Hồi 92: Liệm Diệt Quán : Nơi chứa gái của Càn Long
Gia Quân vương cùng bọn đại
thần văn chương thân cận hằng ngày luyện tập thi thư, cử chỉ có bề văn nhã,
tính tình lại đàng hoàng ngay thẳng. Nhưng từ khi qua chơi miếu Lạt ma về rồi,
vương bỗng nảy sinh lòng tà dục, khiến tâm hồn trong trắng vốn có tiêu tan tức
thì. Giữa lúc mọi người đang bận bịu về cuộc lễ chúc thọ và không ai để ý tới,
chẳng hiểu tại sao vương quen biết một cô tiểu thư, con một vị Chương Kinh họ
Hầu người Hán. Thế là hai người mật ước với nhau, thì thụt lại qua. Về sau viên
Chương Kính biết chuyện, bèn ngầm đưa con gái vào phủ vương gia.
Hội chợ đóng cửa. Càn Long
hoàng đế vội mang Tứ khố mục lục ra xem xét. Tổng toàn đại thần lúc đó là Kỷ Hiểu
Phong. Hoàng đế muốn nhờ Phong làm lời tựa thay mình, nhưng lại sợ có người
biết. Bởi vậy, ngài giữ Phong ở lại trong ngự thư phòng.
Hai
người thường bàn luận biến chế phải thế nào. Không ngờ Kỷ Hiểu Phong tuổi tuy
đã đến sáu chục nhưng trời sinh ra vốn dương thế, một ngày không có gái thì tay
chân rã rời, toàn thân như người bệnh nặng, không làm được chuyện gì nữa. Phong
ở lại trong cung đã tới ngày thứ tư, đêm nào cũng nằm một mình vò võ. Phong cảm
thấy xương cốt toàn thân đau mỏi nhừ dần, gân cốt giật lên thon thót từng hồi.
Hôm đó đúng vào ngày thứ tư.
Cặp con ngươi của Phong như muốn bắn ra ngoài, mắt Phong nổi đầy gân đỏ. Lạ
nhất là suốt ngày hôm đó, Phong cứ cong lưng khom người lại, chẳng dám đứng
thẳng lấy một phút, Càn Long hoàng đế thấy vậy lấy làm lạ, bèn hỏi Phong đau
bệnh gì thì Phong hoảng quá bò rạp xuống đất, dập đầu lia lịa rồi tự thú rằng
mình một ngày mà không có đàn bà thì chẳng làm ăn được gì hết. Càn Long hoàng
để nghe nói ha hả cười lớn, rồi đưa tay đỡ Phong dậy, bảo cứ yên nghỉ tại thư
phòng cho hết ngày đã.
Hôm đó, theo thường lệ thì có
mấy tên thái giám dọn giường trải nệm cho Phong. Nhưng đêm nay lại không phải
chúng mà là hai cô cung nữ tuyệt sắc giai nhân. Mỹ nhân vừa thấy Phong, quỳ
xuống làm lễ ra mắt. Phong đột nhiên thấy chuyện lại tay chân như co rúm lại,
chẳng biết đặt vào đâu. Hai cô cung nữ làm lễ xong, cười tủm tỉm bắt tay vào
việc dọn giường trai nệm ngay. Phong vội cản lại nói: "Không dám làm phiền
hai nàng", nhưng người đẹp làm bộ như không nghe thấy, cứ thoăn thoắt làm.
Dọn giường trải nệm xong, một cô thì dắt Phong lên giường, còn một cô thì đưa
tay cởi thắt lưng của Phong. Báo hại Phong sợ quá, vừa thụt lùi vừa rên rỉ:
- Ấy chết! Chớ, chớ mà! Hoàng
thượng mà biết thì chết cả! Tội đó liệt vào hàng khi quân đấy. Tính mạng các cô
đã không giữ được thì cái mạng già này giữ làm sao nổi chứ?
Hai cung nữ lờ đi như không
biết đến lời Phong, cứ xúm lại kéo Phong lên giường và liếc nhau cười ngặt
nghẹo.
Kỷ Hiểu Phong lúc đó tiến thoái
lưỡng nan. Muốn trốn nhưng trốn vào đâu? Nói nhiều lại sợ ầm lên, thế là Phong
dành để mặc cho hai cô duyên dáng, đẹp như hoa xinh như mộng kia muốn làm gì
thì làm.
Hai cô cung nữ miệng vẫn cười
như nắc nẻ hè nhau cởi tuột hết quần áo của Phong, bế thốc Phong lên giường.
Phong cứ tưởng xong xuôi cả hai sẽ bỏ ra ngoài ai ngờ họ đã không đi mà lại còn
gỡ bỏ trâm vàng vòng ngọc rồi cởi luôn y phục, cùng nhau ngồi cạnh giường
Phong, như có ý chui vào trong chăn của Phong.
Kỷ Hiểu Phong đến lúc này không
thể nín được nữa, bèn nhỏm dậy ngồi lùi mãi tận cuối giường chắp tay lạy lấy
lạy để hai cô rồi ấp úng lên tiếng:
- Xin hai cô ra ngoài ngay cho.
Việc này quả thật nghìn không được, muôn cũng không được đâu. Hai cô hãy thương
cho tôi, vốn kẻ đọc sách cùng khổ, cố leo mãi tới địa vị Đại học sĩ thực đâu có
phải dễ. Chuyện hôm nay xảy ra, rồi ngày mai bị đuổi ra khỏi cung, há chẳng
phải là hỏng hết ư? Không những công danh tính mạng của tôi tan tành hết, mà
danh tiết của hai cô trẻ đẹp như hoa như mộng thế kia cũng hoàn toàn mất sạch.
Hơn nữa, bọn ta đều biết có đêm nay rồi ngày mai tính mạng đều không còn cả,
như vậy thì ích lợi gì. Mong cầu hai vị cô nương tha cho cái mạng già này. Nhân
lúc còn chưa có ai biết, hai cô hãy lặng lẽ ra đi. Nếu không, chuyện vỡ ra mọi
người đều biết thì nguy lắm!
Mặc cho Phong muốn nói gì thì
nói, van xin gì thì van xin, hai cung nữ vẫn làm theo ý mình.
Kỷ Hiểu Phong không biết làm
cách nào hơn là học lối nhập đình của các vị lão tăng, đôi mắt nhắm nghiền lại,
mắt đối mũi, mũi đôi tâm, nằm thẳng cẳng mong ngủ thiếp đi.
Nhưng khốn một nỗi cho Phong là
mùi hương thơm ngào ngạt của son phấn cứ thốc vào mũi Phong từng hồi từng trận,
khiến Phong có muốn ngủ cũng chẳng được nào…
Giữa lúc đang cùng quẫn muôn
phần, Phong bỗng nghe có tiếng hô ngoài cửa sổ:
"Vạn tuế gia có chỉ. Nghĩ
rằng Kỷ Hiểu Phong tuổi già, vốn là người, há không rõ điều ấm lạnh. Bởi thế ta
đặc thưởng cho ngươi cung nữ hầu hạ bầu bạn ngay tại ngự thư phòng, để tỏ sự
chí tình của Trẫm đối với một lão thần. Khâm thử ".
Nực cười nhất là ông già họ Kỷ
mình trần trùng trục, bò lốm ngổm dưới đất nghe thánh chỉ. Khi nghe xong, Phong
tạ ơn, lòng lúc đó mới yên. Tất nhiên đêm hôm đó tha hồ thoả thích ngày mai
khỏi phải cong lưng khom người sợ thất lễ với thánh thượng.
Qua hôm sau, Kỷ Hiểu Phong thức
dậy mắt tỉnh như sáo, tinh thần xem ra minh mẫn lạ thường. Càn Long hoàng đế
bước vào thư phòng, Phong lại một lần nữa quỳ xuống tạ ân.
Hoàng đế cười hỏi:
- Thế nào? Hai con cung nữ ấy,
không chán chứ?
Phong lại dập đầu lia lịa tạ
ơn. Từ đó, hai cô cung nữ xinh đẹp suốt ngày ở bên cạnh Phong hầu hạ trong ngự
thư phòng, khi thì thêm hương rọc giấy, khi thì dọn giường trải nệm. Đến khi
Phong soạn sách đã xong, ra khỏi cung, Càn Long hoàng đế bèn ra lệnh cho Phong
đem cả hai cô về nhà để làm dì hai, dì ba. Do chuyện này, người Bắc Kinh hồi đó
đều nói Kỷ Hiểu Phong vâng chỉ lấy thiếp. Bà Kỷ thái thái (vợ cả) nghe dư luận
đồn rầm nhưng còn biết làm sao được.
Bây giờ đến chuyện Hoà Hiếu
công chúa lấy chồng. Kinh thành lại được một dịp náo nhiệt ghê gớm. Một toà phủ
phò mã hết sức đồ sộ do hoàng đế ban thưởng, được xây cất tại đường lộ lớn Đông
Đại nhai. Trong phủ trang hoàng cực kỳ đẹp đẽ. Hoà Khôn lại giàu có nên ngấm
ngầm thêm ba mươi vạn lạng bạc kiến trúc một toà hoa viên lớn ngay trong phủ
phò mã.
Theo định lệ của cung nhà
Thanh, thì công chúa dù đã lấy phò mã nhưng hai vợ chồng ít khi được gặp mặt
nhau. Công chúa thì ở trong nội viện, phò mã lại ở ngoài ngoại viện. Hoà Khôn
sợ con mình ở ngoại viện buồn bã nên mới cho kiến trúc toà đại hoa viên, lâu
đài tráng lệ nguy nga vào bậc nhất.
Đến ngày vui mừng nhất đời của
mình, công chúa từ biệt hoàng thượng, hoàng hậu và mẹ đẻ là bà Nguỵ Giai Thị,
bước ra khỏi cung về phủ phò mã.
Hai vợ chồng Hoà Khôn đứng
trước mặt cô con dâu làm lễ triều bái xong, bèn mở tiệc mừng. Trong phủ náo
nhiệt đủ ba ngày. Tả hữu thân cận của công chúa có bảo mẫu, thị nữ hầu hạ. Nàng
công chúa này hết sức hoạt bát lanh lẹn. Nàng thấy sau khi làm lễ động phòng
hoa chúc, phò mã phải ở luôn mấy chục hôm ngoài ngoại viện không được gặp mặt,
bèn dặn dò bọn thị nữ đi tuyên triệu phò mã vào nội viện. Nhưng mấy bà bảo mẫu
ngăn lại, nói đó là quy củ của triều đình, công chúa không được tuyên triệu một
cách dễ dàng như vậy. Công chúa nghe xong đành vậy không biết làm cách nào chỉ
còn nhẫn nại chờ đợi…
Ba tháng trôi qua. Công chúa
lại cho thị nữ đi tuyên triệu phò mã. Lần này cũng bị bọn bảo mẫu ngăn cản, còn
trách nàng là không biết xấu hổ. Nàng tức đến phát khóc lên. Nàng muốn vào cung
tâu rõ việc này với phụ hoàng, nhưng một khi đã xuất giá đâu có dễ gì mà vào
cung được. Hơn nữa chuyện vợ chồng tư riêng thì biết nói với cha mẹ ra sao. Rắc
rối mãi, rút cuộc phò mã phải bỏ ra năm ngàn quan tiền lo lót với bọn bảo mẫu,
lúc đó mới được phép vào nội viện, vợ chồng gặp gỡ đoàn viên.
Từ đó, cứ mỗi lần hai vợ chồng
công chúa muốn gặp nhau, bị bọn bảo mẫu ngăn cản thì lại phải cho ít tiền mới
được phép. Đấy là điều bực bội nhất của các cô công chúa nhà Thanh.
Càn Long hoàng đế năm đó đã hơn
sáu chục tuổi. Chuyện nữ sắc tất nhiên kém hẳn trước một bực, cho nên ngài chỉ
còn thích có đi vi hành mà thôi. Những lúc rảnh việc, ngài thường cùng bọn nội
giám và cung nữ, ăn mặc thường dân, lén ra khỏi cung đi khắp đó đây du ngoạn.
Hồi đó có một người tên gọi
Dương Thuỵ Liên, vốn thân thích với Lương Thi Chính. Liên thường dựa thế Lương
Thi Chính là đại thần thân tín của hoàng đế, thỉnh thoảng lên kinh tới nhờ vả
hết việc này đến việc nọ. Chính ngại Liên là người kém cỏi thô lậu, chẳng có
học vấn bao nhiêu. Sở trường của Liên chỉ đặc biệt là chữ y rất đẹp. Chân,
thảo, triện, lê tất cả bốn chữ, kiểu nào cũng đều tuyệt cả. Chính bèn đưa Liên
đến quán Tây Thanh cồ giám giới thiệu và xin cho Liên được sung chức tả quan
(viên quan chuyên môn về việc viết sách).
Dương Thuỵ Liên từ khi nhận
việc trong quán này, mẫn cán tích cực lắm. Vào những lúc nghỉ, như người khác
thì đi chơi cho thoả nhưng Liên lại vùi đầu vào việc viết chữ.
Hôm đó, đúng vào mười ba tháng
tám, mọi người trong quán đi hết, chỉ còn có một mình Liên ngồi lại. Bỗng từ
bên ngoài, một ông lão vẻ mặt nghiêm nghị bước vào, nhìn Liên rồi gật đầu mỉm
cười. Liên chẳng biết người đó là ai song tự biết rằng chức vị mình quá nhỏ
thấp, Liên đứng dậy đón tiếp ông lão ngồi xuống, tựa vào cửa sổ, hỏi Liên:
- Bọn họ đi đâu cả rồi?
Dương Thuỵ Liên đáp:
- Hôm nay mười ba. Bọn họ…
Ông lão lại hỏi:
- Tại sao ngươi không đi?
Liên lại đáp:
- Mọi người đi hết cả, ví thử
nội đình có việc cần viết chỉ truyền ra, thì lúc đó biết kêu ai được? Bởi vậy
tôi tình nguyện ở lại đây trông coi.
Ông lão gật đầu khen tốt. Lại
nói:
- Người làm việc chăm chỉ cần
mẫn, nhưng e rằng công danh khó được như vậy.
Ông lão lại hỏi thêm họ tên quê
quán của Liên. Liên cứ thật nói hết, chẳng giấu một điều nào. Giữa lúc hai
người còn đang trò chuyện, bỗng thấy mười mấy tên thái giám hốt hốt hoảng hoảng
chạy tới, bò rạp xuống mặt đất nói:
- Thỉnh vạn tuế hồi cung.
Dương Thuỵ Liên đến lúc này mới
biết ông lão đó chính là đương kim hoàng đế Càn Long, bèn vội vàng quỳ xuống
dập đầu liên tiếp, mãi đến khi ngài đã xa rồi mới dám đứng dậy.
Qua ngày thứ hai, Liên tới nhà
Lương Thi Chính. Chính lúc đó còn tại triều, phải đợi một lúc mới về tới. Vừa
thấy Liên, Chính đã khì khì cười, mau miệng bảo:
- Lão huynh, vận tốt đã tới
rồi. Hôm nay trước mặt đệ, hoàng thượng đã khen lão huynh làm việc cần mẫn, chữ
viết đẹp, nên đã hạ thánh chỉ khâm tứ bằng cử nhân, bổ lão huynh đi tri huyện
Tương Đàm rồi đó.
Thật là cái mừng khôn xiết tả
cho Dương Thuỵ Liên! Sung sướng quá, Liên vội khom mình chắp tay, lạy Lương Thi
Chính, kính cẩn nói:
- Đa tạ đại nhân tài bồi!
Vài ngày sau, quả nhiên thánh
chỉ hạ xuống, bổ Liên đi tri huyện Tương Đàm!
Nhưng không ngờ sau khi đi làm
tri huyện, Liên đâm ra tham nhũng, ăn hối lộ, lôi thôi bê bết quá, đến nỗi tên
tuổi bại hoại hết cả. Điều tiếng bay cả về tới kinh, đến cả bọn ngự sử trong
triều cũng biết nữa. Thế là họ dâng lên một bản sớ. Rồi tuần phủ Hồ Nam cũng
tiếp thêm một tờ sớ nữa. Sớ dĩ tuần phủ Hồ Nam cũng ghét Liên, chỉ tại Liên không
chịu viết chữ giúp, khiến ông ta căm giận mà móc ra. Cả mấy bản sớ đều nhằm vào
chuyện tham lam, nịnh bợ, trái phép.
Nào ngờ Càn Long hoàng đế khi
thấy các bản sớ kể tội này, phì cười rồi bảo:
- Dương Thuỵ Liên vốn người
thực thà chất phác, trẫm biết đã quá rõ. Bọn họ dù có tấu đi nữa, trẫm cũng
chẳng chuẩn y đâu!
Về sau, Lương Thi Chính sợ liên
luỵ tới mình bèn ngầm viết thơ cho Liên khuyên y cáo lui đi là hơn.
Hồi 94: Thập Toàn Đại
Võ Công Kỳ
Càn Long hoàng đế có cái tính
kỳ là hễ đã yêu quý ai thì dù kẻ đó có làm bậy mà chính mắt ngài thấy cũng vẫn
không tin, vẫn chẳng trừng phạt, ví dụ trường hợp của Dương Thuỵ Liên vừa kể
trên… Nhưng cái người mà ngài tin hết mức, phải nói là Hoà Khôn.
Hoà
Khôn càng về già càng tham. Khôn sai gia đinh thân tín xuống vùng Giang Nam, Hồ
Quảng để hạch sách khảo tiền.
Các quan tuần phủ, tổng đốc đón
rước gia đinh của Hoà tướng quốc không khác gì đón rước hoàng đế. Tin đó bay về
tới kinh đô, nhưng các quan ngự sử đố ông nào dám ho he nói tới.
Duy chỉ có mình Lưu tướng quốc
kể tội Khôn ra bên ngoài đòi hối lộ, tham lam lường gạt, khảo tiền ra sao, bất
pháp thế nào…
Càn Long hoàng đế xem xong,
bỗng cả giận, nói Lưu tướng quốc có ý khiêu khích, bèn cho gọi vào, chỉ trích.
Lưu tướng quốc dập đầu tạ tội rồi rút lui, lòng bực tức đến cùng độ, bao nhiêu
râu ria hình như muốn dựng ngược lên hết.
Gia Quân vương vốn kính trọng
Lưu tướng quốc, biết chuyện này vội tới khuyên nhủ, mãi lâu sau ông mới vơi bớt
được nỗi buồn bực. Nói đến Hoà Khôn, Gia Quân vương cũng nghiến răng bảo:
- Cái tên gian tặc ấy, thế nào
Tiểu vương cũng có ngày trị tội hắn.
Thế là sau đó, vương cho người
lặng lẽ đi về các tỉnh dò hỏi, điều tra tất cả những chuyện bọn gia đinh của
Hoà Khôn tham nhũng hối lộ, mua quan bán tước như thế nào, rồi ghi hết vào sổ
sách để hỏi tội Khôn sau này.
Điều buồn cười nhất là Khôn y
như người nằm trong trống, chẳng hiểu một tý gì. Khôn thấy hoàng đế yêu quý Gia
Quân vương, thì y cũng ngày ngày ca tụng nịnh nọt bên tai hoàng đế, nào Vương
trung, nào Vương hiếu, nào Vương chăm học v.v. Càng nghe Càn Long hoàng đế càng
thích thú. Ngài bèn bàn với Hoà Khôn, cho mình còn dư được ít tuổi trời cần
hưởng cảnh nhàn lạc, nên sớm truyền ngôi lại cho Gia Quân vương. Hoà Khôn nghe
lời Càn Long hoàng đế, vội đem hết lời lẽ hùa vào. Y nghĩ rằng lúc này mình
giúp Vương thì tất sau này khi lên ngôi Vương phải coi mình như vị khai quốc
công thần, như vậy quyền thế của y chắc chắn bền vững mãi muôn đời.
Càn Long hoàng đế tuy đã có chủ
ý nhưng vì bọn hoàng tử đông lắm, nếu tuyên bố ra e có chuyện loạn mất. Bởi thế
ngài dặn dò Hoà Khôn phải giữ bí mật, đến khi được phép mới hay.
Năm đó Càn Long hoàng đế lên
ngôi đã được 57 năm. Phải tới 60 năm thì thánh chỉ nhường ngôi mới có thể hạ
xuống được. Ngài cho dọn dẹp sửa sang lại cung Dục Khánh rồi bảo Gia Quân vương
đem gia quyến vào ở. Muốn tránh tiếng, ngài tự tay viết ba chữ Kế Đức Đường vào một tấm biển, ban cho Gia Quân
vương đem treo trước cửa cung. Đó chính là ngài đã có ý ngầm truyền ngôi cho
Gia Quân vương rồi đấy!
Gia Quân vương thấy phụ hoàng
hao phí tâm lực khá nhiều cho mình, không biết đó là phúc hay hoạ, nhưng lại
không tiện hỏi. Giữa lúc bàng hoàng nghi hoặc ấy, bỗng được tin Hoà tướng quân
muốn gặp. Gia Quân vương thấy Khôn chỉ là một tên thái giám đáng ghét nên chẳng
ưa, hằng ngày ít khi qua lại thăm hỏi. Nay nghe nói đích y thân lại Vương phủ
xin gặp, trong lòng Vương cảm thấy lạ. Nhưng y vốn là một vị đại thần thân tín
bậc nhất của phụ hoàng thì chẳng lẽ lại coi thường, bời thế Vương đành phải ra
tương kiến.
Hoà Khôn thấy Gia Quân vương,
vội tiến lên vài bước, khom mình lạy một lạy.
Sau đó Khôn lấy từ trong tay áo
một viên ngọc như ý rồi hai tay dâng lên. Vương đỡ lấy viên ngọc, lòng càng
thấy lạ hơn nữa. Thì ra, hồi đó quy củ của cung Thanh như vầy; phàm bọn gái đẹp
được chấm làm phi tử, hoặc bọn phi tử được chấm phong hoàng hậu, người tới mừng
không tiện nói ra, bèn dùng cách dâng một viên ngọc như ý, vừa để tỏ ý chúc
mừng, vừa tỏ ý tới báo ngầm một tin mừng. Hoà Khôn tới dâng ngọc như ý là tỏ ý
báo ngầm một tin mừng cho Vương và còn chủ ý lấy lòng Vương nữa. Gia Quân vương
bèn nói:
- Tiểu vương có chuyện gì đáng
mừng khiến được tể tướng tặng ngọc vậy?
Khôn lại khom mình lạy một lạy
nữa, rồi khéo léo trình bày:
- Vương gia còn chưa hiểu gì
nữa sao? Hiện hoàng thượng đã định xong việc truyền ngôi cho Vương gia rồi. Nếu
không tin Vương gia chỉ cần xem ba chữ Kế
Đức Đường do chính tay hoàng
thượng viết, nhất là chữ Kế thì đủ rõ. Hôm qua hoàng thượng đã bàn
tính với hạ quan là chờ đến sáu chục tuổi, ngài sẽ truyền ngôi lại cho Vương
gia. Đưa Vương gia vào ở trong cung nội là sửa soạn tương lai đấy!
Gia Quân vương nghe đoạn trong
lòng tuy mừng rỡ nhưng thấy mình không được nghe hết chuyện cơ mật nơi cung
đình, nên lại càng chán ghét Khôn. Dù vậy mặc lòng, Vương lúc này tất nhiên vẫn
phải nói đôi ba lời cảm tạ rồi tiễn Khôn ra về.
Quay vào cung, Gia Quân vương
lẩm bẩm một mình, chửi rủa tên giặc già gian xảo định tới mua chuộc, rồi ra y
sẽ biết thủ đoạn của Vương. Trong lúc đó, Hoà Khôn đi từ Dục Khánh cung ra,
lòng cứ tưởng mình đã cấu kết được với Tân hoàng đế rồi thì lộc vị mai sau còn
có gì đáng lo nữa. Khôn nghĩ tới tương lai rồi lại nhớ tới quá khứ. Y nhớ tới
cái ân sủng của hoàng đế mà kính mà trọng, nay ngài thoái vị lẽ nào mình lại
không tính cách để báo lại ơn đức trong muôn một. Thế là khi quay về tới phủ,
Khôn đem ý mình ra bàn với bọn mạc hữu. Trong số đó có một người tên gọi Hồ sư
gia dâng kế nói:
- Đương kim hoàng thượng vốn
thích làm những công việc được tiếng là vĩ đại, nay ngài truyền ngôi lại cho
thái tử là có ý muốn bắt chước theo Nghiêu, Thuần nhường ngôi, chi bằng tướng
gia dâng một tờ sớ, trước hết ca tụng công đức của hoàng thượng, sau đó xin
giao cho Hàn lâm viện biên soạn một bản kỷ yếu ghi rõ công lao của ngài để làm
cái kế lưu truyền vạn đại.
Hoà Khôn nghe Hồ sư gia nói,
bất giác vỗ tay khen tuyệt! Sau đó Khôn giao cho Hồ viết ngay. Qua ngày hôm
sau, Khôn bước lên điện dâng sớ. Tờ sớ ý nói như sau:
"Hoàng thượng lên ngôi đã
sáu mươi năm, trong nước yên ổn, công nghiệp khải hoàn vũ, nên cử hành Khánh
chúc đại điển lục thập châu niên đăng vị, sai Nội các hàn lâm viện biên soạn
sách kỷ yêu ghi công đê hiểu dụ thiên hạ, truyền mãi muôn đời" .
Càn Long xem tờ sớ tỏ ý do dự.
Văn võ bá quan, anh nào lại chả muốn nhân cơ hội này mà lấy lòng hoàng đế. Bởi
thế tất cả đều hùa theo Hoà Khôn tâu xin hoàng đế cử hành lễ Khánh chúc đại
điển và giao cho các văn học đại thần soạn sách kỷ yếu ghi công.
Sau đó Hoà Khôn còn dâng lên
một tờ sớ nữa, ca ngợi Hoàng thượng từ khi lên ngôi tới nay có mười chiến công.
Mười chiến công ấy đều là do cơ
trí xếp đặt của Hoàng thượng, ân uy đều dùng, do đó nên giao cho Hàn lâm viện
đem mười chiến công ấy ghi chép kỹ lưỡng và rõ ràng. Mặt khác mong trăm quan
văn võ cùng dâng tôn hiệu gọi là "Thập
Toàn Đại Đế".
Thế là một đạo thánh chỉ hạ
xuống, giao việc ghi công đó cho Hoà Khôn và Kỷ Văn Đạt chủ trì, truyền cho Hàn
lâm viện tại Nam Thư trại trình bày ghi chép cấn thận, nhưng không được quá phô
trương, còn việc tôn hiệu thì khỏi bàn tới.
Tiếp được thánh chỉ, bọn văn
học đại thần này vội bắt tay vào việc. Đích thân Càn Long hoàng đế cũng thường
tới Nam Thư trại để xem xét. Nhóm Nam Thư trại lấy Kỷ Hiểu Phong làm đầu. Phàm
những việc ra vào ngồi đứng của hoàng đế thảy đều do Phong phục vụ cả.
Qua đến mùa hạ, khí trời nóng
bức, bộ "Kỷ công thư" cần phải được hoàn thành. Tính Phong vốn
sợ nóng, song phải trông coi việc biên soạn nên đành chịu, hằng ngày đều phải
tới Nam Thư trại để đôn đốc.
Trời về chiều. Phong biết lúc
này hoàng đế sẽ không ra xem nữa, nên ông leo lên giường cao ngồi ngất ngưởng,
cởi bỏ cả áo lót, để mình trần trùng tục rồi cầm chiếc quạt lớn quạt lấy quạt
để, miệng thì gào:
- Nóng quá! Trời! Nóng quá!
Có một hôm, ông cởi bỏ hết áo
lót, quấn tóc quanh đỉnh đầu, ngồi ngất ngưởng trên giường. Bỗng nghe từ bên
ngoài có tiếng kêu la, biết ngay là hoàng đế tới. Bọn Hàn lâm vội vàng đứng cúi
đầu im phăng phắc. Duy chỉ có ông đang ở trần, không biết trốn nấp vào đâu,
đành chui tọt vào gầm giường, im hơi lặng tiếng trong đó.
Một chuỗi tiếng giầy bước ngang
qua. Ông nghe tiếng hoàng đế nói chuyện với Hoà Khôn rồi Hoà Khôn ca tụng những
chiến công của hoàng đế. Ông cũng nghe hoàng đế dặn là khi soạn xong bộ sách Kỷ yếu ghi công thì soạn ngay tới bộ Lục tuần Giang Chiết (sáu lần đi tuần du miền Giang Nam, Chiết
Giang) khởi đầu từ năm Càn Long thứ mười sáu Tân Mùi, đến năm thứ bốn mươi chín
Giáp Thìn, phụng thái hậu du hành bốn lần, đưa các hoàng tử du hành hai lần,
năm Tân Mùi và năm Đinh Sửu hai lần đi xem xét việc đắp đê ven sông. Năm Nhâm
Tý định thanh khẩu thuỳ chi, năm Giáp Thìn sửa đổi đào trang hạ lưu. Năm Canh
Tý đi quan sát Hải Ninh, thạch đường (bờ đê đá) Năm Giáp Thìn đi làm tiếp đê đá
tỉnh Chiết Giang.
Đấy là nội dung của bộ sách Lục tuần Giang Chiết mà hoàng đế giao cho Hoà Khôn và Kỷ
Hiểu Phong hai người đôn đốc bọn quan Hàn lâm cố tâm biên soạn kỹ lưỡng, nhưng
chỉ nên có gì viết nấy chứ không được quá phô trương. Hoàng đế nói xong, ông
nghe Hoà Khôn miệng thưa "Lĩnh chỉ". Chưa hết, ông còn nghe hoàng đế
hỏi Kỷ Hiểu Phong đi đâu, ai đó tâu là có việc phải đi, lát nữa mới quay lại.
Càn Long hoàng đế lại hỏi:
Bộ sách Kỷ công thư đó đặt nhan đề chưa?
Hoà Khôn đáp:
- Tạm thời đặt tựa là "Thập
toàn đại võ công ký".
Càn Long hoàng đế nghe xong,
phá lên cười, nói:
- Nếu nói vậy thì Trẫm bèn xưng
là "Thập toàn lão nhân" cho hợp!
Sau đó, ông lại nghe tiếng chân
ngài bước xuống sàn nhà, chạy tới các án thư lớn, thuận tay giở hết bản thảo
này tới bản thảo nọ.
Lúc đó, trong phòng lặng ngắt
như tờ, đến một tiếng ho nhỏ cũng không có. Kỷ Hiểu Phong nằm dưới gầm giường,
tức hơi đến muốn chết. Mồ hôi chảy ra như tắm, nhỏ giọt xuống đất tí tách,
miệng thở hổn hển như sắp đứt hơi. Một lát sau, ông cố ghé tai nghe ngóng.
Tưởng rằng hoàng đế đã ra đi bèn thò đầu ra lớn tiếng hỏi "lão đầu
tử" (lão già gân) đi rồi sao?", khiến cả bọn đại thần đứng nãy giờ
trong phòng giật mình đánh thót một cái. Càn Long hoàng đế cũng lấy làm quái
lạ, liền hỏi:
- Ai hỏi vậy?
Cả bọn đại thần giật mình lần
nữa, không dám nói lời nào. Cuối cùng Hoà Khôn lớn mật hơn, bèn tâu:
- Nghe như tiếng Kỷ Hiểu Phong
thì phải!
Càn Long hoàng đế quay mình
bước sát tới chiếc giường, quát hỏi:
- Kẻ nào ở dưới gầm giường đó?
Có tiếng trả lời từ dưới gầm
giường vọng ra:
- Thần là Kỷ Quân ở dưới gầm
giường!
Hoàng đế hỏi:
- Tại sao không chui ra?
Kỷ Hiểu Phong hồi tấu:
- Thần sích thân lộ thể, không
dám kiến giá.
Càn Long hoàng đế nói:
- Tha cho ngươi vô tội! Mau ra
đây nói chuyện.
Kỷ Hiểu Phong lúc đó mới dám
lóp ngóp bò ra, miệng câm như hến, chẳng dám nói một lời. Khổ cái là thân hình
ông cao lớn, thành thử ì ạch mãi mới bò được ra ngoài. Người ông trần trùng
trục, phơi thịt da đỏ hỏn, khắp mình mồ hôi nhễ nhại, râu tóc lấm bét bụi bậm…
Kỷ Hiểu Phong chui từ trong gầm
giường ra, trông bộ tịch thật là thiểu não. Càn Long hoàng đế leo lên giường
ngồi, Phong hoảng quá, chỉ có nước quỳ mọp dưới đất, dập đầu lia lịa…
Một lát, Càn Long hoàng đế lạnh
lùng hỏi Phong:
- Ba tiếng "Lão đầu
tử", có phải người dùng để chỉ trẫm?
Phong sợ quá chẳng dám đáp. Càn
Long hoàng đế lại hỏi tiếp:
- Người vốn là đại thần văn
chương tuỳ tùng, trong lòng đầy ắp chữ nghĩa. Ngươi hãy giải rõ ba tiếng
"Lão đầu tử" cho trẫm nghe thử? Nếu giảng không sai, Trẫm sẽ tha tội…
Kỷ Hiểu Phong thường ở cạnh Càn
Long hoàng đế, nên cũng có dạn dĩ, bèn đánh bạo tâu:
- Hoàng thượng tha tội, xin hãy
nghe lời thần nói. Ba tiếng "Lão đầu tử" là tiếng gọi thông thường
của toàn thể kinh đô gọi Hoàng thượng. Hoàng thượng tự xưng là Muôn tuổi (vạn
tuế) ngài chẳng già là gì? Hoàng thượng vốn đứng đầu một nước, ngài chẳng phải
đầu là gì? Hoàng thượng xưng mình là thiên tử, ngài chẳng phải tử thì là gì?
"Lão đầu tử" chính là ba tiếng xưng hô hoàng thượng với cả một tấm
lòng tôn kính, chứ chẳng phải một biệt hiệu để cợt đùa?
Phong giải thích tới đây, Càn
Long hoàng đế không nhịn được, bật lên những tràng cười khà khà rồi vuốt râu
khen hay! Từ đấy ba tiếng "Lão đầu tử" được mọi người trong cung
thường dùng để xưng hiệu cho Càn Long hoàng đế khi nói chuyện với nhau. Thảng
hoặc Càn Long hoàng đế có nghe thấy cũng chỉ cười.
Chẳng bao lâu, Càn Long hoàng
đế đã trị vì 60 năm trên ngôi báu. Ngài âm thầm chuẩn bị điển lễ nhường ngôi.
Năm đó, đang vào buổi triều sớm ngày mồng một tháng chín, bọn đại thần vào chầu
trong Cần Chính điện, Càn Long hoàng đế hạ dụ nói:
- Lúc lên ngôi, Trẫm có thề
trước trời đất nếu tại vì được đúng một niên giáp (sáu chục năm) thì đem ngôi
báu truyền lại cho thái tử, chẳng bao giờ dám tại vị tới sáu mươi mất năm bằng
với đức Thánh Tổ. Vậy Càn Long đã tới năm thứ sáu mươi, trẫm tuân chiếu thanh
lệ của Liệt Tổ viết tên tuổi của thái tử sau tấm biển lớn ở điện Chính Đại
Quang Minh.
Nói đoạn, hoàng đế lập tức sai
hai vị tướng quốc đem theo bọn nội giám đến điện Chính Đại Quang Minh lấy cái
hộp vàng chứa sẵn tờ chiếu truyền ngôi cho thái tử đem về mở ra. Lúc đó khắp
triều văn võ mới biết trên tờ chiếu ghi rõ sách lập hoàng tử thứ mười lăm là Gia
Quân vương Nhung Diệm làm thái tử, lấy niên hiệu Càn Long thứ sáu mươi mốt là
Gia Khánh nguyên niên. Viên quan thuyết trình đem tờ chiếu đọc rõ trước
điện xong, tức thì văn võ bá quan nhất tề quỳ xuống lạy mừng. Rồi khi bãi trào,
mọi người kéo nhau tới cung Dục Khánh để chúc mừng thái tử.
Gia Quân vương tiếp chiếu xong
bèn tiếp đãi bọn quan viên. Vương không quên nói thêm đôi lời khách sáo nào đức
bạc, nào tài hèn, không kham nổi ngồi cao việc lớn.
Khi bọn quan viên đã về cả,
Vương vội chạy tới cung phụ hoàng để tạ ơn. Lúc đó, thân mẫu của Vương đã được
phong làm Đệ nhất quý phi.
Qua năm sau, đúng vào buổi chầu
sớm Tết Nguyên Đán, Càn Long hoàng đế ngự tại điện Thái hoà, làm lễ Thiên vị
(trao ngôi). Ngài đem chiếc ngọc tỷ truyền quốc trao lại cho Gia Khánh hoàng
đế.
Gia Khánh hoàng đế xưng là Nhân
Tông Duệ hoàng đế, tôn Càn Long hoàng đế làm Thái thượng hoàng đế. Gia Khánh
tuy nói làm hoàng đế nhưng thực quyền vẫn còn trong tay Càn Long. Bọn thần hạ
dâng sớ tâu đều xưng Thái thượng hoàng là hoàng thượng cả. Nhất thiết sớ tấu,
họ đều nhờ gửi lên Thái thượng hoàng duyệt khán. Ví thử có việc đại sự quân
quốc, họ cũng nhờ Gia Khánh đi xin huấn dụ của Thái thượng hoàng mới dám thi
hành. Gia Khánh chẳng có chút tự do, chút quyền hành nào, nhưng vốn là người
con có hiếu, kính trọng phụ hoàng mình, nên ngài cũng chẳng để bụng lắm.
Hồi 95: Gia Khánh Đế kế
vị Càn Long
Càn Long đã quá già. Ngài
truyền ngôi lại cho Gia Khánh hoàng đế, đứng địa vị của một thái thượng hoàng
hướng dẫn con tập sự nghề vua. Đất nước Trung Hoa lúc này còn được thanh bình,
quần chúng vẫn được an cư lạc nghiệp, vua chúa Mãn Thanh vẫn còn được vững tâm
trên ngai vàng thống trị dân tộc Hán.
Năm
đó tổ chức lễ Vạn thọ thứ tám mươi sáu của thái thượng hoàng. Không những văn
võ bá quan toàn triều mà cả đến các bối lặc, sứ thần ngoại quốc đều kéo nhau
nườm nượp đến chúc thọ. Gia Khánh hoàng đế hạ chỉ thết yến ở ba đại điện là
Thái Hoà, Trung Hoà và Bảo Hoà.
Ngài cho triệu tập ba ngàn vị
quan viên, thân sĩ tuổi ngoài sáu mươi, cử hành Thiên Tẩu yến tại vườn Minh
Viên, ở trong cung thái thượng hoàng. Ngài đích thân đem các viên ngọc Đông
châu Mạo châu và Đông châu Triều châu của Hiếu Hiền hoàng hậu để lại cho hoàng
hậu Hỉ Tháp Lạp. Ngài còn thưởng cho bọn hoàng tử, phúc tấn rất nhiều những
trân bảo khác.
Hồi đó chỉ có Xuân A Phi là còn
sống. Bà ngồi hầu bên cạnh. Thái thượng hoàng nhìn Xuân A phi, trong lòng bỗng
nhớ lại bao kỷ niệm êm đẹp thuở xưa mà xúc động can tràng, bồi hồi buồn bã.
Giữa lúc đang ngậm ngùi não ruột ấy bỗng từ bên ngoài viên thái giám bưng vào
một tráp nhỏ, nói đấy là một thứ đồ chơi của tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Văn
Tương hiếu kính Thái thượng hoàng.
Gia Khánh hoàng đế xem qua
không hiểu cái gì, bèn bảo viên thái giám mở tráp ra xem thì thấy bên trong có
mô hình một toà nhà nhỏ, giữa nhà có một tấm bình phong, trước mặt tấm bình
phong này có một cái bàn trên bày đủ bút nghiên giấy mực. Mặt sau cái tráp đặt
một bộ máy. Nếu phát động bộ máy đó, người ta sẽ thấy một cô gái Tây Dương xuất
hiện, trước hết chạy tới dưới mái hiên, rồi quay mặt ra ngoài làm lễ Tam quy cửu khấu. Hành lễ xong,
cô gái quay vào đứng trước mặt bàn, rót nước vào nghiên để mài mực, lấy một tờ
giấy hoa tiên màu đỏ từ đằng sau bức bình phong bước ra, tay cầm cây bút chấm
mực rồi viết trên giấy trắng bốn chữ "Vạn thọ vô cương" bằng chữ Mãn.
Viết xong bốn chữ thì bộ máy cũng ngừng chuyển vận, người trong chiếc tráp cũng
không cử động nữa.
Thái thượng hoàng xem xong lấy
làm thích lắm, vội bảo thương cho Phúc Văn Tương mười vạn lạng bạc. Ngài lại
viết một chữ "Thọ" dưới đề lạc khoản "Thập toàn lão nhân",
đều thưởng cho Tương cả.
Phúc Văn Tương tuy được Thái
thượng hoàng thưởng tứ nhưng món đồ chơi của y trị giá không kém mười vạn lạng
bạc mà y phải dốc hết túi ra để làm, đó còn chưa kể thêm một mạng người nữa.
Nguyên lai đồ chơi nọ vốn do
một tên thân tuỳ tâm phúc của Tương trong nha môn chế ra. Hắn biết ý tổng đốc
muốn dâng lễ thọ thật đặc biệt lên thái thượng hoàng, nên đã bò lên nóc nhà,
lấy một tấm vải buộc chặt lấy đầu mình rồi nay tưởng mai suy, suy nghĩ mãi,
cuối cùng nghĩ ra được một món đồ chơi tuyệt diệu này. Hắn đóng cửa lại, tỉ mỉ
lắm mới làm xong, đem dâng quan tổng đốc.
Phúc Văn Tương xem qua một lần
trình diễn, khen lấy khen để. Nhưng khi xem đến bốn chữ "Vạn thọ vô
cương" chỉ bằng chữ Hán, sợ Thái thượng hoàng không vui, nên lại bảo thay
bằng chữ Mãn. Tên thân tuỳ lại bò lên mái nhà, suy mãi hơn hai chục hôm mới chế
thêm được bộ máy viết bốn chữ Mãn, Phúc Văn Tương bèn thưởng cho tên thân tuỳ
hai vạn lạng bạc. Nhưng khi dùng hết trí thông minh của mình, tên thân tuỳ bỗng
trở nên ngây ngây ngô ngô, rồi về nhà, không đầy hai tháng chết luôn.
Phúc Văn Tương cho người đem
món đồ chơi đó lên kinh. Qua cửa quán thứ nhất, người của Tương không thoát
khỏi tay Hoà Khôn, tiêu luôn một lúc năm vạn lạng bạc, món đồ chơi nọ mới được
phép vào cung. Khi đến Ninh Thọ cung, viên thái giám trông coi cung này cũng
đòi tiền và doạ: "Nếu không có tiền, bộ máy này chỉ chạy tới ba chữ
"vạn thọ vô" là ngừng. Lúc đó Thái thượng hoàng tức giận thì bọn này
chẳng chịu tội thay cho đâu.
Bọn Tương sợ quá lại phải lo
lót thêm ba vạn lạng. Câu chuyện này Gia Khánh hoàng đế đều rõ cả, nên có ý
muốn điều tra Hoà Khôn, nhưng chỉ tại Thái thượng hoàng còn đó đành phải nín
nhịn đợi chờ. Trước đây, Hoà Khôn dâng cho ngài viên ngọc như ý thì ngài vốn đã
không ưa Khôn bèn ghét bỏ luôn viên ngọc đó. Theo phong tục Mãn Châu thì khi
năm hết tết tới, bọn vương công đại thần phải dâng lên một viên ngọc như ý để
tụng nhà vua được như ý suốt đời. Đến khi Gia Khánh hoàng đế lên ngôi, ngài hạ
chỉ cấm hẳn việc dâng tiến loại ngọc này. Trong sớ chỉ dụ của ngài có hai câu:
"Chư thần đều cho là như ý, riêng ý trẫm thì lại là bất như ý".
Bọn bá quan văn võ tiếp chỉ dụ,
thấy hoàng đế căm giận cái gọi là "như ý" đó, chẳng anh nào
hiểu lý do tại sao, đành phải phụng chỉ, không dám sai lời. Thế là từ đó, toàn
triều được miễn lễ tiết này. Có nhiều đại thần còn dâng sớ lên ca tụng hoàng đế
nào là cần kiệm, nào là đạo đức. Duy chỉ có Lưu tướng quốc là hiểu được nỗi
niềm tâm sự của Gia Khánh. Do đó ông được ngài trọng dụng, mỗi khi có việc là
đem bàn với ông.
Hoà Khôn dần dần cũng cảm thấy
Gia Khánh hoàng đế không ưa mình. Khôn cho rằng hiện nay y còn có thế lực của
Thái thượng hoàng thì dù Gia Khánh có thù ghét mấy cũng chẳng làm gì, khi Thái
thượng hoàng mất rồi thì y cứ việc từ quan về vườn là xong. Do đó Khôn thường
ra vào trong cung, hết lòng hầu hạ thái thượng hoàng. Mặt khác, Thái thượng
hoàng nếu không có Hoà Khôn cũng không chịu nổi. Trong thì có Xuân A Phi, ngoài
thì có Hoà Khôn, suốt ngày hầu hạ bầu bạn với ngài.
Càn Long hoàng đế tuổi đã quá
cao, không còn đủ tinh lực để du ngoạn đó đây. Ngài rất tin bùa phép của bọn
Lạt ma tăng, thường xếp bằng tròn ngồi trên giường niệm kinh chú.
Gia Khánh hoàng đế mỗi ngày ngự
triều về lại tới cung Thái thượng hoàng bàn luận về việc triều chính. Thái
thượng hoàng ngồi quay mặt về hướng nam. Gia Khánh hoàng đế ngồi quay mặt về
hướng tây. Hoà Khôn cũng đứng ở một bên, tham nghị việc đại sự.
Một hôm, giữa lúc ba người đang
bàn soạn, bỗng Càn Long hoàng đế nhắm mắt, xếp bằng tròn lại, ngồi trên giường
không nói một lời nào. Gia Khánh hoàng đế thấy thế, không dám gọi hỏi gì. Một
lúc sau ngài thấy miệng thái thượng hoàng cử động, mở rồi lại ngậm và trong cổ
hình như có tiếng nói vọng ra. Gia Khánh hoàng đế chú ý nghe nhưng chẳng nghe
rõ được câu nào, chỉ thấy những tiếng tụng niệm rì rầm. Một lát sau ngài bỗng
nghe thái thượng hoàng quát lên một tiếng lớn!
- Kẻ nào đó?
Hoà Khôn ở bên cạnh, vội quỳ
xuống hồi tấu:
- Cao Thiên đức, Cẩu Văn Minh.
Tiếp đó, Thái thượng hoàng lại
tụng niệm rì rầm một hồi nữa, lấy tay khoát một cái, bảo Gia Khánh hoàng đế lui
ra ngoài.
Gia Khánh không dám trái lệnh,
đành rút lui. Nhưng hình trạng cổ quái của thái thượng hoàng ngài đã nhìn thấy
tận mắt nên hết sức nghi ngờ. Ngài muốn hỏi mà lại chẳng dám.
Qua ngày hôm sau. Gia Khánh
hoàng đế lẻn tới hỏi Lưu tướng quốc. Nhưng ông này cũng bảo là không biết gì.
Về sau, ngài không chịu nổi nữa bèn tới hỏi Hoà Khôn, Khôn nói:
- Đây là mật chú của Lạt ma
giáo. Khi đang niệm chú nếu có người gọi tên thì kẻ bị gọi tên đó chết ngay tức
khắc.
Hiện nay Bạch Liên giáo đang
sôi động bên ngoài, thần biết rằng thái thượng hoàng niệm chú để giết chết tên
thủ lĩnh của giáo này, cho nên lúc ngài hỏi kẻ nào đó thì thần hồi tấu ngay hai
cái tên của hai tên thủ lĩnh Bạch Liên giáo.
Gia Khánh hoàng đế nghe xong,
trong lòng hết sức sợ hãi.
Ngài tự nhủ Hoà Khôn hiện cũng biết
những lời thần chú đó, cần phải thanh toán hắn càng lẹ càng hay.
Hồi 96: Càn Long mất, Hòa
Khôn bị xử tử
Càn Long hoàng đế vừa
hoàn thành bộ Thập toàn đại võ công kệ thì Bạch Liên giáo bỗng ồ ạt dấy binh.
Suốt một giải Hồ Bắc, Kinh Châu, Chiết Giang, Nghi Đổ liên tiếp thất thủ. Giáo
đồ Bạch Liên giáo ở các nơi khác như Nghi Xuân, Tràng Lạc, Tràng Dương đều hưởng
ứng nổi dậy. Tin cáo cấp gởi về triều như bươm bướm.
Gia Khánh hoàng đế xem sớ giật
mình kinh hãi. Hồi này Phúc Khang An đã chết, Hoà Lân bị nhiễm độc chướng chết
ở đất Miêu. Tướng Minh Lương đi đánh giặc Miêu lại chưa về nhất thời không biết
kiếm đâu một viên đại tướng lão luyện chiến chinh. Ngài được tin Bạch Liên giáo
có ba đầu mục, một gọi Lưu Chi Hiệp, một nữa Điêu Chi Phú, còn tên thứ ba là
Vương thị, vợ của Tề Lâm.
Cả ba đều hung hãn uy mãnh lạ
thường. Nhân thấy quân binh kéo đi đánh giặc Miêu chưa về, bọn này thừa thế
định tiến đánh lấy kinh, viên tướng Nghi Thi năm phủ, oai thế rất hung dữ.
Bọn quan tổng binh ở những địa
phương này đều thuộc bè cánh của Hoà Khôn. Chúng thường nhận mật ý của Hoà
tướng quốc, đem ém nhẹm hết quân tình hằng ngày. Chúng còn cả gan tâu láo về
triều, nói giết hàng vạn quân giặc để lĩnh thưởng, mãi về sau, đại cục đã nát
bét, không còn có cách gì giấu diếm nữa, chúng mới chạy về kinh cấp báo.
Những tình hình này, Gia Khánh
hoàng đế dò xét cũng biết được. Một mặt ngài ghi hết tội lỗi của Hoà Khôn, một
mặt hạ chỉ sai tổng đốc Lưỡng Hồ là Tát nguyên thị vệ Thư Lượng, thống lĩnh
quân đội tiêu diệt giáo đồ ở Kinh Môn; sai tuần phủ Hồ Bắc Huệ Linh, thống binh
Phú Chí Na, càn quét giáo đồ suốt một giải Kinh Châu, Giang Nam, sai đô thống
Vinh Bảo, tướng quân Hằng Thuỵ tiễu trừ giáo đồ suốt một giải Tương Dương; sai
đề đốc Ngọc Huy, tổng đốc Thiểm Cam là Nghi Cẩm quét sạch giáo đồ suốt một giải
Xuyên Dương. Ngài cũng triệu hồi tướng Minh Lương từ đất Miêu về để phòng ngự
một dọc dài Xuyên - Thiểm.
Đáng thương cho giáo đồ Bạch
Liên Giáo bị bọn quan binh nhà Mãn Thanh đánh cho nhiều trận tơi bời, chạy đông
trốn tây như đàn ong vỡ tổ. Giữa lúc nguy khốn đó, họ được hai vị giáo chủ ở
vùng Tứ Xuyên là Vương Tam Hòe và Lãnh Thiên Lộc đón hết tất cả từ Hồ Bắc và Tứ
Xuyên rồi xưng là "Xuyên giáo", có mòi hung dữ đáng sợ.
Bọn quan binh rõ tình hình này,
hết sức sợ hãi. Thế là giáo đồ lại từ Tứ Xuyên kéo ra Thiểm Tây. Gia Khánh
hoàng đế ngồi trong cung một ngày hốt hoảng đến mấy lần, suốt đêm cùng bọn đại
thần bàn tính kế hoạch tiễu trừ giáo đồ.
Thái thượng hoàng Càn Long được
tin đó cũng lấy làm lo, đêm ngày ăn ngủ chẳng yên. Mãi về sau, may nhờ được một
viên quan tri huyện tên gọi Lưu Thanh dần dần thu phục được các giáo đồ. Thái
thượng hoàng tuổi đã cao, lại bị lo sợ kinh hoàng nhiều phen nên mồng một tháng
giêng năm đó, ngài băng hà tại cung Kiều Thanh.
Thái thượng hoàng Càn Long vừa
ngã xuống tức thì một ban Cửu khanh khoa đạo dâng sớ hạch tội đại học sĩ Hoà
Khôn lộng quyền làm bậy đủ hết những tội đại nghịch bất đạo. Trong ban, phải kể
giám sát ngự sử Quảng Hưng, lại khoa cấp sự trung Vương Tổ là hai người đàn hặc
ghê gớm nhất. Họ tâu Hoà Khôn có mười tội đại nghịch, mười sáu tội đáng chết,
đúng là một chữ một nhát dao, một lời một mũi kiếm, khiến Khôn dù có tài trời
cũng khó sống.
Gia Khánh hoàng đế nhận được
đến sáu mươi tám tờ sớ đàn hặc. Ngài cả giận, lập tức hạ chỉ sai Thành thân
vương đem ngự lâm binh tới bắt Hoà Khôn, sợ đi giữa đường có kẻ cướp, ngài lại
sai ngự tiền thị vệ dũng sĩ A Lan Bảo, đi theo kèm giữ, đưa thăng Hoà Khôn vào
công đường của Hình bộ.
Một đạo thánh chỉ hạ xuống, sai
Lưu tướng quốc, Đổng trung đường, Bát Vương gia, Thất phò mã dùng nghiêm hình
thẩm vấn. Khôn không chịu nổi trọng hình, đành nhất nhất cung khai. Lưu tướng
quốc truyền cho quân lính cùm chân xích tay Khôn, tống vào nhà lao. Rồi đem hết
bản khẩu cung tâu lên.
Gia Khánh đế xem bản cung, bèn
triệu Lưu tướng quốc vào bàn định mọi việc. Lưu tướng quốc tâu:
- Kẻ gian thần chuyên quyền đại
nghịch như vậy, cần nghiêm hình trừng trị.
Gia Khánh đề bèn hạ chỉ, sai
Thập nhất vương gia tới nhà Khôn sưu tra, sai nhị hoàng tử Miên Ninh lục soát.
Hai vị vương gia vâng thánh chỉ, không dám trễ, lập tức kéo bọn nha dịch rẩm
rầm rộ rộ chia đường tới. Nhà Khôn rất lớn, gia sản lại nhiều. Bọn nha dịch
phải sưu tra luôn một lèo mất năm ngày năm đêm mới kiểm kê được hết, rồi quay
về phục chỉ, Thập nhất vương gia tâu:
- Trong nhà Hoà Khôn có một toà
bằng gỗ nam, xây cất đúng in như cung điện trong đại nội, nào cột rồng, nào nóc
phượng. Lại có một cái gác Đa Bảo kiểu cách như cung Ninh Thọ. Còn nói tới vườn
hoa của nhà Khôn thì lối kiến trúc giống hệt Dao đài, Bồng đảo trong vườn Viên
Minh. Trân bảo thì nhiều đến kể không xiết. Riêng tịch biên gia tài tên gia nô
của Khôn là Lưu Toàn cũng đã tới hơn bảy trăm vạn lạng rồi. Tên Toàn binh nhật
ỷ quyền dựa thế chủ, tha hồ tác oai tác quái. Thập nhất vương gia vừa nói tới
đây thì thất phò mã vội cắt ngang, tâu tiếp:
- Trân bảo của Hoà Khôn chỉ
riêng trong mật thất đã thấy chứa đến một gánh, lại có cả những áo mão ngự dụng
(của vua). Chỉ chừng đó cũng đủ tỏ hắn đại nghịch bất đạo, có chết cũng chẳng
oan rồi. Thẩm vấn tên gia nô thân cận của hắn, thần mới biết cứ tới lúc đêm
khuya, hắn đội mũ áo ngự dụng vào đeo đủ chín châu triều châu soi trước kính
rồi truyền lệnh cho bọn gia nô quỳ bái xưng thần. Hành động này, lại thêm những
đồ quốc cấm kia, càng biểu lộ tâm địa của một tên phản nghịch bất đạo, chẳng
phải chỉ có một tội tham nhũng mà thôi.
Thất phò mã tâu xong, thập nhất
vương gia lại dâng một bản tổng kê gia tài điền sản của Khôn.
Gia Khánh xem xong, bèn sai đưa
hết vàng bạc thu được vào kho của bộ hộ để dùng vào việc uỷ lạo nạn nhân chiến
tranh miền Xuyên Thiểm. Còn những sản nghiệp chưa định giá xong thì sẽ giao cho
Bát vương gia, Miễn nhị gia, Lưu tướng quốc giữ lấy bản kê khai cùng với hai bộ
Hộ và Công định giả phát mãi, sung công hết số bán được.
Cuộc tịch biên sung công này,
ngoài những trân bảo, đồ cổ đưa vào đại nội không kể, đem lại cho Gia Khánh đế
tám tỷ sáu trăm triệu ngàn lạng bạc. Do đó trẻ con trong kinh thành mới có câu
hát.
"Hoà Khôn ngã quỵ
Gia Khánh no nê"
Gia Khánh đế lại còn hạ chỉ dụ
giao cho Đại học sĩ cả sáu bộ, và tất cả Cửu Khanh, Du thiền khoa đạo họp đại
hội quyết nghị tội danh Hoà Khôn.
Cách vài ngày sau, quan viên
dâng sớ tâu Hoà Khôn tham tàn làm nguy hại quân cơ, lòng mang ý khác, đại
nghịch bất đạo; có kẻ xin chém đầu, có kẻ lại đòi lăng trì xử tử, xương đập
nát, thịt bầm viên, có người lại nói nên chu di tam tộc.
Gia Khánh đế xem qua các bản
sớ, nghĩ thầm:
- Hoà Khôn vốn là sủng thần của
tiên hoàng. Nay tiên hoàng vừa mới mất mà đem hắn ra chính pháp thì thật ta
chẳng yên lòng chút nào. Thôi ta sẽ thi ân đặc biệt, cho hắn được chết toàn
thây.
Nghĩ thế, ngài lập tức hạ chỉ:
- Cố nghĩ rằng Hoà Khôn là một
vị thủ phu đại thần, nên miễn cho phải chết nơi thị tứ. Trẫm gia ân cho được
phép tự tận. Con của Khôn là Phong Thân Kính Đức, tội cũng không thể chuộc,
nhưng khì còn trẻ được tiên hoàng sủng ái gả Hoà Hiếu Cố Luân công chúa cho nên
trâm nghĩ đến tấm lòng từ ái của hoàng khảo mà ân gia thể tuốt. Vậy nay thu hết
chức tước của Phong thân Kính Đức giáng xuống làm dân, không còn được đứng hàng
phò mã nữa, tước công của Khôn không bị cách đi mà gia ân thưởng cho tước bá để
Khôn Đức thừa tập. Sau khi trẫm đã gia án, Kính Đức không được ra ngoài làm bất
cứ việc gì mà phải ở trong nhà tĩnh thu.
Hồi 97: Lại một Kinh Kha: Thành Đắc
Đạo thánh chỉ bản án
Hoà Khôn vừa hạ xuống thì Lưu tướng quốc, tới ngay nha môn bộ Hình và cho lôi
Khôn từ lao ra, kiểm nghiệm lại xem có phải đích thân y không rồi mới tuyên đọc
thánh chỉ.
Hoà Khôn ngước mặt lên phía
trên, lạy tạ thánh ân, bỗng đôi mắt nhỏ lệ như mưa. Bọn nha dịch kéo Khôn sang
một cái phòng bên cạnh, trên xà nhà có cột một tấm vải trắng. Khôn tự thắt tấm
vải vào cổ mình rồi treo lên mà chết.
Sau khi Khôn chết rồi, liên
tiếp mấy phong mật sớ dâng lên cáo Phúc thượng thư có tâm giúp kẻ ác. Thế là
Phúc thượng thư cũng bị tống vào lao. Lại có kẻ tâu Đại học sĩ Tô Lăng A cố
tình xui gia với Khôn, Gia Khánh đế cũng cho A về vườn luôn. Lại có người tâu
thị lang Ngô Tỉnh Lan, Lý Hoàng, thái bộc khanh Lý Quang Vân đều là người được
Hoà Khôn đưa vào làm quan, Gia Khánh đế cũng đồng loạt giáng chức và điều đi
nơi khác. Bản án Hoà Khôn quả là một vụ động trời, ai nghe cũng phải hoảng hồn
bạt via.
Lúc này, giáo đồ Bạch Liên Giáo
đã lần lượt bị tảo thanh cả, tháng hai năm thứ tư niên hiệu Gia Khánh, đầu đảng
là Vương Đình Chiếu bị tướng Minh Lượng bắt được, còn Từ Thiền Đức nhảy xuống
biển chết chìm. Kinh lược đại thần cùng với bọn tổng đốc ba tỉnh đều tâu về
triều đã thu hoạch đại công cáo thành, bình định xong loạn đảng.
Nhân Tông hoàng đế (tức là Gia
Khánh đế) bèn tế cáo lăng miếu ngay tại kinh sư, phong thưởng công thần. Quốc
gia xem như đã thái binh.
Hoàng đế cử hành điển lễ đi
tuần thú lên Ngũ Đài sơn, Không ngờ, hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp nhuốm bệnh mất. Gia
Khánh đế hết sức thương cảm. Bà phi, Nữu Cô Lộc vốn người hiền đức, được ngài
hết sức sủng ái, được sắc phong làm hoàng hậu và theo lệ, thân phụ của bà là
Cung A Lạp cũng được tấn phong làm Thừa Ân công. Hoàng hậu từ tạ đôi ba lần.
Khắp triều văn võ, bá quan đều
dâng sớ khen bà là hiền đức. Mãi đến khi quan tài của bà Hỉ Tháp Lạp chôn cất
xong rồi, hoàng đế mới bớt mối thương cảm.
Ngài ở trong cung rảnh rang
chẳng có việc gì, lại tính cách xuất hành Ngũ Đài sơn. Bỗng ở góc trời tây bắc
xuất hiện một ngôi sao chổi rất lớn. Khâm thiên giám khuyên ngài không nên đi
vì sao chổi xuất hiện là chỉ việc binh đao và đổi tháng tám nhuận năm đó ra
tháng hai năm sau.
Trẻ con trong thành đều hát bài
đồng dao:
"Hai tám trung thư (nhị
bát trung thu)
Hoa vàng rớt đất" (Hoàng
hoa lạc địa)
Ngoài ra còn truyền thuyết tai
nạn binh đao sẽ xảy ra vào giờ ngọ ngày rằm tháng chín năm Gia Khánh thứ mười
tám.
Đến đúng ngày giờ nói trên,
tuần phủ Hà Nam Cao Di quả nhiên nhận được mật bẩm của viên tri huyện Hoả
thuyên tên là Cường Khắc Tiệp nói ở Khiết huyện hiện có giáo đồ Bạch Liên Giáo
Lý Văn Thành thiết lập tà giáo, đổi tên là Thiên Lý Giáo, còn có tên là Bát
Quái Giáo, chiêu binh mãi mã. Tiệp cũng mật cáo cả tri phủ Vệ Huy biết nữa.
Không ngờ cả hai thượng ty này đều chẳng thèm để ý tới lời y. Tiệp bèn dùng kế
lừa cho Lý Văn Thành vào nha môn rồi bắt trói, chặt đứt lìa tay Thành.
Lúc đó đồng đảng của Thành có
tới mấy vạn. Họ liên kết với bọn Lâm Thanh ở huyện Đại Hưng. Thanh vốn là một
tay đầu mục có tên tuổi trong Bát Quái Giáo. Thanh thấy Lý Văn Thành bị một vố cay,
nhịn không nổi nữa, bèn ngầm ước dấy binh vào ngày trung thu tháng tám nhuận.
Lâm Thanh quen biết nhiều thái
giám trong nội cung, bèn đem vàng bạc mua chuộc bọn này, chờ dịp Gia Khánh đế
xuất hành núi Ngũ Đài sơn là khởi sự ngay tại trong cung. Thanh lại ước định
với Lý Văn Thành ở bên ngoài tiếp ứng.
Không ngờ Gia Khánh đế nghe lời
bọn Khâm thiên giám, bèn ngừng việc tuần phủ. Thanh xem chừng cơ mưu không
thành lại tìm một kế sách khác. Thanh bỏ ra sáu vạn lạng mướn một tên thích
khách đi hành thích Gia Khánh đế. Tên thích khách này là Thành Đắc, vốn là một
tên nhà bếp trong nội vụ phủ. Trong hoàng cung. Đắc có thể kể được là tay mạnh
tợn nhất.
Hồi đó có một tên thị vệ gọi
Quan Bát phò mã, sức khỏe rất ghê. Những lúc rỗi rảnh, Quan Bát phò mã thường
bốc cặp sư tử đá ngoài cửa cung điện để giải trí. Cặp sư tử này nặng ít ra cũng
năm, bảy trăm cân. Quan Bát phò mã thường bốc lên, đi một vòng quanh sân rồi
lại từ từ để xuống nguyên chỗ cũ. Bọn thái giám đứng hai bên xem đều vỗ tay
khen thần lực Trong bọn có một tên thái giám lên tiếng:
- Thành Đắc đã gọi là khỏe,
nhưng làm sao mà địch được Quan Bát phò mã nhỉ?
Bát phò mã nghe nói tới Thành
Đắc vội hỏi:
- Thành Đắc là đứa nào?
Tên thái giám lên tiếng:
- Hắn là một tên nhà bếp trong
nội vụ phủ.
Bát phò mã vốn khoái những kẻ
có sức khỏe, nghe nói vậy liền bức tên thái giám đi gọi cho kỳ được Thành Đắc
tới.
Thành Đắc vừa trông thấy phò
mã, hoảng hồn bạt vía, vội bò sát đất, chẳng dám cất đầu lên ngó nữa. Bát phò
mã lấy lời ôn tồn an ủi Đắc, lại bảo Đắc có bao nhiêu khí lực cứ mang hết ra,
may mà thắng được y thì y sẽ cất nhắc cho.
Đắc nghe phò mã nói vậy, mới
dám cả gan đứng dậy và không còn sợ sệt như trước. Bát phò mã bảo Đắc lại bốc
cặp sư tử đá. Đắc tiến lên mấy bước, mỗi tay bốc một con, chạy như bay quanh
sân một lượt, rồi hai, rồi ba lượt. Lúc đó mới đặt cặp sư tử vào chỗ cũ, hơi
thở không gấp, mặt không đỏ ửng lên chút nào.
Bát phò mã thấy vậy, mừng quá,
chạy lại cầm tay Đắc tỏ vẻ ngợi khen, lại bảo Đắc cắm luôn bảy cây côn gỗ thành
một hàng trước viện, cứ mỗi cây cắm sâu ít ra là ba thước.
Bát phò mã bước tới nhảy tung
người lên, đá vụt ngọn cước ra nhanh như chớp vào bảy cây côn, người ta chỉ
nghe một loạt tiếng "rắc, rắc, rắc…" tức thì bảy cây côn gãy gập
thành đôi, bắn văng ra chung quanh tung toé. Bọn thái giám đứng hai bên vỗ tay
hoan hô rầm trời.
Bát phò mã đứng hẳn người lên,
bảo bọn thái giám cắm bảy cây côn khác cắm thành một dây như trước rồi bảo Đắc
đá xem. Đắc bước lên vài bước, lấy mắt nhắm một lượt đo dò, rồi bảo cắm thêm
cây. Bọn thái giám cắm thêm một cây.
Đắc bảo thêm nữa. Lại cắm thêm
cây nữa. Đắc lại bảo cắm thêm - thêm một lúc mười hai cây. Lúc đó Đắc mới gật
đầu cho là đủ.
Mọi người trố mắt nhìn, Đắc
cũng không vội. Hắn thong thả bước tới, cũng bắt chước Bát phò mả, tung người
lên đá vút chân phải ra một cước, tức thì mười hai cây côn gỗ bị tiện làm đôi
chẳng khác gì bị đao chặt. Bát phò mã luôn mồm khen hay khen giỏi. Từ đó, phò
mã giữ Đắc lại trong cung, làm chức quản đội doanh Thần cơ. Cứ mỗi lần Bát phò
mã có phiên trực thì Đắc luôn luôn ở cạnh. Tiếng đồn Đắc có thần lực mỗi ngày
một lớn rộng mãi ra khiến Lâm Thanh cũng phải biết tới.
Thế là bọn thái giám đứng làm
môi giới cho hai người gặp nhau. Thanh đưa cho Đắc sáu lạng bạc tại nhà đồng
đảng tên gọi Thôi Sĩ Tuấn, còn hứa với Đắc nếu việc thành sẽ phong cho làm
Vương gia. Đắc nhận lời và trở về cung nội.
Rồi đến đêm rằm tháng tám trung
thu, Gia Khánh đế giá hạnh vườn Viên Minh, mở tiệc thưởng trăng trên đài Hàm Hư
lãng giám, có bọn phi tần cung nga ngồi hầu hai bên. Bát phò mã trực ở bên trên
đài, Thành Đắc đứng thị vệ ở phía dưới.
Rượu uống đã đến lúc chếnh
choáng, Gia Khánh đế đứng dậy tiểu tiện, phía sau có ba bốn tên thái giám theo
hầu. Bỗng Thành Đắc xông lên đài, đi sát theo gót hoàng đế. Bọn thái giám để ý
thấy Đắc có vẻ khả nghi, vội chạy tới cản lại. Đắc rút trong ông tay áo ra một
cây cương đao sáng quắc nhè giữa ngực tên thái giám cho một mũi, tên thái giám
ngã quay xuống đất Hoàng đế Gia Khánh thấy nguy, miệng la "Có giặc",
chân quýnh lên chạy vòng quanh cây hoa quế lớn để trốn.
Bát phò mã đang trên đài nghe
tiếng hoàng đế kêu la, vội chạy tới. Thấy Thành Đắc, tay đương cầm cây cương
đao, đuổi theo hoàng đế quanh gốc cây hoa quế. Bát phò mã gầm lên một tiếng,
nhảy tới chộp hai tay Đắc khoá chặt lại. Bọn ngự lâm quân cũng chạy ồ tới vây
chặt lấy hai người.
Nói đến sức mạnh thì Đắc hơn
Bát phò mã. Nhưng lúc này Đắc thấy bọn thị vệ quá đông đâm ra luống cuống tay
chân đôi mắt chỉ trừng trừng nhìn phò mã, đờ hẳn người ra không dám chống trả.
Bọn quân ngự lâm ồ cả tới vây
bắt Đắc, tống vào khám lớn của bộ hình. Đêm đó, lục bộ cửu khánh đều vội tới
vườn Viên Minh vấn an. Gia Khánh đế bảo các vương đại thần cùng với lục bộ cửu
khánh hỏi tội thích khách. Tướng quốc Trương Trai hôm đó làm chánh án thẩm.
Trương tướng quốc thẩm vấn hơn
chín ngày mà chẳng được một câu khẩu cung nào. Dùng tới đại hình tra tấn mà Đắc
cũng chẳng nói chẳng rằng. Chịu cực hình đến lúc ghê gớm nhất, Đắc cười nhạt
vài tiếng bảo:
- Có gì mà phải thẩm vấn. Việc
không thành thì ta mất đầu. Còn nếu thành thì chỗ các ngươi đang ngồi ấy chính
là chỗ của ta.
Nói xong, Đắc lại ngậm miệng
nín bặt, Trương tướng quốc chẳng còn biết cách nào hơn. Ngày hôm sau vào chầu,
Trương tướng quốc tâu rõ tình hình trên, Gia Khánh đế bảo khỏi phải thẩm vấn,
cho đem ra ngoài đập chết, băm vằm Thành Đắc muôn mảnh.
Trương tướng quốc vâng thánh
chỉ lui về, định tội Đắc lăng trì xử tử. Ông lại tra xét, biết Đắc có hai đứa
con trai, một đứa mười sáu tuổi, một đứa mười bốn, mặt mũi rất khôi ngô, hiện
đang đi học. Trương tướng quốc hạ lệnh bắt cả hai anh em tới để cùng thọ hình
với cha.
Hôm xử Đắc, một đội binh mã áp
giải hung phạm tới Tây Hiệu trương, trói Đắc vào cây cột sắt, cột hai đứa con ở
phía trước. Hai đứa con oà lên khóc, miệng gọi "Cha, cha". Nhưng
Thành Đắc nhắm nghiền mắt, chẳng thèm để ý.
Đến lúc hành hình, bọn đao phủ
giết hai đứa con, rồi mới tùng xẻo Đắc. Chúng lột hết quần áo Đắc trần như
nhộng rồi mới cầm dao nhọn, trước hết cắt tai, cắt mũi, cắt hai đầu vú, sau đó
cắt hai cánh tay, rồi cứ thế xẻo từng miếng thịt trên người Đắc, từ vai qua
lưng rồi lại từ lưng qua ngực. Lúc đầu máu trong người Đắc chảy ra như suối
nhưng khi kiệt sức rồi, chỉ còn có nước vàng rỉ xuống thánh thót. Tất cả phần
trên người đều bị xẻo hết, chỉ còn trơ bộ xương. Thành Đắc bỗng mở choàng đôi
mắt quát lớn:
- Xẻo mau đi chứ!
Bọn đao phủ trả lời Đắc:
- Hoàng thượng có ý chỉ bảo bọn
ta xẻo từ từ để cho mi chết một cách đau đớn khổ sở.
Thành Đắc nhắm mắt lại không
thèm nói thêm. Bọn đao phủ xẻo cắt xong toàn thân Đắc, lúc đó mới bồi một đao
vào cổ kết quả tính mạng luôn.
Không ngờ Thành Đắc mất mạng
trong cung thì bên ngoài, Bát Quái Giáo nổi dậy hung dữ sôi động lạ thường.
Giáo đồ tại huyện Hoạt khởi nghĩa ngày mùng 7 tháng chín, tập hợp đông tới ba
ngàn, xông vào giết bọn nha lại, phá tan nhà lao, cướp Lý Văn Thành đi mất,
chém chết Cường Khắc Tiệp và toàn gia quyến. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa này, có
các huyện Tràng Viên, Đông Minh tinh Trực Lệ, toà huyện Định Đào Kim Lương tỉnh
Sơn Đông. Lâm Thanh mang theo hai trăm cảm tử quân mai phục trong kinh thành,
một mặt nghe ngóng tình hình bên ngoài, một mặt bắt mối với bọn thái giám trong
cung cấm, ước đính nửa đêm ngày rằm tháng chín hội đủ tại cổng chợ, rồi xông
qua cửa Tuyên Võ mà vào cung.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét