Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

4 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 56,57,58

HỒI 56

Quá ác thú, Chu Xán mổ người ăn thịt,
Hiếu như trai, Mộc Lan đi lính thay cha.

Từ rằng: 
Hơi đâu mà hỏi đất trời 
Bến mê lối ấy, phải nơi sa trường 
Cù lao đức cả đạo thường 
Dù thân gái dám ngại đường lênh đênh 
Cờ bay, trống giục thình thình 
Đôi bên cân nhắc tử sinh nhẹ nhàng 
Lập công quyết chí viễn phương 
Chớ cười ai đó anh hùng lệ sa 
Can qua vững bước xông pha. 
Theo điệu "Lăng đào sa" 

Binh pháp nói rằng: Việc binh mà kiêu ngạo, thì tất bại vong. Kiêu bao giờ cũng là cậy mình coi thường người, ngạo chỉ còn mỗi mình mà mất hết mọi người, không còn xung quanh lấy ai ra mà chống kẻ địch, làm sao mà không thua. Khi nhà Tùy mất, cát cứ xưng hùng kể có hai ba chục nơi, nhưng cũng đều là phường gian hùng lục lâm. Đến tài cán như Lý Mật lôi kéo được vài chục hào kiệt cũng vì kiêu ngạo mà bại vong, đến lúc chết may còn có người chôn cất. 
Nay hãy nói Từ Mậu Công cùng Tần Vương thống lĩnh binh sĩ, rời khỏi Trường An, đi được mấy ngày, đã tới Tinh Châu. Mậu Công thưa với Tần Vương: 
- Chúng thần lục đục kéo đi trừ Lưu Vũ Chu, chỉ sợ Vương Thế Sung ở phía sau, lỡ có cử động gì, trong lúc cấp thiết khó mà ứng cứu. Thần nhớ Chu Xán gần đây do bị Dương Sĩ Lâm ở Hoài Nam chèn ép, nên cùng khốn về với nhà Đường, thánh thượng phong cho làm Sở Vương, đóng ở Cúc Trạch, điện hạ nên sai người mang thư úy lạo, rồi nói rõ rằng Vương Thế Sung giết vua Tùy, đoạt ngôi vua, xin túc hạ hãy dẫn một đạo quân, vì nhà Đường mà trừ thằng giặc này, rửa mối hận cho thiên hạ, bao nhiêu đất đai của nhà Trịnh, Đường, Sở sẽ cùng hưởng. Chu Xán vốn tham bẩn, sẵn sàng nghe theo. 
Tần Vương đáp: 
- Thằng giặc này thích ăn thịt người, trước thường làm đầy tớ cho Trước tác tả lang Lục Tùng Điển, cùng Thông sự xá nhân Nhan Dân Sở, việc gì cũng làm, hung ác khác thường. Ta từ lâu đã muốn diệt, dẫu có quy phục, nhưng làm sao mà chung sống với chúng được. 
Mậu Công thưa: 
- Thần không nói tới việc đó. Nếu Chu Xán bằng lòng đi, điện hạ sai ba bốn nghìn người ngựa, rao lên rằng giúp Chu Xán đánh Trịnh, đợi Sở - Trịnh dày xéo nhau, ta làm ngư ông ngồi thu lợi. Nếu như không bằng lòng, ta kéo binh đi đánh Chu Xán; xem Thế Sung động tĩnh ra sao, khi thấy có họa ở phía Nam, lại cả phía Bắc nữa, thì sẽ không dám động binh phía Tây. Đó chính là mượn tiếng diệt Ngu để đánh Quắc vậy. Điện hạ thấy thế nào. 
Học sĩ Đoàn Ý thưa: 
- Thần cùng Xán có quen biết, xin để thần cầm thư, nói rõ lợi hại, khích Xán khởi binh, mọi chuyện sẽ xong xuôi. 

Tần Vương băn khoăn: 
- Nghe nói khanh nghiện rượu nặng, chỉ sợ làm lỡ mất việc quân thôi! 
Đoàn Ý thưa: 
- Việc quân trọng đại đâu phải chuyện đùa của trẻ con, thần mà đi thì xin chừa rượu. 
Tần Vương đáp: 
- Có như thế thì ta mới yên lòng. 
Đoàn Ý liền mang thư và lễ vật của Tần Vương lên đường đi Cúc Trạch. 
Thời nhà Tùy, Chu Xán từng làm huyện lại Bạc Châu, vốn là bạn rượu thân thiết của Đoàn Ý, nên nghe tin Đoàn Ý đến, vội chạy như bay ra đón, chia ghế chủ khách mời ngồi. Chu Xán hỏi: 
- Xa nhau đến mấy năm rồi, không biết huynh ông hiện nay ở đâu? 
Đoàn Ý đáp: 
- Đệ làm quan nhà Đường, trộm giữ chức học sĩ. 



Chu Xán hỏi tiếp: 
- Nghe nói Lý Mật bị Vương Thế Sung đánh bại, đem nhiều binh tướng về hàng nhà Đường, chuyện có đúng hay không? 
Đoàn Ý lại đáp: 
- Sao lại không thật, nay binh mã nhà Đường lại có thêm mấy chục vạn, đúng là lúc quốc phú binh cường. Tần Vương thấy Thế Sung giết vua Tùy, tự chiếm ngôi cao, rất bất bình, muốn cùng đại vương thực lòng liên minh, phát binh tiễu trừ lũ nghịch này. Nếu được vàng ngọc vật quý của Thế Sung, xin nhường cả cho đại vương. Còn đất đai dân chúng, thì cả hai cùng hưởng. 
Chu Xán nói: 
- Tần Vương đã có ý tốt như vậy, lại được người quen biết cũ đến bàn, đệ nào dám không vâng mệnh. Ngày mai xin lập tức phát binh diệt Trịnh. Các ngài chỉ cần giúp thêm vài ngàn người ngựa là đủ. 
Sai bày tiệc rượu, rồi hỏi Đoàn Ý: 
- Huynh ông gần đây tửu lượng có lẽ tăng tiến hơn xưa nhiều lắm? 
Đoàn Ý đáp: 
- Đệ đã chừa rượu, không thấy hứng thú như xưa nữa! 
Chu Xán nói: 
- Thuở xưa cùng huynh ông vui chén tràn đêm, nay tri kỷ gặp nhau, lý nào lại không uống. Nếu nói việc công, thì đệ đã vâng lời, nếu nói bạn bè, thì lại càng nên say sưa để còn trò chuyện tâm tình. 
Chu Xán ngồi vào nâng chén, mùi thơm ngây ngất, rượu đầy trước mặt. Đại phàm những người nghiện rượu, cũng như kẻ hiếu sắc, dẫu rằng có xấu như Chung Vô Diệm chăng nữa, nhưng đã thấy trước mặt thì thế nào lửa dục cũng bừng. Nay Đoàn Ý thấy rượu trong chén kia, nước rãi đã chảy chứa chan, liền nâng cốc một hơi cạn, lại cùng trò chuyện rôm rả, chén chú chén anh tiếp mãi. Đoàn Ý quên tịt việc chừa rượu, uống đến mức không nâng nổi chén nữa. Vốn biết Chu Xán thời làm quan với nhà Tùy, nhân Dượng Đế đào hàng nghìn dặm sông, gặp mất mùa liên tiếp mấy năm, cũng đã từng ăn thịt người, nên đến lúc này, mặt mũi đỏ bừng, mắt hằn những tia máu, mọi chuyện đều chẳng coi ra gì. Đoàn Ý cười hỏi Chu Xán: 
- Đại vương dạo trước rất thích ăn thịt người, nay quyền cao chức trọng, có còn ăn nữa không? 
Chu Xán thấy hỏi thế, bừng bừng sát khí, trong lòng thầm chửi: "Đồ chó già, ta dẫu chưa đổi tính xưa đi nữa, trước mặt mọi người, đâu phải chỗ để nói cái xấu của người khác". Bèn đáp: 
- Ta nay chỉ thích ăn thịt kẻ đọc sách thôi, bọn này thịt da đều nhỏ nhắn, mịn màng, so với thịt kẻ khác ngon hơn nhiều. Huống chi thịt kẻ đọc sách mà lại đang say rượu, thì ngon chẳng khác gì nem thịt lợn vậy. 
Đoàn Ý nổi cơn điên khùng: 
- Cái đồ thối tha này, mày chỉ ăn thịt được mấy thằng lính quèn, kẻ đọc sách làm gì đến phần mày? 
Chu Xán quát: 
- Mày bảo tao là đồ thối tha, tao ăn thịt mày thì mày làm gì nổi tao. 
Đoàn Ý thách: 
- Mày dám ăn thịt tao kia à? Cái đầu lừa của mày, không muốn nằm trên cổ nữa sao? 
Chu Xán gọi ngay đao phủ lôi Đoàn Học sĩ ra giết, rồi nấu lên cho y nhắm rượu. 

Đáng thương một vị hàn lâm 
Làm thức nhắm như gà hầm, lợn quay. 

Bọn lính đi theo Đoàn Ý, ngày đêm trốn về thưa với Tần Vương, Tần Vương giận dữ, định đem binh đi Cúc Trạch diệt Chu Xán, báo thù cho Đoàn Ý. Vừa may Lý Tĩnh chinh phạt Lâm Sĩ Hoằng về đi qua Doãn Châu, vừa đem ba nghìn người ngựa quy Đường, biết Tần Vương đóng quân ở đây, liền đem Trương Thiên Tương vào ra mắt Tần Vương. 
Tần Vương vui mừng đem chuyện Chu Xán ăn thịt Đoàn Học sĩ kể tỉ mỉ. Lý Tĩnh hỏi: 
- Bây giờ điện hạ định ra sao? 
Tần Vương đáp: 
- Đối với thằng giặc ác độc như thú dữ vậy, ta thân chinh trừ một phen, để rửa nỗi oan ức cho Đoàn Học sĩ ở tuyền đài. 
Lý Tĩnh thưa: 
- Đồ cầm thú này, không đáng để điện hạ ngự giá thân chinh. Thần nghe nói Tinh Châu đã mất một số huyện. Hội Châu nguy cấp từng ngày từng giờ, xin điện hạ hãy cứ mau tới cứu viện, còn Chu Xán, thần xin cùng Thiên Tương đi một lần, tất là bắt được, rồi sẽ quay về yết kiến điện hạ. 
Tần Vương đáp: 
- Được túc hạ đi cho, ta còn gì lo nữa! 
Liền sai năm sáu viên tướng, lãnh một vạn quân phong Lý Tĩnh làm Chinh Sở đại tướng quân, Thiên Tương làm mã bộ tổng quản, Bạch Hiển Đạo làm tiên phong. Tần Vương phán: 
- Khanh đi lần này nhất định thắng trận, cứ đóng binh ở cửa Hồng Cầu, Hà Nam. Đợi ta chinh phạt Vũ Chu xong, sẽ cùng kéo đến đó cùng đi đánh Thế Sung. 
Lý Tĩnh nhận lệnh, dẫn Thiên Tương từ biệt Tần Vương, lên đường. 

*** 

Lại nói Lưu Vũ Chu, liên kết với Khả hãn Đột Quyết là Yết Bà Na, vốn là em của Khả hãn Thủy Tất, chiếm ngôi của anh tự lập làm Tây Đột Quyết, ở đất phía cực Bắc. Thấy Vũ Chu có lẽ đến cầu thân, hẹn cùng xâm phạm Trung Nguyên, liền chiêu binh mã thêm nữa. Vậy nên mới xảy ra một chuyện khác, về một người con gái kỳ tài. Câu chuyện như sau: 
Người con gái đó họ Hoa, phụ thân tên là Cô, tự Thừa Chi, vốn là người phía Bắc Hà, làm thiên phu trưởng, vợ kế là Vương Thị, người Trung Nguyên, nhân ngoài cổng có trồng một cây mộc lan, chăm bón mấy năm, chẳng chịu ra hoa, đến năm có mang cây bỗng ra rất nhiều hoa, cho nên cha mẹ đặt tên cho con gái là Mộc Lan, sau đó sinh thêm được một con gái nữa, đặt tên là Hựu Lan. Một người con trai là Thiên Lang, hãy còn ẵm ngửa. Hựu Lan kém Mộc Lan bốn tuổi, mặt mày chẳng khác gì chị. 

Mộc Lan sinh ra mày thanh mắt sáng, giọng nói trong trẻo, lúc Thừa Chi chưa có con trai thường cho Mộc Lan ăn mặc như con trai, dạy cho giương cung, tập tên đến năm mười tuổi, cũng không chịu xâu tai, kết tóc, chỉ thích giả làm con trai, học cả binh pháp. Gặp lúc vua Khả hãn Đột Quyết lấy quân, Mộc Lan đã mười bảy tuổi, cao lớn chẳng khác gì một chàng trai. Các nhà ở phương Bắc này, con gái về nữ công cũng không có gì lắm, cung ngựa thì nhà nào cũng có, Mộc Lan thường cưỡi ngựa, ra thảo nguyên rong chơi. Cha mẹ thấy Mộc Lan đã lớn, định gả chồng, nhưng Mộc Lan vẫn chưa chịu nghe. 




Một hôm thấy cha đi đâu về, nói chuyện với mẹ: 
- Đầu mục của Khả hãn Yết Bà Na về gọi lấy lính, tên ta cũng có làm thiên phu trưởng, sợ rằng khó tránh khỏi phải ra đi lần này. 
Viên Thị đáp: 
- Phu quân năm nay đã nhiều tuổi, ra đi thì lấy ai mà coi sóc cửa nhà? 
Thừa Chi tiếp: 
- Ta lại chẳng có đứa con trai nào lớn, để có thể thay tên cho, thì làm sao cho thoát? 
Viên thị hỏi: 
- Liệu có thể kiếm mấy lạng bạc để xin chăng? 
Thừa Chi đáp: 
- Ai cũng dùng tiền bạc để xin, thì lấy đâu ra quân lính. Hơn nữa, nhà mình lấy bạc tiền đâu ra? 
Viên Thị lo lắng: 
- Chẳng nói tới chuyện phu quân tuổi cao sức yếu, làm sao mà phá thành hãm trận, mà ở nhà vợ già con dại, làm thế nào mà sống cho qua ngày? 
Thừa Chi đáp liều: 
- Thôi thì đến lúc nào, hay lúc ấy vậy! 
Mấy ngày sau, quân tư đưa giấy về, gọi Thừa Chi tới điểm danh, Thừa Chi chẳng còn cách nào khác, đành phải vâng theo. Nào ngờ việc quân cần kíp, phát cho đầy đủ lương thảo, hạn trong ba ngày phải lên đường, cả nhà đều mặt ủ mày chau. Mộc Lan trong lòng thầm nghĩ: 
“Thời Chiến Quốc, có chuyện Tôn Vũ thao luyện nữ binh, thế thì rõ là con gái cũng có thể đi lính được. Ta xem trong sử sách, thuở trước có Tiêu Kỳ nữ tướng, thời đầu nhà Tùy có Cẩm Triệt phu nhân, đều được coi là những người tận trung giết giặc đền nợ nước, lập nhiều chiến công lớn. Những người phụ nữ đó, khó mà nói vì không có cha mẹ, gặp phải thời thế như vậy, cũng phải đem thân ra lo việc nhà vua mà bắt buộc phải ra lính, ngược lại được sử sách lưu thơm. Ta nay, cha đã cao tuổi như thế, trên thì chẳng có con trai, dưới cũng chỉ có em nhỏ, nay nếu cha ra đi, lấy ai mà làm chỗ dựa cho gia đình. Chẳng may chết ở sa trường, làm sao mà gửi được nắm xương tàn về quê hương. Chi bằng ta giả dạng nam nhi, thay cha đi lính. Chỉ cần Mộc Lan này cẩn thận ít nhiều, chuyện làm sao mà lộ ra được, rồi khoảng một hai năm sau, còn có ngày trở về quê nhà, báo được ít nhiều công ơn cha mẹ, có phải tốt không. Nhưng chỉ sợ mình cải dạng đàn ông liệu có giống không thôi?”. 

Vội vào trong buồng, lấy mũ áo, trang phục của phụ thân, mặc vào cũng may đôi gót sen đỏ thì đã có đôi giày che kín, tập đi cho hùng dũng, tới bên vại nước, soi thử xem sao, rồi cất tiếng than thở: 
- Thật đáng xấu hổ, trông ra như thế, chẳng phải chỉ thiên phu trưởng, mà dẫu có đóng đến tướng quân cũng được. 
Chính giữa lúc đang soi ngắm bắt chước đàn ông như thế, thì Viên Thị đột nhiên vào thấy, kêu lên ngạc nhiên: 
- Cái con bé này, sao lại ăn mặc như thế? 
Thừa Chi nghe tiếng, vào thấy thế cười: 
- Thế là tại sao? 
Mộc Lan hỏi: 
- Thưa cha, Mộc Lan nay ăn mặc thế này, liệu có thể thay cha đi lính được không? 
Thừa Chi đáp: 
- Hình dáng thế này, sao lại không được. Hôm trước điểm danh, cả hơn ba nghìn người, mấy ai có được hình dáng thế này. Nhưng chỉ tiếc cho con một điều! 
Mới nói đến đây, mắt đã nhỏ lệ. Mộc Lan thấy thế, cũng khóc mà hỏi: 
- Cha tiếc gì cơ? 
Thừa Chi đáp: 
- Chỉ tiếc là con gái, nếu là con trai, thì cha mẹ chẳng có điều gì phải lo, mà may ra còn kiến công lập nghiệp, rạng rỡ ông cha. 
Mộc Lan thưa: 
- Cha mẹ chẳng phải lo lắng, con đã quyết chí, ngày mai con sẽ lên đường đi lính thay cha. 


Thừa Chi cùng Viên Thị đều nói: 
- Con là con gái, nói chi những điều kỳ lạ đó! 
Mộc Lan đáp: 
- Con nghe nhiều người nói, thời buổi loạn ly, rất nhiều phu nhân, công chúa, cải trang tị nạn, mấy ai nhận ra. Con chỉ cẩn thận giữ gìn, thì chẳng ai biết được đâu. 
Viên Thị ôm Mộc Lan mà rằng: 
- Không được đâu con ơi, làm sao lại có chuyện con gái chưa chồng sống giữa chốn thiên quân vạn mã cho được! 


Mộc Lan đáp: 
- Cha mẹ không nên cố chấp, con thì một thân, lại có thể che chở cho các em, lại có thể giữ gìn được cha mẹ, kẻ trung thần hiếu tử đều làm thế cả, có chí thì mọi việc đều nên. Con đi mà chịu khó học hỏi, thì còn hơn bao đàn ông khác nữa kia. Chỉ cần cha mẹ có gan, không nên khóc lóc, xung quanh nghi ngờ con là con gái, không những không nên việc, mà còn xấu hổ nữa. 



Thừa Chi cùng Viên Thị thấy con quyết chí, cả nhà đều sụt sịt, nức nở, cũng không biết quyết đoán ra sao. 
Sáng hôm sau, mặt trời đỏ ối đường đông, thấy ngoài cửa gõ rất gấp rồi có tiếng người gọi: 
- Hoa Thừa Chi, chúng ta đi thôi! 
Thừa Chi mở cửa, ba bốn người cùng đội ngũ đang định nói gì, Mộc Lan đóng giả rất là gọn ghẽ, vội vã đỡ lời Thừa Chi: 
- Cha cháu đã nhiều tuổi, cháu nguyện đi thay. 
Bọn này thấy thế cười: 
- Thừa Chi huynh ông, chúng tôi không ngờ ông có con trai lớn thế này, thật ra dáng trượng phu. 
Thừa Chi thấy vậy, chỉ đành yên lặng, rồi nghẹn ngào đáp: 
- Đúng thế! 
Bọn này nói tiếp: 
- Có được con trai như thế này, đúng là nên thay cho cha già, với một đao thương trong tay, sẽ trở thành quan tướng trở về, nhà huynh ông tha hồ vẻ vang. 
Mộc Lan ngăn không cho cha đi tiễn, từ biệt cha mẹ, chỉ dặn: 
- Xin cha mẹ giữ gìn, chăm sóc các em, con đi đây! 
Lưng đeo tay nải, tay cầm giáo dài, quất roi một cái, đã ra khỏi cửa. Thừa Chi chỉ đành nhịn lời gạt nước mắt, dù muốn tiễn Mộc Lan đến quân doanh, nhưng thấy con nhất định không cho, nên đành phải quay về. Hàng xóm nhiều người biết chuyện, phần lớn đều trách vợ chồng Thừa Chi: 
- Cả hai vợ chồng, chẳng hiểu tại sao để cho con gái đi vào con đường ấy rồi còn núi cao vực thẳm, làm thế nào cho yên? 
Cũng có một ít người, phần đông là phụ nữ, thì lại bàn tán: 
- Thật là một cô gái có chí, nghĩ không thể ai thay mình tìm người chồng vừa ý, nên tự đi vào chỗ hàng nghìn hàng vạn người, tìm lấy một kẻ xứng đáng, chẳng dại dột gì đâu! 
Thừa Chi chẳng biết nói ra sao, chỉ đành coi như không nghe, trong lòng ngày đêm như dao cắt. Mộc Lan ra đi được khoảng một năm, Thừa Chi đã ốm đau rồi qua đời. Thương thay! Vợ Viên Thị, con gái con trai đều còn nhỏ, chẳng có cách gì sinh sống, đành phải cải giá, lấy một người họ Ngụy, cùng làng, nhưng đó là chuyện sau này. 

*** 

Nay hãy nói Tần Vương cùng Mậu Công, dẫn binh cùng Lưu Vũ Chu giao chiến, đã lấy lại được năm sáu quận huyện, hiện đã đến mãi Bách Bích quan. Thúc Bảo cùng Uất Trì Cung quyết đấu bốn năm trận, bất phân thắng bại. Tống Kim Cương thấy Uất Trì Cung không thắng nổi Thúc Bảo, trong lòng nghi hoặc, sai người đốc chiến. Uất Trì Cung tức giận liền thách Thúc Bảo ra ngoài cửa quan, đánh nhau mấy trăm hiệp, nhưng cũng không làm gì được. Tần Vương trước trận thấy thế, rất phục tài Thúc Bảo, nhưng cũng thấy hâm mộ tài năng của Uất Trì Cung. 

Trời đã chiều, sợ có gì sơ xuất, Tần Vương ra lệnh đánh chiêng thu quân, hai tướng cùng về bản trận. Thúc Bảo nóng lòng không thể chịu nổi, nào đã chịu nghỉ, gọi quân lính, đốt đuốc thật nhiều, đánh nhau ban đêm. Tần Vương không cho, Thúc Bảo cũng không chịu. Chỉ thấy trong trận họ Lưu, một tiếng pháo lớn nổi đèn đuốc sáng như ban ngày, Uất Trì Cung đứng trước trận lớn tiếng: 
- Mau ra đây quyết chiến! 
Thúc Bảo nghe ra, cười: 
- Thằng giặc Hung nô này cũng nghĩ như ta! 
Lập tức thay ngựa khác, ra trước trận nói với Uất Trì Cung: 
- Ta đêm nay không giết được ngươi, thề không về trại. 
Uất Trì Cung đáp: 
- Ta đêm nay không bửa được đầu ngươi, cũng không về trại. 
Cả hai phấn chấn tinh thần, đem hết tài năng, chẳng ai chịu thua ai, Uất Trì Cung cười nói: 
- Đồ chết toi! Ta với ngươi võ nghệ đều đã biết nhau rồi, ngươi giờ có dám cùng ta đấu riêng lực thôi không? 
Thúc Bảo hỏi: 
- Thế nào là đấu lực? 
Uất Trì Cung đáp: 
- Ngày xưa Mạnh Bôn Hạ Dục, có sức bẻ gãy sừng trâu, Ngũ Tư nâng được đỉnh lớn, Hạng Vũ có thể bạt núi. Ta cùng ngươi, đều là những kẻ đàng hoàng, không thèm làm chuyện mờ ám, nhưng nếu bắt chước người xưa thì không đủ lạ. Nay ngươi hãy thử để ta quất mấy roi, ta cũng để ngươi đánh mấy giản, xem ai yếu ai khỏe, như thế gọi là đấu sức đấy! 
Thúc Bảo nói: 
- Ngươi là người lớn hẳn hoi, sao lại đi nói những chuyện con nít thế. Trâu là đồ súc vật, đỉnh là loại kim khí, núi là loại khoáng chất, đều là những vật vô tri cả. Con người ta da thịt là của cha mẹ để lại cho, không nói chuyện sống chết, thì sao lại có thể tự hủy hoại, cam chịu đao thương. Nếu chẳng có điều gì khác thường, thì phải tìm cách dương danh hậu thế, sao lại đi làm cái việc này. Ta không nghe đâu! 
Uất Trì Cung thầm nghĩ: "Thằng giặc già này nói đúng, chỉ một roi thôi đủ chết, mà dẫu không chết nữa, cũng thành người tàn tật suốt đời. Liếc mắt nhìn phía bên có hai khối đá xám lớn, nặng khoảng hai nghìn cân, bèn nói với Thúc Bảo: 
- Khối đá thế này đây. Ta với ngươi thi, cả hai dùng khí giới mà chém, ai chém vỡ nhỏ hơn thì thắng! 
Thúc Bảo hỏi: 
- Khí giới của ngươi nặng bao nhiêu? 
Uất Trì Cung đáp: 
- Cái roi này của ta nặng một trăm hai mươi cân! 
Thúc Bảo nói: 
- Giản của ta mỗi cây chỉ nặng có sáu mươi cân, cả hai cây cộng lại vẫn còn thua roi của ngươi mấy cân. 
Uất Trì Cung nói: 
- Ta chém bằng giản của ngươi, ngươi chém bằng roi của ta, cả hai đổi cho nhau. Nếu như ngươi thua, ngươi theo hàng về Định Dương. Ta mà thua, ta sẽ hàng nhà Đường. Chỉ chém ba lần, xem ai yếu ai mạnh! 
Thúc Bảo đáp: 
- Thế cũng được! 
Cả hai xuống ngựa, Uất Trì Cung cởi chiến bào ra, đưa roi cho Thúc Bảo, Thúc Bảo cũng đưa đôi giản cho Uất Trì Cung. Uất Trì Cung nghiến răng trợn mắt, dùng toàn lực mà chém, mặt đá vẫn không một vết rạn, chém một lần nữa, chỉ thấy những rãnh sâu khoảng hai ba thốn. Uất Trì Cung trong lòng hoảng sợ, lần thứ ba lấy hết sức bình sinh, chém xuống, nghe choang một tiếng, viên đá đã vỡ, hóa làm hai mảnh. Uất Trì Cung cười nói: 
- Thấy chưa? Nay đến lượt ngươi! 
Thúc Bảo cũng cởi chiến bào ra, nhìn hòn đá xám, rồi ngửa mặt nhìn trời, thầm khấn:
- Trời xanh trên đầu! Ta là Tần Quỳnh, nay cùng gã giặc Hung nô này cùng thi. Nhờ hồng phúc của thiên tử nhà Đường, Tần Vương có thể nhất thống được thiên hạ, Tần Quỳnh nay có thể kiến công lập nghiệp, thì chẳng cần đến ba lần, viên đá này phải vỡ. 
Rồi giơ hai tay cao, tận lực giáng xuống, hòn đá đã có vết, chém một lần nữa, hòn đá đã chia hai. Thúc Bảo cười: 
- Thấy chưa? Đá còn như thế, nếu là người thì thịt bỗng một khắc hóa bùn. Ngươi ba lần, ta chỉ có hai. Thế là ngươi thua rồi! 
Uất Trì Cung đáp: 
- Khí giới của ta nặng, của ngươi nhẹ hơn! 
Cả hai đương còn tranh luận, thấy năm sáu tên lính, khiêng một hũ rượu, một mâm thịt bò, quỳ trước mặt mà thưa: 
- Điện hạ sợ hai vị tướng quân dùng sức thái quá, sai chúng tôi mang những thứ này tiếp thêm sức thần. 
Uất Trì Cung thấy thế, bèn nói: 
- Ai thèm ăn của chúng bay, hãy đánh nhau tiếp cho xong đã. 
Hai người lại đổi trả binh khí cho nhau, lên ngựa, thì nghe ở phía quân nhà Đường, nổi chiêng thu quân, Thúc Bảo đành quay ngựa về trại. Uất Trì Cung cũng quay về. Đó chính là chuyện Tần Thúc Bảo cùng Uất Trì Kính Đức ba giản đổi lấy hai roi vẫn được, truyền tụng lâu nay, đúng như chuyện thời Tam Quốc, Lưu Tiên chủ với Ngô Tôn Quyền thử kiếm chém đá vậy. Sau này, có người để cho tai mắt người khác thêm sợ hãi, nên nói ra, chuyện Thúc Bảo chịu đánh ba giản, Uất Trì Cung giơ đầu chịu hai roi, đều là chuyện sai ngoa vậy. 

Nay không nói chuyện Thúc Bảo về trại, hãy nói chuyện Uất Trì Cung, vì có đứa tiểu hiệu cao hứng, đem việc thi trước trận, nói cho Tống Kim Cương nghe. Kim Cương nổi giận nói: 
- Đánh nhau sống chết, sao lại có chuyện uống rượu như là chuyện đùa vậy, rồi lời ra tiếng vào để tiết lộ cả việc quân. 
Liền thưa với Lưu Vũ Chu, Vũ Chu nổi giận, vội gọi ngay tả hữu: 
- Hãy chém ngay đầu Uất Trì Cung rồi báo ta biết! 

Các tướng khổ công khuyên giải, Vũ Chu sai tìm ngay tướng khác giữ cửa quan, còn điều Uất Trì Cung đi Giới Hưu coi lương thảo. Mậu Công biết tin trong lòng mừng rỡ. Lại nghe tiêu mã về báo rằng: Khả hãn Yết Bà Na khởi binh giúp Vũ Chu. Mậu Công liền ghé tai nói nhỏ với Tần Vương mấy câu. Tần Vương liền sai tổng quản Lưu Vũ Nhượng, đem theo vàng ngọc đến quân doanh của Khả hãn Yết Bà Na, dùng kế giữ cánh quân này lại. Mậu Công lại điểm quân tướng đánh Bách Bích quan. 
Tướng giữ cửa quan nay là Tầm Tương, từ lâu đã có lòng về nhà Đường, nay thấy quân Đường nhiều, tướng Đường giỏi, liệu cửa quan chẳng thể nào giữ nổi, nên mở cửa ra hàng. Bọn quân sĩ thuộc Lý Mật ngày trước nay cũng muốn lập ít nhiều công trạng, nên ai nấy đều gắng sức, định kéo thẳng tới trại quân của Tống Kim Cương, mười trại thì cướp được tám, chỉ còn lại khoảng hai ba nghìn người ngựa, Vũ Chu kinh sợ, đành phải chuyển quân về phía Bắc. Mậu Công biết rõ Kính Đức phải sai đi coi giữ lương thảo ở Giới Hưu, liền sai Sĩ Tín cùng Vương Bộ, nhận kế đến Giới Hưu trước, còn Mậu Công cùng Tần Vương với đại quân từ từ theo sau. 

*** 

Lại nói Uất Trì Cung, được tha không giết, lòng hổ thẹn, tức tối, dẫn một đội người ngựa, rời khỏi Bách Bích quan, đi về Giới Hưu. Đến An Phong, thấy có một toán phu dịch tải lương thực tới, Kính Đức đứng ra xem xét, thấy có ba nghìn thạch, cỏ có hơn một vạn bó, trên xe đều cắm cờ hiệu nhỏ màu vàng. Trời đã gần tối, liền lệnh cho quân sĩ áp tái lương thảo lại một nơi, kết thành trại tạm qua đêm. Uất Trì Cung không dám cởi áo giáp, ngồi ở giữa trại, bỗng nghe bên ngoài huyên náo, quân lính thưa: 
- Có giặc tới cướp trại! 
Uất Trì Cung vội cầm roi lên ngựa, được khoảng hai ba dặm, một tiếng pháo nổ, tiếng la hét rầm trời. Uất Trì Cung trông ra, trời sáng trăng mờ mờ, đi đầu là một viên tướng. Uất Trì Cung quát hỏi: 
- Ngươi từ đâu đến? 
Viên tướng đáp: 
- Ta là đại tướng Vương Bộ, dưới trướng Từ Nguyên soái nhà Đường! Vâng lệnh nguyên soái, tới đây mượn nhà ngươi ít lương thảo. 
Uất Trì Cung lại quát: 
- Thằng giặc già! Mày không nhận ra ta sao? 
Vương Bộ cười đáp: 
- Già này làm sao mà nhận ra thằng giặc đánh không chết kia! 
Uất Trì Cung nổi giận, giơ roi xông vào, cứ mặt mà chém xuống. Vương Bộ giơ thương lên đỡ, hai người một qua một lại, đến năm sáu chục hiệp Vương Bộ không đánh nổi, bỏ chạy. Uất Trì Cung đuổi sát, bên tai nghe tiếng hò hét rầm trời, quay đầu nhìn lại, thì thấy lửa cháy rực trời. Uất Trì Cung bỏ Vương Bộ, quay ngựa lại, vẫn nghe tiếng nổ liên tiếp, chẳng mấy chốc, xe lớn xe nhỏ, cỏ to, cỏ bé cùng với ba nghìn thạch lương, bị quân nhà Đường đốt trụi. Thì ra bọn đốt lương thảo chính là cánh quân Sĩ Tín. Vương Bộ thì lừa cho Uất Trì Cung đi xa, Sĩ Tín tiến lại đốt sạch, Kính Đức thấy thế, lòng càng phiền muộn, lại sợ Vương Bộ chiếm mất thành Giới Hưu, liền phi như bay về, gặp phải quân Vương Bộ cùng Sĩ Tín, đánh nhau lần nữa, nhưng cả hai không đương nổi, đành để Uất Trì Cung về Giới Hưu, chờ đại binh của Tần Vương đến, vây kín thành Giới Hưu. 
Tần Vương sai Tầm Tương vào thành dụ hàng. Uất Trì Cung nói: 
- Muốn ta hàng Đường, phải chờ xem Lưu Vũ Chu thế nào đã, nếu chết, ta mới đi thờ người khác. Còn bức bách quá, thì chỉ đánh nhau đến chết mà thôi! 
Tầm Tương không cách nào khác, ra khỏi thành đem chuyện thưa lại Tần Vương. Tần Vương trong lòng phiền muộn, bỗng nghe tin báo tổng quản Lưu Thế Nhượng đã trở về. Tần Vương cả mừng, gọi vào. 
Thế Nhượng đưa trình thủ cấp Vũ Chu cùng Kim Cương. Tần Vương vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng: 
- Hai cái này ở đâu ra? 
Thế Nhượng thưa: 
- Thần vâng mệnh ra đi, qua Tinh Châu, giữa đường gặp Khả hãn Yết Bà Na, đang đóng quân dưới chân núi Vạn Phong. Thần dò được hư thực, liền vào trong doanh gặp, đưa thư cùng lễ vật trình, nói: "Vua Đường cần phải đi đánh nhà Trịnh, để hỏi tội giết vua Tùy ngày trước nên đến đây nói với đại quốc, phát binh cùng đánh". Yết Bà Na rất mừng mà rằng: "Ta đang giận Lưu Vũ Chu, nhờ ta phát binh cùng đánh nhà Đường, không ngờ Vũ Chu đi trước, bao nhiêu quận huyện chiếm được, biết mấy là ngọc ngà cùng gái đẹp đều bị Vũ Chu lấy hết, nay lại khẩn khoản nhờ ta cứu viện. Nay vua Đường nhà ngươi đem lễ vật đến để kết giao, ta sẽ phát binh cùng hội họp, trước tiên là hỏi tội Vũ Chu, sau là cùng các ngươi đánh Thế Sung cũng tiện". Việc thật là vừa vặn, thần ở trong trại của Yết Bà Na, chưa được hai ngày, thì nghe tin Vũ Chu cùng Kim Cương bị quân ta đánh bại, thế cùng lực tận, về theo Yết Bà Na. Yết Bà Na nổi giận, dùng kế giết cả hai, gọi thần đem thủ cấp về biếu triều đình. 
Tần Vương nghe thế, vỗ tay: 
- Rõ là trời giúp ta thành công vậy? 
Lập tức thưởng cho Thế Nhượng rất hậu. Lại sai Tầm Tương đem hai thủ cấp Vũ Chu, Kim Cương vào thành Giới Hưu cho Uất Trì Cung xem, để khuyên Uất Trì Cung hàng nhà Đường. Tầm Tương vâng mệnh. Uất Trì Cung thấy hai thủ cấp, nhận ra là đúng rồi, bèn khóc rống, rồi làm lễ tế cẩn thận, lấy quan tài khâm liệm, chôn cất tử tế, rồi mở thành hàng nhà Đường. Tần Vương thấy thế, kính yêu Uất Trì Cung như khách, lập tức viết tấu chương báo tin thắng trận về triều. 
Vua Đường cả mừng, liền ban cho Uất Trì Cung làm Tả phủ thống tướng quân, thăng Lưu Thế Nhượng làm thái thú Tinh Châu, tả hữu còn lại, đều được thăng thường. 
Chính là : 

Nước cạn mà núi chưa cùng 
Đá vỡ mới thấy ngọc trong sáng ngời!


HỒI 57

Đổi lời thư, Đậu công chúa từ hôn,
Cắt vạt áo Đơn Hùng Tín đoạn nghĩa

Thơ rằng: 
Y, Lạc kinh thành nước chảy reo (1) 
Tùy triều dượng khí chẳng bao nhiêu 
Búa rìu mới xếp, can qua đấy 
Son sắt vừa thề, thoán đoạn theo 
Ếch giếng nhìn nam, vua Trịnh ngáp 
Kiến đàn kéo bắc, lính Đường reo 
Thịnh suy chớp mắt, chòm mây nổi 
Gò nấm mang Sơn, nguyệt hắt hiu. 
1 Y, Lạc: Hai con sông chảy quanh kinh đô Lạc Dương của nhà Tùy. 


*** 

Nay lại nói chuyện Yết Bà Na giết Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương, giao hai thủ cấp cho Lưu Thế Nhượng mang đi. Tần Vương hứa với Yết Bà Na cùng kéo binh đánh Trịnh, nên nhổ trại kéo về Hà Nam. Nhân thấy Hoa Mộc Lan tướng mạo khôi ngô, cử chỉ linh lợi, liền thăng cho làm Hậu đội mã quân đầu lĩnh. Mấy nghìn người ngựa, kéo đến vùng Diêm Cương, bỗng thấy nhốn nháo trước núi, một đội người ngựa xông ra. Yết Bà Na thấy thế, liền sai tướng lên lớn tiếng hỏi: 
- Các ngươi là ai ở đâu tới? 
Một viên tướng trả lời: 
- Ta là đại tướng Phạm Nguyện, dưới trướng Hạ Vương Đậu Kiến Đức. 
Thì ra công chúa Đậu Tuyến Nương, muốn đến miếu Tây Nhạc ở Hoa Sơn để dâng hương, nên Kiến Đức sai Phạm Nguyện lãnh binh hộ giá, lúc này đã dâng hương xong, quay về gặp toán người ngựa của Yết Bà Na. Phạm Nguyện thấy thế, liền hỏi: 
- Các ngươi ở Tây Đột Quyết, đến Trung Quốc chúng ta có việc gì? 
Khả hãn đáp: 
- Vua Đường mời ta cùng đi đánh Trịnh. 
Phạm Nguyện cả giận: 
- Đường cùng Trịnh đều là thần tử của nhà Tùy, còn các ngươi đều là bọn giặc giết chẳng bao giờ hết ở phía bắc, thì hãy lo giữ lấy cương giới, sao lại dám đem quân giúp kẻ khác đánh nhau? 
Khả hãn cũng không vừa: 

- Thằng vua của các ngươi là một đứa bán muối lậu, lôi kéo được bọn giặc cướp các ngươi, thử hỏi làm gì nên chuyện mà khua môi múa mép? 
Binh lính của Phạm Nguyện, quả đã từng là giặc cướp, nghe Khả hãn nhắc đến tội cũ, đứa nào đứa ấy nghiến răng trợn mắt, cứ xông vào đám lính Khả hãn mà đâm chém, nên bọn này chỉ còn cách tìm đường chạy trốn. 

Khả hãn trong lúc nguy cấp, may kịp có hậu đội của Hoa Mộc Lan đến kịp. Mộc Lan dẫn sĩ tốt vào giữa trận, cứu được Khả hãn, tập hợp người ngựa, lệnh cho toán quân bản bộ của mình, hạ ngay xuyên vân pháo trên lưng xuống, nhất tề nổ một loạt. Phạm Nguyện thấy pháo lợi hại, lập tức rút lui, Mộc Lan dẫn quân đuổi theo, không kịp nhận ra vô số nữ binh, tay cầm mộc, tay cầm kiếm, người ngựa như dưới đất chui lên, như hoa rơi, như lá rụng, như ong bay, như bướm lượn. Mộc Lan vội lệnh cho quân sĩ rút lui, nhưng đội nữ binh đã đến ngay trước ngựa. Mộc Lan ngồi trên ngựa, bị ngay một nữ binh tới chém, giữa lúc nghiêng ngửa thì lại bị lính nhà Hạ dùng câu liêm, kéo xuống ngựa. Một đại tướng cao lớn tới cứu, nhưng nghe tiếng dây cung, một viên kim hoàn đạn, bắn trúng ngay yểm tâm kính của viên tướng vỡ nát, trong lúc vội vàng, nghiêng người xuống tránh, cũng bị quân Hạ bắt trói lại nốt. Quân Bắc bị mất hai tướng, liền quay ngựa bỏ chạy. 
Đậu Tuyến Nương cho dẫn Mộc Lan cùng viên tướng kia đến. Lúc này trời đã về tây, tiền đội đã đóng trại, Tuyến Nương cũng ra lệnh dừng ngựa, tất cả nổi lửa, nấu ăn. Tuyến Nương nghĩ: "Hai tên tù Hung nô mới bắt được, giữ lại trại này có lẽ không yên?". Liền gọi thủ hạ, giải vào trướng. Nữ binh vâng lệnh, giải cả hai vào. Một nữ binh thấy Mộc Lan có vẻ tuấn tú, liền lấy làm thương hại, khuyên rằng: 
- Công chúa ta quân pháp rất nghiêm, hãy đối đáp cho cẩn thận. 
Mộc Lan như không nghe thấy, lặng lẽ bước theo vào trướng, Công chúa ngồi trên cao, nữ binh quát: 
- Hai tên tù quỳ xuống! 

Người tù kia vẫn đứng, quắc mắt nhìn, Tuyến Nương nhìn Mộc Lan rồi hỏi: 
- Ngươi trông mặt mày sáng sủa, tên họ là gì, xem tướng mạo đường đường, tất không chịu làm kẻ dưới mãi. Nếu ngươi chịu hàng phụ hoàng, ta sẽ cho ngươi làm gia tướng. 

Mộc Lan đáp: 
- Hàng thì hàng thôi, nhưng cha mẹ ta đều ở phương bắc, hãy thả cho ta về.thu xếp gia quyến yên ổn, ta sẽ quay lại tận lực, tận tâm thờ chủ mới. 
Tuyến Nương giận dữ quát: 
- Phường thối tha, ngươi hàng thì hàng, không hàng thì chém đầu hà tất phải múa lưỡi. 
Mộc Lan tiếp: 
- Ta hàng công chúa, công chúa là đàn bà con gái, thì cũng chẳng lấy gì làm nhục. Còn nếu công chúa định giết ta, ta cũng là con gái, chẳng lấy đó làm vinh được đâu! 
Tuyến Nương nói: 
- Khó mà bảo ngươi là đàn ông hay đàn bà! 
Mộc Lan đáp: 
- Đúng như thế! 
Công chúa bèn sai bọn nữ binh: 
- Hai người hãy dẫn tên tù này ra phía sau khám nghiệm xem sao! 
Hai nữ binh kéo Mộc Lan vào phía sau, Tuyến Nương hỏi tiếp người tù kia: 
- Ngươi có điều gì hãy khai ra? 
Người này đáp: 
- Có công chúa ở trên, ta không phải con gái, mà là đàn ông, các người chẳng dung nổi ta đâu. Nếu công chúa thả ta ra, hoặc giả sau này gặp lại, ta sẽ báo ơn thật xứng đáng. 
Công chúa nghe nói thế, nổi giận: 
- Thằng giặc Hung nô này ăn nói hồ đồ thật, hãy đem ra chém quách cho ta! 
Năm sáu nữ binh túm lại, kéo người này đi, người này gào lớn: 
- Lão Tề này dẫu có bị giết cũng chẳng sợ, chỉ ân hận là phụ mất sự ủy thác của La tiểu tướng, chẳng được cùng Tôn An Tổ gặp nhau. 
Công chúa nghe nói thế, liền gọi ngay lại, hỏi: 
- Vừa rồi ngươi nói gì? 
Người này đáp: 
- Ta không nói gì cả! 
Công chúa vặn: 
- Ta vừa nghe rõ ràng, là "chẳng được cùng Tôn An Tổ gặp nhau” là gì? Lại còn "phụ mất sự ủy thác của La tiểu tướng" nào nữa? 
Người này lại đáp: 
- Tôn An Tổ thì chỉ có một, hiện đang làm tướng cho phụ hoàng công chúa. Ngoài ra còn có người nào nữa đâu? 
Tuyến Nương liền sai cởi trói, ban cho ngồi, hỏi: 
- Túc hạ tên họ là gì? Quen biết ra sao với Tôn Tư mã chúng tôi? 
Người này đáp: 
- Tiểu nhân họ Tề, hiệu Quốc Viễn, người Sơn Tây, cùng với phụ hoàng công chúa cũng có quen biết, còn với Tôn Tư mã vốn là bạn thân, năm ngoái có nhận được thư của Tôn Tư mã, mời hai anh em chúng tôi tới cùng làm tướng, vì tiểu nhân có việc nên chưa đến được. 
Thì ra Tề Quốc Viễn cùng Lý Như Khuê, nhân chuyện Lý Mật giết Địch Nhượng, bèn bỏ đi tìm Sài Tự Xương, gặp ngay lúc Lý Uyên khởi sự, Tự Xương bèn lưu hai người lại, làm Hộ quân hiệu vệ Đoàn huyện sứ. Tự Xương lại đem theo cả hai, đi đánh chiếm được khá nhiều quận huyện cho nhà Đường. Tự Xương tâu lên vua Đường, vua Đường phong cho làm Hộ quân hiệu úy, đóng quân ở Ngạc Huyện. Nhân ngày lễ ngũ tuần của U Châu thứ sử Trương Công Cẩn, vốn là bạn "bát bái chi giao" của Tự Xương, nên mới phiền Quốc Viễn đi một chuyến. Lại gặp công tử La Thành, con trai tổng quản U Châu La Nghệ, hay tới dinh thứ sử Trương Công Cẩn chơi, biết Quốc Viễn quen thân với Thúc Bảo, Hùng Tín, nên mới viết thư, nhờ Quốc Viễn gửi cho Thúc Bảo. Tuyến Nương nghe kể thế liền nói: 
- Nếu túc hạ là bạn thân với Tôn Tư mã chúng tôi, lại có quen biết phụ hoàng, ở chỗ chúng tôi hiện đang thiếu nhiều nhân tài, để ta về tâu với phụ hoàng, mời túc hạ cùng giúp một tay là hay hơn cả. Nhưng vừa rồi túc hạ còn nhắc tới cả La tiểu tướng nữa là ai thế? 
Quốc Viễn đáp: 
- Đó là con trai tổng quản U Châu La Nghệ, La công tử cùng với Tần Thúc Bảo ở Sơn Đông vốn là anh em con cô con cậu, La Thành có chuyện nhân duyên khó khăn nào đó, nên muốn nhờ Thúc Bảo nói với Hùng Tín dàn xếp hộ cho, nên mới nhờ tiểu nhân đi gặp. Không ngờ giữa đường gặp Yết Bà Na bị Khả hãn lôi kéo, trang bị giáp trụ, cho nên mới tham gia vào vụ vừa rồi. 
Tuyết Nương nghĩ ngợi một hồi rồi nói: 
- Không thể có chuyện thế được, chẳng thể vì chuyện nhân duyên của riêng mình, mà bắt bạn bè đi hàng nghìn dặm như thế. 
Quốc Viễn đáp: 
- Họ Tề này cả đời chưa từng nói dối bao giờ, hiện còn giữ thư của La tiểu tướng kia!
Rồi đứng dậy, cởi chiến bào, trước ngực lấy ra một cái túi nhỏ, bên ngoài gói bằng giấy dầu, bên trong là thư, đưa cho Tuyến Nương. 
Tuyến Nương sai tả hữu lấy xem kỹ, bao ngoài bằng giấy hồng, trên viết hai .hàng chữ lớn: "Họ La ở Soái phủ U Châu, gửi cho Tần Tướng quân, tự Thúc Bảo ở Tế Châu, Sơn Đông”. Tuyến Nương liền cầm thư giắt vào hài, rồi gọi tả hữu: 
- Lính canh bên ngoài vào đây! 
Bốn lính canh bên ngoài có mặt. Tuyến Nương sai: 
- Các ngươi đốt đèn, đưa Tề đại nhân đây đến trại Phạm soái phụ, nói rằng theo lệnh ta, hãy tiếp đãi đại nhân cẩn thận, không được coi thường. 
Lại nói với Quốc Viễn: 
- Thư của La tiểu tướng, ta tạm giữ ở đây, đợi lúc nào túc hạ đã gặp Tôn Tư mã rồi, sẽ hoàn lại. 
Quốc Viễn cũng chẳng còn cách nào khác, đành theo lính canh đến chỗ Phạm Nguyện. 
Tuyến Nương thấy Quốc Viễn đã đi khỏi, đang định đứng dậy, một nữ binh vào quỳ thưa: 
- Gã mặt trắng vừa rồi đã khám nghiệm chu đáo: đúng là con gái, không phải nói bậy.
Tuyến Nương lệnh: 
- Dẫn vào trong này! 
Ngồi xuống, Tuyến Nương hỏi: 
- Nếu ngươi là con gái, tên họ là gì? Làm sao lại tòng quân, hãy khai cho thực. 
Mộc Lan khóc, thưa: 
- Thiếp họ Hoa, tên Mộc Lan, vì phụ thân tuổi cao, lại không có anh trai, dưới chỉ còn mấy em vừa nhỏ vừa yếu, phụ thân đi lính, thì chẳng còn ai coi sóc việc nhà. Thiếp nghĩ rằng đàn ông làm được việc trung thần hiếu tử, thì đàn bà cũng làm được. Vì thế thiếp giả trang đi lính theo lệnh vua thay cho thân phụ, dẫu trong quân chẳng ai biết, nhưng lòng cũng lấy làm hổ thẹn, xin công chúa lượng tình tha lỗi. 
Nói xong không ngăn nổi hai hàng nước mắt tuôn ra như suối. 
Tuyến Nương thấy thế, cũng cảm động mà rằng: 
- Nếu thế thì rõ ràng là bậc hiếu nữ, không ngờ đất Bắc là nơi ngược ngạo, phóng túng, mà lại sinh ra được bậc nhi nữ đại hiếu như vậy Thật là rạng vẻ anh thư, ta cũng thật lòng kính ái? 
Tuyến Nương lấy lễ chủ khách ra đãi, Mộc Lan từ tốn không dám. 
- Công chúa vốn cành vàng lá ngọc, thiếp là phận áo vải thô, ngu muội, may được rộng tha, đã thật không ngờ, đâu dám cùng ngồi hàng với công chúa. 
Tuyến Nương thở dài: 
- Danh tước là cái dễ kiếm, thuần hiếu mới là sự khó. Ta cũng giận là thân con gái, không thể cùng mặt trời, mặt trăng tỏa sáng, không ngờ ngươi cũng có lòng như vậy. Nay ta đang thiếu một người bạn trong thuê phòng, cũng muốn kết chị em với ngươi, vinh nhục cùng hưởng, liệu có nên chăng? 
Mộc Lan đáp: 
- Điều này thì thật thiếp không dám nhận? 
Tuyến Nương nói: 
- Ý ta đã quyết. Ngươi chẳng nên quá khiêm nhường. Không biết tuổi tác ra sao đây?
Mộc Lan thưa: 
- Kẻ hèn này mười bảy tuổi! 
Tuyến Nương tiếp: 
- Ta hơn ba tuổi, thôi đành ngồi ghế trên vậy! 
Cả hai cùng lạy trời đất bốn lạy, rồi quay mặt lại, cùng lạy nhau bốn lạy nữa. Vì ở trong quân chẳng có gì để bày tiệc dọn yến, đành phải ăn cơm tối, rồi Tuyến Nương đưa Mộc Lan vào trong trướng cùng nghỉ, Tuyến Nương hỏi: 
- Hiền muội đã lấy chồng chưa? 
Mộc Lan lắc đầu: 
- Ở nơi hoang dã góc trời, thực chẳng có ai. Thiếp tuy được hiền thư giờ yêu quý thế này, nhưng mai kia về, còn có phò mã nữa, rồi không biết hiền thư để thiếp vào đâu? 
Tuyến Nương nghe thế, hai hàng lông mày chau lại, yên lặng không nói, Mộc Lan hỏi:
- Hiền thư đã quá tuổi đào non, mà vẫn chưa chịu kén khách đông sàng, sợ rằng quá tuổi hảo cầu chăng? (l) 
1 Bài "Quan thư" trong "Kinh Thi": Yểu điệu thục nữ; Quân tử hảo cầu. (Khách thục nữ yểu điệu, Đẹp đôi cùng người quân tử). 
Tuyến Nương đáp: 
- Mẫu hậu vốn là mẹ kế, tuy rất hiền, nhưng phải lo việc nước. Phụ vương thì đánh đông dẹp bắc, lo chuyện binh đao, chẳng có lúc nào yên mà nghĩ tới chuyện này. 
Mộc Lan thưa: 
- Ở trên đời này những việc đáng làm cũng nhiều, phải đâu chỉ có riêng chuyện chăn gối thôi đâu! 
Thêm một vài câu chuyện phiếm khác. Mộc Lan đã ngủ kỹ, Tuyến Nương nhẹ nhàng ngồi dậy, lấy thư của La Thành trong hài ra, lòng nghĩ: "Vừa rồi họ Tề nói La Tiểu tướng có chuyện nhân duyên gì đấy, nên phải viết thư nhờ Thúc Bảo, chẳng biết là với người nào vậy. Ta phải mở ra xem, La công tử viết những gì trong này?". Tuyến Nương cầm một con dao nhỏ, nhẹ nhàng mở dấu niêm phong, lấy thư ra, đặt trên án, đọc kỹ. Phía trên chỉ là những lời thăm hỏi thông thường, đọc đến phía dưới, thì hai hàng nước mắt chan hòa: "Trời ơi! Thì ra Dương Nghĩa Thần chết rồi! Ta cứ nghĩ tại sao La lang không đến nhờ Nghĩa Thần mà lại phải nhờ Thúc Bảo mãi". Xem hết từ đầu chí cuối, không ngăn nổi thở than: "Trời ơi!
La lang! La lang! La lang vẫn một lòng nghĩ tới ta, mà không chịu nghĩ đến gia thất. Thật là chuyện của ta thật khó khăn quá chừng. Nếu như Dương lão tướng chưa mất, thì may ra phụ hoàng còn nghe lời. Nay họ Dương đã qua đời, dẫu cho Đơn viên ngoại có thư đến nữa, thì chắc gì phụ hoàng đã nghe. Ta mà còn mẫu thân, còn có người mà nương dựa. Nay tuy Tào Hậu hiền minh như thế, nhưng là thân con gái, ta làm sao mà mở miệng được để nói những điều này!” 


Nghĩ đi nghĩ lại, chẳng thấy cách nào, không ngăn được, bèn nức nở một hồi, lại than: "Thôi rồi! Nhân duyên của ta nay chỉ đành chờ kiếp sau vậy, nhưng ta lòng nào mà làm lỡ tuổi thanh xuân của La công tử, có lẽ ta nên làm thế này: dạo trước ta ở Nhị Hiền trang, được tiểu thư Ái Liên nhà Đơn viên ngoại, rất là yêu thương, lại đã cùng ta kết nghĩa chị em. Nay La công tử đã viết thư nhờ Thúc Bảo, chi bằng sửa mấy chữ trong thư, nói ra là nhờ Thúc Bảo cầu hôn với Đơn tiểu thư, Đơn viên ngoại nhất định sẽ bằng lòng, một là báo đáp được tấm lòng mong mỏi của ta với Đơn tiểu thư, hai là gầy dựng được cho La lang. Phải chăng là cả hai đều tốt đẹp không?". Nghĩ ngợi xong xuôi, bèn gọi viên nữ thư dậy, thay thư cũ bằng một thư khác nói rõ những ý đã định trên, rồi theo cũ mà niêm phong cẩn thận, xong xuôi, lại bỏ bao vào hài của mình. 
Chẳng bao lâu, gà đã gáy sáng, Mộc Lan tỉnh giấc, chải đầu rửa mặt, Tuyến Nương liền cho Mộc Lan trang phục như mình, cùng quân sĩ ăn buổi sáng. Đang định nhổ trại lên đường, thì thấy ba bốn kỵ mã đến thưa: 
- Chúa công có lệnh, đến mời công chúa lập tức về triều, bởi Vương Thế Sung đang bị nhà Đường đem quân tới đánh, nên tới cứu viện. Chúa công định thân chinh kéo quân đi, nên giục chúng hạ qua báo ngay cùng công chúa! 
Tuyến Nương đáp: 
- Ta biết rồi! Các ngươi cứ quay ngay về! 
Lại gọi mấy tên lính đêm qua dẫn Quốc Viễn đi lấy phong thư ở gót hài, cùng hai mươi lạng bạc, đưa cho bọn này, dặn kỹ: 
- Đây là thư cùng hai mươi lạng bạc, hãy mang sang trại Phạm đại nhân, giao tận tay vị họ Tề tối hôm qua các người đã dẫn tới. Nói rõ rằng vì trong nước có việc, không thể gặp lại! 
Bọn này vâng lệnh, đi ngay. Tuyến Nương ra lệnh cho đội nữ binh làm tiền đội, Phạm Nguyện làm hậu đội, quay ngay về. Quốc Viễn cũng biết rõ nhà Hạ sắp xuất binh, nên cũng không tìm Tôn An Tổ nữa, mà quay đến chỗ Thúc Bảo. 
Chính là: 
Tướng quân đừng xuống ngựa 
Ai nấy cứ lên đường. 
*** 
Lại nói Thúc Bảo cùng Mậu Công diệt xong Vũ Chu, thu phục được Uất Trì Cung, tiếng tăm càng lừng lẫy. Mậu Công nói với Tần Vương: 
- Thế Sung từ ngày diệt được Ngụy Công, được thêm rất nhiều đất đai, người ngựa, thanh thế hơn hẳn trước kia. Nay điện hạ nên thừa thế mà trừ ngay đi, kẻo càng để lâu càng khó diệt. Trước tiên hãy sai các tướng triệt dần nanh vuốt xung quanh, cắt dần đất đai, để tuyệt nguồn lương thực, khiến cho bốn phía trơ trọi, không nơi cứu ứng, bên trong một mình khó mà cầm cự, mới dần dần thắng được. Cũng giống như người ta đánh con giải lớn vậy, trước hãy lo chặt đứt tám cái chân, lúc này dẫu còn hai càng lợi hại, cũng chẳng thể ngang dọc được nữa vậy! 
Tần Vương khen hay, giao binh phù, sổ sách cho Mậu Công điều hành việc quân. Mậu Công liền sai tổng quản Sử Vạn Bảo, từ huyện Nghi Dương, đánh chiếm lấy một giải Long Môn. Lại lệnh cho tướng quân Lưu Đức Uy, từ Thái Hằng Sơn, ra lấy kỳ được Hà Nội (1). Còn Thượng Cốc Công, Vương Quân Khuyến, từ Lạc Khẩu phải bắt được đường tiếp lương của Thế Sung. Tổng quản Hoàng Quân Hán, kéo từ Hồ Ân ra đánh cho được Lạc Thành, Đại tướng Khuất Đột Thông, Đậu Quỹ mai phục quân ở các nơi hiểm yếu, sẵn sàng tiếp ứng cho những chỗ nguy cấp. Vương Bộ cùng Trình Giảo Kim, Vưu Tuấn Đạt, Liên Cự Chân tới Lê Dương, khôi phục lại những đất đai của nhà Ngụy. La Sĩ Tín cùng Tầm Tương đi lấy vùng Thiên Kim Bảo, Hổ Lao. Mậu Công với Tần Vương, Thúc Bảo, Uất Trì Cung về Hà Nam, hội quân Lý Tĩnh ở Hồng Câu. Chư tướng vâng mệnh nguyên soái, kéo quân đi. 
1 Không phải Hà Nội của Việt Nam, mà là tên một vùng đất nhỏ, từ đời Tam Quốc đã có, gần như nằm giữa Trung Nguyên. 
Lúc này Lý Tĩnh đã đánh bại Chu Xán, Xán thế cô lực tận, kiếm ngay vài người xấu số béo tốt ở Cúc Trạch, mổ thịt ăn uống vài ngày, rồi cùng với mấy lính kỵ, trốn về Hà Nam, theo hàng Thế sung. Lý Tĩnh đem binh, đóng giữ ngay ở cửa Hồng Câu, chờ đại quân Tần Vương. 
Chưa đầy một tháng, Tần Vương đã tới, hai cánh quân gặp nhau, Tần Vương nói với Lý Tĩnh: 
- Chu Xán như con sói dữ, nhờ tài năng của khanh, đã thua chạy. Không hiểu thanh thế của Thế Sung thật hư ra sao? 
Lý Tĩnh thưa: 
- Thần đã sai người dò xét kỹ càng, bọn chúng đã biết Đại Đường sẽ kéo quân chinh phạt, nên các nơi đều được giao cho anh em cháu chắt trong họ phòng bị nghiêm ngặt. Ngụy Vương Vương Hoằng Liệt giữ Tương Dương, Kính Vương Vương Hành Bận đóng ở Hổ Lao, Tống Vương Vương Thái nằm vùng Trần Châu; Tần Vương Vương Thế Vĩ giữ Bảo Thành, Việt Vương Vương Quân Độ đóng Đông Thành, Hán Vương Vương Huyền Nhự lập quân doanh ở Hàm Gia, Lỗ Vương Vương Đạo Ngự ở Diệu Nghi thành. Thật đến nỗi một giọt nước cũng không lọt, ngày đêm đều cảnh giác tuần thám rất nghiêm. 
Tần Vương cười: 
- Ngu ngốc thay cho Thế Sung, đâu có chuyện công nghiệp của cả đất nước, một nhà độc chiếm được sao. Chỉ có con cháu mới là bậc hiền tài thôi sao, ta đã thấy cảnh bại vong của chúng ngay trước rồi. 
Tần Vương đôn đốc tướng sĩ tới Lạc Dương. Thế Sung liền kéo hai vạn người ngựa ra cửa Phương Chủ, hạ trại ngay bên bờ sông Cốc Thủy, đối diện với quân Đường. Quân Đường đóng trại chưa xong, chỉ sợ quần Trịnh sang đánh bất ngờ, phần nhiều đều hoảng sợ. Tần Vương thường đã quen lấy ít địch nhiều, lấy kế để thắng, thì chẳng ngại gì. 
- Quân giặc kết trại gần bờ sông, thế là có ý sợ ta tấn công, rõ là thấy chúng ta hoảng sợ rồi vậy. 
Liền sai Thúc Bảo, Uất Trì Cung đánh thẳng vào tiền quân Thế Sung, còn Tần Vương thì dẫn bọn Giảo Kim, Sĩ Tín, Khẩu Hằng Cung, Đoàn Chí Huyền, lặng lẽ đánh vào phía sau Thế Sung. Khoảng vài nghìn kỵ binh, xông vào trước chém giết. Quân Trịnh thấy thế, liền vây kín bọn kỵ binh lại. Sử Nhạc, Vương Thưởng, tuy có giết được vài trăm lính tráng, nhưng cả bọn này cũng khó lòng thoát khỏi vòng vây. Giữa lúc ham chiến, một phát tên bắn tới, làm Tần Vương ngã ngay xuống ngựa, hai tướng Trịnh trong trận liều chết giơ cao thương xông tới. Sử Nhạc thấy thế, hét to một tiếng, chém ngay một tướng, rồi đoạt lấy ngựa cho Tần Vương cưỡi. Viên tướng còn lại, bị Vương Thưởng bắn cho một tên, trúng ngay cổ họng, ngã xuống ngựa. 
Phía trước Uất Trì Cung, Thúc Bảo đánh giết đến ba bốn giờ, Thế Sung chống đỡ không nổi, đành phải rút lui, bị quân nhà Đường đuổi sát tận chân thành, chém được đến sáu bảy nghìn thủ cấp rồi mới quay trở lại. 
Ngày hôm sau, Tần Vương cùng Mậu Công ra ngoài trại quan sát thấy hai ba trăm dân chúng, đều mang cung đeo tên, có cả võng lưới mà đi. Tần Vương sai thủ hạ gọi lại rồi hỏi: 
- Các ngươi đi đâu, làm gì thế này? 
Một người quỳ thưa: 
- Người ta đồn rằng, ở trên lăng Ngụy Tuyên Vũ, hôm qua có một con chim phượng bay tới, đậu trên cây cao bên lăng, vì vậy dân đi săn chúng tôi đều lên cố bắt cho được. 
Tần Vương lại hỏi: 
- Đây đi lăng Ngụy Tuyên xa gần? 
Người này thưa: 
- Chỉ khoảng gần hai mươi dặm là cùng. 
Tần Vương phán: 
- Các ngươi hãy dẫn ta đi xem sao, nếu đúng vậy, ta sẽ trọng thưởng! 
Mậu Công can: 
- Không được đâu, làng Ngụy Tuyên Vũ ngay gần sau hậu trại của Thế Sung, nếu có mai phục thì làm thế nào? 
- Thế Sung thua mấy lần, trong lòng hoảng sợ, chẳng dám ra đâu! 
Liền nai nịt đầy đủ, dẫn theo năm trăm lính kỵ, ra khỏi trại, đi hết con đường mòn có cây che lớn, thì thấy có một đám đất bằng phẳng, rộng rãi, bốn xung quanh là núi rừng, bên trái là ngọn Phi Lai, bên phải có khe Bộc Giản, chim lạ thú quý đều thấy đủ mặt, cũng chính là nơi còn di tích nhà đá từ thời Hoàng Đế, sau này Ngụy Tuyên Đế làm Hoàng Lăng ở đây. Tần Vương nhìn khắp bốn phía, trầm trồ khen ngợi không ngớt. Bỗng thấy phường săn gào thét: 
- Chẳng phải là chim phượng đang bay tới kia là gì? 
Tần Vương nhìn kỹ, thấy một con chim lớn, theo sau là bảy tám chục chim nhỏ, đậu ngay trên ngọn cây lớn. Con chim lớn này cổ dài, đầu có mào lớn, lông năm màu sặc sỡ, lóng lánh sáng ngời, trông rất kỳ lạ. Tần Vương phán: 
- Đấy là chim loan rừng ở hải ngoại, ai nấy nhầm là chim thiêng. (l) 
1 Con Chim đực gọi là chim Phượng, con cái gọi là Hoàng. Giống chim của thần thoại cổ Trung Quốc, người ta cho chim này mà ra đời, là điềm xuất hiện bậc thánh chúa! (Từ điển Hán Việt - Thiều Chửu). 
Phường săn đang định giăng lưới, thì lại thấy một người lấy tay chỉ : 
- Phía kia thấy binh mã kéo ra. Nguy to rồi! 
Ai nấy đều vội vàng bỏ chạy. Mậu Công cũng giục Tần Vương quay về. Tần Vương vội rút một mũi tên, giương cung hướng con chim lạ, bắn trúng ngay cánh, con chim liền mang cả mũi tên, bay vào trong hẻm núi. 
Tần Vương ruổi ngựa theo, thấy bên ngoài toàn là cờ hiệu quân nhà Trịnh, lại có một tướng, phi ngựa như bay lên, miệng hét lớn: 
- Lý Thế Dân! Ta là đại tướng Yến Doãn nước Trịnh, tới bắt ngươi đây? 
Tần Vương thấy thế, cho ngựa phi nhanh vào hẻm núi, dừng lại, bắn một phát tên, trúng cổ họng Yến Doãn ngã ngay xuống ngựa. 
Nhìn tìm con chim lạ, vẫn thấy đậu ở cây đối diện bên khe núi rỉa lông cánh. Tần Vương thấy đoạn khe trước mặt ngăn đường, phía sau là binh mã quân Trịnh, Mậu Công thì lạc ở phía sau, chim loan lạ thì vẫn ở bên bờ kia cất tiếng hót, như kêu như gọi nhảy qua khe. Khe này đã sâu lại rộng có đến ba bốn trượng, thế mà lạ thay, Tần Vương vẫn vượt qua được. Chim loan lạ thấy Tần Vương tới, lại bay đi mấy chục bộ, đậu trên một cành cao. Tần Vương nghe bờ bên kia trống nổi rầm trời, trong lòng cũng hoảng sợ, nhìn lên chim loan lạ mà khấn: 
- Linh điểu, linh điểu! Linh điểu mà cứu được ta thoát khỏi nạn này, thì hãy quay về ta mà hót ba tiếng! 
Chim liền quay ngay về phía Tần Vương, kêu đủ ba tiếng. Tần Vương nhìn thấy bờ khe đá núi gập ghềnh, liền xuống ngựa, buộc vào gốc cây, rồi theo đường chim bay mà đạp cỏ, rẽ cành đi vào núi. Trèo lên đến đỉnh, nhìn sang phía bờ xa thấy một viên tướng, sát khí đằng đằng, đang ruổi ngựa theo. Tần Vương nhận ra Đơn Hùng Tín, theo sau lại có một tướng khác, cũng cưỡi ngựa gần kề, thì ra là Mậu Công. Đang ngây người ra nhìn, lại nghe chim loan kêu một tiếng, Tần Vương vội quay đi, nghĩ vội: "Linh điểu không bay mà vẫn hót, phía này nhất định có lối ra!" Liền cứ theo chim mà chạy. Thấy ngay trước mặt, một tòa nhà bằng đá, ngoài cửa có một nhà sư đứng chờ, diện mạo sáng sủa, phong thái trang nghiêm, giơ tay vẫy linh điểu một cái, chim lập tức chui vào ống tay áo nhà sư, nhà sư yên lặng quay vào trong nhà đá. Tần Vương lấy làm lạ, cũng theo vào, thấy nhà sư đang ngồi xếp bằng. Tần Vương hỏi: 
- Sư trưởng? Vừa rồi sư trưởng bắt được linh điểu, xin sư trưởng cho xem! 
Nhà sư đáp: 
- Linh điểu biết quân vương lúc ấy đang gặp nạn, nên từ cõi thiêng bay tới, quân vương muốn xem hay sao? 
Liền bắt từ ống tay áo ra con chim loan nọ, cánh chim vẫn thấy còn mũi tên. Phút chốc bỗng biến thành con chim anh vũ màu trắng, nhà sư liền rút ngay mũi tên ra, đưa giả cho Tần Vương: 
- Xin giả mũi tên này cho quân vương! 
Rồi tung lên, chim bay mất, vào tầng không cao thẳm. Tần Vương lấy tên bỏ vào ống, biết là bậc thánh tăng, vội hỏi: 
- Ta gặp nạn này liệu có thoát được không? 
Nhà sư đáp: 
- Sao nạn tinh chỉ trong khoảnh khắc, quân vương hãy tránh ngay sau lưng bần tăng, bần tăng sẽ có cách lui được nạn này. 
Tần Vương liền theo lời trốn kỹ. Nhà sư tay ấn quyết, miệng niệm chú, rồi thấy từ miệng phóng ra một đạo bạch quang, che kín lấy khe núi. 
Tướng nhà Trịnh Đơn Hùng Tín biết rất rõ vùng khe núi này có tên là Ngũ Hổ Cốc, dòng khe này là Đoạn Quỷ giản, không có đường ra. Hùng Tín thấy Yến Doãn phi ngựa phía trước, sợ Yến Doãn cướp mất công đầu, vội phi nhanh về phía khe núi, từ xa một con ngựa không người, vội phi lại, đã thấy Yến Doãn nằm chết vì mũi tên trúng cổ họng. Hùng Tín giận dữ nghĩ thầm: "Không giết được thằng giặc này, báo thù cho Yến Doãn, không đáng bậc hảo hán!" Thúc ngựa vào khe tìm, bỗng nghe từ phía sau có người cưỡi ngựa đuổi theo, lớn tiếng gọi. 
Mậu Công đuổi kịp, níu vạt áo Hùng Tín mà xin: 
- Từ ngày xa nhau đến giờ Đơn nhị ca vẫn được bình yên, trước kia ở chỗ Ngụy Công ngày đêm cùng nương tựa lẫn nhau, may được dạy dỗ nhiều, thật cảm ơn sâu. Hôm nay mới gặp, đang có điều muốn bàn, xin đừng quá bức bách chủ ta! 
Hùng Tín đáp: 
- Thuở trước cùng ngài sum họp một nơi, thì là anh em, nay ai thờ chủ ấy, tức là thù địch. Hùng Tín này thề diệt được Thế Dân, báo thù cho vong linh tiên huynh, cũng là để trọn đạo thần tử. 
Mậu Công nói: 
- Nhị ca không nhớ thuở trước thắp hương thề nguyền sao? Chủ của ta cũng là chủ của Nhị ca, Nhị ca sao bất tình đến thế? 
Hùng Tín đáp: 
- Đây là việc quốc gia, không phải là việc riêng của Hùng Tín. Lúc này mà Hùng Tín không nỡ giơ đao lên chém ngài, cũng bởi vì lời thề nguyền xưa vậy. Ngài hà tất phải nhiều lời! 
Rồi rút đao bên mình, cắt vạt áo dài, gia roi đuổi theo tìm Tần Vương. Mậu Công thấy tình thế nguy cấp, vội phi ngựa như bay trở lại để gọi các tướng, báo tin Tần Vương gặp nạn. 
Lúc này Uất Trì Kính Đức, đang ở khuỷu sông Lạc Thủy tắm cho ngựa, bỗng thấy phía đông bắc một người một ngựa phi tới. Uất Trì Cung nhận ra Mậu Công đang hét lớn: 
- Chúa công bị tướng Trịnh Đơn Hùng Tín đuổi theo vào Ngũ Hổ Cốc, mau mau chạy cứu ngay! 
Uất Trì Cung nghe nói, chẳng kịp mặc áo, đang từ dưới nước, mình trần trùng trục, nhảy lên ngựa không yên, cầm roi phi thẳng một mạch. Gặp đúng lúc Hùng Tín đang sục bốn phía mà chẳng thấy tung tích, nhận ra bên khe, vết chân còn in rõ trên bùn, nước khe vẫn còn đục, lại nghe tiếng ngựa ngọc tông hý vang, liền vẫn ngồi trên lưng ngựa, nhảy ngay qua khe để tìm, cũng vẫn chẳng thấy, nhận ra con ngọc tông vẫn buộc dưới gốc cây. Hùng Tín liền xuống ngựa, trèo lên đỉnh núi, lại tòa nhà đá xem xét, bỗng nhận ra một con hổ lớn, vằn loang lổ dữ tợn, ngồi ngay trước cửa, thấy mặt Hùng Tín, liền gầm một tiếng dài, làm cả khe núi vang động ầm ầm. Hùng Tín thất kinh, thầm nghĩ: “Thằng oắt con này chắc đã bị con hổ này xé xác rồi, có khi rơi xuống khe này chết quách cũng nên. Ta thử đi xuống phía dưới tìm xem!". Rồi nhảy lên ngựa của mình, lại dắt theo ngựa của Tần Vương, ra phía cửa khe. Bên sườn núi, một viên tướng, mặt như sắt luyện, tiếng nghe như sấm dậy: 
- Không được hại chủ ta? Uất Trì Kính Đức đây! 
Rồi cũng nhảy qua khe, Hùng Tín vội thả ngay ngựa Tần Vương, giơ thương để đâm, Uất Trì Cung nghiêng mình tránh được, giơ roi quật xuống, trúng ngay cánh tay Hùng Tín. Uất Trì Cung để ngang roi sắt của mình trên ngựa, rồi sấn lại ngay trước mặt, giằng lấy cây thương của Hùng Tín. Hùng Tín tuy khỏe, nhưng sao đương nổi sức thần của Uất Trì Cung, giằng co một lát, thì bị Uất Trì Cung cướp mất thương. Hùng Tín đành phải lui lại phía sau, nhảy qua khe núi mà đi. 
*** 
Lại nói Tần Vương, nấp phía sau lưng nhà sư trong chùa đá, thấy nhà sư làm phép thần thông, lại thấy Hùng Tín đến ngay trước cửa, dòm ngó khắp nơi, nhưng không hiểu sao không dám tiến vào. 
Bên tai chỉ nghe một tiếng thét kinh thiên động địa, nhà sư chắp hai tay tụng niệm: 
- A di đà Phật! Họa tinh đã đi rồi, cứu binh đã tới. Quân vương ra động được rồi! 
Tần Vương đứng dậy cảm tạ: 
- Ơn thánh tăng pháp lực thần thông, cứu được ta, ta về Thái Nguyên, xin sai quan nha tới đón về cung dưỡng. Nhưng không rõ pháp hiệu thánh tăng là gì? 
Nhà sư thưa: 
- Bần tăng là Đường Tam Tạng, chẳng dám nói gì chuyện cung dưỡng, đã có thần linh trông coi cho rồi, chỉ xin quân vương làm một vị hoàng đế sáng suốt, đem lại thái bình là đủ rồi. Bần tăng có một bài kệ bốn câu, xin quân vương nhớ kỹ cho. 
Nói rồi đọc: 
Kiến nghiệp giữ lấy đức 
Giúp đời tròn chữ hiếu 
Hai hiếu e khó toàn 
Gốc nguồn nên giữ trước. 
Đọc xong, nhà sư lại ngồi nhắm mắt, nhập định như cũ. Tần Vương theo đường cũ xuống núi, men theo khe, tìm ra con ngọc tông, nhảy lên yên, thì thấy Uất Trì Cung phi ngựa tới, thưa lớn: 
- May rồi! Điện hạ không bị hoảng hồn chứ? 
Tần Vương đáp: 
- Không đâu! Còn thằng giặc Hùng Tín đâu? 
Uất Trì Cung thua: 
- Bị thần giằng mất thương, chạy ra cửa khe mất rồi. Nơi này không nên đứng lâu, điện hạ mau cùng thần ra ngay thôi! 
Hai người cưỡi ngựa vượt qua khe, đến thẳng cửa Ngũ Hổ Cốc, gặp tướng Trịnh Phàn Hựu, Trần Tri Lược. Uất Trì Cung chẳng nói một lời mỗi tướng mỗi roi, làm cả hai bị thương, ngã ngựa, Uất Trì Cung mở một đường máu, ra khỏi vòng vây. Thì thấy Thúc Bảo, Mậu Công dẫn các tướng giao chiến với hậu đội của Thế Sung. Kính Đức nói với Lý Tĩnh: 
- Ngài hộ vệ điện hạ về trại, để ta giết sạch bọn giặc này! 
Rồi xông thẳng vào đám quân Trịnh, đâm chém một hồi. Tướng Trịnh tuy nhiều, nhưng chẳng ai đương nổi Uất Trì Cung, Thúc Bảo, một ngọn roi, hai thanh giản, giết không biết bao nhiêu tướng quân của nhà Trịnh. Uất Trì Cung đang tung hoành giữa trận, bỗng thấy một người đội mũ xung thiên, đeo đai ngọc, mặc mãng bào, ngồi trên mình ngựa, ở trên cao quan sát, liền bỏ ngay đối thủ, giơ cao roi xông tới. Vương Thế Sung hoảng hốt, vội quay ngựa chạy. Uất Trì Cung cùng các tướng, đuổi theo mãi tới chân Tần Thành mới quay về. Mậu Công sai đánh chiêng trống thu quân, vào trại Tần Vương chúc mừng. 
Tần Vương cười: 
- Nếu không có sức thần của Uất Trì Cung, thì đã bị bọn giặc gây hại rồi! 
Rồi sau lấy một tráp vàng, thưởng cho Uất Trì Cung. Từ đó Tần Vương lại càng yêu thương Uất Trì Cung. Thế Sung thấy tướng sĩ nhà Đường lợi hại, cũng không dám ra thành nghênh chiến nữa. 
Giằng co mấy ngày, chính lúc Tần Vương cùng các tướng bàn kế phá địch, thì thấy tin báo từ các nơi về như hoa tuyết bay. Tần Vương cùng Mậu Công xem qua, biết Vinh Châu, Biện Châu, Thư Châu, Hoa Châu, đều đã thuộc nhà Đường. Lại còn tổng quản Dương Khánh ở Hiển Châu, cũng đem cả hai mươi lăm phủ huyện về hàng. Úy Châu thứ sử Thời Đức Duệ, cũng đem bảy châu: Kỷ, Hạ, Tùy, Trần, Hứa, Dĩnh, Ngụy ra hàng. Vương Bộ cùng Trình Giảo Kim, cũng có văn thư về báo Doãn Châu, Lê Dương, Thương Thành, đều đã hàng nhà Đường. Chỉ còn Thiên Kim Bảo cùng Hổ Lao, nghe La Sĩ Tín cùng Tầm Tương báo về là vẫn chưa hạ được. Lại còn cả việc đại tướng Khuất Đột Thông, đi tuần thú trên đường, bắt được hai kỵ binh, khai là tướng nhà Trịnh, lẻn đi Lạc Thọ, xin Uất Trì Cung đem binh cứu viện. Mậu Công nói: 
- Đất đai nhà Trịnh, nhờ phúc lớn của thiên tử, ba phần đã thu được hai. Chỉ còn Hổ Lao với Thiên Kim Bảo, cùng các huyện yết hầu nữa thôi. Hai vùng này nếu không chiếm được, thì các nơi khác dẫu có chiếm cũng chẳng giữ được. Xin để thần đi một phen. 
Liền từ giã Tần Vương, đêm ngày dẫn theo một nghìn lính bản bộ, nhằm Hổ Lao quan mà tiến. 
Chính là: 

Kinh bang tế thế kiêm văn võ 
Cười nói trong quân đủ lược thao.

HỒI 58

Đậu Kiến Đức bị bắt ở cửa hang,
Từ Mậu Công đính hôn trong lều cỏ.

Từ rằng: 
1 Hai cọp mài nanh đấu rất hăng, 
Mắt long sòng sọc, mặt bừng bừng 
Thế rồi nước mất, thây quăng rãnh 
Ngàn thu nửa tiếng có nghe chăng? 
2. Say sưa thiếp mới gặp chàng, 
Xướng tùy hẹn ngọc thề vàng một hai. 
Chiếu vua chỉ thắm bền dai 
Tướng quân khuê các khâm sai đâu quyền? 
Theo điệu "Nguyễn Lang quy" 

Thời Xuân Thu, có chuyện Biện Trang một lúc đâm được hai con hổ, Biện làm thế nào mà giết được cả hai. Thì ra là hai hổ đang đánh nhau, con nhỏ chết, con lớn bị thương, con chết thì cần gì phải phí sức nữa, chỉ còn phải đâm một nhát vào con bị thương. Mà nó đã bị thương thì cũng cần gì phải nhiều sức cho cam, đúng mới là "nhất cử lưỡng đắc" vậy? 

*** 

Nói chuyện Vương Thế Sung, đem tất cả các nơi hiểm yếu phó thác cho anh em, con cháu trong nhà, để đến nỗi Tần Vương đụng vào thì đông phá tây vong. Thế Sung ngồi ở Lạc Dương, chẳng biết cậy ai, chỉ đành đem vàng ngọc, châu báu, sai Trưởng Tôn Thế An đi cầu viện Hạ Vương Đậu Kiến Đức, khiến cho Tần Vương bỗng được rơi vào cảnh "dĩ dật đãi lao, phản khách tác chủ”. 

Từ Mậu Công sợ Vương Bộ cùng La Sĩ Tín không làm được việc, nên lãnh quân bản bộ đến ngay Thiên Kim Bảo, nào ngờ Sĩ Tín đã dùng kế phá xong thành. Vào được thành, quân dân, bất kể già trẻ, đều giết sạch không còn một ai. Mậu Công vì thế xót xa mãi không thôi. Vương Bộ cũng đã tới được Hổ Lao, đem một nghìn tinh binh, giả làm quân nhà Trịnh, đang đêm lừa cho mở thành, rồi trói ngay được Vương Hằng Bản đang còn ngủ, chiếm được thành. 

Mậu Công vui mừng, nói với Vương Bộ: 
- Đất này tuy đã yên, nhưng Thế Sung đã sai Đại Vương Uyển, Trưởng Tôn Thế An đi cứu viện Kiến Đức, chẳng biết Kiến Đức bằng lòng phát binh nhiều ít. Ta hãy đem công lao của hai hiền huynh, báo cho Tần Vương biết, xem Tần Vương định liệu ra sao. 

Trưởng Tôn Thế An vâng mệnh Thế Sung, mang theo rất nhiều của báu, tìm đến Lạc Thọ, trước tiên đem ngay biếu các tướng. Tướng nào cũng nhận quà, duy chỉ Tế tửu Lăng Kính là không chịu nhận, đại tướng Tào Đán cũng sai người đem trả lại lễ vật. Ngày hôm sau, Thế An vào gặp Hạ Vương sớm, đưa trình văn thư cùng lễ vật, Hạ Vương phán: 
- Lân bang xin cứu viện, lẽ nên vâng mệnh, nhưng chỉ ngại lâu nay cô với nhà Đường vẫn đi lại tốt đẹp, chẳng có cớ gì để khởi binh? Phương chi, cô lại vừa phá Mạnh Hải Công thắng trận trở về chưa được bao lâu, cũng thật chưa nên làm khó nhọc quân sĩ, xáo động dân tình! 
Thế An thưa: 
- Trịnh với Hạ thật là như môi với răng. Môi hở răng lạnh, là lẽ tất nhiên. Nay Hạ không cứu Trịnh, Trịnh tất diệt. Trịnh mà mất thì sợ rằng Hạ cũng mất theo. 
Hạ Vương phán: 
- Túc hạ hãy lui, để cô cùng trăm quan bàn kỹ xem sao. 
Thế An tạm ra khỏi triều. Hạ Vương cùng công khanh bàn bạc. Các tướng đều đã được vàng bạc của Thế Sung, liền tìm lời phỉnh nịnh: 
- Nhà Tùy mất nước, thiên hạ nát tan. Quan Trung thuộc về nhà Đường, Hà Nam về nhà Trịnh, Hà Bắc thuộc nhà Hạ, chân vạc thế là thành rồi. Nay Đường phạt Trịnh, đất nhà Trịnh đã bị quân nhà Đường chiếm đến hai ba phần mười rồi, nay lực Trịnh không đủ, tất bị Đường diệt. Trịnh đã mất đi, Đường chỉ còn đối địch với Hạ, Hạ cũng khó mà một mình địch nổi Đường. Chi bằng nay nên phát binh cứu Trịnh, nội ngoại giáp công, thì có thể thắng. Nếu thắng Đường, uy danh thuộc về Hạ, thừa thế mà lo chuyện lấy cả Trịnh nữa, hợp cả hai đạo quân, thừa sức để đánh được quân Đường đã mệt mỏi, Quan Trung lấy được, thì việc bình thiên hạ có thể xong! 

Chỉ có mấy câu, khiến cho Kiến Đức cũng vỗ tay mà khoái ý: 
- Chư khanh nghị luận thật là tuyệt diệu, nhưng chỉ sợ cô lực không thể làm nổi vậy! 
Lăng Kính thưa: 
- Lời của chư tướng, sợ có chỗ không xong. Nay quân nhà Đường vây kín Đông Đô, còn đại tướng thì đóng ngay ở Hổ Lao quan, phát bao nhiêu binh để đối phó cho vừa. Chi bằng nên kéo đại binh qua sông, lấy đất Hoài Châu, Hà Dương, đem nhiều binh tướng mà giữ lấy. Sau đó gióng trống khua chiêng, vượt qua Thái Hằng vào Thượng Đẳng, truyền hịch cho các châu quận, tiến vào Hổ Khẩu, làm kinh động Bộ Tân, thì lấy được đất Hà Đông dễ như nhặt hạt cải, đó chính là thượng sách. Làm như thế có ba điều lợi: Quân nhà Đường đều đương ở Lạc Dương, trong nước trống không, nên có đem binh đánh thì tha hồ mà yên ổn, điều lợi thứ nhất. Cướp đất được, giành dân được mà mất ít tâm lực, điều lợi thứ hai. Tần Vương biết quân ta vào xâm chiếm đất nhà Đường tất phải dẫn quân về cứu, Trịnh được giải vây, điều lợi thứ ba. Mất cơ hội này, nghi hoặc không quyết, thì đúng như câu ngạn ngữ: "Trời cho mà không lấy, ngược lại phải chịu tội. Xin chúa công xem xét minh bạch. 
Các tướng thưa: 
- Tự xưa tới nay, cứu binh như cứu hỏa, nếu cứ như lời Tế tửu Lăng Kính, mà đi vòng vèo như thế, ngày dài đợi lâu, chuyện nước Trịnh là chuyện cấp thiết, lúc nào mới được giải cứu? Vạn nhất bị quân nhà Đường đánh bại, Vương Thế Sung bị giải về Trường An, thì thật là "thần vong xỉ hàn". Lúc ấy ai cũng chê chúa công là thất tín với thiên hạ vậy. 
Kiến Đức cũng không nói gì, bỏ vào hậu cung. Tào Hậu từ sau bình phong ra đón, hỏi: 
- Vừa rồi trong triều bàn bạc ra sao? 
Kiến Đức đem mọi chuyện kể một lượt. Tào Hậu nói: 
- Trăm quan bàn đều không phải. Chỉ có kế của Lăng Tế tửu là hay hơn cả, bệ hạ nên nghe theo. 
Kiến Đức phán: 
- Đó là những lời vu khoát! 

Tào Hậu cãi: 
- Từ Lạc Khẩu lặng lẽ kéo binh dần mà lên, lấy mạn Bắc, nhân đó chiêu dụ được Đột Quyết, tập kích vào Quan Trung, quân Đường tất phải quay về, quân Trịnh không phải cứu mà vẫn được giải vây, đâu phải là chuyện vu khoát? 

Kiến Đức vẫn đáp: 
- Cô đã có chủ ý, quốc mẫu không phải lo lắng. 
Sáng ra chầu sớm, Trường Tôn Thế An lại vào kêu xin. Hạ Vương liền sai Tào Đán làm tiên phong, Lưu Hắc Thát làm Hành quân tổng quản, Hạ Vương cùng với Tôn An Tổ làm hậu đội dẫn mười lăm vạn binh mã, theo Hổ Lao quan mà tiến. Công chúa Dũng An, từ đêm thấy được thư La Thành, quá thương cảm đến nỗi sinh ốm, thì cùng với Tào Hậu, Lăng Kính, ở lại trông coi quốc gia. 
Sớm hôm sau dã có tin báo cho Tần Vương, các tướng sợ chuyện trước ngực, sau lưng đều có giặc, lấy làm lo lắng, chỉ riêng Tần Vương thì mừng. Lý Tĩnh cười: 
- Không ngờ lần này bệ hạ xuất sư, một mũi tên mà bắn được hai chim cắt. 
Ký thất Quách Hiếu Khắc thưa: 
- Lạc Dương bị phá tan, chỉ ngay trước mắt. Kiến Đức không lường được, từ xa đến cứu, đó thật là trời xui cho bệ hạ diệt dược cả hai nước. Cơ hội này thực không nên dễ mất. 
Tiết Thu nói: 
- Thế Sung đang lúc nguy cấp, tướng sĩ lại đều ở vùng Giang Hoài, tuy quen chiến trận, nhưng lương thực lại không đủ, nên cố mà giữ thành, bó tay chờ chết. Nếu Kiến Đức tái hợp lực, lại đem theo cả lương thực chi viện cho Thế Sung, thì thế giặc quả có mạnh hơn. Không nên coi thường! 
Lý Tĩnh bàn: 
- Nay tốt hơn cả là nên chia binh ra vây chặt Lạc Dương. Điện hạ lĩnh quân tinh nhuệ, chiếm ngay lấy Thành Cao, nuôi giữ lấy nhuệ khí, "dĩ dật đãi lao", xuất kỳ kế một lần mà có thể bắt được Kiến Đức. Kiến Đức đã bị phá rồi, uy danh của nhà Đường càng lừng lẫy. Thế Sung nghe ra, thì chằng cần phải đánh cũng phải tự trói mình mà xin hàng dưới trướng điện hạ. 
Tần Vương cả mừng mà rằng: 
- Lời khanh nói thật là vừa lòng ta, nhưng đất vùng này từng từng, lớp lớp, nhờ khanh hãy trù tính cẩn thận cho một phen. 
Lý Tĩnh thưa: 
- Không phải cần đến điện hạ lo nghĩ. Cái kết cục của Kiến Đức đều đã được định đoạt bởi uy lực của chúa thượng, còn Thế Sung thì sẽ không khỏi bị bắt vậy! 
Tần Vương yên lòng, đem theo Thúc Bảo cùng Uất Trì Kính Đức, còn các tướng khác đều đóng ở Lạc Dương. Tần Vương dẫn theo năm nghìn quân Huyền Giáp binh, kéo thẳng tới Hổ Lao, cùng với Mậu Công, các tướng gặp gỡ. Mậu Công thưa: 
- Thần biết thế nào điện hạ cũng tới, nên cùng hai tướng đến đây quân giặc sẽ phá trong sớm tối. 
Tần Vương đáp: 
- Nghe nói Hạ Vương kéo mười vạn quân đến, không hiểu thật hư ra sao? 
Mậu Công thưa: 
- Chẳng cần phải biết chúng binh tướng bao nhiêu. Thần đêm nay chỉ cần khoảng ba nghìn người sẽ làm cho chúng khiếp đảm kinh hồn. 
Liền ghé tai Tần Vương, nói nhỏ mấy câu, Tần Vương vỗ tay khen: 
- Hay lắm! 
Mậu Công rút một cây lệnh tiễn, giao cho La Sĩ Tín và dặn: 
- Tướng quân hãy cùng phó tướng Cao Táng Sinh lĩnh một ngàn quân, lên đường ngay, lẻn vào phía nam núi Thước Sơn mai phục. Đây là một cái thiếp, tướng quân hãy cầm lấy, cứ theo như trong thiếp mà làm. 
Lại cũng đưa một lệnh tiễn, một cái thiếp cho Thúc Bảo cùng phó tướng Lương Kiến Phương và dặn: 
- Phiền nhị vị tướng quân dẫn một ngàn quân, đến một núi đất, phía đông bắc sông Dĩ Thủy mai phục, hãy nhanh chóng xếp đặt, cứ theo cách ghi trong thiếp mà làm, rồi về dâng công! 
Thúc Bảo, Kiến Phương lập tức dẫn quân đi. Mậu Công lại lấy một lệnh tiễn một lá thiếp nữa, nói với Uất Trì Cung cùng phó tướng Bạch Sĩ Nhượng: 
- Nhị vị tướng quân hãy kéo quân tới góc phía tây Hổ Lao, cũng theo trong thiếp dặn mà làm. Nếu đánh đến Thước Sơn mà gặp Sĩ Tín; không bàn thắng bại, cứ lập tức quay ra. 
Uất Trì Cung, Sĩ Nhượng lĩnh mệnh mà đi. 
Sĩ Tín cùng Táng Sinh về trại, mở thiếp ra xem thấy ghi rõ mỗi binh sĩ phải có sẵn một cây đèn, cổ ngựa phải buộc thật nhiều lục lạc đồng, hễ thấy trong quân nổ hai phát pháo lệnh, thì phải đem hỏa thương quay về bản trận. 

Thúc Bảo cùng với Kiến Phương về trại, cũng mở thiếp ra xem, thì thấy viết: mỗi binh sĩ phải có một quả hỏa cầu, một cái thanh la nhỏ, hễ nghe ba phát pháo lớn nổ, lập tức xông ra, cùng với hỏa thương, đèn sáng, cứ thế mà chém giết. 

Mậu Công sai quân sĩ, ngay ở Nam Sơn làm một giàn trúc cao, lệnh Vũ Văn Sĩ Cập cùng với hai nghìn quân Huyền giáp coi giữ. 

*** 

Lại nói tướng tiên phong của Hạ Vương là Tào Đán đến Hổ Lao, đóng trại cách đó khoảng hai mươi dặm, mỗi ngày đều tới trại quân Đường khiêu chiến, nhưng chẳng thấy ai ra, thì nghĩ rằng nhà Đường biết Hạ Vương kéo đại quân tới, nên không dám ra. Cũng có ý phòng chuyện cướp trại, nhưng thật ra quân sĩ đều vừa lười nhác vừa coi thường quân Đường. Đêm hôm ấy, cởi giáp trụ ngủ yên, bỗng nghe một tiếng pháo lớn, tiếng hò hét rấm trời, Tào Đán vội chạy lên ngựa ra khỏi trại, đã thấy vô số hỏa thương, dẫn đầu là một tướng vừa cao vừa đen. Tào Đán xông lại giơ thương đâm, viên tướng nhà Đường giơ cao roi, quất ngay vào giữa ngực: Tào Đán vội nghiêng mình tránh, lại bị hỏa thương bắn vào ngay giữa mặt, cháy trụi cả tóc râu. vội lủi chạy vào trong đám quân lính. 

Kiến Đức dẫn một nghìn lính, đông xung tây đột, chẳng ai dám ngăn cản, đánh thẳng đến Thước Sơn, thì nghe tiếng pháo lớn thứ hai, Sĩ Tín ngồi trên mình ngựa, khắp nơi là đèn đỏ lấp lánh, lục lạc vang tai, chẳng khác gì thiên binh vạn mã kéo tới. Thấy vậy tướng nhà Hạ là Cao Nhã Hiền, dẫn người ngựa ra tiếp ứng, nhưng không đỡ nổi cây thương của Sĩ Tín, khác nào như rồng ra khỏi huyệt, gặp đâu giết đấy, cứ như xông vào chốn không người. Nhã Hiền bèn nói với Hắc Thát: 
- Đại huynh nhìn trên núi Nam Sơn, có đèn hồng, nhất định là ám hiệu của quân Đường, tiểu đệ cùng đại huynh hãy bắn rơi đèn này, thì binh mã của chúng tất sẽ tán loạn cả. 

Nói xong, cả hai liền ruổi ngựa lên trước. Hắc Thát giương cung, bắn một phát tên đi, đèn đỏ rơi xuống, lại thấy một đèn khác kéo lên, Nhã Hiền đang định bắn một phát nữa thì nghe một tiếng pháo lớn thứ ba, rồi vô số hỏa cầu từ trên không ném xuống, một viên đại tướng xông ra, miệng thét lớn: 
- Tần Thúc Bảo đây! Lũ giặc chúng mày hãy xem đôi giản của ta! 
Nhã Hiền vội đón đánh, bị Thúc Bảo đánh gãy thương, ngã xuống ngựa, Kiến Phương đang định xông tới đâm chết, may được Hắc Thát cứu thoát, bèn rút chạy. Thúc Bảo cùng Uất Trì Cung, Sĩ Tín hợp cả ba cánh quân chẳng khác gì có tới hàng vạn người ngựa, tả xung hữu đột, hoa rơi nước chảy. Đang giữa lúc hăng hái, quân Đường đã nghe tiếng chiêng thu quân, cả bọn quay ngựa về trại. 
Tần Vương cùng Mậu Công bày tiệc rượu ăn mừng, chờ sẵn Thúc Bảo, Uất Trì Cung cùng các tướng về trại kiểm điểm người ngựa, ba nghìn cả thảy mà không hề tổn thương lấy một. Tần Vương đem dê, rượu, cùng ngân bài thưởng cho tướng sĩ. Mậu Công nói: 
- Lần ra tay đêm nay, chẳng qua là để bắn tin cho chúng biết, quân tướng nhà Đại Đường lợi hại ra sao. Rồi chỉ cần một trận ngày mai, các tướng cùng quân sĩ cố gắng thêm chút nữa, thành bại mới quyết được. 
Tần Vương còn lo cả ở Lạc Dương, nên cũng muốn thư hùng một trận quyết chiến. 

*** 

Lại nói Kiến Đức, nhân trận đêm qua, người ngựa bị quân Đường quấy đảo một phen, nên canh tư hôm đó, truyền lệnh cho quân sĩ ăn uống, đem quân Hắc Thát làm tiền đội, Tào Đán làm trung doanh, từ Bản Chữ đến Ngưu Khẩn Cốc chia binh đóng giữ, phía Bắc thì đến tận sông, phía Nam kéo tới Thước Sơn, dài đến hơn hai mươi dặm. Kiến Đức vẫn thấy binh lính lội qua Dĩ Thủy. Quân Tần Vương thấy binh tướng Hạ Vương oai hùng, trong lòng cũng có khiếp sợ. Nhưng Tần Vương thì không nao núng, cùng với Mậu Công, trèo lên một gò cao, dừng ngựa trông xuống. Mậu Công thưa: 
- Bọn giặc này từ Sơn Đông kéo quân xuống, chẳng qua mới chạm trán với lũ giặc cướp vài trận mà chưa từng gặp đối phương ra trò, nay kết thành trận lớn, nhưng đội ngũ không chỉnh, kỷ luật không nghiêm, thành ra cũng dễ phá. 
Lại thấy cả Đại Vương Uyển, cũng đem theo người ngựa tùy tòng, đứng ở sau trận giám chiến. Uyển đội mũ kim quan, cẩm bào khoác người, bên ngoài áo giáp vàng, cưỡi ngựa thanh tông, vốn là của nước Đại Uyển xưa dâng cho Tùy Dượng Đế, phía sau là cờ bay phơ phất. Tần Vương khen: 
- Viên tiểu tướng này cưỡi con ngựa đẹp quá? 
Uất Trì Cung đứng lên bèn nói: 
- Điện hạ nói là ngựa đẹp hay sao. Hãy đợi tiểu tướng lấy về. 
Tần Vương vội can: 
- Không nên! Không nên? 
Uất Trì Cung đáp: 
- Không hề gì đâu! 
Uất Trì Cung hai chân thúc ngựa, phi thẳng đến trận quân Hạ, hai tướng đứng bên là Táng Sinh cùng Nghĩa Phương, sợ Uất Trì Cung có sơ hở gì chăng, cũng ruổi ngựa đuổi theo. Uyển đang cầm dây cương, quan sát trận chiến, bỗng nghe như tiếng sét bên tai: 
- Chạy đi đâu? 
Rồi chẳng khác gì con gà nhép, bị Uất Trì Cung túm lấy ngựa, không chạy nổi. Uất Trì Cung giằng ngay dây cương, Táng Sinh cũng vừa tới kịp, kéo lấy ngựa cùng về bản trận. Trong trận quân Hạ, thấy tướng nhà Đường, ngay phía hậu quân, cướp cả người ngựa của Uyển đi đều gào thét kinh hoàng, chẳng còn lòng nào muốn đánh nhau, hoảng hốt rút chạy. Mậu Công liền lớn tiếng: 
- Lúc này không thừa thế xông lên giết giặc, còn đợi lúc nào nữa! 
Rồi tự mình cầm dùi đánh trống lớn, các tướng Bạch Sĩ Nhượng, Dương Vũ Uy, Vương Bộ, Đào Vũ Khâm, cùng tất cả binh lính tinh nhuệ nhất tề xông lên. Tần Vương dẫn lính khinh kỵ, cùng Uất Trì Cung, Thúc Bảo, Sĩ Tín, lội qua Dĩ Thủy, đánh vào hậu quân nhà Hạ, giương cao cờ Đại Đường, trước sau cùng giáp công. Quân sĩ nhà Hạ hoảng sợ, đành vừa đỡ vừa lui. Quân nhà Đường đuổi đến hơn ba mươi dặm, chém đến hơn một vạn thủ cấp, Kiến Đức chạy dài, vội vứt áo mũ vương vị, cải trang làm một viên tướng, vừa đỡ che vừa rút, không còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện đánh chác, thì gặp ngay vợ chồng Sài Tự Xương, dẫn một đội "Nữ tử quân", dũng mãnh khôn đương. Kiến Đức đang chống đỡ, bị ngay một thương, vội tìm người cứu nhưng quân sĩ trong lúc hỗn loạn, mạnh ai nấy chạy, ai cũng còn lo chống đỡ cho mình không xong, nên riêng mình Kiến Đức chống trả chẳng nổi, lại thêm một vết thương nữa, may mà chưa nguy đến tính mạng. 

Bỗng thấy cửa hang Ngưu Khẩu, vi lau rậm rạp, có thể lẩn trốn, liền kéo ngựa lại tìm một cái hang, bọn "Nữ tử quân" cũng không kịp nhận ra, cứ thế xông lên phía trước. Không ngờ áo giáp vàng trên lưng Kiến Đức, chiếu ánh sáng loáng, làm quân nhà Đường trông thấy, biết ngay có tướng nhà Hạ trốn ở trong. Bạch Sĩ Nhượng, Dương Vũ Uy cưỡi ngựa xông vào, cầm giáo dài cứ đám lau lách mà gạt tìm kiếm, Kiến Đức nằm bên trong dẫu có muốn chống cự thì người đầy thương tích, cũng chẳng chống nổi, nếu cứ nằm yên, lại sợ giáo đâm trúng, nên đành lớn tiếng: 
- Ta là Hạ Vương đây! Tướng quân mà cứu được ta, đất Hà Bắc cùng chia, phú quý cùng hưởng. 
Dương Vũ Uy đáp: 
- Cần ra ngay đã. Ta sẽ cứu người! 
Kiến Đức kéo ngựa bước ra, tết cả xúm lại trói nghiến, rồi dặt lên mình ngựa, vừa kịp một toán quân nữa kéo đến, áp giải về đại trại. Lại thấy Uất Trì Cung xách về thủ cấp Hắc Thát, Vương Bộ thì xách thủ cấp Phạm Nguyện, Sĩ Tín bắt sống được tướng Trịnh Trường Tôn Thế An, đều đến dâng công. 

Đáng thương thay nhà Hạ, mấy chục vạn hùng binh, một trận sống mái sớm tiêu vong, chỉ chạy thoát mỗi Tôn An Tổ, đem khoảng hai ba chục kỵ binh chạy về Lạc Thọ. 
Tần Vương ở đại trại, thấy tùy tướng vào thưa, đã bắt được Hạ Vương về. Các tướng không tin, Tần Vương cũng còn ngờ vực, thì thấy Dương Vũ Uy cùng Bạch Sĩ Nhượng áp giải Kiến Đức vào trung quân. Ai nấy nhìn kỹ, quả đúng Hạ Vương Đậu Kiến Đức. Hạ Vương không chịu quỳ, Tần Vương cười phán: 
- Ta chinh phạt Vương Thế Sung, can gì đến ngươi vượt đường xa tới đây để mắc phải tinh binh của Đại Đường? 
Kiến Đức chẳng nói gì, chỉ lẩm nhẩm vài tiếng như tỉnh, như mê : 
- Nay chẳng tự đến, lại phải đi xa đem về! 
Tần Vương lại cười, hỏi hai tướng Vũ, Bạch: 
- Làm sao mà các ngươi lại bắt được Hạ Vương? 
Sĩ Nhượng thưa: 
- Gặp chỗ Sài Quận mã thống lãnh đội "Nữ tử quân” đuổi đánh quân Hạ tới Ngưu Khẩu cố, Sài Quận mã ruổi lên phía trước, Hạ Vương chạy trốn trong đám lau sậy, bị chúng tiểu tướng bắt được. Đúng như lời dân chúng vẫn nói: "Đậu vào mồm bò" (l). Thế quả là không thoát khỏi lời đồng dao. 
1 "Đậu” trong họ Đậu Kiến Đức, trùng với "Đậu" là cây đậu. Ngưu Khẩu cốc: cửa Mồm Bò. "Trâu bò được ngày phá đỗ..." 

Tần Vương cả cười, rồi sai giam sau trại. 
Rủ áo ung dung đất Bác Hà 
Không dưng thù oán nổi can qua 
Khoe sức cậy tài, không người cứu 
Chịu kiếp cầm tù thật xót xa. 

Binh tướng Kiến Đức bị bắt, có tới hơn năm vạn, Tần Vương phán: 
- Giết thì cũng đáng tiếc, chi bằng thả, mặc cho chúng quay về quê quán. 
Các tướng sợ tha về lại sẽ quay ra chống trả, Mậu Công đáp: 
- Đậu Kiến Đức cũng là bậc anh hùng nơi thảo trạch, có đến hai mươi vạn binh trong tay, mà tan nát đến thế, thì còn kẻ nào dám thu thập tàn binh để đánh lại chúng ta. Thả ra chính là truyền được ân uy của điện hạ vậy! Vùng Sơn Đông, Hà Bắc chẳng cần đánh mà cũng sẽ ra hàng cả thôi! 
Các tướng đều thấy đúng. Tần Vương bèn bàn tới việc khác: 
- Sài Quận mã dẫn binh tới đây, sao không thấy lại gặp gỡ, hay lại gặp dư đảng của Hạ Vương lừa đi đâu rồi? 
Liền sai người đi hỏi các tướng sĩ ở tiền quân, có người nói đã kéo đi Lạc Dương. Tần Vương không hỏi nữa, mà chỉ nói với Mậu Công: 
- Ta ở lại đây, chỉnh đốn người ngựa. Khanh trước khi đi Lạc Dương, hãy về Lạc Thọ, thu thập sổ sách của nhà Hạ, phủ dụ các quận huyện, rồi mau chóng tới Lạc Dương hội quân. 
Mậu Công lĩnh mệnh, ngày hôm sau, đem quân bản bộ lên đường. Chưa đến một ngày, đã tới Lạc Thọ, Mậu Công giao một cây lệnh tiễn cho Vương Bộ, sai đi hiểu dụ quân sĩ, không được sát hại một người, không được sách nhiễu bách tính, vi phạm lập tức chém đầu. 
Dân chúng trong thành Lạc Thọ, nghe tin dữ của Hạ Vương, chỉ lo quân nhà Đường đến sẽ tàn hại dân chúng, không ngờ quân sĩ Mậu Công phép tắc nghiêm minh, phủ dụ trăm họ, di đứng đàng hoàng, nên từ già tới trẻ, đều hân hoan vui mừng, ra đường chào đón Mậu Công vào thành, mở cửa kho tàng, tra xét minh bạch. Lại mời mấy vị kỳ lão, khai đủ tên họ rồi giao lương thực, quần áo, để họ cấp cho dân chúng túng đói. Năm sáu vị kỳ lão, cúi lạy sát đất, khóc mà thưa: 
- Hạ Vương trị nước vốn thương dân, tiết kiệm tiêu dùng, giữ gìn con đỏ, ai cũng mang ơn trạch. Nay chẳng may mất nước, chúng tôi cùng trăm họ, như mất cha mẹ, được tướng quân đến phủ dụ bách tính, tơ hào không phạm, may mắn chẳng ngờ. Nay xin gửi lại số lương thực này, để nuôi quân sĩ. Dân Lạc Thọ dẫu chưa được hưởng những thứ này, cũng đủ cám ơn đức của tướng quân. 
Mậu Công gật đầu khen phải, rồi cứ thế niêm phong kho tàng cẩn thận. Vào trong cung của Kiến Đức, thấy ngay trước triều đường, một viên quan mặc hồng bào, thắt cổ chết ở thượng lương phía tây, sắc mặt vẫn như còn sống. Trên tường lại còn viết một bài tuyệt cú rằng: 
Phơi gan trải mật mấy thu tròn 
Công nghiệp thôi rồi bỗng vỡ tan 
Xuống trước suối vàng đền nghĩa bạn 
Non xanh đâu biết khóc cô hồn. 
Tế tửu nhà Hạ, Lăng Kính đề 
Mậu Công dọc xong, than tiếc không nguôi, gọi ngay quân sĩ, mang quan tài khâm liệm. Đi vào nội cung, các cửa đều mở toang, rèm màn lụa là vẫn y nguyên, ngoảnh về phía nam, một người phụ nữ đội mũ phượng, thắt cổ chết trên thượng lương, hai bên là bốn cung nữ, sắc mặt bình thường như sống, cũng thắt cổ chết từ lúc nào. 
Mậu Công biết ngay là Tào Hậu, vội sai người hạ xuống, đem quan tài khâm liệm chu đáo. Tìm khắp hậu cung, thấy chỉ còn khoảng mười cung nữ. Mậu Công sực nhớ: "Nghe nói Đậu Kiến Đức có một con gái, dũng cảm khác thường, sao chẳng thấy đâu?" Hỏi tra bọn cung nữ, có kẻ đáp: 
- Mấy hôm trước Tôn Tổ An về, nói rõ phụ hoàng bị bắt, ngay tối hôm ấy công chúa cùng Hoa Mộc Lan ra đi, chẳng biết về hướng nào! 
Mậu Công nói với Vương Bộ: 
- Đậu Kiến Đức bên ngoài có lương thần, nội cung có hiền phụ, cùng nhau trị nước, có thể coi là toàn thiện. Thế mà chỉ vì thiên mệnh chẳng nên, một sớm bị bắt, đúng là mệnh, là số, người chẳng làm gì nổi vậy? 
Thuở trước ngọc tỷ truyền quốc, cùng những báu vật của nhà Tùy, Kiến Đức phá được Vũ Văn Hóa Cập, đều đem về Hạ. Mậu Công cũng nhất nhất cất giữ cẩn thận cùng với các loại giấy tờ, sổ sách. 
Mậu Công biết rõ có Tả bộc xạ Tề Thiện Hằng, danh tiếng trong sạch, về chí sĩ tại nhà, đến mời Thiện Hằng ra trông coi Lạc Thọ. Thiện Hằng chối từ: 
- Thiện Hằng này tuổi cao, nhiều bệnh, từ lâu đã tránh xa cõi tục xin tướng quân chọn bậc hiền tài, để Thiện Hằng này được mừng thấy cảnh yên vui. 
Mậu Công đáp: 
- Trước mắt nào thấy người hiền tài nào? Tướng công không nên chối từ. 
Thiện Hằng nói: 
- Có một người, xin tiến cử trước tướng quân, có thể làm tốt việc này! 
Mậu Công hỏi: 
- Xin tướng công chỉ giùm? 
Thiện Hằng đáp: 
- Người này tên họ không rõ. Ai nấy đều gọi là Tây Bối Sinh, nghe nói trước từng dưới trướng Ngụy Công, làm chức tham quân, nay ẩn cư ở Quyền Thạch thôn, xem bói qua ngày. Người này thực có tài, cúi mình mà mời, nhất định sẽ được lòng dân chúng. 
Mậu Công bàn: 
- Nay xin tướng công hãy cứ ra trông coi tạm cho, đợi ta đi mời Tây Bối Sinh về, tướng công sẽ về nghỉ, có được chăng? 
Thiện Hằng bất đắc dĩ phải nhận lấy ấn tín, lo lắng mọi việc vậy. Mậu Công chỉnh đốn quân mã lên đường, hỏi thổ dân: 
- Quyến Thạch thôn ở đâu? 
Thổ dân thưa: 
- Qua Lôi Hạ, đi bốn năm dặm nữa, thì gặp Quyền Thạch thôn! 
Mậu Công liền lệnh cho Vương Bộ làm tiền đội đi trước. Mấy ngày sau, Vương Bộ báo đã lên Quyền Thạch thôn. Mậu Công tìm một ngôi chùa lớn đóng quân, rồi thay mũ áo, giả dạng thư sinh, cùng với hai tiểu đồng, đi vào thôn. Thôn này vốn có khoảng ba trăm bộ, cũng đã là một thị trấn. lớn, vào đến chợ, thấy một biển hàng cao chọc trời, trên đề rõ ràng. 
Tây Bối Sinh 
Tài trùm vương hầu 
Bói kinh quỷ thần 
Kẻ nghèo đặt quẻ 
Không lấy một phân. 
Mậu Công hỏi dân thôn: 
- Tây Bối Sinh ở chỗ nào? 
Người này giơ tay chỉ phía tây, đáp: 
- Đi về phía này, khoảng ba bốn nhà nữa! 
Mậu Công vào ngõ, tìm đến nhà thứ tư, thấy ngay trước cổng, có một đôi câu đối: 
Đành thua Gia Cát tam phân nghiệp 
Hãy học Văn Vương bát quái từ. 
Mậu Công biết ngay nhà này, đẩy cửa vào thấy một tiểu đồng, bước ra mời: 
- Mời quý khách ngồi, tiên sinh ra ngay! 
Mậu Công chờ một lát, thấy một người đội khăn vuông, mặc áo rộng, vén mành bước ra. Mậu Công nhìn kỹ vỗ tay mà cười: 
- Tiểu đệ tưởng ai, hóa ra Giả hiền huynh! 
Giả Nhuận Phủ cười đáp: 
- Tiểu đệ cũng đã biết trước, thế nào quân sư cũng tới đất này, nên bỏ việc bói toán, ngồi đây chờ! 
Hai bên cùng lạy chào, Nhuận Phủ cầm tay Mậu Công, mời vào "Độc Dịch hiên" ngồi, Nhuận Phủ lên tiếng: 
- Xin có lời mừng quân sư, công thành danh toại, mai kia bậc công huân của nhà Đại Đường, thì thứ nhất là phải nói đến quân sư. 
Mậu Công đáp: 
- Hiền huynh là bậc tri kỷ từ xưa, nói gì đến công huân, danh tiếng, chẳng qua cũng là trọn được cái chí mình mà thôi? 
Uống trà xong, tiệc rượu dọn ra, Mậu Công không lời từ chối, cạn ngay mấy chén. Nhuận Phủ hỏi: 
- Quân sư việc quân không rõ, cớ sao lại tới thôn vắng này làm gì? 
Mậu Công đem chuyện bắt Kiến Đức, gặp Thiên Hằng, kể một lượt Nhuận Phủ cười nghiêng ngửa mà rằng: 
- Tiểu đệ từ ngày Ngụy Công xảy biến, lòng đã như cành khô, tro nguội, dứt hẳn chuyện lợi danh, chỉ nghĩ đến chuyện nơi sông núi, sống cảnh ngư tiễu. Không ngờ gặp được kỳ nhân, truyền cho tiên thiên số học, thật thấy huyền diệu thâm sâu. Tiểu đệ nghĩ kỳ thuật này, có thể cứu người, lợi vật, chẳng còn lo gì đến kiếp sống thừa, thì vừa gặp quân sư tìm đến. 
Mậu Công nói: 
- Tài năng kinh bang tế thế như hiền huynh, tiểu đệ thật bội phục. Nhưng không hiểu cái học lý số huyền diệu này, hiền huynh được ai truyền cho, xin được nghe thật! 
Nhuận Phủ đáp: 
- Xin quân sư uống hết ba chén lớn, rồi tiểu đệ nói thì nhất định quân sư phải bái phục. 
Mậu Công liền nâng uống ngay ba chén lớn. 
Nhuận Phủ nói: 
- Ban đầu, có một lão tướng nhà Tùy là Dương Nghĩa Thần, "hung trung thao lược", thấu hiểu thiên văn lý số, nhân Tùy triều hỗn loạn, không ra làm quan nữa, ẩn cư trong vùng hồ đầm Lôi Hạ. 
Mậu Công ngắt lời: 
- Đúng là Dương Nghĩa Thần, tiểu đệ trước đây cũng có được biết, lại được chỉ giáo ít nhiều. Thế là Nghĩa Thần lão tướng truyền thụ cho hiền huynh sao? 
Nhuận phủ đáp: 
- Không phải. Dương Thái bộc có một người cháu gái, họ Viên, tên gọi Tử Yên, nhà Tùy kén làm cung nữ. Cô gái này ngay từ nhỏ chẳng thiết nữ công, chỉ thích xem trăng ngắm sao, cùng là chuyện tính toán kinh vĩ độ số, cái gì cũng thông thạo, vì vậy Tùy Dượng Đế phong làm Quý nhân. Gặp loạn thí nghịch của Vũ Văn Hóa Cập, Tử Yên tìm cách trốn về với Nghĩa Thần, ý muốn cạo đầu đi tu. Nhưng Nghĩa Thần tính rằng còn gặp được quý nhân để nên duyên chồng vợ, hưởng lộc suốt đời. Năm trước tiểu đệ ngẫu nhiên ẩn cư ở Lôi Hạ, làm láng giềng với Nghĩa Thần, sớm hôm quấn quýt, tiện nội lại mến Tử Yên, vì vậy mà được học hỏi ít nhiều. 
Mậu Công hỏi: 
- Nay Dương Thái bộc còn không? 
Nhuận Phủ đáp: 
- Dương lão tướng đã quy tiên rồi? Viên Quý nhân cùng mẹ con phu nhân, hiện đều đang thủ mộ. 
Mậu Công hỏi: 
- Mộ ở đâu? 
Nhuận Phủ đáp: 
- Ngay trong rừng, là phần mộ của Dương lão tướng, gia quyến ở ngay cạnh bên. 
Mậu Công nói: 
- Dương Thái bộc tuy mất, nhưng tiểu đệ đã từng được biết thái bộc lúc sinh tiền, nay đến trước mộ viếng thăm, cũng là mong gặp quý nhân một lần, không biết nên chăng? 
Nhuận Phủ đáp: 
- Cũng nên! 
Mậu Công bèn sai tiểu đồng sắp đủ lễ vật, cùng Nhuận Phủ đi bộ tới, thấy mấy mẫu gò hoang, một nắm đất nhỏ, dẫu là cành lá rườm rà, khó tránh cáo thỏ dẫm đạp. Mậu Công than: 
- Kết cục của bậc anh hùng, chẳng qua cũng đến thế này! 
Nhuận Phủ vội vào báo cho Viên Tử Yên, Tử Yên gọi ngay Hinh Nhi thay tang phục, đến trước mộ đáp lễ, vái mời vào hương đường. Mậu Công xin được gặp Tử Yên, Tử Yên cũng không phải loại phụ nữ quá nhút nhát sợ người lạ, liền mặc áo tang trắng ra tiếp. 




Mậu Công nhìn kỹ thấy dung mạo đoan trang, thùy mị, nhan sắc thật mười phần diễm tuyệt, hoàn toàn khác hẳn với vẻ đẹp hào nhoáng phù hoa, không giấu dược kính phục, mà thưa: 
- Hạ quan vâng vương lệnh về Lạc Thọ trông coi việc nhà Hạ, trong nội cung của Tào Hậu có thấy một cung nữ, tên là Thanh Cầm, vốn là cung nữ cũ của Tùy triều, nói là người hầu của phu nhân, ca tụng nhiều tài học của phu nhân, ngay cả bậc nam nhi cũng ít người có. Hạ quan định đưa Thanh Cầm về để hầu hạ bên phu nhân, nhưng chưa biết ý phu nhân ra sao? 
Tử Yên đáp: 
- Thiếp chỉ ngại Thanh Cầm rơi vào tay bọn lính ngỗ ngược, cũng không ngờ lại ở trong nội cung. Nhưng hiện nay thiếp cũng cảnh lâm tuyền thảo dã, heo hút một thân, thân mình còn chẳng giữ nổi, lại còn đeo thêm việc cơm áo nữa sao, thật phụ lòng quan thiết! 
Nói xong, đứng dậy giã từ. 
Mậu Công như tỉnh như mê, hồn vía bay biến đâu cả, chỉ đành quay ra, nói với Nhuận Phủ: 
- Tiểu đệ lãng tử giang hồ, cũng bởi chí chưa toại, nên chưa nghĩ đến chuyện gia thất, nay gặp Tử Yên, thật xứng tâm hợp ý, chỉ mong hiền huynh làm nguyệt lão, không biết có thể thỏa nguyện được chăng? 
Nhuận Phủ đáp: 
- Đó là một việc rất đẹp, tiểu đệ không dám chối từ, còn việc có thành hay không, xin quân sư cứ về nhà cỏ của tiểu đệ ngồi chờ. Tiểu đệ xin đi một chuyến xem sao, rồi sẽ về thưa lại. 
Mậu Công thong thả cùng Nhuận Phủ trở về. Mậu Công ngồi chờ một hồi lâu, Nhuận Phủ quay lại mặt mày hớn hở báo tin: 
- Viên Quý nhân lúc đầu vẫn giữ ý ở vậy suốt đời, tiểu đệ phải ba bốn lần khuyên giải mới bằng lòng. Nhưng đòi phải ưng thuận ba điều, kể ra thì những điều này, quân sư cũng dễ nghe theo thôi! 
Mậu Công hỏi: 
- Là những điều gì vậy? 
Nhuận Phủ đáp: 
- Thứ nhất, phải chờ mãn tang Dương lão tướng thì mới về thờ quân sư. Thứ hai, phải đưa theo cả mẹ con Hinh Nhi cho đến khi thành đạt. Thứ ba, gần đây có am Nữ Trinh, là nơi tu của bốn phu nhân của Tùy Dượng Đế, cùng với Viên Quý nhân là chị em khác họ, trước kia thì Dương lão tướng cấp thức ăn vật dùng đầy đủ, nay nếu nhận lời Châu Trần, quân sư phải nhận làm tròn lời hứa đó của Dương lão tướng, cũng là để giữ được gắn bó chị em giữa Viên Quý nhân cùng các phu nhân. Chỉ có ba điều vậy thôi, nếu quân sư nghe theo, thì Viên Quý nhân là người của quân sư rồi đó. 
Mậu Công vui mừng mà nói ngay: 
- Chả phải ba điều, dẫu có bao nhiêu điều nữa tiểu đệ cũng xin nghe theo? 
Rồi gọi tiểu đồng, đến ngay chỗ Vương Bộ, lấy hai trăm lạng bạc, mười tấm gấm, cởi đai ngọc đang đeo trên người, đưa cho Nhuận Phủ mà rằng: 
- Việc quân bận rộn, không kịp lo cho đầy đủ, chỉ có thế này, xin hiền huynh lo hộ cho! 
Nhuận Phủ nhận, rồi cùng tiểu đồng đưa đến tận thảo đường của họ Dương, nói rõ Mậu Công xin theo cả ba điều. Tử Yên nhận lễ vật lấy ra một quả cầu Thái ất hỗn thiên, rút trên đầu một cành trâm vàng, đưa cho Nhuận Phủ, nhờ giao lại cho Mậu Công. Mậu Công nói: 
- Ơn hiền huynh lo cho chuyện gia thất, mai kia tiểu đệ xin có lễ mọn dâng hiền huynh, rồi cả văn thư về việc quản hạt Lạc Thọ nữa cũng sẽ đưa tới luôn, chúng ta cùng phụng sự minh quân, cũng là một việc tốt đẹp vậy. 
Nhuận Phủ đáp: 
- Chuyện này hãy khoan nói tới. Chỉ xin hỏi quân sư, Vương Thế Sung phá xong nay mai, thì liệu Đơn nhị ca sẽ ra sao? 
Mậu Công nhăn mày đáp: 
- Nếu bàn chuyện Đơn viên ngoại, sợ sẽ chẳng nên công chuyện gì cả ? 
Mậu Công đem chuyện Hùng Tín đuổi bắt Tần Vương như thế nào, kể lại tỉ mỉ một lượt. Nhuận Phủ dậm chân mà than: 
- Nếu mà như thế, việc Đơn nhị ca quả là đáng lo. Quân sư cùng với Tần Thúc Bảo thuở trước đều có lời thề sinh tử, cũng nên nghĩ cách thế nào để cứu vãn được ít nhiều chăng! 
Mậu Công đáp: 
- Điều ấy thì đương nhiên rồi! 
Trời đã chiều, thấy có nhiều xe ngựa đến đón, Mậu Công đành phải chia tay với Nhuận Phủ. Sau đó đem ấn tín, sổ sách của Lạc Thọ, cùng với thư và hai trăm lạng bạc, đem theo một trăm lạng vàng, cùng với cung nữ Thanh Cầm, giao cho Viên Tử Yên. Hai tiểu đồng về thưa: 
- Cung nữ cùng lễ vật, phu nhân đều đã thu nhận. 
Còn sai quan thì trình rằng: 
- Đem văn thư, lễ vật đến nhà Giả tiên sinh, thì cửa đóng kỹ, không một bóng người, đành phải quay về. 
Mậu Công kinh ngạc: 
- Chẳng nhẽ mấy hôm trước ta gặp ma hay sao? 
Vội cưỡi ngay ngựa lên đường đi Quyền Thạch thôn, thì quả thế thật. Hỏi láng giềng đều nói canh năm đêm trước đã lên đường cả nhà, nói là đi dâng hương ở Thiên Đài. Mậu Công than thở: 
- Giả hiền huynh sao bất tình đến thế! 
Trong lòng nghi hoặc, lần đến nhà Dương Thái bộc. Viên Tử Yên gọi Hinh Nhi thay áo mũ màu ra đón, Mậu Công cầm tay hỏi han mấy câu, rồi lên ngựa, về ngay Lạc Dương. 
Chính là: 

Giữa đường nên nghĩa ruột rà 
Chia tay non nước, đậm đà tình ai!


 Nguồn maxreading.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved