Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

1 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 32,33,34

HỒI 32

Địch Khứ Tà vào hang sâu,
Hoàng Phủ Quân đánh chuột lớn.

Từ rằng: 
Ngẫm thương người trần 
Bị quỉ thần chòng ghẹo 
Điên điên đảo đảo 
Dắt dẫn theo danh giáo 
Lại đem mồi chài 
Dây thuyền dài 
Roi ngựa ngắn 
Mấy ai được thảnh thơi 

Nhìn kỹ ra: 
Sớm sớm gió quất tơi bời 
Ngày ngày bụi vùi cay rát 
Dù ai giảo hoạt anh hùng 
Vực sâu ngập xuống, dây thòng lọng treo 
Hám phú quý mà liều thể xác 
Mộ thần tiên thuốc độc uống vô 
Xương khô mà máu chẳng khô 
Bừng con mắt, ủa! Rặt trò xuẩn ngu 
Khuyên ai tỉnh trước mà ngừa. . . 
Theo điệu "Ý nan vong” 


*** 

Lại nói Dượng Đế về viện Bảo Lâm, qua một đêm hoan lạc với Sa phu nhân cùng Tiết Dã Nhi, sáng ra, vì nhớ tới những lời Tiêu Hậu hôm qua, nên dậy sớm rửa mặt, chải đầu rồi lên xe rồng trở về cung.
Nhưng khi qua cửa cung thì đã thấy quần thần tụ họp chờ nhà vua ở dưới điện. Dượng Đế bèn bước lên điện, phán rằng: 
- Các khanh bàn về chuyện đường thủy đi Quảng Lăng nay đã ra sao rồi? 
Vũ Văn Thuật thưa: 
- Chúng thần dã bàn bạc kỹ lưỡng với bộ Công về việc này. 
Thật không có một đường nào cả. Chỉ quan gián nghị đại phu Tiêu Hoài Tĩnh, nói rằng có một đường thủy tới Quảng Lăng được. Cho nên cũng tới đây để thưa cùng bệ hạ. 
Thì ra Tiêu Hoài Tĩnh chính là em của Tiêu Hậu, vốn dòng quốc cữu hiện là Thượng đại phu. Dượng Đế bèn vui mừng hỏi Hoài Tĩnh: 
- Khanh biết đường thủy nào có thể đi Quảng Lăng được? 


Hoài Tĩnh thưa: 
- Trước kia ở phía tây bắc thành Đại Lương, hạ thần nghe nói có một đường sông, từ thời nhà Tần, đại tướng Vương Ly từng đào con sông này để lấy nước từ bến Mạnh Tân, tưới cho vùng Đại Lương. Nhưng đến nay thì sông này đã bỏ cạn. Phải tập trung dân phu, bắt đầu từ Đại Lương qua Hà âm, Trần Lưu, Ung Khâu, Thư Dương mà đào lại dòng cũ dẫn nước Mạnh Tân, cho mãi tới tiếp với sông Hoài Hà, bất quá chỉ khoảng nghìn dặm, thì có thể thẳng tới Quảng Lăng. Thần lại được nghe các quan ở Tư Thiên giám nói rằng vùng Thư Dương có vượng khí thiên tử, nay đào sông này, nhất định sẽ đi qua Thư Dương, thì vượng khí sẽ mất, địa thế hiểm trở và hậu họa cũng chẳng còn. Thần nghĩ nông cạn như vậy, không biết thánh thượng chỉ ý ra sao? 



Dượng Đế vui mừng phán ngay: 
- Khanh nghị luận thật sáng suốt, ngoài khanh ra có ai có thể nghĩ được những điều thuận lợi cả đôi đường như vậy! 
Bèn truyền chỉ phong cho Chinh bắc đại tổng quản Ma ThúcMưu làm Khai hà đô hộ, rồi phán tiếp rằng: 
- Đường sá xa xôi, công việc phiền toái, cần phải có thêm một người đắc lực giúp cho Đại tổng quản mới xong. 
Lúc này Vũ Văn Thuật vẫn nghi Lý Uyên giết con út của mình là Vũ Văn Huệ Cập, muốn tước mọi binh quyền của Lý Uyên, nên thừa cơ này, tâu: 
- Lưu thú Thái Nguyên Lý Uyên, vốn có tài cán, bệ hạ điều xung vào việc này. Lý Uyên có thể đỡ đần rất đắc lực những việc khó khăn cho Ma Đại tổng quản. 

Dượng Đế liền điều Lý Uyên từ Lưu thú Thái Nguyên về làm Khai hà phó sứ: bắt đầu khởi công từ thành Đại Lương xuyên qua Thư Dương, đến tận Hoài Hà. Lập tức lấy ngay dân đinh, ít là mười lăm vạn, nhiều thì đến năm mươi vạn người, ai trốn tránh, tru di tam tộc. Thánh ý đã ban, chẳng ai dám cản, lập tức có sắc chỉ, đem đến tận nơi, Ma thúc Mưu cùng lý Uyên lên đường. 

Nguyên lai Ma Thúc Mưu là một kẻ rất tàn ác, tham tiền tham lợi, nghe tin được thăng Khai hà đô hội trong lòng vô cùng hoan hỉ, lập tức phó nhiệm. 

Lúc này vợ chồng Sài Tự Xương đang ở Ngạc Huyện, biết chuyện này báo về với Lý Uyên, khuyên Lý Uyên cáo bệnh, một mặt nên sai người đem vàng bạc về Đông Đô chạy kỳ được một kẻ thế chân, tránh bằng được họa này. Vì vậy chính Tự Xương lại một phen phải đi Đông Đô, tìm đến Lương Quốc Công Tiêu Cứ, Thiên ngưu Vũ Văn Tinh, đều là sủng thần của vua Tùy, ngày đêm ra vào cung khuyết, trong ứng ngoài hợp. Bên ngoài thì lại đến nói ngay Khai hà đô hộ, rồi cả với Trương Hành kẻ trước kia bịa sấm, mưu hại Lý Uyên chẳng qua cũng chỉ vì Thái tử, chứ vốn cũng chẳng có thù riêng với Lý Uyên, huống chi đều là bọn tiểu nhân, mắt trông thấy vàng, chuyện gì chẳng làm. Cho nên khi Lý Uyên có tờ biểu bệnh tới thì có ngay thánh chỉ bổ Tả đồn vệ tướng quân Lệnh Hồ Đạt thay cho Lý Uyên. Lý Uyên vẫn ở lại Thái Nguyên dưỡng bệnh. 

Hai viên chánh phó nhận sắc chỉ, đào sông bề mặt rộng bốn mươi bộ, sâu mười lăm trượng. Lấy ba trăm sáu mươi vạn dân phu Hà Nam. Hoài Bắc, lại thêm cứ năm nhà, phải có một người già, hoặc phụ nữ đi lo chuyện cơm nước, số này cũng đã lên tới bảy mươi hai vạn người. Ngoài ra có lệnh điều vùng Hà Nam, Sơn Đông, Hoài Bắc năm vạn lính kỵ mã, để giám đốc công trình. Lúc này giữa ngày mùa bận rộn, nhưng cũng chẳng ai nghĩ đến, dù ở vùng sơn cước heo hút, dù là nơi mồ mả cha ông, hoặc thôn xóm dân cư, đều phải đào bới, không trừ nơi nào. Người đi, người ở đều nghìn vạn nỗi khổ. 

Nói chuyện có một dội dân phu đang đào, bỗng thấy tường gạch của một ngôi nhà. Dân phu cứ thế đào tiếp, ngôi nhà càng ngày càng lộ rõ đến bốn năm gian, bốn chung quanh được xây bằng đá trắng, có hai cửa đá, đóng rất chặt, không tài nào mở nổi. Ai nấy cho rằng bên trong thế nào cũng có bạc vàng, châu báu gì đó, liền dùng búa, cuốc chim, chày, vồ. phá bằng được. Nhưng vẫn chẳng suy xuyển. Hồi lâu chẳng xong, mọi người mới vội báo với đội trưởng, đội trưởng lên thưa với Ma Thúc Mưu. Ma Thúc Mưu liền cùng với Lệnh Hồ Đạt tới xem. Ai nấy đều thưa: 
- Đã dùng mọi cách để phá, mà vẫn không xong! 
Lệnh Hồ Đạt nói : 
- Đây nếu không phải là lăng tẩm một vị vua chúa xưa kia, thì cũng phải là một huyệt của tiên công, đạo gia nào đó, làm sao có thể dùng sức lực mà phá cho được. Nhất định phải thấp hương khấn vái, đọc thánh chỉ của hoàng thượng thì may ra mở được!

Ma Thúc Mưu ,cũng chẳng có cách gì hơn, đành quát tay chân bày hương án, cùng với Lệnh Hồ Đạt mặc triều phục nghiêm trang tuyên đọc thánh chỉ bái lạy đảo điên trước hương án. Bỗng một trận gió lạnh nổi lên, một tiếng nổ lớn, hai cánh cửa đá mở rộng. Ma thúc Mưu cùng mọi người tiến vào. Thấy ngay trước mặt, hàng trăm. ngọnđuốc đốt bằng nhựa sơn, vẫn cháy soi sáng như ban ngày, ở chính giữa đặt một hòm bằng đá lớn, dài đến bốn năm thước, hai đầu đều có tạc vẽ hoa văn. Thúc Mưu trông thấy vậy, đã có vẻ hoảng sợ, không dám đường đột dẫn đầu nữa, mà im lặng lui về phía sau, thì thấy phía này, có chỗ đào lũng vào phía trong như một cái động, trong động đặt một quan tài cũng bằng đá. 

Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt vội cúi lạy, rồi sai người nâng nắp quan tài lên, thì thấy một người nằm ngửa, vẻ mặt vẫn còn đầy đặn, hồng hào, chẳng khác gì người sống, khắp người da thịt trong suốt như ngọc, mái tóc đen nhánh. Từ mặt tới bụng, tới chân, đều lần lượt lộ rõ ra theo tay của bọn tả hữu. Những chiếc móng tay, chiếc nào cũng dài trên dưới một thước, Ma Thúc Mưu thấy thế, biết là di thể của một thiên thần đắc đạo, nên không dám đụng đến, bèn lệnh cho tay chân, đậy nắp quan tài lại. Rồi sai mở hòm đá ra, ở bên trong không có một thứ gì khác ngoài ba thanh đá mỏng, trên đều khắc chữ khoa đẩu (1). Chẳng ai biết đọc thứ chữ này. May ở trong núi có một vị chân tu, tuổi đã hơn trăm có thể đọc được, dịch ra như sau: 
1 chữ khoa đẩu: Khoa đẩu, là con nòng nọc. Chữ khoa đẩu là một thứ chữ cổ của Trung Quốc, hình giống con nòng nọc còn được giữ lại trên mặt đá. 

Ta là Đại Kim tiên 
Thác đã một nghìn niên 
Số đủ một nghìn niên 
Sau lưng nước chảy liền 
Gặp được Ma Thúc Mưu 
Cải táng lên cao nguyên 
Tóc xõa tới cát đen 
Lạt chờ một nghìn niên 
Sẽ lên miền Phật tiên. 


Thúc Mưu thấy tên mình cũng được viết trên đó, kinh ngạc không thôi, càng tin đạo pháp của tiên nhân, biết được những chuyện phi thường, bàn với Lệnh Hồ Đạt, tìm một thế đất cao ráo, làm lễ di táng. Chùa Đại Phật ngày nay, chính là di tích này vậy.

Đến vùng Trần Lưu, dân phu đang đào bỗng thấy mây đen kéo đến, rồi mưa như trút, gió gào thét. Nước chảy cuồn cuộn, cuốn theo rất nhiều dân phu chạy không kịp, kẻ còn lại thất điên bát đảo mới tìm được chỗ trú. Thúc Mưu không tin, tìm đến tận nơi xem cũng bị một trận mưa gió ra trò. Phải tìm đến các bậc kỳ lão hỏi han, mới biết thổ thần của vùng này, chính là Trương Lương đời nhà Hán, rất là linh ứng. Thúc Mưu tin ngay rằng đó là Trương Lương (2) hiển linh, để giữ gìn đất đai của mình, đành phải viết biểu, dâng lên triều đình. Dượng Đế sai ngay Hàn lâm viện, viết một bài văn tế, đem theo những đồ tế tự quốc bảo, sai Thái thường khanh Ngưu Hoằng lại đem thêm một đôi ngọc bạch bích, đến Trần Lưu tế lễ, sông mới đào xong khỏi đoạn Trần Lưu. 
2 Trương Lương: Vốn người nước Hán, bề tôi giỏi nhất về mưu lược của Hán Cao Tổ. Giúp Hán diệt Tần, thắng Sở lập nên nhà Hán bốn trăm năm. Công việc xong, Lương lấy cớ nhiều bệnh, bỏ đi về tiên ông Xích Tùng Tử học đạo tu tiên (Sử Ký). 

Chính là: 

Âm dương một lẽ không hai 
Quỷ thần chứng giám đôi vai nhiệm màu. 


Chẳng mấy chốc, dân phu đã đào đến vùng rừng rậm rạp của Ung Khâu, lại cũng gặp một ngôi mộ, bên trên mộ có đèn thờ. Khi đào tới đây người đội trưởng đã có ý ngờ, nên đến thưa với Thúc Mưu. Thúc Mưu tới xem, thì thấy bốn chung quanh, linh khí mù mịt, mới gọi dân sở tại tới hỏi. Một người thưa rằng: 
- Đây là mộ của bậc cao nhân từ thời thượng cổ, không ai còn nhớ rõ họ tên gì nữa. Chỉ thấy đời này nổi đời khác gọi là ẩn sĩ mộ thôi. 
Thúc Mưu nghe nói đến ẩn sĩ, lấy làm coi thường, bắt dân phu cứ thế đào lên. Dân phu được lệnh, toán thì phá nhà thờ, toán thì đào mộ. Không ngờ phía dưới có rất nhiều từng đá, đào mãi tới lớp thứ ba, bỗng nghe một tiếng nổ dữ dội, chẳng khác gì núi lở, đất sụt, cả người cả đất đá tụt hẳn xuống một hố sâu. Vội vàng cứu lên, người bị thương nặng, người thì chết, không thể đếm xuể là bao nhiêu. Thúc Mưu hoảng sợ, liền cho người xuống thăm dò xem sao, thì thấy sâu đến hai ba trượng, phía đáy lại có một cái huyệt, ánh sáng chợp chờn, như ở bên trong có đuốc đèn gì phát ra vậy, lại thấp thoáng nghe như có tiếng chuông, nhìn xuống thì sâu như biển cạn, không thấy đâu là đáy nữa, không ai dám xuống, đành kéo nhau lên bờ. 
Lệnh Hồ Đạt trầm tư nghĩ ngợi một hồi: 
- Phải có được một người này xuống, thì mới biết được rõ ràng mọi chuyện. 
Thúc Mưu vội hỏi: 
- Ai thế? 
Lệnh Hồ Đạt đáp: 
- Người này rất giỏi kiếm thuật, thường tự ví mình với Kinh Kha. Nhiếp Chính, sẵn sàng giúp khốn phò nguy, tên Khứ Tà, họ Địch, hiện làm Lang tướng ở Vũ Bình. Nhưng gần đây được điều về đây làm quản đốc lương thực ở hậu doanh. Mời được người này đến đây nhất định mọi việc sẽ rõ ràng ngay. 
Thúc Mưu nghe theo, sai tay chân đi tìm. Chính lúc này Địch Khứ Tà đang xem xét lương thực ở hậu doanh, thấy Thúc Mưu cho người đến tìm đành phải mặc lễ phục vào, tới nơi ra mắt: Thúc Mưu nhìn Khứ Tà thì thấy người cao tám thước, lưng uốn mười vòng, hai mắt sáng như ánh chớp, mặt mũi phương phi lẫm lẫm, rõ ràng ra bậc trượng phu, nên lấy lời từ tốn mà rằng: 
- Ta mời tướng quân đến đây, không có việc gì khác, nhân phía dưới có ẩn sĩ mộ, đào đến đại huyệt, trong huyệt thấy đèn đuốc lấp lánh, không hiểu có chuyện gì kỳ dị. Nghe nói tướng quân vừa can đảm vừa có sức khỏe, xin nhờ tường quân xuống xem sao, ta sẽ ghi công đầu cho tướng quân. 
Khứ Tà thưa: 
- Được hai vị đại nhân sai khiến, lẽ nào không vâng theo. Nhưng không biết huyệt ở chỗ nào? 
Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt dẫn Khứ Tà tới huyệt xem xét. Khứ Tà nhìn ngó một hồi lâu rồi nói:  
- Muốn xuống được dưới này, không có lễ nghi không được đâu. 
Rồi ăn mặc chỉnh tề, thay hẳn một bộ võ phục đàng hoàng, lưng giắt một thanh bảokiếm. Sai người lấy một đoạn dây chão dài hàng chục trượng, lại buộc rất nhiều chuông đồng, rồi tự mình ngồi trong một cái rọ lớn, chắc chắn, sai người trên bờ thả dần xuống. 
Khứ Tà ban đầu ở trên nhìn xuống, thấy bên dưới đèn nến huy hoàng, càng xuống sâu lại càng tối dần, nhắm mắt một lúc, rồi mở ra nhìn kỹ, thấy hình như có ánh sáng le lói. Ra khỏi cái rọ của mình, lần theo vệt sáng đó mà xuống, khoảng mấy chục bộ nữa, thì càng ngày càng sáng rõ. Lại dò dẫm thêm bốn năm chục bộ nữa, bỗng thông tới một khoảng rất rộng, chẳng khác gì có một bầu trời riêng, mặt trời riêng vậy. 

Khứ Tà thấy quang cảnh này, trong lòng thầm nghĩ: "Người ta chỉ biết trên đời tranh công đoạt lợi, khổ sở trăm đường để bám lấy cõi phù sinh nhơ bẩn. Có ai ngờ được rằng trong cái huyệt sâu này, vẫn có một thế giới khác nữa, thật đúng là ngoài trời còn có trời khác vậy, thiên ngoại hữu thiên!". Cho nên trong lòng ít nhiều sinh chán ghét chuyện công danh thân phận, nhưng lại càng bình tĩnh đi tới phía trước, vượt qua một bức tường đá, thấy một tòa phủ động rộng rãi, bốn phía là tường xây bằng đá trắng, bên trong là một tòa lầu, có đường cầu thang lên lầu, hai bên hai con sư tử bằng đá ngồi chững chạc, chẳng khác gì cảnh phủ đệ của các bậc công tốt. 

Cứ theo cầu thang mà lên, nhìn đông ngó tây, chẳng thấy một người nào, chỉ thấy phía nam có một lầu đá khác, nhưng cửa phòng đóng chặt, còn ở phía đông lại có một gian phòng đá khác nữa, nghe như có tiếng động. Khứ Tà cứ thế tiến lại gần, nhìn từ cửa sổ, thấy bốn góc phòng, đều có trụ đỡ bằng đá. Một trong các trụ này có dây xích bằng sắt, buộc một con thú kỳ lạ, con thú này đang lấy móng chân cào cào vào sàn gác, chính là tiếng động ban nãy Khứ Tà nghe ở bên ngoài vậy. Con thú đầu rất nhỏ, mắt trông lồi hẳn ra ngoài chân lại ngắn ngủn, thân to béo, gần giống như một con bò, trông không phải là hổ, cũng chẳng phải là báo. Khứ Tà nhìn kỹ một lúc lâu, mãi mới nghĩ ra là một con chuột già. Khứ Tà đột nhiên nghĩ mà hoảng sợ: "Con chuột mà lớn đến thế này, thì con mèo sẽ còn lớn thế nào nữa đây!". 
Đang lúc ngây người nhìn, cánh cửa ở phía nam mở rộng, một tiểu đồng tử từ cửa đi ra, chỉ thấy: 

Long lanh mắt tú, mày thanh 
Đẹp đẽ môi hồng, răng trắng 
Hai trái đào, thêm vẻ tiên phong 
Áo bào vàng, càng ra đạo cốt 
Nếu chẳng phải con hạt cháu tiên 
Thì cũng là huyết thần, cốt đạo 


Tiểu đồng thấy Khứ Tà, bèn hỏi: 
- Tướng quân có phải là Địch Khứ Tà không? 
Khứ Tà kinh ngạc hỏi lại: 
- Đúng rồi! Nhưng sao tiểu đồng lại biết được? 
Tiểu đồng đáp:   
- Hoàng Phủ Quân đợi tướng quân đã lâu rồi, xin mời tướng quân nhanh lên cho. 
Khứ Tà lại càng ngạc nhiên, chỉ còn biết đi theo tiểu đồng vào cửa, thì thấy bên trong điện các huy hoàng, lầu sảnh uy nghi, không giống cảnh lặng lẽ, tĩnh mịch bên ngoài nữa. Trước điện một bậc quý nhân chễm chệ ngồi, mình khoác áo bào thêu rồng, đầu đội mũ có đủ tám viên ngọc quý thêu hình mây ngũ sắc, rũ những dây ngọc quý trước sau, rõ ràng ra dáng vương giả. Hai bên là các quan văn võ đứng hầu, dưới thềm cũng hàng dãy thị vệ lập nghiêm kính cẩn.





Khứ Tà đến trước điện, vội vàng cúi lạy làm lễ, thì thấy quý nhân trên điện lên tiếng: 
- Địch Khứ Tà, ngươi đã tới đó phải không? 
Khứ Tà thưa: 
- Thần Địch Khứ Tà, vâng mệnh thánh chỉ xung việc đào sông, được Đô hộ Ma Thúc Mưu sai xuống đây, Không ngờ gặp được tiên phủ. Thực là đáng tội. 
Vị quý nhân liền phán: 
- Nhà ngươi vừa mới viện tới thánh chỉ của Tùy Dượng Đế phải không. Ngươi hãy đứng ra một bên. Ta sẽ cho ngươi xem vật này. 
Rồi nói với viên Vũ Vệ tướng quân, mặt mũi dữ tợn đứng hầu ngay cạnh: 
- Mau mau dắt A Ma vào đây! (l) 
1 A Ma: tên của Tùy Dượng Đế hồi nhỏ, cũng chỉ điềm rồng vàng uốn lượn, khi Độc Cô Hoàng hậu sinh Dượng Đế (Xem hồi 1). 

Vũ Vệ tướng quân nghe lệnh, vội vàng cầm côn lớn bước ra cửa ngoài. Chẳng bao lâu Vũ Vệ tướng quân cầm một sợi dây sắt dài, kéo con thú kỳ lạ vào. Khứ Tà dụi mắt nhìn kỹ thì đúng là con chuột già lớn ở phòng đá vừa rồi, Vũ Vệ tướng quân dắt vào đến trước thềm, dừng lại, con thú ngồi xuống ngay trước nguyệt dài, râu vểnh lên, răng nanh nhe ra, đầy vẻ đắc chí. Vị quỷ nhân giương mắt nhìn giận dữ, cầm một cái thước ngay trên án đập một cái vào đầu con vật mà quát: 
- Ngươi là đồ súc sinh, đáng tội lột da. Làm chủ một nước, trăm họ tội gì, mà ngươi đầy đọa xương khô cốt rũ, vì việc đào sông để ngươi vui thú, hoang dâm ngang ngược đến như thế là cùng cực. Nay ta đã đánh chết ngươi, cũng bởi vậy để nguôi nỗi phẫn uất của triệu người, ức quỷ vậy. 

Rồi sai nhằm đầu mà đánh thật mạnh. Vũ Vệ tướng quân tiến xăn tay áo, giơ cây côn lớn, nhằm thẳng đầu con chuột già mà giáng xuống. Chuột đau không chịu được, cứ thế mà rống, tiếng nghe lục đục như sấm. Vũ Vệ tướng quân đánh nữa, thì thấy trên không trung, hạ xuống một tiên đồng, hai tay nâng một đạo thiên phù, ngăn Vũ Vệ tướng quân: 
- Không được đánh nữa! 
Rồi quay lên thưa Hoàng Phủ Quân, chính là vị quý nhân ngồi trên điện: 
- Thượng đế có lệnh! 
Hoàng Phủ Quân vội vàng xuống điện, cúi lạy dưới thềm, tiên đồng bước lên điện, mỡ thiên phù ra, dõng dạc đọc: 
"A Ma vốn đủ một kỷ (1). Số chưa đến lúc tuyệt, hãy còn năm năm nữa. Bấy giờ mới dùng một dãy lụa chắc, quấn chặt vào cổ, mà xiết cho chết, để đền tội hoang dâm ngang ngược. Nay hãy tạm tha đánh roi, phạt trượng. 
1 Kỷ: cách tính thời gian cổ của Trung Quốc, theo con chi, hàng chi: Tý, Sửu... ứng với 12 năm. Đúng như số năm được ở ngôi của Dượng Đế hiệu Đại Nghiệp 105-106.

Tiên đồng đọc xong, bay lên trời biến mất. Hoàng Phủ Quân lên điện ngồi, nói: 
- Hãy tạm tha cho đồ súc sinh, nếu như không có đức hiếu sinh của thượng đế, thì ta đã đánh chết ngươi rồi. Nay vẫn còn được hưởng lạc những năm năm, nếu không biết đường hối cãi, thì chẳng thể nào thoát khỏi cái vạ cổ kia đâu! 

Rồi sai Vũ Vệ tướng quân dắt con chuột già buộc chặt lại như cũ. Hoàng Phủ Quân hỏi Khứ Tà: 
- Ngươi đã thấy rõ ràng chưa? 
Khứ Tà thưa: 
- Khứ Tà chỉ là một viên lại tầm thường ở cõi đời nhơ bẩn. Những điều huyền diệu của nhà trời thì làm sao mà hiểu hết cho được. 
Hoàng Phủ Quân phân tích: 
- Ngươi hãy nhớ cho kỹ, ngày sau sẽ thấy ứng nghiệm rõ ràng. Đây chính là Cửu Hoa đường thượng. Ngươi vốn không có duyên nợ gì với cõi tiên, cũng không nên lưu lại lâu làm gì? 
Khứ Tà vội vàng quỳ lạy thưa: 
- Khứ Tà nay do lệnh trên sai, lỡ vào tiên phủ, giờ thì tiến thoái đều chẳng biết lối nào, ngửa xin thần minh chỉ giáo? 
Hoàng Phủ Quân phán: 
- Người vốn có một con đường tài danh rất tốt nhưng phải giữ lòng cho trong sạch, sáng suốt, đừng để rơi vào cõi nhơ bẩn. Ma Thúc Mưu là kẻ tiểu nhân đang gặp hồi đắc chí, mặc sức hoành hành, tội không tha được. Người hãy nói với y: "Vì chuyện phá thành quách của ta, không có gì để trả nợ này, sang năm sẽ xin tặng hai lưỡi dao vàng!". 
Bèn sai một Lục y sứ: 
- Ngươi hãy dẫn Địch Khứ Tà ra? 
Khứ Tà thấy cảnh điện các uy nghiêm, không dám hỏi thêm, đành bái tạ trở ra theo Lục y sứ, nhưng lại không theo đường cũ mà theo lối mấy cây cột sơn đỏ, đi không quá một hai trăm bộ, Lục y sứ chỉ tay phía trước nói: 
- Phía trước, men theo cánh rừng kia, đã là đường lớn rồi đó! 
Khứ Tà quay đầu lại định hỏi, thì đã không thấy Lục y sứ đâu nữa, lại nhìn lại một lần nữa, thì cả điện các, thành quách đều chẳng còn. Khứ Tà hoảng hốt nghĩ: "Thần thông quảng đại vốn là thế này đây!”. Đành cứ từng bước, từng bước đi qua khu rừng, theo chân núi, gặp một hai cánh đồng rộng nữa, bỗng thấy mấy cây kiều mộc to lớn bao lấy một thôn trang, vội vào thôn hỏi đường. Một nhà ven đường nhỏ, cửa cổng bằng tre nửa mở nửa khép, bèn cứ thế đi vào, khẽ ho đánh tiếng, làm kinh động một đôi chó khoang nhỏ nhằm Khứ Tà mà sủa loạn xạ, từ trong đi ra một ông già. Khứ Tà vội vàng lạy chào, rồi hỏi: 
- Hạ quan lạc đường, xin lão ông chỉ giùm cho! 
Ông già đáp lễ rồi nói: 
- Tướng quân vì cớ gì mà đi bộ đến mãi đây? 
Khứ Tà không dám giấu, đem chuyện xuống huyệt, gặp Hoàng Phủ Quân, chuyện đánh chuột lớn, kể lại một lượt. Nghe xong ông già cười đáp: 
- Thì ra Dượng Đế vua ta, lại là một con chuột lớn biến thành. Lạ thay! Lạ thay! Có thế mới hoang tàng, ngang ngược đến vậy chăng? 
Khứ Tà lại hỏi: 
- Nơi đây là đâu? Đến Ung Khâu còn xa nữa không, lão ông chỉ giùm? 
Ông già đáp: 
- Đây chính là Tung Dương thuộc Thiểu Thất sơn, cứ theo đường lớn, đi về phía đông, chỉ độ hai dặm là huyện Ninh Lăng, cứ từ đó mà về Ung Khâu chẳng còn xa nữa. Chỉ khoảng chiều tà có thể về đến chỗ Ma Thúc Mưu. Nếu như tướng quân không chê chỗ quê mùa, để lão này bảo nấu cơm mời tướng quân rồi hãy đi cũng còn sớm chán. 
Rồi mời Khứ Tà vào thảo đường, ông già sai đầy tớ làm cơm nước. Trong khi chờ đợi ông già nói với Khứ Tà: 
- Cứ như việc tướng quân thấy, cứ theo lời tướng quân nói, thì vua Tùy ta nay cũng chẳng được bao nhiêu lâu nữa. Ngay cả Ma Thúc Mưu thì tiền đồ còn ngắn ngủi hơn nhiều. Lão xem tướng quân, từ dung mạo cho đến khí cốt đều có vẻ phi thường, sao lại nổi trôi theo sóng nước như vậy, theo cùng bầy với bọn quyền gian hại dân ấy làm gì? 
Khứ Tà khiêm tốn đáp: 
- Ơn lão ông chỉ giáo. Hạ quan cũng không ngờ việc khai sông này lại hại dân chúng đến vậy. Chỉ hiềm quan thấp, chức nhỏ, chỉ là nghe theo lệnh trên mà làm. 
Ông già khẽ cười: 
- Làm quan thì phải nghe lệnh. Nếu không làm quan nữa thì những lệnh đó làm gì nổi tướng quân? 
Khứ Tà thưa: 
- Xin cảm tạ những lời vàng ngọc của lão ông: Hạ quan tuy bất tài cũng xin nghe theo những lời dạy bảo của bậc kỳ lão. 
Đầy tớ dọn cơm nước, Khứ Tà ăn một bữa no, rồi đứng dậy từ tạ xin đi. Ông già đưa ra đến tận đường lớn, rồi chỉ: 
- Đi hết ngọn núi trước mặt, thì đã trông thấy huyện thành Ninh Lăng rồi! 

Khứ Tà chắp tay bái biệt. Đi bộ mười bước, quay đầu nhìn lại, đã không thấy ông già đâu nữa, cả nhà cửa lô nhô lúc trước, giờ cũng thấy toàn tùng bách trên đá núi lởm chởm. Khứ Tà vô cùng kinh ngạc, hoảng hốt, vội đi như chạy về huyện thành. Thấy được đường xá người người đi lại đông đúc, mới như vừa tỉnh cơn mê, vào thành, tìm đến công quán nghỉ ngơi. 

Thúc Mưu thì ngờ rằng. Khứ Tà tìm không thấy đường ra, đã chết trong huyệt, lại tiếp tục đốc thúc dân phu đào sông như cũ. Mãi đến bảy tám ngày sau, Khứ Tà theo công sai từ Ninh Lăng sang, Thúc Mưu mới biết. Khứ Tà đem chuyện ở dưới hang, nói lại kỹ càng một lượt. Thúc Mưu đời nào chịu tin. Cho rằng Khứ Tà có ít nhiều phép thuật, trốn ở trong huyệt ít ngày rồi trở lên, kiếm chuyện hoang đường, để dọa Thúc Mưu chơi, nên Thúc Mưu lại quát nạt một hồi. 

Khứ Tà đành quay về hậu doanh, nhân đó nghĩ: "Ta đường đường kẻ nam nhi đứng trong trời đất, sao lại cùng với bọn lang sói này làm chuyện hại dân. Quốc gia số vận chằng còn bao, ta việc gì cứ phái bám lấy bọn mọt dân này, chỉ tiếc cho công sức của mình lâu nay. Chi bằng giả bệnh điên khùng, vào ẩn trong núi, ung dung tự tại chẳng hơn sao!". Tính toán xong xuôi, liền làm đơn từ cáo bệnh. Thúc Mưu vẫn cứ ngờ Khứ Tà nói dối, nói xấu mình, bằng lòng cho nghỉ, tìm người khác thay việc ngay. Khứ Tà liền sắm sửa hành trang, đem theo hai đầy tớ, lên đường về quê. 

Trên đường đi Khứ Tà lại tự nghĩ, khi nhớ lại cảnh Hoàng Phủ Quân gọi chuột lớn là A Ma: "Làm sao có thể có chuyện thiên tử Trung Quốc mà lại là con chuột già cho được? Nếu đúng như vậy, thì mấy đòn côn giáng vào đầu chuột hôm ấy, nhất định phải làm hoàng đế nhà Tùy này đau đầu nhức óc mới đúng. Việc quỷ thần tuy không thể không tin, cũng không thể tin hoàn toàn. Sao ta chẳng về ngay Đông Kinh, nghe ngóng tin tức, thì biết ngay chuyện thật hư” . Thế là lại tìm đường về Đông Kinh luôn. 
Chính là: 

Thực hư cơ màu ai muốn tỏ 
Phong trần lao khổ chớ nề công!



HỒI 33

Thư Dương mất chức vì chạm nọc quan,
Tế Châu mua nhà lo nâng giấc mẹ.

Thơ rằng: 
Đua chen danh lợi chuyện bồng bềnh 
Dẹp loạn đưa dân đến trị binh 
Gươm tuốt lưỡi xanh trừ xiểm nịnh 
Bút ngời chữ đỏ cứu sinh linh 
Đeo xiềng vốn nghĩ oai không sợ 
Cởi mũ vì xem chức đáng khinh 
Cười ngất vận thời nhiều ngáng trở 
Trượng phu chung thủy vững như đinh. 

  
  
Đời làm quan dù nhỏ dù lớn, nếu có chí hướng thì đều có thể làm nên sự nghiệp, đi đến đâu cũng để lại ơn đức, làm việc gì cũng vì quốc gia, không sợ bọn cường quyền, không ngại kẻ phú quý. Dù một lời nói một việc làm, cũng là để phúc đức lại cho con cháu. 

*** 

Lại nói chuyện Tần Thúc Bảo rời khỏi Tế Châu, tìm đến bản doanh của Khai hà đô hộ Ma Thúc Mưu, thì biết Thúc Mưu đang ở vùng Thư Dương, nên vội vàng đến Thư Dương nạp văn thư. Đi được vài ngày, bỗng trên đường gặp được một người, đội khăn lụa trắng, dáng như một võ quan. Người này dừng ngựa bên đường, nhường cho Thúc Bảo đi qua. Thúc Bảo trông lại, có vẻ quen quen, giống như người bạn thuở nhỏ là Địch Khứ Tà. Cả hai nhận ra nhau, chào hỏi xong xuôi. Khứ Tà hỏi Thúc Bảo đi đâu. Thúc Bảo đáp:
 
- Được sai đi giám đốc việc đào sông. 
Thúc Bảo hỏi lại Khứ Tà, Khứ Tà đáp: 
- Tiểu đệ cũng làm dưới trướng quan Khai hà đô hộ họ Ma. Rồi đem chuyện đào sông ở Ung Khâu, tìm vào huyệt đá, thấy Hoàng Phủ Quân đánh chuột, rồi khuyên bảo ra sao, cả chuyện gặp ông già thần tiên ở Tung Dương, Thiếu Thất Sơn như thế nào kể cho Thúc Bảo nghe. Thúc Bảo nói: 
- Bây giờ đại huynh đi đâu? 
Khứ Tà đáp: 
- Tiểu đệ đã thấy rõ sự đời nhiều, nên chán ngán thác bệnh từ quan, về tìm nơi nào đó ẩn thân. Không ngờ đến lượt hiền huynh lại vướng vào bàn tay họ Ma này. Y là một kẻ tâm địa tham ác khó mà phụng sự cho được, xin hiền huynh lưu ý. 

Hai người chia tay. 

Thúc Bảo vốn là người chính trực, không tin chuyện quỷ thần, cho nên cũng không tin chuyện Khứ Tà kể. Mới tới Thư Dương mấy ngày đầu, hoặc qua thôn lớn, thôn nhỏ, hoặc vào vài lều tranh bên đường, thường thường Thúc Bảo vẫn nghe đây đó tiếng khóc văng vẳng, Thúc Bảo nghĩ ngợi: "Có lẽ vùng này gần nơi đào sông, dân đều bị bắt đi phu dịch, ruộng đồng, vườn tược bỏ hoang phế. Trong nhà chẳng còn manh áo lành, chẳng còn được ống gạo, cho nên khóc than thế này chăng? Nhưng đến khi nghe rõ hơn thì lại là khóc con gái bé, con trai nhỏ. Thúc Bảo lại nghĩ: "Có lẽ là trời gieo bệnh đậu mùa, cho nên trẻ con chết nhiều nên ở đâu cũng nghe khóc chăng?". Nhưng lẫn trong tiếng khóc, lại nghe cả lời rủa nguyền sau: 
- Cha đời thằng giặc cướp Bát Vương, sao nỡ cướp mất con vàng con bạc của ta đi đâu? 
Cũng có kẻ còn than vãn: 
- Con nhỏ của ta ơi. Nay con bị giặc cướp bắt cóc con đi, không biết còn ngày nào trở về nữa không? 
Thôi thì hàng trăm hàng nghìn lời khóc lóc, kể lể đại loại như thế. Thúc Bảo đắn đo: "Lạ nhỉ, nếu thế này thì cũng phải khóc con trẻ chết bệnh?". Lại ngầm nghĩ: "Hoặc giả năm mất mùa đói kém, có chuyện lường gạt trẻ con gì chăng? Nhưng tại sao lại nhiều đến như thế được? Nhất định phải có nguyên do gì chứ? “. 
Chính là: 

Xóm xóm vang rên khóc 
Nơi nơi tiếng thở than 
Dế giun kêu đứt nối 
Hành khách lệ tuôn tràn. 

Đến Ngưu Gia trang, quân lính thì đi trước cũng có, đi sau cũng có, Thúc Bảo cùng với hai mươi gia đinh dừng lại đây để nấu ăn. Trong lúc cơm còn chưa chín. Thúc Bảo vốn trong lòng đang có nhiều nghĩ ngợi, mới vào trong thôn xem xét, thấy trước cửa nhà, có một đám trai tráng khoảng ba bốn người, lại thêm một ông già, tay chống gậy, tay kia che vành tai để nghe chuyện cho rõ, Thúc Bảo cũng lại gần nghe ngóng. Một người nói: 
- Ngày hôm qua con nhỏ nhà họ Trương cũng bị bắt mất rồi! 
Một người tiếp: 
- Ngày hôm kia thì thằng cháu của ông già họ Vương cũng đã bị mang đi rồi. Bố nó đã bị bắt đi đào sông, nhà ấy rồi sống sao bây giờ? 
Lại một người nữa: 
- Chẳng mấy nhà còn trẻ con nữa. Vợ chồng nhà họ Triệu, sinh được mỗi một thằng bé, còn quý hơn vàng, đêm qua cũng mất rồi! 
Ông già gật đầu than vãn: 
- Thật chẳng khác gì loài chó sói. Nghe đâu ở làng Thượng, cũng mất đến hai ba chục đứa nhỏ rồi. 
Thúc Bảo bèn hỏi ông già: 
- Lão trượng, xin cho hỏi ở thôn ta, đã bị bọn giám công cùng bọn lính tráng lừa mất bao nhiêu trẻ con cả thảy rồi? 
Ông già đáp: 
- Nào phải chuyện lừa, lừa thì may vẫn còn sống, cướp trộm để giết kia. Mà cũng chẳng dính dáng gì đến lính tráng đâu, đây chỉ là bọn trộm cướp thôi thưa ngài! 
Thúc Bảo hỏi: 
- Xem ra năm nay, mùa màng cũng không đến nỗi, sao lại có chuyện ăn thịt người? 
Ông già đáp: 
- Ngài có điều chưa rõ, trong số các quan trông coi việc đào sông, có một vị tổng quản rất thích ăn thịt trẻ con. Mổ bụng xong, ướp ngũ vị quay lên. Vì vậy mới sinh ra một bọn trộm cướp, chuyên lừa bắt trẻ con, rồi quay sẵn đem dâng để đổi lấy mấy lạng bạc thôi. Bọn này cũng không phải chỉ một đứa, mà trẻ bị bắt cũng không phải chỉ riêng thôn này đâu! 
Chính là: 

Cũng vì tài lợi dỗ dành 
Lòng tham nên nỗi người thành hổ lang. 

Thúc Bảo nói: 
- Đã là bậc quan nhân, sao lại có chuyện như vậy, chỉ sợ lại chuyện hoang đường chăng? 
Ông già đáp: 
- Ai nói dối ngài làm gì? Ngài không thấy khắp nơi đều vang tiếng khóc than đó sao? Giờ đi khắp thôn, có nằm mơ cũng chẳng tìm ra một chỗ yên ổn. Nhà nào có con gái, con trai nhỏ, cũng phải lo giữ gìn, không dám cho ra đường. Đêm đến thì chong đèn suốt đêm để trông coi. Hoặc đóng một cái cũi thật chắc chắn, khóa kỹ lại. Ngài không tin, xin cứ đi một vòng mà xem! 
Thúc Bảo vào một nhà, quả thấy một cũi gỗ, bên cạnh là chiếu chăn của người lớn để nằm canh giữ, Thúc Bảo hỏi: 
- Sao lại phải đóng cửa nhốt trẻ lại như thế này? 
Người này đáp. 
- Ngày xưa thì nghìn ngày làm giặc cướp rồi! Nay đến lượt nghìn ngày giữ giặc cướp vậy, thưa quý quan! 
Thúc Bảo bắt đầu tin thực, quay lại điếm canh ăn cơm, rồi sai phái gia đinh: 
- Hôm nay mệt lắm rồi. Hãy nghĩ lại đây. Sáng mai hãy đi tiếp! 
Rồi vào trong điếm, trải chăn chiếu đánh một giấc. Tỉnh dậy, nghĩ cách làm sao tóm được bọn cướp này trừ hại cho thôn dân. Trời vừa tối thôn xóm chẳng có trống mõ điểm canh gì cả, nhìn ánh trăng nhợt nhạt, lạnh lẽo, có lẽ đã hết canh một. Thúc Bảo lặng lẽ ra khỏi điếm canh, ngoài đường không một bóng người, đi đến dãy lều chợ ở phía đông, cũng chẳng gặp một ai. Thúc Bảo đang định quay trở về, bỗng nghe từ một nhà ngay cạnh đường, tiếng la hét inh ỏi, thì ra chỉ là hai vợ chồng nằm mơ không thấy con đâu, la hét cuống cuồng, làm cho đứa bé cũng hoảng hồn khóc thét. 

Thúc Bảo lại đi về phía tây, nhìn từ đường xa, thấy như có hai bóng người, dáng đi lẫn lút. Thúc Bảo vội lẻn ngay vào trong điếm canh, nấp sau cửa cẩn thận nhìn theo. Một lát sau, quả có hai người, Thúc Bảo đợi cho chúng đi qua, mới lén theo sau nghe ngóng xem hai người này làm gì. Cả hai cái bóng lần lượt nghe ngóng khắp cửa nhà này, tới cửa nhà khác. Rồi mới khẽ mở một cánh cửa của nhà cuối ngõ, một bóng vào trước, một bóng vào sau. Thúc Bảo đứng chờ, thấy một bóng quay ra chạy ngay trước mặt. Thúc Bảo thét lớn: 
- Chạy đi đâu! 

Rồi thoi một quả thật mạnh vào sống lưng. Bất ngờ không kịp đối phó gì, tên này ngã lăn quay, vứt cả đứa bé ra cạnh đường khóc lanh lảnh. Thúc Bảo bỏ mặc, chạy vào nhà bọn này vừa vào, thì cũng vừa gặp tên trộm thứ hai chạy ra, vì nghe tiếng Thúc Bảo la thét bên ngoài, nên đứng sau cửa nhìn ra thấy Thúc Bảo vào, đang định vùng chạy. Thúc Bảo trông thấy, xấn lại, đá cho một cú trời giáng, tên này ngã lăn quay ra ngay trước cửa như một con chó. 
Lúc này xung quanh nghe ồn ào mới kéo ra đông, vợ chồng nhà nọ cũng mới tỉnh dậy, thấy con không còn trên giường, gào thét chạy ra. Thúc Bảo đã lôi tên trộm ngã ngoài cửa ra phía điếm canh. Ngoài điếm, bọn gia đinh, nghe tiếng quát của Thúc Bảo, cùng tiếng huyên náo bên ngoài, đều đã trở dậy, cũng vừa may tóm được ngay tên thứ nhất đang định bỏ chạy. Tiếng la, tiếng khóc, tiếng đánh dập ầm ĩ một hồi. Thúc Bảo thấy mọi người xúm lại đánh hai tên trộm, bèn lên tiếng can: 
- Xin các vị đừng quá tay. Hãy trói chúng lại, hỏi rõ những trẻ ăn trộm lâu nay để đâu hết. Bè đảng còn những đứa nào. Bọn này là người ở đâu, tên họ là gì. Phải bắt cho kỳ hết lũ hùm sói hại dân này. Nếu đánh chết chúng, thì còn lấy đâu ra kẻ khai báo nữa? 

Rồi sai gia đinh lấy dây thừng, trói cả hai đứa lại, bắt đầu hỏi tra. Một tên khai Trương Yến Tử, một thằng Đào Kinh Nhi, đều là người ở thôn Thượng Mã, huyện Ninh Lăng. Chúng còn khai tên cầm đầu là Đào Liễu Nhi, chuyên đi bắt trẻ nhỏ, mổ bụng, quay lên, rồi đem đến hiến Ma Đô hộ. Thúc Bảo hỏi xong, trời cũng gần sáng, trong thôn, ngoài thôn nghe tin bắt được bọn trộm trẻ con, kéo đến xem đông nghịt. Bọn đàn ông, Thúc Bảo còn ngăn được, nhưng không tài nào ngăn nổi bọn đàn bà lăn xả vào hai tên trộm cấu xé, chửi bới, có bà còn vác cả thanh củi nện tới tấp. Thúc Bảo thấy phải giải ngay bọn này lên quan, nếu không bọn người này đánh chết, sẽ liên lụy đến mình. Thúc Bảo phải lên tiếng: 
- Thưa các vị. Ma Tổng quản đường đường một vị đại thần, quyết không thể dính dáng vào chuyện xấu xa này được. Tổng quản hiện đang ở Thư Dương, tiểu nhân cũng đến đó, chi bằng giải hai tên này tới, trình với Ma Tổng quản. Nếu bọn này vu oan cho tổng quản, thì tổng quản không đời nào tha chúng. Nếu đúng có chuyện này, thì tổng quản cũng phải lo sợ mà thôi không dám làm ác nữa chăng? 
Mọi người nói: 
- Tướng quân nói có lý lắm. Chỉ sợ trên đường tướng quân lại tha chúng mất, chúng sẽ quay lại làm khổ dân hơn mà thôi! 
Thúc Bảo nói: 
- Nếu tiểu nhân thả, thì cầm bằng tiểu nhân không bắt còn hơn! ông già nói chuyện hôm qua, nhận ra Thúc Bảo: 
- Thì ra là vị quan nhân hôm qua. Đúng là ngài đã vì dân mà trừ hại. Ta cũng nên kiếm lễ tạ ơn ngài chứ? 
Thúc Bảo không nhận, giải hai tên cướp, vội vàng lên đường cùng với toán gia đinh của mình. 

Đến Thư Dương, thì Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt cũng mới tới chưa lâu, đang ngồi trong bản doanh. 


Thúc Bảo tập trung đủ số lính tráng, cùng công văn đến nạp. Thúc Mưu thấy tướng mạo Thúc Bảo rất mừng, liền cho Thúc Bảo giữ chức Đốc lý hà công phó sứ, theo dõi công việc ở ngay Thư Dương. Thúc Bảo tạ ơn, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ: "Khứ Tà từng nói người này tham lam, thật quả đúng vậy, chỉ cần trông qua cũng rõ. Chẳng cần phải dưới trướng lâu ngày mới nhận ra. Nay ta cứ đem chuyện hai tên cướp này thưa, chỉ sợ rồi y cho rằng ta định bêu xấu y, hoặc lại sẽ thả hai thằng cướp ra, cho chúng tiếp tục làm bậy. Nhưng cũng đành vậy, chẳng nhẽ để hàng loạt trẻ con bị ngậm oan". Thúc Bảo tới bên án thưa: 
- Tế Châu lãnh binh hiệu úy Tần Quỳnh, có việc này xin thưa cùng hai vị đại nhân. 
Thúc Mưu nào đã biết chuyện gì, nên vẫn rất hòa hợp nhã nhặn hỏi han, Thúc Bảo bèn thưa: 
- Hạ quan đi qua Ngưu Gia trang, bắt được hai tên cướp, chúng khai đại nhân cần trẻ con, nên công nhiên cướp bắt. Một tên là Trương Yến Tử, một tên là Đào Kinh Nhi, hạ quan bắt theo đây, đang giữ ngoài cửa, xin đại nhân phân xử. 
Thúc Mưu nghe xong làm ra vẻ thản nhiên: 
- Ai bắt được? 
Thúc Bảo thưa: 
- Dạ, chính hạ quan! 
Thúc Mưu phán: 
- Bắt trộm cướp là bổn phận của các đô đầu địa phương. Chẳng có can hệ gì tới bản doanh. Người là một hiệu úy cai quản lính tráng, cũng chẳng phải lo đến chuyện này làm gì? 
Lệnh Hồ Đạt nói: 
- Nhưng nếu vu oan cho quan lớn, thì cũng nên hỏi cho ra nhẽ chăng? 
Thúc Mưu đáp: 
- Chỉ riêng việc đào sông mà mình coi sóc cũng chẳng nổi nữa là, hỏi đến những chuyện ấy làm gì! 
Lệnh Hồ Đạt vẫn tiếp: 
- Hãy giải về cho pháp ty tra vấn xem sao? 
Thúc Mưu gạt đi: 
- Đem về pháp ty thêm lôi thôi mất sức, tốn tiền, chi bằng ở đây ta tha quách. 
Rồi không cho giải đi đâu cả, ra lệnh tha ngay, Thúc Bảo đang hăm hở, thấy thế, như bị ném vào nước lạnh vậy. 
Chính là: 

Mở giam tha thú dữ 
Giăng lưới uổng công phu. 


Phía bên ngoài, bọn lính tráng dưới quyền Thúc Bảo từ hôm phải giải hai tên cướp, nghĩ thế nào cũng được khen thưởng ít nhiều, không ngờ phải tự tay cởi trói thả chúng ra, tất cả đều không bằng lòng như Thúc Bảo vậy. 

*** 

Lại nói chuyện Thúc Mưu, nguyên lúc đầu phụng thánh chỉ, đào sông qua Thư Dương, là vì có ý của các quan ở Tư Thiên giám, cho là thành này có vương khí, phải đào sông qua để trấn cho hết. Không ngờ, khi đào tòa cổ mộ của Tư Mã Tống Hoa Nguyên ngay gần thành, sau đó bắt đầu đào vào thành, thì khắp trăm họ từ lớn tới nhỏ, đều đến cầu xin Đốc lý hà cồn Trần Bá Cung, nhờ Trần tìm cách để nói với Thúc Mưu, giữ nguyên thành, mà tìm đường khác để đào sông. Không ngờ Thúc Mưu nổi giận đùng đùng, vịn vào thánh chỉ, suýt chém đầu Trần Bá Cung, mà vẫn giữ ý đào sông qua thành như cũ. Được tin này cả thành nhốn nháo, ngoài thành thì mồ mả, trong thành thì nhà cửa, người sống, người chết. Tổng cộng có tới một vạn tám trăm nghìn hộ lớn, góp nhau lại được tới ba nghìn lạng vàng, định đem đến nói với Thúc Mưu, nhưng chưa có người nào dẫn đường. Gặp lúc Đào Kinh Nhu vừa được cởi trói, nhởn nhơ rao lên rằng: 
- Ta là người rất tin cậy của Ma tổng quản. Cần nói gì với tổng quản, cứ đến ta là xong ngay. Các ngươi cứ xem việc vừa rồi thì đủ rõ. Số phận mối kiến của các ngươi, là nằm trong tay chúng tao này. 
Ai nấy đều tin y là bậc thân tín của họ Ma nên cử mấy người đến tìm gặp Kinh Nhi, to nhỏ thương lượng với y về việc đào sông qua thành. Ba hoa một hồi. Kinh Nhi nói tiếp: 
- Ta còn có một người bạn rất thân, là quan hầu cận của Ma tổng quản, để ta dẫn các ngươi tới gặp viên quan hầu cận này, thì mọi việc sẽ đâu vào đấy ngay tức khắc. 
Thế là y đứng làm môi giới cho mọi người tới gặp Hoàng Kim Quật, quan hầu cận của tổng quản họ Ma. Mọi người hứa tạ lễ một nghìn lạng vàng. 
Kim Quật bằng lòng, và giục: 
- Đem ngay số vàng ấy đến đây, thì sáng ngày mai sẽ có tin lành. 
Dân chúng cử người mang vàng đến giao cho Kim Quật. Kim Quật từ lâu đã biết rõ tính Thúc Mưu, thấy vàng thì bất kể việc gì cũng làm nên thừa dịp Thúc Mưu đang ngủ phòng trong, Kim Quật đem số vàng này cùng với số ba nghìn lạng vàng được hối lộ từ trước bày khắp ra án thư, trông sáng rực cả phòng, đợi Thúc Mưu ngủ dậy, trông thấy sẽ tìm cách nói, rồi ngồi chờ ngay đấy. Gần đến giờ thân (1), Thúc Mưu bò khỏi giường, chuệnh choạng bước ra, nửa mê nửa tỉnh quát: 
1 Giờ thân khoảng 15 giờ đến 17 giờ. 
- Ngươi sao lại dám lừa dối ta? Dám cướp vàng của ta? Lại còn xô ta ngã nữa? 
Rồi lấy tay dụi mãi, cho đến khi nhìn rõ vàng bày la liệt trên án thư, mới cả cười, ngạc nhiên: 
- Ta đã nói là Tống Nhượng Công không lừa ta mà lại. Không mất đi đâu cả mà! 
Kim Quật liền cười hỏi: 
- Tống Nhượng Công nào mà lại biếu đại nhân vàng? 
Thúc Mưu đáp: 
- Đó chính là người mặc áo bào màu tím. Nhượng Công xin ta giữ yên thành Thư Dương. Ta không nghe. Lại dẫn thêm một người khác nữa vào, người này hình dung dữ, mắt to, bụng lớn, râu tốt, cũng mặc áo bào tím, gọi là Đại tư mã Tống Hoa Nguyên. Cả hai lấy thế mạnh, sai người trói ta lại, lấy nước đồng nóng chảy đổ vào miệng ta, hòng làm ta sợ mà phải nghe theo. Ta vẫn không chịu. Hai người này đành phải đấu dịu, hứa tặng ta ba nghìn lạng vàng, mong ta cứu cho. Bởi ta chưa thấy vàng đâu, sợ bị lừa, cứ phải như thế, liền bị họ đẩy mạnh một cái, ngã sóng soài. Không ngờ vàng đã bày cả ra đây rồi. Hãy chờ ta cân lại cẩn thận, không dễ bị chúng nó lừa lắm! 
Kim Quật cười thưa: 
- Đại nhân nằm mơ rồi. Số vàng này là trăm họ trong thành Thư Dương, đưa cho hạ quan, nhờ nói với đại nhân tha chết cho cả thành, chứ nào có Tống Nhượng Công nào đâu? 
Thúc Mưu đáp: 
- Sao lại có thể thế được, rõ ràng ta cùng Nhượng Công với Hoa Nguyên thương lượng, đâu có phải chuyện mộng mị cho được? 
Kim Quật thưa: 
- Đại nhân cứ nghĩ ra mà xem. Nếu như đại nhân đi gặp Nhượng Công hoặc Nhượng Công tìm gặp đại nhân, thì nay Nhượng Công đâu rồi, gặp nhau ở đâu? 
Thúc Mưu nghĩ ngợi hồi lâu: 
- Nếu không phải mộng, thì rõ ràng thấy nói thượng đế cho ba ngàn lạng vàng, lấy ở trong dân gian ấy. Số vàng ấy không phải của ta sao? 
Kim Quật thưa: 
- Nói lấy ở trong dân gian, thì đúng là số vàng này rồi, xin đại nhân cứ nhận cho. Thực là của trăm họ trong thành góp lại, để mong đại nhân đừng bắt họ phải dỡ nhà to nhà bé, nhà lầu nhà cỏ đi nơi khác. Quả là không phải chuyện mơ, chuyện mộng vậy! 
Thúc Mưu cười: 
- Ta chỉ cần có vàng là được rồi. Thượng đế cho cũng tốt, dân gian cho cũng tốt. Chỉ cần giữ yên thành Thư Dương này cho họ là được rồi! 

Rồi vơ tất cả số vàng trên án thư, thu xếp mọi chuyện để sáng ngày mai còn tìm cách thay đổi hướng đào sông. 

Ngày hôm sau lên công đường. Thúc Mưu gọi ngay Đốc lý hà công Trần Bá Cung đến, nhưng Bá Cung đang ở chỗ dân phu, chỉ có Đốc lý hà công phó sứ Thúc Bảo đang ở công đường vội tới nghe lệnh. 

Thúc Mưu hỏi: 
- Sông đào còn cách xa thành bao nhiêu nữa? 
Thúc Bảo thưa: 
- Còn gần mười dặm nữa. Huyện quan hiện đã ra lệnh cho trăm họ trong thành phải di chuyển ngay nhà cửa, nếu không lính tráng, dân phu sẽ phá đổ nhà cửa tường thành để đào tiếp. 
Thúc Mưu phán: 
- Ta thấy hôm qua Trần Bá Cung nói nên đào tránh thành là có lý lắm. Đây là một thành rất kiên cố, ngàn hộ, vạn hộ đang sống yên vui, sao nỡ nhẫn tâm đuổi họ đi. Chi bằng tìm đường khác mà đào, đừng làm kinh động dân chúng trong thành nữa. Nhà ngươi hãy ra tính toán xem sao? 
Thúc Bảo thưa: 
- Hôm qua đại nhân đã chỉ vẽ cách thức, quy định rõ ràng, ban bố thánh chỉ, đào sông qua thành, làm đứt vương khí. Nay sợ khó thay đổi cho được. 
Thúc Mưu quát: 
- Vâng lệnh thánh chỉ, đào qua vùng Thư Dương là có thể cắt đoạn vương khí, cần gì phải qua thành. Ngươi không nên cố chấp. Cứ theo lệnh ta mà làm, mau ra xem thế nào, về báo lại ta rõ. 
Thúc Bảo đành vâng lệnh, ra ngoài thành xem xét tính toán chi tiết. Đi khắp các thôn xóm, dân chúng chạy theo, kêu xin đừng đào qua lăng mộ tổ tiên hoặc vườn ruộng hoặc nhà cửa, phòng ốc, kẻ xin đưa năm lạng, người dâng chục lạng, thậm chí có người xin lễ hai ba mươi lạng. Thúc Bảo đều nhất nhất từ chối, rồi ước định sơ lược đường đào sông mới, trở về thưa lại với Thúc Mưu. Vừa gặp lúc khai hà phó sứ Lệnh Hồ Đạt, nghe tin thay đổi đường đào sông, vội đến hỏi nguyên do. Cả hai tranh cãi mãi không ngã ngũ phải trái. Thúc Bảo vào bản doanh quỳ thưa: 
- Hạ qua được sai đi tính toán đường đào sông mới. Nếu đào vòng để tránh việc qua thành, thì đường sông sẽ dài thêm hơn hai mươi dặm nữa. 
Thúc Mưu đang lúc giận dữ, nghe Thúc Bảo nói thế liền lớn tiếng quát: 
- Ta chỉ cần ngươi tìm đường đào mới là được rồi, hai mươi hay ba mươi dặm cũng chẳng sao? 
Thúc Bảo thưa: 
- Đường đào dài thì số dân công phải nhiều hơn, tiền công, lương thực đều phải hơn nhiều, hạn kỳ cũng dài hơn, vì vậy hạ quan phải trình minh bạch để đại nhân rõ. 
Thúc Mưu lại càng tức: 
- Nhân công cũng không phải nhân công của nhà ngươi, tiền lương cũng không phải tiền lương của nhà ngươi. Nhà ngươi chỉ được cái to miệng, đứng đấy nói láo phải không? 
Những lời này không những chỉ chửi Thúc Bảo, mà còn định chửi cả Lệnh Hồ Đạt nữa, vì vậy Lệnh Hồ Đạt lên tiếng khuyên răn: 
- Người ta cũng là kẻ nói thẳng, không biết ý tứ vòng vèo, dù lớn dù nhỏ cũng là quan của triều đình, thì cũng nên bàn bạc cho ra lẽ mà làm. Huống nữa việc đào sông đào thành này vốn đã có thánh chỉ của chúa thượng rồi! 
Thúc Mưu vẫn giữ ý: 
- Ngài đừng vịn vào thánh chỉ, giữ lại cái thành này, Tống Nhượng Công còn có cả thiên chỉ kia. Hôm vừa rồi, ta nằm mơ, bị gọi đến để xử tội, bị Tống Hoa Nguyên rót cả nước đồng nóng vào miệng để định giết ta, sao không thấy hai thầy trò ngươi đâu cả? 
Lệnh Hồ Đạt cười lớn: 
- Ở đâu ra cái chuyện ma quỷ này thế đại nhân? 
Thúc Mưu lại nói với Thúc Bảo: 
- Ngươi cũng đường đường là một võ quan của triều đình, lấy của dân chúng ngoài thành không biết bao nhiêu tiền bạc, vẫn còn ra vẻ giảng giải đạo lý. Ta không dùng ngươi nữa, xem ngươi làm nên trò trống gì nào? 
Lệnh Hồ Đạt cãi không lại Thúc Mưu, tức giận quay ra, về chỗ ngụ của mình, viết lời biểu tâu về triều đình. Thúc Bảo cũng nối gót theo ra. Thúc Mưu liền viết bản bố cáo: 

"Đốc lý hà công phó sứ Tần Quỳnh, sinh sự nhiễu dân, cản trở việc công. Rộng xử cách chức, đuổi về quê”. 

Thúc Bảo xem thấy, liền nghĩ: "Địch Khứ Tà từng nói khó mà phụng sự con người này, nay quả nhiên như thế". Rồi lập tức thu nhập hành lý về quê. Đây cũng chính là trời có ý cứu Thúc Bảo vậy. Vì lúc này công việc rất khẩn trương để kịp thời hạn, dân phu thì chết quá nửa, đến khi vua Tùy đi chơi phía nam, có đoạn thuyền rồng mắc cạn, lấy sào chống thuyền có mũ bịt sắt để đo, thì thấy chỉ có một trượng hai thước, dò ra, có tới hơn một trăm hai mươi chỗ như thế. Thế là dân phu đào hai bên bờ sông, cho đến lính phiêu kỵ làm đốc công đều bị chôn sống. Dân chúng đều cho rằng: sống thì làm phu đào sông, chết thì làm ma vét sông. Từ Ma Thúc Mưu trở xuống, đều bị tội chém ngang lưng, nếu Thúc Bảo vẫn còn làm Đốc lý phó sứ, thì cũng chẳng thể nào thoát tội. 
Chính là : 

Mất ngựa không buồn lắm 
Được ngựa chẳng mừng nhiều 
Trời già yêu kẻ anh hùng 
Đắng cay cũng trải, long đong cũng từng. 


Thúc Bảo nhân Thúc Mưu đuổi về, đang lúc thu nhập hành lý, thì thấy Lệnh Hồ Đạt sai quan hầu cận đến, thu nạp dưới trướng. Thúc Bảo cười, thầm nghĩ "Ta đi chuyến này, chẳng qua cũng là nể Lý Huyền Thúy, tìm mọi cách để ta tránh khỏi phủ đường của Lưu Thứ sử. Chứ với cái chức Đốc lý hà công phó sứ này, liệu sẽ làm nên sự nghiệp được gì. Lại thêm rặt một phường vô lại, chuyên bán mạng cho dân phu để kiếm ăn, hoặc bớt xén tiền lương, hoặc chửi mắng đánh đập, hoặc hạch sách lễ lạt, nịnh hót tâng công để được ban ơn nhiều ít, quả là không phải ý nguyện của ta, vậy thì ta ở đây làm gì nữa?". Bèn nói với viên quan hầu cận: 
- Tiểu nhân ở nhà còn mẹ già đã bát tuần, gặp việc quan, bất đắc dĩ mà phải đi. Nay may được trở về, lòng như muốn mọc thêm cánh, thực không thể nào ở lại dưới trướng Lệnh Hồ đại nhân cho được. 
Thế rồi từ giã lên đường, vừa đi vừa nghĩ: "Lâu nay Lai Tổng quản đối xử với ta rất chu tất, cũng chẳng phải vì có Lai Tổng quản, hoặc Lý Huyền Thúy giới thiệu. Nay ta trở về, nếu đến chỗ Lai Tổng quản, thì thế nào cũng được thu nạp. Nhưng ta danh giá mà ra đi, nay như thế này mà quay về, thì chẳng khác gì: "Thử khứ hảo bằng tam thốn thiệt, Tái lai bất trực bán văn tiên". Lúc đi khoe khoang đẹp tốt bằng ba tấc lưỡi. Lúc trở về không đáng nửa đồng tiền sứt. 

Xem ra công dịch, phu phen vẫn còn nhiều, trăm họ oán giận, chẳng bao lâu thiên hạ sẽ đại loạn. Lúc ấy binh định thời cuộc sợ không thoát khỏi tay bọn ta, chuyện tước lộc, công danh chỉ là chuyện sớm muộn thôi, cần gì phải vội vàng. Huống nhà lại còn mẹ già, đang lúc cần phải xum vầy, vui vẻ, việc gì phải khổ sở bám lấy chút công danh nhỏ mọn này?". Lại nghĩ thêm "Nếu cứ về ở trong thành Tế Châu như xưa, nhất định Lai Tổng quản lại tìm đến đòi ra, rồi lại thêm Lưu Thứ sử tới gây phiền hà. Chi bằng tìm quách một chốn núi rừng nào đấy mà mai danh ẩn tích". Vì vậy, Thúc Bảo liền tìm mấy gian nhà ở ngoài thành Tế Châu, rồi chuyển cả gia quyến ra, cùng sống trong cảnh: 

Trước suối ngăn, sau rừng tốt um 
Vườn dâu biêng biếc, thoải sườn non 
Sáng ra, lưng dậu hoa đua thắm 
Chiều tốt, chái nhà chim hót ran 
Khe cửa khói luồn màu ửng ửng 
Ngọn tùng sóng vỗ tiếng rì rầm. 
Anh hùng vững chí qua giông tố 
Vẫy bút nhân đề "Lương phủ ngâm.(1) 

1 Lương phủ ngâm: tên một bài thơ tỏ chí thanh cao của Khổng Minh, khi còn ở ẩn ở núi Nga Long (Tam Quốc diễn nghĩa). 

Nhà trên gồm ba gian lợp cỏ, phía sau còn có thêm mấy gian nhà tranh, hai bên là rừng trúc âm u, lặng lẽ, có thêm mấy gian thư phòng ở bên phải, xung quanh vây bằng một dãy tường thấp, trồng thêm mấy dãy dâu, mấy ruộng lúa mạch, là vườn trồng táo. Trước đó Thúc Bảo đã bàn với Ninh Thị, kẻ nông nổi không hợp với người đời, mẹ già, vợ con rời về ngoài thành. Phàn Kiến Uy cùng Giả Nhuận Phủ còn khuyên Thúc Bảo nên tìm đến Lai Tổng quản, Thúc Bảo khẽ cười đáp: 
- Rồi cũng đến thế mà thôi? Được nhàn thân lúc nào là hay lúc ấy việc gì bôn ba khó nhọc, lại nhục tấm thân! 

Về sau Lai Tổng quản cũng có cho người tìm đến, Thúc Bảo khước từ, lấy cớ mẹ già, mình lại mang bệnh, không thể cáng đáng được công vụ, Lai Tổng quản cũng không muốn nài ép. Bạn bè thỉnh thoảng cũng có người tìm đến, cùng nhau tiệc rượu đàm đạo nhưng từ chối không ra khỏi cửa, lấy cớ mẹ già. Ngày ngày Thúc Bảo vào non ra suối, trồng trúc, trưa đến đánh vài ván cờ, tất cả chuyện anh hùng tráng chí đều chôn chặt vào trong lòng. Khiến bọn Phàn Kiến Uy, Giả Nhuận Phủ cũng phải phàn nàn với nhau: 
- Đáng tiếc một bậc anh hùng như vậy, chỉ vì gặp vài lần hoạn nạn, mà đến nỗi chí khí tiêu ma, gửi đời cho cây cỏ, núi non cho được! 
Chẳng biết Thúc Bảo đã thấy rõ sự đời chưa, chí đã kiên định chưa, đã hiểu ra rằng mai sau không thể không có mặt mình, cũng không thể nào gác hẳn tấm thân anh hùng đầy nhuệ khí của mình mãi mãi vào chốn lâm tuyền cho được? Lẽ như vậy chăng? 
Chính là: 

Bên hồ chiều tối ngại buông cần 
Ngọn gió đùa lay mảnh áo đơn 
Nam tử dọc ngang chưa phỉ chí 
Bên mình đành mặc tiếng cười khan.


HỒI 34

Hoa đào nước chảy tìm vui thú,
Xẻo thịt tay ngà báo ái ân.

Từ rằng: 
Muôn hoa hương nở đưa nhè nhẹ 
Cánh đào rơi, sống rẽ đưa vèo 
Nước xanh lóng lánh chiều theo 
Dường mơ mộng quấn quýt vào chân đê 
Mái chèo vỗ lòng mê hay tỉnh 
Dứt không ra ám ảnh hồn ma 
Hồn ma ai gửi vào ta 
Khói tuôn con triện nên hòa lệ châu 
Sông kéo mãi, đêm sâu thăm thẳm 
Ngàn sao như áo gấm rung rinh 
Tóc dài, da trắng xinh xinh 
Mùa xuân thần dược, bệnh lành hơn xưa! 

Theo điệu "Thiên thu tuế" 
  
  
Từ xưa những khi loạn lạc, người ta thường bảo là lúc trời say. Trời mà không say, đã có người say thay. Thực ra thì trời không bao giờ tự say được, mà làm nên chuyện say đó, chính bởi người vậy. Thôi thì biết bao xiềng gông trói buộc, vàng ngọc bấu víu vào thân, trước mắt bao cảnh lạc thú hấp dẫn, mấy ai giữ được sự "thanh tâm quả dục" thấy rõ lối mê? 

*** 

Hãy nói chuyện Tùy Dượng Đế sống giữa đám khuynh quốc khuynh thành như vậy, thói dâm đãng lúc nào cũng như nước triều vỗ sóng, chẳng luận hoàng hôn bạch nhật, lúc nào cũng như con ong, điên loạn hết hoa này sang bông khác, ngày ngày như con bướm, nhởn nhơ hết khóm vàng sang bụi tía. Bọn cung nữ thấy Dượng Đế như vậy, nên cũng tìm đủ mọi cách để hấp dẫn, lôi kéo, cầu lấy cuộc vui một khắc vậy. 

Một hôm, Dượng Đế dang trong viện Thanh Tu, cùng với Tần phu nhân lặng lẽ uống mấy chén rượu, nhân tiết trời ấm áp, hai người dắt tay nhau ra khỏi cửa viện, men theo đê dài, nhìn theo dòng nước. Đây vốn chỉ là một con ngòi nhỏ, nước chảy lặng lẽ qua vườn, thấy trên mặt ngòi, mấy cánh hoa dập dờn theo mặt nước trôi xuôi, Dượng Đế chỉ tay ra, xuýt xoa. 
- Đẹp làm sao! Thú làm sao? 
Chầm chậm, những cánh hoa đào theo dòng nước ra khỏi vườn ngự. Từ phía trên, lại một đám hồ ma (1) trôi xuống, Tần phu nhân trông thấy ngạc nhiên: 
1 Hồ ma: Cây vừng đen mọc trong hang núi. Các ẩn sĩ, tu tiên thường dùng ăn trừ cơm, được gọi là "Hồ ma phạn” nên cũng như hoa đào, thường báo hiệu nơi ẩn sĩ, tiên nữ ở. 

- Cái này ở đâu ra? 
Dượng Đế cười đáp: 
- Chính là do phu nhân hái về, chứ còn ở đâu nữa! 
Tần phu nhân thưa: 
- Thực là thiếp không biết. 
Vội gọi cung nhân mang sào lại, kéo vào bờ xem thì chẳng những hồ ma, mà còn cả cánh hoa đào nữa, nhiều cánh vẫn còn tươi, Dượng Đế sực nghĩ: 
- Như thế lại càng lạ lùng. 
Tần phu nhân thưa: 
- Hay là ngòi nước này được nối với nguồn suối tiên nào chăng, thưa chúa thượng? 
Dượng Đế đáp: 
- Con ngòi này trẫm mới đào, nước thông với hồ Thái Dịch ở Tây Kinh, thế thì chẳng có nguồn suối tiên nào cả đâu. 
Tần phu nhân hỏi: 
- Nếu chúa thượng nói như thế, sao lại vẫn có hoa đào trôi về đây được ? 
Hai người cùng nhau nhìn đi nhìn lại, vẫn chẳng hiểu nguyên do. Tần phu nhân tiếp: 
- Thiếp cùng bệ hạ tìm một thuyền nhỏ, men theo con ngòi này mà ngược lên, thì nhất định sẽ tìm ra nguồn cơn ngay mà thôi! 
Dượng Đế đáp: 
- Phu nhân nói có lý lắm! 
Rồi cùng lên một chiếc thuyền rồng nhỏ, có cung nhân bơi chèo xuyên hoa, rẽ liễu mà đi, quanh co uốn éo theo con ngòi, thì thấy trên mặt nước, khi thì vài cánh, khi thì cả cái hoa đào, lặng lẽ trôi xuôi, qua một cầu đá nhỏ bên bờ là mấy cây liễu già, thấy một thiếu nữ, mặc áo màu tím, ngồi bên bờ nước. Vội ghé thuyền lại gần, thì ra Thỏa Nương ngồi dây bứt từng cánh hoa đào, thả trôi theo nước. 
Chính là: 

Trăng tròn cung nữ vẻ yêu kiều 
Thông tuệ khen cho hiểu biết nhiều 
Tiên động định lừa Lưu Nguyễn chắc 
Theo dòng lấm tấm rắc đào hoa? 



Dượng Đế thấy thế cười ha hả: 
- Trẫm cứ băn khoăn mãi, thì ra cái con nhỏ này giở trò khôn khéo ở đây! 
Thỏa Nương cười thưa: 
- Nếu không có mấy cánh hoa đào này, thì chúa thượng đã đang vui thú ở đâu rồi, đâu có nghĩ tới theo thuyền ngược dòng mà đi tìm tiện thiếp? 
Dượng Đế cười: 
- Cái con bé dối trá này, còn đứng đó để làm mãi việc này sao, mau lên thuyền đi! 
Thỏa Nương xuống thuyền, Tần phu nhân hỏi: 
- Những chuyện khác chẳng hỏi làm gì. Nhưng hoa đào thì lấy ở đâu ra vậy? 
Thỏa Nương cười đáp: 
- Ngay từ tháng ba, thiếp hái trên cây, cho vào hộp sáp ong, cố giữ cho mãi đến nay vẫn tươi như mới hái xong. 




Dượng Đế căn dặn:
 
- Giữ được hoa như thế này cũng là chuyện hiếm thấy. Nhưng khanh tuổi còn ít, lại chẳng đọc sách biết chữ gì cả, thì làm sao mà hiểu được những chuyện xưa vì hoa đào trôi theo dòng suối của Lưu Thần, Nguyễn Triệu, mà biết cả việc vứt hồ ma xuống ngòi như thế? 
Thỏa Nương lại khẽ cười thưa: 
- Thiếp phận con gái, làm sao mà được đọc nhiều sách cho dược, nhưng chuyện hoa đào này cũng đã từng đọc qua. 
Tần phu nhân thưa với Dượng Đế: 
- Thiếp theo "Hán thư", rồi "Tần thư", thấy có ít chuyện mưu mô, mánh khóe, chuyện nào cũng có thể nhặt ra. Nhưng đến thời Tần trở đi, với những "Tần sử" các loại, toàn là kẻ gian trá thì làm chủ thiên hạ, chẳng có thể thấy được điều gì hay điều gì tốt. Ngay như chuyện hoa đào này cũng chỉ là chuyện ảo tưởng khó tin. 
Dượng Đế cười đáp: 
- Cũng có chuyện như vậy sao? Trẫm xem "Thủy Hoàng bản kỷ", thấy ông ta tuần du khắp thiên hạ, phong thần cho núi Thái Sơn oai danh lừng lẫy một thời. Chẳng cần phải nói những việc khác, chỉ riêng một dãy Vạn lý trường thành, tới nay đã bảy tám trăm năm rồi, mà bọn giặc Hồ vẫn không thể ngang nhiên kéo vào Trung Nguyên, cũng là do công bảo vệ của thành này vậy. 
Tần phu nhân thưa: 
- Từ nhà Tần tới nay đã bảy tám trăm năm, trường thành cũng đã nhiều đoạn hư hoại, nếu không tu sửa kịp thời, sợ để họa cho đời sau. 
Dượng Đế đáp: 
- Thì rõ ràng là thế rồi. Đời trẫm đây không làm, thì còn ai làm vào đó nữa, chẳng chóng thì chầy, trẫm sẽ sai người làm việc này. "Tần sử” còn có chỗ nói về việc Thủy Hoàng xây A Phòng cung nữa, cũng là một đoạn rất thú, có thể xem là một việc làm của bậc chúa hào kiệt một thời. Quyển sách này hiện đang để ở Cảnh Minh. Chúng ta hãy tới đó lấy xem. 

Đi qua đê Long Lân, xuôi về phía nam một đoạn là viện Cảnh Minh. Dượng Đế, Tần phu nhân cùng Thỏa Nương đều lên bờ, đến cửa viện, thấy xe loan dừng bên ngoài, thì ra Tiêu Hậu thấy tiết trời ấm ấp, biết rõ viện Cảnh Minh rộng rãi, thoáng mát, liền đem theo Viên Tử Yên đến đó cho mát mẻ, hiện đang đánh cờ với chủ nhân Lương phu nhân, Dượng Đế vội vàng đi vào, không cho cung nữ báo trước, Tần phu nhân cũng lặng lẽ theo sau, thấy sau rèm, tiếng quân cờ gõ lách cách. Vào đến sân, Tử Yên đứng sau rèm nhìn thấy, vội thưa: 
- Hoàng hậu? Chúa thượng tới! 
Tiêu Hậu vội cùng Lương phu nhân đứng dậy cùng với Tử Yên ra đón. Dượng Đế cười: 
- Hoàng hậu sao không cho trẫm biết, riêng mình tới đây thế này? 
Tiêu Hậu thưa: 
- Bệ hạ không thấy chiêu chí (1) của thiếp sao? 




1 Chiêu Chí: giấy mời của hoàng hậu. Ít khi truyền khỏi cung cấm. 
Tần phu nhân vội hỏi: 
- Hoàng hậu, chiêu chí viết gì thế? 
Tiêu Hậu nói:  
- Thiếp thấy tối qua bệ hạ không vào cung, nên viết chiêu chí, sai cung nữ đi khắp các viện, tìm gặp bệ hạ. 
Dượng Đế hỏi: 
- Hoàng hậu viết những gì trên chiêu chí vậy? 
Tiêu Hậu thưa: 
- Thiếp chỉ viết rằng: Hoàng hậu không cẩn thận, đánh mất một thiên tử rất phong lưu, trên người không có một vật gì khác. Nếu ai bắt được, xin thưởng năm trăm lạng bạc. Kẻ báo tin sẽ thường năm mươi lạng. 
Dượng Đế cười ha hả: 
- Trẫm mà không đáng được một nghìn lạng, chỉ có năm trăm lạng thôi sao? 
Mọi người cả cười. Dượng Đế ngồi chính giữa, xem kỹ bàn cờ rồi hỏi: 
- Các khanh ai thua ai được rồi? 
Lương phu nhân thưa: 
- Chưa được ván nào cả. Đang đánh dở ván đầu thì bệ hạ tới. 
Dượng Đế lại tiếp: 
- Quân bên trắng có lẽ thua. Hoàng hậu cứ nhìn kỹ phía góc trái, điểm nhãn một con của bên trắng, thì nhất định bên trắng sẽ chết thôi! 
Tiêu Hậu cười: 
- Điểm nhãn là tài của bệ hạ, chỉ sợ bệ hạ không chịu làm, mà dù có làm thì chưa chắc đã thắng được người vậy. 
Chính lúc đang cười cười nói nói, thì thấy bên ngoài có tiếng đàn tiếng sáo ở đâu vẳng tới. Tử Yên lên tiếng hỏi: 
- Tiếng sáo ở đâu không biết? 
Dượng Đế nghiêng tai nghe, một trận gió lật màn, đưa mùi thơm hoa sen phảng phất khắp viện. Tiêu Hậu hỏi: 
- Ở đâu mà lại có hương sen thế này? 
Dượng Đế vội vén rèm lên, cùng Tiêu Hậu bước ra ngoài, thì thấy hai ba chục chiếc thuyền nhỏ, chở đầy hoa sen, lô nhô trên thuyền các cung nữ ngồi xen kẽ đang hát điệu "Thái liên khúc". Nhã 
Nương, Quý Nhi, người thổi sáo, người hát họa theo. Các cung phi mới vừa từ Bắc Hải về, thấy trời gần chiều gió thổi nhẹ, nên rủ nhau dong thuyền hái sen, Dượng Đế liền vui mừng khen: 
- Bọn cung nữ này, thật là vui vẻ đáng yêu! 
Tiêu Hậu thưa: 
- Đều nhờ công giáo dưỡng của chúa thượng? 
Dượng Đế đáp: 
- Đó chính vì hoàng hậu nhu mì không biết ghen! 
Các thuyền con nhận ra Dượng Đế trên thềm viện Cảnh Minh, đều chưa chịu rẽ vào ngồi vội, tranh nhau ghé vào bờ, vẫy hoa vẫy khăn, đi lại trên bờ hồ, muôn tía ngàn hồng, có người bị nước tung ướt đẫm. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu hớn hở vẫy đáp. Lương phu nhân sai bày tiệc rượu ngay bên thềm, mời Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ngồi, Tần phu nhân, Lương phu nhân cùng Viên Quý Nhi đứng hầu bên. Dượng Đế cho gọi tất cả mỹ nhân, cung nữ lên điện, trải ra mười chiếc chiếu rộng trên thềm, bày những bàn nhỏ thấp chính giữa, trên la liệt những quả phẩm, các mỹ nhân ngồi vây xung quanh, thưởng mỗi người ba chén rượu, rồi sau đó cùng nhau hát múa đàn sáo. 
Dượng Đế thấy cả viện gió hòa mát mẻ, chẳng hề có một chút nóng nực của mùa hè, nhìn mặt Tiêu Hậu cùng các phi tần cung nữ, ai nấy đều vui vẻ, mặt hoa da phấn chói ngời, nói cười hớn hở, nên lòng thư thái, uống tràn hết chén này đến chén khác, chẳng mấy lúc đã say khướt, bèn đứng dậy dắt Tiêu Hậu, vào phòng Bích Sa nghỉ ngơi. Ai nấy cũng đứng dậy, tản khắp các phía. 
Ngủ được một giấc dài, Tiêu Hậu trở dậy, thấy Dượng Đế vẫn còn mê mệt, lặng lẽ ngồi dậy, cùng với Lương phu nhân, Viên Quý Nhi, rửa ráy, trang điểm. Đến khoảng giờ thìn (1), thì thấy trong phòng Bích Sa, Dượng Đế đập chân đập tay vật vã thình thình, Tiêu Hậu cùng Lương phu nhân, Viên Quý Nhi vội chạy vào, thấy Dượng Đế vẫn như ngủ, như hôn mê bất tỉnh, hai tay ôm chặt lấy đầu, miệng không ngừng hét lớn: 
1 Giờ thìn: từ bảy giờ đến chín giờ. 
- Đánh chết ta mất, đánh chết ta mất thôi! 
Tiêu Hậu vội vàng, truyền chỉ ý, tuyên triệu ngay Thái y viện Sào Nguyên Phương vào Tây Uyển chẩn mạch, dùng thang an thần, chỉ thống. Tiêu Hậu thân đi sắc thuốc, nhẹ nhàng, cẩn thận bưng lên dâng Dượng Đế uống. Lúc này Dượng Đế vẫn chưa tỉnh, các viện biết tin, vội vàng chạy đến viện Cảnh Minh thăm hỏi. Ai nấy xúm lại trước long sàng, một đêm qua đi, mà Dượng Đế vẫn chưa khỏi cơn mê . 
Chu Quý Nhi thấy vậy, ăn uống cũng không, ngồi ngay cạnh phòng Bích Sa khóc lóc không lúc nào nguôi. Hàn Tuấn Nga nói với Quý Nhi: 
- Cái con bé chua ngoa này, bệnh tình chúa thượng thế này, mày có muốn chết thay cũng chẳng xong, sao mà lại ra đến nỗi này? 
Quý Nhi chùi nước mắt đáp: 
- Xin các chị hãy bình tâm mà nghe tôi thưa: Đại phàm làm thân đàn bà con gái, đã là một sự không may rồi, nay lại bỏ cha mẹ, bỏ cả họ hàng thân thích, để được vào đây, những tưởng hồng nhan bạc phận, chẳng khác gì cỏ mục, vùi chết ở nơi ngòi rãnh. Ai ngờ gặp được chúa thượng nhân đức, khiến chúng ta ngày ngày được thấy thiên nhan ca hát vui vẻ suốt sáng chiều. Đừng kể rằng chúng ta đều là bậc quốc sắc có một không hai cả, cứ việc uốn éo cho đẹp, là được sủng ái. Hãy cứ nghĩ nếu gặp một vị hoàng đế hung bạo, chẳng phải chỉ chuyện khinh rẻ, lăng nhục, cũng là chuyện chết già ở lãnh cung. Biết thương hoa tiếc ngọc, mấy ai được như chúa thượng ta đây tình sâu nghĩa dày, ai ai cũng có chỗ yên ổn vui vẻ. Sở dĩ có chuyện Hầu phu nhân giận phận mà quyên sinh, Vương Nghĩa cảm ơn vua mà quên cả thân mình, chính là vì chúa thượng đã làm được lòng người cảm ơn nhớ nghĩa. Không ngờ nay chúa thượng mắc bệnh này, xem ra mười phần trầm trọng, nói chẳng may qua đời, chúng ta sẽ ra sao. Nếu không làm đầy tớ cho một kẻ chết vợ, thì cũng đến làm kẻ tay chân cho một mụ già ngang ngược mà thôi, chứ hơn gì nữa? 
Mọi chuyện sẽ ra sao, mọi người sẽ ra sao, mình sẽ ra sao, nói đến chuyện thương tâm này, các cung nữ đều thổn thức, giọt ngắn giọt dài. Viên Bảo Nhi nói: 
- Em tưởng người ta sinh ra trên đời này, trước vì hai đấng sinh thành mà quên thân mình, chúng ta thế này coi như là xong. Nhưng ơn của quân vương thì khó mà quên được. Chi bằng đêm nay ta hãy làm lễ tế cáo thần linh, tình nguyện giảm tuổi thọ của mỗi chúng ta mười năm, rồi mỗi người đốt một nén tâm hương, may ra có động được lòng trời, chuyển hung thành cát, để vạn tuế khỏi bệnh. Cũng không uổng tấm lòng của vạn tuế lâu nay thương yêu chị em chúng ta vậy. 
Các mỹ nhân nghe Bảo Nhi nói thế, đều nhất tề tán thành: 
- Cái con bé nhà họ Viên này nói hay lắm! 
Rồi kéo nhau vào sân, bày biện hương án. 
Quý Nhi trong lòng nghĩ: "Chúng ta đều là lòng thành mà cầu lễ. Nhưng làm sao mà cảm được lòng trời, đợi trời hiển ứng. Ta là phận gái, nhớ ngày trước có truyện người xẻo thịt ở cánh tay để phụng dưỡng cha mẹ, mong cha mẹ được dài lâu tuổi trời. Thân ta nay đã thuộc thánh thượng, dẫu có chết cũng chẳng tiếc gì, nói gì đến một miếng thịt nhỏ." Nghĩ như thế rồi, liền giấu sẵn một con dao trong ống tay áo, đi ra sân. Lúc này, Tuấn Nga, Liễu Nương, Thỏa Nương, Nhã Nương cùng với Bảo Nhi, Quý Nhi quỳ lạy trước bàn thờ, ai nấy tự xưng tên tuổi, sau kể rõ ngọn nguồn, nguyện xin an khang cho thánh thượng, bớt tuổi đời của mỗi người. Lễ nguyện xong, đứng lên, định dọn dẹp án thư, lễ vật, thì thấy Quý Nhi hai mắt đầm đìa, kéo ống tay áo lên, lộ rõ bắp tay trắng muốt như ngọc bạch, tay phải cầm dao, cắt một miếng thịt ở bắp tay trái, miếng thịt lìa hẳn ra, máu tươi lênh láng, đặt ngay vào một chiếc đĩa bạc. Mọi người hoảng hốt. Nhã Nương dốc vội một cái lọ nhỏ, đổ ra một thứ bột phấn bên trong, rắc lên vết thương rồi dùng lụa buộc chặt lại. 
Chính là: 
Trai mày râu vô ích 
Gái son phấn hữu tình 
Ngày nay cắt thịt quên mình 
Ngày sau tuẫn quốc sử xanh chử đề. 

Quý Nhi lấy miếng thịt gói kỹ lại, giấu trong người, đi vào trong viện, gặp lúc Tiêu Hậu sắc nước thuốc thứ hai. Quý Nhi làm đỡ Tiêu Hậu, lén bỏ miếng thịt vào siêu, cứ thế đun mãi kỳ được, rót ra bưng vào Tiêu Hậu đỡ lấy cho Dượng Đế uống. Chẳng bao lâu, Dượng Đế dần dần tỉnh lại, đã nhận ra Tiêu Hậu cùng phu nhân, mỹ nhân, cất tiếng: 
- Trẫm thật khổ vô cùng! Nghĩ như chẳng còn được gặp lại hoàng hậu cùng mọi người nữa? 
Tiêu Hậu hỏi: 
- Bệ hạ uống nhiều rượu rồi đi ngủ, tại sao lại kêu đau như vậy? 
Dượng Đế đáp: 
- Trẫm uống say, ngủ mê mệt, mơ thấy một võ sĩ tướng mạo rất dữ tợn, cầm một cái côn lớn, chẳng kể gì, cứ nhằm giữa trán trẫm mà đánh, đánh đến nỗi trẫm mê man không biết gì nữa, đầu như muốn vỡ toác đau không thể chịu nổi. 
Tiêu Hậu cùng các phu nhân an ủi một hồi. Bá quan văn võ sau đó nghe tin, người người đều vào Tây Uyển vấn an, ai nấy đều biết chuyện trong mộng bị đánh vào đầu của Dượng Đế. 
Lúc này Địch Khứ Tà cũng đã tới Đông Kinh, nghe chuyện bệnh tình của Dượng Đế, trong lòng xiết đổi bàng hoàng, càng tin vào chuyện ma quỷ, thần tiên, càng thấy chán ngán cõi trần ô trọc, quyết vào dãy Chung Nam, tìm tiên học đạo. 
Chính là: 
Quỷ thần dạy rất tinh thâm 
Rõ ràng danh lợi là mầm oan khiên.
 
*** 
Lại nói chuyện Ngu Thế Cơ, nhân hai tháng trước, Dượng Đế thấy trong Tây Uyển, ngự đạo vừa chật hẹp vừa gồ ghề, lệnh cho Thế Cơ tu bổ. Thế Cơ lĩnh mệnh, mới trên một tháng, ngự đạo đã được mở rộng, bằng phẳng, lại còn xây thêm một tòa Trú Tất đình, một cầu Nghênh Tiên, các đồ nghi vệ, nghi trượng đều được sắm mới, hoặc tu bổ lại, chờ khỏi bệnh là tâu Dượng Đế ngự lãm. Mấy ngày sau, bệnh vừa khỏi, Dượng Đế ngồi yến tiệc với Tiêu Hậu, nghe nói ngự đạo đã sửa sang xong, nghi trượng cũng chỉnh tề, Dượng Đế liền ngự đại điện, nhận lời mừng của trăm quan, lệnh vời các quan vào ban yến tiệc ở Tây Uyển. 
Dượng Đế lên xe rồng bát bảo, tiền hô hậu ủng, nghi trượng lấp lánh, trăm quan cưỡi ngựa theo sau, thật đúng là hoa khoe sắc thắm, liễu phất phơ cờ chào đón. Dượng Đế truyền chỉ, ban ngự yến dưới thuyền. Dượng Đế bước lên thuyền rồng, trăm quan lên thuyền phượng. Trước tiên là ra Bắc Hải dạo một vòng, sau đó chơi Ngũ Hồ. Dượng Đế uống kỳ say, rồi lệnh cho các quan văn làm thơ để ghi lại cuộc hội họp quân thần vui vẻ. Các quan như Hàn lâm viện đại học sĩ Ngu Thế Cơ, Tư lệ đại nhân phu Tiết Đao Hành, Quang Lộc đại phu Ngưu Hoàng, đều có bài thơ hoặc từ dâng lên, Dượng Đế xem qua, khen ngợi rồi ban cho mỗi người ba chén rượu tự mình uống chúc mừng một chén lớn, rồi phán: 
- Chư khanh đều có giai tác, chẳng lẽ trẫm lại không có bài nào chăng? 
Bèn viết ngay tám bài từ "Vịnh Giang Nam", vịnh tám cảnh đẹp trên hồ. 






Trăng trên hồ: 
Trăng trên hồ sáng, sáng nhà tiên 
Đệm gối màn chăn rực ánh lên 
Từng lũ rắn vàng bơi lấp lánh 
Bè thần trên sóng nổi lênh đênh 
Mây xa màu sắc lung linh 
Sương che vầng nhỏ, gió cành quế rung 
Chén mời tình ý não nùng... 

Liễu trên hồ: 
Liễu trên hồ nên khói cuốn quanh 
Mầm nhú trông ra bỗng giật mình 
Trận gió lẳng lơ đùa lá biếc 
Làn mưa lất phất tắm bao cành 
Rợp cầu bóng rũ mành mành 
Chiều xuân khiến khách bộ hành ngẩn ngơ 
Tuyết đâu nhè nhẹ bay tơ. . . 

Tuyết trên hồ: 
Tuyết trên hồ sợ gió tây lùa 
Từng cảnh chen vào ngõ trúc thưa 
Trắng muốt hoa rơi đè sóng biếc 
Muôn vàn ngọc trắng liễu đung đưa 
Đất trời một sắc xa mờ 
Vườn ai chiều bỗng lững lờ sênh ca 
Hơi men ngấm đã ngà ngà... 

Cỏ trên hồ: 
Cỏ trên hồ mượt bến xa xa 
Chẳng vướng chân nàng mãi múa ca 
Êm ái ngả lưng hơn đệm gấm 
Thẫn thờ nàng đợi khách đường xa 
Tình chàng ý thiếp la đà 
Xa xôi giữ chặt tình ta ngại ngần 
Đề thơ lòng những phân vân... 

Hoa trên hồ: 
Hoa trên hồ đã rộn đâm bông 

Đỏ rực bên trời át ráng hồng 
Muôn cánh mưa nhuần phơi vẻ ngọc 
Nhị tươi nắng ấm ngậm oai rồng 
Thẫn thờ ngồi tựa bên song 
Xuân lành lạnh, tóc cài vòng hoa xuân 
Yêu hoa sao lại tần ngần... 

Thiếu nữ trên hồ: 
Thiếu nữ trên hồ dáng thanh thanh 
Thuyền lướt bên sen cất giọng tình 
Đàn địch đêm ngày ai đó nhỉ 
Chiều sương cửa vắng nhẹ buông mành 
Trò chơi: đấu cỏ, đạp thanh 
Xuân thiên, xuân cảnh, xuân tình bấy nhiêu 
Dưới hiên lẳng lặng trông theo... 

Rượu trên hồ: 
Rượu trên hồ trợ hứng truy hoan 
Đàn phách du dương khéo ngự làn 
Trên chén quỳnh tương dừng nghịu nhắp 
Tay tiên dìu dắt mắt ưa nhìn 
Cảnh hồ chân giả lạ quen 
Gom thu trời đất vào miền làng say 
Đế vương thanh nhã là đây... 

Nước trên hồ: 
Nước trên hồ chảy lượn vườn tiên 
Say bóng chiều thu cây cỏ chen 
Hương thoảng theo dòng, dòng gợn sóng 
Bèo trôi theo gió, cá vờn sen 
Nhịp nhàng vung mái chèo lan 
Bóng chìm, bóng nổi cùng sang non Bồng 
Nước non, non nước trập trùng... 


Dượng Đế làm xong, quần thần ca ngợi một hồi, mọi người lần lượt chúc mừng, Dượng Đế cùng trăm quan lại say một phen nữa, rồi mới bỏ thuyền lên cạn. Quân thần tạ ơn, lại quay ra về theo lối hoa dương liễu. Dượng Đế lên xe rồng về cung. Tiêu Hậu đón vào, hỏi: 
- Hôm nay bệ hạ ban yến tiệc cho bách quan, có vui không? 
Dượng Đế đáp: 
- Hôm nay yến tiệc vui vẻ lắm! 
Rồi đem thơ của quần thần dâng, cùng những bài từ của mình vừa làm cho Tiêu Hậu xem. Tiêu Hậu bàn: 
- Đêm nay trăng thu đang dịp sáng, thật nên nghĩ chuyện mua vui đúng hơn cả là nên lên thuyền xem trăng nước đua tài, nếu không cũng nên tìm hoa hỏi liễu để khỏi phụ lòng trời đất. 
Dượng Đế đáp: 
- Hiện nay ngự đạo đã mở rộng, lại mới làm thêm Trú Tất đình, cầu Nghênh Tiên, qua khỏi cầu là hiên Xướng Tình dạo nọ, những cảnh đó mà xem trong dịp này cũng thú vị đấy ! 
Tiêu Hậu đáp: 
- Nếu như vậy, ngày mai thiếp xin theo hầu chúa thượng, đi xem một lượt. 
Dượng Đế nói: 
- Nếu Tiêu Hậu cùng đi, thì không thể quá sơ sài. Ngày mai chờ lúc trăng thanh gió mát, nên làm một cuộc du ngoạn đêm trăng, thì tha hồ mà thích chí. 
Tiêu Hậu bàn: 
- Nếu đã làm thế, thì các cung nữ phi tần, ai chưa được sang Tây Uyển, đều cho sang du ngoạn một phen. 
Dượng Đế đáp: 
- Như thế cũng được. Ngày mai triệu Ngự lâm quân, đem ngựa tới đây cho mọi người vừa cưỡi ngựa vừa đàn hát, trẫm cùng hoàng hậu đi trên đường ngắm trăng. 
Tiêu Hậu mừng rỡ: 
- Như thế thì hay lắm! 
Dượng Đế tiếp: 
- Trên ngựa mà ca hát thì rất tuyệt rồi. Nhưng phải có những bài thơ mới, phổ vào sênh phách, đàn sáo, mới khỏi phụ cảnh tình. 
Tiêu Hậu lại bàn: 
- Bệ hạ vẫn nổi tiếng tài hoa, sao không ngự chế vài chương, để thiếp cho cung nữ tập suốt đêm nay, kịp tối mai cho thêm đẹp cuộc du ngoạn. 
Dượng Đế bằng lòng: 
- Hoàng hậu nói phải đấy. Chờ trẫm soạn vài đoạn vậy. 
Thế là vừa uống rượu, vừa vẩy bút một lúc, Dượng Đế đã viết xong bài
 "Thanh dạ du khúc”: 
Hơi thu trùm khắp Lạc Dương 
Một trời mây nước mơ màng liền nhau 
Ngân Hà một dãy làu làu 
Giữa ngàn cây bỗng trên đầu thấy trăng 
Rãi vàng cung điện từng từng 
Đêm dài phẳng lặng, bụi trần sạch tinh 
Xe loan tuấn mã rập rình 
Vườn tiên Vương mẫu du hành vui sao! 
Mép đường hoa cỏ đón chào 
Tiếng tơ tiếng trúc ngọt ngào gần xa 
Thử hỏi năm, thử hỏi ba 
Mâý ai biết hết cao xa rộng dài 
Triều Tùy sử phép muôn đời 
Hậu, phi, cung nữ sắc tài mười phân 
Phong lan thiên tử nghìn lần... 

Dượng Đế làm xong, đưa Tiêu Hậu xem, Tiêu Hậu đọc một lần, vội khen: 
- Bệ hạ thật hào hoa phong nhã, ngọc rải châu phun, các bậc đế vương từ xưa tới nay, thật không ai bì kịp! 
Rồi gọi những cung nữ giỏi đàn hát, phải tập suốt đêm cho thuộc, kịp tới ngày mai sang chơi Tây Uyển. Dượng Đế lại sai nội giám, truyền cho Chu Quý Nhi ở viện Nghênh Huy, cũng phải tập cho các mỹ nhân hát. Cắt đặt xong xuôi, mới cùng Tiêu Hậu đi nghỉ. 
Chính là: 

Vua hư chỉ thích vui 
Vợ hư chỉ thích chơi 
Dân dân nước nước tơi bời 
Tiệc tùng ca hát đến đời nào thôi?


Nguồn maxreading.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved