Hồi 108: Hồng Tú Toàn khởi loạn
Sau khi Cát tổng binh
chết, hai vị tổng binh Vương, Trịnh cũng theo nhau qua đời. Tất cả mọi việc đều
bị tướng quân Dụ Khiêm làm cho hỏng hết. Khiêm nắm binh quyền trong tay nhưng
ai chết mặc ai, chẳng thèm cứu. Mãi đến khi ba lộ binh mã kẻ chết người tan,
quân Anh xông tới chân thành, Khiêm mới vừa đánh vừa lùi, lùi mãi tới chỗ không
thể lùi được nữa, Khiêm mới nhảy xuống Dương Trì mà tự tử chết.
Mục tướng quốc thấy chuyện càng
ngày càng rắc rối lại thêm tin Ninh Ba, Thượng Hải đều thất thủ, Phúc Kiến bị vây,
dồn dập báo về, biết không thể bịt đi được nữa, đành phải tâu cho hoàng đế rõ.
Đạo Quang hoàng đế đem hậu sự trối trăng cặn kẽ xong, bèn sai Mục Chương A và Văn Khánh, hai người tới điện Chính Đại Quang Minh lấy cái hộp vàng mang tới, mở lấy chiếu ra, tuyên đọc trước mọi người lập Tứ hoàng tử Dịch Trữ làm hoàng đế.
Hồi 109: Bọn lính coi kho
Đạo
Quang hoàng đế mất, bọn đại thần rước Tứ hoàng tử tới điện Thái Hoà đánh trống
khua chiêng vang dậy, làm lễ triều hạ của bá quan, lên ngôi hoàng đế, hiệu là
Hàm Phong.
Hàm
Phong sai nội phủ tống đạt văn thư chiếu chỉ đi các tỉnh phát táng cho Đạo Quang
hoàng đế, đồng thời chỉnh lý lại triều cương. Chỉ dụ đầu tiên của ngài ban
xuống là, cách hết chức tước của quân cơ đại thần Mục Chương A, giáng tổng đốc
Kỳ Anh xuống hàng ngũ thẩm viên ngoại long ngũ hậu hổ.
Mục Chương A vốn là một vị
nguyên lão đại thần suốt ba triều, oai quyền hống hách khét tiếng. A lúc đó đã
già, gia đình lại giàu có, thấy hoàng đế ra ân không tịch biên gia tài bèn lui
về hưởng cảnh nhàn lạc.
Trở về nhà, Mục tướng quốc vốn
tin tưởng Lạt Ma Giáo, định ra sức tu hành để có thể thành phật thành tiên. A
cũng lại thích nhậu nhoẹt, thường mời mọc khách khứa đến nhà, tiệc tùng linh,
đình.
Nhiều quan ngự sử thấy A bị
cách chức mà không biết tội, vẫn ngang nhiêu hành lạc, giận quá, bèn dâng sớ
xin hoàng thượng nghiêm tra xử xét. Một người thân thích của A được tin này
liền tới báo cho A biết, A cười bảo:
- Tao chết rồi thì còn sợ cái
nỗi gì mà chẳng tìm kiếm thú vui chứ? Mai tao còn mở tiệc to bằng mấy kia!
Qua hôm sau, Mục Chương A quả
sai gia nhân mang thiệp đi khắp nơi mời đủ bạn bè thân thích, môn sinh, cố tri
tới nhà dự tiệc. Trên tấm thiếp viết rõ ngày nào giờ nào từ giã cõi đời, xin
vĩnh biệt Thánh thượng.
Tất cả đám khách ai cũng lấy
làm lạ. Đúng giờ mời, mọi người đổ tới nhà A. A tươi cười hớn hở, chào đón trò
chuyện hết sức vui vẻ cân cần, chẳng có chút gì sắp chết cả.
Hồi đó chức lang trung giữ kho
bạc của bộ Hộ bị khuyết. Bổ sung vào chức này đều là người Mãn. Cứ ba năm một
nhiệm kỳ, kẻ nào tham lam thì ít ra cũng phải vớ được vài chục vạn. Chẳng cần
nói các vị quan lớn này mà ngay những chú lính coi kho thôi, lúc mãn nhiễm thế
nào cũng kiếm chác được vài vạn lạng.
Hôm đó, khách mời tới đông lắm.
Trong đại sảnh bày đủ bốn mươi thồi rượu. A cất chén mời khắp cả mọi người.
Rượu đến giữa chừng, A nhìn ánh mặt trời rồi nói:
- Giờ đã tới rồi, xin quý vị
tạm đợi cho một chút.
Nói đoạn, A qua vào trong tắm
rửa sạch sẽ, thay đổi y phục, mặc áo mãng bào triều phục, trước hết từ biệt vợ
con hầu thiếp ở nhà trong rồi ra nhà ngoài đứng vòng tay nói mấy tiếng:
"Xin cho phép! Xin cho phép!", đoạn thong dong ngồi xuống, xếp bằng
tròn trên giường nhắm đôi mắt lại, tự nhiên hết thở, chết lúc nào không rõ.
Sau khi Mục Chương A chết, đám
quan ngự sử tham tấu tiếp là thượng thư bộ hộ là Giác Lân ăn cắp của kho. Triều
chỉ hạ xuống cách chức của Giác Lân, phát vãng đi Tân Cương làm lính trấn thủ.
Nếu nói đến tội ăn cắp của kho
thì mấy ai coi kho, coi tiền của triều đình mà thoát được. Giác Lân sở dĩ bị
nạn chỉ vì là người thân thích của Mục Chương A, hơn nữa Lân ăn cắp quá nhiều,
đến hai mươi vạn lạng bạc.
Quan lớn ba năm một nhiệm kỳ,
binh lính tại nơi đây cũng ba năm một nhiệm kỳ. Tất cả đều là người Mãn, tuyệt
đối không có người Hán. Thảng hoặc có người Hán nào được làm tại nơi đây thì
nhất thiết phải có một viên quan Mãn tiếng tăm nào đó tiến cử. Mỗi một lính coi
kho được phái tới làm việc bắt buộc phải hiếu kính quan thượng thư cùng quan
lang trung ngân khố người Mãn chừng sáu, bảy ngàn lạng. Đến khí chú lính coi
kho rời khỏi nha môn đi công vụ hoặc nghỉ phép về nhà thì thể nào cũng phải mướn
tiêu sư bảo hộ suốt dọc đường. Trong kinh thành thiếu gì bọn trộm cướp, tống
tiền, thường tụ tập, nhè khi có một chú lính coi kho thuyên chuyển ra đi, liền
đón đường cướp giật bắt cóc rồi giam giấu một nơi, đưa tin cho gia đình nạn
nhân phải đem tiền chuộc, ít ra cũng một, hai ngàn lạng mới thoát được về nhà
với vợ con.
Nếu không có tiền chuộc, bọn
chúng giữ chú lính mãi tới lúc quá hạn nghỉ mới thả ra. Chú lính được thả ra
nhưng giấy phép quá hạn, liền bị đuổi khỏi nha môn, bị thay thế bằng một tên
khác. Bởi vậy, chú ta chẳng dại gì để mất cơ hội nghìn năm một thuở, do đó
thường gia đình nạn nhân phải đem tiền bạc tới mà chuộc về.
Cứ ba năm lại có một kỳ kén
chọn bốn mươi tên lính coi kho. Mỗi tháng thường mở kho chín lần. Lại có năm,
sáu lần mở kho thêm. Vào buổi mở kho, có khi phải đưa bạc ra ngoài, cũng có khi
mang bạc vào trong. Bọn lính coi kho chuyên dùng vào việc chuyển bạc, mỗi lần
chuyển phải tới trên ngàn vạn lạng, không thể chuyển vận xuể, thường mỗi tháng
phải bốn năm kỳ.
Mỗi khi xuất kho thì nhiều là
bảy, tám, ít cũng phải ba, bốn lần, mỗi lần ăn cắp ít ra cũng được năm mươi
lạng. Kho bạc cần đề phòng nhất là bọn lính ăn cắp bạc, cho nên theo luật lệ
tại đây, cứ mỗi lần mở kho, bất luận mùa đông tháng giá, bọn lính coi kho đều
phải cởi trần trùng trục, chạy qua trước mặt viên đường quan điểm danh rồi mới
vào kho mặc lại quần áo của nhà kho may sẵn.
Nhưng chuyện bị cởi trần như
nhộng ấy thực cũng chưa phải đã ngăn chặn nạn đánh cắp được. Bọn lính coi kho
nhét những thỏi bạc vào lỗ đít mỗi lần xin phép ra ngoài. Thỉnh thoảng có những
tay bản lĩnh cao cường, có thể nhét được đến mười thỏi bạc Giang Tây, cứ mỗi
thỏi cân đúng mười lạng bạc.
Trong kho chẳng có giường chõng
gì cả nên mỗi khi muốn nghỉ ngơi ăn uống lại trở ra phía ngoài. Lúc ra khỏi kho,
chú lính kho lại phải trần như nhộng, đi qua trước mặt viên quan kho, giạng
háng rồi nhảy lên một cái, giơ hai tay lên trời há mồm rộng hô to lên một
tiếng, xong mới được đi ra.
Cách cửa kho độ một tầm tên có
một căn nhà nhỏ, cửa đóng kín mít, cửa sổ có chấn song gỗ che lại. Đây là nơi
bọn lính cởi bỏ quần áo giấu của ăn cắp. Vùng Bắc Kinh, đất toàn cát. Mỗi lần
mở cửa kho đều có bọn phu gánh nước quảy thùng vào trong kho lấy nước. Bọn lính
kho liền ăn thông với bọn này. Cái thùng có hai đáy. Bọn lính kho đem giấu bạc
vào quãng giữa hai đáy ấy để chuyển ra ngoài. Đợi khi chuyển hết bạc, đóng cửa
kho, đường quan bỏ đi rồi, bọn họ mới lén gánh các thùng nước ra khỏi kho.
Về sau có một viên thượng thư
bộ Hộ tên là Kỳ Thế Trường người rất thanh liêm. Một lần mở kho, Trường đích
thân đi kiểm soát đôn đốc, thấy một tên phu gánh nước qua mặt, cái đáy thùng
bỗng tự nhiên sút đinh rớt bịch xuống đất, bạc rơi tung tóe ra. Kỳ Thế Trường
cả giận, lập tức hạ lệnh bắt tên phu gánh nước, định qua ngày hôm sau tâu lên
tra hỏi. Nhưng sau một vị sư già của Trường khuyên nên thả hắn ra và bịt hẳn
chuyện đi để tránh gây ra một vụ án khiến hoàng thượng biết được mà đem tra vấn
thì không khỏi một số thượng thư người Mãn sẽ bị chặt đầu và chính ông cũng sẽ
bị kẻ thù giết hại. Kỳ Thế Trường nghe theo liền đem yểm giấu hẳn vụ án này. Đó
là việc sau.
Lại nói bọn lính kho đều là bọn
cha truyền con nối từ đời nọ tới đời kia. Bọn này cần phải luyện tập sao cho lỗ
đít thật rộng, để có thể nhét được tới mười lạng bạc. Ngay từ lúc nhỏ tuổi, họ
phải tìm một gã thuộc loại khoái người cùng giới nhỏ tuổi trước đã, sau đó phải
dùng tới trứng gà bôi dầu vừng ngoài vỏ rồi nhét vào cho quen đi. Dần về sau,
bỏ trứng gà dùng trứng vịt, rồi trứng ngỗng và cuối cùng thay bằng những viên
đạn sắt. Họ phải tập luyện cách nào và lúc nào mà lô đít rộng ra để chứa đến
mười viên đạn sắt nặng chừng mười lạng thì mới coi là thành công. Bản lĩnh
trung bình chỉ có thể nhét được năm, sáu viên là cùng. Do đó, bọn lính này về
già thường hay bị bệnh lòi rom hoặc trĩ, hết sức đau đớn, khổ sở. Duy chi có
quan thượng thư bộ hộ được bọn này hiếu kính đầy đủ là được an hưởng phú quý
sung sướng mà thôi.
Lại nói sau khi Giác Lân bị cáo
trộm của kho, quan Ngự sử dâng tiếp sớ đàn hặc một viên đại học sĩ người Mãn
khác tên gọi Dự Đức, vốn là thân thích của Mục Chương A.
Giậu đổ thì bìm leo, cho nên
bọn thân thích quen thuộc của Mục Chương A, dù không có tội cũng thành có tội,
huống hồ Đức lại là một tên tham quan chuyên ăn tiền hối lộ. Thế là bọn ngự sử
dâng sớ tố cáo Đức tội trộm của kho trong dịp kiểm soát Lục Khố. Lục Khố là gì?
Lục Khố có nghĩa là sáu kho. Sáu kho này xây cất ở phía trái cửa Đại Hoà môn,
vốn để lại từ đời Minh. Sáu kho gồm có: kho vàng, kho bạc, kho đồ cổ, kho da
thuộc, kho quần áo, kho thuốc… Trong kho cũng có tàng trữ những đồ trân bảo.
Chỉ cần nói trong kho quần áo có một bức tượng của bà hoàng hậu đời Minh, rộng
đến tám thước, toàn là trân châu buộc lại mà thành, riêng đường viền cũng toàn
dùng bảo thạch màu hồng lục kết lại. Những hạt minh châu này nhỏ bằng hột đậu
xanh, to bằng hột quế, chỉ vì ngày tháng đã qua lâu nên dây chạc đều mục nát
đứt gần hết. Mỗi lần kiểm tra lại có nhiều hạt minh châu rớt ra.
Bọn quan coi kho giả đò lượm
lên, lấy giấy gói lại, gắn xi rồi đóng dấu lên trên. Thực ra thì trong gói đó
chi là những hột giả, còn những hột thật thì đã rơi vào hầu bao của bọn quan
coi kho đó rồi.
Trong kho còn có cả mười mấy
rương hài nhỏ thêu của đám phi tần triều Minh. Ở chỗ mũi hài có cẩn những hạt
minh châu và có tiếng lắm, nhưng đều đã bị đổi bằng đồ giả. Cả cái kho da cũng
vậy, đều thay đổi hết đồ xấu, còn đồ tốt thì bị bọn quan coi kho ăn cắp hết.
Song chúng đâu ăn một mình được. Tất cả những vụ trộm cắp này đều có sự thông
đồng với bọn đại thần, nhưng nay thấy Dự Đức bị tố cáo, cả bọn bèn nhao nhao đổ
hết tội cho Đức. Họ nói rằng chính Đức khi làm quan đại thần kiểm tra đã đánh
cắp hết những thứ đó.
Theo quy củ của Thanh triều thì
mỗi năm có hai vị đại thần người Mãn được phái tới kiểm soát Lục Khố một lần.
Không may cho Đức làm đại thần
kiểm soát vào lần chót cho nên cả bọn bèn đổ hết tội cho Đức, đến nỗi Đức đã
mất quan, mất nghiệp, mà còn phải lên mãi Hắc Long Giang sung quân. Đồng đảng
Mục Chương A đều bị bọn ngự sử dâng sớ đàn hặc, kẻ bị cách, người bị tống khứ
đi hết, chẳng còn ai. Hàm Phong hoàng đế tính tình cẩn thận, cố chỉnh đốn lại
triều cương.
Trong cung cấm, bà Hiếu Trinh
hoàng hậu cũng hết sức đoan chính cần kiệm, trông coi dạy dỗ các phi tần.
Bà hoàng hậu Hàm Phụng nguyên
là con gái của Mục Chương A, ở ngôi Chánh cung chẳng được bao lâu thì mất. Hiếu
Trinh hoàng hậu lên thay, vốn là một nàng quý phi họ Nữu Cô Lộc.
Bà vừa đẹp lại vừa đoan chính nên Hàm Phong hoàng đế rất sủng ái. Trong cung đều gọi bà là Đông hậu, rất thuần phác, cần kiệm. Ngày thường trong cung cấm bà chỉ mặc hàng vải. Màn trướng, mùng màn, đều không thêu hoa. Điều đặc biệt là bà ghét đồ Tây, đẹp thì đẹp nhưng không dùng được trò gì. Bà chỉ đi một đôi hài thêu giống hệt hài bọn cung nữ, do chính bọn này thêu cho. Mỗi năm bà đích thân thêu cho hoàng đế một đôi hài. Bên ngoài có kẻ tiến cống quần áo, đồ trang sức, bà đều cho bọn cung nữ đem trả lại hết. Bà thường bảo bọn chúng:
- Bọn thần tử đem dâng hiến một
cái gì tức là trăm họ phải tốn kém đi chừng đó. Nếu nhận đồ dâng hiến đó tức là
ta ngấm ngầm xúi chúng trở thành tham quan. Do đó, ta không, thể nào nhận được.
Hiếu Trinh hoàng hậu nhất cử
nhất động đều biết lễ biết tiết. Vào mùa nóng nực, bà không bao giờ ăn vận lộ
tay lộ chân. Khi tắm gội, bà cũng không bắt ai hầu hạ kỳ cọ cho mình. Mỗi khi
lên gặp mặt hoàng đế, bà đều mặc lễ phục. Bà rất ghét ăn mặc hở hang, cầu thả.
Hồi đó có một nàng phi tên gọi
Vinh phi, thân hình nhỏ nhắn xinh đẹp tô son điểm phấn rất kiều diễm. Nàng lại
đi một đôi hài không ruột, chạm trổ đoá hoa mai, rắc đầy phấn thơm. Mỗi bước nàng
đi phấn hoa mai rơi xuống in vết trên mặt đất. Hiếu Trinh hoàng hậu thấy thế cả
giận, bảo nàng cố ý làm vậy để mê hoặc hoàng đế, lập tức truyền gọi nàng tới,
đánh cho một trận nên thân rồi tống vào lãnh cung.
Hàm Phong hoàng đế thực ra cũng
khoái chuyện phong lưu bay bướm. Nhưng thấy hoàng hậu nghiêm chính như vậy,
ngài rất kính trọng và đặt cho bà biệt hiệu: "Nữ thánh nhân"…
Bà vừa đẹp lại vừa đoan chính nên Hàm Phong hoàng đế rất sủng ái. Trong cung đều gọi bà là Đông hậu, rất thuần phác, cần kiệm. Ngày thường trong cung cấm bà chỉ mặc hàng vải. Màn trướng, mùng màn, đều không thêu hoa. Điều đặc biệt là bà ghét đồ Tây, đẹp thì đẹp nhưng không dùng được trò gì. Bà chỉ đi một đôi hài thêu giống hệt hài bọn cung nữ, do chính bọn này thêu cho. Mỗi năm bà đích thân thêu cho hoàng đế một đôi hài. Bên ngoài có kẻ tiến cống quần áo, đồ trang sức, bà đều cho bọn cung nữ đem trả lại hết. Bà thường bảo bọn chúng:
Hồi 110: Hồng Tú Toàn xưng đế
Thời
vua Hàm Phong, Thanh cung còn có bà Hiếu Mục hoàng thái hậu, người rất hiền
đức. Hiếu Mục hoàng thái hậu vốn là một sủng phi của Đạo Quang hoàng đế. Hồi
đó, tuy Đạo Quang sủng ái nhất Tĩnh phi nhưng ngài cũng vẫn thường qua lại nơi
này để trò chuyện bàn luận. Bà được cái vinh hạnh này chỉ vì bà hiền hậu nết
na, trong khi đó Tĩnh phi cậy được hoàng đế yêu nên kiêu căng rất mực. Cứ mỗi
lần Hoàng đế tới cung, Hiếu Mục hậu đem hết cách chiều chuộng làm cho ngài vừa
lòng, Đạo Quang hoàng đế cũng thường khen bà và so sánh bà như một đoá hoa đẹp
khiến người ngắm mãi mà chẳng chán. Bởi thế khi có việc gì được xem là trọng
ngài chỉ tới bàn tính với bà, còn đối với Tĩnh phi bất quá chỉ qua chơi mua vui
mà thôi.
Sau
khi Đạo Quang hoàng hậu bị hoàng thái hậu và Tĩnh phi mưu sát, còn để lại một
Tứ hoàng tử. Chàng không người nuôi dưỡng, lạnh lẽo cô đơn, khổ sở hết sức. Đạo
Quang hoàng đế bèn đem Tứ hoàng tử phó thác cho Hiếu Mục hậu nuôi và dặn bà cố
gắng giúp chàng nên người. Được sự uỷ thác đó Hiếu Mục hậu để ý cẩn thận nuôi
dạy tứ hoàng tử bất cứ việc no đói, ấm lạnh, bà đều chăm sóc đến nơi đến chốn.
Hiếu Mục hoàng hậu có một người
con trai, Lục hoàng tử Dịch Hân. Ấy thế mà bà săn sóc con mình lần không bằng
Tứ hoàng tử. Bà nói:
- Tứ hoàng tử mồ côi mẹ, cần
phải thương nó nhiều hơn.
Cũng vì thế, tứ hoàng tử càng
yêu quý Hiếu Mục hậu, ngày thường vẫn kêu bà là mẹ, y như đối với mẹ mình.
Về sau, khi muốn lập hoàng tử,
Đạo Quang hoàng đế lẻn tới hỏi ý kiến Hiền Mục hậu. Ngày thường, Đạo Quang
hoàng đế vốn rất yêu quý Lục hoàng tử, chi vì Lục hoàng tử mạnh tợn và tính
tình giống mình. Nhưng đến khi nghe tứ hoàng tử nói mấy câu tỏ vẻ hết sức nhân
từ trong một cuộc đi săn thì ngài đâm ra do dự, không quyết tâm lập lục hoàng
tử như trước nữa. Ngài trở về cung, tìm đến bàn với Hiền Mục hậu.
Hiền Mục hậu cũng hết lòng tiến
cử tứ hoàng tử. Nhưng Đạo Quang hoàng đế lại cho biết ý ngài muốn lập Lục hoàng
tử.
Hiền Mục hậu cản ngăn mấy bận.
Bà nói:
- Không được đâu. Khỏi cần phải
nói nhiều vì tứ hoàng tử chính là con trai của Chính cung hoàng hậu. Hơn nữa tứ
hoàng tử khá hơn bọn anh em gấp bội!
Đạo Quang hoàng đế nghe lời
Hiền Mục hậu, lập tứ hoàng tử là thái tử và từ đó, trong lòng càng kính trọng
bà. Khi mất, ngài ba bốn lần uỷ thác Hàm Phong hoàng đế cho bà.
Hàm Phong hoàng đế lên ngôi,
biết ngôi vua của mình là nhờ Hiền Mục hậu hết sức giúp đỡ mới có. Bởi thế,
ngài lập tức phong Hiền Mục hậu làm hoàng thái hậu, mời bà về ở tại Tử Ninh
cung, rồi ngày ngày đích thân tới vấn an, coi bà như mẹ đẻ của mình. Hàm Phong
hoàng đế cũng phong cho lục hoàng tử làm Cung Trung thân vương. Theo luật lệ
trong cung nhà Thanh thì khi vua cha chết rồi, chỉ có một mình thái tử mới được
ở lại trong cung, ngoài ra phải ở ngoài hết không được vào cung. Tuy nhiên đối
với lục hoàng tử, Hàm Phong hoàng đế đặc biệt khai ân, cho phép Cung Trung,
thân vương được vào cung bái yết thái hậu lúc nào tuỳ ý. Do đó hai mẹ con thái
hậu rất lấy làm cảm kích Hàm Phong hoàng đế.
Về sau, lúc tuổi đã già, Hiếu Mục
hoàng thái hậu mới cảm thấy hối hận, một mình lủi thủi trong cung, bà nghĩ tới
cái ngày đau yếu rủi lỡ nhắm mắt lìa đời mà con mình thì xa cách, biết lấy ai
bên cạnh ma chay cho mình, nghĩ càng hối hận, đâm ra oán hận Hàm Phong hoàng
đế. Rồi cứ mỗi lần thấy Hàm Phong hoàng đế tới thỉnh an, bà không vui mà còn có
ý giận, hoặc buông lời mắng trách. Dù vậy Hàm Phong hoàng đế lúc nào cũng vui
vẻ hoà nhã, một lòng hiếu kính thái hậu.
Về sau Thái hậu bệnh nặng. Cung
Trung Thân Vương tuy thường lui tới trong cung, nhưng cũng không cách nào ở lại
trong cung được cho nên chi có Hàm Phong hoàng đế sớm hôm chầu chực thuốc thang
bên cạnh giường. Ngoài ra, còn có Hiếu Trinh hoàng hậu, cũng cùng ngài luân
phiên hầu hạ.
Bệnh tình của Thái hậu tới ngày
nguy kịch. Đôi ba lần bà đã mê đi. Hàm Phong hoàng đế ngày đêm hầu hạ bên cạnh
giường không dám rời xa.
Một hôm thái hậu bàng hoàng
tỉnh lại. Trời đã tối. Bà thấy một người ngồi ở trước giường. Bà nhận ra Dịch
Hân, con bà, bà cầm lấy tay con:
- Con ơi! Mẹ chỉ còn có sớm
chiều là qua đời thôi! Mẹ được đương kim hoàng đế tiến dưỡng mấy năm, mẹ có
chết cũng yên lòng. Mẹ chỉ buồn một nỗi năm xưa, tiên hoàng đế có ý định lập
con làm thái tử thì mẹ gạt đi. Mẹ ngăn cản đến ba bốn lần: Mẹ càng nghĩ càng
thấy mẹ lầm. Mẹ đã làm hại con, cho con đành chịu cúi đầu khom lưng trước kẻ
khác cho qua ngày đoạn tháng!
Nói tới đây Thái hậu ứa nước
mắt, đôi dòng lệ rơi trên gò má xương xẩu. Bà có ngờ đâu người ngồi bên cạnh
giường. bà đó không phải Cung Trung thân vương mà lại là Hàm Phong hoàng đế.
Hàm Phong hoàng đế nghe lời
than thở hối hận của thái hậu, chẳng những không giận mà còn khuyên bà nên yên
lòng dưỡng bệnh, chớ nên nghĩ ngợi lo phiền. Bỗng thái hậu tỉnh hằn lại. Bà
biết bà đã lầm, lòng bà càng não nuột. Một cơn ho kéo tới, đờm trào lên nghẹt
tắc lấy cổ. Bà thiếp đi luôn không còn nói thêm lời nào nữa.
Hàm Phong hoàng đế một lòng
kính trọng thái hậu. Ngài hạ chiếu phát tang, tổ chức đám tang theo nghi lễ là
hoàng thái hậu. Sau đó, ngài vẫn một lòng săn sóc Cung Trung Thân Vương. Thân
Vương càng đem hết lòng để phục vụ quốc gia.
Hồi đó, ở miền Nam, Hồng Tú
Toàn đang gây rối tại miền Vinh an. Toàn lập nên Thái Bình Thiên quốc xưng bá
đồ vương, tiếng tăm dậy khắp bốn phương.
Hàm Phong hoàng đế bèn hạ chiếu
phục chức lại cho Lâm Tắc Từ, sai đem quân tới Quảng tây. Không ngờ Từ vừa tới
Triều Châu, bỗng nhuốm bệnh mất.
Hàm Phong hoàng đế lại hạ chiếu
sai Hưởng Vinh, Trương Tất Lộc, hai người đem binh đi tắt chặn các nơi. Quân mã
của Thái Bình Thiên quốc lúc đó tích cực hoạt động. Họ tránh không đụng độ với
quân của Hưởng, Trương hai tướng, tiến đánh một giải châu huyện Từ Quế Bình,
Quý Võ tới Tuyên Bình. Họ lại chiếm Tuyên Châu…
Triều đình thấy quan quân người
ngựa ít ỏi, bèn uỷ cho Lưỡng Giang tổng đốc là Lý Tinh Nguyên hội cung đại học
sĩ Lại Thương A phó đô thống Hồng A đem quân tinh nhuệ từ Kinh đô tới vây Tuyên
Châu, đẩy lui được quân của Dương Tú Thanh. Không ngờ, đoàn quân tóc dài thấy
bốn mặt bị vây bèn quay về phía đông đánh thốc vào địa phận tỉnh Hồ Nam, cướp
được Toàn Châu, lại lấy được Đạo Châu, Quế Bân, Dương Châu, vượt sông qua đánh
An Nhân, Lễ Tăng.
Tháng bảy năm thứ hai niên hiệu
Hàm Phong, đoàn quân tóc dài đánh tới Tràng Sa, vây thành hơn bảy mươi ngày
liền, nhưng không xông vào được. Toàn lượm được một cái ngọc tỷ ở ngoài cửa Nam
Thành, từ đó, càng có cái ý thôn tính thiên hạ, xưng bá xưng vương.
Hồi đó Tây Vương Tiêu Triều Quý
của Thái Bình Thiên quốc chết trận tại Tràng Sa. Quân tóc dài lại quay mũi dùi
sang Thường Đức. Đánh được Thường Đức, lại được Ích Dương, cướp được vài ngàn
chiến thuyền, vượt qua Động Đình hồ, tấn công thẳng thành Nhạc Châu đoạt được
rất nhiều binh khí. Binh khí này vốn là những binh khí Thanh binh do đám Ngô
Tam Quế thời vua Khang Hi còn để lại.
Hồng Tú Toàn thấy chiếm được
nhiều binh khí càng hăng hái và quyết tam hơn, liền dọc theo Tràng Sa đi xuống,
chiếm Hàm Dương, Võ Xương, tiếp sau đó, công hãm Cửa Giang, An Khánh, Vu Hồ,
Thái Bình, chỉ trong vòng có một tháng.
Quan binh của triều đình đến
lúc này cứ hễ thấy đoàn quân tóc dài đi tới đâu là sợ hãi hết hồn, theo gió mà
chạy vắt giò lên cổ.
Tin chiến bại và thất thủ hết
nơi này tới nơi khác, có ngày đến hàng chục lần. Nhưng tin kinh khủng này bay
về kinh sư như bươm bướm, làm cho Hàm Phong hoàng đế bối rối, không biết tính
toán ra sao. Ngày ngày, ngài hạ hết thánh chỉ này tới thánh chỉ kia, điều binh
khiển tướng lung tung, nhưng chẳng ăn thua gì.
Tháng hai năm thứ ba niên hiệu
Hàm Phong, đúng vào ngày mồng mười, Hồng Tú Toàn đánh vào thành Nam Kinh giết
chết Mãn quân, trai gái đến hai vạn người, ném đầu và xác xuống sông Trường
Giang đầy nghẹt cả một khúc sông.
Cướp được Nam Kinh rồi, Hồng Tú
Toàn kiếm cây đào đất, xây cất cung điện lâu đài, tự xưng là Thái Bình Thiên
hoàng. Toàn cũng lập tam cung lục viện, phi tần trong cung cấm đều có ngôi thứ
và danh hiệu. Vợ cả của Thiên hoàng xưng là hoàng hậu, có tần nương một người,
ái nương hai người, hi nương hai người, luôn luôn ở bên cạnh hoàng hậu để hầu
hạ. Các nương này đều được kể là những quan cao bậc nhất.
Ngoài ra trong cung cấm còn có
hai mươi bốn nàng phi, một nàng có bốn quan nữ, bốn trạch nữ, bốn khuê nữ, bốn
đàm nữ, bốn hạp nữ ở bên cạnh hầu hạ. Đám nữ này đều được phẩm tước từ nhị phẩm
đến nhất phẩm. Lại còn có mười nguyên nữ, mười yêu nữ, cũng để hầu hạ các hậu
phi. Đám nữ này được phẩm tước từ nhất phẩm tới lục phẩm. Đám gái đẹp ở trong
cung cấm tuy lấy tiếng là làm quan, nhưng cô nào cung bị Hồng Tú Toàn gian dâm
hết thảy. Thiên hoàng khoái nhất là những xử nữ mười ba, mười bốn tuổi. Cho nên
những nữ quan này đều được tuyển lựa trong hàng gái đẹp trẻ măng, hầu hết đều
vào quãng mười tuổi. Bọn gái đẹp này không một cô nào là không bị Thái tử của
Thiên hoàng ngày ngày đem ra làm trò chơi, chết không biết bao nhiêu mà kể.
Hồng Tú Toàn lại còn phong cho
anh em, bà con thân thuộc mình làm Thân vương. Trong phủ Thân vương, ngoại trừ
bà vương phi ra, còn có hảo nữ bốn người, diện nữ tám người, giao nữ mười sáu
người, khoa nữ hai mươi người, nghiên nữ hai mươi người, đa nữ hai mươi tám
người, miêu nữ ba mươi hai người, quyên nữ ba mươi sáu người, mỹ nữ bốn mươi
người, chia ra từ cửu phẩm tới nhất phẩm, thảy đều làm nữ quan hết.
Thái tử của Thiên hoàng xưng là
Ấu chúa, ngoài bà Vương phi ra còn có mỹ nữ, lệ nữ tám người, giai nữ mười hai
người, diệm nữ mười sáu người, đều là những nữ quan từ tứ phẩm tới nhất phẩm.
Cai quản mọi việc trong hoàng cung có nữ tỳ, là những nữ quan cấp bậc nhị phẩm.
Cứ hai người nữ tỳ lại có một người nữ chưởng suất cầm đầu, với cấp bậc nhất
phẩm.
Tóm lại trong cung điện của
thiên hoàng, ngoài một mình Thiên hoàng ra, chẳng còn thấy một tên đàn ông nào
khác, ngay đến bọn thái giám cũng không có nữa.
Cung điện của Toàn, không còn
gì đẹp hơn, quý hơn nữa. Tất cả đều là lầu son gác tía, rèm châu, màn gấm, nào
vàng nào ngọc, lung linh rực rỡ, vô cùng mỹ lệ. Mỗi khi Thiên hoàng giá tới,
cung tần phi hậu thảy đều phải quỳ xuống đón rước.
Thiên hoàng mình mặc áo tràng
bào bằng đoạn vàng có thêu rồng bằng kim tuyến óng ánh, giơ chân múa vuốt, đầu
đội mũ Bình Thiên, bốn góc bốn dải ngọc châu, rổn rảng, tóc kết dài lòng thòng.
Thân hình của thiên hoàng nhỏ thó, lông mày rậm, râu dài lê thê, ngồi trên một
chiếc kiệu có mười sáu tên cáng kiệu khiêng đi, kiệu có tán đỏ lọng vàng.
Trong cung điện, có một toà lâu
đài cao ngất, tên gọi Diên đài, chu vi rộng có chừng hai chục mẫu đất. Trên đài
trồng cây, hoa, lại xây đắp hồ, ao, chẳng khác gì ngay ở trên đất liền. Toà đài
này hình lục giác, có xây sáu lớp bậc thang bằng đá hoa, khảm thêm vào những
viên đá hoa cương năm sắc, trông hết sức đẹp, do đó, người trong cung này
thường gọi là Bạch Ngọc thiên thể (thang trời bằng ngọc trắng). Trên đài có một
toà chính điện. Ở bốn góc điện lại xây tiếp ba toà viện tử, tổng cộng mười hai
toà viện tử. Cai quản Chính điện này là một nàng Tứ phi, bốn toà biệt điện còn
có bốn nàng Tứ phi khác trông coi. Còn mười hai viện giao cho một bọn trục gia,
tài nhân đông đảo trông coi.
Thiên vương Hồng Tú Toàn đêm
đêm thường ngủ trong Chính điện, chỉ có Tứ phi được ngài ân sủng suốt đêm.
Trên đầu long sàng của Thiên
vương có treo đủ các tấm thẻ đồng trạm trổ đầu con phượng của các phi tần. Khi
nào cao hứng, Thiên vương giơ tay lấy một tấm thẻ đồng ném ra phía ngoài cửa
trước; tức thì bọn nữ tỳ ngồi ở giường ngoài lượm ngay lấy, và chiếu theo tên
trên tấm thẻ mà đi gọi phi tử.
Hồi 111: Hồng Tuyên Kiều
Thấy tấm bài khắc hình
đầu con phượng, nàng phi tử nọ liền rút chiếc trâm cài đầu ra cho tóc xoã
xuống. Tức thì có một tên nguyên nữ to lớn khỏe mạnh, lấy một chiếc chăn mềm
thêu chim phượng hoàng, choàng kín từ đầu đến chân rồi ôm xốc nàng phi tử nọ
đưa lên chính điện.
Viên nữ tỳ ở chính điện thấy
nàng phi tử đưa tới, liền treo một bức màn gấm ở giữa điện, rồi mời Chánh phi
ra ngồi phía ngoài bức màn, phía tả đứng một đội yêu nữ tay cầm ống nhỏ, lư
hương và khăn bàn, gọi là Văn ban, còn phía hữu đứng một đội thị vệ, mình mặc
giáp trụ, tay cầm cung kiếm, gọi là Võ ban.
Cả hai ban Văn, Võ này nếu
không có lệnh của Chánh phi, thì không được hành động. Một ban thiếu niên con
trai đứng đối diện một ban thiếu nữ trẻ măng, tai nghe những tiếng tình tự, đùa
cợt, hay là tiếng ma quái lạ kỳ nào đó phía bên trong màn, thảy đều phải nghiêm
nét mặt, có muốn cười cũng không dám cười.
Nói đến Tứ phi, ai cung chịu
nàng là đệ nhất mỹ nhân trong Thiên vương cung hồi đó. Hồng Tú Toàn tuy hiếu
sắc nhưng không cần bọn gái nhỏ như vua Thanh. Toàn chọn gái cũng không cần
chọn mặt nữa, mà chỉ chọn thân hình. Cô nào có tấm thân óng chuốt, nõn nà, đồ
sộ như bức tượng ngọc là được Toàn chọn. Toàn thường nói với tả hữu:
- Gái mà được là mỹ nhân, quyết
phải có cái bụng thẳng, đôi vai thon, ngực bằng, người cao.
Trong cung của Hồng Tú Toàn có
một cái thước đo người đẹp (lượng mỹ xích). Phàm khi tuyển gái vào cung, trước
hết phải dùng thước này đo xem kích thước bao nhiêu đã rồi mới xét tới mặt mũi
da thịt. Cô nào mặt mũi tuy đẹp nhưng thân hình nhỏ bé Toàn cũng chẳng thích.
Đến khi xem tới chân gái thì Toàn chỉ chọn những cặp chân thiên nhiên nhỏ nhắn
xinh đẹp trong vòng năm tấc trở lại (dưới triều nhà Thanh có tục gái bó chân
cho chân nhỏ). Khi chọn gái làm phi tử, bốn năm ngày mà cũng không tìm ra được
một nàng chánh phi, Thiên hoàng lấy làm buồn bực quá, về sau có một tên thủ hạ
chuyên tìm gái, tìm được Tứ phi ở Chiếu châu, người cũng như chân, kích thước
đều trúng cách.
Hôm Tứ phi vào cung, Hồng Thiên
vương đang ngồi xem hoa tại Diêu đài. Bốn đứa trạch nữ đưa Toàn lên Diêu đài,
thấy Từ phi thân hình yểu điệu, tay chân thon đẹp như ngọc, chẳng khác một nàng
tiên, tà áo phất phơ đầu gió. Thiên hoàng bèn triệu hạnh tại Diêu đài, sau đô,
phong nàng làm Diêu đài đệ nhất phi, về sau phong làm hoàng hậu.
Đông vương Dương Tú Thanh vốn
là một tay háo sắc có tiếng, nghe nói Từ hoàng hậu đẹp lắm, bèn tung tin nói
hoàng hậu là con gái của Thượng đế.
Trong Thái Bình hoàng cung vốn
có một toà Thừa Thiên đường. Đây là nơi thánh đường đến để giảng đạo. Cứ bảy
ngày một lần, trong cung Thái Bình lại mời Thanh tới ngôi nhà thờ này giảng đạo
Thiên Chúa. Thanh bảo với con chiên bổn đạo rằng mình chính ở trên trời, thay
thế Thượng đế giáng sinh xuống trần để truyền đạo, Từ hoàng hậu vốn là con gái
của Thượng đế, vậy thì hậu cũng là con gái của Đông Vương.
Tuyên bố vậy rồi, Thanh liền
truyền Từ hoàng hậu vào bái kiến. Hồng Thiên vương không biết làm cách nào,
đành phải bảo hoàng hậu tô son điểm phấn, sửa soạn vào bái kiến Đông vương.
Đông vương Dương Tú Thanh vừa
mới thấy bóng người đẹp đã hồn phách lên mây. Thế là từ đó Thanh cứ lấy danh
nghĩa Thượng đế gọi Từ hoàng hậu tới phủ Đông vương. Thượng đế giáo là quốc
giáo của Thái Bình Thiên quốc, nên Hồng Thiên hoàng cũng không dám phản đối.
Đông vương Dương Tú Thanh lại nắm giữ giáo quyền thế lực rất lớn, ngay cả Thiên
hoàng cũng chẳng đám làm gì Thanh.
Về sau Từ hoàng hậu bàn tính
với Toàn một kế sách, cho Toàn biết bên cạnh Thanh có một cô nữ thư ký tên gọi
Phó Thiện Tường sắc nước hương trời mà Thanh hết sức cưng chiều, rồi xúi Toàn:
- Bệ hạ nói thác ra rằng trong
cung cấm sao nhiều văn thư mật cần tuyên triệu Phó Thiện Tường vào cung giúp
việc.
Nghe xong, Thiên hoàng hiểu
ngay và định ngay chủ ý. Từ đó về sau, cứ mỗi khi Đông vương cho người mời Từ
hoàng hậu thì Thiên hoàng cũng hạ lệnh tuyên triệu Phó Thiện Tường vào cung.
Đông Vương sợ đánh mất Phó Thiện Tường nên từ đó không dám cho người đến mời Từ
hoàng hậu nữa.
Phó Thiện Tường đẹp đến thế nào
mà được Đông vương cưng chiều đến thế?
Phó Thiện Tường vốn con nhà tử
tế đất Kim Lăng, đi học từ thuở nhỏ, chữ nghĩa tinh thông. Nàng quả có sắc chim
sa cá lặn, đổ nước nghiêng thành. Khi Thái Bình Thiên quốc đặt kinh đô tại Kim
Lăng, liền cho người đi khắp nơi chọn gái đẹp đưa về nữ quán ở đây, rồi nói
thác là mời về làm nữ thư ký đưa vào cung. Hồi đó Phó Thiện Tường mới có mười
bảy tuổi. Đông Vương vừa thấy nàng liền cho lệnh gọi về phủ, để ở trong lầu Đa
bảo, coi giữ văn thư ở trong phủ.
Cái lầu Đa bảo này ở về mé sông
nam Tử hà trong hoa viên của vương phủ. Phía ngoài lầu, hoa cỏ vây quanh, chim
cá lượn từng bầy… Trong lầu trần thiết châu ngọc đủ loại trên bốn vách. Phó
Thiện Tường lại thích các bức hoạ chữ cổ. Đông Vương bèn bảo bọn thủ hạ tới các
nhà dân cư nhà nào có là cướp đoạt đem về. Những cái đỉnh ngọc cũng được tập
trung tại đây. Thiện Tường suốt ngày đốt nhang đọc sách, hết sức nhàn nhã, Đông
vương tuy sủng ái nàng hết sức nhưng cũng không dám tới quấy rầy nàng nhiều.
Trái lại, vương suốt ngày chỉ cùng với em gái Hồng Thiên hoàng là Hồng Tuyên
Kiều mua vui ở động Thiên Xuân góc tây nam hoa viên. Động Thiên Xuân xây cất
toàn bằng đá hồ, óng ánh rực rỡ. Trên nền nhà, trải toàn thảm nhung; chung
quanh tường treo toàn màn gấm. Ở bốn góc tường đá, đều có gắn đèn phản quang,
chiếu sáng như ban ngày. Đến mùa hè, bốn phía mở hết cửa sổ, gió mát thổi lộng
vào trong, mát mẻ vô cùng. Mùa đông sang, cửa động đóng kín. Dưới đất đốt bếp
lửa, mười phần ấm áp. Khu thạch động kiến trúc quanh co đi vào trong chẳng khác
như đi vào mê hồn động.
Còn Hồng Tuyên Kiều là người
như thế nào? Nàng thật là một vưu vật cõi nhân gian. Nàng với Hồng Tú Toàn là
anh em cùng cha khác mẹ. Sau khi phụ thân Toàn chết mẹ nàng liền bỏ đi lấy
chồng khác. Toàn tính vốn ham kết giao bạn bè ngay từ hồi còn nhỏ và lang thang
chốn giang hồ, hành tung bất định. Toàn thấy cô em gái không người nương tựa,
bèn ký thác cho anh là Hồng Nhân Phát nuôi dưỡng.
Hồng Tuyên Kiều ngày từ lúc nhỏ đã có bộ mặt xinh xắn mày xanh mắt trong, trông rất đáng yêu. Tính tình lại hào sảng. Nàng thích ăn bận như kiểu con trai. Hồi mười bảy, nàng thấy người hàng xóm biết võ, liền theo học. Lâu dần, hết tháng này qua năm khác, nàng đã có một bản lĩnh cừ khôi, có thể chạy nhảy như bay, múa đao, múa kiếm nhanh thư chớp.
Đúng lúc nàng học võ đã thành
tài thì nhà Hồng Nhân Phát bị cháy rụi. Nàng không còn nhà để về, thế là nàng
theo người phiêu bạt giang hồ. Cũng chính lúc này, Hồng Tú Toàn đang cùng với
bọn Phùng Vân Sơn, Chu Cửu Đào vào hội tin thờ Thượng đế. Cửu Đào chết, Toàn
lên thay làm hội trưởng.
Toàn trở về nhà tìm em gái
nhưng nàng đã ra đi, không biết về phương nào.
Hồi đó, ở miền Võ Tuyên, có một
người họ Tiêu, là một đại tài chủ, giàu có lớn. Toàn ở Quế bình đang cần tiền,
vì phải có tiền thì hội mới mong phát triển được. Toàn bèn nghĩ cách đưa họ
Tiêu vào hội để mượn tiền. Toàn liền đưa anh em đồng đạo về ở tại núi Bằng Hoá
miền Võ Tuyên rồi đích thân mình ngày ngày tới khuyên họ Tiêu vào hội tin thờ
Thượng đế.
Tiêu Triều Phụng vốn là người
thích làm việc thiện, nghe thấy nói hội Thượng đế cứu người thoát khổ ách, có
phần tin tưởng đôi chút. Nhưng phiền là con ông ta gọi Tiêu Triều Quý, một
thanh niên đẹp trai hào sảng, võ nghệ cao cường, thấy Hồng Tú Toàn có cái điệu
bộ kỳ cục, quỷ quái, bèn quay đi không thèm để ý tới. Tiêu Triều Phụng chỉ có
mỗi một mình Quý là trai, nên hết sức cưng chiều. Ông Phụng thấy con không tin
thì cũng chẳng chịu bỏ tiền ra giúp Toàn.
Giữa lúc Hồng Tú Toàn vô kế khả
thi đành khoanh tay ngồi nhìn thì Tiêu Triều Quý bỗng xảy ra một cuộc lượng
duyên ngoài ý muốn. Số là Quý suốt ngày chỉ lang thang hết phố lớn đến phố nhỏ
chơi bời đàng điếm với bạn bè. Bỗng một hôm Quý thấy có một đám Sơn đông mãi
võ, quần chúng đứng vây quanh đông nghẹt để xem. Quý cũng vội lách vào xem.
Mọi người thấy Quý vốn công tử
con nhà giàu, gia tư tỷ triệu, liền nhường chỗ cho Quý đứng hàng đầu.
Một lát sau, Quý thấy một tên
đại hán đứng trước đám đông nói vài ba câu giáo đầu, rồi bắt đầu đánh chiếc
thanh la phèng phèng. Một cô gái trẻ măng mặt thoa phấn môi tô thắm, thật là
sắc nước hương trời, chạy ra nhìn khán gia mỉm cười.
Quý thấy người con gái đẹp quá,
không chịu nổi cũng phải thốt lên::
- Đẹp quá!
Sau đó, người con gái bắt đầu
múa võ dượt quyền, miếng võ nào, thứ khí giới nào, cũng đều tinh thông.
Quý thấy vậy, lại một lần nữa
ca tụng:
- Trời! Quả là một trang nữ anh
hùng!
Người con gái được khen, liền
liếc mắt nhìn quý. Quý vốn là một cậu trai tính nóng lại đa tình, làm sao mà
nhịn được, nên chỉ một cái nhìn ấy, thần hồn dã bay bỗng đi mất. Quý đợi mãi
đến khi nàng thu dọn đồ nghề mới bước gần anh chàng đại hán, bảo hắn mình có ý
mua người con gái nọ.
Anh chàng đại hán lâu nay sinh
sống thảy đều nhờ cô gái nọ, đời nào chịu bán. Quý thấy anh chàng đại hán không
chịu bán, tình cấp ý sỉnh. Hơn nữa, Quý còn ỷ mình con nhà giàu ở địa phương và
thân hình khỏe mạnh, mình đồng da sắt, bèn quắc mắt, dựng ngược đôi mày quát
một tiếng lớn, chỉ vào mặt đại hán:
- Thằng tù mọt gông kia! Mi cả
gan dám bịp bợm đồng bào giữa ban ngày ban mặt. Mi chịu thì chịu ngay đi, còn
nếu không chịu thì ta sẽ đưa mi tới ông huyện để mi biết thủ đoạn của thái gia
họ Tiêu này.
Nói đoạn, Quý liền xốc lại, giơ
tay nắm lấy cánh tay tên đại hán. Tên đại hán thấy Quý thanh thế oai hách quá,
đâm ra hoảng vội kéo Quý vào một cái tiệm nước nhỏ điều đình, thế là Quý chỉ
còn phải đưa ra hai trăm lạng bạc mua được nàng đem về.
Quý hí hửng cho là mình đã có
một cuộc tình duyên tốt đẹp lắm, ai ngừ ngay đêm đầu tiên ấy Quý đã thất vọng
vì nàng đã mất trinh từ lúc nào. Quý hỏi nàng mới biết nàng bị tên đại hán nọ
cưỡng gian. Quý giận lắm, dắt một con dao sắc, lén đi tìm tên đại hán. Tên đại
hán nọ vẫn còn ngụ tại khách sạn. Quý cầm dao, tông cửa xông vào.
Quý nhè giữa ngực tên đại hán
lụi một dao lút cán. Tên đại hán ngã quay ra chết tốt. Quý chạy ra, trốn về
nhà, nói chuyện cho cha mẹ nghe. Ông Tiên Triều Phụng thấy con giết người chân
tay rụng rời, mặt mày xám ngoét lại, vội bảo con;
- Việc đã đến thế này thì đi
ngay vào núi Bằng Hoá mà cầu cứu Hồng giáo chủ đi. Giáo chủ binh hùng tướng
mạnh có thể cứu con được.
Quý nghe lời cha bèn ngay đêm
đó, mang luôn cô gái nọ vào núi Bằng Hoá, Hồng Tú Toàn thoạt nhìn cô gái, nhận
ngay ra được em gái mình là Hồng Tuyên Kiều. Kiều cũng nhận ra Toàn là anh
mình, thế là hai anh em ôm nhau khóc ròng. Toàn hỏi Kiều nguyên do. Lúc đó Kiều
mới kể hết mọi chuyện cho anh nghe.
Hồng Tuyên Kiều ngày từ lúc nhỏ đã có bộ mặt xinh xắn mày xanh mắt trong, trông rất đáng yêu. Tính tình lại hào sảng. Nàng thích ăn bận như kiểu con trai. Hồi mười bảy, nàng thấy người hàng xóm biết võ, liền theo học. Lâu dần, hết tháng này qua năm khác, nàng đã có một bản lĩnh cừ khôi, có thể chạy nhảy như bay, múa đao, múa kiếm nhanh thư chớp.
Hồi 112: Tình anh em như biển cả bao dung
Hồng Tuyên Kiều kể lại
cho Hồng Tú Toàn nghe mình bị viên đại hán cưỡng gian, lưu lạc giang hồ đây đó
ra sao, gặp Tiêu Triều Quý như thế nào, rồi Tiêu Triều Quý vì mình báo thù,
mang tội giết người bỏ trốn tới đây, tất cả kể lại một lượt không sót chỗ nào.
Hồng Tú Toàn lúc đó đang nghĩ
cách lợi dụng gia tài của họ Tiêu nay nghe cô em Kiều nói vây, thực là hợp ý
mình lắm. Thế là Toàn khuyên Quý vào đạo Thượng đế, bái yết giáo chủ. Toàn lại
nói:
- Triều Quý mới vào đạo, chỉ sợ
tâm trí không bền. Quý vốn tuổi trẻ sức trai, nhiều chỗ rất cần phải có y. Bởi
vậy y cần phải ra ngoài lo việc, lúc này chưa thể thành hôn được. Phải đợi ba
năm sau vợ chồng mới có thể sum họp.
Toàn lại cho mời Tiêu Triều
Phụng lên núi gọi Hồng Tuyên Kiều theo ông gia ở cùng một nơi. Mặt khác, Toàn
cho Quý đi truyền đạo.
Về sau thấy Tiêu Triều Phụng ở
trên núi có vẻ bất tiện, Hồng Tú Toàn liền đưa về vùng sông Đại Hoàng, ở dưới
chân một ngọn núi cao, cây cối xanh tốt um tùm. Trên núi có một vị sơn chủ tên
gọi Dương Tử Long. Long vốn là một trang thiếu niên anh tuấn, dưới tay còn có
một đám tiều phu đông tới bốn năm ngàn, hằng ngày vào rừng chặt cây đốt than.
Đám này đa phần là hung hăng mạnh tợn. Long ỷ thế mình, độc chiếm một phương.
Long cung là một tên hiếu sắc. Bọn đàn bà con gái quanh vùng đều bị hắn hãm
hiếp làm nhục.
Nhưng có điều lạ là đàn bà con
gái vùng Quế Bình không cần tới chuyện liêm sỉ, họ bị Long gian ô thế chẳng
những làm nhục mà lại còn cho là vinh hạnh lắm, đem kể hết cho mọi người nghe.
Hồi đó Hồng Tuyên Kiều theo bố
chồng cùng ở một nơi, cảm thấy cô đơn hiu quạnh, tự thương mình bạc mệnh. Nàng
thường nhớ tới Tiêu Triều Quý nhưng Quý ở xa mãi tận chân trời biền biệt. Nước
xa không thể cứu được lửa gần. Ngày nào cũng vậy, vào lúc hoàng hôn, nàng
thường đứng cửa, bóng dáng thướt tha. Đã có mấy lần Dương Tử Long để ý tới
nàng. Long đời nào chịu bỏ miếng mồi ngon bèn tìm trăm mưu nghìn chước quyến rũ
nàng, mãi tới khi cái bụng nàng to bằng cái trống.
Hồng Tuyên Kiều nhìn thấy cái
bầu của mình mà sợ. Nàng bỏ trốn theo Long chạy suốt đêm tới miền Phúc Kiến.
Hồng Tú Toàn biết chuyện này.
Toàn còn được rõ họ Dương có nhiều thủ hạ, bèn cho người tới khuyên hắn vào
hội, chẳng truy cứu gì tới cái tội gian dâm nữa. Dương Tử Long mừng quá đem
luôn cả đám tiều phu đông đảo tới núi Bằng Hoá.
Long cảm lòng tốt của Toàn, kết
làm anh em với Toàn và đổi tên là Tú Thanh. Long còn tình nguyện đem Tuyên Kiều
hoàn lại cho Tiêu Triều Quý.
Giữa lúc đó Quý từ xa về, được
tin vợ mình bị Dương Tú Thanh gian dâm, liền tuốt đao tính liều mạng ăn thua
với Thanh. Hồng Tú Toàn vội vàng khuyên giải:
- Anh em ta gắng cùng nhau mưu
đồ đại sự, hà tất phải để tâm quá nhiều tới một con đàn bà khiến tổn thương hoà
khí. Ngày sau sự nghiệp hoàn thành rồi mỹ nhân trong thiên hạ này đều là của
bọn ta cả. Khư khư một đứa Tuyên Kiều làm gì! Ngay đến cả gia quyến đại ca đây,
nếu cần, đại ca cũng sẵn sàng đưa hầu tất cả các anh em được nữa là! Bọn ta chỉ
cần biết đồng tâm hiệp lực để cứu đời, đừng hỏi tới những chuyện vụn vặt.
Nói đoạn Toàn cho gọi ngay luôn
một lúc ba nàng hầu của mình ra để hầu rượu cho mọi người. Thế là cả bọn ngôi
vào bàn nhậu nhẹt, nói cười vui nhộn như đám hội, quên phứt đi nỗi hận thù.
Ít lâu sau Phùng Vân Sơn theo
lệnh của Hồng Tú Toàn tới huyện Tiên Du truyền đạo chẳng biết lý do gì bị quan
sở tại bắt. Viên quan này lại buộc Sơn phải viết thư lừa Toàn tới và bắt nhốt,
đem giam cả hai vào nhà lao.
Tin động trời này truyền tới
núi Bằng Sơn làm cho Dương Tú Thanh và Tiêu Triều Quý quýnh lên, chẳng biết gỡ
cách nào. Bọn Quý dò la biết được huyện Tiên Du có một tay thổ hào tên gọi
Hoàng Ngọc Côn, kéo bè kết đảng, bao thầu hết chuyện kiện tụng. Côn ỷ vào người
chú làm quan trong kinh cho nên bọn quan địa phương thảy đều sợ và nghe hắn.
Bất cứ ai phạm tội giết người đốt nhà, miễn là có tiền cho hắn thì nhà lao đã
có khoá tới mấy mươi lần đi nữa cũng có thể ra được.
Côn được biết bọn Hồng Tú Toàn toan tính làm lớn chuyện ở vùng Quế Bình, Tuyên Võ, lại cho Phùng Văn Sơn đến vùng mình truyền đạo mà không nói với hắn một lời nào. Hắn tức giận liền lẻn tới nha môn cáo mật. Quan tri huyện Tiên Du được tin vội kéo quân tới ngay đêm đó bắt cả bọn Phùng Vân Sơn, lại còn buộc Sơn viết thư lừa Toàn tới để bắt luôn. Đến lúc thẩm vấn, mới biết Toàn là giáo chủ hội Thượng đế.
Hồng Tú Toàn vốn là tên trọng
phạm mà nha môn thượng ty các tỉnh đang lưu tâm lùng bắt. Nay Toàn bỗng sa lưới
thử hỏi viên quan tri huyện Tiên Du sung sướng biết chừng nào, lập tức bẩm lên
các thượng ty, tính đem ra chính pháp ngay.
Dương Tú Thanh nghĩ ra được kế
sách bèn tổ chức đoàn thợ đốt than một trăm người, cải trang theo nhiều kiểu
của bọn khách giang hồ, rồi cứ từng tốp ba, năm người một, kéo nhau vào trong
thành huyện Tiên Du, dò la tin tức xem lúc nào giải Toàn và Sơn ra khỏi lao thì
nhảy vô đánh cướp liền.
Đặc biệt bọn Hồng Tuyên Kiều
bắt chước cách kiếm ăn thuở nào, cải trang theo kiểu Sơn Đông mãi võ, có Tiêu
Triều Quý đi theo. Kiều và Quý chọn nơi đất trống rộng rãi làm diễn trường rồi
Quý gõ thanh la phèng phèng inh ỏi, trong khi đó Kiều nai nịt gọn gàng, thon
thả cái bụng, hồng hồng đôi má, múa tít cây thương đâm đông đánh tây túi bụi.
Bọn người hiếu kỳ kéo tới xem, chẳng mấy chốc đã bị cặp mắt của Kiều thu hồn
lượm phách, không còn rời khỏi được nữa.
Bỗng có một tên đại hán cao lớn
từ trong đám đông nhô ra, mình mặc toàn đồ tơ lụa, phía sau có bốn tên gia nhân
theo hầu. Một tên gia nhân trong bọn chạy tới bảo Tiêu Triều Quý:
- Tướng công muốn mời cô nương
của nhà ngươi tới phủ chơi!
Quý hỏi lại tên gia nhân:
- Tướng công của nhà ngươi là
ai vậy?
Tên gia nhân đưa tay chỉ tên
đại hán đứng phía trước rồi chỉ luôn ngón tay cái nói tiếp:
- Tướng công Hoàng Ngọc Côn đó!
Quanh đây ít ra một trăm dặm ai lại không biết tướng công tôi!
Hồng Tuyên Kiều nghe nói vậy
biết là chuyện trúng ý mình vội liếc mắt ra hiệu cho Quý rồi chạy lại trước mặt
tên đại hán gật đầu chào và gửi lời chúc tụng.
Tên đại hán cho gọi một chiếc
kiệu nhỏ tới để Tuyên Kiều ngồi lên rồi khiêng về phủ. Hoàng Ngọc Côn bày tiệc
ngay tại thư thất đãi hai người Kiều, Quý. Hồng Tuyên Kiều đã có dụng ý thả mồi
câu bắt, bèn bước lại mời trà chuốc rượu Côn khiến lòng hắn rậm rật khó yên,
liền lấy ra ba trăm lạng bạc, muốn Tuyên Kiều ngủ với hắn một đêm, Kiều giả bộ
e lệ chối từ. Côn năn nỉ ba, bốn lần thì nàng buộc Côn phải nhận hai điều kiện
mới chịu cho. Đã đến lúc này thì hai trăm điều kiện Côn cũng phải theo hết. Côn
chịu rồi, Tuyên Kiều mới lên tiếng như ra lệnh:
- Điều kiện thứ nhất. Ngươi
phải vào đạo của ta thì lúc đó ta mới coi mi như phu quân để trao gửi tấm lòng.
Côn nghe nói tới đây đã vội
vàng lên tiếng chịu ngay. Nhưng nàng đâu đã vội tin, nói tiếp:
- Lời nói không bằng cớ! Phải
viết ngay tình nguyện thư mới được!
Côn lúc này đã bị sắc dục làm
cho mê loạn rồi, đâu có còn nghĩ tới chuyện lợi hại về sau nữa. Tuyên Kiều vốn
có chủ định nên đã mang sẵn đơn tình nguyện bên mình từ trước.
Nàng lấy ra đưa cho Côn điền
tên tuổi rồi cất đi cẩn thận. Nàng nói tới điều kiện thứ hai:
- Trong vòng hai ngày, anh ta
là Hồng Tú Toàn và đạo hữu Phùng Vân Sơn phải được thả ra khỏi lao.
Hoàng Ngọc Côn nghe xong, bèn nói:
- Việc đó hãy để mặc ta! Nội
trong hai ngày, anh nàng sẽ ra khỏi lao. Cứ yên tâm.
Tuyên Kiều thấy Côn đã thoả mãn
điều kiện của mình, lại có đơn tình nguyện nắm trong tay, không còn sợ Côn chạy
thoát đường nào, mới để Côn mặc sức tìm vui hưởng lạc.
Khi Hồng Tuyên Kiều bước ra
khỏi cổng phủ, có Hoàng Ngọc Côn đưa chân, ước hẹn ngày hôm sau đúng giờ ngọ
gặp nhau trên cầu Thất Lý ngoài cửa đông.
Tuyên Kiều vội về báo cho các
anh em đồng bọn biết. Qua hôm sau, mọi người tới cầu Thất Lý đợi chờ chừng một
lát, quả nhiên Hoàng Ngọc Côn đưa Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn ra tới.
Vừa gặp mọi người Hồng Tú Toàn
đã khoe Côn nghĩa khí thế nào, sau đó khuyên Côn nên nhập bọn. Tuyên Kiều nghe
xong, phì cười bảo:
- Khỏi phiền đại ca lo tới điều
đó. Con độc long này đã có tiểu muội trị nó rồi.
Quả nhiên Hoàng Ngọc Côn không
thể bỏ được Hồng Tuyên Kiều, y bèn nhập bọn, kéo nhau lên núi Bằng Hoá. Tới nơi
Hồng Tú Toàn cử Côn làm chức Phó giáo chủ. Còn Côn nhân khi rảnh lại lui tới
tìm vui cùng người đẹp Tuyên Kiều. Cặp tình nhân mới này nói không biết bao
những chuyện ân tình nồng thắm, say sưa. Côn ngày càng tỏ ra trung thành với
hội cũng như với đạo.
Toàn nghe nói ở huyện Quý có
một người họ Vi gia tư kể có tới tám trăm vạn. Chủ nhân họ Vi năm đó đã hơn năm
chục, dưới gối chỉ có một đứa con trai tên gọi Vi Xương Huy là một thanh niên
hết sức khôi ngô tuấn tú.
Huy cũng là một tay phong lưu
có hạng. Suốt một dải huyện Quý, bọn chị em xóm dưới, thấy Huy vừa đẹp trai,
vừa con nhà giàu có, cô nào cũng tìm cách ve vãn, xoắn xuýt lấy chàng. Bởi thế
ngay từ lúc mười sáu tuổi, Huy đã đam niêm sắc dục. Mãi khi tuổi đã hai mươi,
Huy vẫn còn chưa lấy vợ. Cha mẹ Huy thấy con nhu vậy, lòng lúc nào cũng lo
lắng, nên thường nhắc tới chuyện vợ con với Huy. Nhưng Huy bảo vợ phải người
tuyệt sắc mới lấy.
Một hôm, Vi Xương Huy từ ngoài
chạy về nhà cười khanh khách bảo cha:
- Hôm nay con đã tìm thấy một
trang giai nhân tuyệt sắc rồi cha ạ!
Ông già Huy hỏi nơi nào thì Huy
nói:
- Cô ta ở trong tiệm bánh gần
nhà ta.
Ông già Huy nghe nói xong, lấy
làm tức bảo Huy:
- Nhà mình như thế này mà mày
đi lấy một con sen, con ở trong tiệm bánh làm vợ ư? Người ta mà biết thì cả cha
mày cũng không còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ nữa.
Vi Xương Huy khi đã mê cô gái
tiệm bánh, bèn trộm tiền nhà mang ra cho tình nhân. Hằng ngày, Huy trốn vào nằm
lỳ tại đó Một hôm, cô gái trong tiệm bánh nọ tìm tới, nói với ông già họ Vi:
- Tôi là em gái của Thiên hoàng
tên gọi Hồng Tuyên Kiều. Ngày nay thế giới sắp có đại nạn, công tử nhà ta có
duyên với tôi nên tôi đến đây để cứu chàng. Hiện chàng được tôi đưa lên núi
Bằng Hoá rồi. Nếu cụ hiểu biết thời cơ thì nên mau thu xếp theo tôi lên núi,
bằng không bọn quan lại cho cụ tư thông với đạo, bắt giam lại thì lúc đó người
chết của hết, có hối cũng chẳng kịp nữa.
Ông già Huy nghe Tuyên Kiều nói
một lượt, hoảng hồn bạt vía, mắt trợn, miệng há hốc ra đến không còn ngậm lại
được ông ta biết hồi đó trong huyện Quý có một số tín đồ theo Thiên chúa giáo.
Ngay cả bọn nha dịch trong nha môn mà cũng còn là đồ đảng của Hồng Tú Toàn. Ông
già Huy đã biết mình lạc vào cạm bẫy của Hồng Tuyên Kiều, không còn cách gì
thoát nữa. Ông đành ngoan ngoãn theo Tuyên Kiều lên núi Bằng Hoá, yết kiến Hồng
Tú Toàn. Trong khi đó Vi Xương Huy đã được Toàn phong làm Bắc vương. Ông già
Huy chỉ còn cách đem toàn bộ gia sản quyên cúng vào hội.
Đến đây tam gác chuyện Thái
Bình Thiên Quốc mà nói tới việc cung Thanh.
Côn được biết bọn Hồng Tú Toàn toan tính làm lớn chuyện ở vùng Quế Bình, Tuyên Võ, lại cho Phùng Văn Sơn đến vùng mình truyền đạo mà không nói với hắn một lời nào. Hắn tức giận liền lẻn tới nha môn cáo mật. Quan tri huyện Tiên Du được tin vội kéo quân tới ngay đêm đó bắt cả bọn Phùng Vân Sơn, lại còn buộc Sơn viết thư lừa Toàn tới để bắt luôn. Đến lúc thẩm vấn, mới biết Toàn là giáo chủ hội Thượng đế.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét