Hồi 49: Khang
Hy –vua ăn chơi
Tin Thuận Trị hoàng đế xuất gia đầu Phật ở Ngũ
Đài sơn truyền tới tai Thái hậu. Bà hối hận quá. Bà không ngờ việc đuổi Đổng
Ngạc Phi lại gây ra cảnh xuất gia đầu Phật của con bà. Biết vậy nhưng không còn
cách nào hơn, nhất là chuyện này lại cần phải giữ kín, bà chỉ còn lấy cớ lễ
Phật đem theo Khang Hi hoàng đế tuần hành núi Ngũ Đài sơn để tìm kiếm. Hoàng
thái hậu lên tới nơi, bèn lén tới chùa Thanh Lương, không để lộ hành tung cho
một ai biết, nhưng bà chỉ thấy có một nhà sư ghẻ chốc đầy mình, vừa điếc lại vừa
mù, hỏi chuyện thì mười câu đến chín chẳng nghe rõ. Bà không còn biết làm sao,
đành đứng trước cửa chùa gạt lệ trở về.
Có lần, hôm đó là ngày vạn thọ của bà hoàng Thái hậu. Một đạo thượng dụ ban xuống trước đó mấy bữa buộc các bà mệnh phụ của bọn Hán quan đều phải theo người Mãn nhất loạt vào cung chúc thọ. Thế là đám phụ nữ của hai nhà Diêu, Trương vốn thích xem phong cảnh nơi cung đình, cho rằng chồng mình cũng làm quan tại triều, bèn chiếu theo phẩm trật ăn mặc đàng hoàng rồi vào cung chúc thọ. Hai cô nàng dâu của Trương học sĩ cũng có mặt trong đám đó.
Hồi 50: Khang
Hi cướp vợ người
Hồi 51: Khang
Hi Hoàng Đế tuần du phương Nam
Tướng quốc Minh Châu
tính đưa bọn gái đẹp vào cung cho Khang Hi hoàng đế. Không ngờ có kẻ nào đó đến
mách với tướng quốc phu nhân, bảo quan ông lấy một lúc những ba mươi sáu cô hầu
thiếp hiện đang để ở biệt thự ngoài thành tây để ngày đêm thủ lạc. Bà tướng
quốc vốn thuộc loại sư tử Hà Đông, vừa nghe xong, tức thì tam bành lục tặc nổi
lên. Bà chẳng cần hỏi kỹ; bắt đóng xe đưa bà đi ngay tới biệt thự ngoài thành
tây. Bà không thấy quan ông ở đây mà chỉ thấy một ông giáo già. Ông giáo già
lật đật đem ba mươi sáu cô gái ra bái kiến. Bà tướng quốc đưa mắt nhìn một lượt
thấy cô nào cô nấy như hoa như liễu. Bà chẳng nói một lời nào, chỉ bảo ông giáo
già rút lui. Lúc đó, bà mới cho gọi hết các cô lại gần để quan sát và hỏi han
cẩn thận. Trong bọn con gái, bà thấy có mười hai cô đẹp nhất. Bà liền cho giữ
lại rồi lập tức truyền lệnh bày tiệc thiết đãi. Bọn con gái này vừa mới lớn lên
nào đã biết gì, nói nói cười cười ăn uống say sưa bí tỉ. Bà tướng quốc thiết
đãi xong bữa tiệc, bèn lấy xe về phu.
Mọi người thấy phu nhân đi đi
về về, chẳng giận mà cũng không vui, không nói mà cũng chẳng cười đều tỏ ý kỳ
lạ. Có ngờ đâu ngày hôm sau, vào lúc tảng sáng, người ta đã thấy mười hai cô
gái tuyệt sắc được biệt đãi hôm qua đã nằm chết cong queo trên giường từ lúc
nào. Tân Mai, Lê Phượng, Kiều Hạnh, Thanh Đào, bốn ả cũng chẳng thoát được vận
số. Đến lúc rõ chuyện, quan ông tướng quốc chỉ còn biết thở vắn than dài, cho
vác mấy cái xác đi chôn chứ còn biết làm gì được hõn nữa. Từ đó quan ông sợ
quan bà đến vở vía, vội đem hai mươi bốn cô cô còn lại nhất tề cho chở về quê
quán hết. Nhưng rồi cũng từ đó giữa quan ông và quan bà tình nghĩa mỗi ngày mỗi
nhạt, mỗi ngày mỗi cay cú ghét bỏ. Quan tướng quốc suốt ngày chỉ uống rượu làm
thơ với bọn tân khách, không thèm đặt chân tới cửa buồng the của bà nhà nữa.
Khí quan ông được lệnh Đông
cung triệu vào đàm luận văn chương, quan tướng quốc lại có dịp bầu bạn với đám
tao nhân mặc khách, kể cũng khuây khoả đôi phần. Thái tử vốn đối tốt với ông
cho nên thường giữ ông ở lại trong cung.
Hồi đó có một vị tổng đốc Vân
Quý tên gọi Phạm Thừa Động về kinh bệ kiến thấy hoàng đế và thái tử trở thành
hai con mọt sách, bèn dâng lên một tờ sớ ý nói bản triều lấy việc mã thượng mà
được thiên hạ, thiết tưởng con cháu không nên bỏ phế võ công. Khang Hi hoàng đế
vốn trọng Phạm Thừa Động nên khi đọc xong tờ sớ lập tức truyền chỉ mở trường
luyện từ cỡi ngựa bắn cung trên Liễu đê trong vườn Sương Xuân Uyên. Lúc đó thái
tử cùng các hoàng tử Dân Trinh, Dân Đề, Dân Nga, Dân Đường đều đứng trước phụ
hoàng đợi chỉ. Hoàng đế bèn hạ lệnh cho thái tử và bọn hoàng tử từng cặp so tài
bắn cung và các loại binh khí. Trong số hoàng tử xem ra chỉ có Dân Trinh là bản
lãnh cao cường hơn hết. Thái tử Dân Nhung bản chất văn nhược nên việc đao cung
có chiều thua xa, thậm chí cung bắn đến ba tên mà chả có tên nào trúng đích khi
đua ngựa trên Liễu đê (bờ đê có trồng liễu hai bên), thái tử lại cũng thua nữa.
Khang Hi hoàng đế thấy vậy bực
tức quá, bèn cho gọi võ sư của thái tử tới quở trách ngay trước mặt. Vị võ sư
vô cùng xấu hổ, đến cả thái tử cũng xấu hổ không kém. Khi về tới Đông cung,
thái tử tập họp các vị sư phó lại để bàn luận.
Giữa lúc đó, có một tên nội
giám vào báo cho thái tử biết bọn hoàng tử Dân Trinh, Dân Nga có lập một võ
trường ở ngoại thành để ngày đêm luyện tập. Thái tử giật mình kinh sợ. Một vì
sư phó đề nghị:
- Nếu vậy, chi bằng ta cho mời
mấy nhà sư Lạt ma ở Tây Sơn về dạy bí pháp bùa chú, và cả những tay dũng sĩ về
truyền thụ mười tám ban võ nghệ cho thái tử. Như thế tất không còn phải lo ngại
gì nữa.
Thái tử nghe xong lấy làm hợp
lý lắm, lập tức cho xây cất mật thất và võ trường ngay trong Đông cung rồi ngày
ngày theo nhà sư Lạt ma và các võ sư tới luyện tập.
Thái tử còn sai người đi khắp
nơi bỏ tiền ra để mời những tay võ sĩ hiệp khách về cùng sớm hôm giúp việc
luyện võ. Cũng vì vậy nên thành Bắc Kinh hồi đó tụ tập không biết bao nhiêu là
tay hảo hán. Họ thường ra phố nhậu nhẹt chán rồi gây sự. Viên quan địa phương
biết mà vẫn phái làm ngơ.
Giữa lúc tình trạng đua tranh
đến lúc khẩn trương thì bỗng Vệ phi chết. Khang Hi hoàng đế cố nhiên là thương
xót vô cùng. Ngay cả viên quan thị vệ họ Vệ cũng bi thương không kém. Họ Vệ bèn
lui ra khỏi cung bày mưu lập kế cho Dân Trinh hãm hại thái tử.
Từ khi Vệ phi mất, Khang Hi
hoàng đế đâm ra chán cả mọi sự, sống trong cung điện chẳng thấy thú vị gì nữa.
Tuy trong tam cung lục viện có
biết bao nhiêu cung tần mỹ nữ bầu bạn bên cạnh nhưng đối với ngài thực chẳng có
ai bằng được Vệ phi. Suốt ngày ngài thở vắn than dài ăn không ngon ngủ không
yên. Có khi ngài nhớ tới Vệ phi lại cũng có khi ngài nhớ phụ hoàng của ngài.
Lúc đó, quan tài của Vệ phi
được đưa ra quan ngoại mai táng. Khang Hi hoàng đế vẫn nhớ tới tình xưa nghĩa
cũ bèn lấy danh nghĩa thăm viếng Phục lang để đưa linh cữu Vệ phi tới chôn cât
ở Sơn Hải quan. Chính ngài đốc suất xây lăng đắp mộ.
Công việc tang ma đã xong,
nhưng Khang Hi hoàng đế không muốn trở về cung. Ngài bèn hạ chỉ Nam tuần, lấy
cớ là đi quan sát tình cảnh khổ cực của dân. Ngài lại hạ chỉ sai thái tử Dân
Nhung lo việc quốc giám.
Sau đó, ngài cùng với văn võ
đại thần, vương công bối lặc chọn đúng ngày mồng một tháng chín niên hiệu Khang
Hi thứ hai mươi ba khởi trình ra khỏi kinh đô. Quan đại học sĩ Trương Anh cùng
với nội đại thần Giác La Vũ Truất Nạp, thống lĩnh khắp triều văn võ tiễn đưa xa
giá Nam tuần.
Lần đi tuần du này hoàng đế hạ
chỉ cho các châu huyện trên đường ngài đi qua vẫn phải làm việc như thường,
không được đón rước cung đốn, nếu trái chỉ sẽ bị cách chức và hỏi tội. Ngài
ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ của dân chúng lặng lẽ chèo tới chân núi Ngũ Đài
sơn, ngồi kiệu lên núi rồi ngừng lại nơi chùa Thanh Lương.
Nhà sư trụ trì chùa này thấy
nhà vua đến bất ngờ, sợ muốn chết, vội vội vàng vàng chạy ra tiếp giá và mời
vào phương trượng. Bọn nội giám đã chuẩn bị sẵn đèn nhang, mời ngài lễ Phật. Lễ
xong Khang Hi hoàng đế bèn hỏi:
- Trẫm nghe nói đã từ lâu có
một vị cao tăng tu tại chùa. Vậy nay ở đâu?
Nhà sư trụ trì hồi đáp:
- Tâu bệ hạ! Vị cao tăng hiện
thiền toạ trong thảo xá trên ngọn núi cao. Có nhiều đàn việt muốn qua thăm
nhưng người đều từ chối.
Khang Hi hoàng đế nói:
- Trẫm nhất định phải lên yết
kiến ngài bằng được.
Nói đoạn, ngài bảo bọn thị vệ
và nội giám ở lại chùa, chỉ ngài với một chú tiểu sa di dẫn lộ leo ngược lên
chóp núi, theo đường mòn quanh bên tả, rẽ lên hữu: vất vả lắm mới tới nơi.
Hoàng đế mồ hôi toát ra nhễ
nhại, đành phải ngồi lại dưới gốc cây cổ thụ nghỉ mệt. Ngài phóng tầm mắt ra
xa, thấy một toà thảo xa, bèn đứng dậy bước tới. Một chú tiểu đồng từ trong
ngôi nhà đi ra hỏi, nhưng ngài không đáp, chỉ quay lại hỏi chú tiểu sa di xem
vị cao tăng ở trong căn nào trong thảo xá.
Chủ tiểu chỉ vào căn bìa bên
phải, ngài bèn chạy tới chỉ thấy một vị hoà thượng râu tóc bạc trắng nhắm mắt
ngồi xếp bằng tròn trên một chiếc bồ đoàn.
Khang Hi hoàng đế chăm chăm
nhìn vị hoà thượng một lúc lâu, rồi bỗng không nhịn được nữa, bèn chạy vụt vào
miệng thốt lên một tiếng "phụ hoàng", đổi gối quỳ gập xuống mặt đất.
Vị hoàng thượng nghe gọi mở mắt
ra nhìn, nhưng rồi lại từ từ nhắm mắt, không nói lời nào - Người ta chỉ biết
Khang Hi hoàng đế sau đó thì thào những gì không rõ, một lúc lâu mới cáo biệt
xuống núi. Đi đến giữa đường, ngài dặn dò chú tiểu chớ có phao tin ra ngoài,
đồng thời trông nom vị cao tăng nọ cho chu đáo thì tương lai thế nào cũng có
chỗ đẹp. Chú tiểu sa di vốn tính thông minh, bèn nói: "Tuân chỉ".
Khang Hi hoàng đế rời khỏi núi
Ngũ Đài sơn bèn hướng về ngả Tế Nam tiến phát. Vì ngài có chỉ cấm hẳn địa
phương đón rước cung đốn, cho nên khi ngài tới hành cung Tế Nam quan Tuần phu
Sơn Đông Tiền Ngọc suất lĩnh các tỉnh văn võ quan viên lớn nhỏ tới thỉnh an
chiếu lệ rồi đều trở về phủ nha làm việc như thường.
Khang Hi hoàng đế chờ cho bọn
quan lại đi hết rồi, bèn cải trang thường phục rồi cùng một tên thị vệ thân tín
lẻn ra cửa sau, tới một quán nhỏ uống trà để hỏi dò dân tình phong tục hành vi
của quan lại mãi tới lúc trời xế chiều, ngài lại mới lẻn về hành cung.
Cơm tối xong, ngài cùng với
quan tướng quốc Trương Ngọc Thư chong đèn đánh cờ. Hai người vốn là hai tay cao
cờ nên gặp lúc kỳ phùng địch thủ thật không còn gì thú vị hơn nữa.
Cuộc cờ kéo dài mãi tới nửa đêm
mà hai tay cờ vẫn còn hăng tiếp. Nhà vua giơ cao một con cờ, và giữa lúc đang
say sưa xuất thần, bỗng ngài nghe tiếng ngựa hí người la ngoài tường. Bọn thị
vệ và nội giám ai nấy mặt đều biến sắc. Hoàng đế một mặt hạ tay đặt mạnh con cờ
xuống bàn, một mặt sai nội giám ra ngoài tra hỏi. Một lát, tên nội giám trở vào
tâu:
- Tâu bệ hạ! Con ngựa Xích Ký
của bệ hạ buộc ở hậu viên đã bị trộm lấy rồi!
Khang Hi hoàng đế nghe xong cả
giận, ngẩng mặt bảo Trương Ngọc Thư:
- Con Xích Ký vốn do bộ lạc
Khách Nhĩ Khác triều cống đấy! Đã bảy, tám năm nay, trẫm chưa hề xa nó một
ngày. Không ngờ tới nơi này thì bị mất trộm. Tên trộm nào đó kể cũng táo gan
thật, chẳng biết lão Tiền ở địa phương này đã làm được những việc gì nhỉ?
Mấy lời nói này, khi truyền tới
tai Tiều tuần phủ đã khiến cho họ Tiền bạt vía kinh hồn, tưởng như trời đất sắp
sụp đổ đến nơi. Sáng hôm sau, Tiền tuần phủ vội vã tới hoàng cung, tự bỏ hết mũ
mãng, quỳ mọp ở ngoài cổng để đợi chỉ, một mặt nhờ nội giám vào trong cầu khẩn
Trương tướng quốc thế mình xin tội trước Hoàng đế. Nhưng không ngờ sáng mai
thức dậy, hoàng đế đã quên bẵng chuyện mất ngựa tối qua rồi. Báo hại quan tuần
phủ Tiền Ngọc phải bỏ ra đến một ngàn lạng bạc mua một con ngựa màu vàng lúa,
bộ mã khá tốt, bước đi hay lắm, để đem dâng hoàng đế. Chưa hết, ông còn phải bỏ
thêm năm vạn lạng bạc hối lộ bọn nội giám thị vệ để nhờ bọn họ nói tốt cho mình
trước mặt hoàng đế.
Qua ngày thứ ba, Khang Hi hoàng
đế lại lên đường, hướng về tỉnh Giang Tô tiến phát. Tiền Ngọc tiễn hoàng đế ra
khỏi thành xa đến mấy dặm mới trở về. Ông vừa bước vào nha môn thì đã thấy một
hàng chữ viết trên tường từ lúc nào, chính giữa công đường:"Kẻ trộm
ngựa của nhà vua đó là Đậu Nhị Đôn tỉnh Sơn đông!"
Tuần tiễu phủ xem hết câu, bất
giác giật mình đánh thót một cái. Ông tức tốc hạ lệnh đóng ngay cổng thành để
ruồng bắt. Ruồng bắt đã mười ngày mà tuyệt nhiên chẳng thấy Đậu Nhĩ Đôn hình
bóng nơi nào.
Đậu Nhĩ Đôn vốn một tay đại hán
nổi danh tỉnh Sơn Đông.
Suốt một giải Sơn Đông, Trực Lệ,
Hà Nam, Đôn hoành hành chằng coi quan quân, pháp luật ra gì. Cái khoái nhất của
Đôn là gian dâm với phụ nữ. Con gái người ta đang ngủ trong phòng tới nửa đêm,
Đôn dỡ ngói nhảy xuống bắt cóc. Vừa đặt chân vào phòng, hắn đã bảo ngay cô gái:
"Đậu gia gia lại rồi đó, hãy ưng thuận đi nghe không?" Nếu cô gái
bằng lòng ưng chịu, tức thì hắn lấy chăn quấn lại cặp nách mang đi. Hắn phi
thân nhảy ra, rồi chạy một mạch về nhà tha hồ mà gian dâm. Sau khi thoả mãn,
hắn lại cho vào chiếc chăn quấn chặt mang về nhà cô gái, bỏ vào phòng như cũ.
Người con gái cài lại then cửa, rồi lên giường nằm ngủ như lúc đâu hôm, coi như
không có chuyện gì xảy ra. Thật là người chẳng biết, quỷ không hay. Nhưng nếu
cô gái giữ lòng trinh bạch không chịu. Đôn giết chết ngay, hoặc cũng có khi
cướp mang về nhà rồi không bao giờ thả ra nữa. Bởi vậy, những cô gái dù có xảo
quyệt tinh quái đến đâu cũng đành phải nhẵn nhục, mặc tình hắn làm gì thì làm.
Tuy thế, đôi khi Đôn cũng cho những gia đình nghèo túng khá nhiều tiền bạc. Bạn
hữu của Đôn rất đông ở vùng Tế Nam, thảng hoặc có kẻ giang hồ mãi võ ngang qua
tỉnh thành, ắt thế nào cũng phải tới thăm viếng hắn trước. biếu xén chút ít thì
lúc đó có làm ăn gì mới mong trót lọt, trái lại nếu không biết mà qua mặt thể
nào hắn cũng mang huynh đệ của hắn tới đánh phá cho một phen đến tới bời hoa lá
không còn cách gì làm ăn được nữa.
Bỗng một năm nọ, có một ông lão
đầu lâu tóc bạc đem hai cô con gái tuyệt đẹp đến thành Tế ngay tại miếu Thái
Ngạc. Hai cô gái này đều nhỏ nhắn xinh xinh, mặc một chiếc áo xanh, một chiếc
quần hồng, đi đi lại lại, múa võ làm vui khiến khán già đứng xem ai cũng mê hồn
lạc phách. Thế mà đến lúc xin tiền đều quái lạ nhất là khán giả ai cũng lắc đấu
nghẹo cổ rồi rút lui sạch, chẳng một ai cho một đồng kẽm nào. Ông lão chưng
hửng ngạc nhiên, cúi đầu buồn bực vô hạn. Giữa lúc đó bỗng có một tên đại hán
lướt tới trước mặt ông lão giơ cao bàn tay to tướng y như chiếc nạng đập mạnh
xuống hai ông lão rồi quát lớn.
- Thằng giặc già này! Mi có
nhận ra Đậu Nhĩ Đôn đất Sơn Đông này không?
Ông lão nghe quát, liền quay
đầu lại ngước mắt nhìn tên đại hán từ đầu tới chân lại từ chân tới đâu hai ba
lần thấy hắn đứng ưỡn ngực liếc méo hẳn đôi mắt, một tay chống mạng vào sườn,
một tay mân mê hai viên đạn sắt. Ngắm nhìn một lát để đo dò xong, ông lão trả
lời với giọng khinh khi lạnh nhạt:
- Ai thèm biết đến mi là Đậu
Nhĩ Đông, Đậu Tam Đôn mà làm gì? Huống hồ ta làm ăn theo nghề nghiệp của ta,
biết đến mi cũng vô ích!
Câu trả lời của ông lao làm cho
Đậu Nhĩ Đôn mở to mắt. trợn trừng con ngươi, những đường gân xanh ở trên mặt
nổi hẳn lên như những chiếc dây thừng. Hắn chẳng để cho ông lão nói thêm, giơ
thẳng cánh thoi cho một đấm vào giữa ngực ông lão như trời giáng.
Hồi 52: Cắt chức viên Tri Huyện
Ông lão đầu râu tóc bạc
thấy Đậu Nhĩ Đôn giơ thắng cánh giáng quyền vào ngực mình, song ông không thèm
đỡ mà cũng chẳng thèm tránh. Đậu Nhĩ Đôn càng hăng tiết, đấm luôn một hơi ba
đấm. Điều kỳ quái đối với hắn là ông lão vẫn ngồi yên như chẳng có chút gì tỏ
ra đau đớn hoặc sợ hãi. Bọn huynh đệ của Đôn đứng đằng sau thấy chuyện lạ, mặt
ngây ra tỏ ý hoảng sợ hết sức, Đôn mắc cỡ quá vội đem bọn huynh đệ rút lui, mặt
tên nào tên nấy teo lại như cái bị rách. Ông lão sau đó cũng thu lượm đồ đạc
rồi quay về khách điếm an nghỉ.
Nửa đêm hôm đó, giữa lúc ông
lão đang ngủ say, có một bóng người nhảy vù từ bên ngoài qua cửa sổ vào phòng.
Khi vừa đặt chân vững phía trong, cái bóng đen tay cầm chắc con dao nhọn hoắt,
nhè đầu ông lão chém mạnh xuống một nhát, tiếng dội lên nghe chát chúa. Có ai
ngờ được cái bóng đen chém như vậy mà ông lão kia vẫn thản nhiên nằm ngủ như
không có chuyện gì xảy ra, tiếng ngáy nghe như sấm. Tên thích khách bị một phen
hoảng hồn, đứng thộn người ra.
Mãi một lúc sau ông lão mói dần
dần tỉnh lại, mở mắt thấy Đậu Nhĩ Đôn còn đứng ngây người ở trước giường bèn
nói với một giọng bình thản:
- Thằng bé nào ở đâu tới phá
giấc ngủ của ông nội nó đó?
Đậu Nhĩ Đôn đến lúc này đã quá
sợ, hai chân mềm ra như bún, vội quỳ phịch xuống đất miệng khấn cầu ông lão
nhận hắn làm đồ đệ. Ông lão lúc đầu ngơ đi, chẳng thèm trả lời. Đôn tái tam
khẩn cầu, đập đầu lia lịa dưới đất, lúc đó ông lão mới khứng chịu. Thế rồi hôm
sau ông lão mang hắn đi, và từ đó, người ta còn trông thấy Đậu Nhĩ Đôn ở đất Tế
Nam nữa.
Năm năm sau, lại thấy Đậu Nhĩ
Đôn trở về với một cô vợ tuyệt đẹp. Người Tế Nam ai cũng nhận ra đó là cháu gái
của ông lão đầu râu tóc bạc ngày nọ.
Ông lão này họ Thạch, vốn là bộ
tướng của vị tướng quân nhà Minh Trương Thương Thuỷ. Người con gái đó là cháu
ngoại của ông. Sau khi Trương tướng quân thua chạy, ông bèn đem hai người con
gái, giả danh mãi võ để triệu tập anh hùng hào kiệt bốn phương mong khôi phục
lại Minh triều. Thế rồi khi gặp Đậu Nhĩ Đôn xin nhập môn làm đồ đệ, ông bèn
mang cà một kho võ nghệ truyền thụ cho Đôn. Ông còn đem cả cô cháu gái gả cho
Đôn nữa, và khuyên Đôn từ nay về sau nên ăn ở sao cho trở thành người tốt. Ông
cũng không quên giao cho Đôn nhiệm vụ chiêu tập bọn huynh đệ ở quê nhà để chờ
cơ hội mà phục thù cho Minh triều.
Khang Hi hoàng đế Nam tuần
chuyến này có qua địa phận Tế Nam. Đôn cho rằng cơ hội đã tới bèn đưa vợ con
vào ẩn tạm trong rừng sâu rồi ngay đêm hôm đó, dùng khinh công dạ hành nhảy vào
hành cung định hành thích vua Thanh.
Trong khi rình mò, Đôn thấy
phía sau viện có con ngựa Xích Ký tốt quá. Đôn vốn tính thích ngựa coi ngựa tốt
như mạng mình nên khi thấy đã bèn tính đánh trộm trước đã rồi sau sẽ hay. Con
ngựa thấy có người tới trộm giật mình hí vang trời và cấp đá tứ tung. Bọn thị
về vội vã chạy ra xem thì chỉ kịp thấy Đôn đã nhảy lên lưng phóng nước đại như
bay, thoắt một cái đã xa đến mấy dặm rồi. Đôn đem ngựa vào giấu mãi tận trong
rừng sâu xong mới ra ngoài thành lần nữa, nhưng Khang Hi hoàng đế đã đăng trình
về phía Tô Châu rồi.
Thuyền của nhà vua qua Đan
Dương, Thường Châu, Vô Tích, đều không đậu bến nào. Đúng ngày hai mươi sáu
tháng mười thì Khang Hi hoàng đế tới Hữ Dã quan tỉnh Tô Châu. Quan tuần phủ
Giang Tô là Thang Bân đem tất cả nha lại ra tiếp giá. Khang Hi hoàng đế cưỡi
ngựa đi qua cửa thành, dân chúng trăm họ quỳ hai bên đường phố nghênh đón. Nha
vua truyền lệnh bảo dân chúng đứng lên. Khi thấy ông già bà cả, trẻ nít con
côi, nhà vua nhảy xuống ngựa, lại gần hỏi han. Ngài đi bộ tới cầu tiếp giá,
trước chùa Thuỵ Quang, ngồi nghỉ chốc lát, rồi có quan tuần phú dẫn lộ vào xem
một xưởng dệt.
Hồi đó có một vị tên gọi Tổng
Mục Trọng đã từng làm phủ đài tỉnh Giang Tô, nay đã cáo lão về vườn hiện ẩn cư
tai thành Tô Châu. Nhà vua bỗng nhớ tới ông, vội cho người đi kiếm ông tới hành
cung để trò chuyện giai khuây. Qua ngày hôm sau, nhà vua sai bọn nội giám đưa
biếu họ Tống bốn con dê sống, tám con gà trống thiến, tám cái đuôi hương lộc,
hai mươi bốn bao thịt nai khô và bốn bao cá khô. Ngài lại còn truyền chỉ bảo họ
Tống cách nấu đậu hũ để cho ông lúc về già lấy kế sinh nhai.
Qua ngày thứ ba, quan tuần phủ
tới hành cung thỉnh an nhưng từ phía trong truyền ra bảo thánh cung không được
khoẻ , nhất thiết quan nha miễn vào bái kiến. Thực ra đó chỉ là lời thoái thác,
chứ hoàng đế có đau yếu gì đâu. Ngài đã từ sáng sớm đi cùng tên thị vệ thân tín
lẻn xuống một chiếc thuyền con vào trong các thôn xóm hoặc thị trấn du ngoạn
rồi.
Có một hôm, thuyền của nhà vua
cập bến cầu Thất Lý, trong vòng thành huyện Hoa Đình. Khang Hi hoàng đế bước
lên bờ thấy một quán rượu cất ngay bên cạnh cầu, tên tiểu nhị đang đứng bên
quầy hàng. Ngài bèn thả bộ vào quán.
Tiểu nhị chạy lại hỏi khách.
Ngài bảo lấy ba xị rượu rồi ngồi một mình độc ẩm. Một lúc sau, thấy khách trong
quán đã lui hết, ngài bèn gọi tiểu nhị lại ngồi cạnh hầu chuyện. Ngài hỏi tên
tiểu nhị:
- Người làm ăn vất vả cả ngày
như vậy, tiền công được bao nhiêu?
Tên tiểu nhị đáp:
- Công xá của bọn tôi ít ỏi
lắm. Bọn tôi chỉ nhờ vào chút tiền thưởng khi bán rượu mới đủ sống. Thực ra số
tiền thưởng này góp nhóp lại kể cũng khá. Nhưng từ khi Kim đại lão gia đáo
nhiệm tới nay thì ngài quyên thu hết, khiến bọn tôi chẳng còn được một cắc tiền
thưởng nào nữa. Hiện nay bọn tôi chỉ còn nhờ vào số tiền công mạt rệp này nên
không biết lấy gì độ nhật đây.
Nói xong, tiểu nhị thở dài, tỏ
vẻ chán nản. Hoàng đế cúi đầu để suy nghĩ điều gì đó. Lát sau bỗng ngài hỏi
tiểu nhị.
- Trong thành này, có vị quan
nào lớn hơn viên quan huyện không?
Tiểu nhị đáp:
- Mấy hôm nay nghe nói có đức
vạn tuế ngài tới, nên tỉnh phái một vị đề đốc đại nhân đem quân đến đây để bảo
vệ.
Khang Hi hoàng đế biết vậy,
liền bảo tiểu nhị lấy bút đem lại Ngài viết mấy chử xong đóng cái dấu nhỏ rồi
bỏ vào bao thơ dán kín. Ngài gọi tiểu nhị bảo:
- Người đem bao thơ này tới nha
môn của quan đề đốc. Ta với quan đề đốc vốn chỗ bạn thân. Một khi bao thơ này
đến tay ngài, ta tin chắc bọn ngươi khỏi phải đóng tiền quyên nữa.
Tiểu nhị nghe bảo, nhưng đời
nào dám làm theo. Về sau viên chưởng quỹ thay hắn liều mạng ra đi. Đặt chấn tới
cổng nha môn của quan đề đốc, viên chưởng quỹ thấy bọn sai nha tàn ác dữ tợn mà
phát hoảng. Y còn hoảng sợ hơn khi chúng hỏi y tới có việc gì. Viên chưởng quỹ
lật đật thò tay vào trong bọc, rút bao thơ ra, tay run run đưa cho chúng. Bọn
nha lại thấy chỉ là một bao thơ thường nên nhận xong rồi ném đại vào trong
phòng. Viên chưởng quỹ thấy bọn chúng xem thường vội bảo người khách đưa thơ
cần hồi âm ngay. Bọn sai nha vẫn bất chấp, chẳng thèm để ý. Tên Chưởng quỹ vật
nài, ba bốn lần nữa thì vừa may một vị nhị gia từ bên trong bước ra. Bọn sai
nha bèn đưa bao thơ cho vị này để đưa vào cho quan đề đốc.
Bao thơ đưa vào trong, chỉ một
lát sau bỗng mọi người nghe ba tiếng pháo nổ vang trời. Tức thì cửa chánh môn
mở toang.
Đề đốc đại nhân đích thân le te
chạy ra tiếp đón viên chưởng quỹ vào trong một cách vô cùng trịnh trọng. Bọn
sai dịch lúc nãy đứng hai bên mặt mày ngơ ngác, miệng há hốc chẳng hiểu sự thể
ra sao. Quan đề đốc vội vàng đốt đèn nhang sáng rực cả công đường. Ông đặt bao
thơ lên trên hương án, rồi đứng ngay ngắn phía trước làm lễ Tam quy cứu khấu. Lễ xong, ông
quay lại chắp tay trịnh trọng lạy viên chưởng quỹ ba lạy. Viên chưởng quỹ chẳng
hiểu ra sao, vội quỳ xuống đáp lễ mãi không thôi. Quan đề đốc, sau đó cho người
đi gọi ngay viên tri huyện Hoa Đình. Viên tri huyện chẳng biết chuyện gì vội
vàng đội nón mặc áo, leo lên kiệu, tức tốc ra đi. Quan đề đốc vừa thấy mặt Kim
tri huyện bỗng sa sầm nét mặt, hét một tiếng "Quỳ xuống nghe chỉ".
Kim tri huyện hoảng hồn bạt vía, vội nằm bò xuống đất không dám động cựa.
Quan đề đốc bước tới vài bước,
cầm bao thơ mở ra tuyên đọc:
"Tri huyện Hoa Đình Kim
Vũ, hối lộ tham nhũng khiến dân hết đường sinh sống, nên Trẫm giao cho quan đề
đốc bối xích lại ngay và đợi chỉ. Khâm thử" .
Kim tri huyện chưa nghe hết,
mặt hắn đã xám ngoét như cục đất thó. Bọn sai nha được lệnh, trước hết lột mũ,
rồi sau mới còng tay và đẩy tắp vào nhà lao.
Hạ ngục viên tri huyện xong
quan đề đốc bắt đem kiệu tới, leo lên ngồi trên, cho cả viên chưởng quỹ cùng
ngồi, chạy như bay tới cầu Thất Lý. Nhưng khi quan đề đốc bước vào tửu điếm thì
hoàng đế đã ra đi từ lâu. Quan đề đốc vội truyền lệnh cho các pháo thuyền khắp
nơi đều phải đuổi gấp để bảo vệ nhà vua. Ngự thuyền chỉ là một chiếc thuyền
nhỏ, mà pháo thuyền lại thuộc loại lớn kềnh càng đồ sộ cho nên quan đề đốc tìm
kiếm mất mấy ngày phí công mà vẫn chẳng thấy, trái lại, chỉ làm cho địa phương
này náo động lên một phen mà thôi.
Khi Khang Hi hoàng đế đến Tô
Châu, bọn quan lại ở đây mới biết rằng ngài vừa mới du hành ra ngoài, ông nào
ông nấy lũn cũn chạy tới hành cung thỉnh an. Ở lại ít hôm, hoàng đế lúc đó mới
trở gót về kinh, khi đi qua Giang Minh, ngài bỗng sực nhớ tới quan chức Tào
Dần, bèn truyền dụ cho Dần tới tiếp giá. Dần đưa ngài về Nha môn Chức tạo. Dần
vốn là một quan viên sai khiến của nhà vua, điều lý các việc. Hoàng đế đãi ngộ
Dần như một vị thân thần. Mẹ của Dần là Tôn thị, lúc trẻ cũng có vào cung.
Sau khi tiếp giá, Tào Dần và
hoàng đế trò chuyện vui đùa y như người trong nhà. Hoàng đế lại còn triệu bà
Tôn thị ra mắt ngài, rồi cả đến bọn cháu chắt thảy đều được ban thưởng rất
nhiều tài vật. Ngài lại viết ba chữ "Huyện thuỵ đường" để thưởng cho
Dần.
Dần có cái vườn hoa rất lớn.
Hoàng đế ở lại đây vài hôm nữa rồi xa giá mới thẳng về Bắc Kinh.
Trong khi vua cha Khang Hi Nam
tuần thì thái tử Dân Nhung ở nhà Giám quốc được yên ổn, không có chuyện gì xảy
ra. Nhưng vốn là một "con mọt sách", suốt ngày chúi mũi vào đống
sách, cho nên việc triều chính thẩy đều phó mặc bọn đại thần, thân vương bối
lặc lo liệu, duy chỉ có hoàng tử Dân Trinh, vì thấy vua cha tuần du khỏi kinh
thành, càng ngày càng tỏ ra phóng túng bạt mạng, chẳng đếm xia gì tới luật
pháp. Bỗng một hôm, thái tử Dân Nhung ra Nam Uyển đi săn, ngẫu nhiên thấy một
đội thị vệ cưỡi ngựa từ phía Nam chạy tới, hộ tống một chiếc xe, phía trước có
rất nhiều nghi trượng lại có cả bọn sư Lạt ma cầm pháp khí đi trước dẫn đường.
Thái tử tưởng lầm là Khang Hi hoàng đế đã trở về, vội chạy lại đón giá. Chẳng
ngờ người ngồi trên xe chỉ là tứ hoàng tử Dân Trinh. Nhung lấy làm bực lắm,
song lại nghĩ tới tình nghĩa anh em nên đành tránh ra bên cho đoàn xe ngựa của
Trinh đi qua.
Đợi đến Khanh Hi hoàng đế về
triều, thái tử Nhung diện kiến vua cha mới đem việc tứ hoàng tử mạo dung nghi
trượng hoàng đế tâu lên. Hoàng đế nghe xong tức giận lắm, liền phái người tới
thu hết đồ nghi tượng, lại còn gọi Dân Trinh vào cung, chửi mắng cho một trận
nên thân.
Bị một mẻ chua cay tứ hoàng tử
Dân Trinh hậm hực oán hận lắm, về nhà thu xếp hành lý, đem thêm mấy tay võ sư,
ra khỏi kinh thành, chạy thẳng về hướng Tây Nam.
Trong lúc đi đường Trinh bảo
với bộ hạ là cả bọn quyết đi đất chạy bộ chứ nhất định không dùng xe dùng ngựa,
như thế một là để tập luyện gân cốt, hai là để tìm kiếm anh hùng hảo hán ở dọc
đường. Trinh cùng bộ hạ đi đến chân núi Trung Sơn vào trọ trong lữ điếm thì lúc
đó trời cũng vừa tối. Bọn võ sư cùng bọn thị vệ thấy trăng trong gió mát nên
ngồi cả trước thềm để vừa ngắm trăng vừa nói chuyện vãn với nhau, Trinh một
mình ở trong phòng buôn quá, bèn lẻn ra ngoài tản bộ.
Về phía đông lữ điếm có một khu
rừng tùng, trăng chiếu ánh lung linh. Dưới mặt đất, bóng trăng không chiếu tới
được nên hình ảnh mập mờ. Trinh khoanh tay, từ từ bước tới cạnh khu rừng. Bỗng
tai Trinh nghe có tiếng gió lộng vù vù. Trinh gấp rút đi tới và vòng một vòng
ra trước thì thấy trên một khoảng đất trống về mé đông khu rừng có một nhà sư tay
cầm thiền trượng đang múa tít loang loáng dưới trăng.
Trinh xem nhà sư múa một lát
cảm thấy chân tay ngứa ngáy nên liền tuốt yêu đao, xông vào vòng chiến. Nhà sư
thấy có người đánh trả mình bèn múa cây thiền trượng vèo vèo lúc ẩn lúc hiện
như một con rắn vây bọc lấy đối thủ. Trinh đem hết tài nghệ luyện tập lâu nay
ra ứng phó, nhưng đánh đã một lúc lâu mà vẫn không tìm được cách nào để hạ thủ.
Rồi thủ pháp của Trinh mỗi lúc
thêm bấn loạn, tay chân Trinh đã có phần tên mỏi rã rời, trong lúc đó cây thiền
trượng của nhà sư càng lúc càng nhanh, càng lúc càng bám sát lấy Trinh. Trinh
thấy thế giật mình biết nhà sư này chẳng phải tay vừa.
Trong lúc Trinh còn đang suy
nghĩ để so đo đánh giá thì cây thiền trượng đã như một trái núi Thái Sơn từ
trên cao vụt tới chỉ cần nghe tiếng gió cũng đã nghe ghê hồn rồi.
Trinh hoảng quá, vội nhảy lùi
ra sau mấy bước, rồi bỗng quỳ xuống đất miệng kêu: "Xin sư phụ tha
mạng". Nhà sư thu cây thiền trượng, hồ hố cười lớn đoạn quay mình tới gốc
cây tùng lượm gói đồ lên, co chân phóng đi. Trinh đời nào chịu bỏ, vội đuổi
theo. Khi tới gần, Trinh vội ôm cánh tay nhà sư, khẩn khoản xin nhà sư cho làm
đệ tử. Nhà sư nghe lời Trinh có vẻ thực thà, liền nhìn Trinh từ đầu tới cuối
rồi gật đầu ưng chịu.
Trinh như mở cờ trong bụng, vội
quay về khách điếm kể lại cho bọn tuỳ tùng nghe mọi việc vừa xảy ra rồi bảo
chúng quay trở về kinh chờ đợi. Còn Trinh thì theo chân nhà sư ra đi. Hai thầy
trò ngày đi đêm nghỉ, trèo núi vượt đèo, trải qua không biết bao nhiêu đường
đất. Bình sinh Trinh đâu phải nếm cảnh gian lao khố cực như thế này nhưng vì
muốn học tập bản lãnh, cho nên đành phải nhẫn nại chịu đựng. Hai người đi như
vậy đã nhiều ngày bỗng một hôm tới một ngọn núi cao. Thầy trò cùng trèo lên.
Khi tới được đỉnh núi thì Trinh đã mệt nhoài, mồ hôi ra như tắm. Nhà sư co chân
bước những bước vừa cao vừa dài tới một chóp núi. Một toà miếu lớn hiện ra, mé
trên cửa treo tấm biển viết ba chữ lớn: "THIẾU LÂM TỰ". Mãi lúc đó
Trinh mới rõ sự thể, và từ đó về sau Trinh theo sư phụ, cùng bọn sư huynh sư đệ
ngày ngày luyện tập.
Trinh sống với bọn đồng môn nơi
đây mười phần hoà thuận. Có kẻ hỏi Trinh lai lịch quê quán thì Trinh chỉ bảo
mình quê ở Bảo Định Phú còn câu chuyện hoàng tử, hoàng cung Trinh tuyệt đối giữ
kín không cho ai hay. Trinh có tật xấu là ăn quá nhiều khiến bọn đồng môn ai
cũng cười Trinh và đem sánh với vị sư phó trước đây.
Vị sư phó của họ tên gọi Chính
Giác. Lúc mới tới chùa, Chính Giác chỉ là một nhà sư nấu bếp. Chính Giác ăn quá
nhiều. Mỗi lần cùng ăn cơm với bọn đồng môn, Chính Giác ăn không được no, chỉ
lưng lửng phần nào, miệng còn chép chép muốn ăn thêm. Bởi vậy, Chính Giác tính
chuyện trộm đồ ăn thừa còn lại trong bếp đem giấu trong một khẩu chuông cổ bỏ
đã lâu đời đằng sau viện, để lúc vắng người ra đó ăn thêm. Khẩu chuông cổ này bằng
đầu người, nặng có tới ngàn cân, vứt ở trong xó viện đã từ lâu lắm, không ai có
thể xê dịch nó nổi. Chính Giác trời sinh có một sức mạnh như thần. Ông nâng lên
đặt xuống khẩu chuông như cầm bát cơm vậy. Về sau, nhà sư trông coi việc bếp
nước thấy hôm nào cũng mất đồ ăn, bèn len lén điều tra. Nhà sư này theo dõi
Chính Giác tới sau viện thì bắt được quả tang Chính Giác đang nhấc bổng khẩu
chuông lên để đặt gói đồ ăn trộm ở nhà bếp vào trong. Thế là chuyện vỡ lớ. Mọi
người ai nấy đều ngạc nhiên. Vị hoà thượng trụ trì cho gọi Chính Giác tới,
khuyên không nên lấy trộm cơm nữa, và hứa cho ăn thả cửa, thật no đủ thì thôi.
Hoà thượng trụ trì lại hỏi Chính Giác có một thần lực như vậy, tại sao không đi
đầu quân phò vua giúp nước thì Chính Giác đáp:
- Đệ tử nghe nói trên núi Nga
Mi có một vị Thái sư phó tinh thông quyền thuật. Môn bách bác thần quyền của
ngài được coi vô địch. Nhưng ngài chỉ chuyên truyền thụ cho đệ tử Phật môn mà
thôi. Đệ tử không có vị hoà thượng trụ trì tên tuổi nào giới thiệu cho nên ngài
chẳng chịu thu nhận. Nay sư phó cấp cho đệ tử một phong thư giới thiệu giúp đệ
tử tới núi Nga Mi học thành tài trở về, đệ tử không bao giờ dám quên đại đức
của sư phó.
Vị hoà thượng trụ trì thấy
Chính Giác thành tâm cầu học, nên viết ngay bức thư giới thiệu. Chính Giác cầm
thơ đi thẳng tới núi Nga Mi, mãi tám năm sau mới về thì vị trụ trì đã mất. Thế
là toàn thể tăng ni trong chùa tôn Chính Giác lên làm trụ trì.
Nhà sư Chính Giác, quyền pháp
quả thực cao cường, thiên hạ đều biết tiếng. Số môn đệ tới Chùa xin lãnh giáo,
tăng có, tục có lên tới hơn một ngàn người, người nào người nấy đều được Chinh
Giác hoà thượng tận tâm chỉ bảo. Hoàng tử Dân Trinh hồi đó cũng theo bọn môn đệ
cố công luyện tập. Tạo luyện hơn một năm ròng rã, Trinh đã lãnh hội được môn
bách bát thần quyền. Trinh bèn xin sư phó trở về nhà.
Sư phó Chính Giác gật đầu, và
sau đó cho gọi 108 nhà sư môn đệ vây Trinh vào giữa để hai bên tỷ đấu quyền
thuật.
Đứng trước 108 địch thủ Trinh
không hề có chút sợ hãi. Trinh phải lần lượt đấu hết người này tới kẻ kia. Bọn
địch thủ đấu càng về sau càng hung dữ khiến Trinh phải đem hết công lực và tài
nghệ chống đỡ mới thoát hiểm. Cuối cùng Trinh đã đánh lui được đủ 108 người sát
hạch mình.
Theo quy lệ của chùa Thiếu Lâm
thì hễ ai nhập môn vào chùa đều phải có lệ nghinh tống (đón rước và tiễn đưa):
khi vào chùa, được học nghề, phải bốc nổi cái chuông đã đặt ở ngay trước cổng
rồi cố sức mang được vào bên trong thì lúc đó mới được thu lưu. Kẻ nào không
làm nổi thì nhà chùa nhất định không nhận. Rồi đến khi học đã thành tài muốn ra
khỏi chùa để hạ sơn, bắt buộc phải qua ba từng cổng. Cống thứ nhứt có tám vị
hoà thượng tay cầm dao chực sẵn. Đánh thoát được cổng thứ nhất mới tới cổng thứ
hai. Cổng này có tám vị hoà thượng tay cầm gậy chực sẵn. Đánh thoát được cổng
thứ hai rồi lại còn cái cổng chót, là cống thứ ba. Cổng thứ ba có tám vị hoà
thượng đứng chờ, không có binh khí, nhưng dùng quyền cước tấn công, tám vị hoà
thượng này đều là những tay võ có bản lĩnh cao cường, quyền pháp tinh thông,
thoát khỏi được không phải là chuyện dễ. Người muốn ra phải theo ngưỡng cửa mà
ra. Bởi vậy, Dân Trinh đã muốn hạ san, ắt không thể nào không theo qui củ của
nhà chùa. Trinh bèn tung mình qua từng cửa thứ nhất, may sao tránh được đao của
bọn hoà thượng. Qua từng cửa thứ hai Trinh đang tìm cách thoát đi, thì vừa lúc
ngoài sơn môn chạy tới một đám đông thị vệ và nội giám. Bọn người này chính là
bọn thủ hạ của Trinh trở lại tìm chủ. Đến lúc đó, cả bọn tăng tiểu trong chùa
mới biết Trinh là một vị hoàng tử. Nhà sư trụ trì bèn quát bảo mọi người lui ra
rồi đích thân đưa Trinh ra khỏi chùa.
Theo ý của Dân Trinh thì nhất
định phải đánh phá cho kỳ được ba từng cửa mới ra. Nhưng hoà thượng Chính Giác
không cho, còn nói:
- Đường đường một vị hoàng tử,
con không nên quá cố chấp và liều lĩnh.
Khi tạm biệt, hoà thượng Chính
Giác tặng Trinh một cây thiền trượng bằng sắt, bảo để dùng làm kỷ vật về sau.
Lại nói:
- Bản lãnh của hoàng tử đã có
thể tung hoành thiên hạ. Nhưng nếu gặp nữ nhân, nên đặc biệt cẩn thận đề phòng.
Dân Trinh nhất nhất lĩnh hội,
rồi cáo biệt xuống núi. Khi về tới vùng Sơn Tây ngụ tạm trong khách điếm, bỗng
nghe có tiếng quát tháo om sòm bên ngoài. Trinh cho người chạy ra hỏi xem, mới
biết một tên đại hán đang muốn đánh chết một người nào đó, trong khi khách qua
đường xúm lại cố khuyên hắn bớt giận. Tên đại hán ấy chẳng những không nghe ai
mà còn quát lớn:
- Ta vốn là võ sư của đương kim
điện hạ. Nếu ta có gây ra án mạng thì đã có điện hạ của ta lo liệu chứ ta đâu
có sợ gì.
Lời nói hách dịch đó quả đã
khiến Dân Trinh cả giận. Trinh cầm cây thiết trượng chạy tới, thì một cảnh
tượng vừa thương tâm vừa đáng giận hiện ra trước mắt. Trên mặt đất, Trinh thấy
một người nằm cong queo giữa đường, đầu vỡ máu chảy lênh làng, chết tự bao giờ.
Đứng phía trước là một tên đại hán, một tay chống nạnh, tay kia chỉ vào thây
người chết, mặt hầm hầm giận dữ, miệng bô bô chửi rủa. Chung quanh, một số đông
khách qua đường xúm lại tạo thành một cảnh vô cùng huyên náo.
Hoàng tử Dân Trinh đẩy đám đông
lách vào trong rồi tiến lên hỏi tên đại hán. Không ngờ, hắn càng làm tàng, gân
cổ nói phách:
- Lão gia đây muốn đập chết đứa
nào thì cứ đập. Lão gia đang chờ đứa nào tới vuốt râu cọp. Mi liệu có ba đầu
sáu tay không mà dám nhảy vào hỏi lão gia?
Dân Trinh chưa nghe tên đại hán
nói hết câu, máu hoả đã bốc cao ngút, liền cất cao cây thiền trượng múa một
vòng rồi đập mạnh vào sọ hắn. Một tiếng "bốp" vang lên, tức thì tên
đại hán ngã quay đơ ra đất, đầu vỡ, máu vọt ra có vòi, nằm ngất lịm như kẻ chết
rồi.
Cảnh tượng xảy ra quá đột ngột
khiến bọn chưởng quỹ, tiểu bảo trong khách điếm sợ hãi cuống cuồng, ùa nhau
chạy tới nắm lấy áo Dân Trinh không chịu buông. Trinh bèn cho một tên thị vệ
theo bọn tiểu bảo tới huyện nha thụ lý bản án, còn mình thì rời khỏi địa phận
Sơn Tây trở về Bắc Kinh.
Khi về tới nhà, Dân Trinh thấy
có một số đông kiếm khách và Lạt ma tăng tới thăm hỏi. Nhân lúc vui tiệc, Trinh
cho mọi người nghe chuyện mình đánh chết tên võ sư như thế nào. Bỗng một vị Lạt
tăng trong cử toạ lên tiếng nói:
- Không xong rồi! Võ sư đó vốn
là một tên tâm phúc của thái tử. Gia đình hắn có chuyện nên xin thái tử về quê
ở Sơn Tây. Nay hắn bị chủ tử đập chết, thái tử đời nào lại chịu bỏ qua mà không
can thiệp chứ?
Dân Trinh nghe xong, chẳng thèm
để ý, liền quát bảo lấy thêm rượu. Hôm đó uống quá nhiều, Trinh say bí tỉ. Bọn
thị vệ phải xúm lại khiêng vào phòng trong. Ngủ một giấc mãi tới nửa đêm Trinh
mới tỉnh lại, miệng khát đòi nước.
Tên thị vệ vội dâng chén nước
sâm. Trinh đang định giơ tay đỡ lấy thì bỗng thấy từ ngoài cửa sổ một đạo bạch
quang bay vụt vào chạm ngay giữa song cửa đánh rầm một tiếng, rồi lại quay vút
ra ngoài. Trinh vội tuốt lẹ cây bảo kiếm đeo bên hông tên thị vệ. Vừa định chạy
ra, bỗng thấy một vị Lạt ma hối hả chạy vào, tay lắc lắc ra dấu, miệng thầm bảo
Trinh:
- Bên ngoài đang kịch chiến ác
liệt, hoàng tử hãy coi chừng.
Trinh vội lôi tên thích khách
từ đâu tới thì vị Lạt ma tăng lắp bắp nói được hai tiếng: "Thái tử",
rồi im bặt. Một đạo bạch quang lóe sáng như điện chớp lại từ bên ngoài cửa sồ
bay vút vào, tạo thành một chuỗi âm thanh ghê rợn. Một tiếng "phập"
chát chúa vang lên. Trinh vội nhìn vào chỗ phát ra âm thanh thì đó là một cây
bảo kiếm bị ném đã cắm sâu vào thành giường cán còn lắc lư rung động, lưỡi kiếm
phát ra những luồng sáng xanh lóe đến lạnh người. Vị Lạt ma tăng vội nắm áo
Trinh kéo sang một bên, đồng thời thổi tắt hết đèn đóm trong phòng.
Bên ngoài, gần khắp cả khuôn
viên, tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng chứng tỏ cuộc so gươm đấu chưởng
kinh hồn đang diễn ra. Một lúc lâu sau người ta mới thấy tiếng binh khí xa đi
và mất dần.
Lúc này trời đã sáng và Trinh
cũng đã tỉnh rượu. Trinh bèn mở cửa viện ra xem thì thấy cây cối trong vườn bị
kiếm chém rụng hết, cành lá trơ trọi chẳng khác gì những cái cán cờ dựng đứng
lên trời. Trên mặt đất nằm la liệt những tử thi.
Trinh quan sát cẩn thận mới hay
đó là xác đám tay chân thái tử, ngoài ra cũng có xác một số kiếm khách của
Trinh nữa.
Hoàng tử Dân Trinh thấy tình
hình như vậy, lấy làm căm phẫn lắm, lập tức triệu tập bọn kiếm khách và võ, sư
lại để bàn tính trả thù. Vốn là những tay cao thủ võ lâm, cả bọn đều hăng hái
quyết tử, đồng thanh nói:
- Xin cho phép bọn tôi đêm nay
tới Đông cung, quyết lấy cho kỳ được đầu thái tử về nạp cho chủ tử.
Trình bèn sai dọn tiệc. Cả bọn
cơm no rượu say rồi kẻ nào kẻ nấy giắt dao, xách kiếm lên đường. Thế rồi cả đêm
hôm đó, đám bách tính có nhà ở gần hoàng thành chỉ nghe thấy tiếng đao kiếm rộn
ràng, ào ạt như tiếng gió gào, tiếng mưa thét làm vang động cả một góc trời.
Qua ngày thứ hai, người ta chỉ
thấy bọn nội giám trong Đông cung tất tưởi ra ngoài phố mua tới hơn chục cổ
quan tài đem về. Bên Đông cung đã thế thì bên phủ của Dân Trinh cũng chẳng thua
gì. Ở đây, người ta cũng thấy bọn thị vệ hối hả ra chợ mua khá nhiều áo quan
khiêng về phủ.
Nguyên lai chuyện ác chiến hôm
đó, thái tử đã sớm dò được tin tức, cho nên một mặt ẩn trốn vào nơi kín đáo,
một mặt đặt bọn kiếm khách phục sẵn khắp trong Đông cung..
Cuộc ác đấu này đã lượm hết mỗi
bên hơn mười mạng. Từ đó, mối thù giữa thái tử và Ung vương càng ngày càng
thắt, khó lòng gỡ nổi.
Thái tử Dân Nhung biết chẳng
chóng thì chầy hoàng tử Dân Trinh cũng sẽ trả thù. Bởi vậy, Nhung cho người
mang theo vàng bạc ra khỏi kinh thành, tới các miền như Sơn Tây, Hà Nam, Sơn
Đông, mời các vị cao thủ võ lâm về để bảo hộ cho mình. Ung vương được tin đó,
bèn thảo luận với bọn thủ hạ kiếm khách, cũng đi mời các tay võ hiệp bản lãnh
cao cường về để so tài cao thấp với phe Đông cung. Trong bọn có một vị Lạt ma
tăng khuyên Dân Trinh nên đích thân xuất kinh phỏng tầm, một là để tránh tai
mắt Đông cung, hai là để kết liên với bọn giang hồ hành hiệp. Ung vương nghe
lời nói có lý, bèn đem theo vài tên thị vệ võ sư lại ngầm lén ra đi.
Trên đường đi, Ung vương Dân
Trinh chú ý tới hành vi của những anh hùng hảo hán, và cũng gặp được một vài
tay.
Trong bọn này, có một người tên
gọi là Bạch Long đạo nhân, rất lợi hại về môn phóng phi đao, có thể lấy thủ cấp
người đứng xa trăm bước như chơi. Trinh bèn xin Bạch Long đạo nhân truyền thụ
ngón võ tuyệt luân này lại cho mình thì vị đạo nhân trả lời:
- Võ công này của bần đạo chỉ
dành riêng cho mình, chứ không thể truyền cho người khác. Nếu chủ tử muốn học
thì phải học sư phụ của bần đạo tên là Cam Phượng Trì, một đại hiệp vùng Giang
Nam mới được.
Ung vương vốn mộ tiếng Cam
Phượng Trì đã lâu, nên nay nghe Bạch Long đạo nhân nói vậy, bèn theo gót tới
Giang Nam phỏng tầm. Khi tới đất Kim Lăng, Ung vương được tin hiệp sĩ họ Cam
đang ở trong nhà một vi thân sĩ họ Kim. Vương bèn theo Bạch Long đạo nhân tới
nhà họ Kim để bái kiến…
Cam Phượng Trì hiệu xưng là
Giang Nam đệ nhất hiệp. Quyền pháp của họ Cam có đủ bí quyết của lương gia nội
ngoại. Suốt cả hai miền Đại Giang nam bắc không ai có thể thắng nối họ Cam. Cam
Phượng Trì hay can thiệp những chuyện bất bình. Bởi vậy, các bậc thân sĩ miền
Giang Nam thường luân phiên mời ông ta về nhà, bầy rượu ngon, tiệc hậu cung đón
Cam Phượng Trì nhậu say, đến lúc cao hứng, bèn trổ tài, cho chủ nhân khai tâm
chút bản lãnh của mình. Có một hôm nhà họ Kim mời khá đông quý khách tới chè
chén tại Hoa sanh. Chủ nhân mời Cam Phượng Trì ngồi ghế trên nhất.
Khi rượu được nửa cuộc, họ Cam
bỗng lên tiếng một cách trịnh trọng:
- Ngoài cửa sổ, hoa mai đương
độ nở tươi, đáng lý bọn ta phải vừa thưởng hoa vừa uống rượu mới phải! Thế mà
nay cứ đóng cửa im ỉm như thế này, há chẳng phải là vô tình với cảnh tạo hoá
hay sao?
Nói đoạn, Cam Phượng Trì vận
khí thổi phù, khiến tám tấm cửa sổ phía nam bật ra, tiếng gió rung lên phần
phật.
Mùi thơm của hoa mai ùa vào
phòng. Đám tân khách kẻ nào cũng vỗ tay đôm đốp, miệng thì khen lấy khen để.
Một vị khách trong bọn nói:
- Nghe đại hiệp rất cao thủ
đoạn, có thể bắn trúng ngoài trăm bước, trăm phát chắc trăm. Rất mong đại hiệp
cho cả toạ thưởng chút ít tài nghệ hôm nay.
Cam Phượng Trì đang cao hứng
liền cho người cầm bút ra cây mai đánh dấu trước những đoá hoa và chỉ cần cho
biết rõ đoá hoa thứ mấy cũng như cành thứ mấy là đủ. Đoạn họ Cam vo tròn một
miếng giấy rồi búng vút ra của sổ, bắn vào cây mai. Mọi người chỉ thấy hoa mai,
hết đoá này tới đoá kia, rơi xuống mặt đất lả tà. Xem kỹ lại thì ra đó toàn là
nhưng đoá hoa mai đã được đánh dấu từ trước. Cử toạ đến lúc đó thảy đều giật
mình. ai cũng phải cho là kỳ dị.
Tiệc tan, chủ nhân mời khách
tới Tây trang du ngoạn. Tây trang vốn là trang trại của chủ nhân. Vài nếp nhà
tranh, đôi nóc lều nát điểm xuyết cho cảnh đồng quê thêm phần thanh tịnh hữu
tình, càng làm cho khách thích thú. Nhưng giữa lúc đang ngắm cảnh, bỗng một chú
mục đồng vừa khóc vừa chạy lại nói với Kim chủ nhân:
- Ông ơi! Hai con trâu húc nhau
từ trưa tới giờ vẫn chưa thôi ông ạ!
Cả bọn theo chú bé chăn trâu ra
sau trại xem, quả nhiên thấy hai con trâu mộng đang dùng sừng kìm nhau, nhất
định không bên nào chịu buông. Cam Phượng Trì bước tới dùng tay gạt đôi cặp
sừng ra, rồi thuận thế nắm lấy, đẩy mạnh một cái khiến hai con trâu bị xô sang
hai bên khu ruộng. Người ta chi thấy mấy cặp giò của đôi trâu cắm ngập vào lòng
đất bùn, cố rút mãi mà vẫn không lên được. Khách đứng xem thẩy đều cảm phục.
Cam Phượng Trì sau đó tiến tới đưa hai cánh tay sắt ra nâng hai con trâu lên
nhẹ nhàng như ta nâng cái ghế gỗ, giúp chúng thoát khỏi ruộng sình.
Chính giữa lúc họ Cam đang biểu
diễn vài ngón võ mọn thì người nhà chạy tới báo có Bạch Long đạo nhân từ trên
Kinh xuống cầu kiến. Cam Phượng Trì nghe nói đồ đệ tới, trong lòng rất lấy làm
vui mừng, bèn nhờ ngay căn nhà khách của họ Kim để tương kiến.
Hoàng tử Dân Trinh yết kiến Cam
Phượng Trì, rồi thác rằng mình là họ Lý. Bạch Long đạo nhân cũng nói thêm vào
rằng họ Lý, nghe danh của sư phụ đã lâu nên tới bái phòng.
Bạch Long đạo nhân xin sư phụ
tiến kinh một thể với mình, đồng thời cũng không quên ca tụng Dân Trinh nào là
khảng khái ham điều nghĩa, nào là bản lãnh cao cường…
Cam Phượng Trì nghe xong, chẳng
nói năng gì, dẫn cả hai vào tương kiến với Kim chủ nhân. Tối hôm đó Kim bày
tiệc đãi Dân Trinh. Rượu đến nửa cuộc, Cam Phượng Trì có ý muốn thỉnh giáo bản
lãnh. Trinh không từ chối, bèn dùng phép vận khí của phái Thiếu Lâm tựa sát
lưng vào chân tường rồi đẩy nội lực tung người lên cao, vượt hẳn ngọn tường,
sau đó lại từ từ rơi xuống như chiếc lá thu rơi. Cam Phượng Trì miệng nở nụ cười
tinh quái, thong thả đứng lên, rồi cũng bước lại đứng phía chân tường, bảo Dân
Trinh vận hết sức bình sinh mà đấm. Trinh cũng muốn thử xem bản lĩnh của họ
Cam, cho nên vận nội lực vào cánh tay tống một quyền như trời giáng vào bụng.
Chỉ thấy Cam Phượng Trì thót bụng một cái, khiến cả cái bụng bự lúc trước chỉ
còn mỏng như tờ giấy.
Nắm đấm của Trinh khi tới bụng
họ Cam thì chẳng khác gì đấm vào chính bức tường. Trinh vội rút ra nhưng lạ
thay, nắm đấm của mình đã bị cái lỗ rốn của họ Cam hút chặt vào, không cách gì
kéo ra được. Lát sau, Cam Phượng Trì cười lên kha khá rồi "buông"
bụng ra, lúc đó Trinh mới thu được quyền về.
Sau khi tiệc tan bọn Bạch Long
đạo nhân cùng vào ngủ chung một phòng với Cam Phượng Trì. Thấy không có ai,
Bạch Long đạo nhân bèn thì thầm kể cho Cam Phượng Trì biết Dân Trinh chính là
đương kim tứ hoàng tử, đối đầu với thái tử có ý tranh đoạt địa vị, nên tới mời
sư phụ tiến kinh.
Cam Phượng Trì nghe đoạn, xua
tay mấy cái liền rồi bảo:
- Không được đâu! Ta chẳng đi
đâu!
Bạch Long đạo nhân cầu khẩn ba,
bốn lần nhưng Cam Phượng Trì vẫn lắc đầu nguầy nguậy khiến hoàng tử Ung Vương
nằm gần bèn nổi đoá, đứng vụt dậy chộp lấy tà áo Cam Phượng Trì. Họ Cam lập tức
khoát tay một cái, quay mình nhanh như chớp vút đi, không thấy bóng dáng đâu nữa.
Bạch Long đạo nhân chạy khắp cả trong ngoài căn nhà để tìm kiếm nhưng vẫn bặt
tham hơi. Rồi bỗng Dân Trinh nhác thấy có đôi bàn chân thò ra ở sau cái quầy
áo. Hai người vội chạy lại khiêng quầy áo ra thì thấy Cam Phượng Trì đang đứng
sau đó, thân hình dán sát vào vách tường y như một tờ giấy mỏng.
Bạch Long đạo nhân chắp tay lạy
mấy lạy rồi mời Cam Phượng Trì bước xuống cho nhưng họ Cam vẫn đứng nguyên vậy
Dân Trinh chạy tới kéo mạnh xuống nhưng Cam vẫn cứ trơ trơ như đá, không một
mảy may nhúc nhích. Dân Trinh đem bài thần chú Lạt ma ra niệm, Cam vẫn không hề
lung lay. Dân Trinh lúc đó đã nổi đoá, tự nhủ: "Con người bản lãnh cao
cường như vầy nếu không về với ta để sau này thái tử mời được rồi chống lại ta
thì thật nguy hiểm. Chi bằng nhân lúc này ta kết quả luôn tính mạng của hắn đi
cho xong". Nghĩ vậy, Trinh rút lẹ cây chuỳ thủ, dùng tận lực bình sinh đâm
thốc vào Cam Phượng Trì nghe đến phập một tiếng ghê người.
Cùng lúc tay này đâm tới thì
tay kia Trinh nắm lấy Bạch Long đạo nhân kéo chạy đi. Hai ngươi ra tới bờ sông,
nhảy đại xuống thuyền, hối thúc chèo lẹ về hướng Bắc.
Trong phòng, Cam Phượng Trì khi
thấy Dân Trinh và Bạch Long đạo nhân trốn đi rồi, bỗng phá lên cười sằng sặc.
Mọi người chung quanh vội chạy tới hỏi han, mới biết Cam Phượng Trì chẳng hề
hấn gì cả, thật là tài tình và đáng sợ. Kim chủ nhân bèn hỏi họ Cam lý do không
chịu đi với Tứ hoàng tử vào kinh thì ông đáp:
- Vì Tứ hoàng tử này có cái
tướng đế vương thật đấy, nhưng vì xương gò má phía ngoài quá độ nên nhất định
sẽ là kẻ vong ân bội nghĩa, tại hạ không đi theo y là vì vậy.
Cả bọn nghe Cam Phượng Trì nói,
tỏ ý rất bội phục.
Khi Dân Trinh về tới Bắc Kinh
thì cũng là lúc Khang Hi hoàng đế tuần hành Tô Châu lần thứ ba vừa về tới. Nhân
dân khắp thành ai cũng bàn tán về chuyện hoàng đế bị ám sát hụt ở Thái Hồ.
Trinh được tin vội chạy vào cung thỉnh an.
Lúc đó có một vị vua Mông Cổ
tên gọi Tắc Ngác Ngạch đứng bên, bèn thuật lại sự thể cho Dân Trinh nghe:
- Hoàng thượng gặp thích khách
ở Thái Hồ, đó là chuyện có thực. Tân vương tối hôm đó cũng có mặt tùng giá
trong đoàn. Vượt khỏi Kim Sơn tới Tô Châu, cả đoàn người nán lại đây ba ngày
rồi sau mới đi Thái Hồ. Hoàng thượng thấy bốn mặt hồ có đến bảy mươi hai ngọn
núi chọc trời, ngọn gần ngọn xa tất cả tạo thành một cảnh trí vô cùng ngoạn mục.
Bởi vậy, ngài lấy làm thích thú, bèn ngồi trước mũi thuyền để vừa ngắm cảnh vừa
lưới cá. Thuyền ngài bắt được hai con cá chép, ngài lại càng thích thú hơn nữa.
Ngài bảo tuỳ tùng lấy hai đỉnh vàng y ra thưởng cho bọn dân chài. Giữa lúc tất
cả đương vui thích cười nói thì bỗng một tên đại hán chạy như bay trên mặt nước
rồi nhảy phóc vào ngự thuyền. Trong nháy mắt, người ta chi thấy cây bảo kiếm
trong tay tên đại hán vung lên như một làn chớp nhè ngay mặt hoàng đế chém tới.
Ấy cũng may hoàng thượng quả có phúc lớn bằng trời khiến ngài vội né sang bên
tránh thoát được mũi kiếm. Một đạo hào quang vụt nhanh về phía sau, tức thì tên
thái giám trúng kiếm chết ngay, trong khi dư âm "nguy rồi" của hoàng
đế còn vang trong không trung. Bọn thị vệ miệng vừa la "Có thích
khách" tay vừa tuốt đao khỏi vỏ nhất tề xông tới nghinh địch. Lúc đó, tiểu
vương tôi đang ở phía sau, nghe phía trước la hét om sòm, vội chạy tới, thấy
tên đại hán đang xông vào khoang cố giết hoàng đế cho bằng được. Tiểu vương tôi
liền dùng hết sức bình sinh đánh bật địch thủ ra phía ngoài khoang. Tên thích
khách thấy tiểu vương tôi sức quá mạnh, biết khó có bề thủ thắng, bèn quay mình
nhảy ùm xuống nước mất dạng, chẳng biết bơi về phương nào.
Khang Hi bị một phen chết
hoảng, lấy làm giận lắm, bèn cho gọi Lưỡng Gia tổng đốc là Trương Bằng Phiên và
Giang Tô tuần phủ là Tống Lạc tới mắng nhiếc khiến bọn Tống, Trương chỉ còn
biết quỳ mọp trên đất, dập đầu cầu xin tha tội. Được tha về, bọn Trương, Tống
hú vía, vội phát cáo thị khắp ba huyện Trường, Nguyên, Ngô cấp thời bắt giặc,
mặt khác, triệu thỉnh các tay hảo hán tới bảo hộ thánh giá.
Lúc đó, có hai vị anh hùng,
hưởng ứng lời triệu, tìm đến. Một người tên gọi Bạch Thái Quan còn một người
không tên tuổi. Khi Trương tổng đốc đưa vị anh hùng không tên tuổi này tới yết
kiến hoàng thượng thì ngài thấy ông ta mình chỉ mặc có một chiếc áo bằng da cá
và nhân đó, ông ta xin ngài đặt cho một cái tên. Khang Hi hoàng đế liền gọi
luôn là Ngư Xác (có nghĩa là xác cá). Ngài hỏi Ngư Xác có bản lãnh gì thì Xác
tâu:
- Tiểu nhân có thể đi trên mặt
nước như đi trên đất bằng, lại cũng có thể nằm chìm hẳn trong nước được ba ngày
ba đêm liền. Tiểu nhân còn có một cái dây lưng quần có thể địch nổi muôn quân
ngàn ngựa.
Nói đoạn, Ngư Xác thò tay cởi
ngay chiếc dây lưng ra. Chiếc dây lưng này vốn làm bằng thép luyện. Khi buộc
vào, nó chẳng khác gì một chiếc dây lưng bằng tơ còn khi cầm trên tay múa tít,
nó bắn ra tứ phía một đạo hào quang lạnh người. Hoàng đế bảo bốn mươi tên thị
vệ, kẻ nào cũng lăm lăm kiếm, xông lên tấn công Xác thử xem. Đánh một lúc lâu,
bọn thị vệ không có cách nào lại gần được Xác. Hoàng đế xem trận đấu, tán thán
luôn mồm. Thế là ngài giữ Xác lại cạnh mình, cho sung chức Thị tùng võ quan.
Còn nói đến Bạch Thái Quan, thì
trước hết phải kể ngay rằng hắn là đứa vô loại. Lúc thiếu thời, hắn chỉ thích
gian dâm phụ nữ. Hắn tung mình nhảy một cái, có thể qua bức tường cao vài chục
trượng. Dù cô gái có là một tiểu thư khuê các, một khi đã lọt vào mắt hắn. Có
một hôm, Quan nghe nói nhà họ Thanh ở Dương Châu có một cặp chị dâu, em chồng,
hai người đều xinh đẹp đến mê hồn, nên hắn mò tới, dò xét kỹ rồi mới nhảy qua
tường vào nhà. Giữa lúc định cưỡng hiếp, hắn bỗng bị một chiếc côn lớn phang
vào sau ót, đến nỗi ngất lịm ngay đi. Đến khi tỉnh lại, hắn thấy mình đã bị
trói chặt, phía trước một ông lão ngồi ngất ngưởng đang sai bảo gia nhân ôm
củi, gánh rơm tới để thiêu sống hắn. Quan biết ngày tàn đã đến nên dùng hết sức
bình sinh giãy đạp lăn lộn khắp phòng.
Chỉ trong nháy mắt bao nhiêu đồ
đạc trong nhà, nào ghế nào bàn đều đổ gãy ngổn ngang hết. Sức của hắn mỗi lúc
mỗi hăng, dữ tợn đến không ai chống nổi, khiến đèn đóm rớt đổ lung tung. Lửa
bốc cháy, căn nhà sáng rực lên như ban ngày.
Bọn người nhà vội hò nhau cứu
hoả, không còn thì giờ nghĩ tới Bạch Thái Quan nữa. Hắn bèn nhân cơ hội đó, cởi
bỏ được dây trói, trốn chạy một mạch, nhiều năm không dám quay về quê nữa… Mãi
lâu lắm, hắn mới ngầm lẻn về cho vơi nỗi nhớ.
Lúc vừa về tới cổng nhà, hắn
thấy phía xa có một đứa bé đang chạy chơi trước cửa miếu Quan đế. Đứa bé giơ
thẳng tay cứ nhè con sư tử đá đấm mãi, đến nỗi đá cũng phải tóe lửa ra.
Bạch Thái Quan xem một lúc, cho
là quái dị. Hắn tự nhủ: "Thằng bé này có một bản lĩnh phi thường như vậy,
một khi lớn lên, nó sẽ ăn đứt cả mình". Nghĩ vậy, trong lúc thảng thốt hắn
vụt sinh lòng đố kỵ, liền xông tới đánh thằng bé. Nó đau quá, miệng vừa khóc
vừa doạ:
- Lão kia, nỡ ăn hiếp một thằng
bé ư? Rồi đây cha ta là Bạch Thái Quan sẽ về đây báo thù cho ta.
Nói xong, thằng bé trào máu
miệng chết luôn. Bạch Thái Quan lúc đó mới biết rằng mình đã tự tay đánh chết
con mình, lòng hối hận quá, nhưng đã muộn. Hắn quay mình bỏ đi rồi từ đó, hối
cải lỗi xưa, chuyên can thiệp chuyện bất bằng để cứu người.
Có một hôm, Bạch Thái Quan tới
miếu nghi đình tỉnh Tô Châu, vào ngủ trọ trong một khách điếm. Nửa đêm, hắn
bỗng nghe tiếng đàn bà rên rỉ khóc lóc phía ngoài tường. Hắn vội tung người vọt
lên nóc nhà xem, định thần nhìn kỹ, thì thấy một cảnh tượng vừa kỳ quái vừa ghê
tởm. Một cô con gái đang độ xuân bị lột truồng như nhộng nằm ngửa trên giường,
phía trước đặt một thau nước nóng. Một nhà sư vừa đen vừa xấu cầm chiếc khăn
tay dúng nước bốc hơi nghi ngút, đang kỳ cọ khắp bụng cô ta. Trong khi lang bạt
giang hồ Quan đã được nghe nói có một ác tăng từ Tây Tạng tới chuyên gian dâm
phụ nữ, lại còn phá bào thai trẻ con trong bụng mẹ. Mỗi khi bắt gặp đàn bà
chửa, tên ác tăng bèn rửa sạch cái bầu rồi lấy bào thai đem luộc chín trong
nước sôi. Không ngờ tin đồn đó nay lại là chuyện có thực. Bởi vậy, Bạch Thái
Quan đùng đùng nổi giận. Hắn phóng mình xẹt tới như một luồng điện. Lúc đó tên
ác tăng Tây Tạng, ngồi quay lưng ra phía ngoài. Chủ ý của Quan là mượn tạm cái
"bộ tam sự" của hắn nhưng không ngờ hắn biết được, quay ngoắt lại
phóng một cước trúng vào mặt Quan. Quan lẹ như chớp nắm ngay được chân phải hắn.
Tên ác tăng vội phóng luôn chân
trái, thế đá đó gọi là "uyên
ương song phi" vốn nổi
tiếng lợi hại trong chốn giang hồ. Nhưng đối với ai kia, chứ với Bạch Thái Quan
thì cái phép hoá giải có gì khó. Thế là Quan xuất luôn tay hữu chộp luôn nốt
chân này rồi thuận thế lăng mạnh phía trước. Tên ác tăng Tây Tạng bị một cái
đẩy quá mạnh đâm thủng cả vách ván lọt ra ngoài rơi bịch xuống đất như một cái
bị, đầu bể tan, óc vọt ra tứ phía, chết không kịp ngáp.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét