Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

5 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 85,86,87

HỒI 85

La Công Viễn thư gửi Thục đương quy,
An Lộc Sơn xin dùng Phiên tướng sĩ.
Từ rằng: 
Khách tiên thư viết gửi vua 
Chỉ ba bốn chữ, thiên cơ lập lờ 
Tên vị thuốc thực hư khó đoán 
Lính thú Phiên thay Hán thú binh 
Đường Minh Hoàng xử bất minh 
Ai họ An, bắt gia hình cả sao 
Yên nguy là ở đâu nào? 
Theo điệu "Đinh Tây Phiên" 

Xưa nay người ta tối kỵ ba chữ: Tham, giận, ngu, tham, sân, si, huống hồ là bậc thiên tử, vốn phải sửa mình ngay để làm gương cho chín châu bốn biển, nghĩ đến lúc loạn, lo đến điều nhỏ nhặt giữ được sự trong sáng, xây nền thái bình cho xã tắc. Đã thế phải tránh xa những điều dị đoan, mê hoặc nhảm nhí. Thiên tử vốn phú quý tột cùng, lại còn mơ tưởng tới thuật "trường sinh bất lão", cầu tiên học đạo, buông thả sự tôn kính của bản thân, mê cuồng những trò ảo thuật, học chẳng được dẫn đến oán giận, làm bậy giết càn, thì rõ là vừa tham, lại vừa giận. Con người ấy nếu quả giết được, tức là không phải thần tiên, nếu là thần tiên, có giết cũng chẳng được nào, họ vốn là bất tử kia mà. Không những thế họ lại còn có mê ngữ, sấm ký, báo trước cho biết chuyện sau này, mà vẫn không tỉnh ngộ, tin theo chuyện quàng xiên, thay đổi phép xưa, dẫn đến tai họa cho mai sau, cũng bởi nhìn kẻ xấu ra người tốt, rõ là cực ngu chứ còn gì nữa.
***
Hãy nói chuyện Đường Minh Hoàng cầm giữ bọn Trương Quả, không cho về núi, thái thú Ngọc Châu lại tiến cử La Công Viễn, tán dương pháp thuật cao cường của họ La, đưa về kinh đô. Họ La này chẳng hiểu quê quán ở đâu, cũng không rõ sinh năm nào, đời nào, nhưng dung mạo thì lúc nào cũng như đứa trẻ mười sáu, mười bảy, vân du khắp nơi, tung tích khôn dò. 
Hôm ấy, họ La đến Ngọc Châu, gặp lúc quan thái thú, nhân hạn hán lâu ngày, mời pháp sư về đàn xã tắc, tác pháp thiêu bùa để cầu mưa. Người kéo tới đông nghịt, trong số đó thấy có người y phục màu trắng, thấp thoáng chỗ này chỗ khác xem xét. Người này cao hơn một trượng, mắt sáng như sao, nên mọi người xúm lại xem. Có kẻ hỏi họ tên, quê quán, người này đáp: 

- Ta họ Long, vốn quê ở ngay đây! 
Đang nói thế, họ La đi tới, thấy người này, trừng mắt giận dữ: 
- Cả vùng nắng hạn đã lâu, ngươi không đi làm mưa cứu dân, mà lại rong chơi ở đây sao? 
Người này vòng tay cung kính đáp: 
- Không có thiên phù ra lệnh, biết lấy nước ở đâu ra? 
Họ La đáp: 
- Ngươi hãy cứ làm đi, ta sẽ giúp một tay. 
Người kia vâng dạ, bỏ đi ngay, ai nấy kinh ngạc vây kín lại hỏi: 
- Người ấy là ai thế? 
Họ La đáp: 
- Chính là Long Thần cai quản thủy phủ của vùng này vậy. Ta đã ra lệnh đi làm mưa cứu đồng ruộng khỏi khô cháy, vì Long Thần chưa được lệnh của Thượng Đế, không dám tự quyền lấy nước. Ta phải đi kiếm vài giọt nước giúp vào, cứu lấy hoa màu. 
Vừa nói, vừa đưa mắt nhìn bốn phía, trên án tụng kinh của pháp sư, thấy có nghiên mực lớn hình vuông, mới dùng để vẽ bùa chú, trong nghiên vẫn còn ít mực đen. Họ La liền nâng ngay nghiên lên, dốc uống cạn, rồi ngửa mặt mà phun lên không trung, quát lớn: 
- Mau làm mưa đi! 
Lập tức, mặt trời bị mây mù che kín, gió lớn thình lình nổi. Họ La quay ra quát mọi người. 
- Mưa tới ngay bây giờ, mau tìm chỗ tránh, kẻo ướt hết quần áo? 
Nói chưa dứt lời mưa lớn kéo đến, chẳng khác gì nghiêng chậu, dốc vô mà đổ, được tới mấy thước nước mới tạnh. Lạ nữa là, nước mưa dù thấm áo, hay đọng trên mặt đất, đều đen kịt một màu. Thì ra Long Thần múa kiếm làm phép, khiến cho số mực ngậm trong miệng họ La thành cơn mưa lớn, nên nước mưa đều có màu mực vậy. 
Người người đều kinh ngạc ngợi ca không ngớt, hỏi họ tên Công Viễn, rước vào gặp quan thái thú, kể rõ mọi chuyện. Thái thú đi đem vàng lụa ra tặng, họ La cười mà không nhận. Thái thú bèn nói: 
- Nay thiên tử kính trọng bậc thần tiên, ngài đã có phép thuật tài giỏi đến thế, ta sẽ tiến cử, nhất định sẽ được chúa thượng kính trọng. 
Họ La đáp: 
- Bần đạo vốn không muốn vào chốn triều đình, nhưng nghe nói hai vị họ Trương, họ Diệp đang ở Trường An, bần đạo cũng muốn gặp một lần cho biết. Nay gặp dịp này, cũng nên đi một chuyến xem sao, chuyện gì mà chẳng được? 


Thái thú viết sớ lại sai người tiến dẫn về kinh. Sớ dâng lên, Huyền Tông xem xong, liền truyền chỉ gọi vào.


Huyền Tông đang ngụ ở Khánh Vân Đình, xem Trương Quả cùng Diệp Pháp Thiện đánh cờ, nội thị dẫn họ La đến dưới thềm. 
Huyền Tông nhìn họ Trương, họ Diệp phán: 
- Đây là dị nhân do Ngọc Châu tiến cử, họ La tên Công Viễn, xin hai tiên sinh hãy cùng đàm đạo xem sao.
Họ Trương, họ Diệp cùng chăm chú nhìn, thấy họ La chẳng khác gì trẻ nhỏ, vừa gầy vừa yếu, mới làm lễ đội mũ là cùng, đều cười mà thưa: 
- Trẻ nhỏ còn đang phải dắt thế này, được bao kiến thức mà cũng là dị nhân cho được! 


Họ La chẳng chút hoang mang, đến ngay bên thềm. Huyền Tông miễn lễ, truyền cho lên điện ban cho ngồi, chỉ hai họ Trương họ Diệp mà phán: 
- Khanh có biết hai vị này không? Đây chính là Trương Quả tiên sinh cùng Diệp Pháp Thiện đạo sư. 
Họ La thưa: 
- Tên thì đã nghe nhưng chưa gặp mặt, mãi đến hôm nay thần mới hân hạnh vậy. 
Trương Quả cười: 
- Phường hậu sinh cũng biết đến ta sao? 
Pháp Thiện thêm: 
- Sao lại có người trong làng thần tiên mà lại chưa từng gặp mặt Trương tiên sinh sao? 
Họ La đáp: 
- Trên cuộc thế không thể không có loại thần tiên không hiểu chữ lễ. Huống chi hai người kiêu ngạo đến thế, bần đạo có không biết, cũng không lấy gì làm ân hận. 
Trương Quả cả cười: 
- Ta chưa vội nói chuyện với trẻ con. Nay mọi người nói người là dị nhân có nhiều phép lạ, hãy thử vài trò cho ta xem sao, nếu thật tuyệt diệu, ta cũng sẵn sàng mở lớn mắt mà đứng trông vậy. 
Liền cùng Pháp Thiện, mỗi người cầm mấy con cờ trong tay, nắm chặt lại, hỏi: 
- Hãy đoán thử trong tay chúng ta có bao nhiêu con cờ nào? 
Họ La đáp: 
- Đều chẳng có con nào cả! 
Hai người cười vang, mở ngay bàn tay ra, quả nhiên một con cờ cũng chả có trong cả hai tay. Lại thấy họ La giở ở ống tay áo mình một nắm con cờ mà cười: 
- Con cờ đã vào tay bần đạo cả rồi còn đâu, hai vị tiên ông gặp phải kẻ hậu sinh này, nên nỗi cả hai tay không vậy! 
Họ Trương họ Diệp đều ngạc nhiên, hoảng hốt, đứng dậy cúi đầu làm lễ. 

Chính là: 
Học không sau trước, giỏi là trên 
Đừng cậy già mà khinh thiếu niên 
Trương Quả dẫu sinh đời Bàn Cổ 
Đều cùng Công Viễn chỉ là tiên. 


Huyền Tông vô cùng thích ý, ban yến ngay ở Khánh Vân Đình, đem mũ áo thưởng, lại nhận Công Viễn làm Để đệ (1), tên gọi là La tiên sư. Từ đó Công Viễn cùng hai họ Trương họ Diệp, đàm luận đạo lý của tiên gia, kính phục lẫn nhau. 
1 Để: em trai, đệ: dinh thị của vương hầu, trạm dịch đón vua, sứ chư hầu của thiên tử. Để đệ: em trai thuộc hàng vương hầu. 


Ít lâu sau, họ Trương họ Diệp lại đều dâng sớ xin được quay về núi. 
- Đạo thuật của La Công Viễn hơn hẳn chúng thần, xin lưu giữ La tiên sinh ở kinh, cũng đủ để bệ hạ hỏi han. Chúng thần rời núi đã lâu lòng những muốn về, kính xin bệ hạ, để chúng thần được toàn dã tính vậy? 
Huyền Tông thấy hai người quyết chí, cũng không tiện ép nài, bên chuẩn tấu, cho tạm trở về, hỏi rõ nơi ở, phòng khi cần triệu đến. 
Hai người tạ ơn ra khỏi Trường An. Phàm những thứ Huyền Tông ban cho, cùng những của quý mà các quan tặng, không hề lấy một vật nào. Cả hai thư thái ra đi. 


Chính là: 
Mây ngàn hạc nội 
Biển rộng trời cao 
Ung dung ra vào 
Phá lồng xổ cũi. 


Từ đó bọn phương sĩ ở kinh sư, chỉ còn họ La được Huyền Tông tin kính hơn cả, hay triệu vào cung, hỏi về cách tu luyện thuật "Trường sinh bất tử". Có lần Công Viễn thưa: 
- Làm gì có cách trường sinh. Chỉ là chuyện "Thanh tâm quả dục” thì có thể bớt được bệnh tật, kéo dài tuổi thọ mà thôi. 
Huyền Tông đành nghe theo, thường ở riêng hẳn ra một cung, phi tần không được tới, vì vậy những yến tiệc vui chơi ở hậu cung, từ đó cũng ngày một ít dần. Dương Quý Phi trong lòng không vừa ý, gặp tiết trung thu trăng sáng như ban ngày, Huyền Tông vẫn chẳng triệu phi tần tới ban yến, chỉ cùng Công Viễn ngồi dưới trăng riêng bàn luận, kể tới chuyện tiết thượng nguyên năm ngoái từng cùng hai vị họ Trương họ Diệp bay trên không đi chơi Quảng Lăng, Tây Lương, vô cùng kỳ dị ra sao, nhân đó hỏi Công Viễn: 
- Thiên sư liệu có phép thuật này không? 
Công Viễn thưa: 
- Phép này có khó khăn gì đâu. Năm ngoái bệ hạ đã đến chơi cung Quảng Hàn trong mộng, nhưng mắt chưa thật thấy. Nay bệ hạ có chuẩn tấu cho lời của thần mời bệ hạ dạo chơi thật sự ở cung trăng một chuyến chăng? 


Huyền Tông cả mừng ưng thuận, Công Viễn đứng dậy, lại cây quế trước sân điện bẻ mấy cành, dùng dây lụa kết lại, đặt ngay giữa sân, chúm miệng thổi biến thành một cái xe màu sắc sặc sỡ, mời Huyền Tông lên ngồi chễm chệ, rồi biến cái hốt ngọc như ý trong tay thành một con hươu trắng, đóng ngay vào xe, ruổi thẳng lên cung trăng. 
Lúc này Cao Lực Sĩ cùng thái giám đắc sủng là Phụ Cầu Lâm quỳ mà tâu rằng: 
- Thuở trước hai vị tiên sư họ Trương họ Diệp phụng giá ngư du, cho rất nhiều nội thị cùng đi, nay chúng nô lệ xin nguyện đi theo hộ giá. 
Công Viễn đáp: 
- Cung nguyệt không phải như các nơi khác, các người là đấng bậc gì mà cũng đòi tới xem. Chỉ mình ta đi theo hầu xa giá là đủ rồi. 
Nói xong quát lớn một tiếng, hươu trắng kéo ngay xe lụa màu, thẳng lên không trung Tiêu Hán. Công Viễn đi vút ngay theo sau xe không rời một bước, dặn kỹ Huyền Tông hai mắt nhìn thẳng vào cung trăng, nhất thiết không được quay đầu nhìn lại, cũng không được nhìn ra các thứ khác. 


Nháy mắt, đã gần cung trăng, Công Viễn giơ tay níu xe lại, Huyền Tông chú mục nhìn kỹ thấy cung trăng điện các từng từng lớp lớp lâu đài cửa cái đóng, cái mở, nhìn xa muôn loài hoa cỏ đua tươi, rực rỡ, chiếu lóa mắt, hơn hẳn cảnh thấy trong mộng năm xưa. 
Huyền Tông liền hỏi: 
- Có thể vào chăng? 
Công Viễn đáp: 
- Bệ hạ tuy là thiên tử quý giá, nhưng vẫn là xác phàm, không nên xem thường mà vào, chỉ nên đứng ngoài nhìn thôi! 
Một mùi hương lạ phảng phất quanh người, rồi tiếng nhạc réo rắt, nghe rõ ra, thì chính là điệu "Nghê thường vũ y khúc". Nghe xong, Huyền Tông hỏi khẽ: 
- Người đời thường vẫn nói sắc đẹp của đàn bà, chẳng thể ai sánh nổi Thường Nga trong cung trăng, nay Thường Nga chỉ cách vài thước liệu trẫm có thể được thấy dung mạo một lần chăng? 
Công Viễn thưa: 
- Nhớ thuở xưa Mục Thiên Tử cùng Vương Mẫu gặp gỡ, cũng bởi có tiền duyên, bệ hạ không có chuyện đó, nay được ngắm kỹ cung Quảng Hàn thế này đã là kỳ phúc rồi, sao lại còn nghĩ đến những ước nguyện viển vông thế? 


Bỗng thấy trong cung trăng tất cả các cửa đều đóng chặt, ánh sáng rực rỡ biến đâu mất, gió lạnh phủ khắp người. Công Viễn vội giật dây cho hươu trắng kéo ngay xe, theo gió mà bay theo chẳng khác gì đôi cánh chim, đã lại thấy về đến mặt đất. Công Viễn thưa: 
- Bệ hạ đã làm Thường Nga giận dữ, may mà vẫn được bình yên. 


Huyền công xuống xe, lại thấy xe lụa thành mấy cành quế, hươu trắng cũng chẳng thấy đâu, trong tay Công Viễn ngọc như ý đã cầm như cũ rồi. Huyền Tông vừa mừng vừa sợ. Công Viễn cáo từ về ngụ sở. Huyền Tông ngồi một mình nghĩ ngợi mông lung âu sầu than tiếc. 



Thái giám Cầu Lâm, nhân Công Viễn không cho theo, liền lựa lời tâu: 
- Đó chẳng qua là trò ảo thuật làm mê hoặc người ta, có lấy gì làm đủ lạ lùng. Xin thánh thượng đừng nhẹ dạ mà tin. 
Huyền Tông phán: 
- Dẫu có là ảo thuật, cũng vẫn vừa lạ lùng, vừa thích thú. Trẫm dẫu có học được một phần thôi, cũng đủ vui sướng rồi. 
Cầu Lâm liền lựa theo ý Huyền Tông mà thưa: 
- Trong những ảo thuật, thì chỉ có phép ẩn thân là dễ học hơn cả. Chúa thượng mà học được phép này, thì tha hồ mà dò xét những việc thầm kín trong ngoài cung cấm. 
Huyền Tông mừng lắm: 
- Khanh nói đúng lắm! 
Ngày hôm sau liền triệu Công Viễn vào, nói thẳng ý muốn học phép ẩn thân. Công Viễn thưa: 
- Phép ẩn thân chẳng qua là các nhà tiên đạo dùng để chối bỏ những sự ràng buộc phiền nhiễu của thói tục, hoặc chẳng may gặp phải chuyện bất ngờ nguy hiểm nào đó, mới phải cậy đến phép ẩn thân mà giữ mình. Bệ hạ đường đường thiên tử ngôi cao, lẽ lúc nào cũng rõ ràng giữa thanh thiên bạch nhật, cũng như "Kinh Dịch đã nói: "Bậc thánh nhân làm việc gì, thì vạn vật đều nhìn vào”. Thếthì bệ hạ định học phép ẩn thân này làm gì? 
Huyền Tông đáp: 
- Trẫm học phép này cũng chỉ là để phòng thân. 
Công Viễn thưa: 
- Bệ hạ ở ngôi cao quý có vạn cỗ xe, lại gặp thời buổi thái bình, xe đi đến đâu, hàng nghìn hàng vạn người hộ vệ, còn có điều gì phải lo nữa, mà phải học ẩn thân pháp để đề phòng. Bệ hạ mà học phép này, chẳng qua ở trong cung, ngẫu nhiên thử xem sao, cũng còn chẳng nên. Còn nếu ra ngoài, mang mệnh thiên tửmà vào nhà người ta, làm cái diều không đáng làm, chẳng may lại gặp một phương sĩ nào đó, phá được phép này, thì lại chẳng khác nào rồng thiêng nằm trong bụng cá, chuyện khốn đốn rõ ràng là có thể dự liệu trước vậy. 
Huyền Tông liền phán: 
- Trẫm mà học được phép này, chẳng qua cũng chỉ để làm vui ở trong cung, quyết không dám xem thường mà đem ra thử ở bên ngoài, xin được truyền cho, nguyện thiên sư đừng tiếc công chỉ giáo. 
Công Viễn lúc này cũng thấy Huyền Tông ba bốn phen cầu khẩn, đành phải đem những bí quyết về lời khấn, về bùa phép dạy bảo cẩn thận. Huyền Tông cả mừng, cứ như lời dạy mà luyện tập ở ngay trong cung. Đến khi đã thành thục rồi, định làm thử, thì lần chỉ giấu được nửa người, còn nửa người vẫn lộ rõ, hoặc có giấu được cả, thì vết chân hoặc bóng in lại vẫn còn, lúc thì rõ đôi hia, lúc thì thấy vương miện, lúc trông rõ long bào, nên cứ bị bọn cung nga nhận ra. 


Huyền Tông triệu ngay Công Viễn vào cung, đòi Công Viễn biểu diễn ẩn thân pháp ngay trước ngự tiền. Công Viễn lấy ngón tay vẽ thư phù lên không trung, miệng niệm chú mấy lời, thì chẳng thấy hình bóng đâu cả, bỗng chốc lại thấy Công Viễn ngoài cửa điện đi vào. Huyền Tông cũng đi theo hệt cách của Công Viễn, vẫn chỉ biến được thân hình, áo mũ vẫn y nguyên lộ rõ, bọn nội thị không nhịn được cười. Huyền Tông hỏi: 
- Cũng đều thư phù, niệm chú như nhau, nhưng tại sao trẫm làm lại không được trọn vẹn là thế nào? 
Công Viễn thưa: 
- Bệ hạ lấy xác phàm để học phép tiên, thì làm sao mà tận thiện được? 
Huyền Tông nhân học ẩn thân pháp này không xong, lại bị bọn tả hữu cười, thầm thấy hổ thẹn không để đâu cho hết, nay lại trước mặt mọi người Công Viễn nói thẳng chuyện "Xác phàm học đạo" nên trong lòng không vui, bèn phán: 
- Chẳng nhẽ các bậc thần tiên, ban đầu không phải là xác phàm sao. Thế sao những xác phàm ấy vẫn học được tiên thuật. Cùng ra đều bởi người truyền pháp thuật, không chịu truyền đủ các phép màu vậy thôi! 
Phán xong, phất áo đi vào truyền cho Công Viễn lui ra. Từ đó trong lòng Huyền Tông đã mang ý giận. 
Lại gặp lúc vợ chồng tể tướng Lý Lâm Phủ mắc bệnh rất nặng. Nghe nói Công Viễn thường vẫn làm bùa cứu người thoát nhiều bệnh hiểm nghèo, Lâm Phủ tự thân đến xin Công Viễn chữa chạy cho vợ mình. Công Viễn đáp: 
- Phu nhân mệnh cùng lộc đều đã hết, chẳng thể chạy chữa nữa cả. Huống chi phu nhân còn có cái may là được chết có mặt tướng công ngay cạnh. Sống thì vinh hiển, chết lại đau xót, chữ phúc của phu nhân gấp tướng công mười lần, hà tất phải cầu thêm. 


Lâm Phủ tức giận vì những lời đầy ngạo mạn này, nên trong lòng rất căm ghét. Ngay đêm ấy người vợ quả nhiên qua đời. 


Một ngày sau, Tần Quốc phu nhân cũng tự nhiên mang bệnh nặng, Dương Quốc Trung theo lệnh của Quý Phi cũng tự thân tới gặp Công Viễn xin chữa chạy cho, Công Viễn đáp: 
- Phép tiên chỉ cứu được những người có duyên phận thôi, hoặc cùng ra là người có thể tu luyện thành chính đạo. Phu nhân cả đời chẳng hề có dính dáng gì đến đạo tiên, cũng chẳng có đức hạnh gì thật tốt đẹp, chỉ hưởng cái phúc không đúng phận của mình, mà còn không biết tự tu tính, nghiệp chướng nào phải dễ mà trừ nổi, nay may được mệnh chung ngay trong dinh trong điện, so ra với chị em, thì thật là điều may mắn muôn một rồi đó. Nào thể có sức nào, phép nào chạy chữa? Chỉ bảy ngày sau thôi, thì tên tuổi đã ghi vào sổ ma quỷ rồi vậy! 
Quốc Trung tức giận quát: 
- Chẳng thể cứu được thì thôi. Sao lại dám buông lời phỉ báng? 
Quay về thưa lại với Quý Phi, Quý Phi giận lắm, khóc lóc mà thưa với Huyền Tông, rồi thêm: 
- La Công Viễn phỉ báng cung quyến, lại còn làm thư phù, phép thuật. Thật là phạm tội đại bất kính với chúa thượng vậy! 
Lâm Phủ cũng kể tội Công Viễn dùng lời lẽ dùng yêu thuật để mê hoặc dân chúng. Huyền Tông vốn đã căm giận, nay cả trong ngoài đều góp lời phỉ báng, nên nổi giận đùng đùng, mười phần tức tối, truyền đem La Công Viễn chém đầu ở chợ cửa Tây. Công Viễn ở ngụ sở nghe lệnh, cất tiếng cười như cuồng, cũng không chịu để cho trói, tự đi thẳng đến chợ cửa Tây, vươn cao cổ chịu chém. Đao thép loáng qua cổ, tịnh không một vết máu, lại thấy một luồng khí xanh, từ cổ xông thẳng lên trời cao. 


Chính là: 
Vua nước Kế Tân 
Chém hòa thượng Sư tử (1) 
Thật là đại triết nhân 
Bởi giết là công đó! 
1 Kế Tân, tên một nước nhỏ thuộc tây vực đời nhà Hán. Từ Hải có chú là "Da thấp Nhĩ La", tức là vùng Cashmir, thủ phủ của Pakistan ngày nay. Phật Thích Ca thuyết giáo, tiếng vang như sư tử gầm, vì vậy đồ đệ đạo Phật có sách gọi là "Sư tử hòa thượng". 


Huyền Tông nhân giận dữ nhất thời, lệnh chém La Công Viễn, nghĩ lại thì thấy Công Viễn là người có phép thuật, sao lại có thể dễ dàng giết được, vội sai ngay nội thị chạy ra truyền đình chỉ việc hành hình. Đến nơi thì đao phủ đã chém rồi. Huyền Tông hối hận vô cùng, lệnh cho thu thập tử thi, lấy gỗ hương mộc làm quan quách khâm liệm chôn cất chu đáo. 
Bảy ngày sau, Tần Quốc phu nhân quả nhiên chết. Huyền Tông nghe tâu, vô cùng thương tiếc, phủ tuất rất hậu. 


Chính là: 
Chị em thế vững như kiềng 
Mà sao Tần Quốc lên tiên sớm vầy? 
Chết trước đi, thế mà hay 
Tang ma trọn vẹn, xưa rày đều mong. 


Huyền Tông nhân Tần Quốc phu nhân chết, tin lời La Công Viễn là đúng, thắc thỏm không thể quên nhưng cũng chẳng biết cách nào khác, nghĩ tới Trương Quả cùng Diệp Pháp Thiện, liền sai Phụ Cầu Lâm đến Vương ốc Sơn tìm Trương Quả, nếu Trương Quả không chịu về thì phải tìm cho được một. Cầu Lâm vâng chỉ, đem theo quân lính, ngựa xe rời khỏi kinh thành, chẳng bao lâu nghe người đi dường bàn tán: 
- Trương Quả tiên sinh đã chết ở vùng Dương Châu rồi? 
Cầu Lâm bán tin bán nghi, thì được ở kinh sư sai người báo rằng: Thái thú Dương Châu dâng sớ, ngày ấy, tháng ấy trong năm, Trương Quả đang ngồi rất ngay ngắn trong Quỳnh Hoa quán, bỗng qua đời, trong ống tay áo còn cả một biểu tạ ơn hoàng đế, thi thể chưa chôn cất, thì đã thấy tiêu biến mất rồi! 
Cầu Lâm được tin này, liền không đi Vương ốc Sơn nữa, chỉ tìm hỏi nơi ở của Diệp Pháp Thiện, có người mách thấy họ Diệp ở phủ Thành Đô vùng Thục Xuyên. Cầu Lâm liền lệnh người ngựa hướng đường vào Thục mà đi. Vào đến đất Thục đường núi gập ghềnh, thật quả là khó đi, bỗng thấy ở đỉnh núi bên đường, một đạo sĩ còn ít tuổi, dáng nhàn nhã đi ngược chiều, nghêu ngao ngân vang bài thơ sau: 


Đường núi cheo leo thật khó đi 
Chư tiên đã trốn tìm đâu thấy 
Mới hay người chết chưa hề chết 
Kẻ sống hãy lo khó sống đời. 


Đạo sĩ vừa ngâm vừa đi, dần dần đã tới ngay trước đoàn ngựa xe. Cầu Lâm nhìn kỹ hoảng hồn, thì ra chẳng ai khác, mà chính là La Công Viễn. Cầu Lâm vội xuống ngựa quỳ lạy, hỏi: 
- Tiên sư không hề gì cả sao? 
Công Viễn cười đáp: 
- Thiên tử tin phục thần tiên, sao lại đem bần đạo ra đùa như vậy. Nay Trương Quả tiên sinh cũng sợ bị giết, nên đã giả chết, Diệp tôn sư cũng hoảng hồn mà bỏ di hải ngoại rồi, không thể nào tìm ra đâu. Chi bằng về kinh phục chỉ là hơn. 
Cầu Lâm nói: 
- Thiên tử hối hận vì việc làm quá đáng vừa rồi, cúi xin tiên sinh hãy cùng về kinh lại ra mắt thiên tử, để thỏa nỗi băn khoăn của thiên tử. 
Công Viễn cười: 
- Ta về kinh sao bằng thiên tử hãy đến đây, ngươi chẳng cần nhiều lời. Ta có một lá thư cùng một vật này gởi thiên tử. Ngươi hãy vì ta mà đem về dâng. 
Lấy ngay trong ống tay áo một lá thư, ở trong có một vật nhỏ, bên ngoài có dây lụa quấn kỹ, giao cho Cầu Lâm. Cầu Lâm nói: 
- Thiên tử có nhiều điều muốn cúi hỏi tiên sư, xin tiên sư hãy về kinh một lần nữa. 
Công Viễn đáp: 
- Chẳng phải nhiều lời. Hãy nên tránh xa con gái trong cung, cẩn trọng đề phòng con gái ở biên thùy, thì tự nhiên thiên hạ thái bình vô sự. 
Cầu Lâm lại hỏi riêng thân phận các vị đại thần sống chết ra sao, Công Viễn đáp: 
- Lý tể tướng tội ác chất đầy, ngày chết đã gần, mà vẫn không thể tránh nổi họa sau khi chết nữa kia. Còn Dương tể tướng vẫn còn vài năm hưởng phúc treo trên sợi chỉ mỏng, sau thế nào thì nghĩ cũng có thể rõ vậy. 
Cầu Lâm hỏi chuyện cát hung của mình, Công Viễn đáp: 
- Phàm người ta không tham tài, cũng không có họa lớn vậy. 
Nói xong chắp tay vái chào, bay thằng lên không trung mà đi mất. 
Cầu Lâm cùng tùy tùng xuýt xoa kinh ngạc, thán phục. Cầu Lâm nghĩ ngợi: "Diệp Pháp Thiện cũng khó mà tìm ra, chi bằng quay về kinh phục chỉ là hơn". 


Cả bọn quay về, vào cung ra mắt Huyền Tông, tâu rõ chuyện gặp La Công Viễn ra sao, rồi đưa thư dâng lên. Huyền Tông vô cùng ngạc nhiên mở thư ra xem, chỉ thấy bốn chữ lớn, phía dưới chú thêm một hàng chữ nhỏ như sau: 


“An mạc vong nguy 
Ngoại hữu nhất dược vật Thục Đương quy cẩn phụ thương” 


Huyền Tông nhìn mãi thư cùng vị thuốc, trầm ngâm không nói một lời. Cầu Lâm lại tâu riêng những lời của La Công Viễn về "con gái trong cung, con gái trên biên thùy". Huyền Tông nghĩ ngợi: "Công Viễn vẫn khuyên ta "Thanh tâm quả dục" thì có thể kéo dài tuổi thọ, nên nay khuyên ta xa hẳn con gái thì còn hiểu được, rồi lại nói "lúc yên ổn đừng quên lúc nguy nan", chắc cũng ý ấy cả. Còn Thục đương quy có lẽ là vị thuốc, có thể đắc thọ nữa chăng, chẳng hiểu sao được? Nhưng rõ ràng Công Viễn đã bị chém đầu, làm sao lại còn thấy được? Liền cho nội thị đào quan quách lên xem sao, thì ra trong hòm tịnh chẳng có một thứ gì cả. Huyền Tông thở than: 
- Thần tiên biến hóa như thế, trẫm thật chỉ làm trò cười cho mọi người? 


Về những lời này, thì "Con gái trong cung", rõ ràng là chỉ Dương Quý Phi rồi. Còn "Con gái trên biên thùy", chính là để chỉ An Lộc Sơn, bởi do chữ "An" bên trong có chữ "nữ” mà ra vậy. Còn "Thục đương quy", vốn là một câu sấm ký không lời vậy. Mấy chữ lớn "An mạc vong nguy" cũng nhằm để nhấn mạnh chữ An mà thôi.(l) 
1 "An mạc vong nguy": Lúc yên ổn đừng quên lúc nguy nan. Câu sau là: "Ngoài ra còn có một vị thuốc Thục đương quy cũng kính cẩn dâng thêm vào đây" Cả câu này ý ở chữ "Thục đương quy", nghĩa là vị thuốc đương quy ở vùng đất Thục, nhưng có ý "Sấm ký" là: "Đáng rút về, quay về vùng Thục", báo trước việc Huyền Tông phải chạy trốn vào Tây Thục sau này. 


Huyền Tông không hiểu ra ý đó chút nào. Lúc này An Lộc Sơn đang thâu tóm cả ba trấn rộng lớn: Phạm Dương, Bình Lư, Hà Đông, trong tay rất nhiều người ngựa, tướng sĩ, dọc cả một vùng biên thùy dài, có cả mối dây nối với cung khuyết, thanh thế không vừa, lại nghĩ ngay từ đầu ra mắt, không chịu bái lạy Thái tử, nhất định Thái tử mang lòng căm giận. Huyền Tông thì tuổi đã cao, chẳng biết lúc nào qua đời, Thái tử lên ngôi nhất định đối xử với mình chẳng ra sao, bởi vậy Lộc Sơn lo lắng không yên, thường nghĩ tới những việc này khác. 


Lộc Sơn ngày thường chỉ sợ có Lý Lâm Phủ, thường tôn xưng Lâm Phủ là Thập Lang, anh Mười, mỗi lần sứ giả về kinh, tất hỏi kỹ Thập Lang nói những gì. Nếu được Lâm Phủ khen, thì vô cùng hoan hỷ, còn nếu Lâm Phủ chê trách điều gì, thì cau mày, nhức trán, lo lắng than thở, nằm ngồi không yên. Lâm Phủ cũng thường gởi thư để khêu gợi Lộc Sơn điều này điều nọ, khích động những băn khoăn của Lộc Sơn, nhưng cũng bày tỏ những trở ngại để trói buộc chưa để Lộc Sơn hành động, mà chỉ nằm trong vòng lung lạc, điều khiển của mình thôi. 


Nhưng từ ngày vợ Lâm Phủ qua đời đến nay, bệnh hoạn cũng kéo đến, lại gặp lúc Phụ Cầu Lâm về kinh, Lâm Phủ lúc này đã nằm liệt trên giường không dậy được nữa rồi, bỗng nghe tin Công Viễn chưa chết, thì bàng hoàng, hoảng hốt nghĩ: "Ta đã từng xiểm tấu Công Viễn, nếu Công Viễn quả là bậc thần tiên, chém đầu không chết, nay tới trả oán, không phải như người phàm mà phòng ngừa cho được, làm thế nào cho thoát bây giờ?". Từ đó đêm ngày run sợ, bệnh càng nặng hơn. Mấy ngày sau thì, Ô hô! Chết rồi! 


Chính là: 
Thiên tử vừa thoát tên gian tướng 
Diêm vương phải nhận đứa ác tù. 



Đáng tội thay Lý Lâm Phủ, thân ở ngôi tể tướng, gian xảo với xung quanh, không theo ý chúa thượng, để cố giữ được sủng ái, ngăn cấm lời can gián, lập thành một bè gian trá, đố kỵ kẻ có tài có đức, gạt bỏ kẻ hơn mình, để giữ được ngôi cao, lập nhiều nhà ngục kiên cố giết bỏ, bài xích kẻ hiền thần, để mở rộng thanh thế, từ Đông cung trở xuống đều sợ, chỉ dám đưa mắt liếc mà chẳng bao giờ dám nhìn thẳng. Làm tể tướng mười chín năm, nuôi thành mối loạn cho thiên hạ. Đến lúc y chết, Huyền Tông vẫn không biết y là kẻ gian thần nên rất là thương tiếc. Đông cung Thái tử nghe Lâm Phủ chết, cũng lại than rằng: 
- Nay ta nằm lưng mới được dính chiếu vậy! 


Dương Quốc Trung vốn cũng rất căm ghét Lăm Phủ, nhưng vì y vẫn được Huyền Tông sủng ái, nên không thể tranh đoạt, nỗi hờn đã nung nấu lâu ngày, nay thừa lúc y chết rồi, mới bới những lỗi lầm đã qua, từ những chuyện nuôi riêng quân lính trong dinh, nói thác là để giữ thân, kỳ thực là có ngầm mưu thoán nghịch, lại còn bao lần hãm hại Đông cung, làm lay chuyển xã tắc, ngồi ngoài mưu lợi. Quốc Trung còn gợi cho các quan viết tấu biểu, trình rõ những tội khác của y. 


Dương Quý Phi thì căm ghét Lâm Phủ chèn ép An Lộc Sơn, lại cũng kể những điều xấu của y với Huyền Tông. Mãi đến lúc này, Huyền Tông mới tỉnh ngộ, hạ chiếu ban rõ tội trạng cho khắp thiên hạ biết, truy tước hết quan chức, phá hòm quách, tịch thu hết gia sản. Con là Lý Tụ đang làm thị lang cũng bị cách chức, vĩnh viễn không được dùng nữa. Cũng đúng như lời La Công Viễn nói về các họa sau khi chết. 


Chính là: 
Lúc sống quyền gian, ác đủ điều 
Nào khi hay chết xác băm nhừ 
Phải đâu vì nước vì dân nhỉ 
Dựa điều quốc pháp thỏa riêng tư. 


Lý Lâm Phủ chết, Dương Quốc Trung kiêm cả tả hữu thừa tướng, một mình nắm mọi quyền hành, mặc sức tác oai tác quái, trăm quan văn võ không ai không sợ. Duy An Lộc Sơn là không chịu cúi phục, Lộc Sơn chỉ vì Lâm Phủ xảo quyệt hơn mình, cho nên mới sợ Lâm Phủ, còn với Quốc Trung, trước đó thường tranh hơn đọ kém, vẫn có ý coi thường Quốc Trung, nay tuy nắm mọi quyền hành, Lộc Sơn vẫn không coi vào đâu. Bốn phương Phiên trấn đều có lễ đến mừng họ Dương, duy Lộc Sơn không chịu. Quốc Trung giận lắm, mật tâu với Huyền Tông: 
- An Lộc Sơn vốn giống Phiên, nay hùng cứ ở cả ba trấn lớn, dễ có ý khác, nên đề phòng thì hơn. 


Huyền Tông không tin. Quốc Trung liền bí mật đi lại với Kha Thư Hãn, tiết độ sứ Lũng Tả, để cùng Thư Hãn kiềm chế Lộc Sơn. Lũng Tả lâu nay vẫn giàu có đứng đầu thiên hạ, kéo từ cửa An Viễn đến tận Đường Cảnh, rộng đến hơn một vạn hai nghìn dặm, xóm làng liên tiếp, vừng day khắp đồng. Quốc Trung tâu lên với nhà vua rằng: Kha Thư Hãn phủ dụ, cai quản có nhiều công trạng, lẽ nên tuyên dương. Huyền Tông liền giáng chỉ cho Kha Thư Hãn kiêm quản Hà Tây tiết độ sứ, coi sóc hai trấn. Lộc Sơn nghe tin, biết ngay là Quốc Trung kết bè kéo cánh, lòng càng tức tối, nên thường trong lúc say rượu, ngay trước mặt mọi người, đem Quốc Trung ra mà chửi thẳng, Quốc Trung được ngầm báo những chuyện này, căm lắm, lại mật tâu với Huyền Tông rằng: 
- An Lộc Sơn vốn gian xảo cùng bầy với Lý Lâm Phủ. Nay Lâm Phủ chết rồi, tội trạng phơi bày, nên Lộc Sơn trong lòng băn khoăn, nhất định có tính toán này khác. Bệ hạ nếu không tin, xin hãy sai sứ triệu Lộc Sơn về kinh triều cận, nhất định Lộc Sơn sẽ không chịu vâng mệnh, bấy giờ bệ hạ sẽ thấy rõ tâm địa Lộc Sơn. 
Huyền Tông ậm ừ đứng dậy, quay vào cung, vẫn trù trừ không quyết. Dương Quý Phi hỏi: 
- Bệ hạ có chuyện gì mà có vẻ đắn đo? 
Huyền Tông đáp: 
- Quốc Trung anh Quý Phi, nhiều lần tâu Lộc Sơn tất sẽ phản loạn, trẫm vẫn chưa tin. Nay khuyên trẫm sai sứ triệu Lộc Sơn về triều cận, nếu y không về, thì lòng dạ đã rõ ràng, cứ thế mà hỏi tội. Trẫm nghĩ Lộc Sơn chịu ân sâu của trẫm đến thế, vị tất đã mang lòng phụ trẫm, vì vậy nghĩ ngợi mãi không xong. 
Quý Phi cả sợ vội tâu: 
- Anh thiếp căn cứ vào đâu mà nói An Lộc Sơn tất làm loạn. Nay đã hoài nghi như thế, bệ hạ hãy cứ như lời tâu, sai nội thị tới triệu Lộc Sơn. Nếu Lộc Sơn về, bệ hạ cùng anh thiếp dẫn giải được hiềm nghi. 


Huyền Tông nghe lời, viết ngay thư sắc, sai Phụ Cầu Lâm, mang đến Phạm Dương triệu An Lộc Sơn về triều cận hoàng đế, Cầu Lâm vâng mệnh ra đi. Chưa kịp lên đường, Quý Phi ngầm cho người đem vàng lụa ban, rồi sai cầm một lá thư viết tay, niêm phong cẩn thận giao cho An Lộc Sơn, lại dặn thêm Lộc Sơn tiếp được chiếu hãy về ngay, mọi sự đã có Quý Phi chu toàn, nhất định có lợi chứ không có điều gì đáng lo cả, không được về chậm để gây lòng nghi ngờ cho thiên tử. Cầu Lâm nhất nhất vâng mệnh, đi suốt ngày đêm không dám nghỉ, tới Phạm Dương. Lộc Sơn nghênh bái sắc dụ, Cầu Lâm lên công đường, dõng dạc đọc rằng: 


"Hoàng đế thân viết sắc ban cho Đông Bình Quận vương, tiết độ s Phạm Dương, Bình Lư, Hà Đông An Lộc Sơn: 
Khanh trước kia vốn thờ trẫm ngay dưới thềm son, vui vẻ chuyện trò như trong một nhà, nay ra trấn ngoài Phiên ải, xa xôi cách trở trẫm vẫn một lòng tưởng nhớ. Lòng khanh chắc hẳn cũng như vậy, nhưng điều mong nhớ cũng không dám không có sắc triệu mà về chầu. Nay một khi đã nhận được sắc này, lập tức về cung khuyết, nếu không về là có ý phản loạn. Đừng lấy cớ đường xá xa xôi khó nhọc, trẫm cũng cần hỏi kỹ về công việc ở biên đình. Tiếp dụ này, phải về kinh sư ngay, không được sai sót.” 


Lộc Sơn tiếp xong sắc chỉ, bày tiệc rượu đãi thiên sứ, rồi hỏi: 
- Thiên tử triệu ta về là ý ra làm sao? 
Cầu Lâm đáp: 
- Chẳng qua thiên tử mong nhớ ngài quá! 
Lộc Sơn trầm ngâm: 
- Dương tể tướng có nói gì không? 
Cầu Lâm đáp: 
- Triệu ngài về là ý của thiên tử, không phải ý tể tướng! 
Lộc Sơn cười: 
- Ý thiên tử tức là ý tể tướng vậy! 
Cầu Lâm đuổi tả hữu đứng hầu, đưa thư cùng kể lại những lời dặn dò của Dương Quý Phi ra, Lộc Sơn lúc này mới vui vẻ. 
Ngay ngày hôm sau, lên ngựa ngày đêm về kinh, vào triều cận thiên tử. Huyền Tông cả mừng mà phán: 
- Người ta nói rằng khanh không chịu về, riêng trẫm thì tin khanh sẽ về, nay quả như vậy! 
Liền cho làm lễ như người trong nhà, ban yến ngay trong nội điện. Lộc Sơn khóc lóc mà tâu: 
- Thần vốn người Phiên, nay được bệ hạ tin yêu mà cất nhắc đến thế này, dẫu thây có phân làm muôn mảnh cũng chẳng đủ báo đền. Nhưng chỉ vì Dương Quốc Trung ghen ghét, thần quả không biết chết ngày nào vậy. 
Huyền Tông an ủi: 
- Còn có trẫm ở đây kia mà, khanh không có điều gì phải lo cả. 
Đêm ấy, giữ lại cho ngủ ngay trong cung. 


Ngày hôm sau vào chào Dương Quý Phi, lại ban yến trong nội cung, tình càng đằm thắm. Lộc Sơn thưa: 
- Con không phải không thương nhớ, nhưng thế không thể ở lâu ngày mai xin lên đường. 
Quý Phi đáp: 
- Ta cũng không dám giữ khanh lâu, ngày mai ra chầu rồi tạ ơn lên đường ngay, đừng dềnh dàng nữa? 




Lộc Sơn gật đầu hiểu ý, ngày mai tâu rằng công việc biên đình không thể chậm, chẳng dám ở lâu, cáo xin về trấn. Huyền Tông bằng lòng thân cởi ngự bào ban cho, Lộc Sơn khóc lóc bái lạy mà nhận, rồi làm lễ tạ ơn ra khỏi cung điện. Cũng bởi sợ Quốc Trung tâu với Huyền Tông tìm cách giữ lại, nên phải vội về ngay. Đi qua dinh Dương Quốc Trung trừng mắt mà nhìn mãi, không thèm xuống ngựa, phi như bay ra khỏi kinh sư, không kể ngày đêm. 


Từ đó, Huyền Tông càng thêm tin, thêm thân thiết. Dẫu có người đứng ra tố cáo Lộc Sơn mưu phản, thì Huyền Tông lại trói ngay người ấy giải tới Phạm Dương, cho Lộc Sơn tra khảo nghiêm trị. Vì vậy chẳng ai dám nói một lời. Lộc Sơn từ đó càng chẳng sợ gì nữa, tính toán: “Trong ba trấn đây, giữ các cửa hiểm yếu, đều là người Hán, mai kia nếu có hành động gì, nhất định ta sẽ chẳng dùng được bọn này. Chi bằng hãy dùng tướng Phiên mà thay ngay đi là hơn cả". 


Bèn dâng sớ trình rõ rằng: Các nơi hiểm yếu của biên đình, nếu không phải là tướng vừa dũng cảm vừa mưu trí, sức lực hơn người, thì không thể giữ nổi, tướng người Hán đều hèn yếu, không bằng tướng Phiên kiêu dũng, nên xin cho ba mươi mốt tướng Phiên thay các tướng Hán coi giữ biên thùy. 
Sớ dâng lên, Đông bình chương sự Vi Kiến Tố liền dâng sớ tâu: 
- Lộc Sơn từ lâu đã có ý khác, nay lại dâng sớ thế này, ý phản nghịch quá rõ. Lời tâu không thể nghe theo được. 
Huyền Tông không vui, phán rằng: 
- Lâu nay công việc ở biên trấn đều dùng quan văn, đến nỗi công việc quan đều bỏ trễ nải. Nay dùng người Phiên làm tiết độ sứ, quang cảnh quan ải một phen thay đổi, từ đó mà xem, thì làm sao lại bảo tướng Phiên không thay được tướng Hán? Lộc Sơn vì mưu tính chuyện quốc gia mà mưu chuyện phòng thủ lâu dài, có tâu trình điều gì, các khanh lại mỡ miệng nói làm phản! 


Rồi không nghe lời tâu của Vi Kiến Tố, truyền ngay chỉ rằng: 
"Y theo lời tâu của An Lộc Sơn, các nơi hiểm yếu của ba trấn, đều thay bằng tướng Phiên làm lưu thú trấn giữ, các tướng Hán giữ các nơi này đã lâu, điều về nội địa, sai phái công việc khác. " 
Từ đó, người Phiên giữ các nơi trọng địa. Lộc Sơn càng đắc thế, công việc ngoài biên trấn chẳng còn điều gì đáng nói nữa. 


Chính là: 
Đất Hán giao quyền cho tướng Phiên 
Thế là nhà Hán biến thành Phiên 
Mắc lừa Phiên, dại khờ vua Hán 
Mưu sĩ Hán thua cái miệng Phiên. 


Không biết sau này sự việc ra sao, xin xem hồi sau phân giải.
HỒI 86
Điện Trường Sinh, nửa đêm thề nguyền,
Lầu Cần Chánh, suốt sáng yến tiệc.
Từ rằng: 
Ân sâu ái sâu 
Tìm tha ý thiết 
Riêng ta với nhau 
Dưới trăng sao nhất tịch 
Thề nguyền khăng khít 
Chỉ có Ngưu Lang, Chức Nữ trên cao 
Được biết 
Biết thời bình, biết thế bình 
Quên dân, quên nước, quên mình, say mê 
Cần Cầm, Chính Chính, là gì? 
Cái tên thực, nghĩa thì trống không (1) 
Vua già, ngại việc phải chăng? 
Theo điệu "Túy thái bình" 
1 Trường Sinh điện: điện sống lâu mãi mãi. Cần Chánh lâu: Cần là siêng năng, Chánh hay Chính chỉ công việc chung, việc nước, Lâu: lầu gác, gác cao. 


Đạo Phật rất trọng sự thề nguyền, một người nào đó buông lời thề nguyền, chỉ mình mình biết, nhưng đã có quỷ thần chứng minh, kiếp này, kiếp sau tất phải làm bằng được như lời thề. Thực ra cũng còn phải xem xét lời thề đó nội dung ra sao, có hợp lý hay không, có thể thực hiện được hay không. Nhược bằng không có lý, không làm được thì lời thề đó, có cũng như không. Đại để trong việc thề nguyền, phần lớn là thề nguyền của trai gái, nào chỉ non thề biển, đều trong cảnh khác thường đêm hôm, một mình hoặc với một người biết với nhau. Trong việc này lại còn phải tính đến những lời thề đó có chính đáng nữa không, có thay đổi hay không thay đổi, còn nếu như đường đường ngôi thiên tử, sáu cung phi tần mỹ nữ không kể hết, mọi chuyện đều phải đường đường chính chính thì dùng những lời "thệ hải minh sơn", thề riêng nguyền kín ấy làm gì. Chẳng qua vì sự đam mê thái quá, chết đuối trong sắc dục, đem sự yêu thương của cả ba ngàn cung nữ dồn vào một người (1), thì quả là hưởng lạc kiếp này chưa thỏa, lại muốn kiếp sau cứ thế mà thỏa lòng dục tiếp nữa sao? Nào có biết rằng cuộc gặp gỡ ở kiếp này, chính là bởi kết quả của những đức tính kiếp trước, vốn là "túc thế tiền duyên" thôi, vậy thì kiếp này còn mơ ước viển vông gì nữa, mà vẫn đắm mê trong vòng sắc dục, chỉ một mực nghe theo lời lẽ của kẻ nữ nhân, ngày càng xa xỉ, những tưởng là phong lưu, thanh cao. Đem việc lớn của xã tắc phó mặc cho lũ tiểu nhân, thiên hạ điên đảo như trong vạc dầu sôi mà vẫn ảo tưởng là thái bình thịnh trị, vẫn "cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm", thì thật chẳng khác gì mấy con chim yến chim sẻ trên nóc nhà vậy thôi! 
1 Hồi thứ bảy mươi chín, Dương Quýnh đã nói: "Thần thấy tần phi ở các cung, có đến hơn ba vạn người!".
***
Hãy nói Huyền Tông nghe theo lời tâu của An Lộc Sơn, đem ba trấn hiểm yếu, thay tướng coi giữ toàn bằng người Phiên. Vi Kiến Tố can gián không nghe. 


Một hôm, Kiến Tố cùng Dương Quốc Trung đều có trước điện, Cao Lực Sĩ bên cạnh. Huyền Tông phán rằng: 
- Trẫm xuân thu càng cao, công việc triều chính ngày càng mỏi mệt, nay đem mọi sự phó cho tể tướng, việc biên cương thì đã có các tướng trông coi, thật cũng chẳng còn gì đáng lo nữa vậy! 
Lực Sĩ tâu: 
- Cũng mong được như lời thánh dạy, nhưng gần đây nghe Nam Chiếu làm phản, bao nhiêu lần đánh bại quân triều đình. Lại thêm các tướng biên trấn, binh quyền quá lớn, triều đình phải có cách để trói buộc, không thì sợ tai họa sẽ đến. 
Huyền Tông phán: 
- Khanh hãy khoan tâu những chuyện ấy, tể tướng sẽ có cách để phân xử. 


Vốn là dân Nam Chiếu, nay là vùng Vân Nam, dân vùng Nam này xưng vua của họ là “Chiếu". Cả vùng có sáu Chiếu, trong số đó có Mông Xá Chiếu, ở tận vùng cực nam, nên còn xưng là Nam Chiếu mạnh hơn cả, còn năm Chiếu kia, đều yếu nhỏ. Vua Nam Chiếu tên là Bì La Hạp, hối lộ bọn quan viên biên trấn, để dồn cả sáu Chiếu vào một. Triều đình nghe theo, ban hiệu là Quy Nghĩa, phong làm Vân Nam Vương. Về sau cậy mạnh thế, dấy binh phản nghịch. 


Kiến Nam tiết độ sứ là Tiên Vu Trọng, kéo binh đánh mấy lần, đều bị Quy Nghĩa đánh bại, tướng sĩ, quân lính chết nhiều không đếm hết. Dương Quốc Trung vốn là chỗ quen biết cũ của Vu Trọng, nên che giấu ngay việc bại trận, lại còn tâu rằng nhiều chiến tích, lệnh cho lưu thú Kiếm Nam là Lý Mật dẫn bảy vạn lính tiến đánh, vẫn thua to toàn quân tan nát. Quốc Trung cũng giấu kỹ, chuyển thành thắng lớn, lại điều đại binh đánh tiếp. Cho nên người chết chẳng ai lường nổi, cũng chẳng ai dám bàn luận. Nay Cao Lực Sĩ bỗng nói tới, Quốc Trung vội vàng lấp liếm: 
- Bọn Nam di bội phản, vương sư chính thảo, mọi chuyện sẽ yên ngay, bệ hạ hà tất phải lo. Riêng việc các tướng Phiên trấn uy quyền quá lớn thì quả là đúng vậy: Ví như An Lộc Sơn hùng cứ cả ba trấn lớn rộng, binh cường ngựa khỏe, rõ ràng là có ý khác, không thể không coi. 
Huyền Tông nghe xong, trầm ngâm không đáp. 
Kiến Tố lại tâu: 
- Thần có một kế, có thể làm mất hẳn những ý định đen tối của An Lộc Sơn. 
Huyền Tông hỏi: 
- Kế ra sao? 
Kiến Tố thưa: 
- Nay chi bằng thăng An Lộc Sơn làm Bình chương sứ, triệu vào cung đình rồi đưa ngay cho ba đại thẩn cai quản ba trấn Phạm Dương, Bình Lư, Hà Đông. Thế là binh quyền của Lộc Sơn mất hết, mưu gian cũng chẳng thể còn. 
Quốc Trung phụ họa: 
- Kế này hay lắm? 
Huyền Tông tuy bằng lòng, nhưng thực vẫn do dự chưa quyết. Về cung, nói rõ cho Dương Quý Phi biết. Quý Phi tuy lòng rất muốn Lộc Sơn về triều để cùng tình tự, nhưng lại sợ khó thoát khỏi mưu hại của Quốc Trung, liền tâu riêng với Huyền Tông: 
- An Lộc Sơn chưa lộ rõ mặt phản loạn, vì sao trăm quan lại vẫn đoán chắc rằng Lộc Sơn thoán nghịch đến nơi. Nay Lộc Sơn cầm quân ở biên cương chẳng có cớ rõ ràng, gọi về thì rõ ý nghi ngờ, sợ hãi, chi bằng sai sứ ra xem xét thực tình, nhược bằng đáng ngờ thì hãy triệu về, xem Lộc Sơn đối phó ra sao! 


Huyền Tông lại nghe theo lời, sai ngay nội thị Phụ Cầu Lâm, đem theo một số hoa quả thật quý, đến ban cho Lộc Sơn, ngầm xem sự thể ra sao. Cầu Lâm vâng mệnh, đến thẳng Phạm Dương. Lộc Sơn đã được tin báo từ trong cung ngay từ trước, biết rõ nguyên do có mặt của Cầu Lâm, nên bày vẽ khoản đãi Cầu Lâm rất long trọng, lại đem vàng ngọc, các đồ quý tặng để nhờ Cầu Lâm chu toàn cho. Cầu Lâm nhận hối lộ, hứa làm hết sức mình, ngày đêm trở lại triều đình, ngợi ca Lộc Sơn một lòng trung với xã tắc, không hề có chuyện hai lòng. 


Huyền Tông nghe vậy, tin ngay, triệu ngay cho Quốc Trung đến trước ngự tiền mà dụ ràng: 
- Quốc gia đãi An Lộc Sơn rất hậu, Lộc Sơn rất hết lòng vì triều đình, quyết chẳng dám phụ trẫm. Trẫm có thể đứng ra bảo cử cho Lộc Sơn. Các khanh bất tất đa nghi. 


Quốc Trung không dám cãi, chỉ ậm ừ rồi quay ra ngay. 
Từ đó, Huyền Tông càng tin biên cương yên ổn, chẳng ngó ngàng chi đến, lại nữa tuổi ngày càng cao, chỉ nghĩ đến chuyện kịp thời hưởng lạc. Suốt ngày đêm cùng phi tần, nội thị với bọn Lê Viên tử đệ, những ca cùng múa, mười phần khoái ý. 


Dương Quý Phi cùng Quắc Quốc phu nhân, Hàn Quốc phu nhân, mặc sức kiêu sa dâm dật, ở ngay Hoa Thanh cung dựng mười sáu phòng tắm thơm, cực điểm xa hoa, sắp đầy phi tần, cung nga để lúc nào cũng có thể tắm rửa. Bể tắm của nhà vua, được xây bằng đá quý Văn Giao bảo thạch, nước nóng thơm Ngọc Liên dẫn vào tận nơi, lại lấy gỗ quý khắc thành hình chim cu, chim nhạn, uyên ương, cò trắng và các loại chim nước, bọc kín bên ngoài bằng gấm thêu, cho bày nổi trên mặt nước. Mỗi lần gặp ngày ấm áp, sau khi rượu đã hơi tỉnh rồi, nước bể vừa nóng, Huyền Tông cùng Quý Phi đều mặc áo lót ngắn, cưỡi thuyền nhỏ dạo quanh bể, đến những chỗ cảnh tượng thanh tú, kín đáo, cũng là lúc đã nóng bức, liền lệnh cho cung nga đỡ Quý Phi xuống tắm. 


Mỗi lần chị em họ hàng tắm như vậy xong, nước trong bể theo ngòi mà chảy ra ngoài cung, Vòng vàng, hạt châu theo nước trôi, người đi đường có khi nhặt được. Thật không thể nói hết sự xa hoa. 



Dương Quý Phi vì đẫy đà, nên rất sợ nóng nực, mỗi khi mùa hạ tới chỉ mặc áo lụa mỏng, bắt cung nga thay nhau quạt, mà vẫn không hết mồ hôi. Nhưng lại cũng là một sự kỳ quái không hai, mồ hôi trên người Quý Phi khác hẳn của mọi người, mang màu hồng hồng lại thơm nức, thử lấy khăn mà chùi, chẳng khác gì màu hoa đào, rõ là vật quý của trời sinh ra vậy, chứ người ta thì không thể nào làm được những điều kỳ diệu này. Lại thêm có bệnh khô háo phổi, thường phải ngậm ngọc cá ở trong miệng, để lấy khí mát mà chữa bệnh phổi. Một hôm Quý Phi đau răng, không thể ngậm ngọc cá được, bèn lấy tay đỡ má đào, buồn rầu ngồi trước cửa sổ. Huyền Tông thấy thế, lại càng cho là tuyệt thế, vừa thương, vừa yêu, vỗ về: 
- Trẫm chỉ giận không thể chia nỗi đau này cùng ái khanh! 
Người đời sau có vẽ bức tranh Dương Quý Phi đau răng, Phùng Hải Túc có đề lên bức tranh này bốn câu thơ: 


Cung Thanh Hoa một cái răng đau 
Gò Mã Ngôi một cái thân đau 
Trống trận Ngư Dương vang dữ dội 
Thiên hạ đau! 


Mùa hạ năm thứ mười đời Thiên Bảo, Huyền Tông cùng Quý Phi đi tránh nắng ở Ly Sơn cung. Cung này có mật điện, tên gọi Trường Sinh điện, rất cao, rất rộng, rất mát. Đêm mùng bảy, tháng bảy năm ấy, là đêm "xin khéo" (1), tiết trời nóng nực, Huyền Tông ngồi hóng mát ở Trường Sinh điện, Quý Phi ngồi hầu bên cạnh, mãi đến hết canh hai, mới vào nội cung nằm, cung nga cũng mới được nghỉ ngơi. Quý Phi nóng bức, ngủ không yên giấc, đến kéo Huyền Tông dậy, cũng chẳng gọi cung nga theo hầu, hai người cùng ngồi mãi tới khuya. Trời vẫn còn nóng, tay phẩy quạt nhẹ, ngửa mặt nhìn trời sao, lúc này cảnh vật yên tĩnh. Ngồi một lát nữa, trời đã mát dần, Huyền Tông nói rất khẽ: 
- Đêm nay hai sao Ngưu Lang, Chức Nữ gặp nhau, không hiểu họ có mừng không? 
1 "Xin khéo” Tục "khất xảo", đêm mùng bảy, phụ nữ Hán lấy chỉ ngũ sắc, thi xâu kim bảy lỗ dưới ánh trăng. Bày hoa quả ra giữa sân, nếu có nhện giăng lên là tốt. Giữa trưa thì đặt một cái chén giữa sân, thi thả kim, làm thế nào để kim nằm trên mặt nước không chìm. (Tầm nguyên từ điển) 


Quý Phi thưa: 
- Chuyện Ô thước bắc cầu qua sông, không hiểu có thực không, nếu đúng vậy, thì sự vui sướng ở thiên đình không thể nào so với trần gian được! 
Huyền Tông cười: 
- Thật họ gặp nhau thì ít, xa nhau thì nhiều, sao cho bằng trẫm cùng ái khanh, ngày đêm vui vầy. 
Quý Phi thưa: 
- Hoan lạc ở nhân gian, thế nào mà chẳng nát tan, sao bằng như hai vì sao trên thiên đình, mãi mãi là vợ chồng. 
Nói xong bất giác thở dài. Huyền Tông cũng cảm động ngậm ngùi: 
- Trẫm cùng ái khanh yêu thương đến chừng ấy, sao nỡ xa cách. Đêm nay dưới trăng sao, trẫm cùng khanh hãy riêng cùng thề nguyền, hết kiếp này sang kiếp khác, mãi mãi là vợ chồng! 
Quý Phi nghe Huyền Tông nói thế, gật đầu mà thưa: 
- Quý Phi này cũng xin thề như vậy, có Chức Nữ, Ngưu Lang làm chứng? 
Huyền Tông thấy Quý Phi thề, mừng lắm. 
Về sau, Bạch Cư Dị, trong bài "Trường hận ca" cũng có nói tới việc này: 


Là đêm trùng thất nguyền chung 
Trường sinh sẳn điện vắng không bóng người 
Xin kết nguyện chim trời liền cánh 
Xin làm cây cành nhánh liền nhau. (1) 
1 Bản dịch của Tản Đà, Thơ Đường II. Bạch Cư Dị: 772-846 người Thiểm Tây, đỗ tiến sĩ làm đến Thượng thư bộ Hình. Có công đề xướng phong trào thơ hiện thực đời Đường, bản thân thơ ông cũng có tính hiện thực cao. Là một trong ba nhà thơ lớn thời Đường. Nổi tiếng nhất là bài "Trường hận ca" này và bài “Tỳ bà hành". (Thơ Đường I). 


Cũng sau này, có người làm thơ châm biếm Huyền Tông, say đắm riêng tây, mơ ước hão huyền: 


Hoàng hậu khi không bị biếm oan 
Vợ chồng đạo nghĩa kiếp này tan 
Quý Phi riêng được thề khăng khít 
Kiếp nối kiếp ân ái chứa chan! 
Lại còn có cả thơ cười Dương Quý Phi: 
Thề riêng để hận muôn đời 
Điện Trường Sinh luống thẹn lời Ngưu Lang 
Duyên Huyền Tông chẳng bẽ bàng 
Nợ Lộc Sơn hỏi là vàng hay thau? 


Huyền Tông ngày càng say đắm Quý Phi. Tháng chín, mùa thu năm ấy, cam cùng quýt ở cung Bồng Lai rất sai quả, các giống cây quý này đều do vùng Giang Lăng tiến cống từ năm Khai Nguyên, vốn vị rất ngọt, mùi thơm. Huyền Tông sai đem mấy gốc trồng ở cung Bồng Lai, nhưng từ bấy đến nay chỉ nở hoa mà không bao giờ kết quả, có năm ngay cả hoa cũng chẳng thấy. Năm nay, không hiểu sao đậu tới hơn hai trăm quả, so với cam quýt vùng Giang Lăng, Thục xuyên chẳng kém gì. Huyền Tông mừng lắm, tự thân ra xem, lệnh hái xuống đem ban cho các quan. Dương Quốc Trung dẫn các quan, dâng biểu, phủ phục ở thềm vàng chúc mừng, tờ biểu đại lược như sau: 


"Muôn tâu 
Trộm nghĩ: 
Ơn trời chăm bón thì muôn vật không thay đổi tinh thường, vật nào xưa nay chưa từng có thì phải xem đó là vật phi thường báo trước điềm lành, phúc lớn vậy 
Cam quýt thật là nhiều loại 
Bắc Nam tên gọi khác nhau 
Bởi bệ hạ vòi vọi đức cao, sáu cõi gom về một mối 
Nên mưa móc thu về, khắp vùng trời chói lọi 
Cỏ cây xúm lại, hưởng khí đất tràn trề 
Cây quý từ miền Nam đất thánh 
Quả lành sinh ở giữa cung thần 
Cuống biếc sáng ngời 
Thơm tràn điện gấm 
Võ vàng lấp lánh 
Sắc ửng sân hoa 
Chúng thần nay: 
Ơn trên ban cấp 
Thẹn chẳng công lao 
Vui mừng chiêm ngưỡng bệ cao 
Run sợ kính dâng lời mọn 
Cẩn tấu!” 


Huyền Tông xem xong, vừa lòng lắm, ban lời ngợi khen. 


Trong số những quả này, có hai quả dính nhau, người đời thường gọi là quả "Hợp hoan", nghĩa là cùng xum vầy, vui vẻ. Tả hữu mới dâng lên, Huyền Tông lại càng thích ý, cùng Quý Phi ngắm nghía mãi, Huyền Tông còn phán: 
- Hai quả này thực là khéo biết chìu người, Trẫm với ái khanh cũng chẳng khác gì một thân hình, hệt như hai quả "Hợp hoan" này vậy Khanh hãy ăn cùng trẫm, để ứng với điềm lành này. 
Liền kéo Quý Phi cùng ngồi, bóc quýt ra, rồi mớm cho nhau. Sai thợ vẽ ngay một bức tranh "Hợp hoan cam quất đồ” để truyền cho đời sau, Quốc Trung lại dâng lời tán tụng, xin cho mở yến tiệc cho trăm quan, bách tính cùng được vui mừng bởi điềm lành của buổi thái bình: 
Chính là: 


Đời hoàng đế, có thiên khuất dật (1) 
Trỏ lũ gian vạch mặt tỏ tường 
Báu gì cam quýt nhà Đường 
Khua môi múa mép toàn phường bất nhân. 


Huyền Tông nghe theo những lời nịnh hót của Quốc Trung, liền giáng chỉ ban yến tiệc cho dân chúng. Chọn ngày lành, kéo phi tần cùng các vương ra Cần Chánh lâu, đủ đội Lê Viên ca múa, tấu nhạc, bày hàng trăm trò, tùy ý vui chơi cùng với trăm họ. 
Nhà nhà trong kinh thành, già trẻ trai gái, kéo đến trước lầu, muôn phần náo nhiệt. Trong bọn Lê Viên, có một người đàn bà, tên gọi Vương Đại Nương, có tài múa sào. Với một sào trúc dài tới một trượng tám thước, đội ngay trên trán một đầu sào trúc dựng đứng, đầu kia đặt một tòa núi đẽo bằng gỗ, theo dáng đảo Doanh Châu Phương Trượng (2). Lại có một đứa trẻ, ôm lấy sào trúc mà trèo lên, trèo vào động trong đảo Doanh Châu bằng gỗ đó, miệng hát véo von. Vương Đại Nương đội cây trúc trên trán như thế, vẫn múa rất thoải mái theo đúng như điệu hát của đứa trẻ trên cao. 
1 Cỏ khuất dật: Theo truyền thuyết, loài cỏ này chỉ đúng mặt lũ gian nịnh trong triều, có ở thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, thuộc cổ đại Trung Quốc (Bác vật chí...) 
2 Doanh Châu: Biển Bột Hải, tương truyền có ba đảo có tiên ở: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. (Tầm nguyên tử điển).
 


Huyền Tông cùng phi tần, các vương đều không ngớt khen ngợi. Lúc này lại có thần đồng Lưu Yến, mới chín tuổi, thông minh hơn người, nhân triều tiến cử, đã được làm Bí thư tỉnh chính tự, hôm ấy cũng được Huyền Tông triệu đến hầu yến, liền lệnh cho Lưu Yến làm thơ vịnh Vương Đại Nương biểu diễn. Lưu Yến làm ngay bài tứ tuyệt như sau: 


Tài giỏi trăm trò diễn trước sân 
Múa sào tài nghệ thật như thần 
Dẫu nhờ gấm vóc thêm màu sắc 
Chính bởi lòng người nặng nhẹ cân. 


Mọi người thấy Lưu Yến mẫn tiệp, lời thơ bao hàm cả ý hài hước, nên càng tán thưởng. Dương Quý Phi ôm Lưu Yến cho ngồi trên lòng, âu yếm chải tóc cho. Chải xong, Huyền Tông gọi đến bên, thân cầm tay mà hỏi đùa rằng: 
- Khanh tuổi còn nhỏ, quan tới chức chính tự, vậy có biết bao nhiêu chữ "chính" cả thảy. 
Lưu Yến tâu ngay: 
- Các chữ đều "chính" cả, chỉ có mỗi chữ "bằng" là xiên mà thôi! 
Câu trả lời này lại còn hàm ý chỉ ở triều đình lúc này chia bè kéo cánh, chẳng còn ra thể thống gì nữa, hệt như hình dáng khác thường của chử "bằng", không đứng thẳng nghiêm chỉnh như các chữ khác. Huyền Tông nghe xong, ngợi khen không ngớt, quay nhìn xung quanh mà phán: 
- Thằng bé này không những thông minh, mà còn hiểu biết khác thường. Mai kia làm việc quan nhất định sẽ tha hồ rạng rỡ. 
Mọi người đều dâng lời mừng triều đình được người tài phù trợ. Huyền Tông bằng lòng lắm, truyền đem hốt ngà, cẩm bào ban cho, rồi phán tiếp: 
- Trẫm nghĩ mai kia khanh sẽ làm nên, chẳng bao giờ chịu đứng nép bóng kẻ khác. 
Người đời sau có thơ khen Lưu Yến: 


Đồng đạo đồng tâm xứng đáng thay 
Chính là rành rọt, hẳn nên tài 
Chữ “bằng" phải viết cho ngay ngắn 
Vua có ngay thì tôi mới ngay. 


Hôm ấy yến mãi tới tối mịt, trên lầu đèn treo lên, xanh đỏ lóa mắt. Huyền Tông đang ngắm nghía, thấy ở dưới lầu huyên náo, tiếng cười đùa gọi nhau chí chóe, thật khác hẳn ngày thường. Huyền Tông hỏi nguyên do, nội thị tâu rằng trăm họ đang xem đèn dưới lầu, chen chúc nhau, hò hét để dẹp vẫn không được. 
Huyền Tông phán: 
- Phải lệnh các quan, cùng thị vệ ra uy dẹp cho yên. Nếu vẫn không xong, bắt ngay vài tên mà nghiêm trị làm gương cho tất cả. 
Lưu Yến vội tâu: 
- Dân chúng tụ tập đông, không thể coi thường mà trừng trị được. Huống chi hôm nay bệ hạ cùng trăm họ vui chơi, đã lệnh cho dân chúng như vậy, sao lại nỡ trị tội. Cứ như ý của thần, chi bằng sai Lê Viên tử đệ, ra trước lầu biểu diễn tài nghệ, truyền dụ trăm họ yên lặng, không được lớn tiếng. Dân chúng vì được nghe những thứ chưa nghe bao giờ, lập tức sẽ yên lặng ngay. 
Huyền Tông gật đầu: 
- Đúng lắm thay! 
Nội thị nói thánh ý cho dân chúng rõ. Lê Viên tử đệ, người người áo mũ lấp lánh, đem các loại nhạc khí, ra ngay trước lầu, xếp hàng nghiêm chỉnh, dưới ánh đèn. Dân chúng quây lại xem, tiếng cười đùa tuy chưa tắt ngay, nhưng đã khác trước. Cao Lực Sĩ thưa: 
- Trong số nhạc công, duy chỉ sáo Khương của Lý Mô là nổi tiếng hơn cả, trăm họ thích nghe nhất, nay hãy nói rõ, dưới lầu sẽ yên ngay. 
Huyền Tông nghe theo, truyền Lý Mô hãy một mình thổi sáo. Lý Mô vâng lệnh, ra ngay trước lầu, lên tiếng dõng dạc: 
- Ta là Lý Mô, vâng thánh chỉ, xin ra thổi sáo Khương để ai nấy nghe. Các người nếu quả biết thưởng thức, xin hãy im lặng. 
Nói rồi nâng ngay sáo làm bằng loại trúc Tử Vân ở Vân Mộng lên, tiếng nghe réo rắt trong trẻo, như thấu đến chín tầng trời cao, hạc múa phượng vũ. Dưới lầu hàng nghìn hàng vạn người, đều lặng như tờ, nghiêng tai lắng nghe, không một tiếng động nhỏ. Huyền Tông càng khoan khoái. 
Chính là: 


Đừng bảo ồn ào khôn cấm chỉ 
Một lời lặng ngắt cả muôn lời. 


Vì sao tiếng sáo Lý Mô huyền diệu đến thế? Cũng bởi Huyền Tông rất hiểu âm nhạc. Từ các loại đàn dây, cho đến nhạc hơi đều rất thành thạo. Có khi còn tự chế ra các khúc điệu, tùy trong đục, thấp cao mà thay đổi. Trong các loại nhạc cụ đó, lại thường không thích các thứ đàn dây, cứ mỗi lần nghe tiếng đàn, liền bắt cử ngay loại nhạc khác để rửa tai, thường gọi là "tẩy uế". Thích nhất là nghe trống của tộc Yết Thất, cùng tiếng sáo của tộc Khương, cho hai thứ này là đứng đầu trong bát âm, vì vậy bọn nhạc công đều giỏi hai loại này. Mỗi lần có yến tiệc trong nội cung, Huyền Tông thường tự mình đánh trống, hoặc thổi sáo ngọc hòa theo. Dương Quý Phi cũng rất giỏi thổi sáo! 


Đầu năm thời Thiên Bảo, gặp thượng tuần tháng hai, sáng ra, rửa mặt chải tóc xong, trời mới mưa xong, cảnh sắc trong sáng, tươi mắt, sân điện nội cung, liễu hạnh vừa môi nhú mầm xanh, Huyền Tông thư thái nhìn bốn phía, thong thả phán: 
- Cảnh vật như thế này, chẳng thể ngồi yên cho được! 
Liền lệnh Dương Quý Phi thổi sáo ngọc, rồi bước ra ngoài hiên, gõ một hồi trống Yết Thất, theo điệu "Xuân qua hảo", cũng là điệu do Huyền Tông tự đặt ra vậy. Tiếng trống vừa dứt, nhìn ra trước sân, lá liễu cành hạnh như vươn dài thêm, mặt rồng hớn hở, cười chỉ cho phi tần trông thấy mà phán: 
- Chỉ riêng việc này, trẫm cũng đáng là bậc sáng tạo rồi còn gì! 
Mọi người đều quỳ xuống tung hô: 
- Vạn tuế! 
Lại một hôm, Huyền Tông ngủ ngày ở Ngọc Thanh cung, bỗng thấy mấy tiên nữ, từ từng không bay xuống, dung mạo cực kỳ xinh đẹp tay đều cầm nhạc cụ, đến trước Huyền Tông vừa múa vừa cử nhạc. Tiếng nhạc nghe rất khác thường, trong đó, nổi rõ tiếng sáo Khương lại tuyệt diệu hơn cả. Tiên nữ thưa: 
- Đây chính là những điệu nhạc thần tiên, tên gọi "Tử Vân hồi". Bệ hạ rất hiểu âm nhạc, xin hãy nhớ cho kỹ. 
Huyền Tông tỉnh mộng, tiếng nhạc nghe như còn bên tai, liền lấy ngay sáo ngọc ra tập, nhớ rất kỹ từng tiết tấu. Sau hai ba ngày, nhân đêm trăng sáng, Huyền Tông cùng Cao Lực Sĩ thay đổi y phục, ra khỏi cung vi hành tìm thú vui. 


Đi qua mấy phố, lại quay về cầu lớn ngay cạnh tường cung điện đứng ngắm trăng, bỗng nghe xa xa tiếng sáo vẳng véo von, nghe kỹ ra, thì chính là điệu "Tử Vân hồi". Huyền Tông kinh ngạc mà rằng: 
- Đây chính là điệu nhạc trẫm được truyền trong mộng, rồi tự mình tập luyện thành thục mấy hôm này, chưa hề dạy cho kẻ khác, làm sao ở bên ngoài cũng đã có người biết được? 
Lệnh ngay Cao Lực Sĩ: 
- Ngày mai phải tra cho ra kẻ thổi sáo. Nhưng không được làm y kinh hãi, rồi dẫn vào gặp trẫm. 
Lực Sĩ vâng mệnh, sáng ngày mai đem theo tay chân, tìm đến chỗ thổi sáo tối qua, gõ cửa từng nhà mà hỏi, có người mách: 
- Ở đây có thiếu niên họ Lý, thổi sáo rất giỏi, nếu thổi sáo đêm qua thì đúng là người này rồi! 
Lực Sĩ sai dẫn đến nhà họ Lý, lấy lệnh thiên tử, triệu vào cung gặp Huyền Tông. Vua hỏi: 
- Điệu sáo thổi đêm qua, học được ở đâu? 
Thiếu niên thưa: 
- Thần họ Lý, tên Mô, từ nhỏ đã rất thích thổi sáo, vì vậy cũng biết được ít nhiều. Mấy đêm trước, tình cờ đi dạo trên cầu gần cung điện, nghe trong cung vẳng ra tiếng sáo, lắng kỹ ra, âm điệu rất khác thường, thật ra chưa hề thấy ở cõi người, nên cố nhớ kỹ, lại thầm nhớ bằng đốt ngón tay, về nhà lập tức theo điệu mà thổi thử, càng thấy kỳ lạ. Đêm qua lại tự luyện, không ngờ đến tai thánh chúa. Tội thần thật đáng chết, xin bệ hạ tha cho! 
Huyền Tông khen có tài âm nhạc, lệnh cho cai quản đội Lê Viên tử đệ, vẫn thường được hầu hạ bên mình. Đó chính là việc mà bài "Liên xương cung từ" đã nói tới: 


Cách tường tiếng sáo Lý Mô 
Nhập thần khúc mới điệu sao tài tình! 


Từ đó Lý Mô được học hết những điệu nhạc nội cung, tài nghệ càng tinh diệu. Đêm ấy biểu diễn trước lầu Cần Chánh, vạn dân đều nghe, thiên tử càng đẹp dạ. Tiếng sáo vừa tắt, các nhạc cụ khác hòa theo, thật là rộn ràng, dân chúng dưới lầu đều nghiêm chỉnh đứng xem, tai nghiêng lắng kỹ từng khắc, không chút ồn ào, Huyền Tông cùng vui vẻ, mãi tới chuông báo sáng gióng giả mới quay về nội cung. 


Chính là: 
Câu ca tiếng nhạc bên lầu 
Cần chẳng phải, chính ở đâu chẳng cần! 
Không biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

HỒI 87
Chim anh vũ tụng kinh thành phật,
An Lộc Sơn quên chúa hại dân.
Từ rằng: 
Sống chết mệnh trời chẳng thoát đâu 
Kìa như cầm thú dại khôn đều 
Từ bi Phật tổ thần thông độ 
Thoát kiếp đi về thanh thản sao! 
Con nuôi một đứa tin yêu 
Trở thành phản ngịch, trăm điều tàn hung 
Xưa khoe son sắc một lòng 
Nục cười thay, hóa bất lương vô nghì. 
Theo điệu: "Triều trung thố “ 


Bậc thánh nhân nói: "Sống chết có mệnh, phú quý bởi trời". Điều này không phải chỉ dùng với con người ta, mà ngay cả những vật nhỏ cũng thế cả. Cái chết sắp tới, ai cũng thường thấy như có điều báo trước, cứ từ đó mà suy ra, tất cả chúng sinh, phàm đã là vật biết nghĩ, có tình, lúc sắp qua đời, đều như biết trước. Ta nhìn ngoài tuy có lúc không thấy, nhưng kẻ trong cuộc thì nhận ra rõ ràng, chỉ nói hoặc không nói ra được thôi. Đại để sinh tử đến kỳ, khó mà tránh khỏi mệnh số vậy, hãy coi như sống là gửi, thác là về, mà thuận theo lẽ tự nhiên, hướng về điều thiện, việc phúc để vun đắp chữ quả cho kiếp sau. 


Cho đến chữ phú quý, thì con người ta ai mà chẳng mong muốn như nhau, nhưng đó lại là điều sức người không thể tranh đoạt. Đừng nói chuyện giàu lớn, cao sang, đã là do trời định đoạt, ngay cả sự vinh nhục nhỏ của một người, sự được mất của một đồng kẽm, cũng không thoát khỏi ý riêng của trời, trời chính là sự biểu hiện của lẽ phái vậy! (1) Đáng cười thay là lũ người không có lý đó, làm chuyện phi lý, nghĩ điều phi lý, để mong có sự phú quý phi lý, không nghĩ rằng bây giờ được hưởng phú quý không phải của phận mình, mà vẫn là những điều trái ý trời, dối vua, vô đạo, mặc sức tác oai tác quái, thật đúng là đang chuốc tội với trời vậy, tai họa không nhỏ đâu! 
1 Nguyên văn: "Thiên giả lý nhi dĩ hỹ".
***
Tiếp chuyện Huyền Tông ngự ở lầu Cần Chánh, ban yến tiệc cho dân chúng, suốt đêm đàn hát, tự cho rằng thiên hạ thái bình, điềm lành vô sự, phó mặc cho Dương Quốc Trung thao túng triều đình, gặp việc thì lừa vua, thâu tóm quyền hành mặc sức ăn bẩn, để cho bọn tiểu nhân tham tiền ham tước vây tới dinh, chẳng khác gì vào chợ. 


Trong số quan lại, chỉ riêng Trương Thoán, đậu tiến sĩ, người vùng Thiểm Tây, đang ở Trường An để chờ bổ dụng, thấy quang cảnh như thế, thì thở dài mà than rằng: 
- Bọn này dựa vào Dương Quốc Trung coi như Thái Sơn. Nhưng cứ như mắt ta, thì xem Quốc Trung chẳng khác gì núi băng vậy, mặt trời mà xuất hiện, thì bọn này lập tức mất chỗ dựa ngay. Ta nên vén áo mà tránh cho xa, kẻo rồi sóng nước lại đập ướt người vậy, chứ không thể nào cùng làm việc với bọn này được! 


Bèn tuyệt hẳn ý ra làm quan với đời, rời khỏi kinh đô về ẩn cư ở Trung Sơn. 


Những kẻ có kiến thức, đều biết thiên hạ sắp loạn đến nơi. Huyền Tông vẫn tự huyễn hoặc là thái bình để không phải lo lắng, suốt ngày ở trong cung tìm mọi cách hưởng lạc. Dương Quý Phi ngày càng kiêu sa, bọn tay chân hầu hạ Quý Phi ở hậu cung thêu thùa trang điểm có đến hàng mấy trăm người, lo chuyện phục dịch ngày thường, ngày lễ tiết. Huyền Tông lại còn sai trung sứ, đi khắp các nơi, chạy cho kỳ ra các loại đồ chơi, y phục lạ kỳ để đem về tận kinh hiến Quý Phi. Huyền Tông mỗi lần ngự du các nơi, cùng Quý Phi ngồi chung một xe rồng. Nhưng Quý Phi thường không thích đi xe mà lại đòi cưỡi ngựa. Nên quan giám mã vẫn phải lo chọn ngựa quý, luyện cho thật thuần, sẵn sàng khi Quý Phi dùng đến. Mỗi khi Quý Phi lên ngựa, cung nga xúm lại đỡ tận yên. Cao Lực Sĩ bên cạnh, tay nắm dây cương tay cầm roi, cung nga theo hầu xung quanh hàng mấy chục người, tiền hô hậu ủng. Quý Phi nai nịt gọn gàng, áo ngắn khăn mỏng, cầm roi ngựa yểu điệu, từng bước thong thả, vẻ đẹp càng thướt tha. 




Huyền Tông cũng cưỡi ngựa, lúc đi trước khi theo sau, giơ roi tiến thoái, lấy thế làm khoái ý. Quý Phi cười thưa: 
- Thiếp bỏ xe đi ngựa, lại mới tập lên yên, sao cho bằng bệ hạ hàng ngày thường săn bắn, yên cương là việc luôn luôn. Nên chỉ xin bệ hạ hãy dìu dắt thêm cho. 
Huyền Tông đùa: 
- Tính đến chuyện cưỡi ngựa, trẫm hẳn hơn ái khanh, ngay cả việc phong lưu thượng mã khi ra trận tiền, khanh cũng phải nhường trẫm vậy! 
Quý Phi cũng cười: 
- Thế mới gọi là "lão đương ích tráng" vậy! (l) 
1 "Lão đương ích tráng": càng già thì lại càng khỏe mạnh, cường tráng. 


Nói xong, hai người nhìn nhau, cười mãi không thôi. Người đời sau có thơ: 


Quắc Quốc chầu vua cưỡi ngựa tài 
Chỉ cần tô nhạt nét mày ngài 
Nghênh ngang Phi tử trên tuấn mã 
Hãy tập mà đi đến Mã Ngôi. 


Từ đó mỗi lần trong cung có yến tiệc, thường diễn "Phong lưu trận" để mua vui. Huyền Tông cùng Quý Phi rượu đã ngà ngà say, Quý Phi dẫn khoảng hơn một trăm cung nga, Huyền Tông cũng cầm đầu khoảng hơn trăm tiểu nội thị, ra ngay trước sân, mỗi bên bày thành thế trận, lấy trướng gấm trương lên làm bàn cờ, nổi thanh la, đánh trống nhỏ, hai phía đều cấm gậy trúc hoa, côn ngắn có vẽ hình, cười đùa la hét, xông vào nhau mà múa tít. Cung nga thắng, bọn tiểu nội mỗi người phải uống một bát rượu lớn. Huyền Tông phải uống trước tiên. Phía tiểu nội thị thắng, cung nga phải nhất tề hát múa, Dương Quý Phi phải gảy đàn tỳ bà họa theo. 


Kiểu chơi như thế, gọi là "phong lưu trận". Người thời bấy giờ, cho những trò đùa này chính là điềm xảy ra giặc giã sau này, vốn là việc không lành vậy. Nên có thơ rằng. 


Cung nga lại tập làm lính chiến 
Đủ ngựa gươm diễn "Trận phong lưu " 
Ngư Dương trống nổi dập dìu 
Mới hay giả giả, ra điều chân chân. 


"Trận phong lưu" hôm ấy, cung nữ thắng tiểu nội thị. Dương Quý Phi cứ theo lệ bày ra hai đấu rượu lớn, rồi rót ngay một chén vàng dâng lên. Huyền Tông cầm lấy ban cho Quý Phi: 
- Ái khanh cũng nên uống một chén! 
Quý Phi thưa: 
- Thiếp vốn không phải uống, nhưng ơn bệ hạ thưởng cho, nên xin đem chén rượu này làm hình phạt để thiếp với bệ hạ cùng gieo xúc xắc bệ hạ mà được, thiếp xin uống ngay. 
Huyền Tông cười mà nghe theo. Cao Lực Sĩ đem bát xúc xắc dâng lên. Huyền Tông cùng Quý Phi mỗi người gieo hai lần mà vẫn không phân thắng bại. Đến lần thứ ba, Quý Phi điểm cao, Huyền Tông giờ muốn thắng, phải gieo được hai con tứ, nên vừa gieo, vừa lẩm nhẩm: 
- Hai con tứ này! 
Chỉ thấy hai con xúc xắc quay tít một hồi lâu, rồi hiện ra cả hai mặt tứ. Huyền Tông hớn hở cười vang, phán: 
- Trẫm đã nói là được ngay mà, khanh hãy uống ngay chén rượu này đi! 
Quý Phi nâng chén tâu: 
- Phúc lớn của bệ hạ như trời, thiếp đã chịu thua rồi, đành phải uống vậy thôi? 
Huyền Tông nói: 
- Trẫm được ván xúc xắc, ái khanh được chén rượu. Phúc lớn cùng hưởng vậy! 
Quý Phi bái tạ mà uống, tung hô: 
- Vạn tuế! 
Huyền Tông quay lại nói với Cao Lực Sĩ: 
- Hai con tứ này biết làm vừa lòng ta, hãy ban ơn trang sức thêm cho nó! 
Lực Sĩ vâng mệnh, ngửa hai mặt tứ của hai con xúc sắc, lấy son đỏ thoa lên. Vì thế về sau mặt tứ của xúc sắc đều có màu đỏ vậy. 
Chính là: 
Con xúc sắc vua ban chấm đỏ 
Nghĩa vuông tròn chẳng bỏ xương khô 
Tâm son gửi gắm từ giờ 
Ơn vua ghi nhớ nghìn thu không nhòa. (1) 
1 Con xúc xắc, ta còn gọi là con "thò lò sáu mặt", gọt bằng xương. Ý nói vua không quên công trạng của kẻ phơi xương vì nước. Cách gieo, cách tính điểm mỗi thời mỗi nơi một khác. Ở đây, gieo kiểu hai con cùng một lúc. Ở Việt Nam, ngoài mặt tứ được bôi đỏ, mặt nhất cũng được bôi đỏ là hai, chưa rõ lý do. 


Hôm ấy vì Huyền Tông thắng cuộc, trong lòng rất khoan khoái, cùng Quý Phi uống đến mấy chén nên chuếnh choáng, giở xúc xắc ra đánh tiếp, tay cầm run run, rơi mất một con xuống nền, họ Cao cúi xuống nhặt. Huyền Tông thấy thế, liền lấy ngay cái bát, đặt trên lưng họ Cao, kéo Quý Phi cùng ngồi phệt xuống nền, cứ thế mà gieo xúc xắc trên lưng họ Cao. Hết người này lại đến ngươi kia, lúc xướng “lục" khi la "tứ" không lúc nào yên. Họ Cao hai chân quỳ xuống đất, hai tay cũng chống đất, không dám động dậy một chút nào, nhưng may cũng còn khỏe mạnh. Bỗng thấy có tiếng ríu rít trên nóc điện, tiếp đó là tiếng người cất lên: 
- Thánh thượng cùng nương nương chỉ cốt xem "tứ" hay "lục" nhưng phải cho Cao Lực Sĩ đứng dậy cho thẳng lưng chứ? 


Ba chữ "cho thẳng lưng” vốn là "trực trực yêu", phát âm cũng gần giống "trịch trịch yêu", là gieo xúc sắc. Huyền Tông cùng Quý Phi nghe thấy thế, cả hai đều cười rũ rượi, truyền nội thị dọn các thứ, kéo họ Cao đứng dậy. Họ Cao lạy tạ lui ra. Huyền Tông cùng Quý Phi vào phòng ngủ. 


Những lời nói vừa rồi ở trên nóc điện vốn là lời của chim anh vũ trắng. Thuở An Lộc Sơn vừa vào triều đình, dâng lên Quý Phi nuôi ở nội cung, tính rất thuần, nên không phải nhốt gì cả, cứ đúng theo lời người mà bay hay đậu, thường chẳng bao giờ rời Quý Phi, nói tiếng người rất giỏi, lại hiểu ý người, thông tuệ khác thường. Quý Phi coi như bảo vật, đặt tên là "Tuyết Y nữ", người con gái cớ bộ y phục trắng như tuyết. 
Một hôm, Tuyết Y bay đến đậu ngay ở bàn trang điểm của Quý Phi mà rằng: 
- Tuyết Y này tối qua thấy một giấc mơ không lành, bị chim ác bắt được. Chỉ sợ số mệnh có hạn không còn được hầu hạ bên nương nương nữa. 

Nói xong có vẻ buồn rầu không vui. Quý Phi an ủi: 
- Mộng triệu không thể tin được, chẳng cần phải lo lắng. Tuyết Y nếu không yên lòng, nên tụng kinh Phật luôn luôn, tự nhiên điều phúc sẽ đến, tai họa sẽ tiêu. 
Anh Vũ thưa: 
- Thế thì hay lắm, xin nương nương hãy dạy cho ít nhiều. 
Quý Phi liền sai thị nữ đốt lò trầm hương, tự mình giở Bát Nhã Tâm kinh viết tay, hàng ngày vẫn tụng niệm ra, chắp hai tay, đọc vài lượt. Anh vũ đậu bên lẩm nhẩm đọc theo, rồi tự mình đọc thuộc rõ ràng, một chữ cũng không sai. Quý Phi thích lắm, từ đó về sau, Tuyết Y tùy lúc tùy nơi mà đọc Bát Nhã Tâm kinh, hoặc đọc thành lời réo rắt, hoặc nhắm mắt mà nhẩm, cứ như thế hai ba tháng trôi qua. 


Một hôm, Huyền Tông cùng Quý Phi dạo chơi ở vườn sau, Huyền Tông giương cung bắn con chim khách. Còn Quý Phi thì đứng trên Vọng Viễn lầu mà nhìn, anh vũ cũng bay đến, đậu ngay ở thanh ngang của cửa sổ lầu. Bỗng một viên nội thị chuyên việc nuôi chim săn của nhà vua, thả một con chim cắt xanh, bay vút từ dưới lầu lên, thấy anh vũ, tức thì bay xẹt ngang qua cửa sổ, cứ thế mà chộp ngay lấy. Anh Vũ kinh hoàng, hoảng loạn la: 
- Thôi nguy rồi! 
Rồi vội bay ngay vào trong lầu, may có một thị nữ cầm chổi lông, tiện tay đánh thật mạnh, trúng ngay vào mắt, chim cắt vội quay đầu xuống lầu. Quý Phi vội quay lại xem anh vũ, thì thấy nằm không động đậy trên sàn gác, mãi một hồi lâu sau mới tỉnh lại. Quý Phi vỗ về: 
- Tuyết Y! Tuyết Y! Không có điều gì phải sợ nữa đâu! 
Anh Vũ thưa: 
- Ác mộng đã thành sự thực, lòng này hoảng sợ đến tan nát mất cả rồi, liệu khó mà sống nổi, nhưng còn may mắn chưa bị ăn thịt. Quả là việc tụng kinh cũng có phúc phận thật? 


Rồi nhắm hai mắt, không ăn, cũng không nói, chỉ thấy cổ họng động đậy như thầm đọc kinh vậy. Quý Phi suốt ngày chăm nom. Ba ngày sau, anh vũ bỗng mở mắt nói với Quý Phi: 
- Tuyết Y này toàn nhờ vào việc tụng kinh mà may được thoát kiếp cầm thú, được về nước Phật. Xin nương nương hãy giữ mình? 
Nói xong hót thêm mấy tiếng dài, quay đầu về phương tây, nhắm mắt xếp cánh, nằm ngay ngắn mà chết.
Chính là: 


Người cùng vật đều mang tính phật 
Tính người tốt, tính vật sáng thay 
Vẹt kia mới rõ gian ngay 
Ngẫm ra người lại chẳng tày chim muông. 


Tuyết Y chết rồi, Quý Phi mười phần thương xót, lệnh cho nội giám liệm trong một cái hộp bạc, táng ở vườn sau, gọi là "Mồ Anh vũ" Lại tự thân đọc cho một trăm lần Bát Nhã Tâm kinh, để chuốc phúc ở cõi âm. Huyền Tông nghe chuyện, cũng không ngớt phàn nàn, lệnh cho số chim anh vũ nói được nuôi ở trong cung, tất cả được mười con, đem đến rồi hỏi rằng: 
- Loài chim các ngươi, có nhớ nơi quê cũ không? Nay trẫm mở lồng, thả các ngươi về nhé? 
Cả bầy chim đều nhất loạt hô: 
- Vạn tuế! 
Huyền Tông sai nội thị đem các lồng chim vào tận trong núi Quảng Nam. Chuyện không nói nữa.
***
Lại kể Quý Phi nhớ Tuyết Y ngày ngày than thở, long lanh lệ ngọc, trông lại càng kiều diễm. Vì vậy lũ thị nữ trong cung, cũng muốn bắt chước, trang điểm xong xuôi, điểm thêm hai nốt phấn trong ở bên má, gọi là nước mắt giả, "Lệ trang", để rồi tự an ủi rằng mình cũng đẹp lắm. Kẻ hiểu biết thì sớm thấy ngay chính là điềm không hay gì. 
Có thơ rằng: 


Không nước mắt bôi hàng lệ giả 
Dẫu a dua thật quả bất tường 
Mã Ngôi mưa gió phũ phàng 
Phấn son xưa cũ điểm trang kiểu gì? 


Ngày thường Quý Phi yêu quý Tuyết Y phần bởi chim anh vũ quả đáng yêu, đáng quý, nhưng phần cũng bởi do An Lộc Sơn dâng lên, yêu người nên yêu chim. Nỗi bi thương cũng một phần cảm vật nhớ người mà ra. 


Về phía Lộc Sơn ở ngoài Phạm Dương, cũng thường nhớ tới Quý Phi cùng Quắc Quốc phu nhân, nhưng vẫn ngại Dương Quốc Trung ghen ghét, nên không dám nối dây tình xưa. Lộc Sơn nghĩ nếu không cướp được ngôi vua, đoạt được xã tắc, thì khó mà đoàn tụ, vì vậy ngày đêm lo chuyện cất binh làm phản, chỉ vì nghĩ đến Huyền Tông đối với mình ơn rất sâu nặng, nên định nén lòng chờ bao giờ Huyền Tông qua đời sẽ khởi loạn. Lại thêm Dương Quốc Trung thường vẫn kiếm mọi cớ để hạch sách Lộc Sơn, thầm ý những muốn Lộc Sơn phải làm phản, để chứng tỏ với triều đình là mình nói đúng. Cũng vì thế mà Lộc Sơn càng ngày càng rõ ý không tuân thủ triều đình, viết một đạo sớ xin dâng ngựa tốt về kinh đô, sớ này đại để như sau: 


"Muôn tâu: 
Bề tôi hèn mọn là An Lộc Sơn, ở miền biên giới, sản nhiều loại ngựa hay, chọn được hơn ba ngàn con, thành tâm hiến lên triều đình. Dẫu vậy, so với Vương Mao Trọng ngày xưa nuôi ngựa quý, hạ thần hãy còn kém xa. Những ngựa này đưa vào tàu ngựa hoàng gia, nếu chúa thượng đi tuần thú các nơi, cũng thêm phần tráng quan, uy vũ vậy. Cứ mỗi ngựa cần hai tên lính coi yên cương, nên xin sai hai mươi tư tên Phiên tướng hộ tống nữa, mong chọn ngày tốt lên đường. Cúi xin thánh thượng hạ sắc cho quan lại các nơi dự sẵn lương thảo cung ứng, để khi đến nơi, không sai trái tổn thất. vậy kính sớ tâu lên!" 


Tờ sớ này của Lộc Sơn, rõ ràng là viện cớ dâng ngựa, mưu để khởi quân phản loạn thừa cơ chiếm cứ các nơi, thử xem triều đình động tĩnh ra sao, Huyền Tông xem sớ xong, trầm ngâm phán: 
- Lộc Sơn muốn dâng ngựa, quả là một việc làm hiếu thuận. Nhưng làm sao mà có đủ binh lính, tướng sĩ để làm việc này cho yên ổn. 
Bèn chuyển tờ sớ cho Trung thư tỉnh xem xét rồi tâu lại. Dương Quốc Trung sáng hôm sau tâu rằng: 
- Triều thần ở biên cương dâng ngựa, cũng là chuyện thường. Nay An Lộc Sơn lại định dâng những ba nghìn ngựa cho binh tướng đi kèm. Riêng số lính trông yên cương cũng đã tới sáu nghìn người, thêm hai mươi tư viên tướng Phiên, lại các loại binh lính, tướng sĩ người Phiên, người Hán đi theo, tổng cộng hơn một vạn là ít, khác gì lũ lính cướp thành lấn đất. Lòng người trắc trở, khó có thể cả tin. Lẽ nên giáng chỉ trừng phạt, cho tuyệt mưu gian trá. 
Huyền Tông phán: 
- Việc này vốn do ý dâng tiến tốt lành, lại mượn tiếng xin trước, khó có cớ để làm tội. Chỉ nên thác rằng người ngựa quá nhiều, chứ cũng chẳng nên nói tới ý khác, chẳng nên trách phạt, vả lại cũng cần phải bớt người phục dịch mới được. 
Quốc Trung thưa: 
- Y chỉ mượn tiếng dâng ngựa, thực lòng là phản loạn, nếu không nghiêm trị trừ khử mưu sâu, y lại nghĩ rằng triều đình không còn ai biết. 
Huyền Tông phán: 



- Việc chưa thật gấp lắm, hãy để trẫm nghĩ lại xem đã. 
Quốc Trung không bằng lòng lui ra. Huyền Tông vẫn do dự chưa quyết thì Đạt Hề Tuân thứ sử Hà Nam vốn cùng họ với Đạt Hề Doanh Doanh, nhân có người quen ở kinh đô báo cho biết chuyện Lộc Sơn hiến ngựa, vô cùng hoảng sợ, lập tức dâng biểu mật về tâu, có đoạn sau: 


“Muôn tâu thánh thượng 
Thần sợ hãi, kính cẩn giãi bày. 


...An Lộc Sơn, dâng sớ hiến ngựa, lại xin đem theo nhiều binh lính, tướng Phiên để hộ tống rất nhiều. Việc đáng ngờ lắm. Xin hãy đem lời ôn tồn phủ dụ, ngừng ngay việc này lại cho..." 


Huyền Tông xem xong vẫn cứ nghĩ ngợi phân vân. Hôm ấy vừa ngự yến xong, Cao Lực Sĩ đứng hầu dưới thềm. Huyền Tông truyền lại trước mặt, phán rằng: 
- Trẫm đãi An Lộc Sơn rất hậu, y đã được yêu quý đến như thế, lẽ thật không phụ trẫm, trẫm vẫn đinh ninh như vậy. Trước đây trẫm đã sai Phụ Cầu Lâm ra tận nơi xem xét, cũng trở về tâu rằng y một dạ trung quân ái quốc, không hề hai lòng. Chẳng nhẽ nay bỗng nhiên lại thay đổi đột ngột thế sao? 


Cầu Lâm thường ngày vẫn cậy mình được nhà vua sủng ái, không coi đồng liêu ra gì, vốn chẳng hòa thuận với Lực Sĩ, vì vậy Lực Sĩ nhân cơ hội này mới tâu rằng: 
- Lòng người khôn lường, xin bệ hạ cũng đừng quá tin mà lầm lỡ. Cứ như kẻ hèn này nghe, Phụ Cầu Lâm hai lần vâng mệnh đi Phạm Dương, đều nhận rất nhiều hối lộ của An tộc Sơn, cho nên mỗi lần về phục chỉ, hết lời tán dương, không thể tin được. 
Huyền Tông kinh ngạc: 
- Có chuyện này sao? Cầu Lâm nhận của đút lót của Lộc Sơn sao khanh lại biết được. 
Lực Sĩ tâu: 
- Từ lâu kẻ hèn này đã có nghe phong phanh chuyện này, nhưng chưa dám tin cả. Gần đây nhân Cầu Lâm vâng mệnh đi công tác về kẻ hèn này tới thăm, gặp lúc Cầu Lâm đang tắm, nên phải ngồi chờ, thấy trên án ở thư phòng, có một thư riêng của An Lộc Sơn, trong thư hỏi rất nhiều chuyện tỉ mỉ của triều đình cũng như nội cung, lại ân cần nhờ tán dương, chu toàn cho trước mặt chúa thượng, có công việc gì cần kíp nhờ báo ngay cho. Kẻ hèn này xem trộm chưa hết, Cầu Lâm đã ra lấy ngay thư cất đi. Cứ như thế mà suy, thì rõ là Cầu Lâm nhận hối lộ của ngoài Phiên là chuyện có thật. Kẻ hèn này nhiều lần định tâu với chúa thượng, nay nhân được hỏi, xin tâu lại rõ ràng để chúa thượng rõ. 
Huyền Tông giận dữ: 
- Cầu Lâm thật dáng chết! Trẫm tin cậy giao cho những việc quan hệ như thế, mà dám cả gan nhận đút lót để dối chúa, khi quân. Thật đáng giận. 


Truyền lệnh triệu ngay Cầu Lâm vào tra hỏi, lệnh Cao Lực Sĩ dẫn Vũ Lâm quân vây phủ đệ, tìm cho ra những thư từ tang vật tư thông với ngoại Phiên. 


Chẳng mấy chốc, Cầu Lâm được gọi đến, những thư từ cùng của hối lộ cũng tìm ra, trình lên Huyền Tông xem. Thì ra thư từ qua lại giữa Lộc Sơn cùng Cầu Lâm rất nhiều. Lực Sĩ tìm những thư có quan hệ đến Dương Quý Phi đem hủy hết, vì vậy riêng tư trong cung vẫn chưa bại lộ. Nhưng chỉ riêng vậy, Huyền Tông đã vô cùng tức giận, truyền lệnh giết ngay Cầu Lâm. Lực Sĩ mật tâu rằng: 
- Nay chúa thượng định tử tội Cầu Lâm, cần làm cẩn thận, ban chỉ rằng Cầu Lâm phạm tội nào đó mà không nên nói rõ tội nhận hối lộ cùng giao thông với ngoại phiên, sợ sinh biến chăng! 
Huyền Tông gật đầu khen phải, truyền đem Cầu Lâm ra chịu chính pháp, chỉ ban rằng Cầu Lâm không chịu vâng mệnh công cán nên đáng tội chết. 
Nực cười thay cho Cầu Lâm, chỉ vì tham của đến nỗi táng thân. Trước kia La Công Viễn tiên sinh đã từng khuyên Cầu Lâm chớ tham lam, thì sẽ tai qua nạn khỏi. Cầu Lâm vẫn không tỉnh ngộ. 
Chính là: 


Thấy của không tham là quý nhất 
Hối lộ vào cháy xác tan thây 
Chẳng theo lời dặn của thầy, 
Tai vạ ập đến, rơi ngay vạc dầu. 


Huyền Tông thấy Lộc Sơn hối lộ, tư thông với Cầu Lâm để dò xét công việc triều đình cùng nội cung, thì bắt đầu nghi ngờ, ngay đến Dương Quý Phi cũng không dám khuyên giải, chỉ riêng mình than thở mà thôi. 
Huyền Tông theo lời tâu của Đạt Hề Cầu tự thân viết chiếu thư truyền Lộc Sơn ngừng việc dâng ngựa, sai trung sứ Phùng Thần Uy tới tận nơi phủ dụ. 
Chiếu thư đại lược như sau: 


"Trẫm xem tờ biểu tiến ngựa của khanh, thật xứng là kẻ bề tôi trung kiên ở ngoài cõi. Trẫm rất đẹp lòng. Song ngựa cần giong ruổi về mùa đông thì mới hợp. Nay mới là đầu thu, công việc nhà nông bề bộn, chưa nên đưa ngựa về kinh đô. Chờ qua mùa đông, quan lại các nơi sẽ phải nhận di chuyển số ngựa này, không nên để binh lính, tướng sĩ phải lặn lội khó nhọc! Vậy bảo khanh biết!” 


Phùng Thần Uy lĩnh chiếu thư, ngày đêm đi Phạm Dương. Lộc Sơn vốn đã biết ý triều đình, còn dò biết cả từng lời tâu của Dương Quốc Trung, nên vô cùng tức tối, nghe báo có sứ mang chiếu tới, chẳng thèm ra đón.


Phùng Thần Uy thấy vậy, đành phải bưng chiếu đến tận soái phủ. Lộc Sơn sắp sẵn lính tráng, vũ khí, từng từng lớp lớp, kiếm kích sáng ngời, cờ quạt rợp sân, trống đánh như sấm vang. Thần Uy thấy vậy càng thêm kinh hãi. Lộc Sơn ngồi trên trướng Hồ chễm chệ, thấy Thần Uy bưng chiếu vào, cũng chẳng thèm đứng dậy nghênh tiếp Thần Uy mở chiếu tuyên đọc xong, Lộc Sơn mặt hầm hầm, lớn tiếng: 
- Nghe nói trong cung gần đây Quý Phi tập cưỡi ngựa, ta nghĩ rằng quan gia (1) cũng thích cưỡi ngựa, nên mới chọn những ngựa tốt để dâng lên. Nay đã có chiếu như vậy, ta chẳng dâng nữa càng hay. 
1 Quan gia: Cũng là từ tự xưng của nhà vua. Nhà Trần ta cũng gọi vua và vua xưng là quan gia, gốc sâu xa hơn chưa tra được. 


Thần Uy thấy cử chỉ nói năng của Lộc Sơn đầy vẻ hống hách, khinh quân, nên chẳng thể hứa hẹn gì tốt đẹp hơn, không dám tranh cãi gì cả chỉ ậm ừ cho qua. Lộc Sơn cũng chẳng bày tiệc rượu khoản đãi mà sai người đưa ra nghỉ ngơi ngoài quán dịch. 


Mấy ngày sau, Thần Uy về kinh phục chỉ, vào phủ gặp lại Lộc Sơn, hỏi có biểu tấu gì về triều đình. Lộc Sơn đáp: 
- Chiếu thư đã nói, chờ đến mùa đông, nếu ta không dâng ngựa cũng sẽ tự thân về kinh, để xem xét công việc triều đình. cho nên cũng chẳng cần phải viết tấu biểu gì nữa. Hãy tâu rõ như vậy cho ta. 
Thần Uy không dám nhiều lời, vội vàng quay ra cửa, đi gấp về Trường An, yết kiến Huyền Tông, đem những cử chỉ, lời nói vô lễ tâu rõ. Huyền Tông vừa sợ hãi, vừa xấu hổ, vừa giận dữ. Dương Quý Phi lúc này ngồi ngay bên, Huyền Tông nhìn Quý Phi giận dữ phán: 
- Trẫm cùng ái khanh đãi thằng lùn này không bạc, nay mới rõ bộ mặt tráo trở, mưu đồ phản loạn cũng đã rõ ràng. Bởi vậy mới nhiều kẻ bàn tán đến thế. Từ nay lời dị nghị không thể không tin cho được vậy. 
Nói xong, vỗ án mà than thở. Quý Phi cũng cúi đầu vờ xót xa. 
Chính là: 


Nay mới hay là thằng phụ bạc 
Xưa vẫn khen là bậc thủy chung. 


Chưa biết sự việc ra sao, xem hồi sau sẽ rõ!


 Nguồn truyenviet.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved