước đó đã lập được nhiều công, thấy thế đâu có chịu. Do đó,
hai tên đầu mục của đoàn quân này là Quan Cự và Lương Tiếp bỏ lên tàu Anh xin
hàng, và tình nguyện xin với viên lãnh sự Anh là Ba Hạ Lễ làm hướng đạo cho
quân Anh. Viên lãnh sự Anh vốn ghét Thám, nhưng chưa tìm được ra cớ gì. May
thay một câu chuyện xảy ra, giúp ích rất nhiều cho y. Số là hồi đó, có mấy
chiếc thuyền buôn lậu á phiến giả mạo treo cờ Anh chạy vào bén. Viên chỉ huy
tàu binh tuần sông bắt được giữ thuyền lại, trói giật mười ba anh thuỷ thủ Hoa
tống vào lao.
Tin này đến tai viên lãnh sự
Anh Ba Hạ Lễ. Đây là cơ hội nghìn năm một thuở cho Lễ, dại gì mà bỏ qua. Thế là
Lễ viết thơ trách Thám, và bảo đó là thuyền của người Anh.
Thám thấy chuyện chẳng lớn lao
gì, bèn hạ chỉ thả hết mười ba thuỷ thủ Hoa bị giam và đưa về cho Lễ. Tưởng thế
là yên chuyện, nào ngờ Lễ kiếm chuyện không chịu, bắt viên thuỷ sư đề đốc nhà
Thanh phải đích thân tới tạ lỗi trước cửa nhà y, đồng thời phải đưa viên chỉ
huy chiếc tàu binh nọ tới cho y xử tội.
Thấy người Anh vô lễ nhưng Thám
chẳng thèm chấp và cũng chẳng đề phòng gì. Ba Hạ Lễ bèn yêu cầu viên công sứ
Anh ở Hương Cảng đem chiến thuyền tới, đánh phá pháo đài Hoàng Phố. Thám cũng
vẫn bỏ qua. Đoàn chiến thuyền Anh tiến đánh pháo đài núi Phượng Hoàng, cướp
pháo đài Hải Châu, có ý ngấp nghé thành Quảng Châu. Quan ty đạo trong thành
hoảng hốt chạy tới dinh tổng đốc xin yết kiến. Thám tay cầm lá đơn mặt tỉnh bơ,
như không có chuyện gì xảy ra.
Bỗng vang lên một tiếng nổ như
tiếng sét, chấn động cả thành phố. Thì ra đại bác của chiến thuyền Anh bắn phá
thành, khiến bức tường ngoài đổ vỡ tan tành.
Thám lúc đó mới biết sợ, vội
cho người đi giảng hoà. Viên lãnh sự Anh bảo viên công sứ Hương Cảng chỉ cần
đòi một mình Thám tới nói chuyện mà thôi.
Thám được tin đó lại càng sợ,
trốn kỹ trong thành Quảng Châu, không dám ra ngoài nữa. Lúc đầu Thám còn được
viên lãnh sự Hoà Kỳ đứng ra điều giải nhưng về sau thấy Thám đã ma bùn lại còn
bắc bậc làm cao, viên lãnh sự này khùng lẽn, bèn đi liên hiệp với công sứ Pháp
Cát La, công sứ Anh Ngạch Nhĩ Kim, công sứ Nga Bố Quát Đình, công sứ Mỹ Lợi
Đặc, nhất tề đem chiến thuyền tới Quảng Châu. Thám lúc đó hoảng hồn bạt vía,
nhưng vẫn phải lên tiếng kháng cự. Thám một mặt hạ lệnh cho tổng binh Quỳnh
Châu là Hoàng Khải Quảng đem một trăm mấy chục chiến thuyền câu và thuyền mành
ra chống giặc, một mặt cho lập đàn "cầu cơ" trong tĩnh thất Thám hôm
đó khăn đóng áo dài, quỳ lạy trước bàn thờ, cầu xin thần tiên xuống đàn cho cơ
bút. Mấy phút sau, quả nhiên cơ bút hoạt động. Trên một chiếc mâm cát, cơ bút
viết lia lịa, bảo cho biết: Ta
là tiên ông Lã Đồng Tân. Thám
thoạt thấy tiên ông, vội quỳ xuống, thì thụp lạy, chắp tay kính cẩn, miệng nhẩm
khấn:
- Đệ tử là Diệp Danh Thám được
uỷ nhiệm tới đây giữ chức vị trọng đại. Chẳng may bị bọn mọi hung hãn uy hiếp,
thành trì nguy ngập, tình thế như trứng để đầu đẳng. Vậy nên, kính xin tổ sư
mau biểu oai thiên, chỉ rõ cơ mưu cho biết phải làm sao.
Thám khấn xong, cơ bút bỗng
ngoáy lia lịa, cuối cùng người ta ghi lại được bốn câu như sau:
"Ngày mười lăm, nghe tin
tức, việc đã định, khỏi phải gặp"
(Thập ngũ nhật, thính tiêu tức,
sự dĩ định, vô trước cấp) .
Thám xem lời cơ bút, đoán rằng
thần tiên bảo mười lăm ngày sau thì đám giặc ngoại quốc chắc chắn phải rút lui,
khỏi cần phải lo sợ. Thám thư tâm, lại vắt cẳng nằm ngủ, bất chấp mọi việc xảy
ra.
Hồi 131: Đông
Vương Dương Tú Thanh
Hồi 132: Tăng Quốc
Phiên quyết diệt quân tóc dài
Năm thứ mười tám đời vua Đạo
Quang, Phiên đỗ tiến sĩ. Đến cuối đời Đạo Quang, Phiên đã leo lên ghế hữu thị
lang bộ Lễ. Năm thứ nhất đời vua Hàm Phong, triều đình hạ chiếu cần người nói
thẳng, Phiên ứng chiếu, Phiên sớ một bản điều trần ba điểm về thánh đức (đức
của nhà vua), và về phong tục lệ. Lời lẽ của Phiên quá thẳng, đến nỗi bị khiển
trách và suýt bị tù tội. May được đại học sĩ Kỳ Huề Tảo và vị giám khảo phòng
thi hồi gọi là Quy Chi cố công giải cứu nên mới thoát nạn. Phiên về quê chịu
tang mẹ giữa lúc loạn Hồng Dương (tức Thái bình Thiên quốc của Hồng Tú Toàn và
Dương Tú Thanh) nổi lên, khói lửa ngút trời.
Một
đạo chiếu chỉ hạ xuống, sai Phiên tiếp tay tuần phủ Trương Lượng Cơ đốc biện
việc huấn luyện quân dịch, sưu tra bọn thổ phỉ. Phiên vốn là một danh gia về Lý
học, đã xin được phép cư tang, cho nên không muốn dính tới việc quân nữa. Nhưng
Phiên có một người bạn tên Quốc Trung Thọ, khuyên Phiên cứ nên vâng chịu, chẳng
có gì là trái cổ lệ. Nghe bạn, Phiên rũ áo đứng dậy, mộ đám nông phu làm quân nghĩa
dũng, dùng bọn thư sinh làm doanh, bắt chước Thúc Kế Quang đời Minh lập thành
cơ ngũ, huấn luyện ngày đêm, thành lập được đến mấy doanh quân Đoàn luyện.
Trong khi Trương Lương Cơ đổi
về làm tổng đốc Hồ Bắc thì Lạc Bỉnh Chương về làm tuần phủ Hồ Nam, Phiên với
Chương vốn là hai bạn chí thân, mọi sự đều ý hợp, cho nên việc huấn luyện quân
nghĩa dũng ngày càng thuần thục, số quân ngày càng đông.
Giữa lúc đó thì thư xin cầu
viện của Giang Trung Nguyên gởi tới. Phiên vào gặp Chương nói:
- Giang Mãn Tiều gặp nguy không
nên không cứu?
Mãn Tiều chính là tên tự của
Giang Trung Nguyên. Khi còn ở kinh, Nguyên đi thi hội có vào yết kiến Phiên.
Hai người nói chuyện khá lâu rồi mới từ giã. Phiên thường nói sau này thế nào
Nguyên cũng lập danh rỡ tiết.
Phiên cùng với Lục tuần phủ
thảo luận kỹ càng rồi mới sai hai ngàn quân nghĩa dũng đất Lương, hai ngàn quân
nghĩa dũng đất Sở, cùng với sáu trăm doanh binh giao cho viên tu Quách Trung
Thọ, đạo viên Hạ Đình Việt và tri huyện Chu Tôn Di đưa đi cứu viện. Em ruột của
Giang Trung Nguyên là Trung Tế cùng với bọn học trò La Trạch Nam cũng dốc suất
đám nông dân trong các làng xóm theo đi dẹp giặc.
Vài lời phê bình về sự nghiệp
Hồng Tú Toàn của Dương Gia Lạc tác giả bộ Thanh sử thông tục diễn nghĩa do Thế
giới thư cục ấn hành:
"Sự khỏi đầu của Tăng Quốc
Phiên chính là sự tàn lụi suy vi của Hồng Tú Toàn. Thực ra một phần lớn lỗi lầm
là do tự Hồng. Khi định đô ở Giang Ninh rồi, Hồng chẳng thèm quan tâm đền việc
được mất, cứ nghiễm nhiên an cư, ăn chơi thoả thích, hoang dâm vô độ. Đã thế
quân quốc đại sự, Hồng lại phó mặc cho Dương Tú Thanh. Thanh chuyên quyền, gian
dâm bừa bãi cũng như Hồng, Kiều, lại kiêu ngạo còn hơn Hồng. Quân tướng như vậy
hỏi thành công sao được.
Lâm Phượng Tường đem quân bắc
phạt, chính đó là kế hay của Hồng. Tường đại thắng, vượt qua Hoài vào Biện, đi
tới đâu thế đều như chẻ tre. Thực là một đoàn quân tinh nhuệ ít thấy. Thế nhưng
Tường có điều thất sách hơn là không nhân lúc quân Thanh chưa tập hợp được,
xông thẳng vào Tề, Lỗ, tiên nhắm Yên Kinh mà lại đem quân về hướng tây miền
Hoài Khánh quanh đường cố đánh, rồi theo đường Sơn Tây quay vòng vào Trực Lệ,
lao lực kiệt sức, thử hỏi làm sao mà chẳng thua. Quân tan vỡ ở Thân Châu, lúc
đó mới biết hỏng thì than ôi! Đã muộn.
Hồng còn có một điều thiếu suy
nghĩ nữa là khi đắc thắng, vừa chiếm được ít đất, đã vội lợi dụng sức mạnh quân
sự và chính trị, bắt buộc dân tộc Trung Hoa phải theo tôn giáo mình.
Nội bộ chia rẽ vì đó, quần
chúng bỏ rơi cũng vì đó, một phần lớn nho gia Trung Quốc đương thời nắm vai trò
lãnh đạo quần chúng và chính quyền, không chấp nhận một giáo lý mới nên có thái
độ bất hợp tác và cuối cùng còn quay giáo lại chống đối kịch liệt là khác. Đó
là trường họp của Tăng Quốc Phiên, một nho gia lỗi lạc trong phía Đông Thành đã
vang tiếng một thời trong lịch sử Trung Quốc.
Cho nên hồi này coi như một hồi
nhắc lại điều đáng tiếc của Hồng, đồng thời cũng để nêu ra một cái lỗi hết sức
nặng của Hồng mà hậu thế nên lấy đó làm gương!" .
Dân tỉnh Hồ Nam đã lâu nổi
tiếng là bài ngoại, nhất là đối với Tây phương. Họ thấy những chuyện gây hấn
của Anh, của Pháp, của Hoa Kỳ mà lấy làm tức. Ấy cũng từ đó, họ đã tức lây sang
cả tôn giáo Tây phương. Đây là một sự thiệt thòi của Thái Bình Thiên quốc. Ngay
sau khi chiếm đóng được nơi nào, giáo chủ đạo mới Dương Tú Thanh tức thì đi
truyền đạo Nhưng dân tộc Trung Hoa thẩm thấu tư tưởng Khổng, Mạnh đã quá lâu.
Bởi vậy, khi Thanh khuyên họ bỏ đạo cũ, bỏ cả bàn thờ tố tiên để theo đạo mới
của Thanh, thì họ đời nào chịu nghe ngay.
Một số lớn, vì lý do đó mà
không theo, còn một số khác nữa thì lại cực đoan hơn, quyết chống lại, kịch
liệt nhất phải nói là bọn nhà nho, bởi vì rằng bỏ việc thờ cúng tổ tiên là một
điều cấm kỵ của những người coi trọng đạo hiếu. Bên ngoài, dân chúng đã không
hưởng ứng, bên trong, nhất là hàng ngũ võ quan và binh lính, một khi bị giáo
chủ Dương Tú Thanh bắt buộc phải theo đạo mới, thì dần dần băng hoại.
Bởi thế, quân tóc dài dù có
những tướng tài như Thạch Đạt Khai, Lâm Phượng Tường cũng đành phải suy bại.
Thật đáng tiếc cho sự nghiệp của Hồng Thiên vương! Ví thử Thái bình Thiên quốc
chi chú trọng đến việc đuổi Mãn phục Hán theo đúng tôn chỉ của họ ngay từ đầu
thì đâu đến nỗi. Người đời thường nói: xây nên thì dễ, mà giữ gìn thì khó, quả
có đúng như thế.
Đây là cái lý do chính khiến
Tăng Quốc Phiên, một nhà nho trói gà không chặt, đã lên tiếng, có thể hiệu
triệu được dân chúng tỉnh Hồ Nam gia nhập hàng ngũ quản Tương, Sở của ông để
chiến đấu. Mà một khi quân Tương, Sở của Phiên, dù chỉ là một đoàn ô hợp lúc
ban đầu, ôm ấp một lý tưởng trong lòng thì đối thủ nhất định phải vô cùng gian
nan vất vả để chống cự.
Lại nói đoàn quân Tương, Sở đến
cứu Giang Tây, vừa tới Nam Xương đã gặp ngay sức chống cự dữ dội của quân tóc
dài. Hai bên giáp chiến tơi bời. Quân Tương, Sở vừa được luyện tập mới xuất
quân lần đầu, làm sao địch nổi quân tóc dài đã bao lần vào sinh ra tử. Hơn nữa,
bọn chỉ huy như La Trạch Nam lại đều là bọn văn nhã thư sinh, văn thơ thì hay
nhưng thao lược chính chiến đâu được như bọn tướng lĩnh đối phương.
Rốt cuộc quân Tương, Sở đại bại
tử thương vô số kể. Song như đã nói, quân Tương, Sở còn có cái lý tưởng để
chiến đấu, cho nên thua không nản, họ lại bày trận khác, quyết diệt cho bằng
được quân tóc dài.
Thấy thế giặc mạnh, Tăng Quốc
Phiên thảo sớ tâu về triều xin viện binh, mộ binh tập luyện, hy vọng có thể
quét hết được quân tóc dài tại vùng Tràng Giang. Tờ sớ dài đến vài ngàn chữ, và
gởi về đã được hồi tấu ngay. Được chiếu chỉ rồi, Phiên chuyển quân từ Tràng Sa
tới Hàng Châu, đóng gấp chiến thuyền, thành lập thuỷ sư. Phiên cho đóng thử nhiều
lần, cuối cùng mới quyết định đóng ba loại thuyền: loại thứ nhất gọi là Khoái
Giải (con giải lẹ làng), hình dáng to bự cần đến hai mươi tám tay chèo, tám tay
lái. Loại thứ nhì gọi là Tràng Long (con rồng dài) nhỏ hơn Khoái Giải một chút,
cần đến mười sáu tay chèo, bốn tay lái. Còn loại thứ ba gọi là Tam Bản, nhỏ
xíu, chỉ cần có mười tay chèo. Trên mỗi thuyền, đều có một thuyền trưởng chỉ
huy, ba tay pháo thủ, hai tay cai chèo, một tay chánh lái và một tay phó lái.
Khoái Giải là thuyền dành cho đại bản doanh của doanh quan. Tràng long dùng làm
chính tiêu, còn Tam Bản dùng làm phó tiêu.
Phiên chiêu mộ thuỷ quân năm
ngàn người. Rồi ngày đêm luyện tập tinh thục, tổ chức thành mười doanh. Sáu
doanh toàn là quân mộ từ Hàng Châu. Chỉ huy sáu doanh này có sáu người: Thành
Danh Tiêu, Chư Điện Nguyên, Dương Tải Phúc, Bành Ngọc Lân, Trâu Hán Chương, và
Long Hiến Thám. Tất cả đều là doanh quan. Còn bốn doanh nữa là: Chữ Nhữ Hàng,
Hạ Loan, Hồ Gia Viên, Hồ Tác Lâm: Riêng Chữ Nhữ Hàng đã từng làm đồng tri tỉnh
Việt, rất am tường về tổ chức thuỷ sư.
Tăng Quốc Phiên lại tuyển mộ
năm ngàn quân lục chiến chia làm mười ba doanh, do một số tướng lĩnh có tên sau
đây chỉ huy: Châu Phụng Son, Sư Mai Cung, Lâm Nguyên Ân, Trâu Thế Kỳ, Trâu Thọ
Xương, Dương Danh Thanh và cả người em sau rốt của Phiên tên gọi là Tăng Quốc
Bảo nữa. Phiên còn đặc cử Tháp Tề Bố làm phó tướng đảm nhiệm chức tiên phong.
Như thế, cả đội quân thuỷ lục của Phiên cộng lại được hơn vạn người do chính
Phiên tổng hạt, chỉ còn đợi thuyền bè đóng xong, ăn uống đầy đủ, lương thực
hoàn bị, nhất tề nhổ neo xuôi theo sông Tương, quyết một phen sống mái.
Quân Tương, Sở và quân tóc dài,
quần thảo nhau suốt mười lăm năm, gây bao tai ương khủng khiếp cho dân tộc
Trung Hoa. Quân tóc dài thực không phải tầm thường để cho quân Tương, Sở chiến
thắng một cách dễ dàng. Phiên tấn công mặt này, thì quân tóc dài chọc thủng
phòng tuyến ở chỗ khác. Cái thế chiến đấu cài răng lược giữa đôi bên càng ngày
càng khốc liệt Cuối cùng, Tăng Quốc Phiên trí cùng lực kiệt, đành phải án binh chờ
đợi. Thái bình Thiên quốc nếu có bị đánh tan, thực phải do bộ óc của một nhà
nho khác nữa kế tục sự nghiệp của Phiên. Nhà nho đó chính là Lý Hồng Chương, đã
từng định kế để có thể đánh chiếm Nam Kinh, thủ đô của Thái Bình Thiên quốc ở
những hồi sau.
Tình thế bất lợi kéo dài cho
quân tướng của Phiên nói riêng, cho triều đình nhà Thanh nói chung. Đã thế, đại
bản doanh của quân Thanh tại Giang Nam lại bị quân tóc dài đánh cho một trận
tơi bời, đến nỗi một manh giáp cũng không còn.
Hướng Vinh làm khâm sai đại
thần thống đốc quân Thanh lo quá đến sinh bệnh mà chết.
Hồng Thiên vương Tú Toàn nhờ
được thêm trận này, oai thế lại còn rực rỡ hơn xưa. Quân tóc dài mở những cuộc
tấn công lớn vào các đoàn quân Thanh bị xé rách tả tơi ở khắp các mặt trận. Đó
là tình hình chiến sự khẩn cấp vào năm thứ sáu, niên hiệu Hàm Phong, hồi tháng
năm. Tiếp sau đó, quân Thanh lại còn phải lao đao nhiều keo lắm, đến nỗi có
người đã e ngại cho cái ngai vàng nhà Thanh khó bề đứng vững.
Hồi 133: Nội loạn trong
Thái Bình Thiên Quốc
Lại nói Thiên vương Hồng Tú
Toàn Thái Bình Thiên quốc, sau khi được tin thắng trận các nơi gởi về: nào là
đại bản doanh Giang Nam của quân Thanh đã bị đánh tan, khâm sai đại thân Hướng
Vinh đã chết, trong lòng mừng như cờ mở, cho như thế là đã toàn thắng, quân
Thanh quyết không còn có thể đủ sức tái chiến và xâm phạm vào lãnh thổ của mình
được nữa. Toàn còn nghĩ rằng Phiên tuy chưa chết, nhưng từ đây về sau quyết
chẳng thể làm được gì hơn. Cái cơ chiến thắng, Toàn thấy như là đã quá rõ,
không còn phải lo âu gì nữa. Theo kế sách của Toàn, thì việc còn lại sẽ chia
làm hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là bình định miền Hoa Nam, sau đó mới đến
việc đuổi nhà Thanh khỏi Bắc Kinh, thâu hồi hoàn toàn lãnh thổ Trung Hoa. Nhưng
bất cứ giai đoạn nào, Toàn cũng vẫn phải duy trì chương trình truyền đạo của
Dương Tú Thanh, bởi vì đó là một việc rất nên và rất cần: có thế quyền rồi lại
có thêm cả giáo quyền nữa thì ngai vàng của mình nhất định sẽ trường cửu đến
muôn đời. Nghĩ vậy, Hồng Thiên vương càng lấy làm mừng. Nhưng rồi lại từ cái
mừng quá đó, Toàn càng hoang dâm, phè phỡn vô độ… Ngoài ra dưới trướng Thiên
vương, Dương Tú Thanh tay nắm trọng quyền, cũng từ cái tâm lý ấy, phát sinh ra
rất nhiều những hành động sai trái, đưa Thái bình Thiên quốc đến nội loạn và
diệt vong…
Thanh
vốn là một tên quỷ dâm dục. Hằng ngày, Thanh cho người đi lùng khắp chợ thôn
quê những danh hoa lệ thảo về dinh để sung vào bọn thị nữ luân phiên hầu hạ
Thanh.
Đáng thương thay, biết bao con
gái của những gia đình tử tế miền Hoa Nam thời đó đã bị tên quỷ dâm dục họ
Dương làm tan nát cuộc đời! Bởi thế người Hoa Nam thời đó mới có danh xưng:
Dương Mai đô đốc và Hoa Giới đại vương để tặng cho Toàn và Thanh.
Trang tuyệt sắc giai nhân mà
Thanh sủng ái nhất là Phó Thiện Tường. Sau khi Tường bỏ đi, bọn tay chân thay
thế bằng Chu Cửu Muội, người đẹp mới từ Dương Châu đưa về, vừa tròn 19 tuổi.
Nàng Cửu Muội sành sỏi văn thơ, tài mạo thực song toàn, giống hệt như Thiện
Tường thuở nọ.
Dương Tú Thanh mừng lắm, liền
cho đưa vào phủ Đông vương vừa thay thế chức vụ của Thiện Tường, vừa đến đêm
nàng làm phận sự thị tẩm nữa.
Chu Cửu Muội thoạt đầu không
chịu, nhưng thân liễu yếu đào tơ, thử hỏi làm sao chống lại được. Cuối cùng
nàng cũng đành phó thác tấm thân trinh bạch của mình cho tên quỷ háo sắc giày
vò
Cửu Muội hận lắm nhưng làm sao
báo thù được? Nàng giả bộ vui vẻ chiều chuộng, nhưng thề với trời đất là không
đội trời chung với Thanh.
Một hôm, nhân lúc Thanh uống
rượu, nàng lén bỏ thuốc độc vào, nhưng không ngờ bị lộ, nàng bị Thanh bắt uống
cho kỳ hết chén rượu độc. Thuốc độc ngấm vào tạng phủ, Chu Cửu Muội ngã lăn ra,
miệng lẩm bẩm than thở:
- Tiếc rằng ta không giết được
tên ngoại đạo cõng rắn cắn gà nhà! Nhưng hồn ta thề sẽ theo đuổi mi tới cùng!
Ít tháng sau, Thanh lại cho bọn
tay sai đi lùng khắp nơi đem về được một nàng, sung vào phủ Đông vương như
trường hợp Chu Cửu Muội. Thế rồi nàng Lý cũng bỉ Thanh cưỡng hiếp như bao nhiêu
cô gái khác.
Lý cô nương căm phẫn đến xương
tuỷ. Nàng tìm cách báo thù. Nhân một hôm tiệc tùng say sưa, Dương Tú Thanh đã
ngà ngà, nổi cơn khát tình, liền cho gọi Lý cô nương vào phòng.
Lý cô nương cho đây là một dịp
tốt nhất để hạ thủ Tú Thanh, vội giắt một con dao nhỏ dài độ hơn tấc vào trong
lọn tóc làm vũ khí.
Thanh say rượu, lảo đảo bước
vào phòng. Lý cô nương hôm đó ăn mặc hết sức lộng lẫy, trang điểm cực kỳ xinh
đẹp. Bởi đã có dụng ý, nàng đem hết tình tứ duyên dáng ra để hầu tiếp Thanh.
Nhưng vốn là một loại quỷ râu xanh đã nhiều phen kinh nghiệm đường đời, nhất là
sau trường hợp chết hụt vừa rồi, Thanh bỗng có ý nghi ngờ hành động của Lý cô
nương.
Thế nên sau khi thoả mãn, Thanh
giả vờ như không biết gì, làm một giấc say sưa.
Lý cô nương chắc mẩm tên quỷ
râu xanh đã đến ngày tận số. Đợi cho Thanh ngủ say, tiếng ngáy nghe phì phò rõ
mồn một trong phòng vắng, nàng mới khẽ lần sau lọn tóc, lấy ra con dao nhọn,
nhè giữa cổ Thanh đâm xuống một nhát mạnh.
Nàng tin chắc Thanh phải đứt
họng mà chết không kịp ngáp.
Không ngờ nhát dao của nàng
không trúng cổ họng, mà chỉ ngập sâu vào vai trái của Thanh. Thanh thét lên một
tiếng vội nhỏm dậy, tức giận đến cùng độ, hô bọn võ sĩ đem ngay nàng ra xử tội.
Thì ra Thanh có ý ngờ từ trước
nên vẫn đề phòng. Lý cô nương vừa đâm nhát dao xuống thì Thanh vội né lệch
người sang bên, khiến vai trái của y bị ngập cán dao là thế, Lý cô nương bị bọn
tay chân Thanh quấn vải khắp người rồi tẩm dầu vào, đem trói đứng vào một cây
cọc và châm lửa đốt. Hình phạt đó, thật độc ác và man rợ.
Sau nhát dao của Lý cô nương,
lại đến cái quần lót vấy máu của Triệu Bích Nương. Bích Nương nhan sắc xinh đẹp,
tuổi mới mười lăm, mười sáu. Nàng bị ép đưa vào Tú quán nữ công (nơi phụ nữ
thêu thùa may vá), và là một tay thợ tài tình tuyệt mỹ. Nàng đan một cặp mũ,
trình lên cho Thanh. Thanh xem qua, thấy tuyệt đẹp, khen lấy khen để. Nhưng có
kẻ ghen ghét, đặt điều nói xấu, khiến nàng bị hình phạt "điểm thiên
đăng" như Lý cô nương.
Đã mấy lần bị chết hụt về
chuyện bức gái, Dương Tú Thanh lúc này không còn tin tưởng đám "gái
quê" nữa, cho là không thể "xài" được. Thanh nghĩ tới Hồng Tuyên
Kiều, mà đã lâu rồi chưa gặp lại. Thanh nhớ lại cái ngày gặp gỡ buổi ban đầu.
Hồng Tuyên Kiều, nàng thật là một người tình luôn biết làm đẹp lòng Thanh. Còn
ai bằng nàng, nhất là nàng đã vừa đẹp lại vừa có cái bí quyết phòng the khiến
Thanh điên đảo cả lên.
Nghĩ vậy rồi, Dương Tú Thanh
cho người gọi Hồng Tuyên Kiều về ở với mình (Nàng Kiều có cái tài là cùng một
lúc có thể ở được cả với bốn anh, không anh nào dám ghen tuông, làm mếch lòng
người đẹp).
Hôm đó, trời đã sang hè, Dương
Tú Thanh muốn làm vui lòng người đẹp, bèn cho chế tạo một cái giường "nghỉ
mát" chạm trổ hết sức tinh vi. Chung quanh căn phòng dùng để làm phòng hoa
chúc, Thanh cho lót kính pha lê sáng choang.
Ở chính giữa, Thanh lại còn cho
đặt một cái hồ nước nuôi cá vàng, thả rong chằng chịt bên trong. Trong các khe
giường, có những cái ống thông hơi, gió thổi vào vừa mát vừa rít lên như giọng
sáo vi vu từ phương trời xa vọng tới.
Chuẩn bị xong xuôi, mười phần
coi như hoàn hảo cả mười rồi, Thanh mới tổ chức một cuộc đón rước nàng Kiều về.
Dương Tú Thanh vốn có nhiều hầu
thiếp. Từ khi Tuyên Kiều về phủ Đông vương, bọn hầu thiếp này đành chịu cái
cảnh phòng không lạnh lẽo. May cho họ là khi đó, trong phủ Đông vương, bỗng từ
đâu có một anh thừa tuyên tên gọi Trần Tôn Dương. Dương người bảnh trai, mặt
xinh như hoa, tay chân đẹp như ngọc, khiến gần hết các cô các bà trong vương
phủ không ai là không muốn gần gũi, nhất là muốn được "hầu hạ" Dương
đôi ba phen cho thoả. Thậm chí, nhiều cô còn muốn Dương thay thế Thanh để ban
ơn mưa móc cho họ.
Trần Tôn Dương đi qua hết cô này
đến cô nọ, tiếc rằng mình không có phép "phân thân" để thoả mãn được
hết các cô các bà đã có lòng yêu quý mình.
Cái gì lâu cũng lộ. Chuyện tư
tình của Dương với bọn cơ thiếp của Thanh về sau lộ ra, thế là ầm ĩ cả lên.
Đông vương Dương Tú Thanh rõ
chuyện, giận đến tím mặt lại, liền ra lệnh chém Tôn Dương rồi moi gan róc thịt.
Trớ trêu thay Tôn Dương lại là em vợ của Vy Xương Huy. Huy lúc đó đang ở Giang
Tây, được tin này lấy làm căm lắm, quyết tìm kế diệt Thanh.
Tội ác của Tú Thanh đã đến lúc
không còn ai có thể chịu nổi. Thiên vương Hồng Tú Toàn trong lòng cũng đã thấy
chán ghét, bèn hạ mật chiếu bảo Vy Xương Huy trở về Nam Kinh.
Huy đem quân về nhưng Thanh cấm
không cho vào thành, Huy khẩn khoản mãi, xin để hết bộ hạ lại chỉ mang theo có
vài chục tên quân vào mà thôi.
Thanh chấp nhận và cho Huy bệ
kiến Hồng Tú Toàn, Toàn giả bộ giận quát Huy:
- Hiện nay, quân quyền của
Thiên quốc đều do Đông vương nắm giữ, người há lại không biết hay sao? Đông
vương không muốn cho ngươi về, tại sao ngươi lại tự tiện về? Ngươi phải đi ngay
tới Đông vương phủ mà xin xá tội đi. Nếu Đông vương chịu tha thì ngươi phải tức
tốc đi ngay, nghe chưa?
Nói đoạn, Hồng Tú Toàn lặng lẽ
rơi đôi giọt lệ trên má, Xương Huy nhìn thấy, đoán biết Thiên vương quả đến lúc
quẫn bách, mà chẳng tiện nói rõ cho mình biết.
Vy Xương Huy bèn sang phủ Đông
vương, xin yết kiến Thanh để cầu ân xá. Tú Thanh lập tức mời vào. Huy cất tiếng
khẩn khoản xin tha theo lời của Thiên vương đã mách.
Dương Tú Thanh nói:
- Chuyện đó có hề gì! Song đến
tháng tám, đúng ngày sinh nhật của ta, đệ có biết ta sẽ tiến xưng vạn tuế chưa?
Huy nói:
- Tứ huynh (anh thứ tư) công
cao vọng trọng, thế cao vòi vọi ai dám sánh bằng được. Huynh nên sớm chính vị
rõ ràng đi! Đệ lâu nay ở ngoài diệt giặc, quả thực không được tỏ tường.
Nói đoạn, Huy vội dập đầu công
cốc xuống nền nhà, miệng hô lớn:
- Vạn tuế! Vạn tuế!
Huy còn hạ lệnh cho bọn tuỳ
tùng quỳ theo đồng thanh hô:
- Vạn tuế! Vạn tuế!
Dương Tú Thanh thấy thế, cho
rằng bọn Huy đã thuận theo phe mình cả, lòng mừng như cờ mở liền hạ lệnh mở
tiệc ăn uống, khao thưởng hết cả mọi người từ Huy trở xuống, tha hồ ăn uống say
sưa.
Vy Xương Huy vào tiệc, lúc đầu
hết lời nịnh nọt tán dương Dương Tú Thanh. Thấy Tú Thanh đã ngà ngà say, Huy
đứng dậy nói lớn:
- Thiên vương có lệnh: Tú Thanh
mưu nghịch bất đạo phải lập tức giết ngay!
Hồi 134: Thiên Muội
Hồng Tuyên Kiều bị băm nát
Thanh vừa nghe xong, biết
nguy, vội né tránh. Nhưng bọn tuỳ viên của Huy đã nhất tề xông lên, vung kiếm
chém bay đầu Tú Thanh, lăn long lóc trên thềm nhà, máu phun ra có vòi, thân ngã
gục xuống như cây chuối đổ.
Chém
xong Thanh, bọn Huy xông vào tận hậu thất chém cho bằng hết nào con trai, con
gái, nào thị thiếp, cơ hầu, chỉ còn để lại có mỗi một thiên muội Hồng Tuyên
Kiều.
Vy Xương Huy vừa kéo vừa bế
Hồng Tuyên Kiều đem về Bắc vương phủ, việc trước hết là phải thoả mãn với Tuyên
Kiều rồi sau đó mới báo cho Thiên vương biết.
Huy tưởng giết Thanh xong là
yên chuyện, nào ngờ dư đảng của Thanh đâu đã chịu bó tay đang tập hợp lại tấn
công phủ Bắc vương.
Huy mở cửa thành, cho bọn bộ hạ
của Thanh vào để giáp chiến.
Giữa lúc hai bên giao đấu còn
vô cùng quyết liệt, thì Dực vương Thạch Đạt Khai từ Giang Tây đem quân về. Yên
vương Tần Nhật Cương cũng từ An Huy tới. Hai vị này cũng đã vâng mật chiếu của
Thiên vương quay về để diệt nội loạn. Khi vào thành họ nghe Tú Thanh đã bị
Xương Huy giết chết, hai cánh quân đang hỗn chiến ghê hồn, bèn đứng ra điều
đình.
Nhưng Vy Xương Huy không chịu,
quyết giết cho bằng hết dư đảng của Đông vương. Dực vương Thạch Đạt Khai thấy
Huy không nghe mình, liền nổi máu hoả quát lớn:
- Ngươi đã giết chết Đông vương
rồi thì nên thôi đi, chứ sao lại diệt cả gia tộc của y? Diệt cả gia tộc của y
chưa đủ, lại còn muốn diệt hết cả bạn bè y nữa. Thiên quốc của bọn ta chẳng vì
Đông vương mà mất, nhưng e rằng sẽ mất vì chính ngươi đấy.
Vy Xương Huy không đáp. Thạch
Đạt Khai hầm hầm tức giận đi ra.
Đêm đó, cả hai phủ Yên vương,
Dực vương đều bị thủ hạ của Vy Xương Huy vây kín. Tần Nhật Cương chạy ra hỏi,
liền bị giết ngay. Toàn gia của Dực vương bị giết sạch. Duy chỉ có mình Thạch
Đạt Khai không rõ nhờ đâu mà biết được nên leo thành trốn chạy được ra ngoài.
Khi thoát mạng rồi, Khai liền
tập hợp đồng đảng từ ngoài đánh vào. Huy chạy tới báo với Hồng Tú Toàn. Toàn
bất giác thất thanh bảo:
- Người không nghe lời Đạt
Khai, bây giờ thì hỏng cả rồi! Người còn giết sạch cả toàn gia của hắn thì bảo
sao hắn chịu nổi chứ?
Huy lặng thinh chạy ra ngoài,
quay ngay giáo lại, hô thủ hạ, vây luôn cung điện của Thiên vương. Bọn anh em
của Hồng Thiên vương bị vây liền bắt tay giảng hoà với dư đảng của Đông vương,
nhất tề quay giáo, cùng đánh bọn Vy Xương Huy.
Bọn Vy Xương Huy cô thế không
địch nổi hai mặt, bèn bỏ chạy. Dư đảng của Đông vương thừa thế xông vào Bắc
vương phủ, thấy một người chém một người, thấy hai người chém hai người, chém
sạch giết sạch, không sót mống nào. Thế là vợ con, quyến thuộc của Xương Huy
đều làm quỷ không đầu dưới lưỡi dao oan nghiệt, ngay cả đến Thiên muội Hồng
Tuyên Kiều, cốt ngọc đa ngà cũng bị bọn chúng xẻ thịt róc xương ra, rồi băm nát
như cám.
Vy Xương Huy hối hả chạy ra
ngoài thành, chỉ còn lại độ vài chục tên thủ hạ, lấy thuyền vượt sông, đến
Thanh Giang không may lại gặp phải bọn Tiền Sứ của đảng Đông vương ở bên ngoài.
Bọn này hè nhau xông tới, bắt trói bọn Huy như trói heo rồi áp giải về Giang
Ninh.
Thiên vương Hồng Tú Toàn giận
lắm, liền truyền lệnh đem Huy ra xé nát thành từng mảnh, còn đầu lâu thì gởi
cho Thạch Đạt Khai, dùng lời nói ngon ngọt dụ Khai trở về.
Thạch Đạt Khai tạm nguôi cơn
giận, trở về Giang Ninh.
Mọi người đưa Khai lên làm phụ
chính, giống như Dương Tú Thanh thuở nọ. Nhưng Thiên vương Hồng Tú Toàn bị cái
gương tầy liếp của Dương Tú Thanh nên không thể không do dự, nghi kỵ. Toàn lo
rồi đây Khai lại cũng diễn lại cái trò của Thanh.
Hồng Nhân Phát và Hồng Nhân
Đạt, anh em của Toàn lại không hợp ý với Khai. Bởi thế, biết rõ nỗi khó khăn
của mình, Thạch Đạt Khai liền từ biệt Thiên vương kéo binh ra khỏi thành Nam
Kinh đi luôn.
Tất cả mọi chuyện xảy ra đều do
Tiền quân sư dự liệu và sắp xếp Hạ mật chiếu triệu bọn Vy và Trạch trở về để
diệt Thanh chính là kế sách của quân sư họ Tiền. Nhưng đến lúc Vy và Dương xung
đột, chém giết nhau tơi bời rồi, thì không ai biết Tiền quân sư đi đâu. Từ đó,
Hồng thiên vương mất một người tham mưu thượng thặng.
Chính sự trong cũng như ngoài
lúc này đều do Hồng Nhân Phát và Hồng Nhân Đạt lo liệu giải quyết. Nhưng Đạt và
Phát đâu có phải là những người đa mưu túc kế, chính trị giỏi giang.
Bởi thế, công việc trong phủ
Thiên vương, cũng như Thái bình Thiên quốc càng ngày càng rối rắm, chẳng khác
gì búi bòng bong, không gỡ ra được.
Lại nói Tăng Quốc Phiên đóng
quân tại Giang Tây chờ đợi, được quân Thanh ở Lưỡng Hồ tới tăng viện, liền tấn
công Nam Khang. Các tướng Lý Nguyên Độ, Lưu Vu Thuần cũng thu phục được các
huyện Nghi Hoàng, Sùng Nhân, Tân Kim. Nhờ đó quân vụ miền Giang Tây của triều
đình nhà Thanh, mới dần dần khởi sắc…
Chưa hết, Tăng Quốc Phiên thừa
dịp chiến thắng, bèn hợp binh với Quan Văn đánh tan quân tóc dài ở thành Hán
Dương, giết chết Chung thừa tướng, Lưu chỉ huy. Mặt khác, Hồ Lâm Dực cũng tái
chiếm thành Võ Xương, bắt sống được mười bốn tến kiểm điểm của quân tóc dài là
bọn Cổ Văn Tân. Như thế Võ Hán đã ba lần mất lại ba lần chiếm lại.
Quân Thanh của Tăng Quốc Phiên
thừa thắng càng tiến, tái chiếm các huyện như Hoàng Châu, Hưng Quốc, Tam Châu,
Tam Thung, Quảng Tế, chỉ trong vòng có mười ngày mà đã quét sạch được hết miền
Hồ Bắc.
Trên bộ đã chiến thắng, mặt
thuỷ cũng thu được nhiều chiến công: bọn Dương Tải Phúc thống đốc thuỷ sư với
hơn bốn trăm chiến thuyền, Lý Tục Tân chỉ huy lục quân hơn tám ngàn người, cứ
theo bờ sông Dương Tử đánh xuống, chạm giáo với quân tóc dài nhiều keo, keo nào
cũng đại thắng. Phúc và Tân nhân đà chiến thắng kéo luôn quân vào mãi Cửu
Giang.
Tăng Quốc Phiên ở Nam Dương
nghe tin, đích thân tới Cửu Giang để khen thưởng binh sĩ. Trên đường đi, Phiên
được ngựa lưu tính phi báo cho biết bọn Tiêu Khải Giang, Lưu Tràng Hựu đã cướp
lại được Viên Châu.
Người em của Phiên là Tăng Quốc
Thuyên cũng tổ chức được một đội quân do ngả Bình Hương tiến về, hội họp tại
Châu Phượng Sơn rồi đánh lấy An Phúc.
Được những tín báo tiệp từ bốn
phương gởi tới, Tăng Quốc Phiên cảm thấy tinh thần sảng khoái lắm. Khi đến Cửu
Giang, Phiên nhìn thấy thuỷ lục, hai quân thanh thế có bề thịnh đạt, thì lấy
làm hả dạ vô cùng.
Lúc đó hai viên thống lĩnh
Dương, Lý cũng tới đón rước Phiên. Phiên mặt như hoa nở, cầm tay hai tướng Lý,
Dương khen ngợi rồi lại truyền gọi các tướng tá tới để uỷ lạo một phen nữa,
Phiên lại còn trích ra nào vàng bạc, nào lương thực trong kho để khao thưởng
cho binh sĩ, cho các tay anh hùng hào kiệt đất Tương Châu.
Các chiến sĩ của Phiên thấy
Phiên rộng lượng và đối đãi tử tế với quân sĩ như vậy, thảy đều vui mừng và cảm
phục, có kẻ nào lại không theo lệnh của Phiên.
Khao thưởng xong, quân Thanh
đều được lệnh tấn công thành Cửu Giang. Tưởng chỉ cần trong vài ngày, không ngờ
đánh phá luôn một lèo hơn tháng mà chẳng ăn thua gì! Chẳng mấy chốc đã thấy qua
năm thứ bảy Hàm Phong.
Hồi 135: Thạch Đạt Khai
binh bại ,chạy đến Quảng Tây
Tăng Quốc Phiên được
thám mã phi báo tướng tóc dài Thạch Đạt Khai kéo binh vào Hồ Nam. Đấy vốn là
quê quán của Phiên, mồ mả tổ tiên bà con thân thích của Phiên đều ở cả đấy,
Phiên giật mình, nỗi lo sợ hiện rõ trên nét mặt.
Phiên vội gởi văn thư thông tư
cho tuần phủ Trương Châu là Lạc Bỉnh Chương hạ lệnh phải ráo riết phòng ngự.
Chương đã từ lâu vốn không dám sơ hở, nay được thêm tin cảnh báo lại càng lo
lắng hơn.
Nhưng không ai ngờ được rằng
chính vụ đối phó với tướng tóc dài Thạch Đạt Khai này, lịch sử của Thanh triều
đã ghi thêm một đại nhân vật nữa. Đó là Tả Tôn Đường người huyện Tương Âm.
Tả Tôn Đường tên thật Quý Cao
là một thanh niên thích tự do phóng dật. Đường thường cho mình sẽ có ngày giúp
vua cứu nước. Lạc tuần phủ thấy Đường có tài mời về làm mạc khách, song đãi như
một thượng khách. Thuộc liêu có việc trình lên, Chương đều giao cho Đường giải,
quyết xét đoán giùm.
Ở đời, kẻ tài sắc thường gặp
gian truân. Đó là định lý của ông xanh kia chăng? Chính thế! Đường danh càng
cao thì càng bị người gièm báng, quyền càng trọng thì càng bị người. kỵ ghét.
Vì thế suýt nữa Đường đã bị Lạc tuần phủ làm cho tiêu đời.
Câu chuyện như sau:
Tổng binh Vĩnh Châu là Phàn
Nhiếp tính vốn ương ngạnh hay tự do hành động bất chấp cả lệnh trên. Lạc tuần
phủ dâng sớ đàn hặc Nhiếp kiêu căng tự phụ, do đó có chỉ xuống cách chức Nhiếp.
Không ngờ Nhiếp vận động với Đô
sát viện tâu lên nói Nhiếp vô tội. Thanh triều hèn hạ chỉ sai tổng đốc Hồ Quảng
là Quan Văn tra xét vụ này.
Quan Văn giấu kín chuyện Nhiếp,
mật tra về tờ sớ của Lạc tuần phủ. Thế là Văn khui ra cái chuyện Tôn Đường xử
lý mọi việc với tự tích đầy đủ, Văn cho triệu ngay Đường tới Võ Xương và khép
Đường vào trọng tội.
Lạc tuần phủ dâng sớ khiếu nại
không được, bèn viết thư gởi gấp lên kinh cho biên tu Quách Tung Đào, bảo Đào
chạy chọt vận động tại dinh đại thần quân cơ Túc Thuận.
Đào vốn có tình đồng hương với
Tôn Đường, tất nhiên sốt sắng vận động cho Đường thoát nạn. Đào nhờ cả Phiên Tổ
ấm làm hành tẩu Nam thư phòng dâng sớ cứu Đường nữa.
May thay lúc đó Tăng Quốc Phiên
cũng như Hổ Lâm Dực từ ngoài dâng sớ tiến cử Tôn Đường, khen Đường có tài đại
dụng. Cả trong lẫn ngoài, tất cả mọi nơi đều thiết mưu lập kế cứu Đường, nhờ đó
Đường mới được thoát tội về nhà.
Đến lúc Thạch Đạt Khai kéo binh
vào Hồ Nam đánh bại bọn tổng binh Lưu Bội Nguyên, Bành Định Thái, công hãm các
huyện Hưng Ninh, Nghi Chương, Quế Dương, Lạc tuần phủ vốn quý trọng Đường, tái
thỉnh Đường hạ sơn, uỷ thác cho mọi việc quân sự.
Tả Tôn Đường nhận uỷ thác của
Lạc tuân phủ, tức khắc truyền lệnh cho bọn Lưu Tràng Hựu, Giang Trung Nghĩa và
Điền Hưng Thứ kéo quân từ ba ngả về tiếp viện.
Chỉ trong vòng một tháng, quân
binh tề tập đầy đủ được hơn bốn vạn, đào hào đắp luỹ bố trí khắp nơi. Tổng đốc
Quan Văn và Hồ Lâm Dực còn thông tư cho tướng Đô Hưng A điều động quân đội từ
Cát Lâm, Hắc Long Giang trở về Đát Ngạc, đồn trú miền Tưng Nam, đồng thời phái
tri phủ Túc Hãn Khánh thống suất thuỷ sư với ba mươi hai chiếc pháp thuyền khắc
kỳ đại hội tại Tràng Sa.
Hồi đó tướng Thạch Đạt Khai kéo
binh tới đâu là uy hiếp hết hai bên dọc đường, quân của Khai đông đến hai ba
chục vạn, có ý muốn cứ hiểm tự hùng, kéo cờ rạch đôi sơn hà với Hồng Thiên
vương.
Lúc đầu Khai đánh Võ Chương, Kỳ
Dương nhưng mấy thành này kiên cố quá không hạ nổi, đành quay mũi tấn công Bảo
Khánh, lập doanh trại dài tới hơn trăm dặm.
Lưu Tràng Hựu và Điền Hưng Thứ
kéo viện quân lục tục kẻ trước người sau, tới nơi tức thì khai chiến. Nhiều
cuộc ác chiến xảy ra liên tiếp, cả đôi bên đều tử thương tương đương, lâm vào
tình trạng giằng co bất phân thắng bại.
Hồ tuần phủ cho rằng Bảo Khánh
là nơi quan trọng, cần phải có một viên tướng tài thống đốc quân đội mới xong,
do đó, Hồ bèn sai Lý Tục Nghi đem năm ngàn quân đi khắp nơi gọi về tất cả những
đoàn quân tăng viện lẻ tẻ đặt dưới quyền tiết chế duy nhất.
Thạch Đạt Khai vốn kiêng dè oai
danh của Nghi, nên khi nghe Nghi tới, liền tuyển lựa những hạn quân tinh nhuệ
dũng cảm mang đủ ba ngày lương, thề phá cho bằng được Bảo Khánh mới nghe.
Lý Tục Nghi đem hết tốc lực
hành quân, hội thương quân vụ với Lưu Tràng Hựu, dùng kế tránh thực đánh hư để
phá địch. Nghi điều động quân binh theo Bắc lộ tấn công, vượt bến đò Tư Thuỷ
xuất phát về tây đánh bọc hậu doanh trại của Khai.
Thạch Đạt Khai vừa thề quyết
cướp thành, không ngờ bị Nghi đánh thốc vào trại, hoặc cắt ra làm đôi làm ba,
hoặc bao vây khoá chặt, hoặc chọc hông đập sườn, khiến Khai không biết mối đầu
nào mà sờ nữa, cuối cùng đành phải vừa đánh vừa lui.
Quân Thanh lúc này đã chiếm
được thượng phong, bèn hùng hổ truy kích y như một cơn gió lốc thổi mạnh. Khai
quay lại chống cự đôi lần nhưng vẫn không ngăn nổi mũi nhọn của quân Thanh trên
đường truy kích. Một trận đánh quân tóc dài hao một số, hai trận đánh quân tóc
dài lại hao thêm một số Hết lần này qua lần khác, người ta đã thấy quân tóc dài
hao hụt đến vài vạn rồi.
Khai thấy khó lòng đứng chân
nơi đây, vội truyền lệnh cho đoàn quân chuyển hướng về tây nam rút chạy. Quân
tóc dài đã đi xa, đất Hồ Nam hết giặc giải nhiệm.
Lý Tục Nghi quay về Ngạc, Tăng
Quốc Phiên nghe quê hương không việc gì lúc đó mới an lòng.
Bỗng Tăng Quốc Phiên nhận được
mật chỉ của triều đình giục tiến quân vào Tứ Xuyên chặn lối Thạch Đạt Khai.
Phiên chẳng dám trễ lệnh vội huy động quân mã ngược sông tiến lên. Nhưng khi
tới Hồ Bắc, Phiên dò la tin tức tuyệt thiên không nghe Khai tới vùng này. Thì
ra tin mật báo nọ chỉ là tin bậy làm khổ Phiên một phen lật đật vội vàng mà
chẳng có công trạng gì. Mãi về sau Phiên mới được biết Khai không vào Tứ Xuyên
mà chạy về ngả Quảng Tây trốn tránh.
Thái Hồ, Tiêm Sơn hai huyện đã
được Đa Long A tái chiếm và đuổi hết quân tóc dài. A tiến đánh thêm Phượng
Dương, thâu hồi luôn các huyện Thái Bình, Thạch Đại và Kim Luyện.
Tin báo tiệp đưa về như bươm
bướm. Tăng Quốc Phiên vô cùng hào hứng, sắc mừng hiện rõ trên nét mặt của một
nhà nho dày dạn phong sương, quyết một lòng diệt ngoại đạo đuổi lũ quỷ Tây
phương. Phiên thấy quân tình khởi sắc, bèn quyết định tiến đánh An Khánh.
Giữa lúc này, Phiên được tin
người em thứ tư là Tăng Quốc Thuyên đã mộ quân nghĩa dũng từ Hồ Nam tới. Phiên
liền chia quân cho Thuyên, sai xuất binh ra Tập Hiền quan quyết thu phục cho
bằng được An Khánh.
Bỗng một tin động trời truyền
tới doanh Tăng Quốc Phiên: đại doanh Giang Nam của quân Thanh tan vỡ hoàn toàn,
tướng Trương Quốc Lương tử trận, tướng Hoà Xuân rút chạy về Thương Châu mình bị
nhiều vết thương nặng cũng đã chết. Phiên thở dài ảo não, mang thêm một mối lo
buồn nữa.
Nguyên lai Hoà Xuân và Trương
Quốc Lương hợp nhất thành một đại doanh rồi kéo thẳng tới Giang Ninh quyết
chiến với quân tóc dài. Đánh một trận, bọn Lương cướp lại được Mạt Lăng quan.
Đánh trận thứ hai bọn Xuân lại đại phá quân tóc dài ở nhiều nơi như Thất Ung
kiều, Vũ Hoa đài.
Hồng Thiên vương Tú Toàn được
tin cấp báo đại bại, hoảng hồn bạt vía, vội hạ chỉ cho quân tóc dài đóng tại An
Huy chiếm lấy thành huyện Lai An để làm thanh viện cho hai miền nam bắc Đại
Giang.
Hoà đại thần (tức Hoà Xuân)
được tin này liền sai tổng binh Thành Minh hiệp lực với bọn Bát Kỳ đang đêm tập
kích cướp lại thành Lai An. Tình hình Giang Ninh đối với Thái bình Thiên quốc
vẫn bị nguy ngập. Do đó Hồng Thiên vương lại hạ chỉ cho quân tóc dài đóng rải
rác dọc sông xuất binh đi khắp nơi phá quấy. Nhưng quân Thanh đã tiên liệu điều
đó, tìm cách chặn đứng âm mưu phá quấy của quân tóc dài.
Thuỷ sư của Thanh triều cược
huy động ráo riết đi bố phòng khắp nơi, bọn tổng binh Lý Đức Lân, Ngô Toàn Mỹ
chia đều chặn đánh ráo riết.
Hồng Thiên vương được cấp báo
bại trận ở nhiều nơi, quân sĩ tổn thất lên tới hàng ngàn, tức bực đến cùng cực.
Vương truyền lệnh toàn thể quân tóc dài chia hai đầu xông ra hai cửa lớn Thái
Bình và Thần Sách quyết đánh phá đại bản doanh của quân Thanh.
Bọn phó tướng quân Thanh là
Trương Ngọc Lương và Phùng Tử Tài cấp kỳ ứng chiến. Lương và Tài phi ngựa vào
trong trận cướp lá cờ lớn của quân tóc dài chém bay đầu được mấy tên thủ lãnh,
để tỏ rõ thần oai.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét