Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

22 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 118,119,120,121,122

Hồi 118: Hai vụ đầu độc tuyệt xảo

Quỳnh Nhi rất thích đi dạo giữa các khóm hoa, nhất là vào buổi sáng mai còn đượm những giọt sương.

Có Quỳnh Nhi bên cạnh, Hàm Phong nhạt tình ngay với Băng Hoa, Băng Hoa lúc đầu chưa biết thì lấy làm lạ, về sau biết được liền đem lòng ghen ghét Quỳnh Nhi. Nàng được biết Quỳnh Nhi tính ưa sạch sẽ bèn cho cung nữ đem các thứ đồ dơ đến bôi vào cành cây, lá cây để trả thù.
Hôm sau Quỳnh Nhi thức dậy, gọi cung nữ đưa mình đi thăm hoa hải đường thì chỉ ngửi thấy toàn mùi hôi thối đến không chịu nổi. Quay nhìn bốn phía mới hay cành cây nào cũng đều có đồ dơ dáy. Ngay cả quần áo nàng cũng có nhiều chất dơ dính vào từng đám một. Nàng vội vàng chạy lùi lại, ai ngờ đạp phải một bãi phân to tướng ở giữa đường. Nàng hét lên một tiếng: "Ối chao!" Rồi cất bước chạy vội đi chỗ khác. Nàng chạy vội quá bị trượt chân té ngã, đập trán vào thềm máu chảy ròng ròng trên khuôn mặt đẹp.

Bọn cung nữ vội vực nàng dậy, chạy vào trong cửa, nhưng ngửi thấy mùi cứt, thối đến lợm giọng, chúng đua nhau ọe ra hết đồ ăn thức uống, mật xanh, gan vàng. Chúng cũng phải cố nhịn, để xúm lại thay áo đổi quần cho Quỳnh Nhi, lấy nước hương lan để tắm rửa cho nàng. Quỳnh Nhi không chịu nổi mùi hôi thối, đâm ra nhuốm bệnh.

Bệnh nàng kéo dài luôn một tháng trường. Hoàng đế săn sóc nàng thật đặc biệt. Nhưng trong lúc Quỳnh Nhi lâm bệnh, hoàng đế không có cách gì lâm hạnh với nàng được nữa. Ngài sang cung của Băng Hoa để giải buồn. Băng Hoa thấy kế sách của mình kiến hiệu, trong lòng rất thích thú.

Ít lâu sau, bệnh Quỳnh Nhi đã lành hẳn, hoàng đế lại bỏ Băng Hoa quay về với Quỳnh Nhi. Băng Hoa máu ghen sôi lên sùng sục. Nàng bàn tính với bọn cung nữ thân tín, tìm ra một kế sách "nhổ cỏ nhổ cả rễ" để khỏi phải lo ngại về sau.

Hồi đó thời tiết đang dần dần đổi sang hè. Quỳnh Nhi mỗi ngày tắm ít ra phải tới năm lần, còn đầu tóc thì nhất định phải gội một lần vào buổi sáng sớm.

Sau khi gội xong, nàng bỏ xoã tóc ra sau lưng để chờ khô, rồi cùng hai tên cung nữ chèo một chiếc thuyền con ra giữa đám hoa sen, vừa thưởng ngoạn vừa dốc những giọt sương mai đọng trên lá sen vào miệng để thưởng thức mùi hương.

Mãi đến khi mặt trời mọc cao hàng cây sào, ánh thiền quang đã toả khắp mặt hồ sen nàng mới chịu bảo cung nữ chèo thuyền trở vào.

Tin tức nầy lại được truyền tới tai Băng Hoa. Nàng thông đồng với một tên thái giám, bảo lẻn ra ngoài mua thuốc độc mang vào cung rồi đem đổ xuống hồ sen để đêm đó, sen hút nước đã bị đánh độc lên lá.

Qua hôm sau, Quỳnh Nhi không hay biết, vẫn theo cách uống nước sương như bao lần trước, không thấy mùi vị gì cả.

Chẳng bao lâu, thuốc độc phát tác. Hàm Phong hoàng đế thấy nàng lăn lộn trên giường một hồi, hai mắt trợn lên, chân duỗi thẳng thế là đã trở thành người bạc mệnh thiên thu. Quỳnh Nhi qua đời giữa lúc tình nặng duyên thắm, Hàm Phong hoàng đế xúc động ôm lấy thây nàng, đau đớn. Ngài khóc chán mới bảo bọn nội giám mua quan quách khâm liệm khiêng ra ngoài vườn chôn cất tử tế.

Cái tang bất ngờ đau đớn ấy làm Hàm Phong hoàng đế đau xót muôn phần, lâu dần ngài đâm mang bệnh, một thứ bệnh tương tư thật thống khổ, bi thương.

Thôi tổng quản thấy bệnh hoàng đế không có thuốc nào trong cung chữa được, liền lẻn ra ngoài tìm. Quả nhiên hắn lại tìm được một người đẹp chẳng thua gì Quỳnh Nhi thuở nọ. Hắn đưa người đẹp vào cung để hầu hạ hoàng đế.

Hàm Phong hoàng đế còn mê man trên giường bệnh. Nhưng thấy người đẹp mới, thì cho rằng Quỳnh Nhi đã đầu thai sang kiếp khác mà về với mình. Ngài hỏi tên thì nàng thưa:

- Tử Anh…

Hoàng đế thấy Tử Anh từ tiếng nói đến câu cười, cái gì cũng khiến ngài tưởng như Quỳnh Nhi ngày nọ. Rồi bệnh ngài sau đó cũng khỏi luôn.



Ngài cưng yêu chiều quý Tử Anh chẳng khác chi Quỳnh Nhi. Ngài phong nàng làm quý phi. Tử Anh vốn sinh trưởng trong gia đình cùng khổ nghèo nàn, nhưng tính lại ham đọc sách, thích nghe chuyện văn chương. Bởi thế nàng xin hoàng đế mời một ông thầy vào vườn Viên Minh để dạy cho nàng học.

Hoàng đế tự nhủ bọn thị độc đâu có hiếm gì, nhưng nếu để chúng thấy mình mới tìm thấy một quý phi, thế nào chúng chả dâng sớ khuyên can. Điều đó quả là khó chịu. Mời một ông thầy già vào vườn dạy học cho nàng là hơn. Nghĩ vậy, hoàng đế gọi Thôi tổng quản vào tính toán bàn bạc.

Thôi tổng quản nghĩ một chập, liền nhớ tới một người. Người đó họ Trịnh đậu cử nhân, vào kinh thi hội nhưng bị rớt. Trịnh cử nhân hiện ngụ tại Trường An khách điếm; hết sạch tiền lộ phí, đành phải lưu lạc nơi đất khách quê người, viết mướn câu đối hoặc thư từ cho khách để lấy tiền độ nhật.

Thôi tổng quản vốn người đồng hương với tên chưởng quỹ của Trường An khách điếm, thường tới đó bàn tán chuyện mua vui. Hắn cũng thường gặp Trịnh cử nhân tại khách điếm này.

Ông cử nhân họ Trịnh tuổi đã ngũ tuần có bộ râu đã lốm đốm bạc. Ông là người rất hoà nhã. Nay hoàng đế cần thầy dạy học cho Tử Anh, Thôi tổng quản nhớ ngay tới ông. Hắn nói với Hàm Phong hoàng đế, rồi ba chân bốn cẳng chạy ra Trường An khách điếm mời ông…

Trịnh cử nhân tuy có gặp Thôi tổng quản nhiều lần nhưng không biết hắn ta là ai, chỉ nghĩ hắn là một viên quan nào đó. Bởi thế khi hắn ta ngỏ ý mời đi dạy học ông cho rằng tới chỉ dạy một công tử hay một tiểu thư, nên nhận lời đi ngay.

Thấy Trịnh cử nhân bằng lòng rồi, Thôi tổng quản liền đi mướn chiếc xe, bốn mặt che vải xanh bít bùng kín mít. Trịnh cử nhân ngồi bên trong, chẳng thấy tí gì bên ngoài.

Xe chạy đã một lúc lâu, hết khúc quanh này qua khúc quanh khác, trước còn nghe tiếng huyên náo nơi chợ búa, nhưng về sau tiếng người càng vắng, càng xa.

Chiếc xe chạy trên một đám đất trống một hồi khá lâu rồi đỗ lại. Mở rèm xe ra nhìn, Trịnh cử nhân chỉ thấy những bức tường dài thành hàng, phía trong không biết cơ man nào là lâu đài, mái ngói, đỉnh nhà, chen chúc trong những chòm cây như muốn tranh giành nhau để ngoi lên không trung mong thoát khỏi cảnh chật chội phía dưới.

Trịnh cử nhân nghĩ đó là vườn hoa nhà ông lên nọ, nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ thắc thỏm. Ông tự nhủ, đã mời ta làm thầy dạy học thì xe phải vào cửa trước chứ tại sao lại lách qua cửa ngách để vào vườn hoa?

Trịnh cử nhân bước sâu vào vườn hoa, thấy cây cỏ rậm rạp um tùm, chỗ nào cũng san sát cửa, nhà tường vách, cỏ cây. Thôi tổng quản đưa Trịnh cử nhân đi loanh quanh hết khu này tới khu khác trong vườn. Khi đi qua cầu Cửu Khúc (chín nhịp), ông cử họ Trịnh thấy lộ ra một cái cửa tò vò, trên có một tấm biển khắc hai chữ "Tao Viên". Bước qua cổng tò vò, ông thấy một dãy nhà che rèm lụa. Bước xuống phía hành lang ông thấy bốn đứa thư đồng đứng thành một hàng dài.

Khi ông vừa bước tới, tất cả bọn chúng vội quỳ gối xuống, đồng thanh nói:

- Thỉnh an gia sư.

Đoạn chúng cuộn rèm cửa lớn. Trịnh cử nhân bước vào phòng. Ông thấy bên cửa sổ, giá sách chất đầy sách.

Thôi tổng quản mời Trịnh cử nhân ngồi xuống ghế. Tên thư đồng đưa trà lên, Thôi tổng quản lấy ra một bức thư, hai tay nâng cao đưa cho Trịnh cử nhân, bên trong đựng hai trăm lạng bạc, rồi nói:

- Thưa! Đây là tiền thù lao hằng tháng. Nếu khi nào tiên sinh muốn gởi về nhà thì xin cứ giao cho tôi, tôi sẽ gói ghém cẩn thận và gởi đi, xin tiên sinh đứng ngại.

Trịnh cử nhân xem chữ đề trên thơ thấy viết: "Dưỡng tâm trai chủ nhân" ngoài ra không còn tên họ gì nữa bèn hỏi:

- Chủ nhân của ông tên gọi là gì?

Thôi tống quản đáp:

- Chủ nhân tôi là một vị vương gia bậc nhất tại kinh thành này, tiên sinh khỏi cần hỏi, sau rồi sẽ rõ. Hiện nay vương gia tôi đi vắng trong nhà chỉ còn có đàn bà không tiện ra đây mời chào tiên sinh. Tiên sinh cứ dạy cho học trò tấn tới ắt vương gia tôi không bao giờ dám để tiên sinh phải buồn lòng đâu.

Trịnh cử nhân xem thấy bọn Thôi tổng quản có vẻ kênh kiệu, cái gì cũng ra tuồng khoe khoang hợm hĩnh, trong lòng cảm thấy băn khoăn, chẳng hứng thú chút nào. Song ông thấy nơi này tinh nhã, xếp đặt ngăn nắp lịch sự, đành miễn cưỡng ở lại.

Qua ngày hôm sau, tên học trò bước ra bái yết thầy. Trịnh cử nhân nhìn xem học trò mình như thế nào thì suýt ngã ngửa, bởi đó là một trang mỹ nhân tuyệt sắc, có bốn con tì nữ xinh đẹp chẳng kém, đi bên cạnh hầu hạ.

Cô học trò tuyệt sắc nọ học mỗi ngày chỉ độ vài giờ là lại trở vào ngay. Qua ngày hôm sau, nếu tiên sinh khảo bài thì cô học trò thảy đều học thuộc không bao giờ quên lấy một chữ.

Trịnh cử nhân thấy học trò mình thông minh quá, trong lòng cũng lấy làm mừng. Ban ngày thì ăn sơn hào hải vị, ban đêm thì ngủ trong giường gấm màn the, hầu hạ thì đã có lũ thư đồng vô cùng chu đáo. Điều không xứng ý nếu có thì chỉ là sự mất tự do không được hành động theo ý mình. Đừng nói ra khỏi cổng vườn, ngay cả đến việc đi quá sang mé tả hoặc mé hữu một chút của thư phòng ông đã bị lũ thư đồng chặn lại rồi. Lũ này bảo:

- Trong vườn có đàn bà con gái du ngoạn, tiên sinh nên tránh đi là hơn.

Trịnh cử nhân ở trong vườn này đã ba tháng. Ông mong được ra phố đi chơi một hôm cho thoải mái đôi chút, nài nỉ với lũ thư đồng đến mấy lần nhưng chúng chỉ nói là đi xin phép chủ nhân đã.

Về sau, Trịnh cử nhân chịu không nổi cảnh tù túng, bèn lẻn ra ngoài vườn. Ông thấy phía sau vườn là một đám đất rộng bỏ hoang, cảnh tượng hết sức vắng lặng thê lương. Ông chả rõ đường nào, nên chạy được mấy bước lại phải trở về.

Lũ thư đồng đứng chực ở cửa liền nói:

- Khu này rất hoang vắng thường có cọp beo, trộm cướp, giết hại mạng người. Nếu muốn ra ngoài tiên sinh nên đi xe lừa, vừa phải có người bảo vệ mới được.

Quả nhiên, lũ thư đồng đi mướn một cỗ xe có hai tên đại hán lực lưỡng ngồi ngất ngưởng trên mui xe.

Trịnh cử nhân ngồi trong thùng xe, phía ngoài cũng có vải màu xanh che kín mít như trước. Xe bắt đầu quay bánh, độ vài giờ sau, Trịnh cử nhân đã nghe có tiếng nói tiếng cười, tiếng ầm ĩ ồn ào của chợ búa, đô thị.

Xe chạy một đỗi nữa mới ngừng lại, Trịnh cử nhân mở rèm xe, bước xuống nhìn chung quanh, thì ra đây chính là cửa ngoài của khách điếm Trường An mà ông đã ở dạo nọ.

Anh chưởng quỹ khách điếm trông thấy Trịnh cử nhân vội chạy ra đón vào nhà, lấy hai phong thư của gia đình đưa cho ông.

Trịnh cử nhân xem thư, thấy nhà đã nhận được ba lần sáu trăm lạng bạc, gia đình đều được bình an như thường, lấy làm mừng lắm, liền dắt tay anh chưởng quỹ vào bàn nhậu.

Ông hỏi anh chưởng quỹ:

- Này, anh có biết cái nhà mà tôi đến dạy học ấy là nhà ai không? Tên tuổi họ là gì? Công danh sự nghiệp ra sao?

Anh chưởng quản lắc đầu đáp:

- Nào tôi có biết gì đâu!

Chẳng biết anh ta nói thật hay dối, Trịnh đành nâng chén mời. Uống một hồi xong Trịnh ra ngoài đi chơi phố.

Ngày đã tàn hai tên xà ích giục Trịnh cử nhân lên xe trở về. Từ đó, cứ hai tháng, ông cử lại lên xe ra ngoài phố đi chơi một chuyến.

Cô học trò tuyệt sắc nọ trải qua một năm học hành, đọc qua bao nhiêu kinh sử, Trịnh cử nhân tuổi đã già tính lại nhân từ hoà nhã, do đó, tình thầy trò ngày càng thắm thiết.

Cô đem tâm sự nào dài nào ngắn ra nói với thầy, duy (:hi có hỏi về gia đình nhà cửa thì nàng tuyệt nhiên chẳng chịu hé môi.

Ít hôm sau, Trịnh cử nhân thấy năm đã gần tàn, tháng đã gần hết, ở nơi đất khách quê người, bất giác nhớ nhà, lòng cảm thấy thật thê lương. Giữa lúc đang buồn bã, ông thấy bóng cô học trò duyên dáng bước ra, bên cạnh có bốn đứa tì nữ theo hầu. Trịnh cử nhân đưa mắt nhìn nàng, thấy mặt nàng đỏ ửng, hình như có hơi rượu. Ông bước lại gần hỏi.

Nàng nhìn ông nhoẻn miệng cười, rồi ngồi phịch xuống ghế, không nói năng gì cả.

Bỗng ông nghe nàng thét lên một tiếng, hai tay ôm bụng kêu đau quá rồi môi son của nàng tái nhợt đi, mắt đứng lại mất hết tinh thần và bạc ra.

Bốn đứa tì nữ thấy vậy, hoảng quá, chân tay bấn loạn, run lên từng hồi, vội hè nhau vực cô học trò vào nhà trong.

Lũ thư đồng lúc đó cũng hối hả cuống cuồng chạy đi bỏ mặc Trịnh cử nhân một mình trong thư phòng.

Trịnh cử nhân suốt từ đầu tới cuối chẳng hiểu sự thể ra sao, đành chỉ ngồi mà rầu rĩ. Mãi đến chiều tối mới thấy Thôi tổng quản hớt hải chạy tới báo một tin động trời cho ông:

- Đáng thương quá! Cô học trò nhỏ của tiên sinh bị cấp bệnh chết mất rồi! Chủ nhân tôi có dặn đưa tiên sinh ra khỏi hoa viên. Đây là gói bạc năm trăm lạng, tiên sinh cầm lấy trở về nhà, xin đừng nói với ai chuyện này.

Thôi tổng quản vừa nói đoạn thì đã có một cỗ xe lừa đỗ trước cửa vườn. Hắn đưa tiễn Trịnh cử nhân lên xe, đóng kín vườn lại rồi trở vào.

Trịnh cử nhân về đến khách điếm Trang An, kể rõ tình hình trên rồi hỏi anh chàng chưởng quỹ về cái gia đình mà mình đến dạy học. Lúc đó anh chưởng quỹ mới vỗ vai ông mà bảo:

- Cái huê viên mà ông vào đó chính là vườn Viên Minh. Cô học trò tuyệt sắc giai nhân chính là quý nhân của đương kim hoàng đế đó!

Kể câu chuyện bi ai này tới đây, có lẽ quý vị có điều thắc mắc về cái chết, của cô học trò tuyệt sắc nọ. Câu chuyện là thế này: Cô học trò sắc nghiêng ngước nghiêng thành đó chính là nàng Tử Anh. Hàm Phong hoàng đế thấy nàng ham học, bèn cho Thôi tổng quản đi mời Trịnh cử nhân tới dạy cho nàng.

Tử Anh học một năm trời, vốn người thông minh, nên hiểu biết nhiều, khiến nhà vua mừng rỡ khôn xiết. Nào ngờ, Băng Hoa dò la biết hoàng đế lại mới có một quý nhân muôn phần sủng ái, đêm đêm quấn quýt bên cạnh, còn minh thì lại bị quên đi, khiến nàng lại nổi lòng thù hận. Nàng cố làm thân với Tử Anh, thường lẻn tới trò chuyện, hay đưa những của ngon vật lạ tới cho Tử Anh.

Tử Anh vốn là gái mới lớn lên, đâu có biết đó là mưu gian của con tinh hồ ly. Nàng đâm ra quý mến Băng Hoa, bao nhiêu tâm sự, nhất là đối với hoàng đế, đem ra kể hết cho nghe, hai người chơi với nhau thân như chị em, Băng Hoa dần dần biết Tử Anh đã lọt vào cạm bẩy của mình chỉ còn đợi ngày giật dây mà thôi. Nàng nghĩ ra một độc kế, lén đưa cho Tử Anh một lọ thuốc độc nhỏ.

Đây là rượu thuốc dê thần. Cứ sáng sớm uống vào thì tối tha hồ mà hầu hạ hoàng đế, không còn biết mệt nữa.

Tử Anh tin là thật. Nàng đang được hoàng đế sủng ái, muốn lấy lòng ngài, bèn dốc cả lọ thuốc kia vào miệng.

Tử Anh vốn không biết uống rượu. Cho nên khi chất rượu thuốc này vào tới dạ dày thì mặt nàng ửng đỏ, tai nóng như lửa đầu óc choáng váng, tim đập thình thịch. Tuy vậy, nàng vẫn gắng gượng lên lớp học như mọi hôm. Không ngờ vừa tới nơi thì sức thuốc ngấm tới, chất độc phát tác, tắc ngay cổ hầu nên nàng chỉ thét được có một tiếng là chết.

Hàm Phong hoàng đế thấy người yêu chết một cách cấp kỳ như vậy, vội ôm vào lòng, luôn mồm gọi ngự y. Khi ngự y chạy vào tới cung thì người đẹp Tử Anh đã chết trong lòng ngài.

Hàm Phong hoàng đế thấy chết luôn hai người yêu đều bất đắc kỳ tử vì trúng độc, biết thế nào cũng có kẻ hạ độc thủ. Ngài lặng lẽ cho bí mật điều tra để tìm cho ra manh mối…


Hồi 119: Một vụ án tình sôi nổi

Hàm Phong hoàng đế dặn bọn thái giám sưu tra trước hết bọn cung nữ trong cung của Tử Anh rồi đến phòng các nàng phi khác ở chung quanh. Không một vết tích gì khả nghi! Băng Hoa quả là người kỹ lưỡng, hành động bí mật.

Bọn thái giám cũng như cung nữ dưới quyền đều được nàng đối đãi quá tử tế khiến không một ai dám mở mồm ra nói một câu nguy hiểm cho nàng. Hoàng đế thấy điều tra mãi mà không ra đành thôi.

Ngài buồn chán âm thầm mỗi khi nhớ tới Quỳnh Nhi cũng như Tử Anh, hai người đẹp lúc nào cũng tươi vui, nhí nhảnh ríu rít như đôi chim oanh hân hoan mỗi độ xuân về. Ngài càng nhớ càng thấy tê tái, nước mắt thánh thót rơi trên đôi gò má.

Từ ngày đó, ngài chẳng thèm triệu hạnh một bà hậu, một nàng phi nào nữa. Ngài lủi thủi một mình trong Hàm Bích Sơn phòng, chỉ có bọn cung nữ và thái giám, hầu hạ hai bên mà thôi.

Nàng phi Băng Hoa từ hôm đầu độc chết Tử Anh rồi, ngày ngày mong ngóng hoàng đế triệu hạnh, nhưng chẳng thấy thánh chỉ. Nàng chỉ còn biết thở vắn than dài trong cô phòng tịch mịch mà thôi.

Rồi Hàm Phong hoàng đế nhớ thương đôi cánh xuân hoa của ngài quá đến nỗi nhuốm bệnh, ngày đêm mê man như bất tỉnh.

Hàm Phong hoàng đế vốn tính nóng nảy, nay nhuốm bệnh, càng nóng nảy thêm. Bọn cung nữ hầu hạ, nhiều khi bị ngài đánh chửi hung dữ. Trong lúc bệnh hoạn, ngài vui buồn giận tức vô thường. Có khi ôm chầm lấy con cung nữ nào đó rồi kéo sát vào lòng, có khi xô xấp xuống giường. Có khi gian dâm như cuồng như loạn, lại cũng có khi nắm tóc kéo xềnh xệch trên mặt đất rồi ném ra ngoài cửa. Nhất là lúc khùng lên, giận dữ quá độ về chuyện gì, ngài tuốt cây bội đao ra chặt phắt một nhát bay đầu con cung nữ. Bọn cung nữ thật là vô cùng cơ khổ, không biết kêu cứu vào đâu được!

Ngự y xem mạch bốc thuốc mà vẫn bệnh nào tật nấy không chút thuyên giảm.

Tin này dần dần truyền tới cung Khôn Minh khiến Hiếu Trinh hoàng hậu hay biết. Hậu vội vã phượng giá đích thân tới vườn Viên Minh đưa hoàng đế vào cung, rồi tự tay nâng giấc hầu hạ.


Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng Hiếu Trinh hoàng hậu, nay thấy bà tận tuỵ săn sóc cho mình thì cảm động lắm. Nhờ đó sức khoẻ ngài càng khá, bệnh hoạn lui dần.

Cung Thân vương Dịch Cân là em ruột Hàm Phong hoàng đế. Hai anh em ngày thường rất quý mến nhau. Do đó, Hiếu Trinh hoàng hậu cho người đi mời vương vào cung.



Cung Thân vương vừa gặp Hàm Phong hoàng đế, bèn khuyên:

- Hiện nay quốc gia đa sự, cần nhờ đức hoàng thượng chấn chỉnh, hoàng thượng nên bảo trọng thân thể, khôi phục tinh thần, chăm lo việc nước, trên thì bảo vệ cơ nghiệp của tổ tông, dưới thì cứu vớt trăm họ ra khỏi cảnh nạn lớn mới phải.

Hàm Phong hoàng đế nghe em khuyên một hồi, bỗng tỉnh ngộ. Từ đó, sức khỏe ngài khá dần. Ngài truyền dụ toạ trào.

Các quan văn võ triều đình đã lâu không có buổi chầu nào, nghe nói hoàng đế toạ trào, ai cũng đều vui mừng hoan hô vạn tuế. Hoàng đế đã lâu không hỏi đến việc triều chánh, lúc này mới biết Nam Kinh đã thất thủ, Hàng Châu cũng mất, quân trú phòng ở các nơi đều không đánh mà lui cả. Sau đó ngài lại tiếp được cấp báo của tổng đốc Lưỡng Quảng là Kỳ Anh nói quân Anh đánh vào thành Quảng Châu.

Hàm Phong hoàng đế nghe tin liền nói:

- Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Văn võ bá quan trong triều miệng ngậm kín như hến, giương mắt nhìn, không nói được lời nào. Mãi về sau, Thượng thư bộ hạ là Tiên Thuận mới quỳ tâu được mấy câu:

- Bọn Kỳ nhân chúng tôi đều hèn nhát chẳng ra gì, chỉ biết ngồi ăn bổng lộc triều đình nào có biết chiến trận. Xin bệ hạ truyền chỉ xuống cho Tịch thị lang Tăng Quốc Phiên đem quân hương đoàn ra trợ chiến mới mong chiến thắng.

Một đạo chỉ dụ hạ xuống. Cả bọn quan võ người Mãn đều thấy mất mặt, chỉ còn có cách độn thổ.

Ít hôm sau, tướng Hướng Vĩnh đem đại binh từ Hồ Bắc đánh thốc xuống, dồn quân tại Hiếu Lăng Vệ, gọi là Giang Nam đại doanh. Mặt khác, Hương Kỳ Thiện cũng đem quân bản bộ đánh từ Trực Lệ, Thiểm Tây, Hắc Long Giang thẳng xuống Dương Châu, xưng là Giang Bắc đại doanh. Hai lộ quân này bắt đầu đại chiến với quân Thái Bình Thiên Quốc.

Đông vương Dương Tú Thanh của Thái Bình Thiên Quốc thống lĩnh thần binh nghênh chiến. Thế nào gọi là thần binh?

Đó là một đội quân ở phía trước có một số con trai độ mười hai, mười ba tuổi, mặc áo ngũ sắc, trang điểm như thiên thân cột trên ngọn cây tre, một tay phóng lửa khói còn một tay múa tít đao thương, khiến trận tiền mù mịt khói lửa, gọi là Thiên ma trận. Phía sau Thiên ma trận, còn có một đội nữ binh, trang điểm hết sức cầu kỳ, có một cô gái người Quảng Đông tên gọi Tiêu Tam nương điều khiển.

Nữ tướng Tiêu Tam nương đầu đội mũ dắt ngọc châu, cặp tóc bằng ngọc báu, đi giày man hoá, mặc quần đỏ. Nàng quả thật là đẹp. Nàng xông ra trận tuyến, dùng mũi kiếm vẫy một cái, tức thì quân sĩ liều mạng xông lên.

Tướng Mãn Thanh là Kỳ Thiện cung xua quân liều chết xông lên. Thiện nhớ tới chữ "hèn nhát" có ý muốn rửa nhục, nên chỉ huy trận chiến vô cùng hăng hái… Thiện đánh liền năm trận, thắng luôn năm trận.

Hồng Thiên hoàng thấy quân Thanh quá mạnh, liền bỏ dùng sức để dùng trí. Hồng cho quân lên tới Hiếu Lăng Vệ, châm một mồi lửa đốt thiêu sạch Giang Nam đại đoàn, khiến quân Thanh chạy mảnh giáp không còn.

Liền đó tướng Lâm Phượng Tường đem quân Thái Bình xông ra, Giang Bắc đại doanh nghe tin Giang Nam đại doanh đã bị đại bại, hoảng hồn bạt vía, tức thì ồ ạt chạy như nước vỡ bờ.

Tướng Kỳ Thiện trong đám loạn quân, chẳng biết chạy ngả nào, vừa tức vừa giận vừa xấu hổ, bèn tuốt cây bội đao tự vẫn chết ngay trên lưng ngựa.




Quan Thái Bình Thiên Quốc tiến như sóng cồn. Lâm Phượng Tường liền quay mũi dùi chuyển xuống đánh Giang Bắc. Dương Tú Thanh cũng mang hai vạn quân đánh thẳng tới Hà Nam, Quý Đức, Phượng Tường lại bắt được một số tàn quân, vượt qua Hoàng Hà đánh tỉnh Sơn Tây.

Tin cấp báo bay như bươm bướm về kinh. Hàm Phong hoàng đế lập tức triệu tập bọn đại thần các bộ tại ngự tiền hội nghị.

Ngài hạ chỉ phái tổng đốc Trực Lệ là Nỗ Nhĩ Kinh làm khâm sai đại thần chuyên biện quân vụ tỉnh Hà Nam, một mặt thúc giục Tăng Quốc, chiêu mộ bọn hương dũng đi tiễu giặc ở Hồ Bắc.

Tăng Quốc Phiên và Trương Lượng Cơ lập ra thuỷ trận tại sông Trường Giang, chặn đứng được quân của Thái Bình Thiên Quốc.

Hàm Phong hoàng đế sau khi nghe lời khuyên can của Cung Thân vương, đem lòng yêu quý vương. Điều đáng chú ý là ngài trước đây, do hiếu sắc quá độ cho nên thân thể đã suy. Quân vụ hồi này lại quá nhiều, quá gấp, ngài chẳng còn đủ sức khỏe để giải quyết mọi việc. Cho nên, việc quân cơ đại sự ngài đều giao cho Cung Thân vương toàn quyền. Ngài sợ vương ra ngoài vất vả, bèn giữ lại trong cung, ngủ luôn trong đó. Vương ở trong cung đến hơn mười ngày.

Không ngờ lúc đó, người con trai của vương ở nhà, gây ra một án tình rắc rối.

Con trai cả của Cung Thân vương tên gọi là Trưng bối lặc. Ông bối lặc này tứ đổ tướng đều giỏi hết, chuyên tụ tập với bọn ma cô, du đãng, tối ngày hết gái đến cờ bạc, hết đá gà đến đua ngựa, không ngón chơi nào là không rành.


Trưng bối lặc quá quen về món gái làng chơi, nên bọn mụ dầu hoặc em út khắp kinh thành Bắc Kinh, ai cũng biết danh.
Người ta gọi Trưng là đại gia. Trưng đại gia có tính rất kỳ cục. Nhà thiếu gì tiền, nhưng Trưng lại không muốn chơi theo lối quang minh chính đại bằng cách bỏ tiền ra hỏi cưới mấy nàng hầu. Trưng bối lặc lang thang suốt năm ngoài chợ, ngoài xóm chơi bời phóng đãng, theo kiểu lêu lổng, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Trong nhà Trưng chỉ có mỗi một bà phúc tấn, chẳng có vợ hai, vợ ba nào cả. Bà bối lặc tính lại không hợp với chồng, suốt năm suốt tháng ở lỳ bên nhà cha mẹ, không thèm về phủ.

Trưng bối lặc lang thang đây đó chơi bời, rút cuộc bị lậu, có lẽ cả giang mai nữa. Cung Thân vương biết chuyện, liền bắt nhốt kỹ trong phủ, cho đi mời thầy thuốc tới chữa. Trưng bối lặc bị nhốt luôn đến nửa năm, bệnh lúc đó mới hết. Cung Thân vương thả ra, Trưng bối lặc, tính nào tật ấy, lại chuồn ra ngoài chơi bời phóng đãng như cũ.

Hồi đó, vào giữa tháng sáu, trời nóng bức hết sức khó chịu, trai thanh gái lịch thành Bắc Kinh đều tới bể Thập Phân để hóng mát. Bể Thập Phân này rất rộng, bốn mặt đều có hồ sen, hoa nở nào trắng, nào hồng, thơm ngát cả một vùng rộng rãi vây quanh. Dọc bờ bể có rất nhiều phòng trà, quán nước, có bọn chị em tiếp khách, đánh trống ngâm thơ. Du khách tới đây, có người thích ngắm hoa, có người lại thích nghe ngâm thơ, cũng có người thích uống trà hóng mát. Rồi lại cũng có cả những chỗ mà bọn trai gái mặc sức nô đùa, cười cợt tình tứ, diễn đủ trò đồi phong bại tục.

Một hôm, Trưng bối lặc đem bọn đàn em tới một phòng trà uống chơi. Ông nhìn qua bên hàng hiên, thấy một thiếu phụ mặc đồ Kỳ trang (quần áo theo kiểu người Mãn Châu) ngồi đó từ lúc nào, cũng đang uống trà. Người thiếu phụ ngồi có một mình, mặt mũi xinh đẹp, mi thanh mắt tú, dạ trắng như trứng gà bóc, môi điểm chút son hồng, mình mặc chiếc áo lụa trắng mỏng, lộ rõ thân hình nhỏ nhắn với bộ ngực nở đầy. Cặp mắt đen lay láy liếc về phía Trưng làm cho Trưng đại gia hồn vía lên mây.

Người đẹp trước mắt như miếng mồi ngon, Trưng đại gia làm sao mà bỏ qua cho đặng, phóng luôn mấy cái liếc đưa tình. Người đẹp đã không giận mà lại còn mỉm cười, nhìn đáp lại Trưng đại gia sướng điên lên, tim như muốn phá vỡ cả lồng ngực mà chui ra.

Giữa lúc đó, có một thằng bé lưng đeo sọt bắp sen, ngó sen, miệng rao bán inh ỏi. Người thiếu phụ giơ tay ngoắc lại hỏi mua. Thấy vậy, Trưng đại gia liền bảo một tên gia nhân bước sang trả tiền thay cho người đẹp và bảo:

- Bắp sen này, đại gia đã mua rồi, xin biếu cô nương. Đại gia tôi có lòng quý mến, muốn nói vài câu chuyện với cô nương, chẳng biết cô nương có vui lòng cho phép hay không?

Người thiếu phụ nhoẻn miệng cười tình, mắng yêu:

- Đại gia ngươi quý mến ai thì mặc xác hắn! Ai thừa hơi mà trò chuyện với đại gia ngươi?

Người thiếu phụ vừa nói, vừa bóc bắp sen ăn. Trưng đại gia cởi chuỗi ngọc đang đeo đưa sang tặng nàng, có ý thực lòng.

Người thiếu phụ thấy vậy bèn nói:

- Gia đình ta người đông, tai mắt nhiều lắm. Cùng trò chuyện với đại gia thật bất tiện. Bảo đại gia ngươi tìm một nơi thanh tịnh vắng vẻ mà gặp nhau thì hơn.

Trưng đại gia nghe câu nói đó, lòng sung sướng, liền đứng dậy, sai gia nhân đưa người đẹp ra bãi bể Thập Phân, rồi vào trong một tửu quán tên là quán Tràng Xuân. Trưng đại gia thường uống rượu ở đây. Điếm tiểu nhị biết ông là một vị bối lặc, hôm nay lại có thêm một người đàn bà, vội đưa vào ngay mật thất. Hai người lập tức lên giường.

Người thiếu phụ thực quả thuộc hạng phong lưu tình tứ. Rượu ngà ngà say rồi, nàng càng đẹp, càng duyên dáng, khiến Trưng đại gia lòng càng yêu quý hơn. Ông nhìn ngắm nàng như ngây như dại. Người thiếu phụ bật cười nói:

- Nhìn cái gì mãi vậy? Ngủ với nhau cả một đêm mà vẫn chưa nhận ra ta là cô ruột của ngươi ư?

Trưng bối lặc nghe nói giật mình đánh thót một cái, vừa lạ vừa nghi hoặc. Ông để ý hơn, quả cũng thấy mặt quen quen, hình như có gặp ở chỗ nào. Ông nghĩ mãi không hiểu tại sao nàng lại bảo là cô ruột mình. Ông cật vấn, nhưng nàng chỉ che miệng cười, không chịu nói.

Trưng bối lặc không nản, càng hỏi dồn. Lúc đó nàng mới bảo:

- Trước hết ngươi hãy quỳ xuống làm lễ bái kiến đi đã, rồi ta hãy nói chuyện thân quyến.

Trưng đại gia đã bị tửu sắc làm cho mê loạn, nhất nhất theo lệnh người đẹp. Nàng đỡ Trưng dậy, bảo:

- Tội nghiệp thằng cháu của tôi! Để ta nói hết cho mà nghe. Ngươi có còn nhớ năm ngươi cướp vợ không? Năm đó ta có tới phủ người dự tiệc cưới, ngươi cứ gọi ta là bà cô Tiểu Lan đó mà.

Trưng bối lặc đến lúc này mới sực nhớ ra, bèn nói:

- Chồng cô có phải là Lan đại gia không?

Người thiếu phụ gật đầu đáp lại, Trưng đại gia liền vỗ tay đánh đét một cái rồi bảo:

- Chuyện này hỏng bét. Bà chính là cô ruột của tôi rồi. Mới năm năm xa cách mà nhớ mãi mà không ra. Hôm qua gặp mặt tại sao cô không cho biết?

Hồi 120: Bốn đóa hoa tuyệt sắc

Ngày qua tháng lại, trời đã sang hè. Hai cô cháu nhà Trưng lại đưa nhau tới bờ bể Thập Phân để nghỉ mát.

Giữa lúc đang vui vẻ khoan khoái bỗng từ đám đông xông ra một bọn vô lại du ôn, bế xốc lấy hông người thiếu phụ, chạy đi như bay.

Người thiếu phụ giả đò kêu la cầu cứu. Cũng có người động lòng nghĩa hiệp muốn giải cứu, bên cạnh có kẻ biết bọn du đãng nọ chính là những em út của Trưng bối lặc thì vội bảo:

- Ấy chớ! Bọn chúng là tay chân của Trưng bối lặc đó? Nhảy vào để chết à?

Người nọ nghe nói tới Trưng bối lặc, hoảng hồn bay vía, đứng dẹp qua một bên, không dám nhúc nhích nữa, chỉ còn biết nhìn theo bọn du côn nọ xốc nách người thiếu phụ mỗi lúc một xa dần.

Trong kinh thành, thiên hạ đồn rầm lên: Trưng bối lặc bắt cóc đàn bà con gái nhà tử tế. Nếu ở một chỗ khác thì tin đồn này hẳn có một hậu quả trầm trọng. Nhưng tại cái bãi bể đầy rẫy trai gái này, thì chẳng ai thấy lạ cả. Thực ra, chính do hai người đã bày ra trò này để có cớ tình tự với nhau trong căn nhà nọ, chẳng sợ ai dị nghị dòm ngó. Hoạ chỉ có đức ông chồng của người thiếu phụ đa tình kia là âu sầu mà thôi.

Anh chồng nọ sầu khổ quá chẳng thèm làm quan nữa, suốt ngày khóc sướt mướt chạy cùng khắp kinh thành để tìm vợ.

Suốt ngày ông bù đầu xoã tóc, xé áo, khóc lóc kêu xin, rồi chạy hết phố này qua đường nọ, gặp ai cũng bảo Trưng bối lặc cướp vợ mình.

Chuyện dần dần đến tai Đô lão gia. Ông sai người đưa Lan thái gia vào y viên chữa trị, một mặt dâng sớ lên đàn hặc Trưng bối lặc.

Thân phụ của Trưng bối lặc là Cung Thân vương Dịch Cân lúc này đang ở trong cung giúp Hàm Phong hoàng đế giải quyết mọi việc quốc gia trọng đại. Khi tờ sớ vào tới cung, hoàng đế đọc thấy, chẳng nói chẳng rằng, chỉ trao lại cho Cung Thân vương.

Cung Thân vương xem tờ sớ tố cáo chính con trai mình bắt cóc và gian dâm cô ruột, hoảng hồn, bạt vía, mặt tái xanh vội ném cả thân hình quỳ mọp xuống đất và dập đầu lia lịa.

Hàm Phong hoàng đế nói:

- Chú nên về nhà xem sự thể ra sao.

Cung Thân vương cầm bản tấu chương, vội ra khỏi cung đến thẳng nhà Trưng bối lặc. Hỏi ra mới hay Trưng bỏ nhà đi chơi đã lâu ngày chưa về, vương biết chuyện này có thật rồi, bèn cho gọi hết bọn tôi tớ trong nhà, căn vặn từng đứa một. Một vài đứa không chịu nổi hình phạt, đã cung khai ra chuyện Trưng bối lặc mướn phòng chứa gái ở khu phố cửa nam. Cung thân vương nghe xong, vội về phủ, đem theo bọn gia nhân sai dịch đến đó, đập cửa xông vào. Quả nhiên tóm cổ được cả chàng và nàng đang du dương trên giường.

Cung Thân vương nhận ra người thiếu phụ nọ đúng thật là con em họ mình, tức đến hộc máu, râu ria dựng ngược lên tua tủa như đinh. Vương giơ thẳng cánh tát đôm đốp vào mặt ông con mất dạy rồi quát giải về giao cho Tôn nhân phủ. Xong đâu đấy, vương mới vào cung, trước hết tự nhận tội mình, rồi sau tâu hết mọi việc cưỡng chiếm cô họ của ông con trời đánh!

Hàm Phong hoàng đế nghe tâu nối giận liền hạ dụ cách tuột chức tước của Trưng bối lặc, giao cho Tôn nhân phủ tống vào hình lao. Còn người thiếu phụ nọ, cũng giao cho Tôn nhân phủ đánh ba trăm hèo vào lưng, giam cầm ba năm, tới khi mãn hạn sẽ trao trả cho người chồng quản thúc.

Mãi về sau, khi bà phúc tấn, vợ Cung Thân vương mất, Trưng bối lặc nhờ người đến kêu với Hiếu Trinh hoàng hậu tha cho về nhà tống tang ma chay cho mẹ. Không ngờ sau khi được về nhà, Trưng bối lặc lại còn hoành hành vô pháp hơn xưa. Trong phủ của Trưng từ con a đầu, đến mụ vú trẻ, tất thảy đều bị Trưng cưỡng hiếp. Nhưng vì Trưng có tiền nên bọn này không tố cáo kêu ca gì, mà còn có vẻ bằng lòng lắm.

Trong phủ có một tên đẩy xe tên gọi Triệu Tam Hỉ. Hỉ có một con vợ cũng ở ngay trong phủ. Người trong phủ ai cũng gọi chị ta là Hỉ đại tẩu. Thị tính lẳng lơ, ai cũng bắt chuyện, gạ gẫm được. Trong phủ từ người trên kẻ dưới tất cả đều biết qua chị hết. Trưng bối lặc cũng biết luôn, rồi mắc bệnh.

Hết hè sang thu, bệnh của Trưng càng nặng thêm. Mấy ông lang đều lắc đầu, khoanh tay ngồi nhìn. Trưng lúc này cũng tự biết mình hỏng rồi, cho người đi mời cha tới để được nhìn một lần chót.

Cung Thân vương nghe nói con mình bệnh sắp chết, không buồn chút nào, trái lại rất lấy làm vui vẻ, cầu mong cho Trưng chết lẹ. Đến khi Trưng cho người mời, vương nhất quyết không tới.

Câu chuyện này chẳng hiểu do đâu mà Hiếu Trình hoàng hậu lại biết được. Bà bảo Cung thân vương nên đến thăm con một lần chót, gọi là thương kẻ tử biệt. Nể Hiếu Trinh hoàng hậu, vương lúc đó mới đi. Khi tới nhà, vương thấy Trưng nằm giữa giường như con mèo ốm, chỉ còn thoi thóp thở. Vương lấy tay bịt mũi bước hẳn vào phòng xem, thấy Trưng mình mặc một cái quần đen dùng chỉ trắng thêu đến hàng trăm con bươm bướm. Nhìn thấy vậy, vương văng tục ra chửi, rồi nhiếc: "Cho mày chết! Khốn nạn cái thân mày, biết chưa con!"

Nhiếc chửi một lúc, vương quay mình bước ra khỏi phòng, về luôn. Lát sau, Trưng trợn trừng mắt lên, chết tốt. Ai cũng nói Trưng tự mình tác nghiệt thì chịu lấy. Có nhân có quả, chẳng ai thương.

Trong lúc ở Bắc Kinh xảy ra việc nhố nhăng này thì ở Quảng Đông, liên quân Anh Pháp hên tục gây chuyện rắc rối.

Nhân cơ hội này, quân tóc dài Thái Bình Thiên Quốc tiến chiếm Thái Bình. Vu Hồ, Tri Châu, An Khánh suốt một giải châu quận dọc sông Tràng Giang. Từ Nam Kinh, Lý Trung vương cũng đem quân đánh thốc tới Hàng Châu.

Hàm Phong hoàng đế lúc đầu còn hăng hái lo, giải quyết những việc quân quốc đại sự, nhưng về sau thấy mọi sự càng ngày càng nát, càng hỏng, ngài đâm ra chán nản, chẳng thèm ra chầu nữa. Ngài vùi đầu trong đống yếm khăn của bọn phi tần cung nữ để giải khuây.

Hàm Phong hoàng đế rất thích bọn gái non miền Nam. Bọn gái Mãn Châu trong cung thô kệch ngài nhìn chúng hằng ngày thấy chán quá, lại bảo nhỏ Thôi tổng quản lẻn ra ngoài lùng gái Giang Nam đem về cho ngài. Trong vườn Viên Minh, tuy còn có Băng Hoa nhưng chơi lâu ngài đã chán rồi.

Chẳng bao lâu Thôi đưa về một lúc đến bốn cô toàn là loại tuyệt sắc miền Giang Nam để ở tại vườn Viên Minh cho ngài hú hí ngày đêm. Hoàng đế ban cho bốn người đẹp của ngài bốn cái tên hết sức thơ mộng. Một cô tên Hạnh Hoa Xuân, một cô tên Đà La Xuân, một cô tên Hải Đường Xuân, còn cô thứ tư tên Mẫu Đơn Xuân.

Bốn cô Xuân này chia ở bốn nơi trong vườn. Hạnh Hoa Xuân ở Hạnh Hoa thôn quán, Đà La Xuân ở Võ Lâm xuân sắc, Hải Đường Xuân ở Thiên Nhiên đồ hoạch lâu. Mẫu Đơn Xuân ở tại ương Kính minh cầm thất. Những nơi dành cho bốn cô danh hoa khuynh quốc này đều hết sức u nhã thanh tịnh.

Từ khi có người đẹp Giang Nam sắc nước hương trời, Hàm Phong hoàng đế quên hết cả giang sơn đất nước, thậm chí quên luôn cả đoàn quân tóc dài đang làm mưa làm gió ở phương nam. Ngài luân phiên lâm hạnh hết cô này đến cô khác trong số bốn người đẹp, vô cùng khoái lạc.



Trong bốn cô thì Mẫu Đơn Xuân có sắc đẹp và tình tứ hơn cả. Nàng người Tô Châu miền Sơn Đường thương. Nàng vốn con gái của một gia đình tầm thường, nhà ở ngay trên yếu đạo qua lại Hổ Khẩu. Bọn phú thương hằng ngày xe ngựa dập dìu qua cửa nhà nàng như nước chảy.
Mẫu Đơn Xuân có nhiều thì giờ nhàn rảnh lại thích đứng ngoài cổng chơi. Hồi đó, có một anh chàng buôn muối người Dương Châu giàu có, theo chân bạn hàng qua Hổ Khẩu, thấy nàng đẹp quá, lập tức tới nhà xin bỏ ra một ngàn quan tiền để mua nàng về làm vợ bé.

Người mẹ của Mẫu Đơn Xuân nghe nói tới một số tiền lớn liền bằng lòng ngay, nhưng nàng khăng khăng không chịu.

Họ Quách nhờ người đến nói năm lần bảy lượt mới được nàng cho biết, nếu thực tâm yêu nàng thì phải chọn ngày lành tháng tốt làm lễ tơ hồng lạy trời, tế đất thề nguyền làm vợ chồng nàng mới chịu lấy.

Anh chàng họ Quách mê nàng như điếu đổ, không dám trái ý nàng điều gì bèn ưng chịu ngay và chọn đúng ngày mười hai tháng tam là đem người đẹp về nhà.

Nào ngờ đầu tháng bảy, quân Thái Bình Thiên quốc của Hồng Tú Toàn tiến đánh thành Dương Châu. Quách trốn chạy về Tô Châu đem luôn cả hai mẹ con Mẫu Đơn Xuân lên Bắc Kinh. Dọc đường nàng cố tránh không cho Quách ngủ chung cùng phòng với mình.

Khi nàng vừa đặt chân tới Bắc Kinh thì Thôi tổng quản đã bủa cả một cái lưới săn người đẹp từ Dương Châu tới.

Thôi được tin nhà họ Quách có gái đẹp, tới ngay điều đình, nguyện đưa sáu ngàn lạng bạc đổi lấy Mẫu Đon Xuân để đem vào cung. Đồng thời còn cho Quách một chức quan ngũ phẩm trong kinh.

Mẫu Đơn Xuân nghe nói chuyện vào cung thì không bằng lòng chút nào. Nhưng tên Quách nọ tham công danh tiền tài, lừa nàng đưa tắp vào vườn Viên Minh.

Mẫu Đơn Xuân ở trong vườn tại riêng một khu có phong cảnh cực kỳ xinh đẹp. Cây cối xum xuê, nước chảy róc rách nghe như tiếng đờn cầm lơ lửng ngân trong đêm vắng. Đường đi lối lại quanh co. Hoa nở tươi như trăm ngàn đôi môi cô thiếu nữ chờ đón buổi xuân sang.

Vừa bước chân tới đây, nàng đã thấy có hai người đàn bà mặc Kỳ tràng chạy ra đón và dắt vào một khu nhà rộng lớn. Trong một căn phòng trang trí vô cùng lịch sự nàng thấy một người đàn ông mặt to tai lớn ngồi trên giường. Sau lưng người đàn ông này có một số đông đàn bà mặc Kỳ trang đứng hầu. Người đàn ông bận quần áo vàng. Nhiều người đàn ông khác mặc áo bào đều gọi người ngồi trên giường là Phật gia.

Mẫu Đơn Xuân bước vào nhà thì đã có một mụ vú già tiến đến đưa nàng tới chiếc giường làm lễ yết kiến và bảo cho nàng biết người đàn ông ngồi trên giường chính là đương kim hoàng đế.

Mẫu Đơn Xuân đến lúc này chẳng còn biết tính cách nào hơn, đành phải ưng chịu. Hoàng đế thấy nàng quả là một trang tuyệt sắc giai nhân, ngay từ lúc đầu đã đem lòng sủng ái hơn ai hết.

Đồng thời với Mẫu Đơn Xuân, còn có năm, sáu cô gái Hán khác nữa cũng được đưa vào cung. Trong số này có một người Dương Châu, tuổi vừa mười lăm, và cũng rất đẹp. Vào cung chưa được mấy ngày, người đẹp Dương Châu cảm thấy buồn chán, kêu la xin cho ra khỏi cung. Mẫu Đơn Xuân khuyên nàng nên nhẫn nại chờ đợi ít lâu, nhưng nàng không nghe cứ xin xỏ hoài. Một đêm, giữa lúc canh khuya vắng lặng, nàng trốn ra ngoài vườn, bị bọn thị vệ tuần canh bắt được, lại đưa trở về cung.

Hàm Phong hoàng đế biết chuyện, nổi giận lôi đình, lập tức sai mục quản sự kéo nàng ra ngoài, dùng giải lụa trắng thắt cổ chết. Bọn con gái Giang Nam từ đó sợ quá, không cô nào dám có ý trốn tránh nữa, đành phó thác tấm thân cho định mệnh.



Người đẹp thứ nhì, là Hải Đường Xuân. Nàng vốn là một con hát ở vùng Đại Đồng, tiểu danh là Ngọc Hỷ. Nàng thường hay tới hát tại các rạp tỉnh Thiên Tân. Tiếng hát của nàng trong trẻo mê ly, mặt mày nàng lại càng quyến rũ hơn, khiến bất cứ ai mới thấy nàng là đã mê rồi. Nàng lại còn biết gẩy đờn cầm, thổi sáo. Bọn vương tôn, công tử nhiều anh mê nàng, bỏ không biết bao nhiêu tiền cho nàng xài, nhưng không anh nào có hân hạnh được nàng để mắt xanh tới.



Bên cạnh những quan hệ vương giả ấy, nàng còn có một mối tình nghèo. Một anh chàng thư sinh nghèo xơ xác tên gọi Kim Chung Thiềm say mê sắc đẹp của Ngọc Hỷ quá, đến nỗi không ngày nào không mò vào rạp hát để ngắm dung nhan, nghe giọng hát của người đẹp. Mỗi lần đi xem hát là mỗi lần anh ta phải tìm chỗ ngồi ở hàng ghế sát sân khấu. Ngay cả những ngày mưa gió bão bùng, Thiềm ta cũng cố xem hát cho bằng được, không bỏ vắng một đêm nào. Chỉ khi gánh hát không trình diễn mới chịu nằm co ở nhà mà rầu rĩ nhớ nhung.

Anh chàng Thiềm si tình này cũng khá. Chàng có cặp mắt đẹp, đôi lông mày thanh, bộ mặt xinh trai, thuộc loại đàn ông có vẻ ngoài hấp dẫn.

Đêm đêm, Ngọc Hỷ trình diễn trên sân khấu, thường thấy phía dưới cớ anh chàng si mê mình quá, cũng lấy làm lạ. Lúc đầu nàng chẳng để ý, nhưng lâu ngày nàng cũng thấy lòng mình vương vấn.

Mùa hè sang thời tiết oi bức. Bọn vương tôn công tử sợ nóng, không tới xem. Nhiều ghế khán giả bỏ trống ở phía trước.

Nhưng anh chàng Thiềm si tình nọ vẫn trung thành tuyệt đối với gánh hát. Mở màn ra trình diễn, Ngọc Hỷ lại đã thấy Thiềm ngồi đó nhìn mình không chớp mắt rồi.

Anh chàng Thiềm mồ hôi trán chảy ra như tưới, mà vẫn ngồi, cung kính lịch sự nghe hát. Chàng sợ người đẹp chê mình là thiếu nhã nhặn, đến nỗi ngay cái quạt cũng không dám đem theo để phe phẩy cho đỡ nóng.

Ngọc Hỷ biết thế, bất giác cảm động. Nàng hát trên sân khấu cũng có phần hào hứng hơn nhiều, làm Thiêm càng thấy mê ly quyến rũ hơn.

Ngọc Hỷ trình diễn xong vai mình, cởi bỏ hết áo tuồng, lẻn ra trước sân khấu, ngồi cạnh anh chàng Thiềm nọ.

Kim Cung Thiềm không ngờ mấy năm nay cái lòng yêu chân thành của mình lại được người đẹp hiểu cho và đáp ứng lại chàng sung sướng ngoài sức tưởng tượng. Nhưng Thiềm vốn là một anh chàng học trò thuộc loại mọt sách, hết sức ngốc nghếch về đường tình ái. Vừa thấy người đẹp tới cạnh mình, đã xấu hổ mặt đỏ tía tai, không biết ăn nói thế nào với người đẹp. Cuối cùng lại cũng phải Ngọc Hỷ gợi chuyện trước rồi Thiềm ấp úng một lúc lâu mới trả lời nổi.

Ngọc Hỷ hỏi Thiềm tên họ, hết chuyện này sang chuyện kia, đến cả cảm nghĩ của khán giả đối với diễn viên như nàng trong gánh hát. Câu chuyện về sau đã thấy hào hứng. Thiềm mất hẳn được cái nhút nhát e lệ lúc ban đầu.

Khán giả trong rạp thấy thế, không xem hát nữa mà hầu hết đổ dồn mắt vào cặp nhân tình đang trò chuyện thân mật trước sân khấu. Họ tấm tắc khen ngợi Thiềm, cho Thiềm là người được diễm phúc hiếm có ở đời.

Kim Cung Thiềm thấy người ta đổ dồn mắt về mình càng mắc cỡ, miệng ấp úng nói không ra lời. Mặt chàng càng đỏ tía, tai chàng càng tía. Chàng là một tay văn chương, nhưng đứng trước người đẹp, chàng thấy chữ nghĩa bay biến đằng nào hết. Lúc này chàng mới biết cái sức mạnh khủng kiếp của đàn bà, của môi son má phấn!

Ngược lại, Ngọc Hỷ thấy chàng càng ấp úng, càng mắc cỡ, càng đỏ mặt tía tai, lại càng yêu chàng, yêu với cả tấm lòng chân thực của mình. Nàng thì thầm bên tai chàng cho biết nhà nàng ở đường nào, rồi nhoẻn miệng cười vô cùng tình tứ và nhẹ bước quay đi.

Kim Cung Thiềm phải đợi một lúc lâu sau khi Ngọc Hỷ đi rồi, mới gọi được hồn, thu được phách trở về. Nhớ lại lời nàng thì thầm, chàng muốn đi ngay tới địa chỉ của nàng, nhưng chàng sực nhớ đến cái túi tiền.

Vốn là một anh học trò kiết xác, nhân dịp vào kinh đi thi, chàng góp nhặt mãi mới được chút ít, không có nhiều để ăn xài như đám công tử vương tôn. Thấy người đẹp, chàng mê, chàng bỏ tiền ra mua vé xem hát. Mua quá nhiều, tiền đã cạn sạch. Người đẹp hẹn chàng, nhưng biết lấy gì để đưa đón người đẹp buổi sơ giao? Lúc này chàng không còn gì nữa, chỉ còn một tấm lòng yêu chân thành mà thôi.

Anh nhìn tới cái hầu bao mà lòng như dao cắt, trí như muốn cuồng, con tim đánh lên những hồi trống trận khủng khiếp trong lồng ngực, chỉ muốn phá tung cái chỗ nằm chật hẹp đó mà ra.

Hồi 121: Người đẹp Hạnh Hoa Xuân

Kim Cung Thiềm say mê Ngọc Hỷ đã đến lúc ăn không ngon ngủ không yên, nhưng không còn một xu dính túi.

Thiềm chỉ còn biết đứng ngoài cổng rạp hát mà ngó, mặt ngây ra như kẻ mất hồn. Thiềm muốn đi cho khuất chốn này nhưng chân lại chẳng muốn rời. Chàng muốn nghe theo lời người đẹp tới chỗ hẹn nhưng tiền chẳng có một xu thì đi đâu.

Thiềm quyết định… Chàng quyết đem cái áo sa đài tới tiệm cầm đồ, để lấy tiền mua một cái áo dài bằng vải bố rẻ tiền mặc thế cái áo sa kia.

Ngọc Hỷ nhìn thấy, mặt cười như hoa nở, bước tới đón Thiềm. Vị sư phó thấy chàng chỉ là một anh thư sinh kiết xác, cũng có vẻ coi khinh, chẳng thèm để ý tới. Ngọc Hỷ xem chừng mọi người trong phòng đã lạnh nhạt với chàng bèn quảng cáo với đám đông:

- Anh Thiềm vốn là sư phó trong nhà Lục vương gia rất có thế lực. Các ngươi nếu có ý gì khinh khi, hãy coi chừng kẻo bọn mình khó sống tại đây đó.

Cả bọn trong nhà này đều giật mình kinh sợ, vội vã dọn rượu lên cho Ngọc Hỷ và Kim Cung Thiềm ăn uống trò chuyện.

Ngọc Hỷ ngồi bên cạnh Cung Thiềm, hai người vừa tình tự vừa ăn uống hết sức thân mật, âu yếm. Người sung sướng nhất phải là Cung Thiềm. Chàng có cảm nghĩ như mình bay bổng lên trời, đang đi vào thế giới đầy hoa thơm cỏ lạ, giữa các nàng tiên xinh đẹp.

Cơm rượu xong Thiềm móc trong ống tay áo ra mấy chục bạc để lên bàn đứng lên cáo từ định ra về, Ngọc Hỷ vội giơ tay nắm lấy ống tay áo chàng cười nói:

- Chàng quả thật là ngốc. Ai cần đến tiền của chàng. Chàng nhớ điều này nhé: hễ chàng tới với thiếp thì chàng không được quyền trở về nữa đâu.

Nói đoạn, Ngọc Hỷ kéo Cung Thiềm ngồi lại xuống ghế.

Thiềm ta sung sướng như điên, miệng mở to định nói lên điều gì mà không nói ra được, cũng chẳng đóng lại được nữa.

Hai người lại trò chuyện cười đùa trong phòng một lúc lâu nữa rồi mới chui vào màn the nệm gấm, cùng nhau hoàn thành mộng đẹp mơ ước bấy lâu.

Qua ngày hôm sau, Ngọc Hỷ lấy tiền của chính mình ra, lì xì cho bọn bồi phòng với bọn anh chị trong tửu quán, mất vừa, đúng một ngàn lạc bạc.

Bọn người chỉ biết có tiền này thấy có tiền thay đổi hẳn thái độ. Chúng cám ơn rối rít, lại xun xoe không một điều gì là không tích cực chu toàn.

Từ đó tất cả đám nhân viên trong quán coi Cung Thiềm như một vị thượng khách. Mỗi lần diễn hát xong, Ngọc Hỷ trở về đã thấy Cung Thiềm đứng đợi mình tại cửa phòng.

Mối tình của hai người lúc này đã mặn nồng lắm rồi, thế mà bọn vương tôn công tử vẫn còn như người nằm trong trống, chẳng biết tí gì, vẫn tung tiền ra chi cho người đẹp như tung qua cửa sổ, không đếm được là bao nhiêu.

Ngọc Hỷ lấy tiền của bọn vương tôn công tử đem về đưa cho Kim Cung Thiềm. Về sau Ngọc Hỷ điều tra ra là Cung Thiềm chưa có vợ nên quyết định lấy chàng. Nàng đem tất cả tiền của dành dụm được trong bao năm đưa cho Thiềm để chọn mua một ngôi nhà, mong xây dựng một cái tổ uyên ương ấm cúng trong tương lai. Cả ngày chàng và nàng chỉ lo bày biện xếp đặt căn phòng như thế nào cho lịch sự, cho ấm cúng.

Họ đi mua bàn mua ghế, mua tủ, mua đủ bộ lệ để trang trí khiến cho căn phòng xinh đẹp ưa nhìn hết chỗ nói. Họ tính chọn ngày lành tháng tốt để cưới nhau đàng hoàng rồi mới về nhà mới, tạo lập cuộc đời vợ chồng trăm năm đầu bạc như đã từng ao ước.

Ngày cưới và ngày về nhà mới đã tới, Kim Cung Thiềm mướn rất nhiều đầy tớ trai gái, để hầu hạ trong nhà. Qua ngày hôm sau Thiềm đi thuê một cô xe đánh tới nhà Ngọc Hỷ đón nàng về nhà mới, làm cô dâu.

Nhưng không ngờ khi Thiềm tới nhà Ngọc Hỷ, thì chỉ thấy nhà cửa vắng hoe chẳng có một bóng người. Chạy vào phòng ngủ của nàng Thiềm chỉ thấy phấn sáp ngổn ngang, chăn gối tiêu điều, ngoài một mụ già ngồi giữ căn phòng chẳng còn ai cả.

Thiềm vội hỏi mụ già, thì mụ ấp úng trả lời một cách ngớ ngẩn mơ hồ rằng nàng đã vào cung rồi!

Thiềm hỏi đi hỏi lại ba bốn lần nhưng cũng chẳng hiểu rõ được nguyên nhân đấy đủ. Chẳng còn cách nào hơn chàng chạy tới rạp hát đợi khi vãn hát. Khán giản xôn xao bàn tán bảo Ngọc Hỷ tối qua đã bị trong cung đem ba vạn lạng bạc tới mua nàng về làm phi tử mất rồi.

Thiềm nghe đoạn, hồn phách lên mây, mối tức hận tràn ngập trong lòng.

Ngọc Hỷ tiến cung là chuyện thật! Nguyên do Thôi tổng quản dò xét biết nàng đẹp, đem tiền tới bà bầu gánh hát nói rõ ý muốn mua nàng đưa vào cung, do đó mới có chuyện chia uyên rẽ thuý đau thương này.

Ngọc Hỷ vào cung, Hàm Phong hoàng đế thấy nàng đẹp, cặp má hồng thắm như cánh hoa hải đường, bèn đặt tên là Hải Đường Xuân.

Kim Cung Thiềm ở bên ngoài dò xét sự thể rõ ràng đích xác rồi, lặng lẽ về nhà, leo lên đầu giường thắt cố chết.

Hải Đường Xuân, sau khi bị đưa vào cung nhớ thương Kim Cung Thiềm quá đến nhuốm bệnh, suốt ngày không dậy được, uất ức đau khổ quá, cũng chết theo Cung Thiềm trong một buổi chiều mưa gió bão bùng.

Nhưng trong số "bốn cái xuân" của Hàm Phong hoàng đế, quốc sắc thiên hương nhất, da thịt nõn nà nhất, tươi tắn trẻ măng nhất phải nói là Hạnh Hoa Xuân.

Hạnh Hoa Xuân vốn con nhà lương thiện, cha mẹ mất sớm, nàng mồ côi từ lúc còn nhỏ tuổi. Người chú ruột đem nàng bán cho một gia đình giàu cô họ Thạch để làm a hoàn. Gia đình họ Thạch chỉ có mỗi một mụn con gái nên Hạnh Hoa xuân suốt ngày chỉ hầu hạ Thạch tiểu thư. Thân phụ Thạch vào cung làm quan, đem theo cả quyến thuộc. Dĩ nhiên Hạnh Hoa Xuân cũng phải đi theo.

Về sau Thạch tiểu thư được gả cho một cậu công tử con một vị thượng thư họ Từ. Hạnh Hoa Xuân lúc đó cũng theo Thạch tiểu thư về nhà họ Từ hầu hạ, vẫn làm a hoàn như cũ bồi phòng.

Cậu công tử họ Từ làm quan đến chức thị lang thường gọi Từ thiết gia thấy Thạch tiểu thư nhan sắc xinh đẹp, hết lòng yêu thương cưng chiều. Nhưng lại cũng vì quá cưng chiều, Từ thiết gia biến thành anh chồng râu quặp, khúm núm e dè trước phu nhân không dám ho he lấy một tiếng.



Hồi đó, Hạnh Hoa Xuân tuổi đã mười lăm, hiểu biết chuyện đời rồi. Mắt nàng trong sáng như mặt nước hồ thu, má nàng như đôi trái đào chín, miệng nàng xinh như đoá anh đào đương độ xuân sang. Chỉ một cái cười của nàng, cũng đủ để cho hàng vạn người mê say đắm đuối, hồn phách bay bồng chín từng mây.

Tiểu chủ nhân của Hạnh Hoa Xuân là Thạch thị lang thấy nàng quá đẹp, có ý thèm muốn, nhưng phu nhân nhà ghen quá, nên chẳng dám bờm xơm công khai mà chỉ âm thầm tính cuộc lâu dài.

Tuy chỉ là một con a hoàn, nhưng Hạnh Hoa Xuân được bà chủ mẫu cưng chiều, lại tự thấy mình có cái nhan sắc hơn người, nên chỉ muốn cưới một người chồng vừa ý. Ông chủ trẻ dù có tán tỉnh bao nhiêu cũng mặc, nhất định không chịu.

Mãi về sau Thạch thị lang chịu không nổi nữa, đành phải quỳ gối trước mặt phu nhân, cầu xin cho phép lấy con a hoàn làm vợ bé. Bà phu nhân nghe nói nổi cơn thịnh nộ rồi đem Xuân cất giấu đi một nơi.

Hồi đó, có một bà phúc tấn tôn thất chơi rất thân với bà phu nhân Thạch thị lang. Bà phu nhân họ Thạch bèn đem Xuân gởi sang nhà bà phúc tấn tôn thất này. Chồng bà phúc tấn là bối lặc tôn thất lại chơi thân với Thôi tổng quản rất tâm đầu ý hợp. Ông được biết Thôi tổng quản lúc đó đang có sứ mạng tìm người đẹp Giang Nam cho hoàng đế. Bởi thế ông vừa thấy Xuân đã tấm tắc khen đẹp, vội chạy đến phỉ báo cho Thôi tổng quản hay.

Thôi tổng quản đến nhà bối lặc tôn thất xem mặt cũng phải ưng chịu tức thì. Thế là bà phúc tấn của ông bối lặc tôn thất lập tức đi mời bà phu nhân Thạch Thị lang tới để nói rõ câu chuyện. Thôi tổng quản xin đem hai vạn lạng bạc mua con a hoàn đưa vào cung. Bà phu nhân thị lang nghe thấy số tiền quá lớn, liền thuận ngay. Hơn nữa, bà cũng nghĩ cái thứ "đồ chua" này mà còn để trong nhà, thì thế nào chồng bà cũng tìm mọi cách để chiếm đoạt chi bằng đưa tắp vào cung là êm chuyện, sạch mắt, khỏi phải ghen tuông khó chịu gì nữa.

Trước hôm Hạnh Hoa Xuân vào cung, Thạch thị lang làm một bữa rượu để thết đãi. Xuân ngồi ghế nhất, rồi hai vợ chông quỳ lạy trước mặt, cầu xin khi ở trước vạn tuế gian nói tốt cho đôi điều. Quả nhiên, Xuân được hoàng đế hết sức sủng ái.

Hạnh Hoa Xuân cũng nói tốt nhiều lần cho Thạch thị lang trước mặt hoàng đế. Thạch thị lang nhờ đó thăng quan tiến chức vù vù, chưa đầy một năm đã leo lên đến chức chánh sứ tỉnh Hà Nam.

Hạnh Hoa Xuân tính hay cười, mà lúc cười thì nàng đẹp lắm. Miệng nàng chỉ hé cười là đủ để cho người ta thần hồn bay bổng, tâm như mê, lòng như cuồng rồi.

Bởi thế, Hàm Phong hoàng đế giữa lúc giận tức đến đâu, mà thấy nàng cười một tiếng, là ngài hết giận làm lành ngay.

Hàm Phong hoàng đế tính vốn hay rượu, rượu say rồi thường cáu giận. Lúc đã cáu giận thì ít ra cũng có một vài tên thái giám hoặc cung nữ bị hại, nhẹ thì roi đánh gậy quật, nặng thì bị giết tức thì. Khi tỉnh lại, ngài hối hận quá đỗi, nhưng việc đã rồi, chỉ còn biết lấy hàng ngàn lạc bạc phủ tuất kẻ bị hại mà thôi. Đặc biệt không bị hoàng đế khiển trách hoạ chỉ có Hạnh Hoa Xuân. Mỗi lần ngài nổi giận, nếu được Hạnh Hoa Xuân cười lên một tiếng, rồi lăn vào lòng ngài, thì sự giận tức có lớn đến đâu chăng nữa cũng xẹp ngay. Mặt ngài tươi tỉnh hẳn lên, lòng ngài như quên hết mọi chuyện đã qua, vội giơ tay kéo sát nàng vào mình, thì thầm:

- Thật là viên ngọc như ý của trẫm đây.

Cũng vì vậy nên có bà phi cô tần nào lỡ chọc giận hoàng đế, thì phải chạy ngay tới Hạnh Hoa Xuân cầu cứu. Lúc đó, lỗi có lớn đến đâu chăng nữa, hoàng đế cũng gật đầu bỏ qua.

Toàn thể bà con trong cung nội mới tặng nàng cái biệt hiệu là Hoan Hỉ phật, cũng còn gọi là Lưu Hải Hỉ.

Hạnh Hoa Xuân cũng là người tốt, đối đãi với bọn cung nữ thật tử tế, hoà thuận. Nhưng nàng có một tính xấu là rất thích tiền. Trong phòng nàng đặt một cái rương lớn. Hễ được hoàng thượng thưởng tứ vật gì là nàng bỏ ngay vào đó.

Nói đến tiên với nàng thì đừng hòng lấy được một xu, một đồng nào. Dù cho kẻ đó có lừa, có bịp, có doạ, có nạt nàng nhất định cũng liều chết với rương tiền, không xuất ra một xu. Hàm Phong hoàng đế biết nàng có tính này nên thường tứ cho nàng rất đặc biệt. Do đó, nàng để riêng ra được rất nhiều tiền của châu ngọc. Nàng giầu, nên rất sợ bạn hữu vay mượn. Nàng ra ngoài thường giả bộ than nghèo kêu túng để chẳng ai vay mượn hoặc xin xỏ mình.

Suốt ngày ở trong cung, nàng chỉ nghĩ cách làm tiền. Nàng ỷ vào cái thế hoàng đế sủng ái, có bà phi, cô tần nào bị ngài nổi giận khiển trách, trừng phạt, chạy tới cầu cứu thì nàng chìa tay ra đòi tiền, một lần mở mồm là ít ra cũng năm trăm hoặc một ngàn lạng, thiếu một đồng cũng không được. Số tiền như thế kể ra quá lớn, nhưng vì tính mạng bà nào, cô nào cũng phải gật đầu cả. Việc nguy cấp đến đâu, mà tiền không có hay không đủ số là nàng mặc kệ, nhất định không giúp. Lúc đó, ai có việc mà thực sự không có tiền buộc phải viết một văn tự nợ thì mới có hy vọng nàng đi giùm. Văn tự nợ đến kỳ hẹn là nhất định phải thanh toán, không thể khất lần được, dù chỉ chậm một ngày hoặc thiếu một đồng; nhất định phải đủ số và đúng hẹn, nàng mới chịu và mới hy vọng được nàng cứu giúp lần thứ hai. Ấy cũng vì cái tính ham tiền mà nàng bị hầu hết bọn phi tần oán giận.

Mẫu Đơn Xuân tính gian xảo điêu ngoa, khác hẳn Hạnh Hoa Xuân. Nàng thấy Hạnh Hoa Xuân như vậy, bèn nghĩ ra một kế để chơi cho biết mặt. Nàng biết Hạnh Hoa Xuân rất thích đánh bạc, bèn mưu tinh với mấy tay bài bịp lừa Hạnh Hoa Xuân, để cho được lúc đầu rồi mới dốc túi vào phút chót. Quả nhiên, Hạnh Hoa Xuân thoạt vào đầu ăn luôn một hơi năm bảy bàn, tiền vào như nước. Nàng thích lắm, lúc nào cũng chỉ muốn gầy sòng, ngoài nhưng lúc bận hầu tiếp quân vương ra, đều có mặt tại sòng bạc, rủ rê hết người này tới, người kia nhập cuộc. Nàng đã trúng kế Mẫu Đơn Xuân.

Ngày một ngày hai nàng thua, thua mãi, lúc đầu ít còn muốn lấy tiền trong rương ra trả, nhưng về sau thua nhiều quá, mỗi lần ít ra cũng vài ngàn lượng, nàng xót của thương tiền, quyết không xuất trả nữa. Nàng khất lần, hết hạn này đến hạn kia. Khi đến hẹn nàng lại thối thác lý do này, nguyên uỷ nọ để trì hoãn tiếp.

Một hôm, Hàm Phong hoàng đế đi bách bộ trong vườn, lững thững bước từ Tầm Vân tạ đến Di Lan đình… Ngài bỗng nghe tiếng nói xôn xao, quát tháo, rồi tiếng đàn bà quát mắng đánh đấm nhau túi bụi.

Ngài nhón bước, lẹ ra trước đình và thấy trên bãi cỏ một đám cung nữ đứng thành vòng tròn, bên trong có hai nàng phi mặc quần áo Hán đang ôm nhau vật lộn cấu xé, đánh tát nhau túi bụi.

Nhìn kỹ hơn, ngài thấy một nàng người mảnh mai bị một nàng khác to béo đè lên trên, đôi chân nhỏ xinh đang đạp giãy lung tung để cố thoát trong khi đó nàng vóc to béo thì chiếc quần hoa thạch lựu lấm bết trong vũng bùn nước ướt nhẹp.

Hàm Phong hoàng đế thấy hai người giằng xé kéo co, cũng phải phì cười. Ngài rẽ đám cung nữ bước vào đích thân kéo cả hai nàng dậy. Cả hai người đều đứng im cúi đầu lặng thinh, nhưng tay vẫn nắm chặt lấy tóc nhau, không chịu buông ra.

Nhìn kỹ Hàm Phong hoàng đế mới biết một người là Hạnh Hoa Xuân, còn người kia thì Mẫu Đơn Xuân. Hai bên cung nữ lúc đó mới đồng thanh hô lên một tiếng:

- Vạn tuế gia tới đó! Không buông tay ra nữa sao?

Lúc đó hai nàng phi nọ mới chịu buông tay, đầu tóc rũ rượi, hơi thở hồng hộc, mặt mày xám ngoét.

Hoàng đế hỏi chuyện, Mẫu Đơn Xuân vừa thở vừa tâu:

- Hạnh Hoa Xuân đánh bạc thua, không muốn trả tiền!

Hoàng đế hỏi Hạnh Hoa Xuân thua bao nhiêu thì nàng tâu:

- Thua hết cả thảy là hơn sáu ngàn lạng bạc.

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, bỗng phì cười bảo:

- Trẫm trả cho nhé. Đừng gây lộn nữa. Mau về hầu rượu cho trẫm đi.

Mẫu Đơn Xuân nghe hoàng đế nói vậy, chưa nén được cơn tức, hất hàm bĩu môi nói:

- Chỉ mình Hạnh Hoa Xuân được Phật gia sủng ái mà thôi. Phật gia thế nàng trả nợ một lúc luôn sáu ngàn lạng. Bọn thiếp quả thực không thể nào hiểu nổi. Chả trách đã lâu lắm ngài chẳng có thưởng tứ một chút gì cho bọn thiếp.

Hàm Phong hoàng đế thấy Mẫu Đơn Xuân có vẻ hờn dỗi, bất giác cười lên sằng sặc, bảo nàng:

- Trẫm thưởng! Trẫm thưởng cho nàng mà! Cũng thương cho sáu ngàn lạng được không?

Bọn phi tần đứng cạnh thấy hoàng đế ban thưởng, cũng nghĩ ngay đến mình, đều nhất tề tiến lên xin thưởng. Thế là hoàng đế phải thưởng hết tất cả, mỗi một cung nữ ngài thưởng ba trăm lạng.

Lời ban thưởng vừa chấm dứt, thì một loạt tiếng ca tụng ơn đức của hoàng đế vang lên:

- Đa tạ vạn tuế gia ân thưởng.

Hàm Phong hoàng đế được ca tụng, lòng vui sướng khoan khoái Ngài đi giữa, một tay ôm lấy vai Hạnh Hoa Xuân, một tay ôm lấy vai Mẫu Đơn Xuân, theo sau là cả một đoàn dài cung nữ phi tần, kéo thẳng tới gian chính thất mở tiệc vui say chè chén.

Đêm đó, Mẫu Đơn Xuân cùng với Hạnh Hoa Xuân, cả hai người đều được triệu vào lâm hạnh. Từ đó về sau, Hạnh Hoa Xuân khởi đầu hẳn một cái lệ là hễ mình thua bạc thi hoàng đế phải trả. Bọn phi tần cung nữ thấy vậy, bèn hùa nhau thông đồng để móc túi Hạnh Hoa Xuân, kỳ thực là móc túi Hàm Phong hoàng đế.

Ít lâu sau, Hạnh Hoa Xuân dành dụm riêng tây được một số khá lớn, lên tới mười vạn lạng bạc. Nàng lén gọi thái giám đưa ra khỏi cung, giao lại cho chủ mẫu, bà bố chánh sứ họ Thạch, để giúp nàng cho vay lấy lãi. Lãi càng ngày càng nhiều vốn càng ngày càng to, lúc đó, Hạnh Hoa Xuân lại sợ bà chủ mẫu manh tâm cướp mất của mình, nên lại bảo tên thái giám tới nhà bà chủ mẫu xin cho một mảnh giấy làm bằng cớ.

Bà bố chánh sứ nghe nói, tức giận sôi lên, lập tức đem số tiền trả vào cung. Hạnh Hoa Xuân sợ quá, tình nguyện đem một vạn lạng bạc biếu kính bà chủ mẫu nhưng bà không chịu nhận. Hạnh Hoa Xuân không còn cách gì khác, nên trước mặt hoàng đế, nàng xin cho người con trai bà chủ mẫu một chức nhỏ "tiểu kinh quan" gọi là để đền ơn.

Về sau, khi bọn ngoại quốc Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Áo, Nga, kéo vào đánh phá Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu phải dắt vua chạy ra Tây An thì Tây Thái hậu nhân dịp loạn lạc này sai thái giám đem Hạnh Hoa Xuân ra thắt cổ chết, cướp sạch tiền nong mà nàng đã tích cóp được từ bao năm.

Hồi 122: Người đẹp Đà La Xuân

Trong cung Thanh thời Hàm Phong hoàng đế có bốn cái Xuân: Xuân Hạnh Hoa là một ta đã kể ở hồi trước. Nay đến Xuân thứ chót tức đến cái Xuân Đà La. Lúc mới vào cung, Đà La Xuân có một hoàn cảnh thật là bi đát.



Hàm Phong hoàng đế sau khi ôm được ba người đẹp trong tay Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân, Hải Đường Xuân, còn muốn thêm một cái Xuân nữa để cho đủ bộ tứ Xuân.

Một hôm, hoàng đế cải trang thành một khách thương vi hành ra ngoài cửa Tuyên Võ đạo chơi. Khi bước lên cầu Kim Toả ngài nhìn thấy một cô gái ôm giỏ quần áo vừa giặt từ chân cầu đi lên một ngôi nhà cao và tối om như mực. Ngài ngồi đợi bên ngoài, mong người đẹp trở ra, nhưng không thấy.

Ngài đành về hôm đó và dặn bảo Thôi tổng quản đem vài tên thị vệ đến nhà cô gái điều tra, Thôi tổng quản vâng chỉ chuẩn bị sẵn sàng.

Qua ngày hôm sau, bọn Tổng quản tới cầu Kim Toả, trước hết cho bọn thị vệ đi dò la các nhà chung quanh, mới biết gia đình nhà này họ Lý, chỉ có hai mẹ con. Người mẹ goá, cô con gái mới mười bảy tuổi.

Dò biết được như vậy. Thôi tổng quản cho rằng nhà chỉ có đàn bà thì dễ bắt nạt bèn vào tiệm vàng mua một ngàn lạng bạc đựng trong bốn cái quả sơn son thiếp vàng, bảo bốn tên thị vệ bưng theo.

Thôi tổng quản đi trước, đấy cửa bước vào, cho đặt bốn cái quả vàng giữa nhà trên, nói rõ ý mình. Bà quả phụ họ Lý nghe đoạn, tức thì nói:

- Con gái tôi đã gả chồng rồi! Mà nếu chưa gả chồng đi nữa, nó cũng chẳng muốn chết già trong thâm cung đó đâu. Ông đem tiền của ông đi đi. Dù có phải là nhà vua đi chăng nữa thì cũng phải có lý, có lẽ mới được, chứ không thể cương bức con gái nhà lương gia làm những việc hạ tiện như thế này. Thôi ông đi đi! Nếu không, tôi sẽ tới tố cáo ngay tại nha môn quan đề đốc bây giờ!

Thôi tổng quản nghe xong, bất giác cả giận, nói:

- Mụ chỉ là một người đàn bà, liệu con gái mụ có thể thoát khỏi được tay vạn tuế gia được không? Được! Ta sẽ đi ngay. Nhưng ta hẹn cho mụ mười giờ nữa, mụ sẽ thấy gia đình nhà mụ nhà tan người mất cho xem.

Bà goá phụ họ Lý tính còn nói nữa, nhưng cô gái chạy vội ra kéo bà vào trong.

Đợi khi Thổi tổng quản đã đi rồi, lúc đó cô gái mới bảo mẹ:

- Con nghe nói đương kim hoàng đế thuộc loại quỷ đói sắc, bọn cường đồ này tạm thời vào cung, nhất định sẽ trở lại. Nếu con không trốn ngay thì thế nào cũng bị độc thủ của chúng. Chi bằng con hãy tạm lánh trong nhà bà dì con lúc này đã.

Thế là bà goá phụ họ Lý vội đưa con đi giấu tại nhà bà dì.

Trời gần tối, Thôi tổng quản đem theo hơn chục tên thị vệ, hùng hổ xông vào cửa trước, tính để cướp cô gái.

Nhưng xông vào lục lọi một lúc chẳng thấy cô gái đâu, bọn chúng nắm lấy bà goá phụ, kéo xềnh xệch lôi ra ngoài phố.

Chỉ trong nháy mắt, khắp kinh thành đồn rầm lên. Cô gái nghe tin, định xông ra để cứu mẹ, nhưng bà dì ngăn cản bảo:

- Cháu xông ra lúc này, chính là tự nhảy vào lưới đó Chúng bắt mẹ cháu, chi là để doạ mà thôi. Theo ý dì, nhân cơ hội này, cháu nên tìm thằng chồng sắp cưới mà lấy tắp ngay đi. Cưới xong, hai vợ chồng cháu đưa nhau tới cầu khẩn tại nha quan thống lĩnh. Lão gia thấy đũa đã có đôi, gái đã có chồng rồi thì thôi chứ còn gì. Đương kim hoàng đế hẳn cũng chẳng nỡ chia uyên rẽ thuý vợ chồng cháu đâu mà ngại.

Đến lúc quá khẩn bách này, cô gái không còn tự chủ được nữa, vội nhờ bà dì tìm mụ mối tới nhà bà gia nói chuyện.

Nhưng không may cho nàng là anh chàng rể đã đi miền nam từ hai năm trước chưa về, còn đang sống trong vùng giặc giã chẳng biết sống chết ra sao.

Cô con gái được tin này oà lên khóc nức nở, vừa khóc cho số phận mình vừa khóc cho số kiếp của người yêu. Khóc một lúc lâu, vào lúc đêm khuya, tứ bề vắng lặng, nàng cởi sợi dây lưng treo cổ lên xà nhà tự vẫn.

Bà dì biết được, vội chạy vào phòng đỡ nàng xuống, cứu sống lại. Bà chỉ lo cho án mạng lại xảy ra, bọn người trong cung đến đòi người, chắc sẽ gây ra nhiều lôi thôi nguy hiểm nên bà khuyên nàng tới am sư nữ cắt tóc đi tu là hơn. Cô gái nghe lời, sửa soạn ra đi. Thân mẫu Lý tiểu thư vốn có một bà ni cô quen biết tên gọi Nguyệt Chân. Ni cô này trụ trì am Bạch Y trên núi Tây Sơn. Bởi thế, Lý tiểu thư lẻn trốn tới am này đầu phật.

Ni cô Nguyệt Chân hỏi ra mới ì biết bà Lý đã bị bọn cường đạo trong cung bắt và hoàng đế còn định bắt nàng vào cung. Bà nghe xong vừa thương vừa sợ, vội khuyên Lý tiểu thư thôi khóc, kẻo lộ hành tung ra ngoài:

- Theo ý của Lý tiểu thư thì nàng muôn xuống tóc làm ni cô ngay.

Nhưng Nguyệt Chân khuyên can, bảo:

- Cháu đã vào chùa thì bọn quan binh kia chẳng dám vào đây tra xét đâu. Hơn nữa thằng chồng sắp cưới của cháu hiện nay chưa biết sống chết ra sao. Nếu cháu xuống tóc quy y mà nay mai chồng cháu trở về liệu ni này ăn nói thế nào. Nay cháu tới nương cửa phật để tránh khỏi tai nạn, cháu có thể tu hành mà vẫn để tóc được. Đợi khi nào mẹ cháu được thả ra, chồng cháu được trở về, lúc đó ta sẽ cùng nhau bàn tính. Nếu mọi người khuyên cháu xuống tóc thì xuống, nếu không thì thôi, chứ lão ni này quả không muốn nhúng tay vào việc đó.

Lý tiểu thư đành nghe lời khuyên của ni cô tạm thời để tóc tu hành, sớm đánh chuông chiều đánh trống, lúc mõ lúc chiêng, dưa muối qua ngày nơi am thanh cảnh vắng của nhà thiền.

Bọn quan nha đi tìm kiếm Lý tiểu thư khắp kinh thành, đâu có chịu ngừng tay. Đánh hơi được tin nàng trốn tránh ở tại nhà bà dì, thế là chúng xông tới lục soát. Không thấy bóng Lý tiểu thư đâu, chúng bắt luôn bà dì đưa vào ngục giam lại, ngày ngày tra khảo.

Đáng thương cho bà Lý, tuổi đã già lại bị đói khát uất ức, đánh đập, tra tấn trong nhà lao, nên chẳng được bao ngày, bà chết luôn.

Bọn quan nha biết bà Lý không còn ai là thân nhân, cấp cho một cỗ quan tài gỗ tạp, khâm liệm qua quýt rồi đem chôn dưới một nấm mồ ngoài đồng hoang vắng. Còn bà dì nọ, nhờ được ông chồng bỏ ra ít tiền chạy chọt đút lót, mãi chúng mới thả ra.

Lý tiểu thư trốn trong chùa tuyệt nhiên không biết một tí gì xảy ra ở bên ngoài. Mãi đến khi bà dì nọ được thả ra đến cho hay tin, nàng mới oà lên khóc, đến chết đi sống lại nhiều phen. Miệng nàng kêu gào đòi cùng chết để theo mẹ.

Suốt ngày đêm nàng khóc, chỉ thiếp đi khi đã kiệt sức. Vì thấy nàng đã đến lúc liều, các sư sãi trong chùa phải ngày đêm đề phòng.

Lý tiểu thư thấy khó tìm được cái chết nơi đây nên bèn nghi ra một cách. Nàng nói với Ni Nguyệt Chân rằng mình đã đau khổ đến cùng cực rồi ni cô nên cho nàng xuống tóc quy y.

Ni Nguyệt Chân thấy lòng nàng đã thành, liền bằng lòng chọn ngày tốt thế phát cho nàng.

Đến ngày hôm đó, trên Phật đài hương hoa đèn nến sáng choang, Lý tiểu thư quy y trước toà sen, có hai vị sư ni niên trưởng hai bên, thả tóc nàng xoã xuống thành hai lọn buông thõng xuống hai bên vai, dài mãi tận mặt đất. Ni Nguyệt Chân bước tới trước Phật đài đọc một quyển kinh xong, thì hai sư ni đứng hai bên cầm kéo hót lẹ, tóc rơi rụng xuống đất. Đến lúc này, Lý tiểu thư lệ tuôn rơi tầm tã, mình khoác lên tấm áo cà sa, tay cầm một chuỗi hột mầu ni, chân đạp đất.

Thật đáng thương một đoá hoa nghiêng nước mà phải chịu cái cảnh nâu sồng dưa muối nơi am thanh cảnh vắng, sớm hôm sầu tủi lặng lẽ bên cạnh đám sư nữ.

Đứng trước cảnh tình ấy, ai chẳng động lòng thương xót. Nào ngờ số kiếp nàng còn nặng nợ, vận hạn vẫn chưa lui.

Thế là một hôm nọ, mười mấy tên thái giám bỗng xông vào chùa, quát bọn nữ ni phải ra hết để đón giá.

Ni Nguyệt Chân vội đem cả bọn sư nữ ra lom khom quỳ trên mặt đất. Đột nhiên một đoàn xe tứ mã cao mui rầm rập đi vào, quả nhiên Hàm Phong hoàng đế tới chùa thật.

Bọn nữ ni đồng thanh hô: "Phật gia vạn tuế, vạn vạn tuế!"

Hoàng đế đi thẳng vào nội điện, lễ Phật xong ngồi trên sập, cho gọi khắp lượt bọn ni cô ra bái yết. Một tên thái giám truyền chỉ vào phía trong, bảo phải tới đủ, không được thiêu một ai, nếu dối trá thì chỉ trong chốc lát am Bạch Y này lập tức sẽ ra tro. Ni Nguyệt Chân không biết làm sao đành quỳ xuống tâu lên:

- Trong thuở bần ni còn có một tên đồ đệ mới tới, tuổi tre e lệ, chưa rành lễ phép, sợ rằng xúc phạm đến thánh giá.

Hoàng đế truyền chỉ xuống bảo phải gọi người đồ đệ đó ra ngay, sẽ tha thứ cho tội thất lễ. Lý tiểu thư lúc đó trốn ở sau điện, nghe rõ cả mọi chuyện, nghĩ bụng mạng mình nguy rồi, chi bằng nhân lúc này tự tận cho xong nghĩ vậy, nàng nhác thấy một con dao bầu để trên bàn, liền cầm lấy đâm vào cổ. Nhưng nàng không ngờ trong lúc nguy cấp đó, ba bốn tên thái giám từ phía sau phóng tới chụp lấy con dao nọ, rồi chẳng cần hỏi tra gì, hai đứa xốc nách nàng, hai đứa đẩy đằng sau, vừa kéo vừa xô ra phía trước điện.

Lý tiểu thư tuy tóc đã cắt, nhưng làm sao che được cái mặt tươi như hoa, cặp mày ngài cong vút, cái cổ trắng nõn, tấm thân tròn trịa mịn màng như ngọc như ngà, thật chẳng giảm hơn lúc ngồi giặt tại đầu cầu Kim Toả bao nhiêu:

Hàm Phong hoàng đế nhìn kỹ người nàng, không khỏi lòng mừng như mở cờ, miệng cười toe ra như ống loa, tha thiết nói:

- Người đẹp, người đẹp! Thật là mòn gót mới tìm ra, vất vả cũng bõ công phu! Thôi, nàng hãy về cung với trẫm hưởng phú quý

Lý tiểu thư quỳ phía trước, chỉ khóc, nước mắt chảy đầm đìa trên mả, không nói ra được lời nào. Hoàng đế thấy nàng quả đáng thương, lại bị xúc động bơi cái sắc mê hồn; thế là ngài bước xuống, lấy ống tay áo mình lau lệ cho nàng. Ngài đem lời an ủi:

- Trẫm và nàng kiếp trước có duyên nợ cùng nhau. Từ hôm gặp nàng ở cầu Kim Toả, lòng trẫm nhớ nhung chẳng khuây, mộng mị đã nhiều ngày. Nay trẫm tới đây đón nàng, thực không phải để ép buộc nàng phải hiến thân cho trẫm, mà thực chỉ cầu mong nàng thương trẫm với một tấm tình si mê chiều quý. Thôi nàng hãy về cùng trẫm đi, để cho trẫm ngày ngày chỉ cần nhìn nhan sắc của nàng cũng đã đủ thoả nguyện rồi. Nếu nàng quyết chí tu hành, trẫm sẽ không dám cưỡng. Nhưng chốn am thanh cảnh vắng này quá chật hẹp, quá tầm thường, đâu có phải là chỗ nàng ở được. Trong vườn Viên Minh của trẫm, Phật điện có thiếu gì. Nàng cứ vào vườn và muốn tu tại nơi đâu thì tu. Trẫm còn cho mấy con cung nữ tới hầu hạ là đằng khác. Trẫm xin thề rằng tuyệt không cưỡng bức nàng điều gì.

Lời nói của Hàm Phong hoàng đế vừa ngọt ngào lại vừa ôn tồn. Bọn thái giám chưa từng được nghe những lời lẽ êm dịu như vậy bao giờ. Bởi thế chúng lấy làm lạ vô cùng.

Sau đó, hoàng đế quay hỏi vọng ra ngoài:

- Xe rước mỹ nhân đã sửa soạn xong chưa?

Phía ngoài có tiếng đồng thanh đáp:

- Dạ! Đã xong!

Thế là hoàng đế hạ lệnh cho đỡ người đẹp của ngài ra xe, Lý tiểu thư thấy bọn thái giám đến đỡ nàng vội chạy tới trước mặt ni cô Nguyệt Chân rồi lăn vào lòng bà. Nhưng đến lúc này thử hỏi Nguyệt Chân còn có cách gì để che chở cho nàng được nữa? Bà chỉ còn thiết tha căn dặn mọi điều rồi ghé tai thì thầm bảo rằng:

- Vào cung, tiểu thư không nên quật cường ngang ngạnh làm chi, mà có cũng chẳng được đâu. Lỡ hoàng thượng nổi giận thì mất mạng đó. Nay hoàng thượng đã vui lòng cho nhập cung, ta xem ra ông cũng biết thương số phận người con gái lắm đấy. Miễn làm sao tiểu thư đừng có thất chí, thì ngài cũng chẳng nỡ bắt ép gì đâu.

Lý tiểu thư nghe lời Nguyệt Chân, quyết định một chủ ý tức là chết mà thôi. Thế rồi nàng để mặc cho bọn thái giám đưa đi…

Nguồn: http://vnthuquan.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved