Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

6 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 97,98

HỒI 97
Đạt Hề Doanh Doanh chắp mối tình xưa,
Mai Phi thái tần lại về cung cũ

Từ rằng: 
Tình duyên chưa dứt 
Đừng bảo biệt ly nhiều 
Mà hoan hội ít 
Không gió sớm mưa nhiều 
Lẳng lơ đan dệt 
Khéo nối lại lời nguyền thuở trước 
Biết bao ngọc nát châu chìm 
Ai ngờ hương cũ lại tìm về đây 
Cành mai sắc trắng nét gầy 
Đoan trang riêng chiếm những ngày cuối đông. 
Theo điệu "Trường mệnh nữ" 

Đại phàm tình người, ai mà chẳng ghét chia ly thích hội họp, nhất lại là trong chuyện yêu đương nam nữ. Nhưng cũng lại bởi sự thể bó buộc, không thể nào chỉ có hội ngộ, không có chia ly. Có khi tạm phải rời xa để rồi tụ họp, hoặc là mãi mãi chia lìa rồi mới có xum vầy. Hoặc có khi có thể chịu đựng chuyện sinh ly cũng còn hơn phải tử biệt. Đối với việc lìa xa mãi mà sau lại gặp gỡ, cũng chẳng khác nào từ cõi chết mà lại được trở về. Điều này là có ý trời ở bên trong qua những đổi thay đó mà thử thách tình người, thấy rõ cái còn cái mất, cái giữ cái buông. Hãy thử xem như phường liễu ngõ hoa tường, cũng có khi vẫn giữ được chữ tình chung không hề mai một, để rồi cuối cùng đoàn viên. Lại thêm nếu là bậc phi tần ở ngôi tôn quý, trong cơn hoạn nạn, cuối cùng không đến nỗi hại thân, vẫn giữ được chữ tiết, trở về với chủ cũ, lại càng trân trọng biết bao. Nói chi đến kẻ ngày thường cậy mình được sủng ái nuôi lòng ghét ghen, lúc gặp biến đã chẳng giữ được thân mình, chẳng thể nào so được với kẻ bị ghen ghét, nay lại nguyên trở về ngồi cạnh ngôi chí tôn. Âu cũng là một sự khoái ý vậy?

***
Hãy tiếp chuyện Đường Túc Tông nghe tin Đông Kinh báo tin thắng trận, liền sai ngay Thái tử thái sư Vi Kiến Tố vào Tây Thục tâu lên thượng hoàng, xin thượng hoàng hồi loan. Sau đó lại sai hàn lâm học sĩ Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh đi theo ngay để đón xa giá. 


Tần Quốc Trinh tâu rằng Đông Kinh mới khôi phục, cũng nên sai quan tới đó mang chiếu ủy lạo tướng sĩ, vỗ yên trăm họ. Túc Tông nghe theo, liền sai trung sứ Đạm Đình Giao cùng với Quốc Mô vào Thành Đô đón thượng hoàng. Đổi cho Quốc Trinh từ chức hàn lâm học sĩ chuyển sang làm Đông Kinh Tuyên úy sứ, lại sai thêm Vũ bộ viên ngoại lang La Thái làm Tuyên úy phó sứ, cùng đem chiếu tới Đông Kinh, ngay ngày hôm sau cả hai lên đường. 


La Thái vốn dòng dõi cố tướng quân La Thành, với Quốc Trinh chính là anh em họ ngoại vậy. Cả hai được cùng lên đường, rất là vừa ý. La Thái nói với Quốc Trinh: 
- Thuở xưa cao tổ tiểu đệ là Vũ Nghị Công có hai phu nhân, một vị họ Đậu, một vị họ Hoa. Mỗi vị đều sinh một con trai. Người em trai con bà họ Hoa cũng lại có một con trai, truyền mãi đến đời ông nội của tiểu đệ không có con trai mà chỉ một người con gái, tên lúc nhỏ là Tố Cô, lấy chồng khá xa là nhà họ Bạch làm thứ sử quê ở huyện Lan Dương, Hà Nam, không có con, chồng lại mất sớm, giữ chí mà không tái giá, rất thích chuyện tu tiên học đạo. May được gặp đạo sư La Công Viễn với họ La nhà tiểu đệ vốn cùng họ, nhân kính trọng Tố Cô là hàng tiết phụ, biếu một viên đơn sa, uống vào chẳng bệnh tật gì mà lại sống lâu. Chuyện này xảy ra cách đây đã hơn sáu mươi năm, sau đó tìm đến tu trong am Tu Chân Quán ở dãy núi Bạch Vân ngay ở vùng đó, được dân chúng rất tôn kính. Từ ngày Đông Kinh loạn lạc, không thấy có tin tức gì, thư từ gì cả. Nay tiểu đệ đi chuyến này, công việc xong xuôi, cũng muốn tìm thăm xem sao. 
Quốc Trinh cũng nói: 
- Đạo cô là cô của hiền đệ, thì cũng chính là cô ngoại tiểu đệ. Từ nhỏ, tiểu đệ đã được nghe cô góa thủ tiết, nhưng chưa biết gặp tiên tu đạo sau này. Mai kia tới đó, anh em ta cùng tới thăm xem sao! 
Đường dài rong ruổi, chẳng mấy ngày đã tới Đông Kinh, các quan ra đón chiếu thư, vào thành tuyên đọc.
Chiếu rằng: 


"Tây Kinh thắng lớn, tiếp đến Đông Kinh, khen thay tướng soái mưu thần, lại được quân binh hết sức. Cho nên nước nhà dựng lại, đều nhờ công sức của các khanh cả đó vậy. 
Nay trẫm đã viết biểu tâu lên thượng hoàng, luận công để ban thưởng, vỗ về tướng quân, an ủi các quận huyện. Các vùng khi thu phục thành trì, nhớ trích một nửa tiền của ở kho tàng để khao thưởng quân sĩ, tuyệt nhiên không được sách nhiễu trăm họ. 
Trẫm nghe biết ở Cấp Quận, một ẩn sĩ tên là Nhân Tế, cùng một quan tư nghiệp Quốc Tử Giám là Tô Nguyên Minh, chính lúc Đông Kinh rơi vào tay giặc, hai người này không chịu khuất thân thờ giặc, tiết tháo rất đáng khen. Vậy xuống chiếu, đặc cử Nhân Tế làm bí thư lang, Nguyên Minh làm khảo công lang, kiêm việc thảo chế cáo lập tức phải vào kinh nhận việc. 
Còn lũ Đạt Hề Tuân ba trăm tên quan viên theo hàng giặc thì giải ngay về kinh xét xử.” 


Nguyên Nhân Tế là người rất trung trực, ngay từ lúc An Lộc Sơn chưa làm phản, đã nghe tiếng, đem lễ vật đến mời về làm thư ký. Nhân Tế cũng biết Lộc Sơn khác lòng, nên thác rằng mình bị bệnh cuồng, đóng cửa không chịu đi. Đến khi Lộc Sơn tạo nghịch, sai sứ giả cùng với hai vũ sĩ chuyên việc hành hình, cầm kiếm sắt mà tới triệu Nhân Tế ưỡn ngực chịu chém, không nói một lời, sứ giả cho rằng quả có điên thật, nên quay về phục mệnh, nhân đó mà thoát chết. 


Còn Tô Nguyên Minh, quê ở Hà Nam, bỏ quan về nhà, đến lúc loạn An Lộc Sơn gọi đến phong tước cao. Nguyên Minh cũng vịn cớ bệnh tật không nhận dù giặc nhiều lần đến ép buộc. Từ lâu Túc Tông đã được nghe gương tiết nghĩa của hai người, vì vậy trong tờ chiếu này đã nói ngay tới việc khen thưởng. Từ quân sĩ cho đến dân chúng nghe được chiếu, đều vui mừng tung hô: "Vạn tuế!". 


Lại nói chuyện Tần Quốc Trinh, cùng với La Thái, việc công xong xuôi, quay về công quán, nghỉ ngơi hai ngày, rồi rủ nhau đi thăm Tố Cô, tìm đường tới huyện Lan Dương, lại tới nhà quán địch nghỉ ngơi. 


Ngày hôm sau, hai người sắp sẵn lễ vật, thay mũ áo, dẹp bớt lũ tùy tùng, chỉ đem theo vài gia nhân, cưỡi ngựa đi vào núi Bạch Vân phía trước. Hỏi rõ thổ dân, quả nhiên trong vùng núi sâu thẳm có am Chân Tu quán, tên chữ là Tiểu Bồng Doanh, trong am có một lão tiết phụ tu hành, mọi người kính cẩn gọi là Bạch Tiên Cô. Thổ nhân còn nói thêm rằng: 
- Bạch Tiên Cô tuổi đã nhiều, ít khi chịu tiếp khách tới viếng thăm. Gần đây lại còn đóng cả cổng am không cho người thường vào. Hai vị quan nhân muốn tìm tới, chỉ sợ mất công. 
La Thái đáp: 
- Tiên Cô chính là cô của ta, nhất định không từ chối cho gặp đâu? 
Liền cùng Quốc Trinh, gia nhân ruổi ngựa vào núi, vượt đèo, lội suối mới tới được trước cửa am, xuống ngựa. Cửa am đóng chặt, gia nhân gõ nhẹ, hai ba lần, mới thấy một bà già, tóc bạc trắng bước ra, mở cửa mời vào, hỏi ngay: 
- Các ngài ở đâu đến. Đạo cô trụ trì ở đây tuổi nhiều, lại thêm ốm đau, chỉ đóng cửa tĩnh dưỡng, không tiếp khách thăm bao giờ, xin các vị hãy quay về thì hơn. 
La Thái giảng giải: 
- Ta không như các khách khứa đâu. Xin mời lão đạo cô thưa hộ cho một lời, ta họ La tên Thái, vốn ở Trường An, là cháu của Tiên Cô trụ trì ở đây, riêng tới thăm cô, nhất định Tiên Cô sẽ cho gặp mặt. 
Bà già nghe xưng là họ hàng với Tiên Cô, không dám từ chối, đành phải mời hai người vào nhà. Cảnh tượng trong am, thật quả là mười phần u nhã, có bài từ “Tây Giang Nguyệt" sau đây làm chứng: 


Lư hương thơm nức miếu thần 
Trang nghiêm tượng thánh giữa gian cao ngồi 
Hoành phi một bức chạy dài 
"Tiểu Bồng Danh " nét chữ ngời ngời soi 
Trước sân hạc trắng xếp đôi 
Một hàng tùng cổ xanh chồi hiên ngang 
Lặng im trống ngọc chuông vàng 
Tiên Cô tĩnh tọa đạo đàn phải chăng? 


Bà già cẩn thận đóng cổng am, rồi lặng lẽ vào trong thưa lại. 
Một lúc sau, ra nói có lệnh của Tiên Cô, mời khách vào thảo đường ngồi chờ, Tiên Cô sẽ ra sau. Lại một lát sau, nghe tiếng chuông gióng, Tiên Cô mặc một áo dài nửa lam nửa trắng hòa nhau, đầu đội khăn, chân đi dép bện bằng sợi móc, tay cầm phất trần, nhẹ nhàng bước ra, dung mạo rất thanh thoát, cử chỉ nhẹ nhàng, chẳng có dáng gì của một bà già đã hơn sáu mươi tuổi cả, quả là do sức thần đơn sa của La Công Viễn tiên sư vậy. 

Chính là : 
Son phấn thôi rồi buổi thiếu niên 
Chân tu lánh tục giải ưu phiền 
Xanh xanh mai tóc, thân khang kiện 
Mà rượu tiên đành kém thuốc tiên. 




La Thái cùng Quốc Trinh bước lên làm lễ ra mắt. Tiên Cô vội vàng đáp lễ, mời ngồi uống trà cùng La Thái hàn huyên một hồi. 
Tiên Cô chỉ tay về phía Quốc Trinh mà hỏi: 
- Vị khách này là ai vậy? 
La Thái đáp: 
- Đây chính là người bên ngoại của họ La ta ngày trước, chính là Tần Trạng nguyên, tên Quốc Trinh. 
Tiên Cô nói: 
- Nguyên là quan nhân họ Tần. 
Nói xong, nhắc đi nhắc lại chữ "Tần" như nghĩ ngợi điều gì. 
Quốc Trinh thưa: 
- Cháu vốn từ lâu đã nghe tiếng hiền thục của cô, chỉ giận chưa một lần bái kiến tôn nhan. Nay mới được gặp gỡ, trong cảnh núi sông cách trở này, như lại được thấy cảnh thoáng đãng vậy! Có gì đường đột, xin cô hãy tha tội. 
Nói rồi cả hai sai gia nhân mang lễ vật dâng lên. Tiên Cô nói: 
- Hai vị từ xa tới thăm, thế cũng đủ thấy trân trọng, cần gì phải có lễ vật thế này? 
Hai người thưa: 
- Chút lễ mọn không đủ giải bày lòng tôn kính, chỉ xin cô đừng khước từ. 
Tiên Cô hai ba lần nhún nhường, rồi mới nhận, nhân đó hỏi: 
- Hai vị nhân có việc gì mà lại tới vùng này vào lúc này? 
La Thái thưa: 
- Cả hai chúng cháu đều vâng lệnh làm khâm sai đem chiếu thư tới đây. Xin được hỏi cô những ngày loạn lạc vừa qua, ở đây có đáng ngại lắm không? 
Tiên Cô đáp: 
- Vùng này hẻo lánh, thuở trước La Công Viễn tiên sư đã từng ghi dấu nơi đây. Tiên sư có nói rằng đây là nơi Lưu Hầu Trương Tử Phòng đời nhà Hán tịch cốc tu luyện đạo tiên. Cho nên ở đây có thể qua mọi cơn binh lửa, cũng nhân hai vị đây đều là họ hàng thân thích, già này lại là bậc huynh trưởng, nên đừng ngại ngùng giữ lễ quá hãy cứ tự nhiên cho! 


Liền gọi đạo cô già, cùng mấy nữ đồng bày cơm chay, rồi mời cả hai vào phía sau xem cảnh. 


Thấy lan can khuất khúc, suối chảy quanh co từ trên sườn núi về phía sau, thật là mát mẻ, thanh tịnh. Đi qua một dãy viện các dài, gặp một con đường nhỏ, dẫn đến ba gian nhà nằm khuất hẳn một góc, cửa đóng kín, có cả khóa cẩn thận, chỉ thấy một cửa sổ, nhưng cũng có ván gỗ che kín. Hai người nhìn vào, nghĩ là phòng riêng tĩnh dưỡng của Tiên Cô. Đang đứng ngắm, thì bỗng thoảng một trận gió đưa mùi thơm của hoa mai, Quốc Trinh lên tiếng: 
- Ở đây có hoa mai sao? Nay đang giữa mùa đông sao lại có hoa mai được. Hay ở vùng này hoa mai nở sớm chăng? 
Tiên Cô lặng lẽ cười, đưa phất trần chỉ ba gian nhà trước mặt mà rằng: 
- Hương hoa mai là từ trong ba gian nhà này bay ra đấy? Nhưng không trồng ở trong ấy, cũng chẳng phải trồng ở ngoài này đâu? 
La Thái hỏi: 
- Thế thì thật lạ quá. Không phải là do trồng mà có, thì ở đâu ra? 
Quốc Trinh tiếp: 
- Trong nhà nếu có hoa mai, lại có thể xem được, thì xin cô cho được thấy hoa lạ! 
Tiên Cô đáp: 
- Trong nhà có người, không thể tự tiện vào được? 
Hai người đều vội hỏi: 
- Người nào thế? 
Tiên Cô đáp: 
- Nói ra thì dài lắm, xin mời ra ngoài này ngồi rồi thuật kỹ để hai vị cùng nghe. 
Ba người lại quay về trung đường ngồi. 
Tiên Cô cất lời: 
- Chuyện này thật là kỳ quái, nói ra thật khó tin. Từ trước đến giờ già này chưa từng kể cho ai nghe cả, nay chẳng phải giữ gìn nên xin kể hai vị nghe rõ. Già lúc mới tới đây. La Công Viễn tiên sư đã từng dặn rằng: "Ngày sau sẽ có hai người đàn bà đến đây tạm lánh, đệ tử hãy nhớ cho kỹ, hai người này không phải loại người tầm thường. Về sau họ có nơi nương thân xứng đáng". Mãi tới khi An Lộc Sơn phản nghịch, Tây Kinh thất thủ, thì bỗng thấy có một người đàn bà, tuổi khoảng ngoài ba mươi, trang điểm rất sơ sài, cưỡi một con lừa trắng, ruổi nhanh tới cổng am. 

Già này đang đi dạo trong sân, thấy khách đến có vẻ lạ kỳ, vội chạy ra giúp khách xuống lừa. Khách vừa chạm đất, con lừa bỗng bay lên trời, khoảng lưng trời hình như biến thành một con chim, bay về phía tây. Già hoảng hốt, hỏi khách là ai. Khách không chịu nói rõ lai lịch, chỉ đáp: "Thiếp họ Giang, là người của họ Lý, nhân bởi Tây Kinh bị giặc chiếm, mấy lần suýt chết. May gặp một tiên nữ đến cứu, lấy một con lừa trắng cho thiếp cưỡi, rồi bảo thiếp nhắm mắt lại, đừng để ý xung quanh. Thấy như người bay lên không chẳng bao lâu rơi xuống, đây chẳng hiểu là đâu. Chỉ nghe tiên nữ dặn rằng: nơi này có thể yên thân. Nay đã đến đây, chẳng hiểu thật giả ra sao nữa!". Già này luôn nhớ lời dặn của Tiên sư La Công Viễn, nghĩ rằng người đàn bà này không phải người thường, nên giữ lại cho ở trong nhà riêng phía sau đó. Không hề cho ai người ngoài biết cả, còn người trong amthì giấu hẳn, chẳng kể về chuyện con lừa trắng. Người này từ ngày ở nhà riêng đó, cũng chẳng bao giờ ra ngoài. Già từ đó đóng chặt cửa am, không có việc gì thì chẳng bao giờ mở. Chẳng ngờ mấy ngày sau, lại thấy có một người đàn bà còn trẻ đẹp, diện mạo rất đẹp, gõ cửa vào xin ở nhờ. Người đàn bà này vốn là họ hàng Đạt Hề Tuân tiết độ sứ Hà Nam, tiểu tự Doanh Doanh, xưa nay vẫn ở Tây Kinh, đã từng lấy chồng, cũng bởi chồng mới chết ở xa, cha mẹ lại đều chết cả, đành phải nương nhờ Đạt Hề Tuân, theo tới nhiệm sở. Không ngờ Đạt Hề Tuân chẳng chút nghĩa khí ra hàng giặc. Doanh Doanh biết ngay tai họa sẽ đến, liền quyết chí bỏ nhà xuất gia, nghe tin am này u tĩnh, thanh khiết, xin với Đạt Hề Tuân tới đây. Già này vẫn nhớ lời La Công Viễn tiên sư, có những hai người đàn bà đến trốn tránh, liền cho Doanh Doanh ở lại cùng với người đàn bà họ Giang kia ở trong ba gian vắng vẻ vừa rồi, cả hai đóng cửa ngồi nhàn, thức ăn đồ uống đều từ cửa sổ mà đưa vào. Hai tháng trước đây, La Công Viễn tiên sư cùng với một đạo hữu nữa, tên gọi là Diệp Pháp Thiện tôn sư, có dạo qua mấy gian nhà này. Họ Giang từ lâu có biết tiếng hai tôn sư tài đạo khác thường, liền cùng Doanh Doanh mở cửa bái yết. Diệp tôn sư liền ngửa mặt lên trời làm phép, lấy ngay xuống một cành hoa mai, đưa cho họ Giang mà nói: "Quý nhân vốn thích loài hoa này, nay xin một cành tặng quý nhân. Cành hoa này tươi quanh năm, lúc nào cũng hương thơm tỏa ngát, chẳng khi nào tàn. Mãi tới ngày quý nhân được trở về đất cũ lại gặp chúa xưa, hưởng phúc đủ đầy, thì hoa mới cùng tàn với kiếp người đã mãn vậy thôi!". Từ đó cành mai này luôn được cắm trong bình ở ba gian nhà đó, hương vẫn tỏa ngát mãi đến giờ. Gần đây hương lại càng bay xa, càng thơm hơn nhiều. Các vị thấy lạ lùng chưa? 
La Thái, Quốc Trinh đều không giấu nổi kinh ngạc, bàng hoàng: 
- Tất cả chuyện này đều thật lạ lùng! 
Nhân đó hỏi: 
- Thếhai vị tôn sư thấy Doanh Doanh mà không cho vật gì cả sao? 
Tố Cô đáp: 
- Già này đã kể hết đâu. Lúc ấy La Công Viễn tiên sư lấy bút mực, đề tám câu thơ ngũ ngôn luật, đưa cho Doanh Doanh mà báo rằng: "Tương lai của phu nhân cũng tốt đẹp, đều được ghi rõ trong bài thơ này. Bao giờ phu nhân có được cuộc gặp gỡ thì cũng là lúc Giang Quý nhân được quay về nơi cũ. Nói xong, cả hai tiên sư đều phất áo mà đi ngay. 
Quốc Trinh lại hỏi: 
- Tám câu thơ thế nào, chúng cháu có thể xem một chút chăng! 
Tiên Cô đáp: 
- Thủ bút của tiên sư, hai người này quý lắm, chẳng cho ai xem cả đâu. Nhưng bài thơ thì già này thuộc. Để già đọc rồi hai vị thử đoán xem sao nhé! Bài thơ như thế này: 


Tránh đời không tránh Tần 
Người Tần mà rất thân 
Giang sơn khéo xoay chuyển 
Phong cảnh giả thành chân . 
Thấy rau La rau Thái 
Hái mặt sóng ngọn Tần 
Chúa tôi mừng tái ngộ 
Duyên nợ xe nên gần. 


Hai người lắng nghe kỹ, đều trầm ngâm nghĩ ngợi, Quốc Trinh cười nói: 
- Cháu họ Tần, nên hình như hai câu đầu nói về cháu thì phải. Nếu không thì sao nói chuyện tránh loạn đời Tần ngày xưa mà lại tiếp là "Người Tần rất thân". 
Tiên Cô đáp: 
- Lại có thế nữa sao! Già này vừa nghe những lời của Tần quan nhân, mới sực nhớ ra rằng, lúc ấy Doanh Doanh xem mấy câu thơ này, có nói riêng với già rằng, hồi ở kinh sư, có một vị triều quan họ Tần, đã từng cùng mình tính chuyện hôn nhân; nay xem mấy câu thơ của tôn sư La Công Viễn hoặc giả sau này được đoàn viên chăng. Những câu nói già còn nhớ kỹ, không ngờ hôm nay lại có vị quan nhân họ Tần tới đây! 
La Thái lại thêm: 
- Điều này lại càng lạ hơn nữa. Nay các quan trong triều, mà mang họ Tần, chỉ có hai anh em Tần hiền huynh đây là danh tiếng đâu đâu cũng nghe. Chẳng biết thuở xưa đã từng có cuộc gặp gỡ nào với họ Đạt Hề chưa? 
Quốc Trinh trầm ngâm một hồi, rồi cất tiếng rằng: 
- Họ Đạt Hề đã nói như thế, xin phiền Bạch Tiên Cô tìm cho một đôi câu. Dạo ở kinh, họ Đạt Hề ở phố nào, phường nào; Người họ Tần ấy tên tuổi là gì, chức tước gì, thì mọi chuyện sẽ rõ ràng ngay. 
Tiên Cô đáp: 
- Điều này thì chẳng có gì là khó. Già này xin hỏi ngay. 
Liền đứng dậy đi vào bên trong, chẳng bao lâu đã thấy quay ra, nói ngay: 
- Tiên sư nói nghiệm rất đúng cả rồi? Họ Tần này chính là Tần quan nhân đây. Doanh Doanh nói trước kia ở phường Tập Khánh, đã từng cùng trạng nguyên Tần Quốc Trinh gặp gỡ vậy. 
Quốc Trinh nghe ra, rạng rỡ mặt mày: 
- Thì ra người xưa kia tiểu đệ gặp lại là Đạt Hề Doanh Doanh, năm năm vẫn không quên, ai ngờ lại gặp ở nơi này! 
Quốc Trinh xin ra được gặp mặt. Tiên Cô đáp: 
- Chưa được đâu. Già này vừa nói rằng Tần Trạng nguyên đang ở đây Doanh Doanh vẫn chưa tin, còn nói rằng: "Thiếp nay đã xuất gia rồi, há lại còn khơi lại chuyện cũ làm gì mà gặp mặt!” 
La Thái cười: 
- Hiền huynh thuở xưa có những cuộc gặp gỡ kỳ thú đến như thế. Nay lại thêm chuyện "Thiên lý tha hương ngộ cố tri”, nghìn dặm quê người, nhận bạn xưa, quả là duyên kỳ ngộ. Sao Doanh Doanh lại còn kiếm lời từ chối. Hai người ngày xưa nhìn mặt nhìn mày, há lại không có lời gắn bó, nay chỉ xin nhắc lại lời thề xưa, thì mọi sự xong xuôi ngay chứ gì! 
Quốc Trinh cũng cười đáp: 
- Những lời này thì dẫu có cũng khó mà mở miệng nói cho được. 
Họ Tần liền xin giấy bút viết một bài tuyệt cú sau đây: 
Tập Khánh phường xưa ai nhớ không 
Lầu cao ước hẹn sợi tơ lòng 
Tình xưa nay được duyên tiên nối 
Lá thắm vẫn tươi, ý vẫn nồng. 
Viết xong, gấp lại cẩn thận, lại xin Tiên Cô đưa vào cho Doanh Doanh. Doanh Doanh xem xong, trầm ngâm không nói, Tiên Cô bèn khuyên: 
- Phu nhân mà xuất gia được cũng tốt, nhưng chưa rõ ràng như lời các tiên sư, chỉ sợ duyên trần chưa dứt, xuất gia chẳng trọn. Cứ theo ý này thì hãy nối lại duyên xưa là hay hơn cả. 
Chẳng rõ Doanh Doanh có quyết chí xuất gia chăng, nhưng chỉ biết là từ ngày cùng Quốc Trinh gặp gỡ, giờ khắc nào quên, luôn mong ngày tái hợp. Nay lại thêm chồng đã qua đời, cha mẹ đều mất cả người chú họ là Đạt Hề Tuân giờ đây chẳng còn nương tựagì được nữa, coi như đã cách tuyệt hẳn. Gặp lại người xưa, chẳng phải là chuyện quá may mắn hay sao. Về phía Quốc Trinh, thì tưởng không nói hết nỗi mừng, nhưng trên mình vẫn còn mệnh vua chưa trả, không thể đưa Doanh Doanh về theo, nên phải thưa với Tiên Cô, hãy xin tạm để Doanh Doanh ở lại am Tiểu Bồng Doanh, đợi cả hai về triều phục mệnh, thưa lại với Quốc Mô, sau đó sẽ sai người tới đón. Còn bây giờ chỉ gặp nhau qua cửa sổ, Doanh Doanh thấy hiện nửa người, mà vẫn không chịu ra. Quốc Trinh thấy Doanh Doanh vẫn chẳng khác xưa, nhưng khăn áo theo kiểu đạo gia, nên càng giống như tiên nữ giáng trần. Bốn mắt nhìn nhau, buồn vui lẫn lộn, chẳng ai nói một lời. 
Chính là: 
Tương tư tình ý không cùng 
Lặng im mà chứa muôn lòng ái ân. 
Đêm hôm đó, Quốc Trinh cùng La Thái không thể ra đi kịp, phải ở lại trong am, Bạch Tiên Cô thắp sáp, pha trà, cùng hai người bàn chuyện xa gần. Sau đó, nói tới mấy câu thơ của La Công Viễn. 
Quốc Trinh suy luận: 
- Hai câu đầu thế là ứng rồi. Hai câu tiếp "Phong cảnh giả thành chân", tưởng cũng chẳng cần nói nữa. Chỉ còn bốn câu sau không biết nên lý giải ra sao. Nay Doanh Doanh cùng với họ Giang cùng ở một nơi, sắp phải chia tay, thế thì sao lại có câu "Giang sơn khéo xoay chuyển". 
Tiên Cô cũng bàn thêm: 
- Cứ xem cách Giang Quý nhân đến đây, cưỡi lừa trắng, lừa bay lên không mà biến mất, lại xem cử chỉ lâu nay, rõ ràng không phải người thường. Già nào ngờ rằng có khi tiên nữ bị đày xuống trần. Nhưng còn thêm câu nói của La Công Viễn tiên sư với Doanh Doanh: 
"Bao giờ phu nhân có được cuộc gặp gỡ thì cũng là lúc Giang Quý nhân được quay về nơi cũ”. Thì ý tứ câu này ra sao đây? 
Hai người bàn luận, chỉ thấy La Thái cúi đầu ngẫm nghĩ, bỗng dậm chân mà nói rằng: 
- Đúng rồi! Đúng rồi! Cháu nghĩ ra rồi! 
Tiên Cô vội hỏi: 
- Nghĩa ra sao nào? 
La Thái thì thầm: 
- Giang Quý Nhân đã từng nói với Bạch Tiên Cô rằng mình là người của họ Lý. Thế thì rất có thể là Giang Thái Tần của hoàng thượng vậy. Hãy đọc những câu thơ này xem, rõ ràng hiện đủ cả ba chữ Giang Thái Tần, Giang Phi nổi tiếng yêu hoa mai, ở trong cung đã từng dược tôn xưng là Mai Phi. Trước đây khi lũ nghịch tặc vào cung, có thấy một xác cung nữ đã thối rữa, cho là Mai Phi, sau đó lại có tin đồn là Mai Phi chưa chết, mà đã trốn được vào dân chúng, biết đâu chính là gặp người tiên cứu cũng nên, rồi mang đến tránh trong am này, đợi ngày trở về cung cấm, gặp lại thượng hoàng, chẳng khác gì Doanh Doanh gặp lại Tần hiền huynh vậy thôi. Không như thế, thì sao lại có câu: "Chúa tôi mừng tái ngộ" cho được? 
Quốc Trinh gật đầu: 
- La hiền đệ phân giải quả không sai, nhưng cứ như tiểu nhân này nghĩ, thì hiền đệ họ La tên Thái. Bài thơ lại có câu: "Thấy rau La rau Thái, hái mặt sóng ngọn Tần", thì hình như có ý nói hiền đệ đưa Giang Quý nhân về triều thì phải? 
Tiên Cô cũng nói: 
- Nếu quả là Giang Quý phi thật, thì rõ ràng La quan nhân thấy Quý phi ở đây lẽ tự nhiên phải tâu với triều đình để đợi lệnh đón về rồi! 
La Thái đáp: 
- Chỉ cần hỏi cho thật đúng, cháu xin làm biểu tâu ngay về triều đình! 
Tiên Cô tiếp: 
- Hỏi chuyện này cũng không khó. Giang Quý nhân thấy Doanh Doanh không chịu ở cùng người chú họ đã theo giặc, nên rất kính yêu có chuyện gì chắc cũng chẳng giấu. Chỉ cần già này hỏi Doanh Doanh, là biết ngay hư thực. 
Đêm ấy không có chuyện gì khác. 
Ngày hôm sau, Tiên Cô ra nhà tìm Doanh Doanh hỏi chuyện: 
- Chẳng mấy chốc phu nhân sẽ chia tay với Giang Quý nhân. Quý nhân từ ngày tới đây, không hề chịu nói rõ lai lịch. Quý nhân rất thân thiết với phu nhân, nhất định có kể rõ nguồn cơn. Thế thì xin phu nhân hãy cho nghe xem sao? 
Doanh Doanh cười thưa: 
- Lâu nay họ Giang cũng chẳng nói gì cả đâu, nhưng mãi hôm qua mới kể rằng, xin đạo cô đừng lấy làm thường, họ Giang không phải ai khác, chính là Mai Phi Giang Thái Tần, người trước đây rất được hoàng thượng yêu quý đó. Thiếp cũng đang định đem chuyện này thưa để đạo cô rõ ngay. 
Tiên Cô nghe ra, vừa kinh ngạc vừa vui mừng, dậm chân: 
- Vị cháu họ La của già này tính không hề sai vậy! 



Nguyên là Mai Phi trước đây vẫn ở cung Thượng Dương, cam chịu những ngày lạnh lùng, nghe tin An Lộc Sơn phản loạn, càng thêm giận con tiện tỳ phì nộn Dương Ngọc Hoàn, thủ phạm gây ra cơn trốn chạy vào Thục. Vua những muốn cho Mai Phi cùng đi, nhưng bị Quý Phi ngăn trở, đành bỏ mặc mà thoát một mình. Lúc này các cung, các viện thi nhau trốn chạy. Mai Phi nghĩ ngợi: "Thuở xưa mang ơn thương yêu của thánh đế, nay tuy bị bỏ quên, nhưng nào phải vua phụ ta đâu, chính ta phụ vua đấy! Nếu bằng không sớm tìm cái chết mà thoát, tất rơi vào tay giặc làm hoen ố”. Khóc lóc một hồi, lấy một dải lụa trắng, ra ngay cây mai già trước sân thắt cổ mà chết. Hơi như đã tàn, bỗng có người cứu xuống, mở mắt ra nhìn, thì một người đàn bà mặt mũi rất thùy mị, đội mũ vân quan đứng ngay trước mặt. Mai Phi khẽ hỏi: 
- Khanh có phải người trong cung không? 
Người này đáp: 
- Thiếp không phải cung nữ đâu. Mà chính là Vi Thị, vợ của Trương Quả tiên sinh, vốn lâu nay ở Vương Ốc Sơn. Hiện nghe theo lời của Trương tiên sư cưỡi mây đến đây, để cứu Quý Phi. Mai này Quý Phi còn duyên phận với thánh thượng, chưa nên tìm đường chết. Thiếp sẽ đưa Quý Phi đến một nơi có thể tạm nương thân, đợi ngày đoàn viên. 
Liền lấy ngay trong tay áo ra một con lừa cắt bằng giấy, đặt trên mặt đất, chúm môi thổi nhẹ, biến ngay thành một con lừa trắng vừa to vừa đẹp, đủ cả yên cương, đỡ ngay Mai Phi lên, dặn kỹ: 
- Quý Phi hãy nhắm cả hai mắt. Cứ mặc cho con lừa bay. Chẳng bao lâu sẽ đến một nơi, đã có người đón tiếp Quý Phi. 
Nói xong, vỗ vào mông lừa một cái, lừa dậm chân bay thẳng lên không . 
Mai Phi dẫu có sợ hãi, nhưng cũng chẳng xuống được nữa, chỉ còn cách tay nắm chặt dây cương lụa, nhắm tít hai mắt, nghe tiếng gió rít mạnh, biết là đang bay rất nhanh. Chẳng mấy chốc, đã xuống tới đất mở mắt ra nhìn bốn bên đều là núi, lừa cứ thẳng phía trước mà đi ngay vào cổng am Tiểu Bồng Doanh, gặp ngay La Tố Cô ân cần tiếp đãi giữ lại. Lúc này vẫn còn chưa dám nói rõ lai lịch, cũng bởi Tố Cô thấy con lừa trắng bay vút lên trời ngỡ Mai Phi là tiên nữ, nên không dám cặn kẽ hỏi nguồn gốc. 
Trong bài thơ của La Công Viễn, quả có chứa đủ ba chữ Giang Thái Tần, mọi người chưa hiểu, nhưng Mai Phi thì biết rõ. Nay thấy người đến am là La Thái, lại càng hợp với mấy câu thơ. Doanh Doanh thì lại đã cùng Quốc Trinh gặp gỡ, những điều trong bài thơ đã bắt đầu ứng nghiệm. Lại nghe hai kinh đã khôi phục, thượng hoàng sắp trở về, nên mới đem thực tình nói với Doanh Doanh, Doanh Doanh thưa lại với Tố Cô, để nhờ La Thái tâu lên triều đình. Vừa may La Thái đoán ra mọi sự, Tố Cô hỏi lại. Nghe Doanh Doanh kể rõ đầu đuôi, Tố Cô mười phần vui mừng, kinh hãi, gặp Mai Phi làm lễ triều kiến. Mai Phi nâng dậy mà rằng: 
- Ơn nặng còn đó, một chút chưa báo, hãy xin nhớ bạch Tiên Cô với La sứ giả, hãy vì ta mà làm biểu tâu với triều đình. 
Tiên Cô nhận lời, quay ra bàn bạc với La Thái. La Thái cùng Quốc Trinh xếp đặt, trước tiên trình bày cho Quảng Bình Vương rõ ràng mọi sự. Quảng Bình Vương liền tuyển cung nữ ở Đông cung, tìm những người hầu hạ cũ ở nội cung, đến ngay Tiểu Bồng Doanh, nhận mặt rõ ràng là Mai Phi, rồi liền đăng biểu trình Túc Tông. Về phía La Thái, cũng viết biểu lên Túc Tông, việc Quốc Trinh gặp gỡ, Doanh Doanh định về với Quốc Trinh làm vợ thứ, nhưng vì can qua ngăn trở, nay may cũng gặp lại ở Tu Chân quán, tuy là cháu họ của Đạt Hề Tuân, nhưng trong lòng vẫn ghét việc hàng giặc của Tuân, nên đã nguyện làm đạo cô, tự thề sẽ trọn đời tu luyện, với khí tiết như thế, tưởng cũng nên gia ơn. 



Túc Tông xem cả hai tờ biểu, một mặt sai người thưa với thượng hoàng, một mặt sai hai nội giám dẫn theo cung nga mấy người, đến Bạch Vân Sơn, am Tiểu Bồng Doanh đón Mai Phi về cung cũ, sẵn đợi thượng hoàng hồi loan. Lại dặn quan sở tại, hậu thường cho La Tố Cô chờ ngày thượng hoàng tuyên dương sau. Cũng không quên ban ngay chỉ, cho phép Đạt Hề Doanh Doanh về với Tần Quốc Trinh làm vợ thứ, vẫn được cáo phong đấy đủ. 
Lúc này Quốc Trinh cùng La Thái quay lại Tiểu Bồng Doanh chào Bạch Tiên Cô, lên ngựa về triều, giữa đường vừa gặp chiếu ban xuống, liền sai người về ngay Tiểu Bồng Doanh, hãy đem theo vài gia nhân của Đạt Hề Tuân rồi cùng với đoàn nội giám đón Mai Phi về kinh. Mai Phi cùng Doanh Doanh liền từ biệt Bạch Tiên Cô, ngay ngày hôm sau lên đường. Mai Phi đã có nội giám cùng cung nga hộ tống hương xa bảo mã, nhằm Tây Kinh mà đi. Doanh Doanh cùng gia nhân cũng theo sau thành một đoàn. Mai Phi đi trước, có nội giám giữ bình cắm cành mai, hương bay mấy dặm, ai ai cũng ngạc nhiên, ngợi ca. Trước lúc lên đường, Mai Phi còn kịp làm tờ sớ, sai trung sứ ngày đêm mang về trình Đường Minh Hoàng. 


Chính là: 
Nhớ thuở Đông Lâu xưa hiến phú 
Còn nay cổ miếu lại dâng thơ. 


Chẳng biết về sau sự thể ra sao, xin xem hồi tiếp theo.

HỒI 98

Được chiếc tất gấm, bà lão hái ra tiền,
Nghe chuông mưa rơi, nhạc công phổ khúc hát.
Từ rằng. 
1. Người đã mất 
Tóc mây lược ngọc rơi bùn đất 
Chiếc tất sao còn vương vất 
Bà lão bắt được 
Của quý! Lòng ngây ngất. 
2. Đường về khấp khểnh ngàn trùng 
Lối xưa chuyện cũ, cho lòng đắng cay. 
Mưa rơi rả rích đâu đây 
Mưa vào lòng, giọt khi đầy khi vơi 
Khúc hát trời 
Khúc hát người? 
Theo điệu: "Quy quốc dao" 


Đại phàm trong chuyện sinh tử, biệt ly của nam nữ, nếu không bi thương, khổ lụy thì chẳng còn điều gì đáng nói. Nhất định phải có bi lụy nhớ thương, nhược bằng người tình lại đến nỗi ngọc nát, châu chìm, chẳng còn gì sót lại, phải tay không mà tưởng vọng, nhớ ảnh nghĩ hình, trằn trọc năm canh. Còn như may mắn hơn, của người xưa vẫn còn đó, phấn thừa hương thải, để rồi nâng lên ngắm nghía, mắt thấy lòng đau. Toàn là những thứ người ngoài chẳng mảy may động tâm, nhưng với người trong cuộc thì muôn nghìn trân trọng. Huống chi ân sâu tình nặng thuở xưa, ngày ngày đêm đêm không rời gang tấc, một sớm xa cách, kẻ về dạ đài xót xa, người trên dương thế xiết bao ngậm ngùi. Nhớ trước tưởng sau, mắt nhìn tai nghe, toàn gợi chuyện thảm sầu. Những tình cảm đó, gửi vào thư từ, thác vào thanh âm, thì quả là lấy lời ca thay tiếng khóc, một lời là một giọt lệ vậy. 


*** 


Nói chuyện Mai Phi từ Tiểu Bồng Doanh lên đường trở về Trường An, trước lúc ra đi, còn kịp viết một tờ sớ sai nội thị vào Thục dâng lên thượng hoàng. Nguyên là ở Thục, thượng hoàng vẫn thương nhớ Mai Phi, nhân có người thưa: 
- Quân nghịch vào nội cung, thấy một xác cung nga, nghĩ là Mai Phi. 
Thượng hoàng nghe tâu, tin là Mai Phi đã chết, nên mười phần thương tiếc. Lúc này có một thầy phù thủy, người ở ngay đất Thục, tên gọi Trương Sơn Nhân. Thượng hoàng nghe danh, gọi vào cung, sai xuống âm phủ thăm tìm xem hồn phách Mai Phi hiện ở đâu. Trương Sơn Nhân lập đàn, tĩnh tọa một ngày một đêm, hồn trở về tâu rằng: 
- Thần đã dạo khắp tam giới tuyến dài, lại dạo khắp các miền tiên giới, đều chẳng có tông tích. 
Thượng hoàng ủ rũ, mà rằng: 
- Hồn thơm không biết trú ở đâu. Nếu như hồn Mai Phi mà tìm được thì hồn Dương Quý Phi cũng phải gặp được, Nhưng sao cả hai đều không thấy là cớ sao? 


Bởi vậy thường vẫn giọt dài giọt ngắn khóc than. Cao Lực Sĩ thấy tình cảnh thế, tìm được một bức tranh vẽ hình Mai Phi trình lên. Thượng hoàng ngắm nghía một hồi rồi thở than: 
- Bức vẽ này giống, nhưng chỉ tiếc là không cử động được. 
Xem đi ngắm lại, rồi tự tay đề một bài tuyệt cú vào bên cạnh: 
Chầu hầu hai tám nhớ năm xưa 
Vẻ đẹp thiên nhiên phấ sáp thua 
Sương tuyết vẫn y phong thái áy 
Làn thu ba sao chẳng đung đưa? 
Từ đó thượng hoàng vẫn hay giở tranh Mai Phi mà sụt sùi. Về sau lại có người tâu rằng: 
- Mai Phi vẫn chưa chết, tử thi dạo giặc thấy trong cung, không phái Mai Phi đâu! 


Thượng hoàng nghe ra, ngờ rằng đã lẩn trốn dược vào dân chúng, bèn hạ chiếu cho khắp nơi, ai biết Quý phi Giang Thái Tần ở đâu lập tức tâu lên sẽ được trọng thưởng, hoặc phụng đưa về kinh, sẽ được ban tước lục phẩm, thưởng tiền một trăm vạn. Chiếu dụ ban ra, vừa khi Túc Tông đọc dược biểu chương của La Thái, liền sai người tâu lên thượng hoàng. Lúc này, thượng hoàng xa giá đã khởi hành về Trường An, nên được biết việc này ngay trên đường đi, mặt rồng vô cùng hoan hỉ, truyền chỉ nói rõ về kinh sẽ ban thưởng cho bọn La Thái. Còn Giang Thái Tần thì hãy về cung đợi thượng hoàng trước. 


Mấy ngày sau, sứ giả của Thái Tần đã tới, dâng sớ tâu của Thái Tần ngay trước xa giá. Tờ sớ đại lược như sau: 


Muôn tâu 
Thần thiếp kể từ 
Lầu Đông hiến phú 
Một lầm hai lỡ 
Nhờ lượng thánh nhân 
Tha tội một lần 
Cho về cung vắng 
Mấy năm lắng đắng 
Một dạ ghi ơn 
Bỗng giặc nổi cơn 
Phong ba phá tán 
Thiếp nghĩ rằng phận 
Phải chết theo vua 
Dây treo vào cổ 
Hồn gần lìa xác 
Việc đâu lạ thật 
Tiên Cô cứu cho 
Tỉnh tỉnh mơ mơ 
Chết sống rất lạ 
Tiên ông Trương Quả 
Vẽ giấy thành lừa 
Từng mây lơ lửng 
Lan Dương đưa tới 
Am Tiểu Bồng Doanh 
Cùng La Tố Cô 
Họ La Công Viễn 
Doanh Doanh lại đến 
Cẩn thận dặn dò 
Cành mai giành cho 
Hương thơm vạn lý 
Trạng nguyên Tần Thị 
Tình duyên kỳ dị 
Sẽ được tái hồi 
La, Tần hai vị 
Lệnh vua đến gọi 
Thiếp nay tấu đối 
Tỏ chút lòng hèn 
Được gặp thiên nhan 
Vô cùng may mắn 
Nhành mai tươi tắn 
Vẫn nở đầu cành 
Bái chúc thánh hoàng 
Thiếp tôi cẩn tấu. 


Thượng hoàng trước đó đã được Túc Tông sai sứ tâu trình mọi chuyện, nay đọc sớ của Mai Phi vừa thương xót vừa mừng rỡ, lại thấy kỳ lạ, liền phê mấy lời an ủi rằng: 


Hiền phi gặp nạn quyên sinh, tuẫn tiết rỡ ràng là chí 
Tiên nữ nhớ lời cứu mạng, kiên trinh sau trước là thành 
Nghìn dậm mây bay, lạ lùng bấy 
Bồng Doanh rằng ẩn tích 
Một cành mai hẹn, đẹp đẽ thay 
Hoa Ngọc rằng lưu hương 
Trẫm xem tượng vẽ mà đề thơ, tìm tòi 
Mãi mà hồn thơm xa bóng dáng 
Khanh được người tiên chừ từng chữ 
Hẹn hò lâu mà hội ngộ chắc nay mai 
Thấy bao nhiêu là việc hay 
Nghe rõ lắm là chuyện lạ 
Ấy cũng bởi lòng thành nên cảm động Phật Tiên 
Lại khiến cho hưởng phúc được vuông tròn duyên kiếp 
Từ nay một tấc không rời lầu tía 
Đặng suốt năm canh có chung giấc mộng vàng 
Nghĩa cũ mênh mang 
Ơn nay dồn dập. 


Trung sứ vâng mệnh cầm chiếu chỉ về ban cho Mai Phi. Lúc này Mai Phi đã về tới Tây Kinh, theo lệnh của Túc Tông, vào ở Thượng Dương cung như xưa. Thượng hoàng đến phủ Phượng Tường, truyền lệnh cho quân sĩ theo đi, đem tất cả áo giáp, khí giới, giao nạp lại cho kho của bản phủ cả. Lý Quốc Phủ theo lệnh của Túc Tông, dẫn ba nghìn lính cưỡi ngựa đi đón xa giá. Khi thượng hoàng gần về đến kinh thành, Túc Tông liền dẫn trăm quan ra ngoài cửa thành đón rước. Trăm họ cũng tràn đầy đường phố bái lạy, tung hô: "Vạn tuế! Vạn tuế” .

Túc Tông phủ phục trước xe rồng của thượng hoàng nước mắt đầm đìa, thượng hoàng không ngăn nổi, cố nén nghẹn ngào, cất lời an ủi. 


Túc Tông dâng lời xin thoái vị, thượng hoàng không nghe. Túc Tông không dám mặc hoàng bào, chỉ mặc áo bào tía. Thượng hoàng sai lấy hoàng bào, lệnh nội thị đem thay ngay cho Túc Tông. Ngày hôm đó, xa giá đến cáo yết ở thái miếu. Nhân thấy thái miếu bị hủy hoại, liền ngửa mặt lên trời mà khóc rống, dân chúng không ai ngăn được thương cảm. Cáo yết xong, xa giá quay về triều. Túc Tông đi bộ theo sau xe, thượng hoàng nhiều lần khước từ, khuyên nhủ, mới chịu lên ngựa, đi theo bên xe rồng. Thượng hoàng quay nhìn các quan mà phán: 
- Trẫm ở ngôi thiên tử năm mươi năm, mà chưa bao giờ được tôn kính đến thế, nay làm thái thượng hoàng, mới được thấy cảnh này vậy? 
Các quan đều quỳ lạy mà mừng: 
- Vạn tuế! Vạn tuế! 
Thượng hoàng vào cung không chịu ngự đại điện nữa, chỉ lên ngay điện làm nơi nghỉ ngơi của thượng hoàng rồi ban cáo rằng: 
- Trẫm nay lên ngôi thái thượng hoàng; lấy cung Hưng Khánh ở Nam Nội làm nơi vui nghỉ tuổi già. Việc chính sự của triều đình, từ nay không nghe, không dự bàn nữa. Nay ban bố cho thần dân đều biết! 
Người đời sau đọc sử tới đoạn này, nói đến việc thượng hoàng sai nạp tất cả giáp trụ, binh khí vào kho, là ý ra sao? Túc Tông làm con ra đón xa giá của cha, lại đem ba nghìn binh mã cường mạnh, thì ý thế nào? 
Có thơ than rằng: 


Binh khi nộp kho, suy đã kỹ 
Hiềm nghi cần tránh giữa cha con 
Đón rước sao cần ba nghìn ngựa 
Cờ quạt huy hoàng đúng lễ hơn. 


Thượng hoàng về Hưng Khánh cung, lập tức triệu Mai Phi vào gặp. Mai Phi quỳ lạy rồi khóc lóc rất kiều mị, thượng hoàng không ngăn được thổn thức, tìm lời an ủi. 



Truyền đem bức tranh vẽ có đề mấy câu thơ ra, Mai Phi bái tạ: 
- Tình của thượng hoàng, chẳng lấy gì mà đền đáp cho lại, thần thiếp dẫu có chết, còn đợi ơn sâu mãi tới dạ đài. 
Nhân đó bèn kể lại chuyện quyên sinh, gặp Vi Thị ở Vương Ốc Sơn đến cứu thế nào, tỉ mỉ kể lại một lượt: 
- Thiếp nếu không có Trương Quả tiên sư sai tiên cô đến cứu, thì làm gì có phúc gặp lại thượng hoàng hôm nay. 
Thượng hoàng phán: 
- Thuở trước trẫm có ý định gả Ngọc Chân công chúa cho Trương Quả, nhưng tiên sư cố từ không nhận, quả có Vi tiên nữ ở Vương ốc Sơn thật. Nay lại có chuyện khanh được cứu như vậy, thì đúng con lừa giấy này vẫn thường có trong tráp của Trương tiên sư vậy. 
Mai Phi lại đem cành mai của Diệp Pháp Thiên tặng trình lên thượng hoàng xem. Thượng hoàng thấy cành mai sắc như ngọc trắng, hương thơm tỏa khắp, vô cùng kinh ngạc: 
- Khanh được cành tiên mai này, cũng không hổ thẹn với danh hiệu Mai Phi lâu nay vậy! 
Mai Phi đọc lại mấy câu thơ của La Công Viễn, rồi tâu thêm: 
- Bài thơ này tuy tặng Đạt Hề Doanh Doanh, nhưng việc thiếp được La Thái tâu lên thượng hoàng biết cũng đã được ngụ sẵn trong này. 
Thượng hoàng gật đầu than: 
- La Công Viễn trước đây đã từng viết thư gửi trẫm, nói rõ "An bất vong nguy", yên ổn đừng quên, lo lúc nguy khốn. Chữ "An" này rõ ràng là nói về An Lộc Sơn, lại gửi một củ thuốc tên gọi là "Thục đương quy", cũng rõ tiên sư khuyên trẫm nên tránh loạn vào Thục, để sau còn được quay về Trường An. Lời này của các bậc tiên sư, lúc ấy chẳng thể hiểu kỹ càng, chẳng có điều gì không đúng. Trẫm mấy hôm nay về đây thường nghĩ đến họ. 


Mai Phi tâu rõ La Tố Cô cùng La Thái vốn là họ hàng, thượng hoàng liền truyền lệnh gia phong La Thái ba cấp, thưởng cho một trăm vạn tiền. Phong cho La Tố Cô làm Trinh Tĩnh tiên sư, thưởng tiền hai trăm vạn, để tu sửa, mở rộng Tiểu Bồng Doanh. Sai đắp tượng Trương Quả, Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn, ba vị tiên sư trong am để sớm tối hương hoa thờ cúng. 


Mai Phi nhớ tới đã cùng Doanh Doanh ăn ở lâu ngày, rất là kính yêu lẫn nhau, tình ý sâu nặng. Nhân đó xin với thượng hoàng lấy phủ đệ của Quắc Quốc phu nhân cho Doanh Doanh ở, điều này lại đúng với câu thơ của La Công Viễn: "Phong cảnh giả thành chân". Bởi lẽ lần gặp gỡ đầu tiên với Quốc Trinh, Doanh Doanh đã đem bức vẽ phủ đệ của Quắc Quốc phu nhân cho Quốc Trinh như của làm tin. Ai ngờ nay lại thực sự được ban cho phủ đệ này, quả là chuyện lộng giả thành chân, đùa quả hóa thật vậy. 


Quốc Trinh đón Doanh Doanh, sau khi đã thưa rõ với Quốc Mô, không những là chuyện gặp gỡ lạ lùng ngày xưa, mà còn là việc kỳ ngộ ở Tu Chân quán, được La Thái đứng ra làm mối. Quốc Mô thấy Quốc Trinh đã được ý của thượng hoàng ban rồi, nên để cho Quốc Trinh mặc lòng. 
Doanh Doanh được ban phủ đệ, đoàn viên với Quốc Trinh, cùng nhau kể chuyện trước sau, tình nồng duyên thắm, nói sao cho xiết. Có điệu từ "Hoàng oanh nhi" sau đây làm chứng: 


Chàng ơi! 
Trời xui thiếp lại gặp chàng, 
Lầu Tần trút bỏ áo vàng cà sa 
Tình ta duyên ta 

Tương tư nợ cũ nay đã trả rồi
 Họ cũng đôi 
Tên cũng đôi 
Đôi lứa êm đềm 
Chẳng phải như đêm xưa 
Mẹo riêng khó tìm 
Chàng ơi! 
Ghé tai thiếp nhắc duyên ta duyên gì ?(1) 





1 Tử xưa, Trung Quốc có họ kép, họ đơn: Độc Cô, Vũ Văn, Uất Trì, cùng Đạt Hề là họ kép, họ đôi. Tên cũng có tên đơn và tên kép, Doanh Doanh là tên kép vậy! 


Nguyên phu nhân của Tần Quốc Trinh là Từ Thị, họ nhà Từ Mậu Công, rất hiền đức, vì vậy chị em cùng chung sống hòa thuận về sau ai cũng sinh trai quý. Quốc Trinh cùng anh Quốc Mô, đều làm quan cao rồi về chí sĩ. Doanh Doanh ra vào trong cung, đi lại với Mai Phi, thường sai người thăm hỏi La Tố Cô. Tố Cô sống mãi tới hơn một trăm tuổi, một chiều ngồi tĩnh tọa mà hóa. Đều là những chuyện sau này, chẳng phải nói rườm rà nữa! 


*** 


Lại nói Mai Phi hôm ấy gặp Hoàng thượng xong; xin lui về cung Thượng Dương. Thượng hoàng phán: 
- Trẫm nay đã già, chẳng người chăm nom, được khanh đây cùng trò chuyện, tất là vui vẻ thêm cho cảnh trời chiều, thế thì khanh còn quay về Thượng Dương cung làm gì nữa. 
Mai Phi thưa: 
- Thần thiếp từ cờ thúy hoa rẽ vào Tây Thục, ngày đêm mong sợ dáng chí tôn, nhưng lòng vẫn luôn nơm nớp sợ hãi bị ruồng bỏ, nên coi mình như phận ngoài vòng. Nay may thân còn sống sót những ngày thừa, được thấy lại thiên nhan, quả là đã có điều ngoài ước nguyện rồi. Nay được ơn trên thương đến, sủng ái như xưa, nhưng thiếp tự thấy nhan sắc đã kém nhiều, lấy làm tủi hổ mà thành thật xin lui vậy! 
Thưa rồi, lệ tuôn như thưa. Thượng hoàng thân cầm tay an ủi: 
- Trước kia khanh có xa cách ít nhiều, quả thực là lỗi ở trẫm. Nhưng ngọc lành gửi tặng, đã thấy rằng trẫm chẳng vô tình. Nay lại được như lời của các bậc tiên sư, chuyện xưa hóa tốt, cùng nhau ôn lại mừng có bây giờ. Khanh nỡ lòng nào bỏ trẫm mà đi nơi khác cho dành! 
Mai Phi thấy thượng hoàng thực tình quyến luyến, nên vâng mệnh ở lại cung Hưng Khánh. 


Chính là: 
Tung tóc hoa dương theo gió sớm 
Cành mai còn đượm mãi hương xưa. 


Thượng hoàng từ ngày được gặp lại Mai Phi, cảnh già cũng đỡ hiu quạnh, nhưng thường vẫn nhớ tới cái chết thảm khốc của Dương Quý Phi, lòng không khỏi đau xót. Dạo từ Tây Thục về kinh, qua trạm Mã Ngôi, đặc sai người tới mộ tế. Lúc ấy đã có ý làm lễ cải táng, nhưng Lễ bộ thị lang là Lý Quỳ tâu rằng: 
- Thuở trước tướng sĩ đội Long Vũ, nhân muốn giết Dương Quốc Trung nên mới lụy đến Quý Phi. Nay muốn cải táng Quý Phi, sợ đội Long Vũ lo lắng lại sinh biến chăng? 
Thượng hoàng nghe tâu thế, bằng lòng tạm đình việc lại. Đến khi về kinh, mật sai Cao Lực Sĩ lặng lẽ tìm đến Mã Ngôi lo việc này. Lại dặn riêng rằng: "Nếu có di vật gì của Quý Phi, thì hãy nhớ cầm về!” Lực Sĩ vâng theo tìm đến gò hướng bắc, con đường phía tây trạm Mã Ngôi, cẩn thận đào mộ Quý Phi, lo liệu việc cải táng nơi khác. Thịt da đã tiêu tan, y phục cũng hóa thành bùn đất cả. Chỉ có mỗi chiếc túi đựng hương thơm tử la hàng ngày Quý Phi đeo trước ngực là vẫn còn nguyên. Loại lụa tử la này do nước ngoài tiến cống, dệt bằng sợi tơ băng, trong túi đựng loại hương lạ, nên không bị hỏng. Cao Lực Sĩ bèn cất lấy. 


Lại nghe nói có chiếc tất sót lại, một bà lão nhà ở ngay núi Mã Ngôi phía trước còn giữ. Bà lão này họ Tiễn, Cao Lực Sĩ liền tìm đến, đem mười nghìn ra chuộc. Nguyên hôm Dương Quý Phi bị làm tội chết ở trạm Mã Ngôi, chôn cất vội vàng, xa giá lên đường ngay. Lính tráng coi trạm dịch liền vào trong quét dọn, trong số đó có người lính họ Tiễn, ngay ở dưới chân tường của Phật đường, nhặt được chiếc tất gấm, biết là của phi tần trong cung đánh rơi, liền giấu mọi người, cất kỹ. Trở về nhà, đưa cho mẹ già xem. Bà lão họ Tiễn xem kỹ thì thấy chiếc tất này làm bằng lụa mỏng, lại thấy chỉ gấm đủ năm màu, thêu thành những đóa sen cùng gốc, màu sắc rực rỡ lóa mắt, hương thơm phảng phất, bèn nói: 
- Cái này chính là vật còn lại của Phi tử nương nương vừa mới mất. Vật báu như thế này, dễ một lúc mà thấy được! 


Đang lúc ngắm nghía, gặp ngay một bà lão hàng xóm sang chơi, bèn cùng nhau xem xét một hồi. Chuyện cứ thế mà bay xa, những kẻ hiếu sự kéo từng lũ tới xin được xem. Người này được xem, chẳng nhẽ người khác lại không. Lúc đầu bà già họ Tiễn còn như thế đưa ra cho mọi người xem chán, về sau số người đòi xem càng nhiều, bà già liền đòi mỗi người mấy đồng tiền, càng về sau giá càng cao, tới một trăm đồng một lần xem. Vì vậy, chẳng mấy chốc, họ Tiễn được tiền kể vạn, cuộc sống gia quyến ngày càng sung sướng. 


Nguyên chiếc tất của Dương Quý Phi, có tên là "Ngẫu lý". Hai chữ "Ngẫu lý" này, do ngày thường Quý Phi rất thích đi tất có thêu hoa sen, Huyền Tông thường đùa rằng: 
- Trên tất của ái khanh, đúng là nên thêu hoa sen vậy, bởi vì bên ngoài không có hoa sen, thì sao ở bên trong lại có ngó sen trắng như thế? 
Từ dạo Quý Phi gọi tên đôi tất của mình là "Ngẫu lý" (1). Không ngờ tấm thân chẳng giữ nổi, còn lại mỗi một chiếc tất nơi trạm dịch, để cho người đời tranh nhau xem, đem lại bao nhiêu là tiền cho bà lão họ Tiễn. 
Về sau Lưu Vũ Tích (2) có làm bài "Mã Ngôi Hàng", cũng có nói đến chiếc tất này như sau: 


Dây buộc hài đã mất 
Chỉ thêu vẫn ửng nền 
Đâu bằng người trước núi, (3) 
Đây chiếc tất thêu sen 
Có bác lính ưa lạ 
Khéo tay gỡ mối liền 
Muôn nghìn mắt ngắm nghía 
Sợi đứt, hương triền miên. 
1 “Ngẫu lý": Nghĩa là cái ngó sen vùi sâu dưới bùn, rất trắng. Lý là che đậy, giấu kín. 
2 Lưu Vũ Tích (722-842): người Giang Tô, đỗ tiến sĩ năm hai mươi mốt tuổi. làm quan nhiều lần bị biếm, nên sống lưu lạc nhiều nơi. 
3 Cả hai câu thơ này đều nhắc đến Tây Thi, nhưng với hai thái độ khác nhau trong việc so sánh với Dương Quý Phi. Linh Nham là một di tích nổi tiếng thuộc Ngô Huyện, tỉnh Giang Tô, có ba hồ lớn đào từ thời Xuân Thu, còn những dấu vết cung Tây Thi ở và động Tây Thi... (Từ Hải).
 


Lại cũng có người nói rằng, ngay cả chiếc tất còn giữ được đấy, có ngày sẽ hỏng, chẳng thể nào còn mãi với đời, để cho người đời ngắm nghía suốt cho được. Nên có bài thơ rằng: 


Tất gấm truyền xem chỉ một thì 
Sóng hồ sen thêu nhớ làm gì? 
Tây Thi đất Việt danh hơn hẳn 
Khách đến Linh Nham rất nể vì. 


Lúc ấy, Cao Lực sĩ nghe nói bà lão họ Tiễn có chiếc tất này, đem tiền đến chuộc. Bà lão không dám không đưa. Lực Sĩ liền đem cả túi đựng hương thơm, lẫn chiếc tất trở về phục chỉ. Thượng hoàng lấy hai vật này, không giấu nổi ngậm ngùi, lệnh cho cung nữ cất kỹ, lúc nào bâng khuâng, lại lấy ra để than tiếc. 


Mai Phi muốn tìm mọi cách khuây khỏa cho thượng hoàng, liền sai Cao Lực Sĩ, tìm những Lê Viên tử đệ còn sót lại, đến làm vui cho thượng hoàng. 
Một hôm, nhân trăng sáng, thượng hoàng trèo lên lầu Cần Chánh, dựa lan can nhìn ra xa, mây giăng đầy trước mặt, nhớ lại thuở vui vẻ tưởng như là chuyện xảy ra từ kiếp trước, bất giác buồn thương, xót xa mới giương cất giọng ngâm hai câu thơ: 




Trước sân cành vỗng cành la 
Sao người đi thú ải xa chưa về (1) 
1 Nguyên văn: "Đình tiền kỳ thị dĩ kham phan; Tái ngoại chinh nhân thù vị hoàn”. 






Ngâm xong lại nghe xa xa có tiếng đàn ca, thượng hoàng lặng yên lắng nghe, tuy không rõ khúc điệu, nhưng thoảng âm thanh rất thánh thót, nên quay lại hỏi tả hữu: 
- Tiếng ca nhạc này có phải của Lê Viên tử đệ ngày xưa chăng? 
Cao Lực Sĩ thưa: 
- Cái này có khi là ngoài dân gian ngẫu nhiên ca xướng vậy thôi, chưa chắc đã phải của Lê Viên tử đệ đâu. Hôm qua thần nghe tin Hoàng Phiên Xước đã chết, những người trong Lê Viên ngày càng hiếm dần. 
Thượng hoàng càng buồn rầu: 
- Gần đây trẫm có làm từ khúc "Vũ lâm lang". Nếu được Phiên Xước hát cho nghe thì thật hay nhất. Nay thế là thôi rồi! 


Lúc này Lý Mô, Trương Dã Hồ đều đứng hầu bên cạnh Cao Lực Sĩ liễn nhắc rằng tài nghệ hai người này chẳng kém gì Hoàng Phiên Xước Thượng hoàng liền lệnh cho Dã Hồ hát khúc "Vũ lâm lang" còn Lý Mô thì thổi sáo họa theo. Hai người vâng mệnh. Dã Hồ lấy hơi cất tiếng hát, Lý Mô đưa chiếc sáo tiên ông cho đạo nào lên môi họa theo, âm thanh trong vắt, nức nở như oán, như sầu như khóc như gào, người nghe gần thêm thê thảm, người nghe xa cũng cảm khái. 


Khúc "Vũ lâm lang" này, làm vào lúc nào vậy? Dạo thượng hoàng từ Thành Đô lên đường về Trường An, đường xá xa xôi, gợi nhớ Dương Quý Phi, lòng dạ rã rời. Đến cửa Tà Cốc gặp mưa luôn suốt tuần, xe rồng phải đi đến sạn đạo, mưa gõ trên mui xe nghe trong trẻo, thánh thót, vang cả vào vách núi sát bên đường, tiếng nghe càng não ruột. Thượng hoàng quay lại nói với Hoàng Phiên Xước: 
- Khanh nghe tiếng mưa rơi ra sao? Tại trẫm đang buồn, nghe ai oán, thật không tài nào chịu nổi. 
Phiên Xước nghiêng tai nghe cho rõ thêm rồi thưa: 
- Tiếng mưa rơi này nghe ra phạm tội bất kính rất lớn. Cần phải trị mới xong! 
Thượng hoàng hỏi: 
- Khanh lại giở chuyện khôi hài rồi! Tiếng mưa thì sao lại bất kính cho được?
Phiên Xước đáp: 
- Tiếng mưa như đang thổn thức, giải bày, chỉ riêng thần nghe hiểu. Nhưng quả không dám tâu lên thượng hoàng! 
Thượng hoàng hiểu là Phiên Xước tìm chuyện nói giải buồn, bèn phán: 
- Khanh cứ nói thực, trẫm không bắt tội đâu mà sợ? 
Phiên Xước tâu: 
- Thần lắng nghe kỹ, rõ ràng là tiếng mưa rơi vào chuông xe rồng, nghe như tiếng thở than: "Tam Lang Tam Lang!” (1) Rõ ràng là phạm tội bất kính rồi còn gì? 
1 Vũ lâm lang: tên điệu từ, nghĩa là "mưa rơi vào chuông ngựa, chuông xe". Tam Lang: Chàng ba, chỉ Đường Minh Hoàng. Xem chú thích hồi 92. Cũng việc xưng hô, ở hồi năm, tập 1, khi sinh Lý Thế Dân, là "Thế tử thứ hai" của Lý Uyên, nhầm là "Hai thế tử” . Tiện đây xin định chính. 


Thượng hoàng cả cười, từ đó bắt chước âm điệu này mà làm nên khúc: "Vũ lâm lang". Vì vậy khúc hát này mới thê lương đến thế! 


Tiếng mưa ảo não, mù giăng trắng 
Thánh thót chuông rơi, ai nỉ non 
Thương nỗi Mã Ngôi, người đã vắng 
Đường trập trùng, Tam Lang lắng đắng! 


Ngày hôm sau, thượng hoàng trò chuyện với Mai Phi, kể lại nỗi lòng khi nghe tiếng mưa rơi trên chuông dạo hồi loan vừa rồi, nhân đó tiếp: 
- Lúc ấy lòng trẫm thật thảm thương, bỗng nghe tin khanh ở Tiểu Bồng Doanh, mới vơi phần sầu não ít nhiều vậy! 
Mai Phi thưa: 
- Thiếp nghe thượng hoàng hạ chiếu cho tìm, mới tin rằng bệ hạ chưa quên người xưa. Thật muôn vàn đội ơn thánh đế? 


Bỗng nội thị vào dâng biểu của Túc Tông, xin ân xá cho hai viên quan của triều đình đã hàng giặc. 


Chính là: 
Muốn cong phép nước Cao Dao (1) 
Phải vin đức nhân Nghiêu, Thuấn. 


Chưa biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ. 
1 Cao Dao bề tôi nổi tiếng của vua Thuấn, chuyên về luật pháp

Nguồn truyenviet.com.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved