Chương 12:
Đại thần Nôn San biết chuyện đó, đã tìm cách lôi kéo vị hoàng hậu này về phe mình. Thấy có kẻ ủng hộ mình, hoàng hậu Pha Luông không cần dè dặt, nóng nảy nói tuốt ra những ấm ức trong lòng. Bà thề quyết không đội trời chung với hoàng hậu Ngọc Vạn. Bà cũng đe dọa khi con bà lên ngôi hoàng đế, bà sẽ cho hoàng hậu Ngọc Vạn biết tay. Khi phe Nôn San hành động bị thất bại, những lời bà nói đều bị người ta khai ra hết. Việc ấy làm cho vua Chey giận bà lắm. Hoàng hậu Pha Luông cũng biết thế nên bà rất hồi hộp lo sợ một sự khiển trách, trừng phạt sẽ đến bất ngờ. Nhưng không hiểu sao nhà vua tuyệt nhiên không đả động gì đến chuyện đó. Dù thế, hoàng hậu Pha Luông cũng không sao dứt được nỗi hoang mang. Tất nhiên, bà cũng không khỏi phập phồng lo sợ cho cả thái tử Chan nữa.
Nỗi hoang mang lo sợ của hoàng hậu Pha Luông mỗi ngày mỗi lớn. Nào mưu đồ bất chánh của Nôn San đổ bể gây tai tiếng cho bà! Nào việc nhà vua không còn đối xử mặn nồng với bà! Nhất là việc hoàng hậu Ngọc Vạn sắp đến ngày sinh đẻ! Hoàng hậu Pha Luông càng sợ, càng thất vọng, càng sinh ra quẩn trí...
Sáng kia, một nàng thị nữ bưng nước rửa mặt vào cho bà thì thấy bà dáng vẻ bơ phờ, có lẽ do mất ngủ. Bà ngồi một mình, đang nói lẩm bẩm gì đó. Nàng thị nữ tưởng bà nói với mình, vội thưa:
- Bẩm hoàng hậu bảo gì ạ?
Hoàng hậu nhìn quanh với cặp mắt đờ đẫn, nói:
- Nó phải sinh ra con gái! Nó phải sinh ra con gái!
Nàng thị nữ không hiểu gì ngạc nhiên thưa lại:
- Bẩm, hoàng hậu nói ai ạ?
Hoàng hậu bỗng nổi giận hất tung thau nước, nạt lớn:
- Cút đi cho khuất mắt tao!
Nàng thị nữ hoảng sợ bước ra ngoài.
Từ đó, các thị nữ lâu lâu lại nghe hoàng hậu Pha Luông nói lảm nhảm một mình, lui tới cũng chỉ một câu: "Nó phải sinh ra con gái!".
Năm Nhâm Tuất, hoàng hậu Ngọc Vạn sinh ra được một hoàng nam rất khôi ngô. Vua Chey mừng lắm, đặt tên cho hoàng tử là To. Hình như những lo âu vướng vít trong ngài lâu nay giờ đã thật sự tan biến hết, nhà vua cảm thấy mình hạnh phúc vô ngần. Ngoài hạnh phúc gia đình, vua Chey còn coi đây như là một thắng lợi ngoại giao: Con trai của ngài cũng là máu thịt của chúa Thuận Hóa. Ngài tin tưởng rằng từ đây nếu Chân Lạp gặp nguy biến, người Việt chắc chắn sẽ hỗ trợ cho ngài mạnh mẽ hơn, sốt sắng hơn! Vua Chey cho tổ chức ăn mừng cả nước và sai sứ sang báo hỉ với triều đình Thuận Hóa.
Khi hoàng hậu Pha Luông nghe được tin này, bà nổi giận đùng đùng hét lên:
- Ta phải giết nó! Ta phải giết nó!
Rồi bà đập phá lung tung. Đập phá chán bà lại kêu gào, khóc lóc thảm thiết làm bọn thị nữ phải lo bấn lên. Nhưng vua Chey cứ làm lơ, không hỏi han đến.
Chứng nói nhảm của hoàng hậu Pha Luông mỗi ngày mỗi tăng. Nhiều lúc bà nói xúc phạm tới cả vua Chey nữa. Vua Chey được tin ấy bảo:
- Người mẹ đã như thế thì người con không thể nào làm thái tử được!
Thế là nhà vua xuống chiếu truất ngôi thái tử Chan.
Vua Chey không ngờ với việc làm ấy, ngài đã gây một hậu quả nghiêm trọng. Hoàng hậu Pha Luông càng nổi chứng bất thường dữ dội khi nghe tin con mình bị truất ngôi thái tử. Vào một buổi sáng sớm, mấy thị nữ bỗng phát giác ra vị hoàng hậu của mình đã chết cứng trên giường ngủ.
Các quan ngự y được lệnh vua khám nghiệm tử thi người xấu số kết luận rằng Hữu hoàng hậu qua đời vì bị trúng phong.
Ngược lại, có nguồn dư luận bên ngoài lại cho là bà đã tự tử bằng thuốc độc. Cũng có nguồn tin khác cho rằng bà đã bị đầu độc, nhưng người ta không đưa ra nghi vấn ai là thủ phạm. Vua Chey cũng tuyệt nhiên không đưa ra ý kiến nào. Ngài chỉ ra lệnh cho triều đình làm lễ hỏa táng hoàng hậu Pha Luông đúng theo nghi thức, thủ tục dành cho một vị hoàng hậu.
Sau đó, vua Chey lại cử một vị đại thần lo việc chăm sóc, dạy dỗ cho hoàng tử Chan.
Phần đông thiên hạ cho rằng cái tính cả ghen, ích kỷ của hoàng hậu Pha Luông đã dẫn bà đến chỗ tự hại chính mình.
Cũng từ đó, dưới triều vua Chey chỉ còn một mình bà Ngọc Vạn giữ ngôi vị hoàng hậu.
Chương 13:
Trước hết hãy nói đến trường hợp gây cấn của số người Việt đến làm ăn ở xứ Nông Nại. Họ đi đâu cũng bị các sắc dân khác đối xử hờ hững hoặc tẩy chay lộ liễu đã khiến họ chán ngán lắm. Sau đó, họ lại bị người Xiêm ra mặt lấn áp, xâm phạm đến cả sinh mạng họ để giành giựt cả đất đai do họ khai khẩn ra. Quá yếu thế, quá cô đơn, người Việt phải bàn nhau tính chuyện kéo đi nơi khác...
Nhưng họ chưa định được sẽ đi hướng nào thì một hôm vào lúc nửa đêm bỗng người ta nghe tiếng loa gọi:
"Nghe đây nghe đây, loan báo cho đồng bào Đại Việt biết! Ngày mai đồng bào cứ việc trở lại nương rẫy của mình để canh tác. Từ nay không còn ai quấy phá đe dọa đồng bào nữa, đồng bào chớ sợ hãi! Chúc đồng bào cố gắng làm ăn phát đạt!".
Tiếng loa được lập đi lập lại nhiều lần và nhiều nơi. Người ta bàn tán xôn xao. Có người đoán đây chỉ là sự trấn an của một số người nào đó để dân mình giữ vững tinh thần thôi. Hôm sau, lúc mặt trời đã lên cao, cũng có vài người Việt làm gan rủ nhau lò dò ra thăm ruộng rẫy. Người ta rất ngạc nhiên: cả vùng đều vắng vẻ êm ả khác thường. Tuyệt nhiên không thấy bóng một tên thổ dân hay một người Xiêm nào thấp thoáng.
Thế là những ngày kế tiếp, người ta kéo nhau ra tay sửa sang lại những nơi bị phá phách, vun quén lại hoa màu. Ban đầu họ không dám tỏa ra xa, chỉ làm quanh quẩn một cụm gần khu nhà cửa của mình. Khi thấy không có gì đáng ngại nữa, người ta dần nới rộng vòng đai. Họ vẫn dè dặt khi trở lại vùng đất cũ do mình khai thác ở quá gần phần đất của thổ dân và của người Xiêm.
Để đề phòng bất trắc, người Việt vẫn vừa làm việc vừa nhìn chừng những hoạt động trên vùng đất bên kia. Họ càng ngạc nhiên thấy cả vùng xa gần vẫn vắng vẻ lạ lùng. Một ngày, hai ngày, năm ngày, mười ngày... Cho đến khi hoa màu thu hoạch được mà người Xiêm lẫn thổ dân vẫn vắng hoe. Nhiều người Việt đâm ra nghi ngờ, càng dè chừng hơn, họ không đoán được bọn người bên kia đang âm mưu gì.
- Không biết tụi Xiêm đi đâu sạch chẳng thấy tên nào làm hùng làm hổ nữa nhỉ?
- Hay là chúng bị bệnh ôn dịch chết hết rồi chăng?
- Kỳ thật, hoa màu tới kỳ thu hoạch chủ đâu lại chẳng ngó ngàng tới như vậy?
- Chim với thú nó phá thế kia thì còn gì?
- Mình có thể sang để mót không nhỉ?
- Thôi, đừng có rớ tới mà mang họa!
Người Việt bên này nhìn sang bên kia mà cứ nóng ruột tiếc cho một vùng hoa màu trông rất ngon mắt đang bị chim, chuột, khỉ lớn khỉ nhỏ tha hồ thao túng...
Đến một hôm kia, người ta thấy có mấy người thổ dân đi mót. Mấy nông dân Đại Việt tò mò nẩy ra ý định chận những người này để hỏi cho rõ sự lạ. Họ đón đầu hai người đàn bà thổ dân và hỏi:
- Hoa màu người ta chưa thu hoạch sao mấy người dám đi mót?
- Dạ thưa, người ta đã bỏ, người ta đi chỗ khác để sống cả rồi.
- Tại sao người ta lại bỏ đi chỗ khác?
- Vì họ sợ thần rừng trừng phạt. Thần rừng báo cho họ biết phần đất này chỉ dành cho người Đại Việt!
- Thần rừng đã làm gì mà người Xiêm sợ đến thế?
- Dạ, thần rừng đã làm vị thủ lãnh người Xiêm chết thảm và dọa ai còn vương vấn ở đây cũng sẽ bị chết như thế nên người Xiêm phải đi!
- Thế mấy bà có sợ người Việt không?
- Sợ chứ, nhưng chúng tôi chỉ đi mót kiếm ăn chứ đâu có giành giựt, làm hại gì tới người Việt đâu!
Thế là cái tin người Việt được thần rừng che chở giúp đỡ lan ra trong cộng đồng di dân. Được thế, người Việt đua nhau lấn sang cả vùng đất mà thổ dân và người Xiêm vừa mới bỏ đi. Tuyệt nhiên không có một ai phản ứng chống lại. Thế là không bao lâu sau đó, toàn vùng đất trên đều thuộc về tay người Việt. Người Việt càng vững lòng tin tưởng để phát triển chương trình khai hoang canh tác của mình.
Một bộ phận di dân người Việt khác đến sinh sống ở vùng Preykor. Nơi này nhiều chỗ trũng thấp mọc toàn lau sậy nên muỗi mòng quá nhiều. Có lẽ vì sợ bệnh sốt rét nên các sắc dân khác chưa đến sinh sống bao nhiêu. Nhờ thế nên người Việt đến sống ở đây sinh hoạt thoải mái hơn. Sự xung đột va chạm giữa những kẻ đến trước với người Việt không có gì đáng kể. Người Việt ra sức khai quang phát triển cả nông nghiệp lẫn thương nghiệp. Đất đai được khai quang bao nhiêu thì muỗi mòng cũng tự động giảm đi bấy nhiêu. Thấy người Việt đến mỗi ngày mỗi đông và làm ăn cần cù, các sắc dân khác đều tỏ ra nể nang người Việt mà hòa hợp chung sống. Nơi này người Việt hoàn toàn chiếm ưu thế nên sau này quan đặc sứ Nguyễn Hữu Luân đã lựa làm chỗ xin lập trạm thu thuế các cơ sở thương mãi đầu tiên của Đại Việt tại Chân Lạp. Ở đây người ta cũng kháo nhau người Việt làm ăn phát đạt là nhờ có thần rừng giúp đỡ!
Một trường hợp khác, có một nhóm người Việt đi thăm dò đất đai, tình cờ gặp một dòng sông, họ thấy có nhiều thổ dân đang lưới cá. Đứng lại nhìn, họ vô cùng ngạc nhiên thấy cá bắt được quá nhiều. Người ta cứ quăng lưới xuống sông là chốc lát kéo lên được một mẻ cá nặng. Những mẻ cá này đã khiến người xem liên tưởng tới chuyện ma hay chuyện phép mầu. Những người Việt muốn lại gần để xem tận mắt vì họ chưa tin đó là sự thật. Nhưng những thổ dân ra vẻ khó chịu ngăn chận không cho họ lại gần. Đám người Việt phải ra về mà lòng ấm ức không đành...
Hôm sau, đám người Việt kéo thêm nhiều người nữa trở lại chỗ cũ để quan sát. Họ vẫn thấy thổ dân đang lưới cá và tiếp tục cản trở không cho họ tới gần. Hai bên lời qua tiếng lại rồi hầm hè nhau. Cuối cùng đám người Việt vẫn phải hậm hực bỏ về.
Thấy dòng sông này là một nguồn lợi vô biên, những kẻ đã chứng kiến việc kéo lưới đều nổi lòng tham. Khi trở về, người ta cứ kể cho nhau nghe những điều thấy được như kể chuyện thần tiên. Có người tin đó chỉ là hiện tượng ma đánh lừa nên gọi tên sông là dòng sông Cá Ma. Số người khác cố vận động với cộng đồng di dân Việt làm cách nào để chiếm được dòng sông. Thế nhưng chẳng mấy ai dám mạo hiểm tham gia chuyện đó...
Ngờ đâu phép lạ lại đến! Tự nhiên những thổ dân chuyên đánh cá trên dòng sông lắm cá ấy thình lình di chuyển đi đâu mất hết. Họ bỏ lại luôn cả những đất đai đã canh tác sẵn... Thế là người Việt không bỏ lỡ cơ hội, kéo đến chiếm ngự hoàn toàn khu vực.
Nhưng khi người Việt giành được dòng sông thì loại cá hồi thổ dân đánh bắt không còn nữa mà chỉ còn loại cá thông thường như ở các sông khác. Có kẻ cho rằng trước khi đi, thổ dân đã làm tiệt chủng loại cá đặc biệt ấy. Có kẻ lại tin hiện tượng cá ma là không sai. Bất ngờ năm sau, cũng khoảng mùa ấy, người ta thấy loại cá này từ biển lại nườm nượp kéo về nguồn. Từ đó người ta biết được hằng năm, cứ tới một thời kỳ nhất định, loại cá đặc biệt ấy lại từ ngoài biển đổ về thượng nguồn để đẻ. Thân hình chúng giống như cá trích nhưng lớn hơn nhiều. Sau khi đẻ trứng ở thượng nguồn thì chúng chết. Cá con nở xong lại kéo nhau xuôi dòng ra biển để sống. Rồi khi đã lớn, đã tới kỳ sinh đẻ, chúng lại từ biển tìm về nguồn. Đến mỗi kỳ cá về như thế, chúng chen chúc nhau lội ngược chật cả dòng sông. Vào dịp đó, người ta tha hồ đua nhau kéo lưới... Người ta gọi tên chúng là cá cháy hay cá hồi.
Tin đồn người Việt được thần linh che chở, giúp đỡ làm ăn cứ lan ra, lan ra...
Không phải chỉ có người Việt mới đồn đại với nhau điều đó mà cả người Chân Lạp, người Xiêm, người Lào và nhiều sắc dân khác cũng lắm kẻ tin như thế...
Chuyện nhiều kiều dân trên đất Chân Lạp như Xiêm, Lào, Chàm đang khai khẩn đất hoang hoặc đánh cá, buôn bán nhiều nơi đang phát triển tốt đẹp bỗng dưng bỏ hết, rủ nhau kéo về các thành thị làm nhiều người đâm ra thắc mắc. Hỏi ra, người ta đều cho biết là họ bị các giống quỉ thần, ma quái đe dọa, quấy nhiễu quá, ăn ngủ không yên, đành phải bỏ mà đi. Người ta cũng đồn đại các giống quỉ thần ma quái đó lại bênh vực, che chở người Việt hoặc người Việt có bùa chú cao hơn đã yểm trừ được quỉ thần. Nhiều người tin như thế bởi sau khi họ bị quấy nhiễu chịu không nổi phải bỏ đi rồi thì người Việt vẫn thản nhiên ở lại chỗ cũ yên ổn làm ăn. Cũng có người cho rằng ai gây khó khăn hoặc chống lại người Việt đều bị thần linh trừng phạt. Dần dần, nhiều sắc dân khác đã nhìn người Việt với cặp mắt e dè. Người Việt tới đâu họ lặng lẽ nhượng bộ rút lui tới đó. Hiện tượng ấy đã làm cho nhiều quan lại trong triều đình Chân Lạp càng ngờ vực người Việt. Nhưng họ không làm gì được. Chẳng bao lâu sau, trên khắp phần đất Thủy Chân Lạp gần như nơi nào cũng có bóng dáng người Việt...
Chương 14:
Thế là vua Xiêm không bỏ lỡ cơ hội, xuống lệnh điều quân tập trung ở biên giới. Các mũi nhọn đều chuẩn bị sẵn sàng chọc thẳng vào Oudong.
Các tướng Chân Lạp giữ biên giới thấy động lập tức cho người cáo cấp về kinh xin viện binh sẵn sàng cứu ứng.
Vua Chey nghe tin này ngài hết sức lo ngại. Ngài lập tức truyền lệnh cho quân đội chuẩn bị chiến tranh chống Xiêm. Quan đại thần Mông Cun hiến kế:
- Sức ta chống với nước Xiêm có thắng được cũng vất vả lắm. Mà dẫu ta thắng được, thế nào chúng cũng tìm cách trả thù. Như vậy là chiến tranh cứ kéo dài và sẽ có ngày ta đuối sức. Xin bệ hạ hãy làm cách nào để gài được người Đại Việt vào cuộc chiến này thì may ra ta nhẹ được áp lực của người Xiêm.
Vua Chey nói:
- Nhưng quân Đại Việt ở đây quá ít ỏi, họ đâu có thể làm gì nổi quân Xiêm?
Đại thần Mông Cun nói:
- Điều quan trọng là ta làm sao đẩy được họ vào trận chứ đông hay ít đâu cần. Nếu đội quân Đại Việt này bị Xiêm diệt, thế nào Thuận Hóa cũng sẽ tức giận mà can thiệp vào. Họ phải trả thù quân Xiêm và nhất là họ cũng lo cho số phận hoàng hậu chứ!
Vua Chey khen phải, ngài liền cho mời quan đặc sứ Đại Việt Nguyễn Hữu Luân đến để hỏi ý kiến.
Nguyên khi công nữ Ngọc Vạn về Chân Lạp làm hoàng hậu, triều đình Thuận Hóa cũng cử hai viên quan Nguyễn Hữu Luân và Lê Sáng đại diện cho mình giúp đỡ triều đình Chân Lạp. Hai vị quan này có chừng một trăm binh sĩ thuộc hạ, phần nhiều chỉ là thầy thợ các nghề chuyên môn. Vua quan Chân Lạp thường vẫn hay hỏi ý kiến hai ông về nhiều vấn đề. Dưới mắt bọn quan lại Chân Lạp, hai ông này cũng sáng giá vì là người của thượng quốc, hơn nữa là người thân tín của vị hoàng hậu đang được nhà vua sủng ái. Dĩ nhiên cũng có một số người không ưa chi họ...
Khi được vua Chey hỏi đến, viên đặc sứ Đại Việt không biết làm gì hơn là cử người về Thuận Hóa báo cáo sự việc và xin viện binh.
Hôm sau, trong buổi đại triều, quan đại thần Mông Cun tâu với vua Chey:
- Thời gian gần đây, người Xiêm nghỉ gây hấn với nước ta chỉ vì họ sợ bóng sợ gió người Việt. Nay họ rục rịch trỏ mòi xâm lấn trở lại, ta nên nhờ hai vị quan và đám lính Đại Việt ra mặt một chuyến, may ra họ lại sợ mà rút lui chăng?
Vua Chey nhìn các quan trong triều, rồi nhìn hai vị quan người Việt như muốn hỏi ý kiến. Viên quan võ Đại Việt là Lê Sáng xin phép bàn bạc với viên đặc sứ Nguyễn Hữu Luân một chốc, rồi tâu:
- Thần là quan võ, lúc nào cũng sẵn sàng ra trận. Tuy nhiên, đám quân của thần quá ít oi cũng khó xoay xở. Xin bệ hạ cho thần được cấp tốc tuyển dụng một số tráng đinh trong các nhóm di dân gần nhất để tăng thêm vây cánh, cũng là dịp để họ trả ơn bệ hạ nữa. Cúi xin bệ hạ chấp thuận cho!
Vua quan Chân Lạp vốn sẵn muốn lôi kéo người Việt vào trận chiến với người Xiêm, nay nghe viên quan Đại Việt hăng hái tình nguyện tuyển mộ quân sĩ giúp họ đánh Xiêm thì còn mong gì hơn! Vua Chey liền phán:
- Được, trẫm sẵn sàng giúp mọi phương tiện để khanh tuyển mộ người càng sớm càng tốt. Thời gian quá khẩn trương, khanh có thể tiến hành công việc ngay bây giờ!
Vua Chey liền truyền lệnh cho viên quan trách nhiệm cung cấp đầy đủ những nhu cầu mà viên quan Đại Việt đòi hỏi.
Phó tướng Lê Sáng bèn huy động toàn bộ phận cơ hữu của mình mở chiến dịch tuyển chọn tráng đinh ở bất cứ nơi nào có người Việt đến sinh sống. Nhờ sự tổ chức vận động khéo léo của quan phó tướng, kết quả thành tựu mỹ mãn. Trong số di dân còn ít oi ấy, chưa tới năm ngày đã có gần ba trăm người đầu quân. Quan phó tướng vui mừng lắm, liền chọn một khu vực, tổ chức huấn luyện sơ khởi cho họ trong vòng ba ngày. Đến sáng sớm ngày thứ ba thì bỗng có năm chàng kỵ sĩ từ đâu đến xin vào ra mắt phó tướng. Người dẫn đầu là một người cao lớn trông rất oai vũ, có đôi mắt nhung đẹp đẽ khác thường. Thấy bộ dạng cả năm người đều hùng tráng, cưỡi năm con ngựa chiến cao lớn, quan phó tướng vô cùng ngạc nhiên. Ông mừng quá, thân hành bước ra chào đón họ. Người cầm đầu bọn tráng sĩ, mình mặc áo đỏ, nói:
- Chúng tôi đến đây, xin tự đặt mình dưới quyền sai khiến của quan phó tướng để đi đánh giặc Xiêm!
- Bản chức vô cùng hân hạnh được các vị tráng sĩ chiếu cố tìm đến giúp đỡ! Xin mời vào bên trong nhà đàm đạo.
Ông thân ái nắm tay người cầm đầu dắt vào chỗ ông làm việc. Những người khác thì ở lại bên ngoài xem đám tráng đinh diễn tập. Chủ khách an tọa xong, phó tướng Lê Sáng nói:
- Xin cho bản chức được hân hạnh biết phương danh của tráng sĩ!
- Thưa, chúng tôi chỉ là những kẻ vô danh, không muốn ai biết đến tên tuổi. Chúng tôi đến đây vì lý tưởng phục vụ lẽ sống, vì sự lớn mạnh của dân tộc Đại Việt. Xin cứ gọi chúng tôi là "tráng sĩ" cũng được! Trong giai đoạn này, chúng tôi xin tình nguyện luôn sát cánh với tướng quân. Chúng tôi cũng xin luôn làm mũi nhọn trong cuộc chiến diệt giặc Xiêm La. Tướng quân cứ sai khiến, chúng tôi sẽ làm tròn mọi nhiệm vụ được giao phó. Giờ đây, chúng tôi cũng xin được giúp đỡ tướng quân một tay trong việc huấn luyện đám tân binh này chóng thành thục, tướng quân có vui lòng chăng?
Phó tướng rất mừng nhưng cũng hơi nghĩ ngợi. Những người này dĩ nhiên không thể nào là gián điệp của Xiêm La, nhưng biết đâu họ không là người của họ Trịnh hay họ Mạc? Không được biết rành mạch xuất xứ của họ, nếu có chuyện gì xảy ra, ai sẽ chịu trách nhiệm? Tất nhiên chỉ có ông thôi! Phó tướng dè dặt nói:
- Thế thì còn mong gì hơn nữa! Tiếc rằng, bản chức chỉ là kẻ đóng vai thừa hành, việc quân rất quan trọng, bản chức xin bẩm báo để xin lệnh trên quyết định cho phép hay không đã!
Tráng sĩ lại thưa:
- Tướng quân nghi ngờ gì chúng tôi chăng?
Phó tướng nói:
- Tráng sĩ thông cảm cho, đó là nguyên tắc dùng người của triều đình.
- Xin tướng quân đừng nghi ngại. Thật ra chúng tôi đến đây vì nước Đại Việt đã đành mà cũng vì tướng quân nữa. Chúng tôi biết tướng quân đang gặp khó khăn trong sứ mạng của mình. Chúng tôi biết hoàng hậu đang vận động với quốc vương Chân Lạp xin cho cộng đồng người Việt di dân được thành lập lực lượng võ trang tự vệ. Quốc vương vì nể hoàng hậu đã tán thành nhưng lại bị các quan phản đối dữ dội quá nên việc chưa ngã ngũ. Chúng tôi biết tướng quân hăng hái tình nguyện tuyển mộ đội lính người Việt đi đánh Xiêm cũng là để hỗ trợ việc đó. Trong trận đánh Xiêm này, nếu đội quân Đại Việt thành công, người Chân Lạp sẽ thấy sự hiện diện của người Việt là cần thiết, họ sẽ dễ dàng chấp thuận việc võ trang của người Việt. Ngược lại, nếu đội quân người Việt thất bại, việc xin cho người Việt võ trang tự vệ coi như hết hi vọng. Có phải tướng quân đang rối ruột vì việc đó không? Chúng tôi đến đây để ủng hộ tướng quân hoàn thành mục tiêu ấy, tướng quân lại nghi ngờ từ chối ư?
Phó tướng Lê Sáng nghe qua xiết bao kinh ngạc. Người này ở đâu mà nói đúng phóc cả tim phổi mình như vậy? Vấn đề này chắc vượt ngoài tầm tay ông rồi. Không có lệnh trên thì nhất định không xong! Ông hòa hoãn thăm dò:
- Vấn đề này quá quan trọng, bản chức không dám tự quyết định. Nhưng với thiện chí của quí vị tráng sĩ, xin cho binh sĩ được thưởng thức tài nghệ một phen để họ lên tinh thần trước. Trong khi đó, bản chức sẽ trình việc này lên quan đặc sứ để ngài quyết định.
Tráng sĩ áo đỏ nói với vẻ không hài lòng:
- Thời gian gấp rút rồi, đợi quan đặc sứ quyết định mà lỡ quan đặc sứ lừng khừng không quyết định sớm thì e hỏng việc mất! Chúng tôi đành phải ra đi vậy!
Quan phó tướng lúng túng:
- Xin tráng sĩ thong thả đã...
- Vâng, nể mặt tướng quân, chúng tôi sẽ đợi đến trưa, trong khi chờ đợi, chúng tôi cũng chiều ý tướng quân mà "múa rìu" trước ba quân một phen vậy!
Thế rồi tráng sĩ áo đỏ cho những người bạn mình rõ nội dung cuộc nói chuyện vừa rồi với quan phó tướng. Một chàng trẻ tuổi lộ vẻ nóng nảy nói:
- Tướng quân đã không cần đến chúng ta thì chúng ta đi chứ cần gì mà phải năn nỉ?
Một người khác phụ họa:
- Phải rồi đại huynh, chúng ta đi thôi!
Người cầm đầu nói:
- Ta đã hứa với quan phó tướng rồi. Chúng ta cứ cho họ xem vài ba đường kiếm rồi đi cũng không muộn!
Thế rồi họ lần lượt thay nhau biểu diễn võ nghệ trước đám tráng đinh mới tuyển. Mọi người đều kinh ngạc, thích thú, tiếng hoan hô vang dậy. Phó tướng cũng chăm chú theo dõi cuộc biểu diễn, ông càng kinh ngạc, nhủ thầm:
- Không biết họ là ai mà tài nghệ đến nước này! Nếu để họ mất lòng mà bỏ đi thì đáng tiếc lắm!
Ông đã cho người đến báo sự việc lên quan đặc sứ. Giờ ông càng nôn nóng đợi chờ quyết định của cấp trên. Khi cuộc biểu diễn võ nghệ của những tráng sĩ lạ mặt chấm dứt, phó tướng ân cần mời họ ở lại dùng cơm trưa. Nhưng các tráng sĩ bấy giờ cứ khăng khăng một mực đòi ra đi.
- Quan trên đã không cần thì chúng tôi ở lại đây làm gì?
- Chúng tôi đâu phải là những người đến đây để xin việc!
Quan phó tướng không thể nào cầm giữ họ được, ông đành phải tiễn chân họ trước sự tiếc rẻ của mọi người.
Mãi tới khi mặt trời gần lặn quan phó tướng mới nhận được lệnh của quan đặc sứ cho phép phó tướng tùy nghi xử trí. Muộn mất rồi! Quan phó tướng rất ân hận vì việc mình quá sợ trách nhiệm, không can đảm tự ý giữ những tráng sĩ kia ở lại.
***
Không bao lâu sau đó, phó tướng lại nhận được lệnh khẩn của triều đình Chân Lạp: Phó tướng Lê Sáng chỉ huy đội quân Đại Việt, tháp tùng đại binh Chân Lạp do hoàng thân Nặc Bính làm chủ soái, gấp rút chuẩn bị hôm sau lên đường ra mặt trận.
Đại quân Chân Lạp chưa tới biên giới đã gặp những toán quân biên phòng đang tất tả rút lui. Nối bước đám bại binh Chân Lạp ấy là đại quân hùng mạnh của nước Xiêm đang được đà thẳng tiến. Hoàng thân Nặc Bính liền cấp thời cho dàn quân bố trận để nghênh chiến.
Khi thấy Chân Lạp đã kéo viện binh hùng hậu đến, lại thấy có cả bóng cờ Đại Việt phấp phới, quân Xiêm mới chịu dừng lại. Thế là quân hai nước bố trí đối diện nhau.
Hoàng thân Nặc Bính vốn không ưa người Việt, ông thường tỏ ý nghi ngờ thiện chí của người Việt ra mặt. Vì lòng đố kỵ đó, ông muốn nhân cơ hội này để hạ uy tín người Đại Việt cho bõ ghét. Hoàng thân dự tính sẽ cho đội quân Việt xuất trận trước tiên. Nếu quân Việt thắng, ông sẽ thúc quân lên tiếp ứng để giành lấy thắng lợi. Nếu quân Việt bại, ông chỉ cần lơ đi không tiếp cứu là... thỏa lòng. Ông cho rằng quân Xiêm muốn nuốt trôi được đội quân Đại Việt khoảng bốn trăm mạng kia cũng phải sứt tai bể trán phần nào. Lúc ấy quân của ông sẽ xuất trận đúng với mưu chước "dĩ dật đãi lao", sẽ dễ dàng thu hoạch thắng lợi. Đêm đó, ông mời phó tướng Lê Sáng đến nói:
- Người Xiêm ngang ngược vẫn coi thường người Chân Lạp. Sở dĩ hôm nay chúng chưa dám tiến đánh vì còn ngại cái bóng cờ Đại Việt. Vậy xin ông ngày mai trương cờ Đại Việt đi trước, ráng ra sức đánh một trận làm cho chúng nể mặt mà rút lui. Tôi tin ông đủ sức làm việc đó mà không từ nan!
Phó tướng Lê Sáng dù là người khá từng trải, nhưng vẫn không đoán được thâm ý của người chủ soái Chân Lạp. Ông cứ nghĩ quân Việt ra trận tất nhiên quân Chân Lạp cũng ra trận chiến đấu bên nhau. Vì thế, ông mạnh dạn đáp:
- Người Đại Việt chúng tôi không bao giờ lùi bước trước một sức mạnh nào. Mặc dầu người chúng tôi ở đây quá ít, lại chưa được huấn luyện thuần thục, nhưng chủ soái đã cần, chúng tôi đâu dám không tuân lệnh!
Hoàng thân Nặc Bính rất mừng. Thế là lối xử sự có ác ý của ông có thể trót lọt.
Sau đó, phó tướng Lê Sáng về chỗ để nghỉ, nhưng tới khuya ông không thể nào ngủ được. Hình như linh tính ông cảm nhận được một điều gì khác thường. Thế rồi ông vùng dậy rút gươm dượt lại mấy đường võ cho đến khi thấm mệt. Ông chắc lưỡi: "Đáng tiếc thay, ta không giữ lại được những chàng tráng sĩ kia! Những tráng sĩ ấy mà cùng ta ra trận thì còn lo gì nữa? Ta đã để mất một cơ hội tốt! Dù sao, chuyến này ta nhất định vì danh dự của dân tộc Đại Việt, quyết phải đánh bại người Xiêm La mới nghe!". Rồi ông trở lại chỗ nằm cố dỗ một giấc ngủ để lấy lại sức cho ngày mai...
Hôm sau, một đội quân Xiêm kéo đến khiêu chiến. Hoàng thân Nặc Bính thúc phó tướng Lê Sáng ra quân. Đoàn quân Việt giương cờ gióng trống kéo ra có vẻ bề thế lắm. Ban đầu đội quân Xiêm thấy đội quân Việt kéo ra thì có vẻ hơi dè dặt. Nhưng sau đó, thấy quân Việt không đông lắm, họ hung hãn xông lên. Hai bên giao chiến dữ dội. Quân Xiêm quá đông, quân Việt yếu thế phải lùi dần, thế trận có thể bị vỡ. Phó tướng Lê Sáng chỉ huy cầm cự cố giữ cho quân mình khỏi hỗn loạn. Nhưng quân Xiêm được thế, cứ tiến tràn lên. Thế mà quân Chân Lạp vẫn bình chân như vại, chưa chịu xuất trận. Bấy giờ phó tướng Lê Sáng mới biết hoàng thân Nặc Bính muốn thí bỏ ông. Lê Sáng thốt lên: "Tội nghiệp cho viên chủ soái của một nước!" Ông không giận hoàng thân Nặc Bính mà chỉ thương hại cho thân phận một dân tộc yếu hèn không còn dám tin vào ai nữa. Ông biết người Chân Lạp đã từng nếm mùi tàn ác của người Xiêm, muốn mượn sức người Việt để chống lại người Xiêm. Nhưng giờ đây, họ đã manh nha mối nghi ngờ đối với người Việt! Có lẽ nội bộ của họ đã lủng củng, mâu thuẫn nhau mới hành động như thế này! Thay vì lợi dụng thanh thế của Đại Việt để chống Xiêm thì viên chủ soái quân Chân Lạp lại muốn triệt tiêu cái thanh thế đó? Hoàng thân Nặc Bính sao không đồ được rằng, nếu người Xiêm hạ được người Việt tất nhiên họ càng dễ xâm lấn Chân Lạp thêm? Cũng với hành động đó, Chân Lạp chắc chắn tạo thêm một mối bất mãn trong lòng người Việt, không khéo lại phát sinh thêm một kẻ thù nguy hiểm! Phó tướng Lê Sáng ngẫm nghĩ chuyện đó mà lắc đầu ngao ngán: "Chân Lạp không sớm thì muộn, nếu không bị Xiêm nuốt thì cũng bị Việt nuốt thôi! Phen này ta mà sống được các người sẽ biết tay ta!"
Thấy tình hình như vậy, phó tướng Lê Sáng liền nghĩ đến chuyện phải tìm một cái chết oanh liệt để khỏi nhục mệnh. Ông định đốc thúc binh sĩ dưới quyền ra sức một phen cuối cùng...
Bỗng nhiên, người ta thấy hàng ngũ đội quân Xiêm rối loạn hẳn lên. Một toán kỵ binh Việt từ đâu không biết thình lình xuất hiện đánh thọc vào hông đội hình quân Xiêm như một mũi dao sắc. Đội quân Xiêm bị cắt ra nhiều mảnh. Phó tướng Lê Sáng không bỏ lỡ cơ hội thúc quân phản công mãnh liệt. Quân Xiêm kinh hãi bỏ chạy tan tác. Cùng lúc đó, hoàng thân Nặc Bính cũng xua quân ra đuổi tràn tới tận doanh trại Xiêm. Quân Xiêm trong trại bắn ra như mưa, buộc toán quân truy kích phải ngưng lại.
Phó tướng Lê Sáng bấy giờ mới nhận diện được toán kỵ binh kia chính là năm vị tráng sĩ đã đến gặp ông trong doanh trại hôm trước. Ông ra lệnh cho quân sĩ ổn định lại hàng ngũ rồi thân đến gặp các tráng sĩ:
- Cám ơn các vị tráng sĩ đã đến giải nguy kịp thời. Nếu không có quí vị, chắc chúng tôi khốn đốn mất! Phen này thì hoàng gia Chân Lạp và triều đình Thuận Hóa sẽ ban chức tước cho quí vị. Giờ xin mời quí vị về trại chúng tôi luôn thể...
Chàng tráng sĩ áo đỏ nói:
- Khỏi phiền tướng quân, chúng tôi phải đi bây giờ. Sau trận này, quân Xiêm không dám trở lại nữa đâu! Chúng tràn qua biên giới chẳng qua là muốn thăm dò phản ứng của quân Đại Việt đấy thôi. Bây giờ đã giáp mặt nhau như thế là chúng tởn rồi. Nội trong ngày mai nhất định chúng sẽ rút lui. Phó tướng nên nhân dịp này mà xin thành lập những đội võ trang tự vệ trong cộng đồng người Việt. Người Chân Lạp không có lý do để từ chối nữa đâu! Thôi, chúng tôi xin cáo từ!
Phó tướng có vẻ quyến luyến, hỏi:
- Thế bây giờ quí vị đi đâu?
Tráng sĩ áo đỏ nói:
- Nghỉ đâu thì đấy là nhà, ngã đâu thì đấy là giường, chúng tôi không có định sở. Tuy thế, tướng quân cứ tin tưởng, nếu bất kỳ lúc nào quân Xiêm trở lại, chúng tôi lại sẽ có mặt trên chiến trường.
Thoắt cái, họ cùng nhảy lên ngựa chạy biến về phía rừng rậm...
Quả như lời tráng sĩ áo đỏ nói, hôm sau khi trời đã sáng tỏ, người ta biết quân Xiêm đã rút cả về bên kia biên giới rồi.
Thấy quân Xiêm đã rút, hoàng thân Nặc Bính trầm ngâm suy nghĩ rồi nói với các thuộc hạ thân tín:
- Phen này ta thắng trận thật đấy, nhưng chưa hẳn đấy là điều đáng mừng.
Các thuộc hạ ngạc nhiên hỏi:
- Bẩm hoàng thân, đã thắng trận sao lại chưa hẳn là điều đáng mừng?
- Các ngươi không thấy ư? Quân Xiêm đã đông lại rất hung dữ, thế mà chúng bị thất bại trước một toán quân nhỏ của Đại Việt. Nếu sau này người Đại Việt này có ý đồ gì người Chân Lạp ta làm sao mà chế ngự?
Khi phó tướng Lê Sáng đến chúc mừng, hoàng thân Nặc Bính nói:
- Chiến công này quả thật là của toán quân Đại Việt hết. Các ông đã chiến đấu dũng cảm như những thiên thần. Người Chân Lạp chúng tôi rất khâm phục.
Phó tướng Lê Sáng thưa:
- Chúng tôi không dám nhận lời khen của hoàng thân đâu! Hoàng thân không thấy suýt nữa chúng tôi đã bị người Xiêm xoá sổ ư?
Nặc Bính có sắc ngượng, nói:
- Tôi đã biết trước cánh quân Đại Việt chắc chắn thắng trận mà!
Sau đó hoàng thân Nặc Bính ra lệnh sửa chữa lại những đồn lũy bị phá, chỉnh đốn, bổ sung lại quân số đồn trú rồi ca khúc khải hoàn mà ban sư.
Chương 15:
Đoàn quân của hoàng thân Nặc Bính chiến thắng trở về Oudong đã
được dân chúng đón tiếp hoan nghênh nhiệt liệt. Vua Chey ban thưởng cho các
tướng sĩ rất hậu.
Hoàng hậu Ngọc Vạn cũng cho vời phó tướng Lê Sáng vào để khen thưởng:
- Ta thành thật khen ngợi phó tướng và binh sĩ đã chiến đấu dũng cảm giành được thắng lợi vẻ vang, làm cho người Xiêm khiếp sợ và người Chân Lạp nể nang. Chiến thắng này đã làm cho hoàng thượng và triều đình Chân Lạp tín nhiệm người Việt ta thêm. Ta sẽ tiếp tục vận động để cộng đồng di dân người Việt thành lập cho kỳ được những toán võ trang tự vệ. Ta cũng sẽ cho báo tiệp và đề nghị lên triều đình Thuận Hóa ghi công cho phó tướng. Việc ban tước lộc cho kẻ có công, việc đền bù giúp đỡ gia đình các tử sĩ đã có triều đình lo, ta chỉ xin tặng riêng phó tướng mươi lượng vàng và năm súc lụa gọi là an ủi sự khó nhọc.
Phó tướng Lê Sáng khiêm tốn thưa:
- Tâu hoàng hậu, thật sự công trạng đó hoàn toàn không phải là của hạ thần. Đấy là công của năm vị tráng sĩ lạ mặt mà tới bây giờ thần cũng chưa biết họ là ai. Hôm ấy, hạ thần được hoàng thân Nặc Bính sai chỉ huy toán quân Việt ra trận đánh nhau với quân Xiêm. Nhưng quân ta quá ít so với quân Xiêm. Dù bọn thần đã chiến đấu hết sức mình vẫn không chống nổi quân Xiêm quá dũng mãnh. Giữa lúc bọn thần đang lâm nguy thì năm tráng sĩ ấy đã xuất hiện kịp thời. Họ chiến đấu giỏi như những thiên thần, đã giúp bọn thần chuyển bại thành thắng. Vậy, xin hoàng hậu giữ những tặng phẩm đó lại đã, đợi bao giờ thần tìm được đám tráng sĩ ấy, thần sẽ dẫn họ vào bái kiến để hoàng hậu ban thưởng.
- Khanh nói năm vị tráng sĩ lạ đã giúp khanh? Họ người như thế nào?
Phó tướng bèn thuật lại hành tung của năm tráng sĩ ấy. Hoàng hậu nghe một cách chăm chú, rồi hỏi:
- Khanh nói tráng sĩ áo đỏ cầm đầu nhóm là một người cao lớn, tuấn tú và có đôi mắt nhung phải không? Cũng lại là chàng ư...?
Hoàng hậu
ngưng giây lát rồi dặn:
- Nếu có dịp gặp lại, khanh hãy tìm mọi cách giữ họ lại cho ta gặp nhé!
- Thần xin tuân lệnh, nhưng thần e khó có dịp gặp lại họ. Trường hợp gặp lại họ, hoàng hậu bảo thần dẫn họ đến bái yết hay làm thế nào?
- Khanh mời họ ở lại, nói cho họ biết ta muốn gặp họ. Sau đó khanh hãy cho người trình lên ta biết, ta sẽ có chỉ thị. Có thể ta sẽ thân hành đến Đại Việt doanh của khanh thăm viếng và ủy lạo binh sĩ luôn thể. Còn bây giờ, khanh cứ việc nhận lấy những tặng phẩm này tùy nghi sử dụng.
- Đa tạ hoàng hậu ban ân!
Sau khi nghe phó tướng Lê Sáng tường trình về việc đánh giặc Xiêm xong, hoàng hậu Ngọc Vạn vào yết kiến vua Chey Chetta II. Vua Chey hỏi:
- Hoàng hậu có việc gì muốn nói chăng?
Hoàng hậu tâu:
- Chắc bệ hạ đã được nghe hoàng thân Nặc Bính tâu trình mọi sự trong trận chiến vừa rồi? Theo thiếp biết, sở dĩ quân Xiêm thua sớm cũng nhờ sự chiến đấu dũng mãnh của đội quân Đại Việt. Cứ thử hỏi, nếu không có quân Đại Việt lâm chiến, chiến cuộc bây giờ chưa biết ngã ngũ ra sao? Người Xiêm chịu thua sớm vì họ thấy bóng quân Đại Việt nhưng họ không hề biết quân Đại Việt tham chiến nhiều hay ít. Nếu lỡ một mai, người Xiêm dò biết được quân Đại Việt ở đây chỉ có một nhóm nhỏ nhất định họ không dễ dàng rút lui như thế đâu! Vậy, bệ hạ ngần ngại gì nữa mà không cho phép người Việt lập ra những đội võ trang tự vệ? Khi cần, bệ hạ chỉ ra một lệnh họ sẽ tập trung ngay dưới cờ. Thiếp xin bệ hạ chuẩn bị trước là hay hơn, không nên chờ nước đến chân mới nhảy.
Vua Chey phân trần:
- Như hậu biết đó, ta đã muốn cho người Việt di dân lập những đội võ trang tự vệ ngay từ khi hậu mới đề nghị. Nhưng hầu hết các quan đều chống lại ý muốn của ta, ta biết làm sao? Làm cho hậu buồn ta cũng khổ lắm chứ! Hậu hãy ráng đợi một thời gian nữa, thế nào ta cũng ráng lo cho xong chuyện ấy!
Hoàng hậu lại thưa:
- Bệ hạ là chủ của đất nước, người khác đâu có thể lo cho đất nước bằng bệ hạ? Họ nghi ngờ người Việt là phải, vì họ với người Việt chỉ là người dưng nước lã. Còn bệ hạ là rể triều đình Thuận Hóa, hoàng tử To là cháu của chúa Thuận Hóa. Người Việt vốn trọng đạo nghĩa, rất nặng tình gia tộc, nếu bệ hạ hoặc con cháu bệ hạ lâm nguy há Thuận Hóa nỡ lòng làm ngơ sao? Hơn nữa, một vị vua như bệ hạ cũng có lúc cần phải cứng rắn để thể hiện uy quyền của một ông vua chứ!
Vua Chey nói:
- Được rồi! Trẫm cũng biết trong trận đánh ở biên giới vừa rồi chính nhờ sức quân Việt mà Chân Lạp thắng được giặc Xiêm dễ dàng. Trẫm sẽ xuống chiếu cho phép cộng đồng người Việt di dân thành lập những toán võ trang tự vệ theo sự yêu cầu của họ. Tuy nhiên, trẫm muốn họ phải chấp hành mọi thứ kỷ luật như quân đội Chân Lạp. Khi nhà nước Chân Lạp cần điều động làm việc gì họ phải thi hành ngay. Hoàng hậu thấy như thế có gì trở ngại không?
Hoàng hậu thưa:
- Muôn tâu, người Việt di dân đã núp bóng, đã chịu ân sủng to lớn của bệ hạ như thế lẽ nào họ lại không tận tụy hết lòng vì bệ hạ khi bệ hạ cần tới họ!
Dĩ nhiên trong triều đình Chân Lạp vẫn có nhiều người rất lo ngại về một mối họa phát sinh từ người Việt. Nhưng trước ảnh hưởng quá lớn của hoàng hậu Ngọc Vạn, và nhất là sự hiện diện cần thiết của người Việt như trong trận chiến vừa qua, họ đành làm ngơ không dám ngăn trở nữa.
Thế là những đội võ trang tự vệ của người Việt trên đất Thủy Chân Lạp được ra đời.
Hoàng hậu Ngọc Vạn cũng cho vời phó tướng Lê Sáng vào để khen thưởng:
- Ta thành thật khen ngợi phó tướng và binh sĩ đã chiến đấu dũng cảm giành được thắng lợi vẻ vang, làm cho người Xiêm khiếp sợ và người Chân Lạp nể nang. Chiến thắng này đã làm cho hoàng thượng và triều đình Chân Lạp tín nhiệm người Việt ta thêm. Ta sẽ tiếp tục vận động để cộng đồng di dân người Việt thành lập cho kỳ được những toán võ trang tự vệ. Ta cũng sẽ cho báo tiệp và đề nghị lên triều đình Thuận Hóa ghi công cho phó tướng. Việc ban tước lộc cho kẻ có công, việc đền bù giúp đỡ gia đình các tử sĩ đã có triều đình lo, ta chỉ xin tặng riêng phó tướng mươi lượng vàng và năm súc lụa gọi là an ủi sự khó nhọc.
Phó tướng Lê Sáng khiêm tốn thưa:
- Tâu hoàng hậu, thật sự công trạng đó hoàn toàn không phải là của hạ thần. Đấy là công của năm vị tráng sĩ lạ mặt mà tới bây giờ thần cũng chưa biết họ là ai. Hôm ấy, hạ thần được hoàng thân Nặc Bính sai chỉ huy toán quân Việt ra trận đánh nhau với quân Xiêm. Nhưng quân ta quá ít so với quân Xiêm. Dù bọn thần đã chiến đấu hết sức mình vẫn không chống nổi quân Xiêm quá dũng mãnh. Giữa lúc bọn thần đang lâm nguy thì năm tráng sĩ ấy đã xuất hiện kịp thời. Họ chiến đấu giỏi như những thiên thần, đã giúp bọn thần chuyển bại thành thắng. Vậy, xin hoàng hậu giữ những tặng phẩm đó lại đã, đợi bao giờ thần tìm được đám tráng sĩ ấy, thần sẽ dẫn họ vào bái kiến để hoàng hậu ban thưởng.
- Khanh nói năm vị tráng sĩ lạ đã giúp khanh? Họ người như thế nào?
Phó tướng bèn thuật lại hành tung của năm tráng sĩ ấy. Hoàng hậu nghe một cách chăm chú, rồi hỏi:
- Khanh nói tráng sĩ áo đỏ cầm đầu nhóm là một người cao lớn, tuấn tú và có đôi mắt nhung phải không? Cũng lại là chàng ư...?
- Nếu có dịp gặp lại, khanh hãy tìm mọi cách giữ họ lại cho ta gặp nhé!
- Thần xin tuân lệnh, nhưng thần e khó có dịp gặp lại họ. Trường hợp gặp lại họ, hoàng hậu bảo thần dẫn họ đến bái yết hay làm thế nào?
- Khanh mời họ ở lại, nói cho họ biết ta muốn gặp họ. Sau đó khanh hãy cho người trình lên ta biết, ta sẽ có chỉ thị. Có thể ta sẽ thân hành đến Đại Việt doanh của khanh thăm viếng và ủy lạo binh sĩ luôn thể. Còn bây giờ, khanh cứ việc nhận lấy những tặng phẩm này tùy nghi sử dụng.
- Đa tạ hoàng hậu ban ân!
Sau khi nghe phó tướng Lê Sáng tường trình về việc đánh giặc Xiêm xong, hoàng hậu Ngọc Vạn vào yết kiến vua Chey Chetta II. Vua Chey hỏi:
- Hoàng hậu có việc gì muốn nói chăng?
Hoàng hậu tâu:
- Chắc bệ hạ đã được nghe hoàng thân Nặc Bính tâu trình mọi sự trong trận chiến vừa rồi? Theo thiếp biết, sở dĩ quân Xiêm thua sớm cũng nhờ sự chiến đấu dũng mãnh của đội quân Đại Việt. Cứ thử hỏi, nếu không có quân Đại Việt lâm chiến, chiến cuộc bây giờ chưa biết ngã ngũ ra sao? Người Xiêm chịu thua sớm vì họ thấy bóng quân Đại Việt nhưng họ không hề biết quân Đại Việt tham chiến nhiều hay ít. Nếu lỡ một mai, người Xiêm dò biết được quân Đại Việt ở đây chỉ có một nhóm nhỏ nhất định họ không dễ dàng rút lui như thế đâu! Vậy, bệ hạ ngần ngại gì nữa mà không cho phép người Việt lập ra những đội võ trang tự vệ? Khi cần, bệ hạ chỉ ra một lệnh họ sẽ tập trung ngay dưới cờ. Thiếp xin bệ hạ chuẩn bị trước là hay hơn, không nên chờ nước đến chân mới nhảy.
Vua Chey phân trần:
- Như hậu biết đó, ta đã muốn cho người Việt di dân lập những đội võ trang tự vệ ngay từ khi hậu mới đề nghị. Nhưng hầu hết các quan đều chống lại ý muốn của ta, ta biết làm sao? Làm cho hậu buồn ta cũng khổ lắm chứ! Hậu hãy ráng đợi một thời gian nữa, thế nào ta cũng ráng lo cho xong chuyện ấy!
Hoàng hậu lại thưa:
- Bệ hạ là chủ của đất nước, người khác đâu có thể lo cho đất nước bằng bệ hạ? Họ nghi ngờ người Việt là phải, vì họ với người Việt chỉ là người dưng nước lã. Còn bệ hạ là rể triều đình Thuận Hóa, hoàng tử To là cháu của chúa Thuận Hóa. Người Việt vốn trọng đạo nghĩa, rất nặng tình gia tộc, nếu bệ hạ hoặc con cháu bệ hạ lâm nguy há Thuận Hóa nỡ lòng làm ngơ sao? Hơn nữa, một vị vua như bệ hạ cũng có lúc cần phải cứng rắn để thể hiện uy quyền của một ông vua chứ!
Vua Chey nói:
- Được rồi! Trẫm cũng biết trong trận đánh ở biên giới vừa rồi chính nhờ sức quân Việt mà Chân Lạp thắng được giặc Xiêm dễ dàng. Trẫm sẽ xuống chiếu cho phép cộng đồng người Việt di dân thành lập những toán võ trang tự vệ theo sự yêu cầu của họ. Tuy nhiên, trẫm muốn họ phải chấp hành mọi thứ kỷ luật như quân đội Chân Lạp. Khi nhà nước Chân Lạp cần điều động làm việc gì họ phải thi hành ngay. Hoàng hậu thấy như thế có gì trở ngại không?
Hoàng hậu thưa:
- Muôn tâu, người Việt di dân đã núp bóng, đã chịu ân sủng to lớn của bệ hạ như thế lẽ nào họ lại không tận tụy hết lòng vì bệ hạ khi bệ hạ cần tới họ!
Dĩ nhiên trong triều đình Chân Lạp vẫn có nhiều người rất lo ngại về một mối họa phát sinh từ người Việt. Nhưng trước ảnh hưởng quá lớn của hoàng hậu Ngọc Vạn, và nhất là sự hiện diện cần thiết của người Việt như trong trận chiến vừa qua, họ đành làm ngơ không dám ngăn trở nữa.
Thế là những đội võ trang tự vệ của người Việt trên đất Thủy Chân Lạp được ra đời.
Chương 16:
Đầu năm Quí Hợi, một sứ bộ Thuận Hóa lên đường đi Oudong. Vua Chey vui mừng tiếp đón sứ bộ rất nồng hậu.
Sau việc chúc mừng, sứ bộ Đại Việt bèn trình lên vua Chey một yêu cầu của chúa Sãi là xin lập một cơ sở thương mãi ở Prey Kor ( Sài Gòn Chợ Lớn) và được đặt ở đấy một sở thu thuế.
Vua Chey đem vấn đề này ra triều đình bàn luận. Triều đình Chân Lạp lại chia làm hai phe tranh cãi nhau kịch liệt. Hoàng thân Nặc Bính, đại thần Mông Cun và nhiều vị quan khác cho rằng nếu Thuận Hóa muốn lập một cơ sở thương mại thì không trở ngại nhưng đòi lập một sở thu thuế thì không thể được. Hoàng thân Outey, em ruột vua Chey thì cho rằng người Việt đã hi sinh giúp Chân Lạp chống giặc Xiêm, đáng lẽ chính quyền Chân Lạp phải giúp họ tài chánh, lương thực mới phải. Nay họ chỉ muốn mở một cơ sở để thu thuế chính kiều dân của họ dùng nuôi quân tưởng cũng hợp lẽ. Hai bên tranh luận dây dưa, rốt cuộc việc không đi đến đâu cả.
Giữa lúc triều đình Chân Lạp chưa quyết định xong việc có nên cho người Việt lập một sở thu thuế kiều dân Việt trên đất Chân Lạp hay không thì có tin nước Xiêm lại tập trung hai vạn quân chuẩn bị tiến vào Chân Lạp. Vua Chey tuy lo sợ nhưng ngài chợt nghĩ ra chuyến này có thể nắm được chìa khóa giải quyết sự việc. Ngài muốn tự mình chứng nghiệm được khả năng chiến đấu của người Việt để tiện quyết định vấn đề. Thế là ngài ra lệnh quân đội, kể cả quân Đại Việt tăng cường, chuẩn bị lên đường.
Phó tướng Lê Sáng hỏa tốc tập trung lực lượng võ trang tự vệ các nơi hợp với số quân cơ hữu thành một đội quân hơn năm trăm người. Trong khi chờ đợi ra quân, phó tướng Lê Sáng không ngừng tranh thủ thời gian huấn luyện bổ túc cho quân sĩ mình.
Một đêm, trong lúc phó tướng đang nghỉ trong dinh, bỗng ông nghe một tiếng động lạ bên mình. Nhìn lại, ông thấy một lưỡi phi tiêu đã cắm phập vào thành chiếc giường ông đang nằm. Kinh hãi, ông rút lưỡi phi tiêu lên xem thấy ở chuôi nó có quấn một mẩu giấy. Ông mở ra và đọc mấy hàng chữ như sau:
"Kính thưa tướng quân, Chúng tôi biết chuyến ra quân này của tướng quân có tầm mức quan trọng không kém gì chuyến ra quân lần trước. Vì thế, chúng tôi sẽ theo sát để yểm trợ tướng quân cho đến khi nên việc. Xin báo trước để tướng quân vững lòng. Sẽ gặp nhau ở chiến trường. Tráng sĩ áo đỏ."
Đọc xong mảnh giấy, phó tướng Lê Sáng hết sức mừng. Ông đâu đã quên được mấy chàng tráng sĩ này! Ông đã từng biết sức chiến đấu của họ và vẫn hi vọng họ sẽ đến kịp thời như lời tráng sĩ áo đỏ đã hứa trước kia "Tướng quân cứ tin tưởng, nếu quân Xiêm trở lại, chúng tôi lại sẽ có mặt ở chiến trường". Thế là phó tướng yên lòng nghỉ ngơi để lấy lại sức.
Chuẩn bị xong đâu đấy, vua Chey thân hành đem gần một vạn quân lên đường đón đánh quân Xiêm. Tới gần biên giới, gặp các toán do thám biên phòng báo lại, vua Chey mới được biết quân Xiêm đã chia làm hai đạo tiến vào đất Chân Lạp. Một đạo do nguyên soái Phan Nha Hộc chỉ huy, một đạo do phó soái Chiêu Sảm điều khiển tiến bằng hai đường. Vua Chey thấy thế cũng chia quân làm hai, giao một đạo cho em ngài là Préah Outey chỉ huy kéo ra chận đường tướng Chiêu Sảm. Còn vua Chey thân cầm đại binh, có cả đội quân người Việt tiến lên chận đánh nguyên soái Phan Nha Hộc.
Đạo quân của vua Chey đang tiến thì gặp một toán quân của Phan Nha Hộc đang đi thám thính. Đội tiên phong của vua Chey vội phóng ra đuổi đánh toán quân Xiêm này. Nhưng mới đuổi được một đoạn thì họ thấy được phía trước là một dãy trại của quân Xiêm đóng, bèn thôi đuổi và quay về báo lại với vua Chey. Lúc ấy trời cũng đã về chiều. Vua Chey bèn ra lệnh quan sát địa hình cẩn thận rồi cho đóng quân để nghỉ.
Phó tướng Lê Sáng được chia trách nhiệm trấn giữ một mặt trong tuyến phòng thủ. Sau khi kiểm soát sự bố trí xong, ông toan ăn cơm thì một tên lính báo có một người lạ xin ra mắt. Hỏi sơ người lính vài lời, phó tướng đoán ngay ra là một chàng trong nhóm tráng sĩ kia. Ông liền cho mời vào.
- Kính chào tướng quân!
- Chào tráng sĩ! Tráng sĩ đến đây giờ này chắc có điều gì hay dạy bảo bản chức?
- Không dám, tôi muốn bàn với tướng quân một việc.
- Tráng sĩ cứ dạy!
- Chúng tôi muốn tặng tướng quân một "chiến thắng đầu công" để dằn mặt cả Xiêm La lẫn Chân Lạp tướng quân nhận chứ?
- Còn gì quí hơn nữa! Xin tráng sĩ cho biết rõ tôi phải hành động thế nào?.
Tráng sĩ cười cởi mở:
- Nói đùa một chút chứ việc chung đấy, thưa tướng quân! Mục đích chính là tạo uy lực cho sự hình thành một sở thuế của Đại Việt trên đất Chân Lạp thôi. Hiện chúng tôi đã dò biết rõ chỗ chứa lương thực của quân Xiêm. Đêm nay, chúng tôi sẽ đột nhập đốt kho lương đó và quậy phá vài nơi trong doanh trại chúng. Tướng quân cứ báo với vua Chân Lạp, cho quân chuẩn bị sẵn, hễ lúc thấy lửa bốc trong trại Xiêm thì cứ tiến quân đánh ập vào thế nào cũng thắng.
Phó tướng Lê Sáng tuy rất mừng nhưng ông vẫn chưa yên bụng. Bây giờ dựa vào cơ sở nào để báo với vua Chey? Lỡ nếu các tráng sĩ vì một lẽ nào đó không thực hiện được ý định thì ông ăn nói thế nào với vua Chey? Nghĩ thế rồi ông hỏi lại:
- Nhưng nói làm sao cho vua Chân Lạp tin, thưa tráng sĩ?
- Tướng quân nghi ngại à? Chúng tôi đã đến báo cho tướng quân như thế tất nhiên chúng tôi làm được! Tướng quân cứ nói với vua Chân Lạp rằng tướng quân đã cho người đột nhập vào trại Xiêm rồi! Nói thế chắc vua Chey tin chứ!
Sau khi chàng tráng sĩ đi rồi, phó tướng thân hành đến xin gặp vua Chey và trình bày sự việc. Vua Chey không tin lắm nhưng cũng dặn các tướng sĩ chuẩn bị cơ nào đội nấy sẵn sàng tác chiến.
Vào khoảng nửa đêm, thình lình từ kho lương thực của quân Xiêm lửa bốc cháy rần rần. Quân Xiêm hoảng hốt chưa kịp phản ứng thì ngay trại chỉ huy cũng bị bốc cháy làm quân Xiêm càng rối loạn. Giữa lúc đó thì quân Chân Lạp ùn ùn lăn xả vào chém giết. Quân Xiêm lại một phen bị thua tan tác, phải bỏ trại mà chạy. Quân Chân Lạp thừa thắng đuổi theo miết đến biên giới mới ngừng.
Đạo quân Xiêm thứ hai do phó soái Chiêu Sảm chỉ huy chưa kịp đánh trận nào nghe tin đạo quân của nguyên soái Phan Nha Hộc đã tan rã cũng hoảng hốt rút lui. Hoàng đệ Chân Lạp Préah Outey dò biết được tin liền cho quân đuổi theo đánh giết một trận tơi bời nữa, cướp được rất nhiều lương thực.
Nguyên soái Phan Nha Hộc phải thu thập tàn quân lủi thủi rút về nước để chịu tội.
Đây là trận chiến thắng oanh liệt nhất của người Chân Lạp kể từ khi nước này bị người Xiêm xâm lược.
Mấy ngày sau, vua Chey Chetta II oai hùng dẫn đại binh trở về Oudong. Dân chúng Chân Lạp hàng hàng lớp lớp cờ quạt phấp phới tràn ra đường để hoan nghênh, tưởng thưởng đoàn quân chiến thắng. Chính giây phút ấy, người dân Chân Lạp nào cũng hãnh diện cảm thấy ở chính dân tộc họ vẫn còn là một dân tộc anh hùng.
Sau khi ban thưởng rất hậu cho đội quân Đại Việt, vua Chey nói với phó tướng Lê Sáng:
- Chỉ một đội quân nhỏ của tướng quân mà bản lãnh như vậy, ta chắc rằng quân đội Đại Việt không nước nào đánh thắng nổi! Hèn gì dân chúng đồn đại người Việt được các giống quỉ thần ủng hộ che chở!
Chương 17 :
Sau một thời gian cầm quân chinh chiến xa cách, lại mang được chiến thắng vinh quang trở về, vua Chey hi vọng lần này ngài sẽ được đón nhận bằng một nụ cười hân hoan của hoàng hậu. Nhưng khi giáp mặt nhau, nhà vua vẫn chạm phải cái vẻ nghiêm nghị lạnh lùng muôn thuở của bà.
- Ái hậu mạnh giỏi chứ!
Hoàng hậu xá vua mà thưa:
- Cám ơn thánh thượng, thần thiếp vẫn an lành. Thần thiếp xin chúc mừng thánh thượng chiến thắng vinh quang!
Nhìn nét mặt buồn chảy của hoàng hậu, vua càng thấy xốn xang thêm. Ngài nói:
- Hoàng hậu chúc mừng ta chiến thắng sao không tặng ta một nụ cười?
Hoàng hậu thưa:
- Thiếp vẫn có tật, trong lòng nếu không thoải mái thì không cách nào cười được, cúi xin thánh thượng tha tội!
Vua Chey hỏi:
- Hậu muốn cho lưu dân đồng bào của hậu được tự do khai khẩn sinh sống, ta đã ban lệnh cho phép rồi, hậu lại xin cho họ được võ trang để tự vệ, ta cũng không từ chối, nay hậu còn điều gì không thoải mái nữa? Chẳng hiểu vì sao tới bây giờ hậu vẫn cứ buồn như thế?
Hoàng hậu nhỏ nhẹ thưa:
- Thay mặt đám lưu dân người Việt, thiếp xin tri ân sâu xa đối với tấm lòng quảng đại vô bờ của bệ hạ. Bệ hạ đã rộng lòng cho thần dân của thiếp đến khai khẩn làm ăn trên đất nước của bệ hạ. Bệ hạ cũng không ngần ngại mà cho phép họ được võ trang để tự vệ. Nhưng vấn đề này giải quyết xong thì vấn đề khác lại nẩy sinh. Sau khi các đơn vị võ trang của cộng đồng di dân người Việt được thành lập, triều đình Đại Việt lại phải cử người đến cai quản họ, phải cung cấp tài chánh, mua sắm vũ khí, bỏ công sức huấn luyện cho họ. Việc này rất tốn kém, lại rất trở ngại vì triều đình Đại Việt ở quá xa xôi. Mà như bệ hạ đã thấy đó, các lực lượng võ trang này đã từng là biểu tượng cho quân đội Đại Việt, họ đã thật sự giúp bệ hạ trong việc đẩy lui giặc Xiêm La. Xin bệ hạ vì tình nghĩa thông gia môi răng khắn khít, thông cảm sự khó khăn của triều đình Đại Việt, cho Đại Việt lập một đồn kiểm soát quan thuế ở Prey Kor để họ tự lấy thuế kiều dân Việt mà chi dụng vào các việc cần thiết. Việc này thật ra cũng có lợi cho Chân Lạp lắm chứ! Làm được như vậy, khi bệ hạ cần tới sức họ, chỉ hú một tiếng là họ vui vẻ lên đường hết lòng hi sinh cho sự sống còn của Chân Lạp ngay!
Vua Chey ngẫm nghĩ chốc lát rồi phán:
- Hoàng hậu nói đúng! Sở dĩ nước Xiêm trong thời gian gần đây đưa quân xâm lược Chân Lạp, vừa chạm trán người Việt là phải rút lui, như thế lực lượng võ trang Đại Việt quả là một lá bùa hộ mệnh hữu dụng mà trẫm phải đeo để trấn áp người Xiêm! Vậy tại sao trẫm lại không muốn tạo mọi sự thuận lợi cho người Việt! Nhưng ngặt trong số quần thần có kẻ này người nọ, họ cho rằng nếu chấp thuận như thế thì coi như Chân Lạp đã mất một phần chủ quyền quốc gia. Bao nhiêu ngày cả hai phe tranh cãi kịch liệt mà vẫn chưa xong đấy!
Hoàng hậu nói:
- Việc tranh cãi một vấn đề, thói thường vẫn chín người mười ý. Có người chỉ tranh cãi lấy lệ, có người tranh cãi vì ý đồ riêng... đâu phải ai cũng tranh cãi vì trách nhiệm? Việc thịnh hay suy, còn hay mất của nước Chân Lạp hiện nay ai trách nhiệm? Có phải chính bệ hạ là người chịu tất cả trách nhiệm không? Tại sao bệ hạ không quyết định mà phải để cho họ tranh cãi đến bao giờ mới xong? Như thế vô tình bệ hạ đã làm cho quyền lực một ông vua nhẹ thể đi mất! Bệ hạ là đấng chí tôn trong nước, bệ hạ có quyền quyết định tối hậu chứ!
Vua Chey nói:
- Ái hậu nói có lý! Được! Trẫm thuận cho phép người Việt lập một đồn quan thuế ở Prey Kor để tự thu thuế mà chi dụng!
Hoàng hậu nghe vua phán xong, quì xuống lạy mừng:
- Bệ hạ quyết định như vậy quả thật là sáng suốt. Thế tức là bệ hạ đã mua được một nguồn ơn nghĩa lớn lao của Đại Việt rồi! Sau này, lỡ bệ hạ gặp rắc rối gì Đại Việt làm sao mà ngó ngơ không hết lòng vì bệ hạ được?
Vua Chân Lạp sung sướng đỡ hoàng hậu dậy:
- Ơn nghĩa gì! Chỉ cần hoàng hậu được vui là trẫm toại nguyện rồi!
Vua Chey tự mình thảo chiếu chỉ, lại tự tay đóng ấn rồi giao cho triều đình thi hành. Lần này việc làm của nhà vua thành đạt suôn sẻ. Có lẽ nhờ cuộc chiến thắng quân Xiêm quá vẻ vang đã làm tăng uy tín cho nhà vua. Hơn nữa, đội quân Đại Việt đã rất đắc lực góp phần trong chiến thắng này quá hiển nhiên không ai chối cãi được. Vì thế, không có một vị quan nào lên tiếng phản đối nữa.
Từ đó, Prey Kor thành đầu cầu chiến lược, việc di dân của người Việt có căn bản vững chắc để dần phát triển toàn diện công, thương, nông nghiệp trên toàn vùng đất Thủy Chân Lạp.
Trước kia, di dân người Xiêm cũng được phép tùy tiện khai khẩn đất đai của Chân Lạp. Các sắc dân khác đều phải nể sợ, nhường nhịn, nên người Xiêm càng thả sức dọc ngang. Họ vốn tính hung bạo, ngang ngược, lại quá tự tôn nên rất khó thân thiện với các sắc dân khác. Thời gian sau này, chính quyền Chân Lạp không còn chịu áp lực của chính quyền Xiêm nữa nên mọi ưu đãi dành riêng cho di dân người Xiêm cũng không còn. Những khi xảy ra sự va chạm với các sắc dân khác, người Xiêm không còn được đặc biệt bênh vực che chở nữa. Trong khi đó, những người Việt cần cù kéo đến lập nghiệp ngày càng đông. Cái tin người Việt được quỉ thần che chở, giúp đỡ lại mỗi ngày mỗi lan rộng. Người Xiêm tự nhiên cảm thấy bị cô lập, bị quấy rối, bị đe dọa... Thế là họ đành lần lượt tìm đi nơi khác làm ăn hoặc hồi hương.
Không bao lâu, trên khắp vùng Thủy Chân Lạp người ta thấy xuất hiện những cánh đồng lúa, bắp bát ngát mênh mông. Thật là một cuộc biến hóa đổi đời kỳ diệu! Bản chất cần cù, kiên nhẫn, tranh sống mãnh liệt của dân tộc Việt đã được thể hiện mạnh mẽ. Những người Việt không có được một mảnh đất cắm dùi trên chính quê hương mình chẳng mấy chốc bỗng trở nên những đại điền chủ trên quê người. Thế là tiếng đồn cứ lan ra, lan ra! Hầu hết dân nghèo bên này sông Gianh trở vào lại cứ đua nhau tìm đến vùng đất mới. Những người bị chính quyền Đàng Ngoài coi là bất hảo vượt biên vào Đàng Trong cũng được chúa Nguyễn giúp phương tiện đưa đi lập nghiệp sinh sống. Thành ra, những khó khăn về công ăn việc làm của xứ Đàng Trong không còn tồn đọng nữa. Mức sống của dân Đàng Trong tự nhiên được nâng cao hơn hẳn so với dân Đàng Ngoài. Do đó, kho đụn của chính quyền Đàng Trong càng trở nên dồi dào, sung túc.
Chương 18:
Trong suốt mấy thế kỷ liên tiếp, chỉ có vua Chey Chetta II đã
tạo được một thời gian tuy ngắn ngủi nhưng đáng gọi là thời hoàng kim trên đất
nước Chân Lạp. Thời gian này việc bang giao giữa Chân Lạp với Đại Việt hết sức
thân ái đẹp đẽ. Người Xiêm tuyệt nhiên không còn quấy phá đe dọa Chân Lạp như
trước kia. Thấy vua Chey được Thuận Hóa triệt để ủng hộ, số người thân Xiêm
trong triều đều nín khe, không dám hai lòng. Trong nước dân chúng yên bụng làm
ăn, ban đêm cửa không cần đóng, ngoài biên lính thú có thể ngủ yên giấc. Nhiều
người truyền miệng nhau cảnh sống thanh ấy bình có được cũng là nhờ sự
"nhẹ vía" của vị quốc mẫu người Việt. Phải nói rằng đây là một thời
kỳ hiếm thấy trên đất nước Chân Lạp triền miên chiến tranh chống ngoại xâm và
dẹp nội loạn.
Chính vua Chey cũng hãnh diện công nhận ngài là người rất may mắn có được một người vợ tuyệt hảo. Ngài đã có những lúc sung sướng tận hưởng niềm vinh quang của một ông vua thời thịnh trị.
Về cuộc sống
gia đình, ngài cũng hưởng được nguồn hạnh phúc chan chứa. Sau khi những yêu cầu
về vấn đề di dân của người Việt được giải quyết thỏa đáng, vị hoàng hậu diễm lệ
Ngọc Vạn đã thật sự có những nụ cười thật tươi với chồng.
Một thời gian sau, hoàng hậu Ngọc Vạn lại sinh cho ngài đứa con thứ hai, cũng thông minh, dễ thương không kém gì hoàng tử To, vua đặt tên cho hoàng tử là Nou. Lúc này hoàng hậu lại càng hết sức chiều chuộng, săn sóc chồng từ công việc đến các thú giải trí, đến từng miếng ăn, giấc ngủ và đến cả những giây phút ân ái. Ai cũng nhìn nhận vua Chey là một trong những vị vua có diễm phúc nhất trên đời!
Tội nghiệp vua Chey, ngài không hề biết một chút sự thật nào về nội tâm của người vợ tuyệt vời ấy. Người Việt có câu hát "Trái bồ hòn trong tròn ngoài méo, Trái sầu đâu trong héo ngoài tươi", vua Chey chỉ tìm gặp hoàng hậu qua dạng bên ngoài của một trái sầu đâu.
Thật sự hoàng hậu Ngọc Vạn đã cố gắng tạo những nụ cười thật tươi, những nụ cười hoàn toàn trái ngược với cõi lòng khô héo của bà để hiến tặng chồng. Việc đó bây giờ đối với hoàng hậu hoàn toàn không phải với mục đích mời chào, mua chuộc nhà vua như trước kia! Mà nó hoàn toàn phát sinh từ tấm chân tình của một người biết hối lỗi khi bất đắc dĩ phải nhúng tay vào một tội ác. Bà thương chồng với tấm lòng người mẹ thương con, người chị thương em, hay người vợ thương chồng khi biết người thân của mình đã mắc chứng bệnh không còn cách chữa. Bà cố gắng phục vụ, chiều chuộng chồng hết mình như cố gắng làm thỏa mãn cho một người thân trước khi người ấy xa rời trần thế... Đó cũng là một cách để bà được giảm bớt nỗi ray rứt trong lòng. Mấy ai biết được diễm phúc thật sự của vua Chey lại nằm ở điểm này?
Tổ quốc trên hết! Dân tộc trước hết! Trước khi ra đi hoàng hậu Ngọc Vạn đã trân trọng hứa nguyện với cha già thân yêu, bà đâu dám lơ là với lời hứa nguyện đó được? Lúc đó bà còn quá trẻ đâu có thể lường đoán được sự phát triển tình cảm của mình với chồng, với con cái mình về sau này!
Cũng trong thời gian này, người Việt di dân lặng lẽ nới rộng sinh hoạt về thương nghiệp, công nghiệp cũng như nông nghiệp trên đất Chân Lạp một cách êm đềm với từng bước thật vững chắc và hoàn hảo.
Năm Mậu Thìn (1628), vua Chey mắc bệnh trầm trọng. Các ngự y đã tận tình săn sóc nhưng bệnh không cách nào thuyên giảm. Biết mình không còn sống được bao lâu, vua Chey gọi người em ruột là hoàng thân Préah Outey và mấy viên đại thần vào cung để phó thác việc sau. Ngài vốn có ba người con trai. Đầu tiên là hoàng tử Chan, con của hoàng hậu Pha Luông đã quá cố. Ông hoàng này đã từng được phong làm thái tử rồi lại bị truất. Hai người con trai khác là hoàng tử To và hoàng tử Nou là con của hoàng hậu Ngọc Vạn. Bình sinh vua Chey rất yêu quí hoàng hậu Ngọc Vạn nên cảm tình cũng thiên hẳn về To và Nou. Hơn nữa, ngài nghĩ chỉ chọn con của Ngọc Vạn hoàng hậu kế vị ngôi vua Chân Lạp mới mong được sự ủng hộ của Thuận Hóa. Đó là cách ngài phải chọn để nước Chân Lạp hi vọng được sống còn trước móng vuốt người Xiêm. Do đó, Chan đương nhiên bị loại ra ngoài tầm lựa chọn làm người kế vị. Trước khi lâm chung, vua Chey quyết định phong To làm thái tử để kế vị ngài.
Truyền ý chỉ của mình xong, không bao lâu thì vua Chey thăng hà. Hoàng thân Préah Outey và triều đình bèn phò thái tử To lên ngôi lấy hiệu là Chau Ponhea To. Hoàng hậu Ngọc Vạn được tôn lên làm thái hậu.
Vua Chau Ponhea To còn quá nhỏ nên quyền chính hầu hết nằm trong tay quan phụ chính Préah Outey. Ông này là người rất trung hậu và cũng có tinh thần bài Xiêm quyết liệt như vua Chey nên chính sách ngoại giao của Chân Lạp không thay đổi gì. Chính sách thân Việt vẫn được duy trì, di dân người Việt vẫn tiếp tục được ưu đãi.
Chan là hoàng tử lớn mà không được lập làm vua nên sinh lòng bất mãn, ngầm vận động nổi dậy tranh quyền. Những đại thần thiếu thiện cảm với người Việt lợi dụng tình trạng này âm thầm qui tụ chung quanh Chan để mưu tính về sau. Những sắc dân khác lâu nay vẫn ngầm ganh tức vì người Việt được ưu đãi quá nhưng không làm gì được, nay có cơ hội, cũng ủng hộ Chan. Các chính phủ Xiêm, Lào cũng hứa sẽ ủng hộ nếu Chan mưu đồ chuyện lớn. Những hoạt động của phe đảng Chan tuy ngày mỗi phát triển nhưng họ vẫn còn giữ được bí mật. Triều đình chỉ nghe biết một cách mơ hồ mà chưa nắm được bằng cớ gì hết.
Chính vua Chey cũng hãnh diện công nhận ngài là người rất may mắn có được một người vợ tuyệt hảo. Ngài đã có những lúc sung sướng tận hưởng niềm vinh quang của một ông vua thời thịnh trị.
Một thời gian sau, hoàng hậu Ngọc Vạn lại sinh cho ngài đứa con thứ hai, cũng thông minh, dễ thương không kém gì hoàng tử To, vua đặt tên cho hoàng tử là Nou. Lúc này hoàng hậu lại càng hết sức chiều chuộng, săn sóc chồng từ công việc đến các thú giải trí, đến từng miếng ăn, giấc ngủ và đến cả những giây phút ân ái. Ai cũng nhìn nhận vua Chey là một trong những vị vua có diễm phúc nhất trên đời!
Tội nghiệp vua Chey, ngài không hề biết một chút sự thật nào về nội tâm của người vợ tuyệt vời ấy. Người Việt có câu hát "Trái bồ hòn trong tròn ngoài méo, Trái sầu đâu trong héo ngoài tươi", vua Chey chỉ tìm gặp hoàng hậu qua dạng bên ngoài của một trái sầu đâu.
Thật sự hoàng hậu Ngọc Vạn đã cố gắng tạo những nụ cười thật tươi, những nụ cười hoàn toàn trái ngược với cõi lòng khô héo của bà để hiến tặng chồng. Việc đó bây giờ đối với hoàng hậu hoàn toàn không phải với mục đích mời chào, mua chuộc nhà vua như trước kia! Mà nó hoàn toàn phát sinh từ tấm chân tình của một người biết hối lỗi khi bất đắc dĩ phải nhúng tay vào một tội ác. Bà thương chồng với tấm lòng người mẹ thương con, người chị thương em, hay người vợ thương chồng khi biết người thân của mình đã mắc chứng bệnh không còn cách chữa. Bà cố gắng phục vụ, chiều chuộng chồng hết mình như cố gắng làm thỏa mãn cho một người thân trước khi người ấy xa rời trần thế... Đó cũng là một cách để bà được giảm bớt nỗi ray rứt trong lòng. Mấy ai biết được diễm phúc thật sự của vua Chey lại nằm ở điểm này?
Tổ quốc trên hết! Dân tộc trước hết! Trước khi ra đi hoàng hậu Ngọc Vạn đã trân trọng hứa nguyện với cha già thân yêu, bà đâu dám lơ là với lời hứa nguyện đó được? Lúc đó bà còn quá trẻ đâu có thể lường đoán được sự phát triển tình cảm của mình với chồng, với con cái mình về sau này!
Cũng trong thời gian này, người Việt di dân lặng lẽ nới rộng sinh hoạt về thương nghiệp, công nghiệp cũng như nông nghiệp trên đất Chân Lạp một cách êm đềm với từng bước thật vững chắc và hoàn hảo.
Năm Mậu Thìn (1628), vua Chey mắc bệnh trầm trọng. Các ngự y đã tận tình săn sóc nhưng bệnh không cách nào thuyên giảm. Biết mình không còn sống được bao lâu, vua Chey gọi người em ruột là hoàng thân Préah Outey và mấy viên đại thần vào cung để phó thác việc sau. Ngài vốn có ba người con trai. Đầu tiên là hoàng tử Chan, con của hoàng hậu Pha Luông đã quá cố. Ông hoàng này đã từng được phong làm thái tử rồi lại bị truất. Hai người con trai khác là hoàng tử To và hoàng tử Nou là con của hoàng hậu Ngọc Vạn. Bình sinh vua Chey rất yêu quí hoàng hậu Ngọc Vạn nên cảm tình cũng thiên hẳn về To và Nou. Hơn nữa, ngài nghĩ chỉ chọn con của Ngọc Vạn hoàng hậu kế vị ngôi vua Chân Lạp mới mong được sự ủng hộ của Thuận Hóa. Đó là cách ngài phải chọn để nước Chân Lạp hi vọng được sống còn trước móng vuốt người Xiêm. Do đó, Chan đương nhiên bị loại ra ngoài tầm lựa chọn làm người kế vị. Trước khi lâm chung, vua Chey quyết định phong To làm thái tử để kế vị ngài.
Truyền ý chỉ của mình xong, không bao lâu thì vua Chey thăng hà. Hoàng thân Préah Outey và triều đình bèn phò thái tử To lên ngôi lấy hiệu là Chau Ponhea To. Hoàng hậu Ngọc Vạn được tôn lên làm thái hậu.
Vua Chau Ponhea To còn quá nhỏ nên quyền chính hầu hết nằm trong tay quan phụ chính Préah Outey. Ông này là người rất trung hậu và cũng có tinh thần bài Xiêm quyết liệt như vua Chey nên chính sách ngoại giao của Chân Lạp không thay đổi gì. Chính sách thân Việt vẫn được duy trì, di dân người Việt vẫn tiếp tục được ưu đãi.
Chan là hoàng tử lớn mà không được lập làm vua nên sinh lòng bất mãn, ngầm vận động nổi dậy tranh quyền. Những đại thần thiếu thiện cảm với người Việt lợi dụng tình trạng này âm thầm qui tụ chung quanh Chan để mưu tính về sau. Những sắc dân khác lâu nay vẫn ngầm ganh tức vì người Việt được ưu đãi quá nhưng không làm gì được, nay có cơ hội, cũng ủng hộ Chan. Các chính phủ Xiêm, Lào cũng hứa sẽ ủng hộ nếu Chan mưu đồ chuyện lớn. Những hoạt động của phe đảng Chan tuy ngày mỗi phát triển nhưng họ vẫn còn giữ được bí mật. Triều đình chỉ nghe biết một cách mơ hồ mà chưa nắm được bằng cớ gì hết.
Chương 19:
Vào một đêm cuối tháng 6, trời mưa lớn và tối đen như mực. Trời đã khuya mà thái hậu không thể nào chợp mắt được. Theo thói thường, những lần bị mất ngủ như thế, thái hậu gọi vài nữ tì đến đấm bóp hoặc kể chuyện để bà dỗ giấc. Nhưng đêm này, tự nhiên thái hậu cảm thấy không cần đến họ, bà cần yên tĩnh để suy tư, hoài niệm...
Theo luật đời mạnh được yếu thua, nếu Thuận Hóa không kiêm tính Chân Lạp thì nước Xiêm, nước Diến Điện, nước Trung Hoa cũng kiêm tính thôi. Một nước quá nhỏ yếu như thế làm sao có thể đứng vững được? Nhất là khi chính nó lại có sức hấp dẫn vô cùng vì cái màu mỡ của đất đai, cái phong phú của tài nguyên và sự thuần hòa lý tưởng về khí hậu. Vả lại, Thuận Hóa đang thời kỳ sung sức, có đủ chúa thánh tôi hiền, qua lại gần gũi thuận lợi. Nếu Thuận Hóa không làm việc đó kịp, chờ khi thời cơ đã qua thì chính Thuận Hóa cũng sẽ ôm hận đợi diệt vong vậy! Nhờ cái ý niệm phục vụ sự lớn mạnh, trường tồn cho tổ quốc trong bà quá mạnh mẽ ban đầu, Ngọc Vạn đã nhiều phen vượt qua cái tình cảm yếu đuối của tấm lòng nhân đàn bà. Bà đã đạt được nhiều thành quả lớn lao bất ngờ. Nhưng khi nghĩ đến tương lai các con, bà lại thấy thối chí chùn chân thậm tệ.
Ngọc Vạn nhận sứ mệnh và đã hứa hoàn thành sứ mệnh với chính cha mình. Sứ mệnh đó không dễ gì bày tỏ cho ai biết được. Mười mấy năm rồi không có dịp gặp lại cha, bà vẫn lặng lẽ thực hành từng bước những lời cha dặn. Khi bà vú Minh Nguyệt còn sống, thỉnh thoảng bà có thể chia sẻ với bà này vài điều cho tâm trí nhẹ bớt. Bây giờ thì Ngọc Vạn phải giữ kín cả một khối bí mật đầy ắp. Người đời sau ai hiểu nỗi lòng bà không?
Nghĩ tới hai con, Ngọc Vạn càng thấy đau đớn: Mẹ làm sao tự thú được với hai con rằng chính mẹ đang âm mưu đoạt lấy tổ quốc, cơ đồ của chính hai con? Hai con cũng như cha của hai con đều quá yêu mẹ, quá tin mẹ, có bao giờ ngờ tới chuyện đó được!!!
Thái hậu nhớ lại một lần bà dắt hoàng tử Nou, lúc đó mới lên năm, dạo chơi trong vườn ngự uyển. Trong lúc hai mẹ con đang ngắm hoa nhìn trái bỗng nghe tiếng quạ kêu quang quác trên trời. Hai mẹ con cùng nhìn lên thì thấy hai con chim chèo bẻo thân hình nhỏ nhắn đang đuổi cắn một con quạ lớn hơn. Con quạ chỉ biết vừa kêu la vừa né tránh bay trốn chứ không dám chống cự. Nhưng hai con chèo bẻo cứ đón đầu đón đuôi đuổi cắn miết không chịu tha. Hoàng tử Nou ngạc nhiên hỏi mẹ:
- Sao hai con chim con lại đuổi cắn con chim mẹ vậy hở mẹ?
Ngọc Vạn giải thích:
- Tuy chúng cùng lông màu đen cả nhưng không phải cùng giống đâu con! Không phải chim con cắn chim mẹ đâu! Hai con chim nhỏ là chim chèo bẻo, con chim lớn là con quạ đó.
- Thế vì sao con chèo bẻo lại cắn con quạ?
- Có lẽ vì con quạ ăn cắp trứng của chèo bẻo.
- Thế vì sao chèo bẻo nhỏ thế mà lại không sợ quạ?
Hoàng hậu nhìn con một chút rồi nói:
- Vì chèo bẻo là giống chim anh hùng, không chịu để ai ức hiếp!
Nét mặt ngây thơ của hoàng tử Nou bỗng rạng rỡ lên:
- Con cũng anh hùng, phụ vương đã nói với con như thế. Mai sau làm vua con cũng đánh những nước lớn ức hiếp nước mình.
Hoàng tử Nou nói thế rồi hớn hở nhìn mẹ. Ngọc Vạn nhìn con hơi cười qua con mắt. Không biết thẩm ý thẩm tình sao đó, cậu bé đùa nghịch nhìn mẹ nói luôn:
- Con cũng sẽ đuổi đánh cho ông ngoại vừa chạy vừa kêu như con quạ!
Ngọc Vạn giật nẩy mình. Bà đánh hoàng tử Nou một bạt tai nẩy lửa:
- Hỗn!
Rồi bà ôm mặt ngồi phịch xuống khóc nức nở. Hoàng tử Nou bị đánh đau điếng nhưng không dám khóc. Cậu hoảng hốt chạy lại xin lỗi mẹ:
- Con xin lỗi mẹ. Con nói đùa chứ con không dám đánh ông ngoại đâu!
Nhưng Ngọc Vạn vẫn tiếp tục khóc và cậu bé vẫn nằn nì xin lỗi.
Các nữ tì thấy vậy bèn đến đưa hai mẹ con về cung. Sau đó Ngọc Vạn còn tiếp tục khóc thầm và suy nghĩ mung lung rất nhiều ngày vì chuyện ấy. Bà khóc vì thương đứa con thơ vô tư không bao giờ hiểu được bụng dạ mẹ mình. Bà lo vì biết đâu đấy chẳng là cái điềm do một đấng thiêng liêng nào đã đặt lời vào miệng trẻ...
Mới đó mà đã bao nhiêu năm rồi, Ngọc Vạn đã thành một thiếu phụ ngoài ba mươi. Tuy đã qua một thời được chồng hết lòng yêu quí, chiều chuộng, bây giờ thì sống gần các con, nhưng lúc nào bà cũng cảm thấy mình đang ở vào một hoàn cảnh cô đơn khác thường. Cái thứ tình cảm cao quí nhất của thuở ban đầu, dĩ nhiên Ngọc Vạn đã dành hết cho Đình Huy... Với vua Chey, tuy ân ái rất mặn nồng nhưng bà vẫn tự nghĩ bao giờ bà cũng thiếu hẳn thứ tình yêu thành thật với ông ta. Nhiều lần Ngọc Vạn muốn điên lên vì những mâu thuẫn này. Bà đã chịu không biết bao nhiêu sự ray rứt, hối hận... Những lúc bình tĩnh để suy ngẫm, Ngọc Vạn nhận thấy mình đã đóng một vai tuồng phải nói là kỳ quặc và khó khăn nhất trong lịch sử nhân loại. Đó là sự vặn vẹo, dối trá tình yêu với một kẻ chân thật, trung thành và hết lòng tin tưởng mình. Nàng Ngọc Lâm phải dối gạt Lập Bạo vì Lập Bạo cố ý hại chúa của nàng. Tây Thi phải dối gạt Phù Sai vì Phù Sai chà đạp tổ quốc của nàng. Tôn phu nhân lấy Lưu Bị theo kế hoạch của Chu Du nhằm lôi kéo, hãm hại Lưu Bị nhưng rồi bà lại thật tình yêu Lưu Bị và lại cứu Lưu Bị khỏi cơn hiểm nghèo... Chỉ có Ngọc Vạn là từ đầu chí cuối phải đánh lừa một người chồng thành thật, thiết tha yêu bà, tin tưởng, rộng lượng với đồng bào của bà. Dưới mắt bà, vua Chey hoàn toàn vô tội, đáng thương nhất trong những người đàn ông bị lường gạt! Ông là một vị vua hết lòng vì nước vì dân, can đảm, chan chứa tình người. Ông chỉ phạm một cái lỗi là quá tin người mình yêu thương! Giờ thì ông không còn nữa nhưng bà biết mình không dễ gì quên được hình bóng ông. Lúc nào ông cũng hiển hiện trong tâm trí bà trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ. Khi ông còn sống, bà thường nghĩ rằng bà chỉ đóng kịch yêu ông hoặc quá lắm là chỉ thương hại ông. Nhưng cái tình yêu vô bờ bến của vua Chey dành cho bà đã chinh phục thẩm thấu tới tâm khảm của bà. Bà dần trở thành thật sự yêu ông, thật sự muốn được phụng sự ông với tất cả chân tình. Nhưng rồi cái màn phụng sự tổ quốc quá dày vẫn ngăn cách bà khiến bà không thể nào đáp ứng được tình yêu của ông theo ý nguyện... Ôi, từ khi sang đất nước này, đời ta trở thành hoàn toàn dối trá, đóng kịch triền miên mà không thể dừng được! Sao ta phải khổ đến thế này?
Ta làm sao mà từ bỏ được hành động dối trá đây? Ta đang sống với các con ta mà không thể không dối trá với các con ta, đau đớn thay! Ta phải tiếp tục dối trá với chính những con người mình banh da bét thịt sinh ra! Dù muốn dù không thì ta cũng đang mưu đồ cướp đất nước của các con ta, éo le thay! Ta thật sự đang đưa đẩy chính con cháu của ta đến chỗ diệt vong! Tại sao ta phải hành động như vậy? Tại sao ta phải hành động như vậy? Nghĩ đến đó, thái hậu bất đồ hét lên:
- Trên thế gian này còn người đàn bà nào gặp hoàn cảnh như ta nữa không?
Thế rồi thái hậu úp mặt xuống gối mà khóc nức nở.
Bỗng nhiên thái hậu Ngọc Vạn cảm thấy rùng mình. Bà bỗng quay mặt lại và giật thót người khi thấy một kẻ lạ bịt mặt bận đồ chẽn đen đang dí mũi cây trường kiếm vào cổ bà.
- Ngươi là ai? Muốn gì?
- Ta là thần chết! Ta đến đây để kết thúc cuộc đời của một con ác phụ!
Lúc đó bên ngoài trời đang đổ mưa sầm sập. Thái hậu biết rằng nếu có kêu lên chắc cũng chẳng ai nghe. Ở gần thái hậu thường chỉ có mấy nữ tì, trong trường hợp sống chết này họ đâu có làm gì được. Qua giây phút hoảng hốt, thái hậu lấy lại được bình tĩnh, bà nói:
- Ngươi đến thật đúng lúc! Ta cũng đang muốn chết đây! Tuy nhiên, ngươi hãy cho ta biết ta đã làm gì mà gọi ta là ác phụ?
Tên thích khách thụt mũi kiếm lui một chút, nói:
. Ngươi dùng sắc đẹp để mê hoặc vua Chân Lạp buộc ngài phải làm theo ý muốn bất chánh của ngươi như vậy không phải là ác phụ sao?
Thái hậu cười to:
- Ta đây lấy chồng cưới hỏi đàng hoàng, việc phải việc trái vợ chồng đều bàn bạc thỏa thuận nhau mà làm, ngươi lại cho là bất chánh ư? Còn ngươi rõ là một kiếm sĩ, lại lựa lúc nửa đêm mưa gió để leo tường khoét vách vào đây, dí kiếm vào cổ một người đàn bà yếu đuối như ta mới dám nói chuyện vậy là chánh đáng lắm sao?
Tên thích khách có vẻ hổ ngươi, thu thanh kiếm về trong thế phòng hờ:
- Được lắm, bà hãy ngồi dậy để ta hỏi chuyện một chút!
Thái hậu chưa kịp ngồi dậy thì lại thấy một người mặc đồ chẽn đen khác xuất hiện gần đó:
- Sao anh không ra tay cho rồi còn dùng dằng gì nữa?
Tên đứng gần thái hậu đáp:
- Ta nghe đồn bà thái hậu đẹp lắm, ta cũng muốn chiêm ngưỡng một chút xem sao rồi ra tay cũng không muộn!
Tên thích khách thứ hai nói:
- Ra tay nhanh lên! Trời sắp tạnh rồi đấy!
Thái hậu Ngọc Vạn cũng thét lớn:
- Hãy giết ta ngay đi! Còn chần chờ gì nữa?
Tên thích khách thứ nhất cười:
- Nôn nóng làm gì, trước sau bà cũng được toại nguyện mà! Bà đẹp như tiên sa thế kia hèn gì! Không ngờ ta lại phải ra tay hủy diệt một bông hoa tuyệt thế như vầy! Tiếc thay! Tiếc thay! Ta hỏi bà...
- Choeng!
Một tia chớp lóe sáng giữa thái hậu và tên thích khách cùng với tiếng binh khí chạm nhau chát chúa vang lên làm cả hai giật nẩy mình dội người lui.
- Thái hậu chớ sợ! Chúng tôi đến cứu thái hậu đây!
Lúc ấy thái hậu mới nhận ra được có hai người lạ khác cũng bịt kín mặt từ đâu trên rường nhà đồng loạt nhảy xuống. Một người dùng kiếm đánh vẹt mũi kiếm của tên thích khách đang đàn áp thái hậu, một người sấn tới chận bước tên thích khách thứ hai đang định tiến lại giúp đồng bọn. Thế rồi hai cặp vung kiếm đánh nhau kịch liệt.
Thái hậu thấy mình đã thoát ra khỏi tầm nguy hiểm, bà đứng dậy kêu lớn:
- Có giặc! Có giặc! Thị nữ đâu cả rồi sao không báo động lên?
Nhưng không có ai đáp lời bà. Thái hậu lại kêu nhiều lần nữa. Mặc cho thái hậu gào thét khàn cả cổ, vẫn tuyệt nhiên không có một lời đáp ứng ngoại trừ tiếng vũ khí chạm nhau. Bên ngoài trời vẫn mưa sầm sập. Giờ thì thái hậu biết chắc những người hầu hạ của mình đã bị mấy tên thích khách thanh toán cả rồi. Làm sao bây giờ? Chạy trốn ư? Chắc gì thoát khỏi nguy hiểm! Lại còn thể diện của một vị quốc mẫu nữa! Thái hậu hết sức sốt ruột nhưng bà biết mình không thể làm gì khác hơn là đứng đấy để chứng kiến cuộc chiến... Nếu trời tạnh may ra kẻ hầu hoặc lính canh còn nghe được tiếng binh khí chạm nhau. Nhưng trời sao đêm nay mưa lớn và dai quá!
- Quân triều đình đến rồi!
- Hãy bắt cho được tên thích khách!
Đang sốt ruột, thái hậu Ngọc Vạn bỗng mừng rỡ nghe tiếng kêu lớn của những người đang quần thảo nhau. Bấy giờ bà mới để ý nghe những tiếng chân chạy rầm rập và tiếng người la ó mỗi lúc một gần.
- Rút lui!
- Đừng có hòng thoát thân!
Thái hậu thấy cả bốn người đang lâm chiến bỗng lần lượt phi thân lên rường nhà. Một vung ngói trên mái bị hất tung để lộ một khoảng không lớn làm nước mưa và hơi gió lạnh tạt vào cung... Một người hình như thoát mất, còn ba người nhảy trở lại bên trong đánh nhau quyết liệt. Tiếng chân, tiếng người đã náo động ngay trước cửa cung. Cũng vừa lúc đó, một tiếng rú vang lên, một thanh kiếm cùng bàn tay văng tới ngay cạnh nơi thái hậu đang đứng. Người bị thương đang lảo đảo lãnh thêm một cú đấm nữa rồi ngã xuống nằm yên.
Thái hậu đang bàng hoàng thì một trong hai người chiến thắng tiến đến trước mặt thái hậu nói:
- Triều đình sẽ giải quyết tên này. Thái hậu hãy bảo trọng! Đình Huy xin tạm biệt!
- Trời ơi! Đình Huy! Đình Huy! Lại là chàng! Xin nán lại giây lát. Em muốn thấy mặt chàng một chút...
Nhưng hai bóng người đã vút lên rường nhà mất dạng.
***
Cuộc mưu sát thái hậu Ngọc Vạn bất thành nhưng đã làm chấn động triều đình Oudong. Tất cả mười người hầu hạ thân tín của thái hậu đều bị hạ sát. Tên thích khách bị chặt một bàn tay và bị bắt không phải người xa lạ mà là một võ tướng tại triều, cũng là người hoàng tộc: Nặc Xạ Năng. Hoàng thân Outey ra lệnh băng bó thuốc men cho tên tội phạm đồng thời cũng cử người đến nhà y để canh chừng.
Hôm sau, hoàng thân Outey đích thân thẩm vấn tội phạm. Nặc Xạ Năng dù đã bị chặt đứt một bàn tay vẫn phải mang gông, chân bị xiềng, canh giữ cẩn thận khi đưa ra công đường. Trước mặt vị hoàng thân phụ chánh, hắn vẫn tỏ ra ngạo mạn, bất cần, không chào, không chịu quì. Bọn nha lại phải ấn cổ Nặc Xạ Năng bắt quì xuống.
Hoàng thân Outey hỏi:
- Tại sao mày muốn ám sát thái hậu?
Nặc Xạ Năng ngang bướng trả lời:
- Tôi tưởng ông biết hơn tôi chớ! Ông làm tể tướng mà để người nước ngoài tự do kinh doanh buôn bán, mở xưởng thợ này thợ nọ thao túng ngay trên thủ đô nước mình sao chẳng có chút lo xa? Tướng lãnh Đại Việt thì đóng quân trên đất Prey Kor của ta mà thu thuế, dân Đại Việt thì rải ra sống khắp miền đất phì nhiêu Thủy Chân Lạp của chúng ta, sao lại thế? Thế lực họ mỗi ngày mỗi vững gốc chắc rễ như vậy liệu sau này vùng đất đó có còn thuộc chủ quyền của ta nữa không? Tôi muốn giết con ác phụ Ngọc Vạn chính là để diệt trừ đầu mối làm mất nước Chân Lạp vậy!
Hoàng thân Outey quát:
- Tên hỗn láo! Mày không thấy chính nhờ người Việt mà lâu nay bọn Xiêm tàn ác không còn dày xéo, giết hại đồng bào ta không? Người Việt ngoài việc giúp đỡ ta chống giặc và sinh sống lương thiện với dân ta, họ có làm gì đáng trách đâu? Còn bọn Xiêm lúc nào cũng chực tiêu diệt dân tộc ta, nếu người Việt không kịp giúp ta, giờ này chúng ta còn yên ổn ngồi đây được chăng? Một quá trình lịch sử rành rành như vậy mày không thấy sao? Nếu không dựa vào người Việt ta còn biết dựa vào ai nữa?
Nặc Xạ Năng thở dài:
- Đầu óc ông không khai mở được nữa rồi! Ta chỉ tiếc hận tên Tàu kia vì mê xem nhan sắc con ác phụ, dùng dằng không chịu hạ sát nó liền để mầm họa vẫn còn đó. Ta thua cuộc rồi. Đừng hỏi lôi thôi gì nữa, hãy đem chém ta đi!
Hoàng thân Outey lại hỏi:
- Mày nói tên thích khách đồng đảng với mày là tên Tàu nào?
Nặc Xạ Năng lộ vẻ giận dữ:
- Tên háo sắc ấy chắc chuồn về Tàu rồi! Dẫu ta có nói ông cũng không thể tìm ra hắn đâu. Ta thua cuộc rồi, ông hãy chém ta đi!
Hoàng thân Outey cười:
- Đâu có dễ dàng như thế được! Ta phải tìm ra đầu mối bọn phản loạn. Nếu mày không chịu nói, ta sẽ cho áp dụng cực hình với mày!
Nặc Xạ Năng cười gằn:
- Bây giờ tôi là tù, ông muốn làm gì thì cứ làm!
Hoàng thân nghiêm mặt:
- Ừ, ta cũng muốn xem mày cứng tới mức nào!
Rồi ông thét lớn:
- Quân bây! Chuẩn bị hình cụ!
Hoàng thân vừa dứt lời thì tên công sai đứng bên tội phạm chợt kêu ú ớ:
- Coi kìa! Coi kìa! Ông ta...
Mọi người nhìn lại. Nặc Xạ Năng đã đổ nghiêng người xuống nền nhà, mắt trợn ngược, miệng trào máu lênh láng. Mấy người công sai vội vàng xúm lại vực tội phạm dậy xem chuyện gì đã xảy ra. Một lát sau, họ thưa:
- Bẩm, tội phạm đã cắn lưỡi chết rồi!
Hoàng thân Outey giận dữ nói:
- Thế là mất tiêu manh mối! Làm sao tìm được tên Tàu nào đó đây? Hãy vứt xác nó ra đồng hoang cho quạ tha chó gặm!
Sau đó, ông lại giận dữ sai người đến bắt người nhà của Nặc Xạ Năng với hi vọng điều tra thêm được chút gì. Nhưng một lát sau, bọn người được sai đi về báo:
- Bẩm hoàng thân, không hiểu ai đã giết sạch cả nhà Nặc Xạ Năng mất rồi! Tám mạng lớn nhỏ nằm ngổn ngang, máu me loang đầy nhà.
Hoàng thân Outey thất vọng nói:
- Thế là mất sạch bằng chứng! Hãy đem chúng mà thiêu chung một giàn, còn nhà cửa, của cải đem sung công hết!
Trước khi chết, Nặc Xạ Năng đã vô tình tiết lộ mập mờ kẻ đồng đảng với hắn là một người Tàu. Vì thế, một số người nghi ngờ người Tàu kia là một vị võ sư ở nhà đại thần Sơn Cun. Ông võ sư này được nuôi để dạy võ cho con cháu viên đại thần. Nghi ngờ thôi chứ chẳng mấy ai dám đặt vấn đề! Ở Oudong có quá nhiều người Tàu dễ gì điều tra ra được. Rốt cuộc vụ án đành phải cho chìm xuồng luôn.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét