Hồi 17: Trai 20 lấy gái lục tuần
Năm đó, Bách Lý cô
nương năm mươi hai tuổi. Tuy đã về già nhưng vốn người xinh đẹp nên trông nàng
như mới ngoài ba mươi. Nàng đẹp nhưng tiếc là đã quá muộn màng.
Bà con lối xóm thấy nàng phòng
không chiếc bóng ai cũng đều than thở cho nàng. Nhưng đối với nàng thì từ khi
có chú bé tiểu thôn trưởng sớm chiều quấn quýt bên nhau, nàng quên hết mọi nỗi
cô tịch lạnh lùng.
Hồi 18: Đô đốc Hiến
Châu Vệ
Lại nói Bách Lý phúc
tấn vốn rất quan tâm đến quốc gia đại sự Nàng đứng sau cánh cửa, nghe bối lặc
Ang Thuận cùng mọi người bàn tính việc xây thành đắp luỹ bèn vén màn bước ra.
Mọi người nhất tề đứng dậy đón chào hết sức cung kính. Bối lặc cũng đứng dậy dắt
tay nàng cùng ngồi bên cạnh.
Nàng đợi cử toạ an vị rồi mới
hỏi:
- Bối lặc muốn tìm một nơi sơn
thuỷ hiểm yếu để đào đắp thành trì phải không? Từ thuở nhỏ tiện thiếp thường
được thân phụ nói cách nơi đây ba dặm về hướng tây, xuyên qua khu rừng cây tại đồng
cỏ Nga Mạc Huệ có một toà thành gọi Ngạc Đa Lý. Toà thành này vốn do tố tiên
của tiện thiếp xưa kia xây nên. Tiền thân của tiện thiếp sau khi bị Minh Thái
Tổ đánh đuổi chạy ra miền quan ngoại bèn lui về giữ thành Ngạc Đa Lý. Về sau bị
bọn Mông Cổ đánh thành, nào đất, nào giết, tàn phá tan hoang khiến một toà
thành đẹp như gấm xinh như vóc mà nay chỉ còn trơ lại mấy viên đá tảng và năm
ba vết tường đổ. Tổ tiên của tiện thiếp bị người Mông Cổ tàn sát đành phải ly
tán mỗi người một nẻo nhưng khi chúng bỏ đi thì mọi người lại trở về chốn cu,
lấy mười bốn thôn Tam Tính này. Nếu bối lặc không có ý muốn mưu đồ đại sự thì
thôi, còn trái lại nếu muốn lập nghiệp thì theo ngu kiến của tiện thiếp, bối
lặc nên khuyên toàn thôn di cư tới thành Ngạc Đa Lý. Thành này ba mặt là núi,
một mặt là sông, địa thế hết sức hiểm yếu. Để đỡ một phần tốn kém công của, bối
lặc nên theo cách kiến trúc của người xưa với những nền tảng sẵn có thì tốt
nhất.
Khi Bách Lý phúc tấn nói tới
đây thì bối lặc Ang Thuận tiếp lời, nói với mọi người:
- Trăm nghe không bằng một
thấy. Phúc tấn đã nói như vậy, chi bằng bọn ta kéo nhau tới đó xem có phải hơn
không.
Mọi người đồng thanh đáp:
- Đúng đấy!
Tức thì bỏ phòng họp ra đi. Họ
nhảy lên lưng ngựa. Đoàn người phóng như bay, xuyên qua khu rừng câu, tới đồng
cỏ Nga Mạc Huệ thì thấy di tích của thành xưa. Chân tường chỗ thấp chỗ cao, dựa
vào chân núi làm thành một vòng lớn. Bối lặc định thần nhìn kỹ một lúc, bất
giác mỉm cười rồi ghé vào tai Phúc tấn thì thầm mấy câu, nghe xong Phúc tấn
bỗng nhiên đôi má ửng hồng rồi liếc mắt nguýt bối lặc. Thì ra chỗ chân tường đổ
kia chính là nơi mà trước đây hai người đã ngồi nghỉ cho đỡ mệt và sau đó, bằng
cái hôn nồng cháy, để bắt đầu một cuộc tình ái thi vị hiếm có trên nhân thế.
Cái phiến đá lớn bên cạnh chính là viên đá tảng của thành Ngạc Đa Lý xưa.
Phải chăng hai vợ chồng Bách
phúc tấn có cái sứ mạng trùng hưng họ Mãn cho nên trời xui đất khiến mời ngồi
trên phiến đá "Tam Sinh Thạch" đó để kết mối lương duyên?
Vợ chồng bối lặc Ang Thuận ngồi
trên ngựa, thả tầm mắt ra xa, chỉ thấy một dãy núi non trùng điệp chạy dài từ
phía đồng bắc tới, vây quanh lấy ba mặt thành Ngạc Đa Lý, chẳng khác gì cái
giao ỷ ôm toà thành vào lòng. Còn một mặt thì sông Đan Giang nước chảy nhanh
như ngựa phi từ hướng tây bắc lại. Thực là một vị trí kiên cố, hiểm yếu khiến
tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Bối lạc Bố Khố Lý Ang Thuận xem xong cả mừng,
một mặt ra bảng triệu tập nhân công, một mặt hội họp các hội đồng quản trị ở
trong phủ bối lặc ngày ngày bàn tính việc thiên cư.
Suốt ba năm trường, bối lặc Ang
Thuận đem hết tâm lực để lo tính mọi việc, vì nước quên cả nhà, vì công quên cả
tư, khiến cả một toà thành Ngạc Đa Lý cũ đã trở thành toà thành mới đồ sộ nguy
nga, hùng tráng vào bậc nhất. Trong thành, phố xá nhà cửa san sát, nhất nhất
cái gì cũng hoàn bị.
Đến ngày thiên cư, quang cảnh
thật là huyên náo. Dân cư mười bốn thôn sửa soạn lên đường, nào gà nào chó, nào
ngựa nào trâu, nào đồ ăn thức đựng, nào trai nào gái, nào già nào trẻ, lũ lượt
kéo nhau vui vẻ ra đi.
Ở giữa thành, có cất một toà
bối lặc phủ, dành riêng cho hai vợ chồng bối lặc và phúc tấn ở.
Thiên cư được một năm thì Bách
phúc tấn sinh hạ một đứa con trai. Lúc đó Phúc tấn đã sáu mươi bốn tuổi. Đứa
con trai của Phúc tấn vừa khôi ngô lại vừa thông minh. Dân chúng toàn thành ai
cũng mừng rỡ. Họ làm lễ cúng thần để cầu phúc cho gia đình phúc tấn!
Sau khi đã ổn định việc xây
thành đắp luỹ và thiên cư định dân, bối lặc Bố Khố Lý Ang Thuận nghĩ đến việc
mở rộng bờ cõi cho quốc gia ngày một lớn mạnh.
Hồi đó, có bọn dã nhân Hốt
Thích Ôn tiến dọc theo bờ Hắc Long Giang, hướng về phía tây nam mà kéo xuống.
Chúng rất hung ác, thấy người là giết, thấy vật là cướp. Ngay cả sảnh đường của
Nỗ Nhĩ Can nhà Minh cũng bị chúng đốt phá tiêu sạch cả.
Dân cư suốt một giải miền Hải
Tây đều phải chạy trốn, mười nhà bỏ không đến chín. Rồi chúng kéo tới chân núi
Tràng Bạch.
Bối lặc Ang Thuận được tin tức
giận lắm. Ông bèn đích thân đem quân kéo tới mai phục dưới chân núi Tràng Bạch.
Bọn dã nhân Hốt Thích Ôn diễu
võ dương oai, hùng hổ kéo qua. Hai bên ác đấu một trận tơi bời đến quỷ khốc
thần kinh.
Bọn dã nhân đại bại, phải bỏ cả
giáp, quăng cả mu mà chạy trốn. Từ đó chúng không còn dám nhìn ngó gì tới thành
Ngạc Đa Lý nữa.
Sau cuộc đại thắng bọn Hốt
Thích Ôn, uy thế của thành Ngạc Đa Lý càng ngày càng lớn. Các bộ lạc lân cận
kéo nhau về hàng phục mỗi ngày một đông. Bối lặc Ang Thuận nhất nhất đều thu
nhận, chỉ bảo họ cách thức tập luyện quân mã, phương pháp bảo vệ thành trì.
Trong mười năm công phu, bối lặc đem hết tâm lực để xây dựng quốc gia, đêm quên
ngủ, ngày quên ăn, nhiều khi đến chén trà cũng không kịp uống.
Bách Lý phúc tấn mãi tới tám
mươi tám tuổi mới mất. Thế là thành Ngạc Đa Lý mất một vị lão mỹ nhân! Dân
chúng trong thành ai cũng khóc than nhỏ lệ.
Bối lặc Ang Thuận sớm tối sầu
khổ, nhớ một hồi, khóc một hồi, chẳng khác gì đứa trẻ khóc mẹ, đến nỗi cơm nước
cũng chẳng thiết ăn uống nữa. Ông ngày đêm cười khóc bất thường, tinh thần hỗn
loạn, dần dần thành bệnh, cuối cùng theo chân vị phúc tấn về Tây phương cực lạc
Hội đồng quản trị toàn thành cử người con trai của bối lặc Bố Khố Lý Ang Thuận
lên làm bối lặc thành Ngạc Đa Lý.
Vị bối lặc này cũng dốc một
lòng cần kiệm liêm chính, yêu dân như con đỏ, lo việc nước hơn việc nhà.
Họ Ái Thân Giác La truyền hết
đời này qua đời khác, thế nước cũng ngày một mạnh thêm. Các bối lặc con cháu ai
cũng đêu tuân theo di huấn của tổ phụ là bối lặc Ang Thuận huấn luyện quân sĩ
dũng mãnh, tinh nhuệ. Họ thường đem binh đi đánh thành này, cướp đất kia. Bởi
vậy những thành trì lân cận dần dần đều bị thu phục dưới quyền họ một dải Hải
Tây Nữ Chân, Hốt Thích Ôn dã nhân, đều quy về một mối.
Nói đến bọn dã nhân Hốt Thích
Ôn thì ai cũng phải sợ cái tính hung hăng táo bạo của bọn chúng. Bọn người này
từ khi bỉ bối lặc Ang Thuận đánh cho một trận tơi bời thì không dám bén mảng
tới biên giới thành Ngạc Đa Lý nữa. Nhưng ngược lại, dân Ngạc Đa Lý cũng đó dám
lảng vảng tới đất họ.
Ở về phía tây nam thành Ngạc Đa
Lý có một thành tên gọi Cổ Liệt thành, còn một thành nữa gọi Đồ Luân thành. Hai
toà thành này đồng đất phì nhiêu, khí hậu lại ấm áp. Người Ngạc Đa Lý đã sớm
biết điều đó. Họ chỉ mong tìm cách thôn tỉnh. Đợi đến mùa xuân ấm áp, cỏ dài
ngựa béo rồi họ mới kéo tới thành Cổ Liệt để uy bức đầu hàng. Bối lặc thành
Ngạc Đa Lý kéo đại đội hùng binh tới. Dân thành Cổ Liệt đứng trong thành thấy
binh tướng của đối phương trùng trùng, lớp lớp, giáp trụ sáng loà, đao kiếm
giáo mác như rừng chĩa mũi lên trời xa đến hàng dặm, thì hoảng hồn bạt vía, cố
lo cách chống đỡ nhưng vô hiệu.
Cổ Liệt thành vốn chỉ là một
thành nhỏ, được Minh triều bảo hộ, nay đột nhiên bị quân Ngạc Đa Lý bao vây, dù
có muốn cầu viện cũng không kịp nữa. Thành Đồ Luân ở phía tiếp cận Liễu Tây
thành có một vị tổng binh của Minh triều trấn thủ.
Bới vậy, muốn cứu Cổ Liệt, chủ
tướng Đồ Luân thành vội cho người cáo cấp với Liễu Tây. Tổng binh Liễu Tây được
tin lập tức sai đại đội nhân mã lên đường tiếp cứu, nhưng khi tới nơi thì đã
trễ; thành Cổ Liệt đã bị quân của Ngạc Đa Lý thu phục trước đó độ mấy tiếng
đồng hồ. Quan tổng binh nhà Minh tức bực hết sức, tức tốc phái người tới gặp
bối lặc thành Ngạc Đa Lý trách sao dám cướp thuộc địa của thiên triều. Bối lặc
thành Ngạc Đa Lý thấy Minh triều can thiệp lấy làm sợ hãi.
Ông bịa chuyện nói rằng chỉ tại
bọn du mục láo lếu nên nhất thời ông mới vào nhầm Cổ Liệt thành. Nay chẳng may
bị thiên triều quở trách ông tình nguyện đem cả thành của ông làm thuộc quốc
của Minh triều hàng năm tiến cống. Tống binh Liễu Tây chẳng suy xét kỹ cho
những lời nói đó của ông là thật, bèn dâng sớ về triều. Bối lặc thành Ngạc Đa
Lý sai mười hai viên quản trị đem chìm ưng, thú lạ, nhân sâm, đà điểu theo tống
binh Liễu Tây tới Bắc Kinh tiến cống. Minh triều hoàng đế thấy người Ngạc Đa Lý
vào tiến cống, lấy làm vừa lòng và đãi họ rất hậu. Nhà vua truyền chỉ thiết yến
ở Tây Thiên.
Khi họ ra về, nhà vua còn ban
thưởng cho khá nhiều vàng bạc, tơ lụa. Bối lặc thành Ngạc Đa Lý được vua Minh
thưởng tứ, lấy làm hãnh diện. Ông cho người đem đồ thưởng đi khắp nơi để khoe.
Người Hải Tây, người Hốt Thích
Ôn thấy người Ngạc Đa Lý được vinh dự như vậy thì ghét lắm. Bối lặc của hai bộ
lạc này bèn cũng phái người vào triều tiến cống nhà Minh. Họ đem nào ngựa, nào
da chuột bạch, nào da xá lợi tôn, nào thỏ thước, nào hoàng ưng, nào a giao, nào
hải nha v.v… đủ mọi thứ vật lạ.
Chẳng mấy chốc tin này đến tai
bối lặc thành Ngạc Đa Lý. Sợ người Hải Tây và người Hốt Thích Ôn chiếm được ưu
thế hơn mình ở Minh triều, bối lặc thành Ngạc Đa Lý lại sai người vào Bắc Kinh
lần thứ hai để tiến cống.
Minh triều hoàng đế xét qua
tình hình trên biết ngay rằng dân chúng ở miền này có ý ganh ghét, nhau. Để
giúp họ khỏi xích mích với nhau, nhà vua bèn cải tên Ngạc Đa Lý thành Kiến Châu
vệ, Hốt Thích Ôn thành Nữ Chân vệ. Các bối lặc đều được phong là Chỉ huy sứ.
Kiến Châu vệ, từ khi có chỉ huy
sứ, binh càng ngày càng mạnh, ngựa càng ngày càng khoẻ. Họ kéo binh đi khắp nơi
cướp bóc, chinh phục. Họ còn oán Minh triều, cho rằng vua Minh không trọng thị
họ. Họ là người đã tiến cống trước tiên, thế mà vua Minh cũng liệt họ ngang
hàng với hai bộ lạc Hải Tây và Hốt Thích Ôn kia. Với ý quyết tranh tiến, họ lại
cho người sang tiến cống lần thứ ba, xin Minh triều hoàng đế gia phong.
Hoàng đế nhà Minh tại vị lúc đó
là Tuyên Đức. Ông thấy người Kiến Châu vệ ngày càng thêm mạnh bèn nghĩ tới kế
"lấy độc trị độc" mượn binh lực của Kiến Châu vệ để diệt người Hải
Tây và Nữ Chân. Bởi vậy ông gia phong Kiến Châu về chỉ huy sứ lên chức Kiến
Châu vệ đô đốc, cấp ấn tín, còn thưởng thêm lụa hai kiện, đoạn bốn tấm, sa hai
tấm. Ông cũng phong cho những viên quản trị chức đô chỉ huy và thưởng lụa ba kiện,
đoạn bốn tấm, sa hai tấm. Minh triều hoàng đế lại dặn dò thêm nếu giữ chức đô
đốc đú ba năm sẽ được thưởng mũ lớn đai vàng…
Thật là một ân sủng đặc biệt
đối với Kiến Châu vệ. Từ đó về sau, đô đốc Kiến Châu vệ ngất ngưởng ngang tàng,
chẳng coi các bộ lạc lân cận ra gì nữa. Ông bắt chước kiểu kiến trúc Kinh đô
của nhà Minh, cho xây cất rất nhiều cung điện ở trong thành Ngạc Đa Lý. Ông
cũng sai người chọn lựa hơn mười người con gái đẹp trong các dân thôn để đưa
vào cung làm phi tử.
Từ lúc có gái đẹp, đô đốc ngày
đêm chỉ uống rượu xem hát hoặc ôm phi tử ngủ trong cung cấm, binh cũng chẳng
luyện mà việc quân cũng chẳng thèm ngó tới nữa. Ăn nhậu chơi bời nhiều nên tốn
kém, ông bèn phái các vị đô chỉ huy vào từng nhà dân một, bắt nộp tiền bạc đem
về cho ông xài. Ông xài quá đến nỗi dân cũng tài kiệt khiến người oán trời
giận. Lại thêm mấy năm liền mùa màng thất bát vì hạn hán, nhân dân càng ngày
càng khốn khó, thậm chí nhiều địa phương đã có vô số người chết đói chết rét.
Vậy mà các đô đốc vẫn mặc kệ, cứ ăn chơi thả cửa, chỉ biết hưởng lạc riêng cho
mình thôi.
Nữ Chân vệ kém chức Kiến Châu
vệ nên có ý bất phục từ lâu. Khi thấy bọn đô đốc hôn ám, ăn chơi sa đoạ, làm
hại nhân dân như vậy, chỉ huy sứ Nữ Chân vệ bèn ngầm sai quân đội tới các thôn
xóm ngoại thành Kiến Châu vệ cưỡng đoạt ruộng đất gian dâm phụ nữ, mặt khắc lại
chạy tới cáo cấp ở phủ đô đốc.
Đô đốc Kiến Châu vệ lúc đó tay
tả đang ôm một mỹ nhân, tay hữu cầm hồ rượu lên tu, vừa nghe xong lời cáo cấp
liền lè nhè bảo:
- Đối với bọn tao, tìm khoái
lạc mới là chuyện cẩn! Việc dân ư! Kệ cha chúng nó!
Các quan chỉ huy đề nghị phát
quân bảo hộ bách tính, thì quan đô đốc cười lên khắc khắc:
- Ngày mai ta còn phải đem quân
ra ngoài thành đi săn, công đâu mà đi bảo hộ bách tính?
Bọn đó nghe xong giận đến sôi
gan, chạy ra luôn cổng phủ. Ngoài cống phủ, dân chúng đã tụ tập khá đông từ hồi
nào. Họ đang đợi tin tức. Bọn đô chỉ huy đành phải nói thật những lời nói của
đô đốc. Mọi người máu hận bốc lên đầu, có kẻ nghiến răng nghe ken két. Thế rồi,
như một tiếng sét nổ vang trời, họ hét lên và không ai bảo ai đồng thanh nói:
- Hay giết chết tên đô đốc hôn
ám đó trước đã!
Họ nhảy, vào trong phủ, sục tìm
quan đô đốc. Đội vệ binh vác binh khí ra ngăn cản. Nhưng người kéo tới mỗi lúc
một đông, chẳng mấy chốc đã lên tới con số bảy, tám trăm. Họ cướp lấy đao
thương trên giá rồi đánh thốc vào hậu viện. Trong khi đó, quan đô đốc hai tay
vẫn ôm hai phi tử trẻ đẹp hai bên, miệng vẫn tu hồ lô rượu cho đến cạn.
Đám đông đã tiến sát tới giường
mà ông vẫn lè nhè nói cười khắc khắc. Chi trong nháy mắt, đầu ông đã lìa khỏi
xác. Mấy nàng phi tử thấy cảnh tượng khủng khiếp, hoảng hồn bạt vía, tìm lối
chạy trốn.
Cuộc biến cố kéo dài từ giờ ngọ
mãi tới giờ thân mới chấm dứt. Khắp phủ đệ, xác chết nằm ngổn ngang máu chảy
thành vũng. Chém giết đã rồi đám dân chúng điên loạn kia mới ngừng tay. Họ tính
nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, nhưng họ đã bỏ sót đứa con trai út của viên đô đốc tên
gọi Phạm Sát, năm đó mới có mười hai tuổi.
Sáng sớm hôm ấy, Sát ra ngoài
thành đi săn với một nhóm binh sĩ. Thấy con thỏ chạy ngang đường, Sát vội thúc
ngựa đuối theo. Ngựa chạy rất nhanh mà vẫn không đuối kịp, cuối cùng thỏ mất
dạng không thấy tăm hơi đâu nữa. Sát vừa buồn vừa bức, thả lỏng dây cương cho
ngựa thong thả trở về. Vừa ra khỏi sơn ao, bỗng Sát nghe có tiếng người nói lào
xào sau một cây đại thụ. Sát tuy tuổi còn nhỏ nhưng có trí hơn người, bèn cho
ngựa dừng lại lắng tai nghe:
- Hôm nay bọn tao giết cả nhà
tên đô đốc, chỉ còn sót lại mình tên tiểu tặc Phạm Sát. Mọi người đều bảo nhố
cỏ phải nhố cả gốc. Bởi vậy quan tân đô đốc phái tao tới đây để gạt nó trở về
thành, khi thành công chúng mày cũng sẽ được trọng thưởng…
Sát nghe tới đây giật mình kinh
sợ, chẳng đợi cho tên kia nói hết, liền quay ngựa phi nhanh. Phía sau bọn binh
sĩ đông cỡ hai, ba chục, thấy Sát bỏ chạy, vội hè nhau thúc ngựa đuổi theo.
Sát một mình một ngựa chạy như
điên ở phía trước. Bọn binh sĩ đuổi đã gần kíp. Sát hoảng quá. Trời lúc đó đã
về chiều. Bóng tối đã nhuộm đen các lùm cây. Phút cấp bách, Sát bỗng nảy ra kế,
vội ghìm cương ngựa, quay ngoắt lại, vòng quanh một cây đại thụ, leo lên dốc.
Đi thêm được mấy bước, Sát nhảy
xuống, đập cho ngựa chạy tạt vào con đường nhỏ, còn mình thì vội cởi hết y
phục, trùm kín đầu mặt, lại bẻ thêm một cành cây rậm lá phủ lên trên, sau đó
lẩn vào đứng giữa đám cỏ rậm, nín thở…
Hồi 19 : Chinh phục để
mở nước
Mặt trời gác núi. Nha
thước đang xao xác trong bụi cây kẽ lá. Kỳ lạ nhất là lúc đó có một đàn chim
chích không biết từ đâu tới đậu ngay cành cây che trên đầu Sát, rồi nhảy nhót
tung tăng và lên giọng hót líu lo.
Bọn binh sĩ phi nhanh như một
luồng gió cuốn vụt qua mặt Sát, Sát hoảng quá, nín hơi không dám thở. Đám truy
binh đâu lường được quỷ kế của Sát lúc thảng thốt không ngờ.
Chúng giơ roi vụt vào đít ngựa
trót trót, sợ đuổi không kịp mà trời thì đã tối. Trong nháy mắt, đoàn truy binh
đã vọt xa.
Sát thở phào một cái, lẩm bẩm:
"Xấu hổ chưa!", Sát định ném cành che trên đầu đi. Vừa lúc đó bọn
truy binh lại phóng ngựa quay lại đường cũ. Tới cạnh một khóm cây rậm, chúng
nhất tề nhảy xuống ngựa, chui cả vào trong tìm kiếm.
Sát hồn vía lên mây, chắc chết
cả mười phần, liền té xỉu, ngất đi lúc nào không hay. Khi tỉnh dậy, Sát ngơ
ngác nhìn quanh thì tứ bề vắng lặng, chẳng hiểu mình nằm đó đã bao lâu và bọn
truy binh kia đã bỏ đi từ lúc nào.
Sát vội gạt bỏ cành cây còn phủ
trên mình, đứng dậy co giò chạy tắt quá đầm cỏ rậm. Trời tối sập, giơ tay mà
không thấy ngón. Sát bất chấp tối hay sáng, cứ vạch lá bẻ cành mà đi. Sát đi
bừa, chẳng cần tìm đường, thực ra, không thể tìm được đường. Sát chẳng biết đông
tây nam bắc gì, cứ lao đại vào bụi cỏ lùm cây. Không biết mình đã đi bao lâu và
được bao nhiêu đường đất rồi, Sát thấy mệt nhoài, trong lòng chán nán đến cùng
độ. Bỗng Sát quay mặt về phía trái, thấy có ánh đèn le lói xa xa. Mừng đến phát
điên lên được, Sát hăng hái lần tới chỗ đèn sáng… Phải vất vả lắm, Sát mới tới
được một khu vườn nhỏ có bức tường thấp bao quanh. Sát nghển cổ nhìn vào. Thì
ra ánh đèn từ một ô cửa sổ nhỏ phát ra. Sát đứng lặng một lúc nghe ngóng, thấy
không có gì khả nghi, mới yên tâm tiến đến, gõ cửa. Một ông lão bước ra mở cửa,
hỏi:
- Thằng bé nào đó? Mày ở đâu mà
ban đêm gõ cửa thế?
Sát bước lên thềm, chỉ trả lời
được có ba tiếng "cha mẹ cháu…" rồi oà lên khóc lóc thảm thiết. Nhưng
rồi Sát nín bặt vì chợt nghĩ mình đang chạy nạnh không thể để cho ai biết được
gốc tích của mình. Sát bên tìm cách nói trớ đi.
- Thưa cụ, sáng ngày cháu đi
theo cha mẹ đi săn. Khi vào tới rừng sâu, chúng cháu gặp phải một đàn sói. Cha
mẹ cháu đều bị sói tha đi. Cháu bỏ hết cả ngựa lẫn đồ đạc, may thay chạy được
thoát thân. Thật đáng thương cho cháu, đường thì chẳng thuộc, ăn thì chẳng có,
chạy suốt cả ngày mới tới đây. Xin cụ làm ơn cứu cháu với!
Ông lão nhìn thằng bé mặt mày
sáng sủa, tình cảnh lại đáng thương, bèn cầm tay nó dắt vào trong nhà. Một bà lão
và một cô gái đang ngồi xếp bằng tròng trên giường, khâu vá dưới bóng đèn dầu…
Sát để ý cô gái, thấy tuổi xấp xỉ tuổi mình.
Nàng vừa nghe cha nói, vừa liếc
mắt nhìn Sát từ đầu tới gót, miệng mỉm cười, tỏ vẻ vui mừng lắm.
Gia đình ông lao vốn họ Mạnh Cách,
tên gọi Đồ Lạc. Tổ tiên xưa làm ruộng, truyền nghề mai tới ông. Đôi vợ chồng
già dưới gối chỉ có một mụn con gái. Bởi vậy hai ông bà mong sao sinh hạ thêm
một đứa trai để sau này giúp ông trông coi vườn ruộng, giữa lúc sốt ruột mong
chờ thì quả nhiên có thằng con trai đã tới với cặp vợ chồng già! Thật không có
gì sung sướng cho ông hơn nữa!
Từ đó Sát ở lại nhà này, hàng
ngày giúp ông chăn bò coi dê. Sát vốn dòng dõi quý tộc giàu sang, nên hết sức
bỡ ngỡ. May sao Sát lại có Kiều Phương, cô con gái duy nhất của ông lão Đồ Lạc
chỉ dẫn.
Ngày tháng thoi đưa, đã sáu năm
qua. Phạm Sát năm đó đã mười tám tuổi. Sát với Kiều Phương xem ra tâm đầu ý hợp
lắm, chàng nhớ thì nàng thương, sớm tối có đôi, chẳng một phút rời nhau.
Hai ông bà Đồ Lạc đã rõ hết tâm
tình của đôi trẻ. Ông bà liền chọn ngày lành tháng tốt cho chúng giao bái thiên
địa, thành vợ thành chồng. Mãi đến lúc đó, Sát mới đem gốc gác của mình nói cho
vợ nghe. Kiều Phương biết chồng mình vốn là con trai của quan đô đốc nên không
khỏi giật mình. Hai ông bà Đồ Lạc dần dần mất cả. Lại mấy năm sau, hai vợ chồng
Kiều Phương cũng theo gót ông bà mà rời xa nhân thế! Vợ chồng Sát để lại cho
con một trang trại khá lớn.
Hết con đến cháu, đời đời nối
dõi, nhưng phải truyền đến đời cháu tên gọi Mạnh Đặc Mục thì trang trại kia mới
biến thành một trang viên đồ sộ khang trang, với tám trăm mẫu điền địa. Ngoài
ra, Mạnh còn có đất trồng cây ăn trái ở khắp mười hai trái núi. Trang viên Mạnh
có đến trên hai, ba trăm gia đinh tráng kiện. Những lúc rỗi rảnh, họ tập quyền
võ nghệ, kẻ nào kẻ nấy đều có bản lĩnh hơn người.
Mạnh Đặc Mục thực ra cũng là kẻ
có chí khí anh hùng. Mạnh thường tự hào mình giòng dõi quý phái nhất quyết
không chịu làm một tên trang chủ tầm thường để chết già trong chốn rừng hoang
núi thẳm. Với ý đồ lớn lao đó, Mạnh ngày đêm ra công tập luyện bọn trai tráng,
chờ dịp báo thù cho tổ tiên bị hại thuở trước.
Kịp đến khi Mạnh bốn hai tuổi,
cơ hội báo thù đã đến.
Số là hôm đó đô đốc Kiến Châu
vệ đem một cánh quân đi săn ở vùng Hách Đồ A Cáp, dưới chân núi Hổ Lâm Cáp Đạt,
trong thung lũng Tô Cách Lan Hữ Hà.
Ngọn Hổ Lâm Cáp Đạt là một ngọn
núi cao, ba mặt vây quanh như một bức bình phong. Hai chóp mũi nhô lên tận trời
xanh, giữa để lộ một con đường nhỏ hẹp, chỉ một người một ngựa mới có thể đi
qua được. Sau khi được tin tức đích xác, Mạnh liền đem ba trăm tráng đinh đến
mai phục trong sơn ao. Đô đốc Kiến Châu vệ lúc đó đang hò hét bốn chục thân
binh qua lại săn bắn trên cánh đồng Hách Đồ A Cáp. Bỗng có tiếng sói kêu từ
phía sườn núi dội tới. Ông giật mình kinh hãi, vội khoát tay ra hiệu cho binh
lính chạy qua ngã sơn ao.
Nhưng khi tới lưng đèo, ông và
đoàn tuỳ tùng thấy bốn bề vắng ngắt, chẳng có bóng một con sói nào, mà chỉ thấy
cây cối rậm rạp, thế núi hiểm trở.
Giữa lúc ông còn hoài hoài nghi
nghi, chưa hiểu chân giả ra sao, bỗng một tiếng gầm vang động cả sơn khê. Trong
nháy mắt, quân mai phục bốn bề nhất loạt đứng dậy, xông tới bao vây ông. Ông
hoảng hốt, luống cuống, tính thoát ra cửa rừng nhưng cửa rừng đã bị gỗ đá chất
ngổn ngang chẹn mất đường.
Ông đành phải quay lại tử
chiến: hai bên ác đấu. Quân ông yếu thế rõ rệt. Chẳng mấy chốc, ông với bốn
mươi thân binh đều bị trói gô lại xếp thành một hàng dài. Mạnh đứng trước chỉ
huy, hô một tiếng "sát", tức thì bọn tráng đinh nhất tề động thủ, giơ
tay đao chém xuống.
Quan đô đốc còn chưa bị chém.
Mắt nhìn thấy mấy chục cái đầu lâu lăn lông lốc trên mặt đất, ông khiếp hãi,
đành phải hạ mình xuống, chắp tay cúi đầu xin tha mạng, tình nguyện đem ấn tín
quan đô đốc và thành trì Kiến Châu vệ dâng cho Mạnh. Mạnh động lòng thương, gật
đầu ưng thuận, rồi sai một trăm trang đinh áp giải quan đô đốc theo sau, còn tự
mình chỉ huy hai trăm tên khác đi trước. Đến cửa rừng, Mạnh bèn đem chuyện tổ
tiên xưa bị hại ra sao và mưu đô việc phục thù như thế nào cho cả bọn quân binh
lẫn bọn trang đinh cùng biết.
Bọn quân lính lúc đó mới rõ mọi
sự, vả lại quan đô đốc của chúng đã bị bắt trói dẫn đi sau kia thì chúng chỉ
còn có nước đập đầu xin hàng quan tân đô đốc mà thôi.
Mạnh Đặc Mục chỉ huy đám binh
sĩ còn sót lại, cộng thêm ba trăm trang đinh của mình, diệu võ dương oai kéo
thẳng tới phủ đô đốc Kiến Châu vệ, đoạt lấy ấn tín. Rồi, một mặt phái người qua
Minh triều đầu phong, một mặt cho bắt trói tất cả bọn tử thù giết hại tổ tiên
xưa, đứa có tên tuổi địa vì thì đem chém đầu, đứa vô danh tiểu tốt thì đuổi ra
khỏi thành.
Minh triều phong Mạnh Đặc Mục
làm đô đốc Kiến Châu vệ cũng như các đời trước. Để kỷ niệm nơi mình đã báo được
thù xưa Mạnh bèn rời kinh thành về cánh đồng Hách Đồ A Cáp. Mạnh lấy vợ, sinh
được hai trai. Đứa lớn tên Sung Thiên, đứa nhỏ gọi Chữ Yến. Sung Thiên về sau
sinh ba trai. Thằng lớn tên Thoả La, thằng hai tên Thoả Nghĩa và thằng ba gọi
Tích Bảo Tế Thiên Cổ.
Tích sau đó lại sinh một trai
gọi Phúc Mãn. Đến Phúc Mãn thì sinh luôn một hơi bôn trai. Thằng lớn tên Đức
Thế Khố. Thằng hai tên Lưu Xiển, thằng ba tên Sách Trường A và thằng út tên Bảo
Thực.
Phúc Mãn làm đô đốc truyền chức
lại cho con thứ tư là Giác Xương An, xây cất thêm năm toà thành trì nữa. Đức
Thế Khố đóng tại miền Giác Nhĩ Sát, Lưu Xiển đóng tại miền A Cáp Hà Lạc. Sách
Trường A đóng tại miền Hà Lạc Cát Thiên. Bão Lãnh A đóng ở vùng Ni Ma Thích.
Còn Bảo Thực đóng ở vùng Chương Giáp, năm toà thành trì này cách Hách Đô A Cáp
gần thì năm dặm mà xa thì hai mươi dặm. Tất cả đều xưng là Minh Cổ Tháp bối lặc.
Sáu vị bối lặc này người nào cũng có võ nghệ cao cường. Các bộ lạc xa gần nghe
danh đều kinh sợ. Duy chi có hai bộ lạc, một gọi Thạc Sắc Nạp ở phía tây, một
gọi Gia Hổ ở phía đông, tỏ ý ương ngạnh bất phục.
Hai bộ lạc này dữ tợn đến thế
nào mà dám cả gan chống lại oai quyền của đô đốc Phúc Mãn? Thạc Sắc Nạp có chín
con trai đều được tập luyện võ nghệ hơn người. Những lúc nhan rảnh vô sự, chúng
thường kéo thủ hạ đi tứ xứ, phá nhà cướp của. Các bộ lạc thân cận, bộ lạc nào
cũng bị chúng cho ăn đòn ít ra đôi ba lần nhưng thế yếu đành phải chịu. Gia Hổ
cũng có bảy con trai đọ được với Thạc Sắc Nạp. Đám này cũng đều dữ như sói,
mạnh như cọp; đi tới đâu chúng cũng đốt nhà giết người hung dữ chẳng kém.
Một hôm chín con trai của Thạc
Sắc Nạp kéo tới tỷ võ với bọn Gia Hổ. Hai bên cam kết trước rằng hễ ai bại thì
phải hàng. Thế rồi nhập cuộc chiến. Hai bên ác đấu đến quỷ khốc thần sầu, từ
sáng tới trưa rồi đại từ trưa tới tối mà không phân thắng bại. Hai phe mến tài
nhau bèn kết làm anh em, thề với nhau rằng có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng
chịu. giữa lúc đôi bên còn đang bàn tính chuyện trò, bỗng từ trong đám đông nhô
ra một trang thiếu niên mặt trắng môi son, khôi ngô tuấn tú. Người thiếu niên
lầm lỳ, chẳng thèm nói một lời với ai, chàng bước thẳng tới chín con trâu. Bắt
đầu từ con thứ nhất. Chàng giơ hai tay ra nắm lấy sừng trâu, dùng kình lực quật
mạnh. Mọi người chỉ nghe một tiếng rống thê thảm, cổ trâu đã gãy từ lúc nào.
Thân trâu như một đống thịt lớn đố kềnh xuống đất bất động. Chưa hết, chàng
tiến qua con thứ hai rồi thứ ba, lần lượt tới con thứ chín, vẫn chỉ dùng một
thế võ như trước. Chín con trâu đực mộng nặng hàng tấn, mạnh như voi, thế mà
chỉ trong nháy mắt, chàng đã biến tất cả thành những đống thịt nằm chềnh ềnh
trước các tay hảo hán của hai bộ lạc. Vừa quật chết xong đàn trâu, chàng liền
giơ cao tay khoát một cái tức thì hơn hai chục đại hán lẩn trong đám đông từ
lúc nào nhất tề động thủ, hè nhau xúm lại cướp mấy con trâu đem đi.
Trước thái độ ngang ngạnh hỗn
xược của người thiếu niên, bọn Thạc Sắc Nạp và Gia Hổ đến lúc này không còn
nhịn được nữa. Họ đồng loạt nhảy lên trước, cản bọn đại hán của người thiếu
niên, rồi lên tiếng cãi lý với chàng. Nhưng thiếu niên chẳng nói nhiều lời, giơ
ngang quả đấm tống cho mỗi tên một đấm vào mặt. Thế là cuộc ẩu đả bùng nổ.
Chẳng biết thiếu niên có thần lực gì mà chàng đánh cho kẻ nào kẻ nấy tơi bời,
kẻ thì lăn cù ra đến mấy trượng kẻ thì té ngửa ra mặt đất, không bò dậy được
nữa.
Mấy chục người vây đánh một
thiếu niên mà từ trước đến sau chẳng một ai lại gần được chàng và cuối cùng
đuối sức trông thấy nếu không muốn nói là sắp thảm hại. Người của hai bộ lạc
còn một số đông đứng ngoài thấy người mình thua đến nơi, nhất tề xông vào, vây
chặt thiếu niên cùng hai mươi đại hán vào giữa, dùng hết bình sinh ứng biến.
Chàng thiếu niên không một chút
hoang mang, cùng đám tuỳ tùng, lưng kề lưng, vai kề vai, mặt quay bốn phía, trả
đòn kịch liệt. Cuộc đấu kéo dài từ trưa cho đến tối, ác liệt chưa từng có.
Chàng thiếu niên không hề bị một vết thương nào.
Trái lại, về phía hai bộ lạc
kia, kẻ nào cũng bị đập đánh tơi bời, không ít thì nhiều đều bị thương tích. Họ
thấy thế nguy chỉ còn một ý nghĩ duy nhất là chạy tháo thân. Giữa lúc khốn quân
đến cùng cực đó, bỗng họ nghe một tiếng quát vang lên ở mặt chính nam khiến
trăm người như một ai nấy đều hoảng hồn bạt vía. Một đội binh mã không biết từ
đâu hùng hổ xông tới như một trận cuồng phong.
Người hai bộ lạc biết thế nguy
cấp, vội bỏ người thiếu niên và đoàn đại hán, cắm đầu bỏ chạy, chân vắt lên tận
cổ. Thiếu niên dẫn quân đuổi theo sau thành một hàng dài đến mấy dặm.
Khi chạy tới một thôn xóm rộng
lớn có rào kỹ bao quanh, hai bộ lạc hốt hoảng chạy vào trong đóng ập cổng lại,
cắt người canh gác, chờ sẵn ứng chiến. Chàng thiếu niên ở bên ngoài vòng rào
đốc suất binh sĩ khiêu chiến. Họ lên tiếng chửi bới thậm tệ. Bỗng cổng thôn mở.
Từ bên trong một đội binh mã xông ra. Thế là hai cánh quân ráp lại ác chiến.
Cánh quân của chàng thiếu niên
đã từng chiến đấu nhiều phen nên không coi cánh quân của hai bộ lạc kia ra gì.
Chẳng bao lâu cánh quân của hai bộ lạc đã bi quét sạch. Người thiếu niên đứng
lược trận, thấy đối phương đại bại bèn phóng ngựa như bay qua cổng thôn vào
trông thấy người là đâm, thấy vật là cướp. Anh em Thạc Sắc Nạp chín người chết
mất bốn, còn anh em Gia Hổ cũng vậy, bẩy người chết mất ba. Những người còn
sống sót đều bị trói chặt và áp giải về thành Chương Giáp.
Người thiếu niên đó chẳng ai xa
lạ, chính là cháu gọi đô đốc Phúc Mãn là ông nội, con của Bảo Thực, tên gọi A
Cáp Nạp Ốc Tế Cách. Chàng theo cha đóng tại thành Chương Giáp. Chàng có khuôn
mặt khôi ngô tuấn tú, thêm một tấm thân mình đồng da sắt. Chàng vẫn thường nghe
nói hai bộ lạc Thạc Sắc Nạp và Gia Hổ hung dữ, ngang ngạnh rất khó trị, đã từ
lâu chàng có ý tới khiêu khích để so tài thử sức. Hôm đó, chàng chuẩn bị đầy đủ
xong rồi ra đi. Quả nhiên, chàng đại thắng trở về, đem dâng hết những chiến lợi
phẩm lên cho cha, nào trâu bò ngựa, nào vàng bạc, đàn bà con gái. Nhưng cha
chàng chẳng dám tự tư dùng, lại đem những chiến lợi phẩm đó dâng lên cho đô đốc
Giác Xương An.
Giác Xương An một mặt khen
thưởng ốc Tế Cách, một mặt kiểm điểm nhân mã, lên đường thẳng tới tra xét hai
bộ lạc Thạc Sắc Nạp và Gia Hổ. Ông thu phục luôn một lúc hai, ba chục thôn
phường rồi ra bảng an dân. Từ đó những miền chạy dọc theo phía đông núi Ngũ
Linh hoặc phía tây sông Tô Cách Lan, xa chừng hai trăm dặm, đều quy về Kiến
Châu vệ.
Sau khi chàng thiếu niên ốc Tế
Cách lập được công lớn, đô đốc Giác Xương An tỏ lòng yêu quý lắm. Ông lưu chàng
ở lại trong thành, luôn luôn bên cạnh ông. Chàng là một chàng thiếu niên tuấn
tú khôi ngô, cho nên không một phúc tấn nào, một cách cách(1)nào không
có mỹ ý đối với chàng. Bà phúc tấn vợ đô đốc Giác Xương An muốn làm mối cho
chàng một cô vợ Chàng nói với bà:
- Nếu không lấy được một người
đẹp bậc nhất thiên hạ, cháu thề suốt đời không lấy ai.
Một hôm chàng theo chú Giác
Xương An ra miền đông ngoại thành để săn bắn. Vì ngọn núi chàng tới để săn rất
xa thành nên chàng phải đem theo lều vải để nghỉ qua đêm.
Hôm sau, chàng dậy thật sớm.
Đang lúc cao hứng, chàng một mình lấy ngựa ra đi. Chàng rời xa lều vải, ruổi
ngựa vào mãi khu rừng già. Thấy một đàn hươu sao đang chạy ngoài ven rừng,
chàng nắn lại tên, uốn lại cung rồi dục ngựa phi theo.
Đàn hươu sao nghe tiếng vó ngựa
lộp cộp đằng sau giật mình kinh hoảng, cất gót chạy như bay, chỉ trong chốc lát
đã không còn thấy bóng dáng đâu nữa. Chàng đành rẽ cương cho ngựa đi vào một
khu rừng cạnh đường. Chàng ngước mắt nhìn lên, không ngờ trông thấy một mỹ nhân
đẹp như hoa xinh như ngọc, ngồi trên mình ngựa, mặt hơi cúi xuống ra chiêu e
lệ.
Mỹ nhân xuất hiện đột ngột,
quá, khiến chàng bối rối bâng khuâng, khó nói nên lời.
(1) Phúc tấn là vợ của bối lặc
- Cách cách là con gái của bối lặc và phúc tấn.
Hồi 20: Tình cô sơn nữ
Người giai nhân tuyệt
sắc, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài ấy đi một đôi hài thêu kim tuyến nhỏ
nhắn, nhẹ đạp trên một đôi dây ngựa vàng. Nàng đưa đôi tay ngọc thon thon ra
phía trước để ghìm cương ngựa. Nàng quay mặt về phía Ốc Tế Cách liếc nhanh cặp
mắt đa tình. Nàng đẹp đến nỗi chàng ốc ngồi trên lưng ngựa không muốn vững nữa.
Đôi mắt chàng như bị hút chặt vào cái miệng tươi như hoa và đôi má mịn màng,
phảng phất hương thơm lúa chín.
Thấy Tế như ngây như dại, mỹ
nhân quay đầu lại mỉm cười. Nụ cười của nàng vừa dứt thì làn sóng hồ thu cũng
vừa quét một vòng qua thân hình chàng họ Ốc. Rồi nàng giật mạnh giây cương,
ngựa nhảy chồm lên hí một tiếng vang rền lao về phía trước như mũi tên bắn, chỉ
trong nháy mắt đã mất bóng sau lùm cây tùng rậm lá trước mặt.
Chàng thanh niên họ Ốc vội đập
hai gót vào hông ngựa; tức thì con bạch mã nhảy vọt về đằng trước rồi cũng lao
đi như tên bắn, cố hết sức đuổi theo cái chấm đen nhấp nhô giữa những rặng cây,
đồi cỏ đang mờ dần. Vó ngựa đập lộp cộp trên con đường sỏi ngoằn ngoèo khúc
khuỷu, vang động cả khu rừng tĩnh mịch âm u. Một ngựa trước, một ngựa sau, tung
bụi mù thành một vệt dài mờ mờ trắng đục trong không gian. Chúng đuổi theo
nhau, qua không biết đã bao nhiêu khóm tùng, rừng trúc, vượt không biết bao
nhiêu đèo núi, sườn non. Nhưng rồi bóng mỹ nhân biến mất, chẳng hiểu nàng đã rẽ
cương sang neo nào.
Mất hút bóng người đẹp, Cách
dừng ngựa ngơ ngác nhìn quanh nhưng chỉ thấy một vùng sơn cốc bốn mặt toàn là
vách đá dựng ngược, chẳng khác một cái giếng rộng đào sậu vào lòng núi. Trên
mặt đất gai góc mọc đầy. Chân ngựa chàng bị vướng, nhiều lúc không thể cất lên
nổi. Chàng thả lỏng cương mặc cho ngựa bước đi đâu thì đi, lòng bối rối xốn
xang, mặt như ngây như mê, chẳng khác người trong mộng. Chàng rẽ về bên trái,
rồi lại quay về bên phải, rồi thả ngựa bước tràn, chỉ mong sao tìm thấy lại
bóng mỹ nhân.
Chàng đi như vậy không biết đã
bao lâu. Mãi đến khi vô tình ngước mắt lên cao, chàng bỗng mừng quýnh vì trước
mắt là hình bóng người đẹp lý tưởng của mình. Giai nhân như có ý trêu ghẹo
chàng, đang dừng ngựa đứng chênh vênh trên đỉnh núi cao. Cũng với, nụ cười nửa
miệng như bông hoa hàm tiếu, nàng liếc mắt đưa tình trong khi làn tóc loã xoã
trên gò má phất phơ trước làn gió nhẹ đầu non. Chàng nhìn thấy nàng, trống ngực
đập rộn, liền quất ngựa leo lên. Nhưng núi rừng rậm rạp gai góc mọc đầy, vó
ngựa chàng không tiến lên được nửa bước. Vùng vẫy mãi và vô phương thoát đám cỏ
gai, chàng đâm cuống, vội nhảy xuống ngựa, rẽ cây vạch cỏ lần đi. Mặt đất gồ
ghề, chỗ cao chỗ thấp, khiến chàng té lên ngã xuống đến nỗi da trầy đầu vỡ, máu
chảy loang lổ đầy người. Tuy vậy, chàng vẫn không chịu dừng chân, cố leo lên
cho tới tận đỉnh.
Nhưng vách đá dựng đứng, làm
sao mà lên được. Chàng đành phải đi quanh bốn phía, mong tìm được một con đường
mà leo lên. Những ai đã yêu mới biết tình ái có một sức mạnh vô biên. Chàng
thiếu niên họ Ốc đã nếm phải bả tình, dù núi có cao vách đá có hiểm trở, chàng
chẳng coi ra gì. Bởi vậy chàng cố lấy lại sức, xắn tay áo, bám vào những dây
leo, đu người lên không, chân đạp vào những mép hốc đá hoặc những mô đá nhô ra
mà lần lần bò ngược lên trên. Chàng vừa bò vừa trèo như thế chẳng biết bao lâu
rồi, chỉ thấy miệng thở phì phò, mồ hôi chảy ra nhễ nhại khắp mình. Tuy đã quá
mệt nhưng chàng vẫn không sờn lòng thối chí. Chẳng mấy chốc chàng đã sắp lên
tới đỉnh. Chàng khấp khởi mừng thầm vì chỉ trong vài phút nữa chàng sẽ được
ngắm dung nhan người đẹp, sẽ được nghe tiếng oanh thỏ thẻ của giai nhân. Nhưng
chẳng ngờ một cục đá dưới chân chàng bỗng tách ra khỏi vách đá rồi rớt xuống
chân núi đánh rầm một tiếng. Bàn chân chàng cũng tuột theo. Chàng giật mình,
hai tay đồng thời cũng tuột luôn chỗ bám. Tức thì toàn thân chàng bật ngửa ra,
chới với giữa không trung. Trên đỉnh núi mỹ nhân thấy thế, vội cúi mình thấp
xuống, giơ cánh tay xinh như ngọc ra, nắm chặt lấy vạt áo chàng.
Vốn võ nghệ cao cường, chàng
nhờ tay cô gái, lấy đà tung người lên trên không, rồi rớt xuống đỉnh núi, bên
cạnh cô gái. Đã quá mệt, lại phải vận dụng toàn lực vào cú nhảy vọt vừa rồi nên
vừa rớt xuống khỏi mặt đất chàng liền ngất đi, nằm sóng soài bên cạnh mỹ nhân.
Thật là một dịp tốt cho nàng
tha hồ nhìn ngắm diện mạo của chàng. Chàng quả là một trang thiếu niên tuấn tú.
Lòng nàng tự nhiên cảm động, nhất là khi nàng thấy quần áo của chàng rách tướp,
tà vạt tả tơi như cánh bướm, còn đầu, mặt, chân tay thì bị đá toạc, máu chảy ra
đỏ lòm. Nàng lấy trong bọc ra một chiếc khăn lau sạch nhưng vết máu. Chiếc khăn
toả mùi hương ngào ngạt. Hương thơm ấy bay xộc vào mũi khiến chàng giật mình
hồi tỉnh, chàng mở mắt ra vừa lúc nàng đang đắm đuối nhìn chàng. Trời, khuôn
mặt sao mà đẹp đến thế! Đôi má trắng mịn thoa phớt lượt phấn hồng, cặp lông mày
cong cong vành lá liễu. Cặp mắt đa tình đen lay lý toả dài tia sáng rồi chiếc
trán trắng hồng buông loã xoã hàng tóc ngắn, như những sợi tơ nhỏ mướt, và cái
cổ nõn nà ba ngấn trắng như tuyết. Đáng yêu nhất phải nói là đôi môi hồng thắm
điểm thêm nụ cười duyên dáng quyến rũ.
Ốc Tế Cách thừa lúc nàng không
để ý, vụt dưới cao lên một chút, hôn vào chiếc miệng xinh tươi của người đẹp.
Nàng có ý giận, biến ngay sắc mặt, nhíu đôi lông mày, đẩy chàng ra rồi quay
mình chạy đi. Chàng hoảng lên, vội giơ tay nắm lấy vạt áo nàng giữ lại. Nàng
thấy không đi thoát, bèn quay đầu lại, nghiêm nét mặt hỏi chàng:
- Mi là thằng khốn kiếp nào
vậy?
Câu nói còn chưa dứt thì nghe
soạt một tiếng, cây bội đao của nàng đã tuốt ra khỏi vỏ rồi vung lên và chém
xuống. Chàng vội giơ tay ra đón bắt cánh tay nàng, rồi đem tung tích của mình
kể hết cho nàng nghe. Nhân lúc này chàng nói lên điều sở nguyện của mình, mong
được kết mối lương duyên với nàng.
Nghe thiếu niên họ Ốc nói, nàng
biết ngay chàng chẳng phải kẻ tầm thường, vả lại chàng còn là một trang thiếu
niên xinh đẹp khôi ngô, lời ăn tiếng nói tỏ ra rất ôn nhu, tha thiết, cho nên
lỏng nàng bỗng mềm lại, miệng nở một nụ cười duyên dáng, đồng thời tay nàng
thong thả tra đao vào vỏ.
Chàng bèn quỳ hai gối trước mặt
nàng để cầu mong nàng gắn bó mối tình vợ chồng đầm ấm lâu dài. Nàng hai má ửng
đỏ, cúi đầu lặng thinh chẳng biết nói gì. Chàng họ Ốc thấy vậy lại càng cầu
khẩn luôn mồm, nào tình yêu tha thiết, nào bể cạn non mòn, nào trăm năm đầu
bạc. Bỗng nàng bảo:
- Hãy cắt mớ tóc của chàng đi
để…
Câu nói của nàng chưa dứt thì
tay nàng đã đẩy mạnh chàng ra bên, rồi nhảy thốc lên lưng ngựa, giật cương chạy
như bay xuống chân núi. "Cắt mớ tóc đi…" vốn là một câu nói
rất quan trọng của trai gái người Mãn lúc yêu thương tình tự. Câu đó có nghĩa
là: Con trai đã cắt tóc đi thì tóc không thể mọc cũng như đã yêu người con gái
nào rồi thì không thể yêu người con gái khác nữa hoặc người con gái đã lấy tóc
của người con trai nào rồi thì lòng luôn vương vân với người con trai đó, mai
mãi không nguôi. Trang giai nhân nói câu đó tức là đã tỏ ra yêu chàng hết sức
rồi. Nhưng vì mắc cỡ nên nàng vội phi ngựa chạy trốn luôn. Chàng đứng nhìn bóng
nàng dần khuất sau rặng cây bên khúc rẽ mà lòng hồi hộp, thẫn thờ như ngây như
dại, miệng lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại câu nói vừa rồi của nàng.
Bỗng chàng nổi lên một tràng
cười ha hả vang động cả một vùng núi âm u tĩnh mịch. Nhưng tiếng cười lại ngừng
bặt vì chàng chọt nhớ ra mình vẫn chưa biết họ tên nàng là gì và quê quán nơi
đâu, vội co giò chạy gấp xuống chân núi. Chàng chạy hồi lâu, mồ hôi đã toát ra
như tắm mà chẳng thấy tăm hơi người đẹp đâu. Chàng thấy âu sầu bực bội hết sức.
Đưa mắt nhìn quanh, bỗng chàng thấy con ngựa của mình đang gặm cỏ cạnh đường.
Chàng leo lên lưng ngựa thả lỏng giây cương cho ngựa thong thả bước đi.
Chẳng bao lâu chàng về tới phủ
đô đốc. Bá mẫu của chàng nhìn thấy chàng mặt có vết máu, y phục rách nát, ngạc
nhiên hết sức, vội hỏi chàng. Chàng không dấu giếm chút nào, bèn đem tất cả mọi
việc vừa xảy ra kể cho bá mẫu nghe. Bá mẫu và người chị của chàng bất giác cười
lên khanh khách. Người chị còn vỗ tay đen đét, cười mà bảo chàng:
- Thế mới thật là trời có mắt
chứ! Mẹ chị làm mai cho chú mà chú không chịu. Nay tìm cô này, mai lại tính cô
khác, vậy mà chú đều lắc đầu. Bây giờ thì chú đã gặp rồi, khỏi phải mối mai gì
nữa nhé!
Tâm sự Ốc Tế Cách là tâm sự của
một kẻ tương tư, lại thêm các chị cười cợt chế diễu, chàng không còn giữ được
bình tĩnh nên đôi má bỗng ửng đỏ, hai chân như muốn khuỵu xuống đất chàng nói:
- Em mà không lấy được mỹ nhân
này về làm vợ thì kiếp này quyết cắt tóc đi tu mà thôi.
Giữa lúc cả nhà đang cười nói
om xòm thì bá phụ chàng là đô đốc Giác Xương An bước vào phòng. Ông thấy cháu
ông có mặt tại đây liền hất hàm hỏi:
- Tại sao cháu lẳng lặng trở
về, chẳng nói năng gì để bá phụ sai người đi kiếm khắp cả vùng Đồng Sơn thế?
Bà phúc tấn, vợ ông, thấy ông
hỏi vậy biết rằng ông chưa hiểu gì về chuyện kỳ ngộ của cháu mình, chỉ chàng mà
cười nói:
- Ông có biết không? Ông tiểu
bối lặc này ngồi tán gẫu suốt ngày với người đẹp ở Đông Sơn đấy!
Đô đốc Giác Xương An ngạc
nhiên, vội hỏi:
- Người đẹp nào thế?
Lúc đó cách cách lớn của ông
đem chuyện Ốc Tế Cách gặp một mỹ nhân ở đỉnh núi Đông Sơn ra kể cho ông nghe.
Nghe chị kể vừa xong, Ốc Tế
Cách liền quỳ xuống đất ngỏ lời cầu xin bá phụ mình tìm cho ra người đẹp nhờ
đứng làm chủ hôn, tác hợp cho đôi lứa. Bá phụ chàng vốn rất yêu quý chàng nên
vui lòng đứng ra lo liệu. Ông nói:
- Đã là con gái ở những miền
phụ cận thành này thì việc tìm kiếm đâu có khó khăn gì? Thằng cháu của bá phụ
ơi, cháu lo gì mà phải gấp thế?
Nói rồi, ông Giác Xương An bèn
hạ lệnh cho người đi khắp nơi điều tra tung tích cô gái.
Không đầy bốn, năm ngày, thủ hạ
ông đã điều tra ra.
Nguyên lai mỹ nhân này vốn là
người Minh Cổ Tháp, em gái Ba Tư Hãn Ba Đồ Lỗ. Nàng là một cô gái có vẻ đẹp
chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn. Năm đó, nàng hơn hai mươi tuổi, cha
nàng rất yêu quý nàng, các bối lặc của những bộ lạc xa gần đều tới cầu thân
nhưng đều bị Ba Tư Hãn cự tuyệt. Ông cự tuyệt là vì ông đã có một chủ ý. Ông
nghĩ rằng con gái của ông sắc nước hương trời như vậy thì phải gả cho một trang
thiếu niên tài mạo song toàn mới xứng đôi vừa lứa.
Bởi vậy bất cứ ai tới hỏi, ông
đều từ chối, chẳng cần hỏi ý con gái. Một hôm đô đốc Giác Xương An phái người
tới cầu hôn. Ba Tư Hãn thấy vậy lại cho rằng quan đô đốc đường đường là một vị
trọng thần có ý cầu thân cho chính mình để làm một vị phúc tấn thì còn gì hay
bằng. Nhưng hiềm nỗi quan đô đốc tuổi đã quá lớn, e rằng không xứng với con
mình. Ông đặt một giả thuyết khác cho rằng có thể một cậu con trai nào đó của
quan đô đốc muốn lấy con gái ông làm vợ. Cậu này một là còn trẻ, hai là sẽ trở
thành đô đốc trong tương lai, như thế thì thật là phú quý song toàn, khỏi nói
cũng biết là đắc ý nhất rồi! Nhưng đến khi ông mối vào vấn đề, nói là thay mặt
quan đô đốc đến hỏi cô con gái ông cho người cháu trai thì lòng ông đã có đôi
phần không ưng. Ông còn nghe thêm cả chuyện con gái ông, tình tự với cháu quan
đô đốc ở Đông Sơn nên ông lại cho rằng ông mối có ý giễu cợt mai mỉa ông, do đó
ông lại càng không vừa ý. Tuy vậy, ông không dám quyết liệt cự tuyệt vì ông còn
nể mặt quan đô đốc. Ông trả lời người mối rằng xin cho Ốc Tế Cách đích thân đến
diện đàm mới có thể quyết định được việc hôn nhân. Theo ý Ba Tư Hãn thì ông
muốn xem Ốc Tế Cách diện mạo và phẩm chất ra sao trước đã.
Ít hôm sau, chàng thiếu niên họ
Ốc tới nhà Ba Tư Hãn.
Chàng nhủ thầm mình là cháu
quan đô đốc thì một tên Ba Đồ Lỗ này có nghĩa lý gì đối với chàng. Do đó chàng
dương dương tự đắc bước vào, cất tiếng dõng dạc nói với Ba Tư Hãn:
- Lệnh ái đâu. Xin mời ra cho
tại hạ diện kiến.
Ba Tư Hãn tức giận đến tái mặt
bèn trả lời hết sức lạnh nhạt:
- Tiện nữ sinh trưởng nơi thâm
khuê lại rất trọng lễ giáo nên không thể diện kiến với ngươi được.
Ốc Tế Cách liền nói.
- Tại hạ cùng lệnh ái có duyên
phận vợ chồng thì sự diện kiến nào có hại gì?
Ba Tư Hãn không để Ốc Tế Cách
nói xong, tiếp luôn:
- Về việc cầu thân tiếc rằng
tiểu bối lặc tới trễ quá! Hôm qua tại hạ đã định việc chung thân cho người
khách khác rồi!
Ốc Tế Cách giật mình lên như
điện giật. Vội hỏi:
- Với ai vậy?
Ba Tư Hãn nói:
- Quyết định này do chính tiện
nữ chủ trương. Tiện nữ đã thuận lấy con trai Khắc Triệt Ba Nhạn, tù trưởng Đổng
Ngạc bộ, tên gọi là Ngạch Nhĩ Cơ Ngoã Ngạch!
Thất khiếu Ốc Tế Cách như bốc
khói, đôi mắt trợn ngược, miệng há hốc ra. Không nói được lời nào. Chàng lắp
bắp mãi mới nói được có một câu:
- Có thực lệnh ái quyết định
như vậy?
Ba Tư Hãn cười nhạt, chẳng thèm
trả lời. Ốc Tế Cách như phát điên lên, tuốt lẹ cây yêu đao đánh soạt một tiếng.
Ba Tư Hãn thấy thế lại cho rằng
chàng tuốt đao để chém mình, cũng tuốt vội yêu đao lăm lăm cầm trong tay. Nhưng
Ba Tư Hãn không ngờ được rằng chàng tuốt đao chẳng phải để giết người, mà để
cắt phứt bím tóc trên đầu mình, ném lên mặt bàn rồi nói:
- Xin nhờ tôn ông đưa giùm cho
lệnh ái. Tại hạ là Ốc Tế Cách, kiếp này nếu không lấy được lệnh ái làm vợ thì
không còn gọi được là trang kỳ nam tử đội trời đạp đất ở đời này nữa.
Nói xong, chàng cũng chẳng quay
đầu chào, cứ việc chạy đại ra ngoài cổng như một con trâu điên.
Ngạch Nhĩ Cơ Ngoã Ngạch trước
đây đã có lần cầu thân với Ba Tư Hãn. Về mặt tài mạo thì Ngạch chẳng có gì xuất
sắc khó sánh được với con gái ông. Nhưng sự thể đã quá gấp, ông Hãn cho cưới
ngay trong ba ngày, dùng kế sét đánh chẳng kịp bưng tai.
Quả nhiên ba ngày sau, con gái
ông Hãn đã gả về Đổng Ngạc Bộ.
Ốc Tế Cách được tin này càng
căm giận đến tận xương tuỷ ít lâu sau, có một hôm Ngạch Nhĩ Cơ Ngoã Ngạch một
mình cưỡi ngựa đi chơi dưới chân núi Bát Đạt. Bỗng từ trong sơn ao nhảy ra chín
tên đại hán, quật ngã Ngoã Ngạch xuống đất rồi nhất tề giơ đao chém xuống, bám
nát thây Ngoã Ngạch.
Vài hôm sau tù trưởng Khắc
Triệt Ba Nhan mới tìm ra được thây của con trai ông dưới chân núi. Ngạch là đứa
con trai duy nhất của ông, bảo sao ông không thương tâm và căm giận cho được.
Ông một mặt cho liệm xác con, một mặt cho người điều tra hung thủ. Ông cho yết
bảng khắp nơi hễ có ai đó biết họ tên hung thủ sẽ được thưởng trâu một trăm
con, ngựa cũng một trăm, vàng mười cân. Tin này vừa truyền ra ngoài thì dư luận
đã xôn xao bàn tán, cho rằng trong chín tên hung thu đó có một tên là Ốc Tế
Cách. Tuy biết vậy nhưng chẳng ai dám tố cáo để lĩnh thưởng, bởi vì Cách là
cháu của quan đô đốc Kiến Châu vệ. Thấy người ta khiêng con về tới nhà, ông Ba
Nhan đau khổ vô cùng, cứ ôm choàng lấy thây con mà khóc hu hu. Con dâu ông cũng
khóc lên khóc xuống, một tiếng lang quân hai tiếng lang quân. Hai người khóc
lóc thê thảm khiến cả nhà ai cũng mủi lòng, nghẹn ngào trong nước mắt.
Giữa lúc cả nhà đang than khóc,
vật vã thì được tin Ba Tư Hãn Ba Đồ Lỗ tới. Ông Ba Nhan định chạy ra đón tiếp
thì đã thấy Ba Tư Hãn vào tới trong nhà, nắm tay con gái.
Cô gái đầu tóc rũ rượi, miệng
luôn luôn xin cha báo thù cho chồng, ông khuyên con thôi khóc, bảo ông Ba Nhan:
- Lão nghe bên ngoài đồn rầm
lên kẻ mưu sát con trai ông chẳng phải ai xa lạ chính là cháu ruột Kiến Châu vệ
tên gọi là Ốc Tế Cách đó.
Ba Nhan ngạc nhiên hết sức vội
hỏi:
- Ốc Tế Cách với con trai lão,
kiếp trước không thù, đời này không oán, tại sao hắn lại hạ độc thủ như vậy?
Ba Tư Hãn bị hỏi vặn như vậy,
không biết trả lời cách nào. Ông chỉ biết quay đầu lại đưa mắt nhìn cô con gái,
ý muốn bảo hãy thay ông mà trả lời. Con gái ông lúc đầu thấy chồng bị hại thì
căm lắm, nhưng tới khi nghe nói hung thủ chính là Ốc Tế Cách thì cặp má hồng
tươi kia không khỏi nóng bừng.
Lòng nàng cảm thấy mềm lại.
Nàng nhớ lại ngày nào cùng với Ốc Tế Cách kỳ ngộ trên đỉnh núi Sơn Đông. Rồi
cũng vì mối tình thắm thiết đó chàng đã tự tới cầu thân, cắt tóc để lại. Nàng
cho rằng chinh là nàng đã không xứng đáng, vì nàng đã phụ rẫy trước, chứ không
phải chàng. Phụ thân nàng cố chấp nên mối lương duyên của hai người dang dở.
Ngày nay, xảy ra tai vạ đó phải chăng là do tiền oan nghiệp chướng?
Vừa nghĩ tới đó cũng vừa lúc
thân phụ nàng quay lại nhìn nàng. Nàng chỉ còn biết thở dài một tiếng cho vơi
bớt sầu tư.
Rồi nàng lấy khăn lụa lau qua
mấy giọt lệ còn vương lại trên đôi gò má mịn màng, cất bước vào phòng trong…
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét