Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

14 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 21,22,23,24

Hồi 21: Tình là dây oan

Ba Tư Hãn thấy con gái ông đã bước vào trong nhà rồi mới đem tất cả những tiền nhân hậu quả giữa con gái ông và Ốc Tế Cách kể ra một lượt. Ông Ba Nhan thà không nghe còn đỡ. sau khi vỡ lẽ liền nổi xung lên, chỉ mặt Ba Tư Hãn chửi lớn:

- Lão già hồ đồ kia, con gái mi ở nhà tằng tịu với trai, thế mà mi còn cho nó hại con tao!

Ba Tư Hãn đâu phải người chịu để cho kẻ khác mắng nhiếc, bởi vậy ông cũng quát trả lại. Thế là hai bên ông sui cùng nổi điên, chửi rủa om cả phòng khách.
Họ đều là người ở bên quan ngoại nên tính tình rất hung bạo, nóng nảy, một lời không hợp tức thì tuốt đao để tương kiến ngay. Và lập tức cả hai đều đã làm vậy. Bọn thị vệ đứng hai bên hành lang nghe trong phòng khách náo loạn, vội chạy vào khuyên can rồi đưa Ba Tư Hãn ra bên ngoài. Trong nhà bà phúc tấn vợ ông Ba Nhan cũng chạy tới khuyên can chồng.

Từ hôm đó, hai vợ chồng Ba Nhan sống cuộc sống âm thầm đau khổ, đôi mắt lúc nào cũng đẫm lệ, cõi lòng nhàu nát như dưa. Tâm trạng thê thảm đó khiến ông Ba Nhan không chịu nổi nữa. Qua ngày thứ bẩy, ông mặc đủ nhung trang, lên giáo trường hạ lệnh cho quân sĩ toàn thành Chương Kim phải tề tập nghe lệnh. Ông đứng bên trướng đài, đem việc Ốc Tế Cách âm mưu giết hại Ngoã Ngạch như thế nào, người Kiến Châu vệ khinh khi người Đổng Ngạc bộ ra sao nói cho toàn quân được rõ.



Ông nói lúc lâm ly, lúc cảm khái hùng hồn, khiến cho ai nấy tóc dựng đứng, mắt trợn tròn xoe. Sau khi thuyết phục ba quân ông thao điểm trận đồ, huy động mã bộ quân sĩ, mãi tối mới căng lều an nghỉ. Đêm hôm đó ông không về nhà, nằm một mình trong trướng, đèn đuốc thắp sáng trưng. Tiếng tù và thổi u u từng chập đến nhức óc. Ông nhớ tới đứa con cưng bị chết thảm thương, thêm căm hận, lòng như có lửa đốt…
Giữa lúc ông đang khắc khoải với bầu tâm sự não nề ấy thì tên thị vệ tiến vào bẩm báo:

- Bên ngoài có Phụng Cát Đại Hãn và Sách Tràng A bộ chủ lại yết kiến.

Ông nghe tên hai người này bỗng giật nảy mình. Phung Cát Đại Hãn vốn là một vị quốc vương hạng nhất nhì nơi quan ngoại. Hùng binh dưới quyền chỉ huy của ông có tới vạn người, hơn mười toà thành có tiếng tăm đều nghe theo lệnh ông. Vậy mà đêm nay đích thân ông lại đến Đổng Ngạc bộ thì nhất định là có chuyện gì quan trọng lắm.

Nghĩ vậy. Ba Nhan vội chạy ra đón khách. Ra đến cống ông thấy bọn Phụng Cát Đại Hãn đã có tới hai, ba ngàn người cắm lều trại ngổn ngang. Đại Hãn cưỡi trên lưng ngựa, trông thấy Ba Nhan, vội nhảy xuống, vẻ mặt tươi cười. Hai ông tay bắt mặt mừng dắt nhau tiến vào trong trưởng. Sách Tràng A bộ chủ cũng theo vào. Ba người ngồi xuống ghế. Ba Nhan truyền lệnh bày tiệc.

Một lúc sau, bàn tiệc đã dọn xong. Ông Ba Nhan chường cho Phụng Cát Đại Hãn ngồi vào ngôi giữa. Còn Sách Tràng A bộ chủ ở ngôi khách. Rượu được ba tuần, Đại Hãn mới lên tiếng.

- Nghe tin túc hạ cùng với cháu ruột của quan đô đốc Kiến Châu vệ kết mối thâm cừu, hai bên cùng điều động binh mã để chém giết lẫn nhau. Tại hạ đêm nay đến đây với mục đích giảng hoà đôi bên, như thế nên chăng?

Đại Hãn nói tới đây ngừng lại. Ba Nhan lòng đầy oán hận song chỉ còn biết im lặng cúi đầu chờ…

Đại Hãn lại nói tiếp:

- Cậu con trai của túc hạ bị chín tên cường đạo giết chết. Trong số chín tên đó có một tên là Ốc Tế Cách. Túc hạ nên nhớ rằng cái tên Ốc Tế Cách này không giống cháu ruột quan đô đốc được. Ốc Tế Cách cháu ruột quan đô đốc đường đường là một trang nam nhi anh hùng, há chịu làm một kẻ đạo tặc có hành vi đê tiện được sao? Quan đô đốc Giác Xương An chỉ vì hoà khí của đôi nhà quan thiết nên mới có ý mời tại hạ đến đây để giảng hoà đôi bên. Hiện nay Ốc Tế Cách tự thân đem trâu dê vàng lụa đến đợi lệnh ngoài viên môn, nếu túc hạ vui lòng thì tại hạ sẽ cho gọi nó vào đây, một là tạ tội cùng túc hạ, hai là quỳ gối lạy túc hạ, nguyện làm con nuôi cho túc hạ hết cảnh cô đơn tịch mịch. Trái lại, nếu túc hạ không chịu, tại hạ có đem sẵn đây bốn năm ngàn quân tinh nhuệ, hễ thấy kẻ nào động thủ trước thì tại hạ sẽ đánh kẻ đó ngay…

Phụng Cát Đại Hãn nói tới đó bỗng sa sầm nét mặt. Ba Nhan vốn từ lâu sợ thế lực của Đại Hãn nên chẳng tiện nói. Tuy nhiên, khi sực nhớ tới thù con bị giết, ông lại thấy chẳng có cái lý gì giảng hoà cả. Ông tiến thoái lưỡng nan, thành thử do dự trầm ngâm, chẳng nói được nên lời.

Bỗng một hồi chiêng trống nổi lên rầm rĩ bên ngoài. Rồi tin tức dồn dập đưa vào:

- Công tử Ốc Tế Cách thân tự tới khao quân, hiện đang ở ngoài cửa doanh đợi lệnh bộ chủ.

Ba Nhan liếc nhìn Phụng Cát Đại Hãn đang sa sầm nét mặt, còn Sách Tràng A bộ chủ thì mắt tròn xoe nhìn chòng chọc vào mạt ông lộ vẻ hưng ác đáng sợ. Ông bối rối, không biết hành động ra sao. Rồi một tên thị vệ bước ra, cất tiếng:

- Xin mời công tử Ốc Tế Cách vào doanh.

Một lát sau, công tử họ Ốc cất cao bước, tiến thẳng vào.

Khi thấy Ba Nhan, chàng vội bước lên vài bước, làm lễ xong lại lui xuống đứng ra một bên, thái độ hết sức cung kính. Lúc Ốc Tế Cách vừa mới bước vào, ông Ba Nhan lấy làm căm hận lắm. Nhưng khi nhìn kỹ lại thì thấy chàng là một trang thiếu niên khôi ngô anh tuấn, phong tư tài mạo tuyệt vời, chẳng khác gì cây ngọc, cành vàng, ông tự nhiên mềm lòng, đổi sầu làm vui, mặt bỗng tươi cười như quên hết mọi sầu não bấy lâu. Lại nữa, Ốc Tế Cách đứng hầu bên cạnh cứ luôn mồm xưng tụng một cha nuôi, hai cha nuôi, khiến nỗi oán cừu chất chứa trong lòng ông bỗng như biến mất tự hồi nào.

Ngoài cửa doanh cỗ bàn bày la liệt, vàng bạc lụa vải chất từng mâm từng khay để khao thưởng quân sĩ. Đám quân sĩ được một bữa no say, mặt tươi như hoa nở, miệng cười như nắc nẻ. Họ đồng thanh hô vang:

- Đa tạ công tử Ốc Tế Cách! Đa tạ công tử!

Bên trong trướng, yến tiệc lại bày thêm. Ốc Tế Cách thân tự nâng chén mời. Ba Nhan tuổi đã lớn, tính thích rượu, lại thấy trang thiếu niên anh tuấn đứng cạnh, luôn luôn rót vào tai ông những lời thân mật êm dịu nên càng uống dữ, đến say khướt. Đêm đó, ba người ở lại trong trướng nghỉ ngơi.

Sáng hôm sau, ông Ba Nhan đưa mọi người vào thành, thẳng đến phủ bộ chủ. Ông còn đem Ốc Tế Cách vào nội viện bái kiến phúc tấn, rồi kể cho bà nghe chuyện nhận Ốc Tế Cách làm con nuôi. Bà phúc tấn thấy chàng thiếu niên họ Ốc khôi ngô quyền quý thì trong lòng mừng rỡ khôn xiết. Dưới gối bà hiện đang lạnh lùng hiu quạnh, cho nên có một người con nuôi như Ốc Tế Cách thì còn gì sung sướng vui vẻ cho bằng. Bà bèn lưu chàng ở lại trong phủ, ngày ngày mặc sức chuyện trò.

Nàng dâu của hai ông bà Ba Nhan từ khi trong nhà có Ốc Tế Cách, tự nhiên thấy tiêu tan hết mọi ưu phiền. Nàng là một Văn Quân goá bụa còn chàng cũng vốn một Lưu Lang đã một lần xa cách tình thương, hai người lúc đó tha hồ mà thề non hẹn bể.

Nhưng ngày vui ngắn chẳng tầy gang. Vừa mới đó mà Ốc Tế Cách đã ở lại trong phủ đến mười ngày rồi. Hôm trước, khi ra đi, chàng có đem theo một ngàn binh sĩ, đóng tại ngoại thành. Bọn quân sĩ thấy chủ trướng vào thành đã lâu mà chẳng trở lại, cho rằng đã bị Ba Nhan âm mưu hãm hại, bèn đánh trống khua chiêng, bồ vây tứ phía, miệng hô lớn:

- Trả lại chủ trướng cho bọn ta! Trả lại chủ trướng cho bọn ta!

Binh sĩ giữ thành thấy vậy vội chạy vào bẩm báo. Khi đó, chính là lúc Ốc Tế Cách đang cùng người yêu vui đùa trong hoa viên, khó mà xa nhau nửa bước. Họ muốn sống bên nhau vĩnh viễn, liền bàn nhau đặt ra một kế sách. Rồi một hôm, Ốc Tế Cách nói với ông Ba Nhan:

- Đổng Ngạc bộ kiến với Kiến Châu vệ vốn cùng nhau một tổ sinh ra, nhưng hiện chia làm mười hai xứ ở rải rác khắp nơi. Giá thử có một đạo quân từ đâu tới xâm phạm cõi bờ, e rằng khó bề cứu ứng. Chi bằng đôi nhà hợp lại làm một, cùng ở một nơi. Hiện nay Kiến Châu vệ binh hùng tướng mạnh, nếu lão nhân gia vui lòng tới đó cư trú, ắt nhàn hạ yên vui hơn. Huống hồ ở nơi đấy lại có thúc thúc của Can nhi (con nuôi) bảo hộ thì lão nhân gia có còn gì phải lo ngại nữa!

Ốc Tế Cách trình bày xong. Ba Nhan bùi tai bèn đem vợ con theo Ốc Tế Cách vào ở trong thành Kiến Châu vệ.

Thế là đô đốc Giác Xương An Kiến Châu vệ chẳng mất một tên quân, mũi giáo mà được tất cả thành trì của Đổng Ngạc bộ. Chàng họ Ốc cũng về ở với ông bà Ba Nhan một chỗ.

Nhưng về sau thấy ở vậy không tiện, chàng bèn chọn một nơi hợp ý nhất tại Đổng Ngạc bộ để ở riêng với người yêu cho tự do hơn.

Từ đó hai chú cháu Ốc Tế Cách uy danh ngày một lớn, thành trì chiếm được cũng ngày một nhiều. Sách Tràng A bộ chủ ở kế cận thấy vậy lòng thắc thỏm chẳng yên. Ông rất sợ người Kiến Châu xâm phạm dần địa giới xứ ông, bèn cho con trai là Ngô Thái sang bên nhà sui gia là Cáp Đạt Cát Hãn Vương Thái mượn năm ngàn quân để gìn giữ thành trì khắp nơi. Ông cũng dặn dò mọi người là cố giữ bờ cõi chứ không nên đi xâm phạm xứ khác.

Cổ ngữ có câu: "Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng". Đó là trường hợp của mấy bộ lạc này. Họ muốn yên thân, nhưng người Kiến Châu vệ đâu có để cho họ yên. Đô đốc Giác Xương Lê có năm người con trai chẳng khác gì đàn cọp dữ. Họ mang quân đi tới đâu là phá thành cướp đất tới đó, bao nhiêu thôn xóm đã bị đốt, bao nhiêu phố phường đã bị đánh. Người con cả tên gọi Lễ Đôn Ba Đồ Lỗ, người thứ nhì gọi Ngạch Nhĩ Cổn, người thứ ba gọi Giới Kham, người thứ tư Tháp Khắc Thế và người thứ năm gọi Tháp Khắc Thiên Cổ. Trong số năm người này Lễ Đôn là xuất chúng nhất. Đôn một người một ngựa, qua lại muôn quân ngàn ngựa như vào chỗ không người.

Hồi đó, bọn năm anh em nhà này kéo nhau đánh thẳng tới Tô Khắc Tô Hữ Hà bộ, thu phục tất cả thành trì. Bộ này có một thành tên gọi là Đồ Luân thành, chỉ vì không chịu đầu hàng, bọn họ liền giết sạch. Các bộ lạc miền Mãn Châu nghe tin này, ai ai cũng bay hồn bạt vía.

Vương Thái thấy nguy bèn sai người sang triều cống Minh triều, lại cáo thêm việc người Kiến Châu vệ hoành hành bất pháp. Lịch hoàng đế nhà Minh nghĩ ngay một kế "dĩ độc trị độc" để kiềm chế bớt sự cuồng ngạo của người Kiến Châu vệ.

Sau khi tra cứu, biết tổ phụ của Vương Thái xưa là Tốc Hắc Thắc, đã từng được Minh triều phong hiệu, nhà vua bèn phong Thái làm quan hữu đô đốc Cáp Đạt bộ. Ngài còn dặn bảo Kinh lược sử Liêu Đông phái binh đưa Thái về bộ. Được Minh triều vinh sủng, Thái đâm ra cương ngạnh. Bộ lạc các miền lân cận về đầu hàng ngày một đông. Thái đứng giữa ngầm đem toàn lực để chống người Kiến Châu vệ và Mông Cổ, không muốn để cho họ xâm phạm bờ côi của Minh triều.

Đô đốc Kiến Châu vệ Giác Xương Lê đích thân đem quân tới áp chiến, bị Thái đánh cho một trận tơi bời. Người Kiến Châu vệ từ đó hận Thái đến cốt tuỷ. Hồi ấy, miền Kiến Châu có một viên kiện tướng tên gọi Vương Cảo. Dưới trướng Cảo có một đại đội hổ binh leo núi như cọp, vượt sông như rái cá.

Quân của Cảo đi tới đâu cũng không cần giao chiến, chỉ doạ nạt là đủ để địch thủ xin hàng. Suốt giải Ngũ Hành về mặt đông, nơi nào cũng bị Cảo thu phục cả. Do đó đô đốc Giác Xương Lê đối với Cảo cũng có biệt nhãn. Hai người thường bày tiệc trong phủ, nhậu nhẹt say sưa với nhau.

Một hôm, miền Mãn Châu có hội Lễ mẫu. Đền mẫu các nơi đều có lên đồng hầu bóng, quang cảnh rất là náo nhiệt. Nhà nào nhà nấy đều làm cỗ đãi khách. Hôm đó, không cần nói ai cũng biết, trong phủ đô đốc khách khứa đông như kiến, rượu thịt chất như rừng.

Vương Cảo được coi là thượng khách. Cảo đem con trai theo, cùng vào dự tiệc. Người con cả tên gọi A Thái, năm đó mười tám tuổi, mặt mày bảnh bao chẳng thua gì Ốc Tế Cách. Tiệc vào đã được nửa cuộc. Bỗng phi tử của đô đốc Giác Xương Lê xuất hiện, sai người ban phát cho bọn con cháu trong họ những cái túi sặc sỡ. A Thái cũng được một cái. Khi tiệc tan,, theo lễ thì mọi người phải tạ thưởng. A Thái theo mọi người mà vào. Tiệc lớn nên phúc tấn của bốn vị bối lặc đều có đem theo con gái tới dự. Trong số năm phúc tấn chỉ có bà Tháp Khắc Thế, tên gọi Hỉ Tháp Thích, là xinh đẹp hơn cả. Bà này nói cười duyên dáng. Trong căn phòng rộng, người ta chỉ nghe có tiếng nói của bà. Vừa nhìn thấy A Thái, bà liền nắm lấy tay chàng mà nói:

- Úi chà! Thằng bé đẹp thực!

Vừa nói, bà vừa đẩy A Thái lại trước mặt phi tử của đô đốc Giác Xương Lê. Bà phi này nhìn chằm chặp vào A Thái từ đẩu đến chân khiến Thái mắc cỡ, đôi má đỏ như gấc chín.

Bà Hỉ Tháp Thích cùng với bà Nạp Thích, vợ lẽ của bối lặc Tháp Khắc Thế, thấy vậy vỗ tay cười như nắc nẻ. Chung quanh còn có cả phúc tấn của bối lặc Lễ Đôn cùng các cô nàng mới xuân xanh đôi tám, cũng xúm lại nghe. Bà phi tử cười nói:

- Người ta vốn con nhà gia giáo, chứ có đâu có ranh mãnh, tai quái như bọn con gái chúng mày. Chúng mày phải có lễ độ mới được. Chúng mày chẳng thấy đôi má người ta đỏ ửng lên như thế kia sao? Thật dễ thương đấy chứ?

Bà Nạp Thích cũng lên tiếng hoạ theo:

- Này bà! Ngày đêm bà thường phàn nàn không tìm thấy một chú rể tài mạo song toàn. Hôm nay, chắc bà đã vừa ý với cậu này rồi chứ? Thiết tưởng bọn ta không nên để lỡ dịp.

- Hãy giữ cậu ta lại trong phủ rồi gả con gái cho có phải không?

Lời bà Nạp Thích làm cho bà phi tử sực tỉnh. Bà liền nói:

- Tốt lắm! Ta đem con cháu lớn mà gả cho cậu ta thì còn gì xứng đôi vừa lứa hơn nữa chứ!

Con cháu lớn chính là cô con gái đầu của bối lặc Lễ Đôn. Cô này khuôn mặt trái xoan, cười nói có duyên, mắt bồ câu, mày lá liễu, thân hình yểu điệu, tính nết đoan trang, tuy chưa phải nghiêng nước nghiêng thành nhưng cũng có thể liệt vào hàng sắc nước hương trời.

Bà phúc tấn Lễ Đôn nghe xong liền tiếp lời:

- Bà nói thì hẳn là tốt rồi. Con mắt của bà thì nhầm làm sao được chứ!

Giữa lúc các bà đang cao hứng nói cười thì đô đốc Giác Xương Lê từ ngoài bước vào. Ông thường liên lạc mật thiết với Vương Cảo đã từ lâu cho nên khi nghe chuyện gả bán vừa rồi thì khen lấy khen để, vỗ tay vào đùi. Thực ra thi vợ chồng bà Lễ Đôn muốn cho con gái lấy chồng xa, nhưng vì cha mẹ đã có ý đứng làm chú hôn trong việc này thì còn làm sao dám chống đối.

Chẳng bao lâu, phủ đô đốc lại một phen tưng bừng náo nhiệt. Người ta rầm rộ tổ chức lễ cưới. Chương Kinh, Kiến Châu, từ các nơi thuộc hạ đều đem lễ vật lại mừng: bộ lạc Tô Khác Tô Hữ, bộ lạc Vân Hà, bộ lạc Vương Giáp, bộ lạc Triết Trần, bộ lạc Nạp ân, bộ lạc áp Lục Giang, bộ lạc Ngột Tập, bộ lạc Ngoã Nhĩ Khách, bộ lạc Khố Nhĩ Cáp, bộ lạc Ngư Thích, bộ lạc Diệp Hách, tất cả các bộ chủ có tên tuổi khắp Mãn Châu đểu tới đông đủ. Đô đốc Giác Xương Lê sai người nhất nhất khoản đãi niềm nở, trọng thể. Thật là một cuộc vui hiếm có xưa nay ở đất Mãn Châu này.

Sau khi A Thái lấy được cô cháu của đô đốc vệ Kiến Châu, hai vợ chồng ăn ở với nhau rất là hoà thuận, mặn nồng. Vợ Thái người vừa đẹp mà tính nết lại hiền hậu. Nhạc gia đối với Thái cũng rất tử tế. Bởi vậy đã có người đùa bảo Thái có số may "chuột sa chĩnh gạo". Vợ thái còn lưu ý cả tới tương lai của chồng nên nàng có lần ngầm xin ông nội giúp đỡ cho chồng mình. Đô đốc Giác Xương Lê nể lời cô cháu gái bèn phong cho A Thái chức Chương Kinh, trấn đóng tại thành Cổ Tượng.

Vợ Thái hí hửng chạy về cho chồng hay và giục chồng đáo nhiệm. Nào ngờ Thái mắc phải cái tật mê luyến vợ con. Vợ Thái bao lần khuyên nhủ rút cục Thái vẫn ỳ ra không đi. Vợ Thái bực mình lắm, bèn đem rửa sạch son phấn dồi mặt, cỏi bỏ hết áo sang quần đẹp, rồi mặc bộ quần áo cũ rách, hết sức tiều tuỵ. Nàng lại còn quỳ xuống trước mặt chồng, khóc thút thít mãi không thôi, Thái vội đỡ vợ đứng dậy, bất giác lệ cũng từ từ rơi trên má.


Hồi 22: Tiểu tiện cả ra sảnh đường

Cô cháu gái của đô đốc Giác Xương An vốn được bà nội hết sức yêu quý. Nàng vừa có một nhan sắc diễm kiều lại vừa có tính tình nhu mì khiến bất cứ ai trong phủ cũng phải ưa thích, ngợi ca. Các bối lặc ở những bộ lạc lân cận đều đem lê vật tới cầu hôn, nhưng không ai bắn trúng chim sẻ cả! Bởi vì bà nội không muốn gả chồng xa cho nàng mà chỉ muốn cưới một anh chàng ở rể ngay trong nhà. Đến khi gả cho Chương Kinh A Thái rồi thì nàng, vì tương lai của chồng mà năm lần bảy lượt giục chồng lên đường phó nhiệm ở thành Cồ Tượng.



Theo ý A Thái, chàng muốn vợ con cùng đến nhiệm sở với mình nhưng bà nội nàng không chịu. Mà nàng thì cũng chẳng muốn xa chồng chút nào. Bởi thế, hai vợ chồng mới ở trong phòng buồn khóc, lòng dạ ngổn ngang.

Bọn thị nữ thấy tình cảnh bi thảm như vậy, vội chạy tới báo cho bà Hỉ Tháp Thích. Bà Thích lại lên báo cho bà nội nàng biết. Bà phi từ tỏ vè ngạc nhiên sợ hãi nói:

- Ấy thế thì hỏng. Khóc mãi để chết mất cháu cưng của già này ư?

Chưa nói hết câu, bà đã vội đứng dậy. Bà Nạp Thích cùng bà Hỉ Tháp Thích hề hai bên đỡ cho bà đi tới phòng cô cháu gái lớn. Đằng sau thì bốn nàng dâu với vài đông thị nữa đi theo.

Cô cháu gái lớn đang khóc nghe nói bà nội tới, vội lau nước mắt, chạy ra đón tiếp. Bà phi tử thấy nàng đầu tóc rũ rượi, áo xiêm rách rưới, bèn kêu lên:

- Như thế không được đâu! Bọn chúng mày có hai đứa, mới lấy nhau được vài tháng mà đã đảnh nhau rồi ư?

Vừa nói xong, bà liền giơ cao cây gậy trúc vụt vào lưng, vào đầu chàng rể A Thái mà nói:

- Cháu gái tao đẹp như nàng tiên, thế mà mày lại đám đánh nó ư?

Cô cháu gái thấy bà nội nối nóng đánh chồng, vội chạy tới đỡ lấy cây gậy trúc. Đoạn nàng kể việc xé áo khuyên chồng của mình cho bà nội nghe. Bà phi tử nghe xong, vỡ lẽ, gật gật đầu nói:

- Ừ! Có thế mới gọi là con gái của dòng họ quan đô đốc chứ!

Bà nói xong, quay đầu lại bảo A Thái:

- Hừ. Ông ngoại cháu có ý tốt, muốn cho cháu một chức quan. Tại sao cháu lại lưu luyến vợ con mà không chịu đáo nhiệm. Thằng cháu rể yêu quý của bà ơi, cháu nên hăng hái ra đi, bà nội sẽ thế cháu nuôi dưỡng vợ con cho cháu, cháu yên lòng. Con vợ cháu được bà nội cưng nhất đấy. Cháu ra đi, vợ cháu ở nhà, đã có bà nội. Bà nội cam đoan với cháu rằng bà nội sẽ nuôi nó mập ú như con heo quay cho mà xem.

Bà phi tử nói đến đây cả nhà ai nấy cười rộ lên. Độc chỉ có một mình A Thái vẫn còn nghẹn ngào tuôn lệ. Bà phi tử lấy làm lạ, cật vấn chàng. Chàng không còn giữ được nỗi niềm riêng, bèn oà lên khóc. Chàng còn quỳ xuống trước mặt bà, đem cái ý muốn đem theo vợ con đến nhiệm sở trình bày cho bà rõ. Vợ chàng cũng nhân cơ hội quỳ xuống cạnh chồng, nài nỉ. Bà phi tử thấy vậy, thở dài nói:

- Tốt đôi lắm! Nữ tâm ngoại hướng! Cháu bà cũng bỏ bà mà đi ư?

Bà vừa nói xong thì hai hàng lệ tuôn rơi trên má. Mọi người vội xúm quanh khuyên bà. Bà Hỉ Tháp Thích đỡ bà về phòng.

Bà phúc tấn Lê Đôn Ba Đồ Lỗ ở lại trong phòng, bàn tính với con gái. Hai vợ chồng A Thái luôn miệng khẩn cầu mẹ cho cùng đi với nhau tới Cổ Tượng thành. Bà phúc tấn Lễ Đôn đành chiều theo ý con, lại mách cho con gái cầu khẩn với chồng.

Ông Lễ Đôn tỏ ra thông hiểu đạo lý nên cười nói:

- Con gái gả cho gà thì theo gà, gả cho chó thì theo chó, chứ tại sao lại cấm nó theo chồng được?

Thế rồi, ông chọn ngày làng tháng tốt để tiễn đưa hai vợ chồng lên đường.

Hôm ra đi, trong nội đường có bày tiệc tiễn hành. Hai ông bà nhạc gia của A Thái không dám khóc. Chỉ có bà phi Giác Xương An và phúc tấn Tháp Khắc Thế, Hỉ Tháp Thích là khóc đến sưng cả mắt. Đô đốc Giác Xương An một lúc sau mới tới.

Ông cũng nét mặt chẳng được vui.

Ba anh em Lễ Đôn, Tháp Khắc Thế và Giới Kham sợ cha mẹ quá thương tâm e xảy ra chuyện liền thúc giục hai vợ chồng A Thái gấp rút lên đường. Các bà phúc tấn tiến qua cổng lớn rồi từ biệt, còn bọn bối lặc đưa mãi ra ngoài thành mới chia tay. Duy chỉ có đô đốc Giác Xương An và ông Tháp Khác Thế đưa cháu mãi tới Cổ Tượng thành mới quay về.

Đô đốc Giác Xương An về đến Kiến Châu thành thì được thêm tin mừng là Vương Cảo vừa được Minh triều phong làm Kiến Châu hữu vệ đô đốc chỉ huy sứ. Các bối lặc cùng Chương Kinh miền Kiến Châu đều kéo tới chúc mừng. Cảo mở tiệc rượu nhậu nhẹt say sưa suốt ba ngày mới tan. Đô đốc giác Xương An hồi đó đã già lại nhiều bệnh. Ông lại thường nhớ cô cháu gái lớn cho nên thân thể ngày một hao mòn. Ông bèn trao quyền đô đốc lại cho người con thứ tư là Tháp Khắc Thế rồi cáo lão về vườn, không màng đến việc công nữa.

Từ khi Vương Cảo được làm chỉ huy sứ thì nhiều nơi tới đầu phục, không cần phải quan tâm gì lắm. Vương Cảo là người như thế nào mà nhiều kẻ sợ như vậy? Cảo tính rất nóng nẩy, hung tợn, đi đến đâu là đem ngay bỉnh lực ra áp chế đến đấy.

Từ khi được Minh triều phong chức, Cảo càng ngày càng hống hách, ngang tàng. Ngay cả đô đốc Kiến Châu vệ có khi cũng không chế ngự nổi Cảo. Nhờ vậy, đất đai thu phục được của Cảo đã có một diện tích khá lớn. Quan tổng binh nhà Minh thấy Cảo cũng có phần sợ hãi. Nhiều lúc sang Trung Quốc tiến cống, Cảo có coi bọn quan lớn nhà Minh ra cái gì đâu. Theo thể lệ tiến cống thì hàng năm mở hội chợ ở đất Phủ Thuận.

Nơi đây, các bộ lạc phải đem thổ sản tới dâng cống. Bọn quan lớn nhà Minh ngồi trên sảnh đường để thu nhận. Đồ tiến cống thường là: ngựa thượng thặng một con, gạo thưởng năm thạch, lụa năm tấm, vải năm tấm. Ngựa trung bình một con, gạo thưởng hai thạch lụa hai tấm, vải hai tấm. Ngựa câu một con, gạo thưởng hai thạch, vải một tấm.

Mỗi khi đem đồ tiến cống, Cảo thường lấy loại ngựa xoàng làm loại ngựa thượng thặng để kiếm thưởng. Bọn quan lớn nhà Minh dù có biết cũng phải lờ đi mà nhận. Không ngờ Vương Cảo càng ngày càng làm tàng. Các bối lặc của các bộ lạc đều nhất luật đứng dưới thềm sảnh phủ để đợi các quan lớn Minh triều xem xét đồ tiến cống ban thưởng xong thì vào tiệc, lúc đó mới tha hồ nhậu nhẹt say sưa. Duy chỉ có Cảo là bất chất luật lệnh. Cảo chẳng cần đợi các quan làm triều Minh phải thưởng cho hay không, cứ leo phắt lên ghế ngồi, lấy rượu thịt ra nhậu đại chẳng thèm đợi ai.

Bọn tả hữu thấy Cảo có vẻ dữ tợn hung ác, cũng chẳng muốn làm khó dễ. Song Cảo, no say rồi lại cứ đập bàn phá ghế, chửi bới om sòm. Bọn quan lại của nhà Minh thấy Cảo nát rượu, bê bối bèn bao tả hữu dìu Cảo xuống thềm, một mặt thông báo cho đô đốc Kiến Châu vệ đừng sai Cảo đi tiến cống nữa.

Đô đốc Kiến Châu vệ lúc đó là Tháp Khắc Thế biết Vương Cảo to gan dám chửi bới bọn quan lại nhà Minh, lấy làm khoái chí lắm. Bởi vậy qua năm sau, Thế vẫn sai Cao đi tiến cống như trước. Chuyến này Cảo còn làm tàng hơn. Cao nhậu say rồi chửi bới, đập phá, thậm chí ỉa đái cả ra sảnh đường. Thế mà bọn quan lại nhà Minh cũng chẳng dám làm gì, cả đám đều bắt chước theo, trở thành ngang chướng lếu láo, không còn coi quan lại của Minh triều ra gì nữa.

Đến năm Long Khánh, Minh triều có một vị quan rất can trường. Hôm tiến cống ông đã có dự phòng trước, sai một số lớn binh sĩ túc trực ở hai bên sảnh phủ rồi ngồi đường bệ giữa sảnh, Vương Cảo ngất ngưởng từ ngoài bước vào, nết nào tật nấy, chạy bừa lên sảnh. Bỗng có tiếng hét lớn từ hai phía hông sảnh, đồng thời bọn thí vệ trên sảnh quay ngang ngọn giáo hất Cảo xuống thềm. Đến lúc xét ngựa của Cảo thì chỉ thấy toàn ngựa gầy, vị quan Minh liền cho gọi Cảo lên sảnh, thống trách một hồi rồi trả ngựa cho Cảo, chẳng thưởng gạo vải cũng chẳng thưởng rượu thịt. Cảo xấu hổ, mặt sa sầm, buồn bực trở về. Lòng oán hận không biết xì ra đâu, nên khi đi đường, Cảo gặp ai chém nấy. Bách tính miền quan ngoại bị Cảo giết kêu khổ vang trời.

Quan tổng binh nhà Minh biết rõ như vậy nhưng ông lại cho là vị quan Minh kia không tốt, bèn tâu về triều khiến vị quan này bị Minh hoàng đế cách chức. Cảo hay tin, từ đó lại hống hách, ngang tàng gấp bội. Thế rồi cứ mỗi lần đi tiến cống, Cảo mang theo nhiều quân sĩ đến gây rối quanh vùng Phủ Thuận. Lúc chợ ngựa tan rồi, Cảo đã không rút binh mà còn đi lùng bắt dân Minh đem về dinh, trói lại, để bắt chuộc, cứ mỗi người mười con trâu. Nếu chuộc trễ, Cảo giết luôn kẻ đó!

Hôm đó, có một người lái buôn sau khi đi chợ ngựa liền tới miền ải Dương Khoan Điện thuộc vùng Thanh Hà để mua bán.

Lúc đi qua dinh của Cảo, người lái buôn bị Cảo bắt vào dinh trói lại, cháu ngoại của ông ta tên gọi Bùi Thừa Tố, vốn làm quan ở Phủ Thuận, được tin đó liền tới dinh của Cảo cầu xin.

Cảo bèn mạo tự tích của ông ta dẫn dụ Tổ vào trong dinh, trói lại mổ bụng. Mấy tên quân đi hộ vệ Tổ cũng bị Cảo giết sạch.

Tin này đồn tới nha tống binh, quan tổng binh nổi trận lôi đình, một mặt tâu vê triều đình, một mặt điểm binh mã sửa soạn chém giết. Cảo bất pháp như vậy mà chẳng biết tiến lui, vẫn cứ gian dâm, cướp bóc, không có điều gì ác mà không làm.


Hồi 23: Nỗ Nhĩ Cáp Tề

Tháng mười năm đó, vào một đêm khuya không trăng, dinh Cảo bị quân Minh vây chặt. Một chi thiết giáp xông thẳng vào trong. Cả dinh đang ngủ say, hốt hoảng tỉnh dậy, người không kịp mặc áo giáp ngựa không kịp đóng yên, chạy tán loạn. Cảo chân không kịp xỏ giầy, vội chạy ra sau trướng, bò lên sườn đồi ngoái nhìn, chỉ thấy một ngàn bốn trăm binh sĩ mới trong giây lát mà đã không còn lấy một mống. Cảo biết không thể địch nổi, vội chạy về nhà. Nhưng đường rút đã bị quân Minh đóng chẹn từ lúc đâu. Cảo đành phải chạy qua Mông Cổ.

Khi tới Phủ Thuận quan, Cảo thấy có hình ảnh cùng những yết thị nói ai bắt được Vương Cảo sẽ được thưởng một ngàn lạng bạc. Cảo hoảng hồn bạt vía, đành quay về lối cũ, chui vào rừng sâu nấp trốn. Một hôm Cảo sực nghĩ tới Cáp Đạt Vạn Hãn Vương Thái trước có biết Cảo, bèn vào yết kiến Thái, kể tình hình mình bị quân Minh lùng bắt.

Thái nghe nói, bèn bày tiệc rồi hứa sẽ vì Cảo áp kinh. Cảo thấy Thái đãi mình như vậy hết sức cảm kích. Đêm đó, Cảo ngủ trong trướng khách. Gíữa lúc giấc điệp mơ màng, Cảo bỗng giật mình tỉnh dậy, thấy đèn đóm sáng như ban ngày còn thân mình đã bị trói chặt vòng trong vòng ngoài, cà thảy mười tám vòng, không cử động gì được nữa. Cảo la hét om sòm, chỉ thấy Vương Thái bước lên trướng, tay cầm lệnh kỳ, miệng hô lớn:

- Vâng tướng lệnh của quan tổng binh nhà Minh Lý Thành Lương, ta bắt tên phản tặc Vương Cảo.

Nói xong, Thái chẳng cho Cảo biện bạch, hạ lệnh cho tám tên đại hán tống Cảo vào tù xa, chạy suốt đêm về phủ Thuận Quan.

Quan tổng binh Lý Thành Lương ngồi trên công đường thẩm vấn. Cảo chẳng che giấu gì, nhất nhất cung khai và nhận tội.

Lương truyền lệnh bày tiệc, vừa uống rượu với Vương Thái trên sảnh vừa sai đao phủ thủ giết chết Cảo.

Qua ngày thứ hai Lương tâu về triều. Minh hoàng đế hạ thánh chỉ phong Vương Thái làm Long Hổ Tướng quân. Lương nhân dịp này, thu phục tất cả những miền đông thành Phượng Hoàng, cũng như một giải đất Khoan Điện. Vương Thái được vua Minh phong chức rồi, bèn diễu võ dương oai trở về. Các bộ tướng vội chạy lại chúc mừng. Thái bày ngay tiệc lớn trong trướng để ăn khao. Ngay trong bàn tiệc, Thái dặn bảo bộ hạ lo chỉnh đốn binh mã, chuẩn bị tranh thành cướp đất.

Tin này truyền tới Kiến Châu đô đốc Tháp Khắc Thế. Thế vừa bị Minh triều giết mất quan Hữu vệ đô đốc chỉ huy sứ của mình, lại vừa nghe nói Vương Thái đem quân đi đánh thành cướp đất, nhiều bộ lạc nhỏ thấy Thái được Minh triều phong chức nườm nượp chạy về đầu hàng, lấy làm buồn lắm. Quân của Thái đã tiến tới Ninh Cổ Tháp. Nhiều bối lặc miền này vội chạy tới phủ đô đốc Kiến Châu vệ để nghị sự.

Sáu vị bối lặc niên kỷ đều đã cao. Riêng Giác Xương An lại nhiều bệnh. Bởi vậy, nhất thiết công việc đều do người con ông là Tháp Khắc Thế liệu lý.

Trong cuộc hội nghị, mọi người nghe nói Vương Thái ương ngạnh thảy đều lo sợ, mặt mặt nhìn nhau, không nghĩ ra một kế nào cả. Thế thấy cử toạ câm lặng, bất giác thở dài, nói:

- Bọn ta đường đường là con cháu của dòng họ Ái Thân Giác Lê, trấn giữ biết bao nhiêu thành trì, thế mà không chống cự nổi một tên Vương Thái ư?

Giữa lúc còn đang bàn tính, bỗng nghe ở phía sau có một người lớn tiếng nói:

- Vương Thái chính là kẻ thù đời đời kiếp kiếp của bọn ta. Cái thù giết ông cha ta chẳng thể quên được!

Mọi người quay đầu nhìn lại chỉ thấy một đại hán mặt mày đen đủi, quần áo rách mướp, mắt trợn ngược tròn xoe, đang đứng ở góc phòng, miệng không ngớt phát ra những tiếng gừ gừ giữa hai hàm răng bị rét run lập cập. Lúc đó ở miền quan ngoại, tiết trời đã sang đông tuyết xuống nhiều, thế mà chàng chỉ mặc có một cái áo mỏng rách.

Bỗng mọi người giật mình. Tháp Khắc Thế vừa thấy chàng đại hán, liền tuốt lẹ cây yêu đao, nhảy tới định giết. Nhưng Lễ Đôn Ba Đồ Lỗ, người anh cả của Tháp Khắc Thế vội chạy tới cản. Bị cản, Thế bực tức như điên, chỉ còn biết văng tục, chửi mắng luôn mồm không ngớt.

Chàng đại hán đó chính là Nỗ Nhĩ Cáp Tề, con cả Tháp Khắc Thế. Thế có năm con trai. Thằng cả là Nỗ Nhĩ Cáp Tề, thằng thứ hai là Thư Nhĩ Cáp Tề, thằng thứ ba là Nhã Nhĩ Cáp Tề, ba thằng này đều do vợ cả là đại phúc tấn Hỉ Tháp Thích sinh ra. Thằng thứ tư tên Ba Nhĩ Tề, con trai của bà vợ thứ Nạp Thích. Còn thằng năm tên Mục Nhĩ Cáp Tề, con trai của bà ba.

Nhan sắc của bà hai Nạp Thích hơn hẳn bà cả Hỉ Tháp Thích. Khi còn sinh thời bà Hỉ, Nạp Thích không bao giờ có thái độ khinh khi. Nhưng từ lúc bà Hỉ mất, Nạp Thích rất ghét ba người con trai của bà Hỉ. Lúc đó Nỗ Nhĩ Cáp Tề đã mười ba tuổi. Bà hai Nạp Thích coi ba thằng con trai của bà cả như những cái đinh trước mắt, bèn đặt điều mách với chồng là họ có ý muốn hại hai mẹ con bà. Tháp Khắc Thế nghe lời bà nên giận lắm, xách ngay cây đoản đao chạy tới định giết Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Nỗ Nhĩ vội núp vào trong lòng ông nội là Giác Xương An. Ông An vốn quý Nỗ Nhĩ, người cháu đích tôn đáng yêu nhất của ông. Tháp Khắc Thế đôi mắt đỏ ngầu, bảo Nỗ Nhĩ:

- Này thằng con bất hiếu kia! Hôm nay tao chỉ muốn lấy đầu mày. Khôn hồn thì cút xéo ngay đi!

Hai ông cháu ôm nhau mà khóc. Lát sau, Giác Xương An lặng lẽ trao cho cháu nội ít tiền rồi đưa chàng tới từ biệt cha chàng. Không ngờ, ông Thế nghe lời gièm pha của bà hai, vốn có lòng chán ghét cả ba anh em Nỗ Nhì nên bảo chàng:

- Mày muốn đi thì dẫn hai thằng em của mày đi luôn một thể. Mà phải đi xa, càng xa càng tốt. Từ nay về sau, tao cấm cửa mày, nghe chưa?


Nỗ Nhĩ Cáp Tề không còn cách gì khác là đem theo cả hai em ra đi. Ba anh em khóc lóc thảm thiết, cùng dắt tay nhau ra khỏi thành Kiến Châu. Đi nửa đường, ba người ngồi phệt xuống đất nghỉ ngơi. Nỗ Nhĩ rút gói bạc của ông nội cho, chia đều thành ba phần rồi bảo hai em:

- Từ đây ba anh em ta tạm chia tay nhau, ai có đường nấy, cứ việc theo đuổi đường của mình. Thảng hoặc về sau có một ngày nào đó được mở mày mở mặt thì không một ai được quên cái cảnh đau khổ ngày hôm nay.

Nói xong Nỗ Nhĩ cầm tay hai em, rơi lệ.

Nỗ Nhĩ Cáp Tề ở đậu trong một gia đình săn bắn. Hàng ngày, Nỗ lẽn núi hái trái tùng và đào nhân sâm rồi quảy ra chợ bán. Nỗ chịu khó làm việc, chẳng bao lâu sau đã tích được một kho lớn. Nghe nói chợ Phủ Thuận bán trái tùng và nhân sâm được giá lắm, Nỗ liền hỏi thăm đường tới đó. Đang là mùa hè, ở Mãn Châu mùa này hay có mưa to. Hôm đi chợ Phủ Thuận, Nỗ gặp đúng vào ngày mưa. Nước lũ từ trên cao đổ xuống, chỉ trong nháy mắt thung lũng đã ngập nước, mênh mông như biển cà. Vốn con nhà giầu sang, nhưng bị cha ghét bỏ, Nỗ lâm vào hoàn cảnh của kẻ có nước mà không được về, có nhà mà không được ở. Trải bao gian lao vất vả, Nỗ cũng tới được chợ Phủ Thuận. Nhưng khi mở bao ra thì hỡi ôi, nhân sâm, trái tùng đều thối cả, chẳng còn dùng được nữa. Tiền thì hết nhẵn, thân lại mệt nhoài, thực đã đến bước đường cùng, anh hùng mạt vận! Nỗ thấy hoàn cảnh mình quá bi đát, bất giác kêu khóc rùm lên, vang động cả hang núi lòng khe, khiến một lão chuyên nghề săn bắn chú ý tới. Ông lão quê quán Sơn Đông, lúc mười hai tuổi theo cha vượt biển đến miền này để săn bắn kiếm ăn. Ông trước có học võ, luyện được mấy môn quyền cước kha khá. Năm đó ông đã sáu mươi tư tuổi nhưng trong việc săn thú đuổi chim ông vẫn còn lẹ làng lắm. Vì trời mưa dầm lâu ngày, ông đành phải bó gối ngồi nhà. Khi nghe thấy tiếng khóc của Nỗ vang động khắp nơi, ông biết không phải là một kẻ thường vội tới xem, quả nhiên trước mắt ông đây là một trang đại hán hàm én râu hùm, tỏ rõ những nét anh hùng. Ông vội khuyên chàng nín khóc rồi ngỏ ý muốn đón chàng về nhà.

Hồi 24: Tình cô thôn nữ

Anh hùng mạt lộ, giữa lúc gặp gian truân mà có người tha thiết với mình, há lại không mong điều hồi đáp? Tuy nhiên Nỗ Nhĩ Cáp Tề đường đường là một vị công tử, con trai lớn của quan đô đốc đương nhiệm, nếu đem nói sự thật cả ra thì e rằng mất thể diện cha mình. Bởi vậy, Nỗ đành phải đặt điều nói dối cho qua. Chàng nói cha mẹ chàng đã mất cả, chỉ còn lại có một mình mình, côi cút túng nghèo, phải lưu lạc tha hương.

Ông lão họ Quan thấy chàng tình cảnh đáng thương, bèn dắt chàng về nhà, cho ăn uống tử tế. Ông ở một mình nơi đây, không vợ cũng chẳng có con. Những khi lên núi săn bắn, ông bảo Nỗ ở lại coi nhà. Lúc nhà rảnh ông lại dạy cho Nỗ năm ba miếng võ ở ngay đám đất trống trước nhà. Nỗ vốn tính thông minh hiếu học, rất chăm luyện võ, chưa đầy năm mà đã có một bản lĩnh kha khá.

Ông lão họ Quan hàng ngày săn bắn được khá nhiều hươu nai cầy cáo. Nỗ ở nhà làm thịt lột da rồi căng lên khung phơi khô để ông đem bán ở chợ Phủ Thuận. Nỗ cũng thường theo ông đi chợ và quen biết một số con buôn, trong đó người Hán chiếm đa số. Bọn này thấy Nỗ người thẳng thắn đàng hoàng nên cũng thích giao du, thường mời Nỗ tới nhà chè chén, bởi vậy Nỗ cũng hiểu biết được khá nhiều phong tục của người Hán.

Một hôm, có ông lão họ Đông ngồi trên một cỗ xe lớn đi qua phố để ra chợ. Chẳng ngờ, xe của ông bỗng sút trục bánh văng ra ngoài, lật úp sang bên đường, không ai có sức nhấc lên nổi. Ông lão họ Đông, may là nằm gọn trong thùng xe không đến nói bị đè chết. Nỗ thấy thế vội chạy tới, ghé vai vào càng xe rồi đem hết sức bình sinh đứng phắt dậy. Sức Nỗ mạnh quá khiến cả cỗ xe bị hất bổng lên. Ông lão bò ra được khỏi xe, thoát nạn. Mọi người đứng quanh ai cũng tấm tắc khen Nỗ khoẻ.

Ông lão họ Đông mời Nỗ qua nhà chơi. Nỗ thấy ông có nhiệt tâm biệt đãi, không tiện từ chối nhưng chẳng lẽ bỏ Quan lão một mình liền đưa mắt hỏi ý ông. Quan lão cười nói:

- Cụ Đông là một người có tên tuổi ở chợ Phủ Thuận. Nhà cụ giàu có lắm, người được cụ Đông mời về nhà là được hướng phúc rồi đấy.

Họ Đông vốn là một họ lớn nơi quan ngoại. Lão Đông có nhiều trang viện rộng mênh mông, chung quanh toàn là ruộng tốt riêng trâu ngựa đã có đến bốn năm trăm con. Trong nhà còn có sáu bảy chục gia nhân làm lụng quần quật suốt ngày.

Từ khi về nhà họ Đông, Nỗ được cử làm quản gia, trông coi toàn bộ gia nhân. Bọn người này tính tình thô lỗ, một lời nói không hợp tức thì gây sự đánh nhau. Lúc đầu, chúng không thèm để ý tới, nhiều khi còn chế nhạo là khác. Song thấy Nỗ có đến mà chẳng có đi, chúng sinh lòng ganh ghét.

Một hôm, có một tên biệt hiệu là Ngưu Ma Vương, người vừa đen vừa xấu, ngồi trên một phiến đá bên bờ ruộng, cật tiếng hát một bài có ý mỉa mai, giễu cọt Nỗ. Hát xong hắn vỗ tay cười sằng sặc, cái miệng đã méo lại càng méo thêm.

Bọn gia nhân làm đồng thấy hắn cười, chẳng hiểu phải trái gì cũng vỗ tay cười theo. Nỗ lúc đó từ nhà vừa ra tới nơi, nghe cười bực mình lắm, từ từ tiến tới sát mặt Ngưu Ma Vương, rồi như một tia chớp, Nỗ đưa tay chộp lấy cánh tay hắn vặn ngoéo ra sau, bắt trật lên tới tận gáy, tay kia giáng cho một đấm mạnh đến nỗi hàm của Ngưu vẹo hẳn sang một bên. Ngưu đau quá, chỉ còn biết há mồm kêu la om xòm. Cuối cùng, Ngưu đành phải hạ mình xin tha, thề không dám hỗn xược như trước nữa. Ngưu vốn là tay dữ dằn nhất trong bọn gia nhân, đã đầu hàng rồi thì bọn kia cũng bở vía, bèn quỳ cả xuống đất lạy Nỗ, tôn Nỗ làm sư phụ.

Ngoài cổng trang trại có một miếng đất rộng. Trong lúc rảnh rỗi sau những buổi làm đồng, Nỗ Nhĩ Cáp Tề lại đem bọn đồ đệ ra đó dạy võ. Một năm trôi qua, bọn gia nhân kẻ nào cũng học được ít nhiều ngón võ. Nỗ thường xuyên đấu với chúng. Tất nhiên, chẳng có kẻ nào địch nổi Nỗ.

Một hôm, vào giữa mùa hè, cây cỏ muôn hoa đang lúc tươi xanh, người ta thấy khá đông gia nhân ngồi nghỉ mát dưới bóng cây cố thụ. Nỗ Nhĩ Cáp Tề từ sau đi lại, bất thình lình có gần hai chục người cầm gậy gỗ nhảy tới vây Nỗ vào giữa, hè nhau tấn công kịch liệt. Nỗ không chút sợ hãi, bình tĩnh múa song quyền đỡ gạt. Hai bên đối chiến đã vài ba khắc mà đám người kia chẳng một ai đánh trúng Nỗ được lấy một đòn, thậm chí mong lại gần mà cũng chẳng được nữa.

Giữa lúc đôi bên đang ác đấu, một tiếng quát tuy lớn nhưng êm ngọt vang lên, Nỗ quay đầu nhìn lại thì thấy ông lão họ Đông đang đứng ngoài cổng trang, miệng cười tươi tắn, bên cạnh có một cô gái tuổi ước độ mười bảy, mười tám, má bôi phấn, môi tô son, bọn tóc mây búi cao lên mãi chóp đầu. Nàng vừa nói xong tiếng "tuyệt quá" để ca tụng võ của Nỗ, vừa nhìn thẳng vào mặt chàng, nhoẻn một nụ cười duyên dáng có một sức mạnh ghê gớm đến nỗi anh hùng vô địch như Nỗ mà bỗng nhiên cứng đờ người tay chân nhấc không nổi.




Trước thái độ kỳ cục đó của chàng, mọi người khoái chí cười ồ. Chàng vẫn như ngây như dại, mặc cho ai muốn nói gì thì nói. Bọn gia nhân chẳng muốn làm phiền chàng nên tản mát dần đi. Nỗ Nhĩ Cáp Tề ngồi xuống dưới bóng cây, ngồi cho đến khi mặt trời gác núi vẫn không rời chỗ.

Mãi tới giờ ăn cơm tối, ông lão họ Đông không thấy Nỗ đâu bèn đi kiếm. Chàng lúc đó mới đứng dậy, thẫn thờ bước theo ông về nhà. Suốt dọc đường, gặp chàng ai cũng hỏi, nhưng chàng nào có đáp.

Ông lão họ Đông lúc đầu không hiểu tâm trạng chàng, nhưng về sau cũng đã đoán được phần nào. Lúc đó, ông không khỏi để ý đến con người của Nỗ. Ông chỉ biết Nỗ là một tay tài ba lỗi lạc, chứ thực ông chẳng biết lai lịch của Nỗ, vì chàng cố ý che giấu gia thế của mình ngay từ đầu.

Họ Đông là một họ lớn miền Phủ Thuận. Nói là lớn, nhưng thực ra số người trong nhà chẳng đông gì lắm. Ông lão họ Đông có ba cô con gái, và một cậu con trai. Ba con gái đều đã lấy chồng. Cô gái cả năm đó đã ngũ tuần. Cô gái út ngoài ba chục.

Cậu con trai đã mất năm ba mươi sáu tuổi. Nàng dâu ở goá nuôi con. Đứa con của nàng dâu này chính là cô gái mười bảy, mười tám cái xuân xanh mà ông lão họ Đông rất cưng chiều, tính tình nóng nảy, bộc trực. Nhưng con người nàng thì lại là cả một tác phẩm thiên nhiên tuyệt hảo. Nàng cũng mặt hoa da phấn, con mắt cũng đa tình, cái miệng cười nào có thua gì hoa nở. Ông lão họ Đông lúc còn nhỏ có học chút ít chữ Hán. Bởi vậy, những lúc rảnh, ông dạy cho cháu đọc sách viết chữ. Tên nàng là Xuân Tú. Cái tên xinh đẹp ấy là tên chữ Hán. Toàn gia lớn bé ai cũng gọi nàng là Tú cô nương. Năm mười sáu tuổi, Tú cô nương đã trở thành một trang giai nhân tuyệt sắc, tinh thông chữ nghĩa, cách ăn ở lại rất đàng hoàng. Bởi thế Đông lão ông bèn đem giao cho nàng tất cả mọi việc tiền nong chi tiêu trong nhà: cơm nước ăn uống, quần áo vật dụng… Công việc trông coi đồng áng, nàng cũng được Đông lão giao nốt cho. Tóm lại chính nàng là người quản gia số một, có quyền thu quyền phát, chìa khoá trong tay không việc gì là không do nàng quyết định. Ông lão Đông đã từ lâu có ý kiếm cho nàng một tấm chồng xứng đáng. Nhưng nàng vốn tính thẳng thắn, hào sảng. Bởi vậy khách đồng sàng đâu có dễ tìm ở địa phương nây. Sáu bảy chục gia nhân ở gần nàng cảm thấy điều đó, nên kẻ nào kẻ nấy tỏ vẻ sợ hãi và kính trọng đối với nàng, không dám bờm xơm trêu chọc.

Nói đến việc chung thân thì Tú cô nương đã có chủ ý. Nàng chỉ muốn lấy một trang thanh niên anh hùng xuất chúng. Mộng của nàng thì đẹp như thế nhưng khốn nỗi nàng lại ở vào một nơi đèo heo hút gió, khỉ ho cò gáy như vùng quan ngoại này thì biết tìm đâu cho ra ý trung nhân mà nàng thường gặp trong mộng tưởng? Đấy chính là nỗi khổ tâm của Tú cô nương mỗi khi nằm vắt tay lên trán, thao thức giữa đêm trường canh vắng, trong lứa tuổi trăng tròn.

Đã có gái thuyền quyên ắt phải có trai anh hùng. Ông trời quả khéo xui khiến Nỗ Nhĩ Cáp Tề từ Kiến Châu tới miền Phủ Thuận. Từ cái hôm đáng ghi nhớ ấy, trong lòng chàng có nàng, trong lòng nàng cũng có chàng, và ngay cả chủ ý của Đông lão ông cũng có khác. Ông không có con và cháu trai để nối dõi, bởi vậy không không muốn có kẻ thừa kế nào khác để hưởng cơ nghiệp của ông. Ông chỉ muốn Tú cô nương lấy được một anh chàng chịu ở rể tại nhà, đảm nhiệm cái việc hương khói trọng đại đối với tổ tiên ông. Thực tế các cậu trai, con những gia đình khác đều có cha mẹ có bà con họ hàng, đời nào lấy vợ họ lại chịu ở rể để lo việc cúng kiếng đèn nhang cho gia tộc đằng vợ? Cho nên khi thấy Nỗ Nhĩ Cáp Tề, côi cút, một mình lưu lạc tha phương mà lại có tài có đức, bảo sao ông không kén chọn chàng làm rể cho cháu gái. Tuy nhiên, ông chưa được rõ lòng cháu gái ông. Nghĩ rằng nên lợi dụng lúc này cho đôi trẻ gặp nhau để xem tình ý chúng ra sao.

Chủ ý đã định, Đông lão ông bèn đưa Nỗ Nhĩ Cáp Tề vào nhà trong tương kiến với vợ ông và cháu gái.

Rồi từ đó, ông luôn luôn lưu ý tới hành động và thái độ của hai người. Ông thường thấy Tú cô nương tìm đến phòng Nỗ Nhĩ Cáp Tề để trò chuyện. Ông đã đoán ra tâm trạng của đôi trẻ đến tám chín phần rồi. Một điều khác thường khiến mọi người phải chú ý, đó là khi Nỗ Nhĩ Cáp Tề chưa quen biết Tú cô nương thì chàng thường tìm đến bọn gia nhân trò chuyện, nhưng sau khi đã quen biết nàng thì đố ai mà tìm ra bóng chàng.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, chẳng mấy chốc lại đã xuân qua, hè tới, song cảnh sắc mùa xuân nơi quan ngoại đến với dân Mãn hơi trễ. Bởi vậy, trời sang tháng tư mà muôn hồng ngàn tía mới đua tươi, oanh ca én hót mới tưng bừng náo nhiệt. Đằng sau nhà ông lão họ Đông có một vườn đào vẫn đang mùa hoa nở.

Một hôm Ngưu Ma Vương vô tình đi qua vườn đào, bỗng nghe tiếng cười nói nhí nhảnh bên trong. Hắn định thần nhìn kỹ thì chẳng phải ai xa lại mà chính là Nỗ Nhĩ Cáp Tề đang cùng với Tú cô nương vui đùa, trò chuyện. Hắn thấy Tú cô nương tay cầm sào dài. Nàng muốn di chuyển cây sào nhưng không nhúc nhích được. Nàng ném cây sào xuống đất, rồi vừa cười vừa thở. Nỗ Nhĩ Cáp Tề lại bước tới đưa hai tay ra đỡ hai bên hông cho nàng đứng vững. Hai người lúc đó đối mặt nhau, tay cầm tay, cùng cười lên như nắc nẻ. Ngưu thấy tận mắt cảnh đó, lẩm bẩm một mình: "Hỏng bét!" rồi chạy đi mách ông lão Đông. Khi hắn dẫn ông lão quay lại, chỉ cho ông thấy thì bất giác ông lão cười khà khà một tràng dài. Thì ra lúc đó, Nỗ Nhĩ đang cùng Tú cô nương tựa vai nhau ngồi bên gốc hoa đào, tay nắm tay, vừa cười vừa nói, chuyện trò hết sức thân mật. Theo ý nghĩ của Ngưu, một khi ông lão họ Đông thấy cái cảnh tư tình của Nỗ Nhĩ và Tú cô nương ắt thế nào cũng nổi trận lôi đình mà Nỗ Nhĩ phải lãnh đủ. Ngưu không ngờ rằng Đông lão ông đã không tức giận mà trái lại, còn khà khà cười lớn; cười đến nỗi râu tóc dựng ngược cả lên, mắt như sắp rách ra, đôi chân cơ hồ không muốn đứng thẳng nữa. Thật là một điều ngoài sức tưởng tượng của Ngưu. Ngưu biết mình "hớ" rồi, vội quay mình chuồn một mạch mất dạng.

Đông lão ông lúc đó mới thong thả bước vào vườn đào. Nỗ Nhĩ và Tú cô nương thấy Đông lão ông, đều giật mình hoảng sợ, chỉ còn biết cúi đầu như để nhận tội lỗi, cặp má ửng hồng vì e thẹn, đôi vai trĩu xuống như phải gánh đến ngàn cân. Đông lão ông bước gần lại, khi đã đứng giữa hai người, ông liền giơ hai tay, mỗi tay đặt lên vai một người, miệng vừa cười vừa hỏi:

- Hai đứa đã bàn tính xong việc của chúng mày rồi ư?

Nỗ Nhĩ cũng như Tú cô nương cả hai đều lắc đầu lia lịa để đáp lời Đông lão ông. Giơ hai bàn tay xoè to ra như hai cái nan quạt, Đông lão vỗ một cái mạnh xuống vai cả hai rồi cười khà khà. Vừa dứt tiếng cười, ông lên tiếng bảo:

- Trẻ nít ngớ ngẩn có khác! Tụi chúng mày không nói mau đi, còn làm bộ ngây thơ để qua mắt ông nội chúng mày nữa sao?

Câu nói hình như đánh trúng tâm lý của cô cậu thì phải, bởi vậy Nỗ Nhĩ cũng như Tú cô nương không ai hẹn ai, bất giác phì cười nhưng để tự tố cáo và khẩn cầu ông nội tác thành cho. Đông lão ông lại nói:

- Tụi mày mắc cỡ phải không? Mau theo ông nội ra đây.

Nói xong, Đông lão ông chẳng cần để cho hai người chịu hay không, liền kéo tay họ vào nhà trong rồi bất chấp hai người mắc cỡ hay không, ông kể rõ đầu đuôi cho mẹ và bà nội Tú cô nương nghe. Ông kể hết rồi còn bắt buộc mẹ nàng phải hoàn tất việc chung thân cho con gái. Nhưng mẹ nàng có ý không chịu gả. Vì bà không muốn đem hạt minh châu trong tay trao cho một anh chàng lãng tử lưu lạc giang hồ như Nỗ Nhĩ. Đông lão ông biết ý, lên tiếng bảo:

- Nếu con bằng lòng cho chúng nó đẹp đôi thì ông nội sẽ đem toàn phần gia tài này giao lại cho thằng cháu rể, khiến nó phải ở rể trong nhà này để phụng dưỡng bọn già chúng ta cho tới lúc quy tiên. Đấy, ý của ông nội là thế, con hãy yên tâm mà bằng lòng đi!

Nàng dâu thấy bố chồng nói những lời lẽ khẩn thiết đến vậy nên đành phải bằng lòng. Thấy cả nhà không còn ai phản đối nữa, Đông lão ông bèn lên chợ tìm một thầy bói nhờ chọn ngày lành tháng tốt để cưới gả cho hai cháu…

Hôm đó nhà ông lão họ Đông thiết lập bàn thờ tế trời đất, tế ông Tơ bà Nguyệt. Bên bàn thờ khói hương nghi ngút, cô dâu chú rể cung kính quỳ lạy. Quang cảnh thật vô cùng trang nghiêm…




Khách mời xa gần đều đến đủ. Khách đông quá, ước chừng có tới năm bảy trăm người, ngồi chật, cả trong nhà ngoài sân.

Hàng dãy chiếu cói được trải ra khắp mặt đất. Thực khách ngồi xếp bằng trên chiếu, cứ bốn người một mâm, tay đũa tay chén, hết hũ rượu này đến đĩa thịt kia, tha hồ ăn uống, mặc sức nói cười. Khung cảnh tưng bừng nhộn nhịp của gia đình Đông lão ông quả hiếm đối với một nơi sơn cùng thuỷ tận như miền quan ngoại này. Ngày vui hôm đó đã trở thành một ngày kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời của đôi trai tài gái sắc Nỗ Nhĩ, Tú cô nương. Về sau họ còn nhớ mãi lúc họ quỳ cạnh nhau, vai kề vai, lễ tế cáo trời đất, lễ kính ông Tơ bà Nguyệt.

Sau hôn lễ, hai vợ chồng Nỗ Nhĩ Cáp Tề đem hết tâm lực giúp Đông lão ông trông nom việc nhà. Những lúc rảnh, Nỗ dạy cho vợ ít miếng võ. Ngược lại, Tú cô nương cũng dạy cho chồng chút chữ Hán. Nhiều khi nàng còn giảng cho chồng nghe nhiều chuyện vừa thú vị vừa có ý nghĩa trong Tam Quốc hay Thuỷ Hử. Càng nghe, Nỗ càng khoái, khoái bao nhiêu, Nỗ càng cố học, cố viết bấy nhiêu. Do đó, sự học của Nỗ khá lên trông thấy. Lúc đó Đông lão ông đã quá cố. Nhất nhất mọi việc trong gia đình, Nỗ đều trông coi, định liệu hết. Nỗ vung vãi tiên bạc thu nạp những tay hảo hán. Nhiều thiếu niên nghe nói Nỗ võ nghệ cao cường, bèn kéo nhau tới bái Nỗ làm sư phụ, tiếng tăm Nỗ càng ngày càng lớn, vang dậy cả vùng Phủ Thuận.

Từ khi ở rể trong gia đình Đông lão ông, Nỗ cải theo họ Đông, mọi người đều gọi Nỗ là Đông Nỗ Nhĩ Cáp Xích.

Trang viên của Nỗ hồi đó chẳng khác gì một Tiểu Lương Sơn Bạc, tụ tập toàn những tay anh hùng hảo hán, dũng cảm hơn người. Dân chúng ở chợ Phủ Thuận đều gọi Nỗ là Đông đại gia chứ có ai ngờ Nỗ là con trai lớn của quan đô đốc Kiến Châu vệ.

Nỗ sống một cuộc đời bình dị của người thường dân, nhưng thực ra đó chỉ là lối sống giả bộ để che mắt thế gian. Nỗ cho mình vốn là con trai cả quan đô đốc Kiến Châu vệ thì một ngày kia cái ghế đô đốc ắt phải vào tay mình. Nỗ không bữa nào là không nghĩ đến cái ghế ấy, rồi nhớ tới gia đình, tới cha mẹ, bà con thân thuộc. Nỗ kết giao với những tay anh hùng hảo hán bất quá chỉ vì ý đồ nối nghiệp cha mình trong tương lai, và cầu mong thực hiện được cái mộng lớn tạo một sự nghiệp vĩ đại nơi quan ngoại. Do đó, Nỗ thường ra chợ Phủ Thuận để nghe ngóng tinh hình chốn công môn.

Phủ Thuận lúc đó có các nha, sở của quan tổng binh nhà Minh trấn đóng. Nỗ tìm cách giao hảo với bọn quan binh tại đây Bởi vậy, với bất cứ một tin tức nào, Nỗ đều có thể nghe được một cách rõ ràng rành mạch.

Hồi đó, cách Phủ Thuận chừng ba mươi dặm có một cái chợ ngựa, cứ hai tháng họp một lần. Chợ ngựa chia làm hai khu: chợ công và chợ tư. Chợ công tức là chợ các bối lặc, cái đô đốc của các bộ lạc phái người đến đó để tiến cống Minh triều, đồng thời đem một số lừa ngựa đến bán cho bọn quan lại Trung Quốc. Còn chợ tư là chợ dân Mãn, dân Hán giao dịch buôn bán với nhau; người Mãn thì bán ngựa, trâu, da thú hoặc trái tùng, nhân sâm cho người Hán trong khi người Hán lại bán vải vóc tơ lụa, nồi niêu xoong chảo, và những nông cụ cho người Mãn. Đôi bên giao thương sòng phẳng đàng hoàng nên luôn luôn giữ được hoà khí. Cứ đến ngày hội chợ, Nỗ ăn mặc kiểu lái buôn, đem ít đồ lặt vặt để bán cho có lệ. Chuyện đô đốc Kiến Châu vệ phái Vương Cảo đến tiến cống, Cảo hỗn láo, ỷ thế làm càn rồi khởi loạn, cuối cùng bị Vương Thái bắt được đem dâng Minh triều và bị chém đầu như thế nào, Nỗ đều được thông tin đầy đủ. Đến Thái, Thái nhờ có công bắt Cảo nên được nhà Minh giúp, rồi thế càng mạnh hơn, đến nỗi dân Ninh Cổ Tháp cũng phải bị thua như thế nào, Nỗ cũng biết rõ hết.

Nỗ tuy nói rằng đã bị cha từ bỏ, đuổi ra khỏi nước nhưng thực ra việc nước, lúc nào Nỗ cũng quan tâm tới. Bởi thế cho nên khi dò la được tin khẩn cấp, Nỗ liền chạy suốt đêm ngày về Kiến Châu vệ để báo tin cho cha biết.

Trước khi ra đi, Nỗ sợ vợ mình không chịu nên đợi mãi tới đêm khuya, khi hai vợ chồng đã lên giường nằm cả, Nỗ mới đem cái lý lịch của mình cũng như cái tin vừa lượm được, nói cho vợ nghe một lượt. Nàng Xuân Tú biết chồng mình là con trai cả của quan đô đốc Kiến Châu vệ, càng lấy làm yêu quý hơn. Nhưng khi nghe chồng nói chuyện xa lìa vợ con về Kiến Châu thì nàng lại buồn ngay. Nỗ phải khuyên dỗ năm lần bảy lượt, cuối cùng cũng phải hứa hẹn rằng khi về tới Kiến Châu hoàn tất được việc lớn, Nỗ sẽ lập tức quay về đón vợ con cùng hưởng phú quý vinh hoa. Nàng Xuân Tú thấy đó là đại sự nên rốt cuộc cũng phải để cho chồng đi.

Rồi một buổi sáng tinh sương, hai vợ chồng cầm tay nhau từ biệt, nước mắt chạy quanh. Lúc đi dọc đường, sợ có người hỏi lôi thôi lộ hình tích, Nỗ bèn mặc tấm áo rách, lại lấy than và bùn đất bôi lên mặt, lên mình mẩy, tay chân cho có dáng một tên ăn mày ăn nhặt tầm thường.

Nỗ đã đi mấy ngày đêm, trải bao nhiêu là gian khổ mới tới Kiến Châu thành. Nỗ vẫn còn sợ cha nên không dám vào, đành đợi ngoài phủ bộ, trong một nơi kín đáo. Lúc đó các bối lặc các nơi đã tề tựu đông đủ trong phủ, trước là để thỉnh an Giác Xương An, sau là để bàn tính cách đối phó với Vương Thái.

May cho Nỗ là đám thị vệ canh gác phủ đều có thiện cảm với Nỗ cho nên Nỗ mới được một chỗ nấp rất tốt trong phủ.

Lúc lên mười, Nỗ đã mất mẹ. Từ đó, Nỗ bị người dì ghẻ là Nạp Thích hành hú đày ải. Trong tình cảnh đau khổ đó, nhờ có bác là phúc tấn Lễ Đông thương, thường che chở và trông nom giúp đỡ, hôm đó, Nỗ bỗng xuất hiện trong phủ, nhớ tới phúc tấn Lễ Đôn, Nỗ liền len lén tới thăm. Bà Lễ Đôn thấy cháu trở về, mừng rỡ khôn xiết, nhưng khi nhìn đến quần áo rách nát, thân hình dơ dáy của cháu, thì bà lại giật mình. Nỗ đành nói thật với bác về chuyện cái trang để che mắt thiên hạ. Tuy nhiên, chàng vẫn chưa dám cởi bỏ bộ quần áo rách rưới kia, giữa lúc hai người đang trò chuyện, ông bác Lễ Đôn bước vào phòng. Nỗ chào hỏi bác xong rồi đem tin tức mình lượm được nói cho bác nghe. Ông Lễ Đôn kinh sợ, một lúc lâu mà mắt ông vẫn còn trợn lên.

Tin gì mà làm ông Lễ Đôn kinh sợ đến thế? Thì ra ông mới vừa được cháu cho biết kế sách của Vương Thái: "Minh tu san đạo, ám độ Trần Thương"(1). Với kế sách này, Thái kéo binh đánh chiếm thành Ninh Cổ Tháp để hư trương thanh thế, trong khi đó Thái sai Đồ Luân thành chủ là Ni Kham hiệp lực với Ninh Viễn Bá Lý Thanh Lương nhà Minh tấn công thành Cổ Liệt. Chủ tướng thành Cổ Liệt là Chương Kinh A Thái, là con rể của ông Lễ Đôn Ba Đồ Lỗ, cũng là cháu rể của nguyên đô đốc Kiến Châu vệ Giác Xương An, lại còn là con trai của Vương Cảo. Cảo bị Thái bắt rồi bị Ninh Bá Viễn giết, bởi vậy Vương Thái và Lương sự A Thái báo thù rửa hận cho cha, bèn tính kế chém cỏ nhổ gốc, diệt cho kỳ được Cổ Liệt thành.
(1) Công khai sửa chữa đường xá, bí mật vượt khởi Trần Thương.


Nguồn: http://vnthuquan.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved