HỒI 82
Lý Trích Tiên vâng chiếu, đáp thư nước ngoài,
Cao Lực Sĩ nịnh nọt, dèm bài từ mới.
Lý Trích Tiên vâng chiếu, đáp thư nước ngoài,
Cao Lực Sĩ nịnh nọt, dèm bài từ mới.
Từ rằng:
Múa bút trước thềm
Tay đưa liền
Nhất Trích Tiên
Sứ nước Phiên
Hoảng nhiên bái phục
Cởi giày, mài mực
Ấm ức hôm xưa
Giờ đây hết bực
“Thanh bình điệu" những du dương
Hãy xem một chữ nghìn vàng xứng chưa?
Thơ thần, rượu thánh say sưa
Màng chi phú quý, rượu thừa, quan sai.
Theo điệu "Điểm giáng thần"
Nay không nói chuyện Dương Quý Phi được Đường Minh Hoàng triệu vào cung, càng ngày càng được chiều chuộng hơn, mà hãy nói chuyện các châu quận bốn phương, nghe biết Quý Phi đắc sủng, thiên tử ngày càng xa hoa, đều tìm cách đón nịnh ý trời, kiếm đủ thức để dâng nạp. Thôi thì linh cầm dị thú vật lạ của hiếm, thức ngon, đặc sản từng vùng núi cao, biển rộng đủ điều. Huyền Tông hoan hỷ mười phần.
Múa bút trước thềm
Tay đưa liền
Nhất Trích Tiên
Sứ nước Phiên
Hoảng nhiên bái phục
Cởi giày, mài mực
Ấm ức hôm xưa
Giờ đây hết bực
“Thanh bình điệu" những du dương
Hãy xem một chữ nghìn vàng xứng chưa?
Thơ thần, rượu thánh say sưa
Màng chi phú quý, rượu thừa, quan sai.
Theo điệu "Điểm giáng thần"
Nay không nói chuyện Dương Quý Phi được Đường Minh Hoàng triệu vào cung, càng ngày càng được chiều chuộng hơn, mà hãy nói chuyện các châu quận bốn phương, nghe biết Quý Phi đắc sủng, thiên tử ngày càng xa hoa, đều tìm cách đón nịnh ý trời, kiếm đủ thức để dâng nạp. Thôi thì linh cầm dị thú vật lạ của hiếm, thức ngon, đặc sản từng vùng núi cao, biển rộng đủ điều. Huyền Tông hoan hỷ mười phần.
Bỗng lần kia có một Phiên quốc, tên gọi nước Bột Hải sai sứ sang, chẳng mang vật gì để tiến cống, mà chỉ có mỗi một bức quốc thư, xin được vào triều, trình lên thánh thượng. Các quan viên lần lượt tâu từ địa phương tới kinh đô, chẳng mấy chốc sứ giả tới Trường An, theo lệ chung, nghỉ tạm ở quán dịch. Hoàng đế liền sai thiếu giám Hạ Tri Chương ra quán dịch tiếp đón sứ giả, hỏi rõ nguồn cơn. Viên thông sứ (1) của sứ đoàn Bột Hải thưa rằng:
- Mọi chuyện quốc vương đã nói rõ trong quốc thư, sứ thần chúng tôi cũng không hiểu biết, xin thiên tử Trung Hoa hãy cứ mở thư xem thì sẽ rõ ràng mọi chuyện.
1 Thông sứ: như phiên dịch của các đoàn ngoại giao ngày nay.
Tới buổi chầu, Tri Chương dẫn sứ thần vào ra mắt Huyền Tông, trình quốc thư, các xá nhân nhận lấy, Huyền Tông lệnh đệ trước án Hoàng thượng. Cho Phiên sứ hãy tạm trở về quán dịch, chờ lệnh chỉ. Rồi cho tuyên tấu quan mở thư tuyên đọc.
Hôm ấy, đến lượt thị lang Tiêu Hoa làm tuyên tấu quan; Tiêu Hoa mở thư ra xem, không giấu nổi kinh hoàng, thì ra trên thư, chữ viết chính là:
Chẳng thảo, chẳng lệ, chẳng triện
Nét chữ kỳ quái hóa biến
Dẫu Tử Vân cũng chẳng biết
Phải hỏi đến thánh Thương Hiệt. (1)
1 Thảo, lệ, triện và chân: bốn cách viết khác nhau của chữ Hán. Tử Vân là tên của Dương Hùng đời Hán, giỏi về chữ cổ. Thượng Hiệt người thời Hoàng Đế, sau được tôn là thánh, tương truyền dựa theo vết chân chim mà chế ra chữ viết.
Tiêu Hoa xem qua, một chữ cũng chẳng nhận ra, chỉ đành dập đầu mà tâu:
- Chữ của nước Phiên này, đều như hình con nòng nọc, thần thật ngu muội, không tài nào nhận ra, xin chờ thánh ý.
Huyền Tông cười, phán:
- Nghe nói khanh đọc "lạp" ra "liệp", (1) bị bạn hè cười cho mãi, thế là đến chữ Hán còn nhiều chữ chưa thông, huống chữ Phiên. Hãy đưa cho Tể tướng xem có đọc được không?
1 Hai chữ này nhiều nét, một chữ 18 nét, một chữ 21 nét, một nửa giống nhau, nửa chỉ bộ ít nét khác nhau: Lạp là lễ tế vào tháng chạp, liệp là săn bắn.
Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung nhất tề cầm xem, đều như mắt mù, một chữ cũng chẳng hiểu được, người co dúm lại. Huyền Tông liền sai chuyển cho khắp trăm quan truyền tay nhau xem. Nhưng khắp triều văn võ, chẳng một người biết. Huyền Tông cả giận mắng:
- Đường đường thiên triều thế này, đông đủ bách quan văn võ, sao chỉ một thư từ của Phiên quấc, không biết lấy một chữ, để hiểu trong thư lời lẽ ra sao để còn trả lời, khỏi bị tiểu bang cười cho. Trẫm hạn trong ba ngày nếu không đọc ra, tất cả các quan viên trong triều, không kể lớn nhỏ, đều bị bãi chức ngay.
Buổi chầu tan, các quan buồn rầu ra về.
Hạ Tri Chương ra dịch quán tiếp đãi Phiên sứ, không hề đả động gì đến quốc thư, mãi tối về nhà, tíu nghỉu không vui. Lúc này Lý Bạch vẫn còn ở chơi trong dinh Tri Chương, thấy thế, liền hỏi ngay nguồn cơn, Tri Chương đem sự tình từ đầu chí cuối thuật lại tỉ mĩ, rồi tiếp:
- Nay hạn của thánh hoàng ra thật bức bách lắm rồi, làm thế nào bây giờ. Nếu có ai đọc được, chẳng cần hạng người nào, cũng phải tiến cử ngay để tránh cơn giận dữ của thánh thượng.
Lý Bạch nghe nói, khẽ cười, đáp:
- Chữ Phiên thì nào có khó chi. Chỉ tiếc Lý này không phải triều thần, để được xem qua quốc thư.
Tri Chương vừa kinh ngạc vừa vui mừng:
- Lý Bạch quả có đọc được cho Phiên sao, Tri Chương này sẽ tâu ngay lên chúa thượng.
Họ Lý cười không đáp. Sáng ngày hôm sau, Tri Chương tiến khỏi ban chầu tâu:
- Thần có một người bạn áo vải, vốn là kẻ sĩ ở Tây Thục, họ Lý tên Bạch, học rộng nhiều tài, đọc được chữ Phiên, xin bệ hạ triệu tới, sẽ đọc được quốc thư Bột Hải ngay.
Huyền Tông chuẩn tấu, lệnh cho nội thị đến nhà Tri Chương, triệu ngay Lý Bạch vào triều gặp vua. Họ Lý bái từ, nói với sứ giả rằng:
- Thần vốn là tiện sĩ ở phương xa, học thức nông cạn, không thể lấy chuyện chữ nghĩa làm đủ để vào ra mắt chúa thượng, vào triều gặp bách quan văn võ. Dẫu có ơn triệu tới, nhưng quả không dám vâng mệnh.
Nội thị cứ thế về phục chỉ. Hạ Tri Chương lại bước ra tâu:
- Thần vốn biết người này văn chương trùm trời đất, học vấn thật kinh người, chư tử bách gia chẳng sách gì là không đọc. Chỉ vì năm ngoái vào thi, bị quan ngoại trường sổ bỏ quyển thi, không đưa vào danh bạ, nên chẳng được đậu dù cuối bảng. Nay mặc áo vải vào triều, lòng cũng không khỏi hồ thẹn, vậy nên không dám vâng lời thánh triệu. Ngửa xin bệ hạ đặc ân, cho mũ đai, lệnh một triều thần tới ban, rồi triệu vào, vừa tỏ được việc cầu hiền hạ sỹ của thánh thượng.
Dương Quốc Trung cùng Cao Lực Sĩ nghe ra định ngăn trở, thì thấy Nhũ Dương Vương Tiến, Tả tướng Lý Thích Chi, kinh triệu doãn Ngô Quân, Tập hiền viện đãi chế Đỗ Phủ, đều đồng thanh tâu:
- Lý Bạch kỳ tài, chúng thần đều biết rõ, xin thánh thượng không phải ngờ vực gì, hãy cho triệu ngay vào triều kiến.
Huyền Tông thấy chúng dân đều khen tài Lý Bạch, liền truyền chỉ phong tước ngũ phẩm, ban cho mũ áo, gọi vào bệ kiến. Quốc Trung, Lực Sĩ không dám nói gì. Tri Chương phụng chỉ về dinh tuyên dụ Lý Bạch, nói rõ lòng trân trọng của thiên tử. Họ Lý không dám lại chối, lập tức mang đai, đội mũ vua ban, cùng Tri Chương cưỡi ngựa vào triều Tung hô, triều bái xong, Huyền Tông thấy Lý Bạch tướng mạo anh tài, phẩm độ phi phàm, mười phần vừa ý, ôn tồn phủ dụ:
- Khanh tài cao mà thi không đậu, nên mang lòng oán trách, nhưng trẫm cũng rõ khanh không bao giờ phải ẩn nhẫn suất đời đâu. Nay có sứ giả Phiên mang quốc thư tới, chữ nghĩa kỳ quái, chẳng ai đọc được Trẫm nghe khanh biết nhiều hiểu rộng, tất có thể giảng rõ cho trẫm.
Liền lệnh thị thần đưa quốc thư Bột Hải cho Lý Bạch, họ Lý cầm xem qua một lượt, tâu rằng:
- Chữ Phiên có nhiều loại khác nhau, đây chính là chữ nước Bột Hải. Nhưng lâu nay luật thiên triều định rõ, các thư biểu của Phiên quốc đều phải viết bằng chữ Trung Hoa, không được bỏ vào bao kín. Nay viết bằng chữ nước mình, lại dán kỹ như thế này, thì Bột Hải quả thật không một chút tuân theo nghi lễ, huống chi trong thư, lời lẽ thật ngạo mạn thật đáng giận, đáng cười.
Huyền Tông phán:
- Trong thư Bột Hải đòi những gì, nói năng ra sao? Khanh hãy đọc minh bạch cho trẫm nghe!
Lý Bạch vâng mệnh, cầm thư Phiên trong tay, đứng trước ngự điện, dịch ra âm Đường của Trung Hoa, tiếng nghe sang sảng khắp sân chầu. Trong thư đại lược nói rằng:
"Vua Đại Khả Độc nước Bột Hải
Thư gửi tới Hoàng đế Đường triều,
Từ ngày hoàng đế xâm chiếm Cao Ly, tiến sát tới biên giới nước ta, quân đội nhiều phen xâm phạm vào lãnh thổ ta, nghĩ rằng đều bởi ý của hoàng đế mà có vậy. Vì vậy nay ta không thể nhẫn nại nữa, sai quan đem thư này tới tuyên cáo rằng: Phải đem cả một trăm sáu mươi thành của Cao Ly nhường lại cho nước ta, ta sẽ có vật quý cống lễ hàng năm: Thỏ của Tháp Bạch Sơn, vải côn của vùng Nam Hải, trống của Sách Thành, hươu của Phù Dư, lợn của Giao Hiệt, ngựa của Tản Vân, bông của Yêu Đã, cá diếc của vùng Hà Đà Mi, mận của Cửu Đô, lê của Lạc Du... những thứ này của các vùng hàng năm tiến cung một lần, nước các ngươi cũng sẽ có phần.
Nhược bằng không nghe, nước ta sẽ khởi binh tàn sát, hãy chờ xem thắng bại về ai!
Văn vũ quan viên, thấy Lý Bạch đọc thư Phiên dõng dạc trôi chảy, không ai không kinh ngạc. Huyền Tông nghe lời lẽ trong thư, mặt rồng buồn rầu, hỏi trăm quan:
- Nước Phiên vô đạo, định cùng ta tranh chiếm Cao Ly, thì thật là hao người tốn của, nay nên ứng phó ra sao?
Lý Lâm Phủ tấu:
- Người Phiên chẳng qua nói cho oai, nhưng xem ra binh lực làm sao có thể chống lại thiên triều. Nay nên cảnh báo các tướng ỡ biên phòng thủ nghiêm ngặt, nếu chúng xâm phạm, phải dẫn binh tiêu diệt ngay.
Dương Quốc Trung tâu:
- Cao Ly xa xôi, vốn là vùng nằm ngoài biên giới, việc binh đao năm này qua năm khác liên miên, thật là với tay khó với tới. Bằng hãy bỏ quách mấy thành xa xôi, rồi dồn mọi tướng sĩ, binh lính, cố sức mà giữ lấy thành ở bên trong biên giới là tốt hơn cả.
Lúc này Tiết lộ sứ Sóc Phương là Vương Trung Tự cũng đang trong sân chầu. Nghe họ Lâm họ Dương, liền tiến đến tâu:
- Thuở xưa Thái Tông Hoàng đế ba lần chinh phạt Cao Ly, sức người sức của đều khô cạn, đến thời Cao Tông Hoàng đế, đại tướng Tiết Nhân Quý đem hàng mấy vạn hùng binh; lớn nhỏ đánh nhau hàng mấy chục lần, mới định yên được. Nay sao lại dễ dàng bàn chuyện bỏ đi. Nhưng lâu nay yên hòa mãi, người người quên cả chuyện đao binh, nếu bằng không muốn chuyện xảy can qua, thì dành ngồi chịu nhẫn nhục nhìn bọn nước nhỏ khinh thị thôi.
Các quan bàn luận mãi không xong, Huyền Tông cũng trầm ngâm việc chưa dám quyết. Lý Bạch bèn tâu:
- Việc này thật không để thánh thượng lo phiền đến thế. Thần nghĩ rằng vua Phiên buông những lời xấc xược như vậy, chẳng qua là để thăm dò động tĩnh của thiên triều ra sao. Ngày mai xin hãy triệu sứ Phiên vào triều, lệnh cho thần ngay trước mặt, thảo thư trả lời, lấy một thứ giấy quý, dùng ngay văn tự của Bột Hải, nói có ân có uy, để làm cho vua Phiên vừa sợ vừa phục, có thể khiến cho Khả Độc phải chắp tay mà hàng thuận.
Huyền Tông cả mừng, hỏi thêm:
- Khả Độc có phải là tên vua của nước Bột Hải chăng?
Lý Bạch thưa:
- Nước Bột này xưng vua là Khả Độc, cũng giống như vua Hồi Hột xưng là Khả Hãn, Thổ Phồn vua xưng là Tán Phổ, Nam Di là Chiếu, Khả Lăng xưng là Thái Mạc Uy, cũng đều do tục quen của từng nước mà ra vậy.
Huyền Tông thấy họ Lý đối ứng không cùng, rất là vừa lòng, liền ban chức Hàn lâm học sĩ, cho dự yến ở Kim Hoa điện, gọi nhạc công cùng con hát đến góp vui. Đêm đó lại cho ngự ngay trong điện.
Các quan thấy Lý Bạch được nhà vua yêu quý, đều không giấu dược lòng kính trọng, ao ước. Chỉ có Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ trong lòng không vui, nhưng cũng không biết làm thế nào.
Sáng ngày hôm sau, Huyền Tông lên điện sớm, trăm quan đã có mặt đầy đủ. Hạ Tri Chương dẫn sứ Phiên vào triều đợi chỉ. Lý Bạch đội mũ sa đen, mặc áo bào tía, cầm hốt bằng ngà voi hình cá vàng, ung dung trước điện, phong thái chẳng khác gì bậc thần tiên, đầy vẻ thanh cao, một tay cầm quốc thư của nước Bột Hải nhìn sứ giả mà rằng:
- Tiểu bang dâng thư, ngôn từ ngạo mạn, chậm ư vô lễ, lẽ nên hưng binh trừ diệt. Nay hoàng thượng ta, đức thánh ngang trời, không theo thói ngược nghịch, sẽ có chiếu thư trả lời, nhà ngươi hãy yên lặng kính cẩn mà nghe.
Sứ Phiên run sợ, đứng như con sếu dưới thềm son. Huyền Tông truyền bày thất bảo án thư, ngay bên cạnh điện, đủ văn phòng tứ bảo, ban cho Lý Bạch được ngồi ngay trên đôn phủ gấm thêu để thảo chiếu. Họ Lý liền tâu:
- Đôi hài thần hiện mang, sợ không sạch sẽ, lo làm bẩn mất thảm quý, cúi xin bệ hạ gia ân, thần xin cởi hài rồi mới dám bước lên điện.
Huyền Tông truyền chỉ, lấy ngay loại hài vân màu đỏ của vùng Ngô Lăng, vua vẫn dùng lâu nay. Tiểu nội thị mang ra, giúp Lý học sĩ thay. Họ Lý lại tâu:
- Thần có một lời, xin bệ hạ tha cho tội cuồng vọng, mới dám tâu để bệ hạ nghe.
Huyền Tông bằng lòng phán:
- Trẫm xin ưng lời tâu của khanh?
Lý Bạch tiếp:
- Thần dạo trước vào ứng thi, chẳng may gặp phải tả tướng Dương Quốc Trung cùng thái úy Cao Lực Sĩ đuổi ra. Hiện nay có hai người đang đứng hầu trước mặt bệ hạ. Thần những thấy mà ấm ức, nay vâng mệnh bệ hạ thảo chiếu thư, thay lời thánh chúa mà tuyên dụ nước ngoài, không gì có thể so được. Cúi xin bệ hạ sai Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ cởi hài, để thấy được lòng trân trọng khác thường của bệ hạ, sau nữa là để sứ Phiên ở nơi xa xôi không dám khinh chiếu thư, mà tự nhiên đem lòng quy phục vậy.
Huyền Tông thấy đang lúc cần người, vả lại trong lòng yêu tài Lý Bạch, liền y cho. Họ Dương, họ Cao đều thầm nghĩ: "Hôm trước trong trường thi, sĩ nhục hắn ta, nay nhân cơ hội này mà báo thù. Dẫu chúng ta có căm gan tím ruột đi nữa thì thư Phiên mãn triều văn võ không người đọc được, chúa thượng chỉ còn nhờ vào hắn ta, chúng ta có không tuân cũng chẳng được nào”. Thế rồi một cởi hài cho Lý Bạch, một thì mài mực, cả hai đứng hầu hai bên. Lý Bạch thấy thế mới nghiễm nhiên ngồi xuống, nâng bút lông thỏ, tay không một lúc dừng. Chẳng mấy chốc thảo xong chiếu thư, lấy một tờ giấy khác viết chữ đề ngoài, rồi đem tất cả trình lên long án của Huyền Tông.
Huyền Tông xem xong vui mừng phán:
- Trông thật đường hoàng, nhất định sẽ làm cho kẻ ở xa xôi kia mất vía.
Lại cầm giấy bao ngoài xem qua, xuýt xoa ngợi khen, thấy cùng thứ chữ với quốc thư Bột Hải gửi tới, nên một chữ chẳng ai đọc được, chỉ tấm tắc ngạc nhiên khen ngợi. Huyền Tông phán:
- Học sĩ hãy tuyên đọc cho Phiên sứ nghe, rồi sau đó hãy dùng quốc ấn đóng vào mà niêm phong luôn.
Lại sai Cao Lực Sĩ thay hài cho Lý Bạch. Họ Lý xuống điện, gọi Phiên sứ lại nghe chiếu, rồi dõng dạc tuyên đọc.
Chiếu viết:
"Hoàng đế Đại Đường ban chiếu dụ Khả Độc nước Bột Hải:
Bản triều theo mệnh trời mà mỡ nước, phủ dụ bốn biển, vừa dùng ân vừa dùng uy, trong ngoài đều vâng theo.
Hiệt Lợi xưa bội ước, lập tức bị trói. Nên nỗi Tân La dâng lụa cẩm mà ngợi ca, Thiên Trúc thì dâng chim biết nói, Ba Tư tiến cống rắn biết bắt chuột, Phất Lâm thì dâng chó biết dắt ngựa, Khả Lăng dâng chim anh vũ trắng, Lâm Ấp đem mừng ngọc dạ quang, Cột Lợi hãn nạp ngựa tốt, Nề Ba La thì hiếu thuận bằng gỏi cá diếc. Đại phàm các nước xa xôi, đều có dâng cống đặc sản địa phương, cũng bởi do sợ uy mà kính đức vậy. Cũng là một cách chuộc lấy sự yên bình.
Cao Ly chống lại mệnh trời, lập tức mấy phen tiễu trừ, có kể hàng trăm lần, đến nỗi cả triều bị diệt, đấy chẳng phải là tấm gương lớn về tội nghịch thiên bạo địa hay sao?
Huống chi ngươi là nước nhỏ, phụ vào Cao Ly, so với Trung Hoa chẳng qua chỉ bằng một quận, binh tướng, giáp mã, lương thực không được một phần của muôn vạn, mà vẫn học thói bọ ngựa giơ càng chống xe, ngỗng mái đọ trời cao, thì khi thiên binh kéo tới, ngọc đá đều thành tro, vua sẽ bị trói như Hiệt Lợi, nước sẽ theo gót như Cao Ly.
Nay trẩm thể theo lòng hiếu sinh của đất trời, tha cho ngươi tội cuồng ngạo, hãy mau mau hối cải, tay rửa ruột gan, cống nạp hàng năm, đừng nghĩ đến nỗi nhục trước mắt, thì khỏi được nỗi lo diệt vong sau này, để đến nỗi mua cười cho bọn đồng loại. Vừa rồi dâng thư không chịu theo điển lệ của thiên triều, may mà vòng đất đai của ngươi ở, vốn là chốn hoang dã xa xôi bỉ lậu, chưa từng được thấy văn hiến Trung Hoa, vì vậy trẫm ban ơn mà viết chiếu thư, đóng thêm quốc ấn, lại dùng thứ chữ của nước ngươi, tưởng cũng là để ngươi biết vậy.
Hãy kính cẩn mà đọc kỹ
Không được xem làm thường.”
Lý Bạch đọc, tiếng nghe sang sảng, sứ Phiên phủ phục lắng nghe, không dám ngẩng nhìn. Nghe xong, nhận chiếu thư, ra khỏi triều đường. Hạ Tri Chương đưa tiễn ra tận cổng kinh thành. Sứ Phiên hỏi riêng:
- Học sĩ là chức quan gì, mà Tả thừa tướng phải mài mực, quan Thái úy phải cởi hài?
Tri Chương đáp:
- Quan đại thần Tả thừa tướng, quan cận thần Thái úy, chẳng qua cũng chỉ là học quan cao quý trong trần gian này thôi. Còn vị học sĩ họ Lý kia vốn là vị tiên trên thượng giới bị giáng xuống trần gian, dạo qua nhân thế, giúp rập triều đình, cho nên thứ bậc phải khác nhau đến thế.
Sứ Phiên tròn mắt thán phục mà từ giã, về đến bản quốc, gặp quốc vương, tâu lại rõ ràng mọi việc. Khả Độc xem chiếu thư gắn dấu son thì kinh hãi, liền thương nghị cùng các quan trong triều:
- Thiên triều quả có thần tiên giúp đỡ, làm thế nào mà địch được?
Bèn viết ngay một biểu xin hàng, sai sứ giả vào triều tạ tội, tình nguyện đến kỳ tiến cống, không dám đổi ý, đó là chuyện sau này.
Chính là:
Chẳng cần gươm giáo, người xa phục
Tờ giấy tài hơn vạn đội binh.
***
Hãy nói chuyện Huyền
Tông yêu kính Lý Bạch, định ban cho vàng ngọc lụa gấm, lại phong cho quan chức
cao. Lý Bạch đều từ tạ không nhận:
- Thần cả đời chỉ thích tiêu dao nhàn tản. Làm chức cung phụng ngay trong triều, như Đông Phương Sóc đời nhà Hán cũ, chi bằng ngày nào cũng được rượu ngon uống cho thật say sưa thì hơn.
Huyền Tông liền hạ chiếu cho Quang lộc tự, ngày ngày phải dâng đủ rượu ngon, không trói buộc làm việc gì, tùy ý họ Lý du lãm, uống rượu làm thơ, luôn triệu vào cung khuyết, thưởng hoa ban yến.
Lúc này trong cung vốn rất quý loại hoa thược dược, vùng Dương Châu tiến cống, chính là loài mẫu đơn ngày nay, có nhiều loại khác nhau: đỏ thắm, tím đen, phớt vàng, hồng nhạt, trắng toát. Các loại này đều được trồng rất nhiều ở phía đông hồ Hưng Khánh, ngay dưới thềm Trầm Hương đình.
Gặp lúc thời tiết trong trẻo, ấm áp, thược dược nở rộ, Huyền Tông truyền cho nội thị bày yến trong dinh, cùng Dương Quý Phi thưởng ngoạn. Quý Phi ngắm hoa rồi thưa:
- Hoa này quả là vua trong các loài hoa, thực đáng để bậc đế vương thưởng thức.
Huyền Tông cười phán:
- Hoa tuy đẹp nhưng không biết nói, sao bằng được Quý Phi là hoa biết nói.
Đang cười nói thì nhạc công Lý Quý Niên dẫn một đội mười sáu Lê Viên đệ tử mới tuyển, tay xách nhạc cụ theo lệnh vào hầu, lạy chào xong, liền chờ chúa thượng cùng Quý Phi Nương nương uống rượu để tấu nhạc. Huyền Tông phán:
- Khoan đã, hôm nay cùng Quý Phi thưởng hoa, có lẽ nào lại dùng từ khúc cũ sao?
Rồi lập tức sai Lý Quy Niên:
- Lấy ngựa Ngọc Hoa tông trẫm thường cưỡi, lập tức triệu Lý Bạch vào đây, làm ngay một bài từ mới để cho toàn bích.
Lý Quy Niên vội chạy như bay ra khỏi cung, nhảy lên ngựa, kéo theo Ngọc Hoa tông mã, cùng mấy nhạc công khác, đến nha môn hàn lâm viện tuyên triệu Lý Học sĩ. Thấy nha dịch trong viện nói rằng:
- Lý Học sĩ sớm nay ăn mặc xuềnh xoàng, một mình ra chợ Trường An tìm quán uống rượu rồi.
Lý Quy Niên liền bảo nha dịch trong viện cầm theo áo mũ, đai ngọc, hốt ngà của Lý Bạch, cùng ra chợ, tìm khắp ngõ ngách, mãi mới thấy ở tòa cao lâu phía trước, vẳng lại giọng ngâm như người cuồng:
Ba chén hiểu đạo lớn
Một vò hợp tự nhiên
Cứ say cho túy lúy
Làm kẻ tỉnh thà điên.
Lý Quy Niên nghe ra, nói:
- Giọng ngâm oang oang thế này, chẳng Lý Học sĩ thì còn ai vào đó nữa?
Xuống ngựa, cùng mọi người xông vào cao lâu, nhảy ngay lên gác, thì quả Lý Bạch, đang ngồi chiếm cả bàn lớn trông xuống đường phố, vò rượu trên bàn còn cắm thêm một bông hoa tú cầu, riêng một mình trước hoa uống rượu, cũng đã say nghiêng ngửa rồi mà tay vẫn còn nâng chén chưa chịu buông.
Lý Quy Niên đến ngay trước mặt Lý Bạch, cao giọng:
- Phụng thánh chỉ triệu ngay Lý Học sĩ vào Trầm Hương dinh kiến giá .
Khách rượu ngồi đầy xung quanh lúc này mới chắc đó là Lý Trích Tiên, lại biết có thánh chỉ, vội đứng dẹp sang bên. Lý Bạch ngược lại hoàn toàn thản nhiên, lặng lẽ đặt chén xuống bàn, nhìn Lý Quy Niên, đọc một câu thơ của Đào Uyên Minh:
Ta say muốn ngủ, bạn biến cho.(1)
1 Đào Uyên Minh: tức Đào Tiềm người đời Tấn, quê Tầm Dương, làm huyện lệnh Bành Trạch. Thanh tra đến, ông thở dài: “Ta không nên vì năm đấu gạo mà gãy lưng". Bỏ quan về nhà, rất thích rượu (Tầm Nguyên từ điển). Nguyên văn: "Ngã túy dục niên, quân thả khứ”. Chữ "Quân", hiểu là vua cũng được.
Ngâm xong, quay ra ghế định ngủ, Lý Quý Niên không biết làm thế nào, đành giục bọn người đi theo xúm lại khiêng Lý Bạch xuống lầu nâng lên ngựa Ngọc Hoa tông, rồi cả đoàn trước sau hộ tống, Lý Quy Niên theo không dám rời mắt.
Đến trước Ngũ Phượng lâu, đã có nội thị chờ sẵn truyền chỉ: cho phép Lý Học sĩ cứ cưỡi ngựa mà vào cung. Quy Niên vội mang đai mũ, áo bào, khoác vào cho Lý Bạch ngay trên ngựa, vì vậy giải áo thắt cũng chẳng hết. Qua hồ Hưng Khánh, vào thẳng Trầm Hương dính, mới đỡ Lý Bạch xuống ngựa, vẫn còn say không thể làm lễ bái mạng, Huyền Tông lệnh trải thảm lông màu tím ngày ở thềm đình cho Lý Bạch nằm nghỉ một lát, tự thân Huyền Tông lại chăm sóc, cởi ngự bào đắp lên mình, thấy miệng chảy nước dãi, thân lấy ống tay áo chùi cho. Dương Quý Phi thưa:
- Thiếp nghe nói lấy nước lạnh rảy vào mặt có thể tỉnh rượu.
Liền sai nội thị lấy nước hồ Hưng Khánh, truyền cho Niệm Nô, ngậm nước hồ mà phun vào mặt. Lý Bạch mới bàng hoàng khẽ mở đôi mắt, thấy ngay ngự giá, hoảng hốt đứng dậy, phủ phục dưới thềm tâu:
- Thần tội đáng chết vạn lần!
Huyền Tông thấy Lý Bạch vẫn còn ngơ ngác, như chưa tỉnh hẳn, sai tả hữu đỡ cho ngồi ngay thêm trước. Mặt khác truyền cho ngự trù Quang lộc tự bào nhân (1) đem chả cá tươi của nước Việt cống, làm ngay ba bát thang giải rượu.
1 Bào nhân: người làm bếp, ngự trù: nhà bếp nấu riêng cho vua. Quang Lộc tự: nơi đặc trách lo việc ăn uống, tiệc tùng của vua.
Chẳng mấy chốc, nội thị bưng thang giải rượu đựng trong bát vàng đến. Huyền Tông thấy hơi nóng còn bốc nghi ngút, tự tay cầm hốt ngà khẽ quạt khá lâu, rồi ban cho Lý Bạch. Lý Bạch ăn xong, đã thấy tâm thần tỉnh táo, liền dập đầu tạ ơn:
- Thần quá tham rượu ngon, đến mức điên đảo không còn biết trời đất. Bệ hạ đã không bắt tội kẻ điên này, mà lại còn gia ân đến thế, thần thật lấy làm hổ thẹn. Mai này ruột gan có lầy bùn đất, cũng không đủ báo muôn một ơn sâu nặng của bệ hạ hôm nay.
Huyền Tông phán:
- Hôm nay triệu khanh vào đây, cũng chẳng có việc gì lạ...
Rồi chỉ dưới thềm đình mà tiếp:
- Chỉ bởi mấy cây thược dược này thịnh khai, trẫm cùng Quý Phi thưởng ngoạn, không muốn nghe điệu nhạc cũ, nên bảo nhạc công hãy chờ khanh vào làm một bài từ mới vậy.
Lý Bạch vâng lệnh, chẳng cần nghĩ ngợi gì, làm ngay một khúc từ "Thanh bình điệu" trình lên:
Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng
Gió xuân, dìu dắt, giọt sương trong
Ví chăng non Ngọc không nhìn thấy
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông!
Huyền Tông đọc xong, mặt rồng hớn hở khen ngợi:
- Học sĩ quả là có tài của bậc tiên vậy!
Lệnh ngay cho Lý Quy Niên đem bài từ phổ nhạc, sai Lý Mộ thổi sáo Khương, còn Hoa Nô thì đánh trống Yết Thất, Hạ Hoài Trí gõ sênh, Trịnh Quan âm gảy đàn tỳ bà, Trương Dã Cô thổi kèn, Hoàng Phiên Sước gõ phách làm nhịp, tất cả cùng hòa tấu, quả nhiên nghe thật du dương êm ái. Tiếng nhạc dừng, Huyền Tông phán?
- Bài từ của khanh hay lắm, đang lúc thích nghe thì lại đã hết rồi. Học sĩ đại tài, hãy vì trẫm mà vẫy bút thêm một khúc nữa.
Lý Bạch tâu:
- Thần vốn chỉ thích rượu, xin bệ hạ lấy chén thừa ban cho, để giúp thêm cho hứng vậy!
Huyền Tông hỏi:
- Khanh vừa mới tỉnh rượu, sao lại đòi uống, sợ lại say nữa, thì làm thơ thế nào được!
Lý Bạch thưa:
- Thẩn đã có thơ rằng: "Thèm rượu ước cạn biển, Cuồng ca muốn lên trời!". Thần cũng đã mắc tội cao ngạo mà xưng là "Ông tiên trong làng rượu”, khi say, hứng thơ lại càng bay bổng, hào hùng vậy!
Huyền Tông cả cười, truyền nội thị lấy ngay Bồ đào mỹ tửu của châu Tây Lương vừa tiến cống, rót ban cho Lý Bạch một đấu bằng vàng. Lý Bạch cúi nhận, uống một hơi cạn sạch, lại nâng ngay bút lông thỏ, viết tiếp:
Hương đông móc đượm, một cành hồng
Non Giáp mây mưa những cực lòng
Ướm hỏi Hán cung ai mảng tượng
Điểm tô nàng Yến tốn bao công!
Huyền Tông xem xong, lại càng rạng rỡ mặt rồng, nức nở khen:
- Thật là mới mẻ, lạ lùng, thanh thoát. Không nên để cho bọn nhạc công này làm tạp nhiễm đi mất.
Lệnh cho Niệm Nô có giọng trong trẻo thử hát, còn tự mình thì thổi ngọc địch họa theo, nghe thật thánh thót, tinh khiết. Khúc vừa dứt, Huyền Tông lại cười nói với Lý Bạch:
- Trẫm thật đang hứng chí, phiền học sĩ hãy làm thêm một khúc nữa, để cho trọn vẹn niềm vui của ngày hôm nay.
Truyền lấy ngay nghiên mực ngự dụng Thụy Khê nghiên, bắt Dương Quý Phi hai tay nâng lên để xin chữ của bậc đại gia. Lý Bạch mấy lần từ tạ, rồi phút chốc, lấy đẫm mực vào bút lông thỏ, lại đề ngay một bài dâng lên. Bài từ viết:
Sắc nước hương trời, khéo sánh đôi,
Quân hương nhìn ngắm, những tươi cười
Sầu xuân man mác tan đầu gió
Cửa bắc đình Trầm đứng lả lơi. (1)
1 Cả ba bài "Thanh bình điệu" này theo bản dịch của Ngô Tất Tố. Thơ Đường.
Huyền Tông xem rồi, càng hớn hở, phán:
- Bài này đem mặt người đối với bóng hoa, cả hai đều tả được vẻ rực rỡ, thật là tuyệt diệu không nói hết. Lần ca này, tưởng Quý Phi cũng nên đóng góp tài năng của mình chứ.
Truyền ngay Vĩnh Tân, Niệm Nô đồng ca, Huyền Tông tự thổi ngọc địch, sai Quý Phi gảy đàn tỳ bà họa theo. Hòa xong, lại lệnh Lý Quy Niên đem cả ba khúc hòa nhạc. Quý Phi thân rót rượu mời. Huyền Tông cũng thổi ngọc địch họa theo lần nữa. Mỗi khúc lại phổ theo một điệu khác nhau, để bài ca láy đi láy lại mãi không hết. Khúc hát ngừng, Dương Quý Phi bái tạ, Huyền Tông cười phán:
- Không phải trẫm, hãy tạ ơn Lý Học sĩ kia!
Quý Phi liền lấy cốc pha lê, rót dầy rượu mời Lý Bạch, khẽ khàng tạ ơn ý thơ ngọt ngào. Lý Bạch lùi không kịp, vội quỳ xuống uống một hơi cạn cốc rượu, rồi cúi đầu tạ Quý Phi.
Huyền Tông lại truyền lấy Ngọc Hoá tông mã đưa Lý Học sĩ về Hàn Lâm viện. Từ đấy, danh tiếng, tài năng Lý Bạch càng nổi, chẳng những Huyền Tông yêu quý, mà Dương Quý Phi cũng rất kính trọng.
Nhưng Cao Lực Sĩ thì giận họ Lý, thầm nghĩ: "Ta nay được thánh chúa yêu mến, uy thế lẫy lừng, Hoàng Thái tử còn gọi bằng anh, các bậc vương bá hữu đều gọi ta bằng ông, hoặc còn gọi là cha. Chỉ riêng cái thằng học sĩ họ Lý này, dám nhớ đến mấy lời sĩ nhục của ta trước kia, mà lợi dụng dịp may để làm ô uế ta trước điện vàng. Hiện nay thiên tử đang mười phần kính trọng họ Lý, ngay cả đến Dương Nương nương cũng rất khâm phục tài năng của lão học sĩ điên khùng này. Vạn nhất mà người này được dùng vào việc lớn, thì thật là tai họa cho bọn ta. Nay phải tìm cách nào, cản trở đường tiến của họ Lý mới xong".
Lại đắn đo thêm: "Ta phải tìm trong bài "Thanh bình điệu", ý nào đó lắt léo, rồi bẻ ngoặt sang mà đánh vào lòng nghi kỵ của Dương Nương nương, dù thiên tử có muốn dùng đi nữa, cũng không thể nào đánh ngã được lòng ghen ghét của Dương Nương nương, thì chẳng còn cách nào để cứu họ Lý khỏi bị lạnh nhạt vậy?".
Kế sách đã định, Cao Lực Sĩ liền vào cung, gặp lúc Quý Phi đang một mình dựa lan can ngắm hoa, miệng lẩm nhẩm hát "Thanh bình điệu", thỉnh thoảng lại gà gật đầu tắm tắc đắc ý. Cao Lực Sĩ thấy xung quanh không ai, thừa cơ tâu ngay rằng:
- Theo ý nô tài này, thì nương nương phải căm tức bài này mới phải, cớ sao lúc nào cũng thầm hát là sao?
Quý Phi kinh ngạc hỏi:
- Tại sao lại phải căm tức?
Cao Lực Sĩ thưa:
- Họ Lý nói rằng: "Điểm tô nàng Yến tốn bao công!", là có ý so sánh nương nương với Triệu Phi Yến. Thử hỏi thuở xưa Phi Yến làm được những việc gì, nếu đã như thế, thì sẽ thấy rõ ý khích bác ở đây, sao nương nương lại không thấy ra! .
Nguyên là Huyền Tông từng đọc "Triệu Phi Yến ngoại truyện", nên biết Phi Yến thân hình nhỏ gầy, đứng trước gió, chỉ sợ bay đi mất, thường trêu Dương Quý Phi:
- Nếu là ái khanh thì gió thổi mạnh yếu thế nào cũng chẳng sợ.
Chính là để trêu Quý Phi béo tốt. Quý Phi vốn đẫy đà, đã từng bị Mai Phi rủa là "Con tiện tỳ phì nộn", cho nên từ đó Quý Phi rất căm những ai kia nói mình béo. Lý Bạch đem Phi Yến so với Quý Phi, thực ra cũng chẳng có ý xấu, mà còn là ý tốt nữa kia; nhưng nay bị Cao Lực Sĩ xuyên tạc, lại ngầm chỉ ra rằng Phi Yến thì tư thông với Yến Xích Phượng, giống như Quý Phi có tình riêng với An Lộc Sơn, lại cũng nhằm bới móc một lần nữa vậy. Những lời này của Cao Lực Sĩ, đánh trúng những chỗ khuyết tật của Quý Phi, cho nên dần dần Quý Phi cũng chuyển sang giận dữ, cho đến khi lòng riêng đầy thù hận.
Từ đó, trước mặt Huyền Tông, Quý Phi thường nói Lý Bạch là kẻ cuồng ca, rượu chè phóng túng, du đãng; không chịu tuân theo nghi lễ vua tôi. Huyền Tông nhiều lần định cất nhắc, đều bị Quý Phi cản trở. Dương Quốc Trung còn cái nhục mài mực, nên cũng góp thêm không ít lời bới móc. Huyền Tông vẫn kính yêu họ Lý, bởi trong cung không ai thích, cũng chẳng muốn triệu vào ban yến trong nội cung nữa, cũng chẳng còn chuyện giữ lại ngủ trong nội điện như ngày nào.
Lý Bạch hiểu ngay giọng lưỡi của bọn tiểu nhân, nên dâng sớ xin về nghỉ. Huyền Tông đời nào bằng lòng cho họ Lý về, ban chỉ an ủi khuyến khích, mà không cho. Lý Bạch từ đấy về sau, chỉ càng thêm phát cuồng, lúc nào cũng uống rượu say tràn rồi ngâm hết bài thơ này đến bài khác:
Chính là:
Mong trong núi chứa ngàn ngày rượu
Túy lúy say cho đến thái bình. (1)
Không rõ sự thể về sau ra sao, hãy xem hồi sau phân giải.
1 cổ thi nguyên văn: "Ân đắc sơn trung thiên nhật tửu; Minh nhiên trực đáo thái bình thi”. Theo "Tửu sử": Lưu Huyền Thạch, đi vào núi Trung Sơn mua được "Thiên nhật tửu”, rượu uống một lần, say nghìn ngày mới tỉnh. Lại theo "Sưu thần ký": Đích Huy, người Trung Sơn, nấu được "Thiên nhật tửu” cũng uống một lần say nghìn ngày như thế!
- Thần cả đời chỉ thích tiêu dao nhàn tản. Làm chức cung phụng ngay trong triều, như Đông Phương Sóc đời nhà Hán cũ, chi bằng ngày nào cũng được rượu ngon uống cho thật say sưa thì hơn.
Huyền Tông liền hạ chiếu cho Quang lộc tự, ngày ngày phải dâng đủ rượu ngon, không trói buộc làm việc gì, tùy ý họ Lý du lãm, uống rượu làm thơ, luôn triệu vào cung khuyết, thưởng hoa ban yến.
Lúc này trong cung vốn rất quý loại hoa thược dược, vùng Dương Châu tiến cống, chính là loài mẫu đơn ngày nay, có nhiều loại khác nhau: đỏ thắm, tím đen, phớt vàng, hồng nhạt, trắng toát. Các loại này đều được trồng rất nhiều ở phía đông hồ Hưng Khánh, ngay dưới thềm Trầm Hương đình.
Gặp lúc thời tiết trong trẻo, ấm áp, thược dược nở rộ, Huyền Tông truyền cho nội thị bày yến trong dinh, cùng Dương Quý Phi thưởng ngoạn. Quý Phi ngắm hoa rồi thưa:
- Hoa này quả là vua trong các loài hoa, thực đáng để bậc đế vương thưởng thức.
Huyền Tông cười phán:
- Hoa tuy đẹp nhưng không biết nói, sao bằng được Quý Phi là hoa biết nói.
Đang cười nói thì nhạc công Lý Quý Niên dẫn một đội mười sáu Lê Viên đệ tử mới tuyển, tay xách nhạc cụ theo lệnh vào hầu, lạy chào xong, liền chờ chúa thượng cùng Quý Phi Nương nương uống rượu để tấu nhạc. Huyền Tông phán:
- Khoan đã, hôm nay cùng Quý Phi thưởng hoa, có lẽ nào lại dùng từ khúc cũ sao?
Rồi lập tức sai Lý Quy Niên:
- Lấy ngựa Ngọc Hoa tông trẫm thường cưỡi, lập tức triệu Lý Bạch vào đây, làm ngay một bài từ mới để cho toàn bích.
Lý Quy Niên vội chạy như bay ra khỏi cung, nhảy lên ngựa, kéo theo Ngọc Hoa tông mã, cùng mấy nhạc công khác, đến nha môn hàn lâm viện tuyên triệu Lý Học sĩ. Thấy nha dịch trong viện nói rằng:
- Lý Học sĩ sớm nay ăn mặc xuềnh xoàng, một mình ra chợ Trường An tìm quán uống rượu rồi.
Lý Quy Niên liền bảo nha dịch trong viện cầm theo áo mũ, đai ngọc, hốt ngà của Lý Bạch, cùng ra chợ, tìm khắp ngõ ngách, mãi mới thấy ở tòa cao lâu phía trước, vẳng lại giọng ngâm như người cuồng:
Ba chén hiểu đạo lớn
Một vò hợp tự nhiên
Cứ say cho túy lúy
Làm kẻ tỉnh thà điên.
Lý Quy Niên nghe ra, nói:
- Giọng ngâm oang oang thế này, chẳng Lý Học sĩ thì còn ai vào đó nữa?
Xuống ngựa, cùng mọi người xông vào cao lâu, nhảy ngay lên gác, thì quả Lý Bạch, đang ngồi chiếm cả bàn lớn trông xuống đường phố, vò rượu trên bàn còn cắm thêm một bông hoa tú cầu, riêng một mình trước hoa uống rượu, cũng đã say nghiêng ngửa rồi mà tay vẫn còn nâng chén chưa chịu buông.
Lý Quy Niên đến ngay trước mặt Lý Bạch, cao giọng:
- Phụng thánh chỉ triệu ngay Lý Học sĩ vào Trầm Hương dinh kiến giá .
Khách rượu ngồi đầy xung quanh lúc này mới chắc đó là Lý Trích Tiên, lại biết có thánh chỉ, vội đứng dẹp sang bên. Lý Bạch ngược lại hoàn toàn thản nhiên, lặng lẽ đặt chén xuống bàn, nhìn Lý Quy Niên, đọc một câu thơ của Đào Uyên Minh:
Ta say muốn ngủ, bạn biến cho.(1)
1 Đào Uyên Minh: tức Đào Tiềm người đời Tấn, quê Tầm Dương, làm huyện lệnh Bành Trạch. Thanh tra đến, ông thở dài: “Ta không nên vì năm đấu gạo mà gãy lưng". Bỏ quan về nhà, rất thích rượu (Tầm Nguyên từ điển). Nguyên văn: "Ngã túy dục niên, quân thả khứ”. Chữ "Quân", hiểu là vua cũng được.
Ngâm xong, quay ra ghế định ngủ, Lý Quý Niên không biết làm thế nào, đành giục bọn người đi theo xúm lại khiêng Lý Bạch xuống lầu nâng lên ngựa Ngọc Hoa tông, rồi cả đoàn trước sau hộ tống, Lý Quy Niên theo không dám rời mắt.
Đến trước Ngũ Phượng lâu, đã có nội thị chờ sẵn truyền chỉ: cho phép Lý Học sĩ cứ cưỡi ngựa mà vào cung. Quy Niên vội mang đai mũ, áo bào, khoác vào cho Lý Bạch ngay trên ngựa, vì vậy giải áo thắt cũng chẳng hết. Qua hồ Hưng Khánh, vào thẳng Trầm Hương dính, mới đỡ Lý Bạch xuống ngựa, vẫn còn say không thể làm lễ bái mạng, Huyền Tông lệnh trải thảm lông màu tím ngày ở thềm đình cho Lý Bạch nằm nghỉ một lát, tự thân Huyền Tông lại chăm sóc, cởi ngự bào đắp lên mình, thấy miệng chảy nước dãi, thân lấy ống tay áo chùi cho. Dương Quý Phi thưa:
- Thiếp nghe nói lấy nước lạnh rảy vào mặt có thể tỉnh rượu.
Liền sai nội thị lấy nước hồ Hưng Khánh, truyền cho Niệm Nô, ngậm nước hồ mà phun vào mặt. Lý Bạch mới bàng hoàng khẽ mở đôi mắt, thấy ngay ngự giá, hoảng hốt đứng dậy, phủ phục dưới thềm tâu:
- Thần tội đáng chết vạn lần!
Huyền Tông thấy Lý Bạch vẫn còn ngơ ngác, như chưa tỉnh hẳn, sai tả hữu đỡ cho ngồi ngay thêm trước. Mặt khác truyền cho ngự trù Quang lộc tự bào nhân (1) đem chả cá tươi của nước Việt cống, làm ngay ba bát thang giải rượu.
1 Bào nhân: người làm bếp, ngự trù: nhà bếp nấu riêng cho vua. Quang Lộc tự: nơi đặc trách lo việc ăn uống, tiệc tùng của vua.
Chẳng mấy chốc, nội thị bưng thang giải rượu đựng trong bát vàng đến. Huyền Tông thấy hơi nóng còn bốc nghi ngút, tự tay cầm hốt ngà khẽ quạt khá lâu, rồi ban cho Lý Bạch. Lý Bạch ăn xong, đã thấy tâm thần tỉnh táo, liền dập đầu tạ ơn:
- Thần quá tham rượu ngon, đến mức điên đảo không còn biết trời đất. Bệ hạ đã không bắt tội kẻ điên này, mà lại còn gia ân đến thế, thần thật lấy làm hổ thẹn. Mai này ruột gan có lầy bùn đất, cũng không đủ báo muôn một ơn sâu nặng của bệ hạ hôm nay.
Huyền Tông phán:
- Hôm nay triệu khanh vào đây, cũng chẳng có việc gì lạ...
Rồi chỉ dưới thềm đình mà tiếp:
- Chỉ bởi mấy cây thược dược này thịnh khai, trẫm cùng Quý Phi thưởng ngoạn, không muốn nghe điệu nhạc cũ, nên bảo nhạc công hãy chờ khanh vào làm một bài từ mới vậy.
Lý Bạch vâng lệnh, chẳng cần nghĩ ngợi gì, làm ngay một khúc từ "Thanh bình điệu" trình lên:
Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng
Gió xuân, dìu dắt, giọt sương trong
Ví chăng non Ngọc không nhìn thấy
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông!
Huyền Tông đọc xong, mặt rồng hớn hở khen ngợi:
- Học sĩ quả là có tài của bậc tiên vậy!
Lệnh ngay cho Lý Quy Niên đem bài từ phổ nhạc, sai Lý Mộ thổi sáo Khương, còn Hoa Nô thì đánh trống Yết Thất, Hạ Hoài Trí gõ sênh, Trịnh Quan âm gảy đàn tỳ bà, Trương Dã Cô thổi kèn, Hoàng Phiên Sước gõ phách làm nhịp, tất cả cùng hòa tấu, quả nhiên nghe thật du dương êm ái. Tiếng nhạc dừng, Huyền Tông phán?
- Bài từ của khanh hay lắm, đang lúc thích nghe thì lại đã hết rồi. Học sĩ đại tài, hãy vì trẫm mà vẫy bút thêm một khúc nữa.
Lý Bạch tâu:
- Thần vốn chỉ thích rượu, xin bệ hạ lấy chén thừa ban cho, để giúp thêm cho hứng vậy!
Huyền Tông hỏi:
- Khanh vừa mới tỉnh rượu, sao lại đòi uống, sợ lại say nữa, thì làm thơ thế nào được!
Lý Bạch thưa:
- Thẩn đã có thơ rằng: "Thèm rượu ước cạn biển, Cuồng ca muốn lên trời!". Thần cũng đã mắc tội cao ngạo mà xưng là "Ông tiên trong làng rượu”, khi say, hứng thơ lại càng bay bổng, hào hùng vậy!
Huyền Tông cả cười, truyền nội thị lấy ngay Bồ đào mỹ tửu của châu Tây Lương vừa tiến cống, rót ban cho Lý Bạch một đấu bằng vàng. Lý Bạch cúi nhận, uống một hơi cạn sạch, lại nâng ngay bút lông thỏ, viết tiếp:
Hương đông móc đượm, một cành hồng
Non Giáp mây mưa những cực lòng
Ướm hỏi Hán cung ai mảng tượng
Điểm tô nàng Yến tốn bao công!
Huyền Tông xem xong, lại càng rạng rỡ mặt rồng, nức nở khen:
- Thật là mới mẻ, lạ lùng, thanh thoát. Không nên để cho bọn nhạc công này làm tạp nhiễm đi mất.
Lệnh cho Niệm Nô có giọng trong trẻo thử hát, còn tự mình thì thổi ngọc địch họa theo, nghe thật thánh thót, tinh khiết. Khúc vừa dứt, Huyền Tông lại cười nói với Lý Bạch:
- Trẫm thật đang hứng chí, phiền học sĩ hãy làm thêm một khúc nữa, để cho trọn vẹn niềm vui của ngày hôm nay.
Truyền lấy ngay nghiên mực ngự dụng Thụy Khê nghiên, bắt Dương Quý Phi hai tay nâng lên để xin chữ của bậc đại gia. Lý Bạch mấy lần từ tạ, rồi phút chốc, lấy đẫm mực vào bút lông thỏ, lại đề ngay một bài dâng lên. Bài từ viết:
Sắc nước hương trời, khéo sánh đôi,
Quân hương nhìn ngắm, những tươi cười
Sầu xuân man mác tan đầu gió
Cửa bắc đình Trầm đứng lả lơi. (1)
1 Cả ba bài "Thanh bình điệu" này theo bản dịch của Ngô Tất Tố. Thơ Đường.
Huyền Tông xem rồi, càng hớn hở, phán:
- Bài này đem mặt người đối với bóng hoa, cả hai đều tả được vẻ rực rỡ, thật là tuyệt diệu không nói hết. Lần ca này, tưởng Quý Phi cũng nên đóng góp tài năng của mình chứ.
Truyền ngay Vĩnh Tân, Niệm Nô đồng ca, Huyền Tông tự thổi ngọc địch, sai Quý Phi gảy đàn tỳ bà họa theo. Hòa xong, lại lệnh Lý Quy Niên đem cả ba khúc hòa nhạc. Quý Phi thân rót rượu mời. Huyền Tông cũng thổi ngọc địch họa theo lần nữa. Mỗi khúc lại phổ theo một điệu khác nhau, để bài ca láy đi láy lại mãi không hết. Khúc hát ngừng, Dương Quý Phi bái tạ, Huyền Tông cười phán:
- Không phải trẫm, hãy tạ ơn Lý Học sĩ kia!
Quý Phi liền lấy cốc pha lê, rót dầy rượu mời Lý Bạch, khẽ khàng tạ ơn ý thơ ngọt ngào. Lý Bạch lùi không kịp, vội quỳ xuống uống một hơi cạn cốc rượu, rồi cúi đầu tạ Quý Phi.
Huyền Tông lại truyền lấy Ngọc Hoá tông mã đưa Lý Học sĩ về Hàn Lâm viện. Từ đấy, danh tiếng, tài năng Lý Bạch càng nổi, chẳng những Huyền Tông yêu quý, mà Dương Quý Phi cũng rất kính trọng.
Nhưng Cao Lực Sĩ thì giận họ Lý, thầm nghĩ: "Ta nay được thánh chúa yêu mến, uy thế lẫy lừng, Hoàng Thái tử còn gọi bằng anh, các bậc vương bá hữu đều gọi ta bằng ông, hoặc còn gọi là cha. Chỉ riêng cái thằng học sĩ họ Lý này, dám nhớ đến mấy lời sĩ nhục của ta trước kia, mà lợi dụng dịp may để làm ô uế ta trước điện vàng. Hiện nay thiên tử đang mười phần kính trọng họ Lý, ngay cả đến Dương Nương nương cũng rất khâm phục tài năng của lão học sĩ điên khùng này. Vạn nhất mà người này được dùng vào việc lớn, thì thật là tai họa cho bọn ta. Nay phải tìm cách nào, cản trở đường tiến của họ Lý mới xong".
Lại đắn đo thêm: "Ta phải tìm trong bài "Thanh bình điệu", ý nào đó lắt léo, rồi bẻ ngoặt sang mà đánh vào lòng nghi kỵ của Dương Nương nương, dù thiên tử có muốn dùng đi nữa, cũng không thể nào đánh ngã được lòng ghen ghét của Dương Nương nương, thì chẳng còn cách nào để cứu họ Lý khỏi bị lạnh nhạt vậy?".
Kế sách đã định, Cao Lực Sĩ liền vào cung, gặp lúc Quý Phi đang một mình dựa lan can ngắm hoa, miệng lẩm nhẩm hát "Thanh bình điệu", thỉnh thoảng lại gà gật đầu tắm tắc đắc ý. Cao Lực Sĩ thấy xung quanh không ai, thừa cơ tâu ngay rằng:
- Theo ý nô tài này, thì nương nương phải căm tức bài này mới phải, cớ sao lúc nào cũng thầm hát là sao?
Quý Phi kinh ngạc hỏi:
- Tại sao lại phải căm tức?
Cao Lực Sĩ thưa:
- Họ Lý nói rằng: "Điểm tô nàng Yến tốn bao công!", là có ý so sánh nương nương với Triệu Phi Yến. Thử hỏi thuở xưa Phi Yến làm được những việc gì, nếu đã như thế, thì sẽ thấy rõ ý khích bác ở đây, sao nương nương lại không thấy ra! .
Nguyên là Huyền Tông từng đọc "Triệu Phi Yến ngoại truyện", nên biết Phi Yến thân hình nhỏ gầy, đứng trước gió, chỉ sợ bay đi mất, thường trêu Dương Quý Phi:
- Nếu là ái khanh thì gió thổi mạnh yếu thế nào cũng chẳng sợ.
Chính là để trêu Quý Phi béo tốt. Quý Phi vốn đẫy đà, đã từng bị Mai Phi rủa là "Con tiện tỳ phì nộn", cho nên từ đó Quý Phi rất căm những ai kia nói mình béo. Lý Bạch đem Phi Yến so với Quý Phi, thực ra cũng chẳng có ý xấu, mà còn là ý tốt nữa kia; nhưng nay bị Cao Lực Sĩ xuyên tạc, lại ngầm chỉ ra rằng Phi Yến thì tư thông với Yến Xích Phượng, giống như Quý Phi có tình riêng với An Lộc Sơn, lại cũng nhằm bới móc một lần nữa vậy. Những lời này của Cao Lực Sĩ, đánh trúng những chỗ khuyết tật của Quý Phi, cho nên dần dần Quý Phi cũng chuyển sang giận dữ, cho đến khi lòng riêng đầy thù hận.
Từ đó, trước mặt Huyền Tông, Quý Phi thường nói Lý Bạch là kẻ cuồng ca, rượu chè phóng túng, du đãng; không chịu tuân theo nghi lễ vua tôi. Huyền Tông nhiều lần định cất nhắc, đều bị Quý Phi cản trở. Dương Quốc Trung còn cái nhục mài mực, nên cũng góp thêm không ít lời bới móc. Huyền Tông vẫn kính yêu họ Lý, bởi trong cung không ai thích, cũng chẳng muốn triệu vào ban yến trong nội cung nữa, cũng chẳng còn chuyện giữ lại ngủ trong nội điện như ngày nào.
Lý Bạch hiểu ngay giọng lưỡi của bọn tiểu nhân, nên dâng sớ xin về nghỉ. Huyền Tông đời nào bằng lòng cho họ Lý về, ban chỉ an ủi khuyến khích, mà không cho. Lý Bạch từ đấy về sau, chỉ càng thêm phát cuồng, lúc nào cũng uống rượu say tràn rồi ngâm hết bài thơ này đến bài khác:
Chính là:
Mong trong núi chứa ngàn ngày rượu
Túy lúy say cho đến thái bình. (1)
Không rõ sự thể về sau ra sao, hãy xem hồi sau phân giải.
1 cổ thi nguyên văn: "Ân đắc sơn trung thiên nhật tửu; Minh nhiên trực đáo thái bình thi”. Theo "Tửu sử": Lưu Huyền Thạch, đi vào núi Trung Sơn mua được "Thiên nhật tửu”, rượu uống một lần, say nghìn ngày mới tỉnh. Lại theo "Sưu thần ký": Đích Huy, người Trung Sơn, nấu được "Thiên nhật tửu” cũng uống một lần say nghìn ngày như thế!
HỒI 83
Đưa mắt xanh, học sĩ biết anh hùng,
Tin lòng đỏ, người phiên làm phiên trấn.
Từ rằng:
Anh hùng mắc họa
Mạng gần nguy
Gặp người, phải thì
Việc kỳ
Người kỳ
Cứu lấy nam nhi
Ngày sau dẹp loạn giải nguy cho đời
Những phường đẹp mặt, tốt lời
Toan mê hoặc chúa một hai tin dùng
Biên cương chọn đứa gian hùng
Ắt là lửa loạn cháu bùng nay mai.
Theo điệu "Thái tang tử"
Từ xưa lập huân công đại nghiệp, vẫn là việc của bậc anh hùng hào kiệt, để rồi được tước cao lộc hậu. Có thể lúc đầu khốn khổ gian nguy, nhưng về sau thì giàu có vinh hiển, cũng bởi trời trao cho mệnh lớn, trị loạn giúp dời. Cũng không thiếu gì bậc đại tài nhưng không được dùng, thậm chí chẳng có nguyên cớ rõ ràng mà vẫn mang họa vào thân, tưởng như không còn đường sống, nào ngờ "tuyệt xứ phùng sinh", gặp được kẻ có mắt xanh, biết nhìn người nhìn đời, đem sức cứu đỡ may mà thoát nạn, thời cuộc chuyển dần, lập công kiến nghiệp, gia quan tiến tước, đến nỗi thiên hạ về sau, ca ngợi công lao một đời. Lúc ấy phải nhớ tới công ơn người quân tử đã cứu mình, biết tài, lân tài, vì đất nước mà chu toàn cho một bậc anh hùng cái thế.
Nếu là kẻ tiểu nhân thì hận thù nuôi mãi, thành ung, thành thư gặp dịp sẽ thả ưng, suýt chó lấy lời mỹ miều mà mê hoặc bề trên, mưu lợi cho mình, hại người khác, chẳng nghĩ đến tai họa cho quốc gia, thật là đáng giận đáng căm.
Anh hùng mắc họa
Mạng gần nguy
Gặp người, phải thì
Việc kỳ
Người kỳ
Cứu lấy nam nhi
Ngày sau dẹp loạn giải nguy cho đời
Những phường đẹp mặt, tốt lời
Toan mê hoặc chúa một hai tin dùng
Biên cương chọn đứa gian hùng
Ắt là lửa loạn cháu bùng nay mai.
Theo điệu "Thái tang tử"
Từ xưa lập huân công đại nghiệp, vẫn là việc của bậc anh hùng hào kiệt, để rồi được tước cao lộc hậu. Có thể lúc đầu khốn khổ gian nguy, nhưng về sau thì giàu có vinh hiển, cũng bởi trời trao cho mệnh lớn, trị loạn giúp dời. Cũng không thiếu gì bậc đại tài nhưng không được dùng, thậm chí chẳng có nguyên cớ rõ ràng mà vẫn mang họa vào thân, tưởng như không còn đường sống, nào ngờ "tuyệt xứ phùng sinh", gặp được kẻ có mắt xanh, biết nhìn người nhìn đời, đem sức cứu đỡ may mà thoát nạn, thời cuộc chuyển dần, lập công kiến nghiệp, gia quan tiến tước, đến nỗi thiên hạ về sau, ca ngợi công lao một đời. Lúc ấy phải nhớ tới công ơn người quân tử đã cứu mình, biết tài, lân tài, vì đất nước mà chu toàn cho một bậc anh hùng cái thế.
Nếu là kẻ tiểu nhân thì hận thù nuôi mãi, thành ung, thành thư gặp dịp sẽ thả ưng, suýt chó lấy lời mỹ miều mà mê hoặc bề trên, mưu lợi cho mình, hại người khác, chẳng nghĩ đến tai họa cho quốc gia, thật là đáng giận đáng căm.
***
Chuyện nói về việc Lý
Bạch bị Cao Lực Sĩ vu hãm đến nỗi Dương Quý Phi tức tối, vì vậy Huyền Tông về
sau cũng không triệu vào làm cung phụng trong nội điện nữa. Lý Bạch thấy thế,
dâng sớ xin về. Huyền Tông vốn rất yêu kính họ Lý, xuống chỉ ân cần giữ lại,
không cho nghỉ.
Họ Lý ngày càng chìm đắm trong chén rượu, cũng là cách để tránh ghen ghét. Bạn rượu, ngoài Hạ Tri Chương ra, còn có Nhữ Dương Vương Tiến, tả hữu thừa tướng Lý Thích Chi, rồi bọn Thông Tông Chi, Tô Tấn, Trương Húc, Tiêu Toại, đều là những kẻ có tài rượu. Đỗ Công Bộ, đã từng làm "Bài ca tám ông tiên cùng uống rượu” - Ẩm trung bát tiên ca, sau đây:
Tri Chương (1) cưỡi ngựa như đi thuyền
Mắt hoa, ngả giếng vẫn ngủ liền
Nhữ Dương (2) ba hũ chầu kề bên,
Thèm nhỏ dãi khi gặp xe men
Tiếc chẳng làm quan nơi tửu tuyền
Tả tướng (3) một ngày tiêu vạn tiền
Rượu nốc như kình hút sông nghiêng
Vui cùng ông thánh, tránh ông hiền
Tông Chi (4) chững chạc bậc thiếu niên
Mắt trắng trời xanh nâng chén lên
Trước gió cây ngọc không ngả nghiêng
Tô Tấn(5) thờ phật, rằng ăn kiêng
Khi say những muốn trốn cửa thiền
Lý Bạch một vò, thơ trăm thiên
Li bì quán rượu ngủ đã quen
Vua đòi mà không chịu xuống thuyền:
“Thần là tiên rượu uống rượu tiên!”
Trương Húc(6) ba chén chữ thảo truyền
Trật mũ xõa tóc trước quan quyền
Vung bút quét giấy sinh mây thiêng
Tiêu Toại (7) năm hũ người thẳng lên
Cao đàm hùng biện vang xóm giềng.
1 Hạ Tri Chương: tự Quý Chân, xưng là "Tứ Minh cuồng khách", người miền Nam, không quen cưỡi ngựa, ngã vì say, rơi xuống giếng vẫn ngủ.
2 Nhữ Dương Vương, tên Tiến. Say rượu không thể đi từ trên điện xuống, vua phải nhờ người đỡ. Thấy hơi rượu, đồ nấu rượu đã thèm nhỏ dãi.
3. Lý Thích Chi, từ chức tể tướng về, suốt ngày uống rượu, gọi rượu trong là rượu thánh, rượu đục là rượu hiền.
4 Thôi Tông Chi: người đẹp, rượu vào càng đẹp chẳng khác nào cây bằng ngọc đứng trước gió.
5 Tô Tấn, ăn chay thờ Phật, thèm rượu bỏ chùa mà đi.
6 Trương Húc càng say viết chữ thảo càng đẹp, xõa tóc nhúng cả đầu vào nghiên mực, dùng đầu mà viết chữ, nên còn gọi là Trương Điên.
7 Tiêu Toại: nói lắp, nhưng khi sai thi lại rất lưu loát, hùng biện. (theo Từ Hải, Thơ Đường).
Lý Bạch suốt ngày cùng bảy người này uống rượu ngâm thơ, bất giác ở kinh cũng khá lâu. Một hôm, sau cuộc rượu, gặp An Lộc Sơn ngay ở cửa khuyết, Lộc Sơn coi khinh là phường say, lấy lời để trêu chọc, rất là xấc xược. Lý Bạch nhân cớđang say, chửi Lộc Sơn một trận nên thân. Lộc Sơn vô cùng tức tối, nhưng chẳng dám làm gì vì họ Lý đang được thiên tử kính yêu, không dám hại, chỉ đành nuốt giận.
Lý Bạch từ đó đã bị lũ đàn bà cùng tiểu nhân ganh ghét, nếu không bỏ quan mà đi, tất tai họa cuối cùng sẽ đến. Lại thấy Dương Quốc rung, Lý Lâm Phủ kết bè đảng lộng quyền, mê hoặc quân vương, chính sự ngày càng bại hoại, mình chẳng phải gián quan, chẳng thể dùng lời nói thẳng mà cứu vãn thời thế, thế thì giữ cái chức vô bổ làm gì, nên dâng sớ khẩn thiết xin từ quan trở về, Huyền Tông biết ý họ Lý đã quyết, triệu đến trước điện mà phủ dụ:
- Khanh đòi bỏ trẫm mà đi, cũng chẳng tiện giữ nhiều, thôi thì trẫm bằng lòng cho khanh tạm trở về với vườn ruộng. Khanh thảo chiếu bình phiên, thật có công với quốc gia, há lại tay không mà trở về. Nhưng trẫm cũng biết khanh cao nhã, tất chẳng đòi gì cả, cái mà khanh một ngày không thể thiếu, thì chỉ có là rượu.
Liền thân viết một sắc thư mà ban cho, đại ý như sau:
"Sắc ban cho Lý Bạch, làm Nhàn Tản Tiêu Dao Học sĩ. đến nơi nào, các quan tư phải chi cấp đầy đủ tiền. Văn võ quan viên cùng binh lính, dân chúng không được khinh mạn. Nếu thấy việc gì, nghe việc gì thì được phép dâng sớ tâu trình. "
Lý Bạch bái tạ nhận sắc lệnh. Huyền Tông lại còn ban cho áo gấm, đai vàng cùng ngựa tốt xe êm. Họ Lý vái lạy ra khỏi triều đường. Vốn không có gia quyến ở kinh, chỉ có mấy gia bộc đi theo, liền thu xếp hành trang, từ biệt bạn bè ra khỏi kinh sư.
Các quan trong triều, đều bày tiệc rượu ở trường đình tiễn biệt, chỉ Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ, An Lộc Sơn là mang nỗi tức tối nên không chịu ra. Hạ Tri Chương cùng mấy người nữa, tiễn đến hơn trăm dặm mới chia tay. Lý Bạch nhân thánh chỉ cho ngao du, ra khỏi kinh, không về quê ngay, hướng phía U Yên, thấy núi đẹp, sông sâu, thắng cảnh, mặc ý tha thẩn vui chơi, mặc sức lúc Bồng Châu, khi Lăng Uyển. Qua quận huyện được cấp tiền, gặp cảnh thì đề thơ, chọn nơi mà uống rượu, thoải mái tùy lòng.
Hôm ấy, đến địa phận Tinh Châu, các quan lại sở tại đều ra nghênh đón, Lý Bạch từ tạ, chỉ xin vào công quán chất hành lý, đem theo mấy tên người nhà, cưỡi ngựa ra ngoài thành để xem cảnh sông núi của Tinh Châu. Bỗng một đoàn lính, người nào người ấy cầm côn, áp giải một xe chở tù đi rất nhanh, thấy Lý Học sĩ cưỡi ngựa đi tới, đoàn người ngựa nép sang bên đường để tránh. Lý Bạch nhìn người từ trên xe, là một thanh niên khỏe mạnh, xem kỹ thì thấy:
Đầu to như chiếc đấu tròn
Tóc râu xõa rối, một khuôn chữ điền
Đôi mắt sáng, ngời ánh đèn
Đứng lên thân ắt là gần trượng cao
Vì đâu gặp vận lao đao
Xem tướng mạo quả anh hào, kém ai?
Người tù này họ Quách, tên Tử Nghi, quê ở Hoa Châu, hình dáng khôi ngô, ôm tài thao lược, vốn có tài kiến công lập nghiệp, mang chí trung quân ái quốc, nhưng chưa gặp thời, nên tạm nương nhờ dưới trướng Tiết độ sứ Kha Thư Hãn Lũng Tây, làm một viên biên tướng. Nhân vâng quân lệnh, xem xét lương thảo của quân đội, nhưng không may thủ hạ có người vô ý làm cháy hết cả một kho lương lớn, tội đến người cầm đầu, nên cứ chính sách mà chịu chém đầu.
Lúc này Kha Thư Hãn đang đi tuần ở biên giới Tinh Châu, nên quan quân chính ty giải Tử Nghi tới đây để hành tội. Lý Bạch thấy Tử Nghi dung mạo đường đường, liền dừng ngựa hỏi nguồn cơn, Tử Nghi trả lời rõ ràng, tiếng nghe như chuông đồng. Lý Bạch nghĩ: "Nghi biểu như thế này, nhất định là bậc anhhùng hào kiệt, nay chính lúc thiên hạ sắp có nhiều việc, với tướng mạo thế này, chính là người có ích cho triều đình, sẽ là rường cột của quốc gia, sao lại có thể giết dễ dàng như thế này?". Liền nói với toán lính:
- Các ngươi hãy khoan giải tới tiếtđộ sứ, hãy đợi ta thân tới gặp tìm cách kêu khỏi tội chết cho Tử Nghi.
Ai nấy không dám không nghe theo. Lý Bạch quay ngựa, đi theo bọn giải tù. Vừa đi vừa hỏi chuyện Tử Nghi về quân cơ thao lược. Tử Nghi đối đáp như nước chảy, Lý Bạch càng thêm mười phần kính trọng.
Đến hành doanh của Kha Thư Hãn, Lý Bạch sai tay chân đưa danh thiếp vào trước, thưa thêm có Lý Học Sĩ tới thăm, quan coi cửa vào thưa. Kha Thư Hãn vốn là một viên danh tướng thời bấy giờ, thường vẫn kính mộ tài năng của Lý Bạch như sấm bên tai, nay thấy Lý hạ cố tới, lấy làm vinh hạnh không ngờ, lệnh mở rộng của doanh mời vào, chủ lễ chào xong cùng ngồi uống trà. Lý Bạch liền nói rõ nguyên do đến thăm, mong khoan giản cho tội của Quách Tử Nghi. Kha Tư Hãn nghe xong trầm ngâm một lúc rồi đáp:
- Học sĩ đã dạy thế, đáng ra phải theo lời ngay, nhưng tiểu nhân lâu nay điều khiển tướng sĩ bộ hạ, thưởng phạt đều phải theo đúng chữ tín. Nay Quách Tử Nghi lỡ để thiêu cháy cả quân lương, quân pháp không thể nào tha, bởi việc quan hệ đến kỷ cương, lý phải tâu với thiên tử, tiểu nhân quả không dám chuyên quyền, tự ý phóng thích. Vậy nên thế nào bây giờ?
Lý Bạch liền lên tiếng:
- Nếu như vậy, họ Lý này cũng không dám coi thường quân pháp, chỉ xin kéo dài thời hạn gia hình. Quan tiết độ cứ dâng biểu trình mọi việc. Họ Lý này sẽ viết sớ tâu rõ, cùng tiện một thể đưa về kinh đô, xin thánh thượng ra lệnh.
Kha Thư Hãn lập tức bằng lòng:
- Nếu cứ như vậy thì tình lý đều đầy đủ vậy!
Liền lệnh giam Quách Tử Nghi lại, đợi chỉ định đoạt. Lý Bạch từ tạ ra ngoài.
Kha Thư Hãn một mặt tâu về triều đình, một mặt Lý Bạch dâng sớ về, nói rõ tài thao lược của Tử Nghi, đáng mặt xông pha mũi tên hòn đạn khi quốc gia hữu sự, còn việc hỏa hoạn, chẳng qua là do sơ ý của tay chân, không phải tội Tử Nghi, kính xin chúa thưởng khoan ân, để dùng về sau. Cả hai đều giao cho dịch trạm, phi như sao băng về Trường An, Lý Bạch tạm thời lưu lại công quán của Tinh Châu chờ chỉ, ngày ngày rong chơi. Kha Thư Hãn cùng văn võ tùy tòng, quan viên sở tại ngày ngày mở tiệc thiết đãi, cùng họ Lý uống rượu ngâm thơ làm vui. Chẳng bao lâu thánh chỉ đã xuống, chuẩn cho lời tâu của Lý Học sĩ đem thủ hạ của Quách Tử Nghi, chính kẻ đã gây hỏa hoạn ra chịu chính pháp, tha tội cho Tử Nghi, cho được lập công chuộc tội.
Chính là:
Nhờ có mắt tinh của thi sĩ
Nên không uổng mạng một anh hùng
Khoan hồng mừng tạm hôm nay thế
Mừng thật chờ hôm lập đại công.
Tử Nghi cảm kích ơn cứu sống của Lý Bạch, thề kết cỏ ngậm vành đền ơn. Lý Bạch từ biệt Tử Nghi, Kha Thư Hãn cùng các quan tướng, du ngoạn các nơi, lúc chia tay, không quên dặn dò Kha Thư Hãn chiếu cố Tử Nghi. Từ đó, do có quân công, Tử Nghi dần dần được thăng thưởng cao, đó là chuyện sau này.
Họ Lý ngày càng chìm đắm trong chén rượu, cũng là cách để tránh ghen ghét. Bạn rượu, ngoài Hạ Tri Chương ra, còn có Nhữ Dương Vương Tiến, tả hữu thừa tướng Lý Thích Chi, rồi bọn Thông Tông Chi, Tô Tấn, Trương Húc, Tiêu Toại, đều là những kẻ có tài rượu. Đỗ Công Bộ, đã từng làm "Bài ca tám ông tiên cùng uống rượu” - Ẩm trung bát tiên ca, sau đây:
Tri Chương (1) cưỡi ngựa như đi thuyền
Mắt hoa, ngả giếng vẫn ngủ liền
Nhữ Dương (2) ba hũ chầu kề bên,
Thèm nhỏ dãi khi gặp xe men
Tiếc chẳng làm quan nơi tửu tuyền
Tả tướng (3) một ngày tiêu vạn tiền
Rượu nốc như kình hút sông nghiêng
Vui cùng ông thánh, tránh ông hiền
Tông Chi (4) chững chạc bậc thiếu niên
Mắt trắng trời xanh nâng chén lên
Trước gió cây ngọc không ngả nghiêng
Tô Tấn(5) thờ phật, rằng ăn kiêng
Khi say những muốn trốn cửa thiền
Lý Bạch một vò, thơ trăm thiên
Li bì quán rượu ngủ đã quen
Vua đòi mà không chịu xuống thuyền:
“Thần là tiên rượu uống rượu tiên!”
Trương Húc(6) ba chén chữ thảo truyền
Trật mũ xõa tóc trước quan quyền
Vung bút quét giấy sinh mây thiêng
Tiêu Toại (7) năm hũ người thẳng lên
Cao đàm hùng biện vang xóm giềng.
1 Hạ Tri Chương: tự Quý Chân, xưng là "Tứ Minh cuồng khách", người miền Nam, không quen cưỡi ngựa, ngã vì say, rơi xuống giếng vẫn ngủ.
2 Nhữ Dương Vương, tên Tiến. Say rượu không thể đi từ trên điện xuống, vua phải nhờ người đỡ. Thấy hơi rượu, đồ nấu rượu đã thèm nhỏ dãi.
3. Lý Thích Chi, từ chức tể tướng về, suốt ngày uống rượu, gọi rượu trong là rượu thánh, rượu đục là rượu hiền.
4 Thôi Tông Chi: người đẹp, rượu vào càng đẹp chẳng khác nào cây bằng ngọc đứng trước gió.
5 Tô Tấn, ăn chay thờ Phật, thèm rượu bỏ chùa mà đi.
6 Trương Húc càng say viết chữ thảo càng đẹp, xõa tóc nhúng cả đầu vào nghiên mực, dùng đầu mà viết chữ, nên còn gọi là Trương Điên.
7 Tiêu Toại: nói lắp, nhưng khi sai thi lại rất lưu loát, hùng biện. (theo Từ Hải, Thơ Đường).
Lý Bạch suốt ngày cùng bảy người này uống rượu ngâm thơ, bất giác ở kinh cũng khá lâu. Một hôm, sau cuộc rượu, gặp An Lộc Sơn ngay ở cửa khuyết, Lộc Sơn coi khinh là phường say, lấy lời để trêu chọc, rất là xấc xược. Lý Bạch nhân cớđang say, chửi Lộc Sơn một trận nên thân. Lộc Sơn vô cùng tức tối, nhưng chẳng dám làm gì vì họ Lý đang được thiên tử kính yêu, không dám hại, chỉ đành nuốt giận.
Lý Bạch từ đó đã bị lũ đàn bà cùng tiểu nhân ganh ghét, nếu không bỏ quan mà đi, tất tai họa cuối cùng sẽ đến. Lại thấy Dương Quốc rung, Lý Lâm Phủ kết bè đảng lộng quyền, mê hoặc quân vương, chính sự ngày càng bại hoại, mình chẳng phải gián quan, chẳng thể dùng lời nói thẳng mà cứu vãn thời thế, thế thì giữ cái chức vô bổ làm gì, nên dâng sớ khẩn thiết xin từ quan trở về, Huyền Tông biết ý họ Lý đã quyết, triệu đến trước điện mà phủ dụ:
- Khanh đòi bỏ trẫm mà đi, cũng chẳng tiện giữ nhiều, thôi thì trẫm bằng lòng cho khanh tạm trở về với vườn ruộng. Khanh thảo chiếu bình phiên, thật có công với quốc gia, há lại tay không mà trở về. Nhưng trẫm cũng biết khanh cao nhã, tất chẳng đòi gì cả, cái mà khanh một ngày không thể thiếu, thì chỉ có là rượu.
Liền thân viết một sắc thư mà ban cho, đại ý như sau:
"Sắc ban cho Lý Bạch, làm Nhàn Tản Tiêu Dao Học sĩ. đến nơi nào, các quan tư phải chi cấp đầy đủ tiền. Văn võ quan viên cùng binh lính, dân chúng không được khinh mạn. Nếu thấy việc gì, nghe việc gì thì được phép dâng sớ tâu trình. "
Lý Bạch bái tạ nhận sắc lệnh. Huyền Tông lại còn ban cho áo gấm, đai vàng cùng ngựa tốt xe êm. Họ Lý vái lạy ra khỏi triều đường. Vốn không có gia quyến ở kinh, chỉ có mấy gia bộc đi theo, liền thu xếp hành trang, từ biệt bạn bè ra khỏi kinh sư.
Các quan trong triều, đều bày tiệc rượu ở trường đình tiễn biệt, chỉ Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ, An Lộc Sơn là mang nỗi tức tối nên không chịu ra. Hạ Tri Chương cùng mấy người nữa, tiễn đến hơn trăm dặm mới chia tay. Lý Bạch nhân thánh chỉ cho ngao du, ra khỏi kinh, không về quê ngay, hướng phía U Yên, thấy núi đẹp, sông sâu, thắng cảnh, mặc ý tha thẩn vui chơi, mặc sức lúc Bồng Châu, khi Lăng Uyển. Qua quận huyện được cấp tiền, gặp cảnh thì đề thơ, chọn nơi mà uống rượu, thoải mái tùy lòng.
Hôm ấy, đến địa phận Tinh Châu, các quan lại sở tại đều ra nghênh đón, Lý Bạch từ tạ, chỉ xin vào công quán chất hành lý, đem theo mấy tên người nhà, cưỡi ngựa ra ngoài thành để xem cảnh sông núi của Tinh Châu. Bỗng một đoàn lính, người nào người ấy cầm côn, áp giải một xe chở tù đi rất nhanh, thấy Lý Học sĩ cưỡi ngựa đi tới, đoàn người ngựa nép sang bên đường để tránh. Lý Bạch nhìn người từ trên xe, là một thanh niên khỏe mạnh, xem kỹ thì thấy:
Đầu to như chiếc đấu tròn
Tóc râu xõa rối, một khuôn chữ điền
Đôi mắt sáng, ngời ánh đèn
Đứng lên thân ắt là gần trượng cao
Vì đâu gặp vận lao đao
Xem tướng mạo quả anh hào, kém ai?
Người tù này họ Quách, tên Tử Nghi, quê ở Hoa Châu, hình dáng khôi ngô, ôm tài thao lược, vốn có tài kiến công lập nghiệp, mang chí trung quân ái quốc, nhưng chưa gặp thời, nên tạm nương nhờ dưới trướng Tiết độ sứ Kha Thư Hãn Lũng Tây, làm một viên biên tướng. Nhân vâng quân lệnh, xem xét lương thảo của quân đội, nhưng không may thủ hạ có người vô ý làm cháy hết cả một kho lương lớn, tội đến người cầm đầu, nên cứ chính sách mà chịu chém đầu.
Lúc này Kha Thư Hãn đang đi tuần ở biên giới Tinh Châu, nên quan quân chính ty giải Tử Nghi tới đây để hành tội. Lý Bạch thấy Tử Nghi dung mạo đường đường, liền dừng ngựa hỏi nguồn cơn, Tử Nghi trả lời rõ ràng, tiếng nghe như chuông đồng. Lý Bạch nghĩ: "Nghi biểu như thế này, nhất định là bậc anhhùng hào kiệt, nay chính lúc thiên hạ sắp có nhiều việc, với tướng mạo thế này, chính là người có ích cho triều đình, sẽ là rường cột của quốc gia, sao lại có thể giết dễ dàng như thế này?". Liền nói với toán lính:
- Các ngươi hãy khoan giải tới tiếtđộ sứ, hãy đợi ta thân tới gặp tìm cách kêu khỏi tội chết cho Tử Nghi.
Ai nấy không dám không nghe theo. Lý Bạch quay ngựa, đi theo bọn giải tù. Vừa đi vừa hỏi chuyện Tử Nghi về quân cơ thao lược. Tử Nghi đối đáp như nước chảy, Lý Bạch càng thêm mười phần kính trọng.
Đến hành doanh của Kha Thư Hãn, Lý Bạch sai tay chân đưa danh thiếp vào trước, thưa thêm có Lý Học Sĩ tới thăm, quan coi cửa vào thưa. Kha Thư Hãn vốn là một viên danh tướng thời bấy giờ, thường vẫn kính mộ tài năng của Lý Bạch như sấm bên tai, nay thấy Lý hạ cố tới, lấy làm vinh hạnh không ngờ, lệnh mở rộng của doanh mời vào, chủ lễ chào xong cùng ngồi uống trà. Lý Bạch liền nói rõ nguyên do đến thăm, mong khoan giản cho tội của Quách Tử Nghi. Kha Tư Hãn nghe xong trầm ngâm một lúc rồi đáp:
- Học sĩ đã dạy thế, đáng ra phải theo lời ngay, nhưng tiểu nhân lâu nay điều khiển tướng sĩ bộ hạ, thưởng phạt đều phải theo đúng chữ tín. Nay Quách Tử Nghi lỡ để thiêu cháy cả quân lương, quân pháp không thể nào tha, bởi việc quan hệ đến kỷ cương, lý phải tâu với thiên tử, tiểu nhân quả không dám chuyên quyền, tự ý phóng thích. Vậy nên thế nào bây giờ?
Lý Bạch liền lên tiếng:
- Nếu như vậy, họ Lý này cũng không dám coi thường quân pháp, chỉ xin kéo dài thời hạn gia hình. Quan tiết độ cứ dâng biểu trình mọi việc. Họ Lý này sẽ viết sớ tâu rõ, cùng tiện một thể đưa về kinh đô, xin thánh thượng ra lệnh.
Kha Thư Hãn lập tức bằng lòng:
- Nếu cứ như vậy thì tình lý đều đầy đủ vậy!
Liền lệnh giam Quách Tử Nghi lại, đợi chỉ định đoạt. Lý Bạch từ tạ ra ngoài.
Kha Thư Hãn một mặt tâu về triều đình, một mặt Lý Bạch dâng sớ về, nói rõ tài thao lược của Tử Nghi, đáng mặt xông pha mũi tên hòn đạn khi quốc gia hữu sự, còn việc hỏa hoạn, chẳng qua là do sơ ý của tay chân, không phải tội Tử Nghi, kính xin chúa thưởng khoan ân, để dùng về sau. Cả hai đều giao cho dịch trạm, phi như sao băng về Trường An, Lý Bạch tạm thời lưu lại công quán của Tinh Châu chờ chỉ, ngày ngày rong chơi. Kha Thư Hãn cùng văn võ tùy tòng, quan viên sở tại ngày ngày mở tiệc thiết đãi, cùng họ Lý uống rượu ngâm thơ làm vui. Chẳng bao lâu thánh chỉ đã xuống, chuẩn cho lời tâu của Lý Học sĩ đem thủ hạ của Quách Tử Nghi, chính kẻ đã gây hỏa hoạn ra chịu chính pháp, tha tội cho Tử Nghi, cho được lập công chuộc tội.
Chính là:
Nhờ có mắt tinh của thi sĩ
Nên không uổng mạng một anh hùng
Khoan hồng mừng tạm hôm nay thế
Mừng thật chờ hôm lập đại công.
Tử Nghi cảm kích ơn cứu sống của Lý Bạch, thề kết cỏ ngậm vành đền ơn. Lý Bạch từ biệt Tử Nghi, Kha Thư Hãn cùng các quan tướng, du ngoạn các nơi, lúc chia tay, không quên dặn dò Kha Thư Hãn chiếu cố Tử Nghi. Từ đó, do có quân công, Tử Nghi dần dần được thăng thưởng cao, đó là chuyện sau này.
***
Hãy nói chuyện triều đình từ ngày Lý Bạch bỏ đi, Hạ Tri Chương chẳng bao lâu cũng xin nghỉ mà đi nốt, tả tướng quốc Trương Thích Chi nhân có hiềm khích với Lý Lâm Phủ cũng bỏ chức mà về, nhưng rồi Lâm Phủ vẫn không tha, theo đuổi hãm hại, đến nỗi Thích Chi phải tự tận. Lâm Phủ ỷ thế thiên tử tín nhiệm, mặc sức hoành hành. An Lộc Sơn cũng sợ, Dương Quốc Trung cũng ganh ghét, nhưng thế cũng không làm gì nổi họ Lý.
Năm trước Huyền Tông giết luôn một lúc ba con trai, Lâm Phủ khuyên nên lập Thọ Vương Mạo làm Thái tử, Huyền Tông lại nghe theo lời Cao Lực Sĩ, lập Trung Vương Dư làm Thái tử, Lâm Phủ lấy làm tức tối tìm cách chèn ép. Bấy giờ có quan hộ tào là Dương Thân, dựa thế Dương Quốc Trung tự nhận mình là cùng họ với họ Dương, lại cùng với La Hy Thích, Cát Ôn, đều là lũ chó săn của Lý Lâm Phủ. Lâm Phủbàn mưu, bày bọn này dâng mật sớ, vu cáo cho hình bộ thượng thư Vi Kiên liên kết với tiết độ sứ Hoàng Phủ Duy Minh để tìm cách lật đổ ngai vàng, lập Thái tử lên ngôi, lại dẫn Dương Quốc Trung làm chứng cớ.
Vi Kiên nguyên là anh ruột của Vi Thị phi tử của Thái tử. Tiết độ sứ Hoàng Phủ Duy Minh, nhân một lần tới kinh sư, từng tới bái kiến Thái tử, trước mặt Thái tử lại chê bai tể tướng lộng quyền, vì vậy Lý Lâm Phủ mang trong lòng tức tối, tìm cách vu cáo, để lay đổi ngôi Đông cung. Huyền Tông xem sớ nổi giận, may được Cao Lực Sĩ giải bày, nhưng vẫn không thoát hẳn tội, mà đều bị giáng chức. Thái tử thấy vậy, hoảng sợ vô cùng, dâng biểu xin ly hôn với Vi Thị. Huyền Tông nhân được Cao Lực Sĩ khuyên can, không cho Thái tử làm việc này. Lý Lâm Phủ lại mật tâu xin giao cho Dương Thân cùng La Hy Thích, Cát Ôn tra xét chuyện này, thêm cả Dương Quốc Trung làm giám sát. Huyền Tông giáng chỉ bắt giết Vi Kiên cùng Hoàng Phủ Duy Minh, còn sự tình không cần tra xét lôi thôi, vì thế Thái tử mới khỏi lo lắng.
Chẳng bao lâu gặp lúc tướng Đổng Duyên Quang, vâng chiếu chinh phạt Thổ Phồn, không làm được việc, lại đổ tội cho Tiết độ sứ Sóc Phương là Vương trung Tự, vu cho Tự cản trở việc quân. Lý Lâm Phủ thừa cơ, vu cho Dương Quốc Trung tâu dèm pha Tự, để lấy quân tướng gây bè cánh cho Tháitử. Huyền Tông liền gọi Tự vào kinh, lệnh cho Tam ty tra xét, Thái tử lại một phen kinh hoàng. May là Tự vốn do Kha ThưHãn tiến cử, Kha Thư Hãn hiện có uy tín với Huyền Tông, nhưng Huyền Tông chưa thấy mặt người này, nhân đó mới gọi Kha Thư Hãn vào triều ra mắt hoàng thượng, để hỏi rõ hư thực mọi chuyện. Kha ThưHãn vâng chiếu, vội ngày đêm vào kinh, được bọn chân tay khuyên đem thật nhiều vàng ngọc vào kinh mà dùng, để còn cứu Vương Trung Tự. Kha ThưHãn đáp:
- Ta không phải vì tiếc vàng lụa, nhưng nếu công lý, đạo đức mà còn, thì thánh thượng không để ai phải chết oan. Còn nếu không có công đạo thì dùng vàng lụa cũng có ích gì.
Rồi cứ thế, với hành lý rỗng không lên đường, vào kinh ra mắt Huyền Tông. Huyền Tông trước tiên hỏi công việc biên cương, Kha Thư Hãn nhất nhất tâu bày, Huyền Tông rất bằng lòng. Kha Thư Hãn lại hết lòng giải bày nỗi oan khuất của Vương Trung Tự, cùng việc Thái tử bị vu cáo lời lẽ thống thiết. Huyền Tông nhận ra, bèn phán:
- Khanh hãy lui ra, để trẫm nghĩ kỹ!
Ngày mai, liền gọi cả Tam ty vào, hiểu dụ:
- Con ta ngồi trong cung sâu, làm sao có thể tư thông với bên ngoài biên giới, đấy chẳng qua chỉ là những lời bậy bạ, các khanh chẳng cần phải lục vấn. Còn việc Vương Trung Tự cản trở quân cơ, nên giáng quan tước, để trách phạt.
Liền chuyển Tự làm thái thú Hán Dương, tướng Đổng Duyên Quang cũng bị giáng chức, Kha Thư Hãn trở về Tinh Châu. Thái tử thoát tội, phủ phục khóc lóc tạ ơn trước điện, Huyền Tông dùng lời ngọt ngào an ủi, từ đó tình phụ tử trở lại hình thường. Chỉ đáng giận cho lũ Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung, mưu toan đổi triều đình, theo dõi từng việc to nhỏ ở Đông cung, bày đặt đủ loại chứng cớ, may mà Thái tử là do Cao Lực Sĩ khuyên Huyền Tông lập nên họ Cao luôn vì Thái tử mà che chở cho trước Huyền Tông. Lại thêm Thái tử vốn nhân hiếu cẩn thận, chưa từng đắc tội với Dương Quý Phi, nên chẳng có hiềm khích gì bọn người nhà, anh em, chị em họ Dương, lại chỉ dựa thế Quý Phi mà kiêu sa, ngang ngược ngày càng quá quắt. Lúc này trong dân gian ta có câu ca rằng:
Sinh trai ai chớ hội mừng
Dẫu đẻ gái cũng xin đừng vội lo
Trai lêu lổng, gái lấy vua
Xe hương, lọng thắm, biển cờ đầy sân.
Dương Quốc Trung, Dương Tiêm cùng với Hàn, Quắc, Tần ba vị phu nhân nhà cửa dinh thự đều ở ngay phường Nghi Dương, lầu son san sát, chẳng thua gì cung khuyết. Quốc Trung cùng ba vị phu nhân nguyên chẳng họ hàng anh em gì. Trong số ba phu nhân, riêng Quắc phu nhân hơn hẳn về chuyện xa hoa dâm đãng, mỗi lần làm dinh làm lầu, tiền không dưới bạc vạn, nếu thấy dinh thự ai mà hơn, lập tức phá dinh cũ, làm cái mới, công việc thổ mộc chẳng lúc nào yên. Nhà ở của phu nhân, liền cung dinh của Quốc Trung, đi lại rất gần, vô cùng thuận tiện, nên cùng Quốc Trung tư thông. Quốc Trung vào triều có khi cùng kiệu của phu nhân song song mà đi, dân chúng tha hồ mà cười mà chửi rủa, nhưng cả hai điềm nhiên không còn biết hổ thẹn.
An Lộc Sơn cũng có dạo đi lại với Quắc Quốc phu nhân rất thân thiết, lại còn tặng riêng Lộc Sơn một vòng ngọc mà hàng ngày phu nhân rất quý. Lộc Sơn rất mừng, lúc nào cũng đeo ở bên người. Không ngờ trong một lần dự yến, Lộc Sơn thay áo, Quốc Trung thấy được. Lâu nay Quốc Trung ghét Lộc Sơn dám kiêu ngạo cả với mình, trong lòng đã bất bình, nay lại thấy vòng ngọc, nhận ra ngay là vật của Quắc Quốc phu nhân, mới biết hai bên có tư tình lại càng căm ghét Lộc Sơn đến tận xương tủy. Trong nói năng hằng ngày, thỉnh thoảng vẫn ám chỉ chuyện đi lại của Lộc Sơn quá lộ liễu, ngang nhiên, coi thường mọi sự bàn tán, chỉ sợ đến tai thánh thượng, thì tai họa nhất định không nhỏ. Quý Phi nghe Quốc Trung nói, trong lòng vừa nghi ngờ vừa sợ hãi.
Chính là:
Bởi Quý Phi chẳng quý mình
Cấm sao được chúng, phẩm bình nhặt thưa
Lạ gì quán chợ sớm trưa
Khen chê bia miệng ngàn xưa để đời.
Một hôm, Huyền Tông ngồi nhàn trong Chiêu Khánh cung, Lộc Sơn đứng hầu một bên. Thấy bụng Lộc Sơn to che kín cả đầu gối, Huyền Tông chỉ mà đùa rằng:
- Thằng con này bụng to như cái chum. Chẳng biết bên trong chứa những gì?
Lộc Sơn chắp tay mà thưa:
- Trong này không có gì khác chỉ có tấm lòngson, thần đã nguyện đem tấm lòng này mà thờ bệ hạ rồi.
Huyền Tông nghe xong trong lòng rất khoan khoái nào có ngờ:
Giấu kín trong lòng
Ai mà biết được
Miệng khoe lòng son
Bụng đen như mực.
Huyền Tông coi Lộc sơn như kẻ tâm phúc. Lộc Sơn đối với Huyền Tông, trái lại chỉ có lòng phản trắc, lòng lang dạ sói. Kẻ biết ra chỉ giận chưa mổ bụng y, ăn thịt y cho hả dạ, thế mà y vẫn dám mở miệng nói tới lòng son tới con đỏ. Buồn cười cho Huyền Tông vẫn chẳng hay biết gì cả, vẫn một dạ tin là y thành thực, không hề một chút ngờ vực.
Nhân nói chuyện vơ vẩn, Huyền Tông quay ra hỏi tả hữu:
- Quý Phi ở đâu?
Bây giờ là cuối mùa xuân, thời tiết đã ấm áp, Quý Phi đang trong cung hậu, tắm rửa bằng nước lan, cung nga quay ra tâu:
- Nương nương vừa mới tắm xong!
Huyền Tông khẽ cười:
- Người đẹp vừa tắm xong, chẳng khác gì đóa phù dung vừa ra khỏi nước. Cung nga hãy mời Quý Phi ra đây ngay, không cần phải trang điểm gì cả!
Chẳng mấy chốc, Quý Phi đã tới, mới tắm xong, hình dung thế nào, có bài từ "Hoàng oanh nhi" sau đây tả rất hay:
Như trứng gà bóc
Long lanh như ngọc
Da ngát hương thơm
Lả lướt mây đơm làm tóc
Quần là bước hở bước che
Tà áo mỏng, ánh nắng hè lướt qua
Phù dung trong nước hiện ra
Vẻ kiều diễm hãy kém xe Ngọc Hoàn.
Quý Phi lúc này lười chưa trang điểm, chưa khoác đủ áo, tha thướt đi tới, càng lộ vẻ đẹp khác thường. Huyền Tông trông ra, mặt đầy rạng rỡ, lại gặp lúc ngoại quốc vừa tiến cống loại son thơm dị thường liền truyền lấy ban cho, lệnh soi gương thoa ngay, Huyền Tông lại sát bên gương để ngắm cho rõ.
Quý Phi thoa son xong, còn dư một ít ở tay, liền xoa ngay lên ngực, chiếc áo vừa rộng vừa chưa buộc hết giải, trễ ngay ra, hé rõ cả hai vú. Huyền Tông thấy thế, liền xuýt xoa:
- Tuyệt vời! Mềm mềm như miếng phao gà nóng!
Lộc Sơn đứng ngay bên, bất giác buột miệng nói theo:
- Mịn mịn còn hơn tảng sữa đông!
Y nói xong rồi, mới thấy mình quá đường đột, rất dễ bị chết tươi. Quý Phi cũng kinh hãi bởi sự lỡ lời đó, chỉ sợ Huyền Tông lấy làm quái dị, nên toát cả mồ hôi. Bọn cung nga đứng xung quanh cũng nghe rõ những lời này, mặt mày đều hoảng hốt, xanh xám. Huyền Tông riêng vẫn chẳng để ý, lại còn tươi cười chỉ mặt Lộc Sơn mà rằng:
- Thật buồn cười, thằng con tộc Hồ này cũng biết món sữa đông sao?
Nói xong cười ha hả. Quý Phi mới cười theo, tiếp đó là cả bọn cung nga cũng cười hi hi.
Cũng bởi là:
Trừ phi tay đã từng qua lại
Sao biết mềm hơn tảng sữa đông?
Cứ rằng, lòng son lòng đỏ mãi
Cười xòa một tiếng, thêm xong.
Cũng bởi Lộc Sơn thường ngày đùa cợt riêng với Quý Phi đã quen thói, nay ngay trước mặt Huyền Tông, bất giác cũng buông lời bỡn cợt, may mà Huyền Tông không nghi ngờ. Quý Phi vốn đã được Quốc Trung báo trước việc này, nên cũng sợ lộ chuyện, từ đó về sau, mỗi lần gặp Lộc Sơn đều dặn phải cẩn thận, ra vào phải để ý.
Lộc Sơn cũng biết Quốc Trung ghen ghét, trước sau gì Quốc Trung cũng tìm cách trừ khử mình, nhưng lại tính rằng Quốc Trung chưa đáng sợ, mà kẻ gian hùng đáng kiềng mặt hơn cả là Lý Lâm Phủ kia. Hiện nay họ Dương họ Lý đang thân thiết với nhau, cả hai đứa này mà cùng lo việc diệt trừ mình, thì khó mà chống đỡ nổi, chi bằng hãy kiếm một chức gì đó ở bên ngoài, tạm nương náu qua thì, lo công nghiệp lâu dài sau này vậy. Nhưng chỉ sợ Quý Phi cùng Quắc Quốc phu nhân chưa chắc đã chịu cho mình ra, chính vì vậy mà trù trừ chưa quyết.
Dương Quốc Trung thì thầm nghĩ: "Lộc Sơn mai kia nhất định sẽ cùng mình tranh giành quyền hành, ta phải tìm cách trừ chẳng trước thì sau. Khổ nỗi nay y đang được thiên tử yêu vì, lại được Quý Phi cùng Quắc Quốc phu nhân nâng đỡ, không thể một lúc mà có thể xô đổ y cho được. Trước mắt, làm sao mà đẩy y ra khỏi kinh thành, tốt hơn cả là bày mưu chuyển y ra trông coi vùng phiên trấn phương Bắc, rồi sau đó hãy tính việc trừ cho tiệt giống". Toan tính như vậy rồi, gặp ngay lúc Lý Lâm Phủ dâng sớ, nên dùng người Phiên làm các tiết độ sứ phiên trấn.
Nguyên là theo thể chế nhà Đường, các tiết độ phiên trấn, đều dùng người tài lược, cổ uy danh thuộc hàng văn thần. Một khi làm việc này có công huân, sẽ được đưa vào triều làm tể tướng. Nay Lý Lâm Phủ chuyên quyền, định cắt đường các phiên trấn về triều ở ngôi tể tướng, nên Lâm Phủ mới dâng sớ, tâu rằng các văn thần ra chốn biên cương, không quen xông xáo mũi tên hòn đạn, dễ là mối lo cho triều đình, chi bằng dùng người Phiên, vừa dũng lược, vừa thạo chinh chiến, dễ trở thành chỗ dựa cho quốc gia. Huyền Tông chuẩn tấu vì vậy tiết độ sứ phiên trấn lúc này đều dùng người Phiên.
Quốc Trung nhân cơ hội này để đuổi Lộc Sơn ra khỏi triều đình, mới tâu rằng:
- Hà Đông là đất hiểm yếu, cần phải có người Phiên thật thân tín làm chủ, nhưng lại phải có tài thao lược. Ngoài An Lộc Sơn ra khó có người đảm. đương nổi trọng trách này.
Huyền Tông nghe thế, thấy cũng hợp lý, liền triệu Lộc Sơn vào mà phán rằng:
- Khanh đây một lòng son thờ trẫm, đáng ra nên lưu lại nội cung làm thị vệ, nhưng Hà Đông là vùng trọng địa không ai bằng khanh; nay khanh hãy tạm ra trị nhậmítlâu, rồi lạicó dịp sẽ về triều hầu hạ trẫm sau vậy!
Chỉ ban ra phong Lộc Sơn làm Bình Lư, Phạm Dương, Hà Đông Tiết độ sứ, tước Đông Bình Quận vương, lập tức lênđường phó nhiệm. Lộc Sơn nghe mệnh, thấy cũng hợp với tính toán riêng liền đập đầu lĩnh chỉ, vào cung từ tạ Dương Quý Phi, dùng dằng không nỡ rời tay. Quý Phi kéo vào buồng kín, cầm tay mà thì thầm:
- Lộc Sơn đi chuyến này, đều do việc ghen ghét của anh ta mà ra cả đây. Ta cùng Lộc Sơn ái ân hoan lạc đến thế, một sớm xa nhau, thật là khó mà sống nổi. Nhưng Lộc Sơn ở kinh đã lâu, dễ gây lòng ghen ghét với xung quanh nay được ra phiên trấn, không phảilà không may đâu, Lộc Sơn hãy cố mưu đồ mai sau,ta sẽ cho người tâm phúc thường xuyên đưa tin, sớm tối trước mặt chúa thượng lưu tâm chiếu cố Lộc Sơn. Hãy đi màmưu lấy công nghiệp riêng cho mình đừng lo lắng gì?
Lộc Sơn gật đầu ưng thuận, đang dặn dò to nhỏ, cung nga vào thưa:
- Ba vị phu nhân đều đã vào!
Quý Phi đón vào chào hỏi xong, Lộc Sơn cũng ra làm lễ. Quắc Quốc phu nhân nghe nói Lộc Sơn ra đi, rất lấy làm bực bội, nhưng mệnh vua đã ban, chẳng làm thế nào khác. Lộc Sơn cũng thấy không tiện ở nội cung lâu, liền xin cáo thoái. Đến lúc lên đường, Huyền Tông còn gọi vào ban yến. Lộc Sơn tạ ơn, cúi lạy lên đường.
Lý Lâm Phủ cũng bày tiệc rượu tiễn hành, trong lúc nâng chén, Lâm Phủ cất tiếng:
- An tiết độ, ra trấn một vùng biên cương rộng lớn trách nhiệm thật không nhỏ, công việc nên thận trọng, hợp tình hợp lý. Lâm Phủ này tuy ở trong triều, nhưng các việc to nhỏ ngoài phiên dậu đều lấy làm lo lắng, theo dõi hàng ngày. Nay ba trấn lớn được đại nhân làm tiết độ sứ thật sẽ là bình phong vững chắc cho triều đình, xin hãy gắng lo toan.
Những lời này, vừa như cảnh cáo, vừa như tán dương. Lộc Sơn hàng ngày vẫn sợ Lâm Phủ, nghe xong đầy vẻ kính cẩn, từ tốn đáp lại:
- Lộc Sơn này tài sơ, lại lỗ mãng, nay ra coi một vùng rộng lớn, thấp thỏm lo không tròn trọng trách, xin cố nghe theo lời dạy bảo. Việc gì không nên không phải, xin về lâu về dài được sự bảo ban của quan tể tướng.
Nói xong chắp tay kính cẩn van lạy từ biệt lên đường.
Trước đó một ngày, Dương Quốc Trung cũng làm tiệc rượu tiễn hành, mời An Lộc Sơn, Lộc Sơn kiếm cớ chối từ. Hôm nay, Quốc Trung cũng thản nhiên tới đưa tiễn. Lộc Sơn vẫn còn tức tối, mang mặt cao ngạo không thèm đáp lễ. Quốc Trung giận dữ, từ đó thù oán hai bên càng sâu.
Lộc Sơn đến nhiệm sở mới, tra xét người ngựa lương tiền, huấn luyện sĩ tốt tích trữ quân dụng, hành doanh đặt ở Phạm Dương, coi sóc cả vùng Bình Lư, Hà Đông, Phạm Dương, từ Vĩnh Bình phía đông, kéo tới Thái Nguyên phía tây, một khu lợi hại Đông Bắc, đều thuộc quyền cai quản, thanh thế ngày càng rộng lớn, uy quyền ngày càng lừng lẫy, bản thân ngày càng kiêu ngạo.
Người sau có thơ rằng:
Người Phiên nổi loạn nát rào phên
Là tại vua tôi phận đảo điên
Cọp dữ xổng chuồng khôn nhốt lại
Chờ xem đất ngửa với trời nghiêng
HỒI 84
Thần nữ thoát bình phong, ẩn hiện mắng nhiếc,
Thiên không nổi âm nhạc, tiên trần vui chơi.
Từ rằng:
Bình phong đột hiện đủ tiên nga
Lộng lẫy chờn vờn, dáng thướt tha
Uốn lượn, vào ra, chân ảo biến
Xưng tên người, rùng rợn như ma
Mây kín đường xa
Cầu ô đưa đón lên tòa thiên không
Sáng ngày hoảng hốt mông lung
Trần gian mộng huyễn, trong vòng quẩn quanh
Theo điệu "Tương kiến hoan"
Từ xưa việc thần quái thường ít khi thấy, nhưng cũng không phải là hiếm, duy có bậc chính nhân quân tử, dẫu cóthấy thần cũng không được lấy làm quái, thì thần cũng khó mà tác quái, như thế thì lòng ngay thẳng chính trực có thể thắng những chuyện quỷ thần vậy.
Khổng Tử không nói chuyện quái, cũng không nói chuyện thần, vốn là mang ý đã là quái thì không đáng nói, thần thì bất tất phải nói. Con người ta cứ đường chính tuần tự mà đi, tự nhiên yêu nghiệt không thể gây họa, tức là quỷ thần phải vâng theo mệnh của ta vậy, kẻ gian tà không thể nào bằng người có đức, có tình để mà cảm động được đến thế lực thần tiên cho được. Thế mà vẫn có một lũ phương sĩ, cao đàm khoát luận những thuật trường sinh, những phép thần thông, thì cuối cùng cũng là việc vô bổ, việc huyễn hoặc. Đời trước thì có Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, đều đủ là những tấm gương tốt rồi còn gì!
***
Hãy nói chuyện Dương
Quốc Trung thừa cơ tống được An Lộc Sơn ra khỏi kinh sư, không còn ai tranh
quyền đoạt lợi với mình nữa, trước mắt chỉ còn thua mỗi Lý Lâm Phủ, con người
này thì khó mà lay đổ cho được. Y sinh ra vốn đã thâm hiểm, thiên tử hiện tại
lại tin yêu mười phần, sủng quyến đến điều. Một ngày kia, giáng chỉ, sai trăm
quan cùng duyệt đồ cống hàng năm chất ở Trung thư tỉnh, kiểm điểm xong về tâu
lại, Huyền Tông ra lệnh đem tất cả đồ cống của năm đó, lấy xe chở ban tận nhà
Lý Lâm Phủ, sủng ái đến như thế.
Con của Lâm Phủ là Lâm Tự, cũng làm quan trong triều, lòng rất lo lắng tới sự hưng vong của gia tộc mình, cùng Lâm Phủ dạo trong vườn hoa sau dinh thự, thấy một người phu dịch làm vườn, nằm ngủ ngay dưới gốc cây, nhân đó nói nhỏ với Lâm Phủ:
- Phụ thân nắm triều chính đã lâu, oán cừu đầy thiên hạ, mai kia bỗng hoạn nạn một sớm kéo đến, dẫu có muốn gối cao ngủ kỹ như người phu dịch kia, liệu được chăng?
Lâm Phủ yên lặng không đáp. Từ đó thường sợ có hiệp sĩ, thích khách ám toán, nên ra khỏi nhà, người ngựa hộ vệ có tới hơn trăm, ngoài ra còn đội lính đi trước mấy trăm bộ để dẹp đường, đuổi hết kẻ qua người lại. Ở thì qua mấy lần tường, lần cửa như chống giặc dữ, một đêm như thế, thay chỗ ngủ đến mấy lần, dẫu là gia nhân cũng chẳng biết chỗ nào.
Dương Quốc Trung thì ngược lại, vốn có thú vui ở chốn tiêu phòng, quan tước cũng đã đến tả thừa tướng ngôi cao, mặc sức kiêu xa, dâm dật, chẳng sợ ai ganh ghét, hãm hại, cũng chẳng đếm xỉa đến dư luận khen chê.
Lúc này là tiết thượng ty (1), Quốc Trung phụng thánh chỉ, cùng với em là Dương Tiêm và chị em các phu nhân, ra sông Khúc Giang làm lễ "Tu hễ". Cả năm nhà làm thành một đội, mỗi nhà mặc một sắc áo khác nhau, con hầu, tiểu đồng đi theo không kể hết, áo quần sặc sỡ lóa mắt, chẳng khác gì trăm hoa khoe sắc, cưỡi ngựa đi xe, không hề dùng tàn lọng cheđậy gì cả, hai bên đường, người đứng xem như nước cuốn. Quốc Trung cùng Quắc Quốc phu nhân, cầm roi giật cương lấy làm trò cười, ai nấy vui chơi mãi đến tối mịt, thắp đèn đuốc lên mà về, rơi trâm, rơi hài đầy đường đầy ngõ. Đỗ Công Bộ có bài "Lệ nhân hành" tả rằng:
1 Thượng ty: tiết đầu tháng ba âm lịch, người xưa thường ra bờ sông làm phép tế rảy nước trừ tà ma, tiệc rượu cũng coi như một lễ hội vui chơi, gọi là "Tu hễ” hay "Phất hễ", nếu làm vào thượng ty thì còn gọi là "Xuân hễ", làm vào mùa thu gọi là "Thu hễ". (Từ điển Thiều Chửu”
Mùng ba tháng ba khí trời trong
Người đẹp đất kinh chơi bên sông
Tính nết thùy mị, vẻ đượm nồng
Xương thịt đều đặn, da trắng mỏng
Áo là, xiêm vóc, ánh xuân lồng
Bạc đúc kỳ lân, vàng vác công,
Trên đầu có gì quý?
Cánh trả buông theo mái tóc cong
Sau gáy có gì đẹp?
Vạt châu lẫn gọn vừa lưng ong
Màn mây người họ ở tiêu phòng (1)
Tần Quốc, Quắc Quốc, tước vinh phong
Trên bướu lạc đà chỗ xanh biếc
Trong mâm thủy tinh cá trắng bông
Đũa ngà ngán ngấy mãi chưa gắp
Dao loan thái nhỏ đành uổng công
Thị vệ phi ngự bụi không tung (2)
Bát trân bếp ngự dâng lại dùng
Đàn sáo réo rắt, trống thì thùng
Khách mời chen chúc bạn vương công
Yên ngựa đến sau sao sượng sùng (3)
Xuống ngay đệm gấm trước thềm rồng
Hoa dương (4) rắc tuyết dày lớp rong (5)
Chim xanh bay lại ngậm khăn hồng
Hơ tay thấy nóng(6) Hách vô cùng
Ai ơi! Chớ xán gần bên trong!
Cụ lớn Thừa tướng(7) không bằng lòng.(8)
1 Nơi Dương Quý Phi ở.
2 Chỉ bọn quan thị.
3 Chỉ Dương Quốc Trung.
4 Dương Hoa, người đời Nam Bắc Triều, thông gian với Ngụy Thái hậu, sợ tội, trốn sang nước Lương. Ngụy Thái hậu tưởng nhớ mà làm ra bài "Hoa bạch dương". Ám chỉ việc Dương Quốc Trung tư thông với Quắc Quốc phu nhân.
5 Dương Quốc Trung vốn là con Trương Dịch Chi, làm con nuôi họ Dương, cũng ví như hoa dương đã rụng xuống, trà trộn trong đám rau tàn. (Bản dịch thơ là "lớp rong")
6 Nguyên văn: " Chích thủ khả nhiệt", một thành ngữ chữ Hán, như câu phương ngôn của ta "Đặt lửa lửa đỏ, đặt cỏ cỏ cháy", ý nói người có quyền thế, hách dịch.
7 Chỉ Dương Quốc Trung.
8 Bản dịch thơ của N.T. chú thích thuộc bài thơ, theo "Thơ đường", tập I, có thay vài ý.
Hôm ấy cả đoàn đi chơi vui vẻ, ngày hôm sau đều vào triều tạ ơn nhà vua. Huyền Tông lại ban yến ở nội điện. Quốc Trung tâu:
- Chúng thần vâng mệnh làm lễ "Tu hể", không hề có ý tìm vui thú, mà chính là vì thánh thượng cùng hoàng gia đón điềm lành, rước điềm phúc. Ra sông Khúc Giang, xe ngựa lộng lẫy, trăm họ đều trông vào dân chúng người người vui vẻ thật là cảnh tượng của thời thái bình, chúng thần thật muôn vàn đội ơn thánh chúa!
Huyền Tông rất vừa ý mà phán:
- Các khanh trong lúc vui chơi, mà vẫn không quên đấng bề trên, thì thật sự trung quân ái quốc rất đáng khen, lẽ nên trọng thưởng vậy!
Yến tiệc xong, ngày mai, lại xuất trong nội phủ đồ chơi bằng ngọc bằng vàng ban cho mọi người. Hàn Quốc phu nhân thì được "Chiếu dạ ngọc cơ”, Quắc Quốc phu nhân ban cho bức bình phong "Tỏa tử trướng” , Tần Quốc phu nhân được ban mũ “Thất điệp quan”, Quý Phi thấy thế tâu:
- Bệ hạ hôm trước đem bình phong quý mà ban cho thiếp, trên bình khắc mỹ nhân của các đời trước, để cùng sánh với thiếp, nhưng thiếp tựnghĩ hình dung xấu xí. Xin bệ hạ hãy chuyển mà ban cho anh thiếp Quốc trung liệu có được chăng?
Huyền Tông cười:
- Trẫm nghe Quốc Trung tỳ thiếp rất nhiều. Mỗi năm tới thu đông, tuyển những hầu gái vừa to vừa béo, đứng vây kín phía sau, làm thành một bình phong che gió bằng thịt. Nay đem bình phong này ra ban cho, hẹn có thắng được bình phong bằng thịt ở dinh chăng?
Nguyên là bình phong này có tên là “Hồng nghê bình” , vốn là vật cũ của triều Tùy còn lại, trên khác đủ người đẹp các triều đại, sinh động chẳng khác gì người sống, mỗi người cao khoảng hơn ba thốn, lấy thủy tinh làm nền, xung quanhlà bằng đủ các loại ngọc đá quý mà khảm thành cực kỳ tinh xảo, chẳng khác gì có bàn tay của quỷ thần góp vào, chứ còn sức người, tài người không thể làm nên.
Người đời sau có bài từ làm chúng:
Bức bình phong cầu vồng biến ảo
Bút mực trần thua khéo thua xinh
Chẳng dùng màu đỏ sắc xanh
Nghìn châu vạn ngọc chấp hình thuyền quyên
Nét trạm trổ rất nên tinh xảo
Này mặt hoa mày liễu cười tươi
Cứ tên mà gọi từng người
Ngàn xưa người đẹp ai nào thiếu ai. (1)
1 Không thấy nói theo điệu gì.
Huyền Tông đem bình phong này ban cho Quốc Trung, lại nói rõ cả ý của Quý Phi bảo nội thị truyền lại. Quốc Trung tạ ơn mà nhận, đem bình phong đặt ở ngay hậu dinh trên lầu cao, thường cùng thân hữu, gia quyến ngồi ngắm, không ai là không ngợi khen, thật đáng là vật báu khó kiếm trên đời.
Một hôm, Quốc Trung ngồi một mình trên lầu đón gió mát, vừa ngắm người đẹp trên bình phong, thầm nghĩ: "Thế gian liệu ai có được những thứ quý như thế này. Ta mà được lấy một hai người, cũng thật vui sướng không gì sánh?". Đang nghĩ ngợi thế, thì thấy mệt mỏi, liền quay ra giường mà nằm, vừa mới ngã xuống gối, bỗng thấy những người đẹp trên bình phong đều nháy mắt khẽ lắc đầu, rồi chẳng mấy chốc, lần lượt bước xuống khỏi bình phong, người càng cao lớn dần đến mấy thước, hình dáng uyển chuyển chẳng khác gì người sống, bước thẳng lại trước giường, lần lượt xưng tên. Người thì nói là kẻ xé lụa, kẻ kể là người bước trên hoa sen vàng, cô thì rằng giặt lụa suối xưa hoặc kẻ trông lò rượu, người đeo ngọc, kẻ nhặt lông phỉ thúy, người là Hứa Phi Quỳnh, là Tiết Dạ Lai, là Đào Nguyên tiên tử, là Vu Sơn Thần nữ, rất nhiều, rất nhiều, kể ra không hết (1)
1 Số người đẹp đây kể rất nhiều, đa số không rõ lý lịch, chỉ biết: Người xé lựa là Bao Tự, đời Chu U Vương. Người bước trên hoa sen vàng là Phan Phi, vợ Đông Hôn Hầu nước Tề. Người giặt lụa là Tây Thi nước Việt. Người trông lò rượu là Trác Văn Quân đời nhà Hán. Hứa Phi Quỳnh, người đời Hán. Vu Sơn Thần nữ thì đã nhắc nhiều. Đào Nguyên tiên tử là người tiên gặp Lưu Thần Nguyễn Triệu người đời Hán.
Dương Quốc Trung tuy mắt nhìn rõ ràng, nhưng toàn thân không thể động đậy, miệng không mở ra được. Các người đẹp đều kiếm chỗ ngồi, chỗ dựa, chốc lát, lại thấy mười cô gái lưng ong xinh đẹp ra dáng kỹ nữ, cũng từ trên bình phong bước xuống, tự xưng là đội ca nô Chương Hoa nước Sở, rồi xếp hàng nắm tay nhau mà hát, tiếng ca vừa nhẹ nhàng, vừa trong trẻo. Hát xong, tất cả đều đứng dậy, một người tự xưng là Thần nữ Vu Sơn chỉ mặt Quốc Trung mà mắng:
- Nhà ngươi nắm quyền tể tướng, nhưng thực chỉ là một đứa tiểu nhân hèn hạ, tại sao lại dám chơi trèo đến cả hạng chúng ta, những là cuồng vọng, thật là đáng cười thay, đáng ghét thay!
Những mỹ nhân khác vỗ tay cười mà rằng:
- Con Ngọc Hoàng này ngu ngốc, Tam Lang nghe theo những lời nó làm gì, hãy để cho "Hồng Nghê bảo bình" này chứng kiến cái nhục nhã của con tiện tỳ này. Mai kia nó chịu họa không nhỏ. Chúng ta đôi co với nó làm gì. Đi thôi! Đi thôi!
Rồi tất cả trở lại bình phong, Quốc Trung như tỉnh mộng, toát mồ hôi khắp cả người, vội vàng xuống lầu, sai người nhà, cất ngay tấm bình phong đi, khóa luôn cả cửa lầu lại. Từ đó mỗi đêm trăng sáng, gió trong lại nghe trên lầu phụ nữ lao xao cười nói, ca hát. Người trong nhà, đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, chẳng một ai dám lên lầu này nữa.
Dương Quốc Trung vào cung, đem chuyện này tâu riêng với Dương Quý Phi, chỉ giấu biệt chuyện bị các mỹ nhân chửi mắng. Quý Phi nghe chuyện quái dị này, lấy làm kinh hoàng, liền thưa với Huyền Tông, xin cho hủy bình phong này đi. Huyền Tông phán:
- Người đẹp trên bình phong, đều là những bậc có tên tuổi của các triều trước, lại có cả tiên nữ, thần nữ nữa, sao lại coi thường mà phá bỏ. Hãy để trẫm hỏi Thông Nguyên tiên sinh cùng Diệp tôn sư thì sẽ biết diễm phúc họa ra sao!
Đường Huyền Tông lâu nay vẫn mê chuyện thần tiên, từ ngày Đường Cao Tông tôn Lão huynh lên làm Huyền Nguyên hoàng đế, đến Huyền Tông cũng chuyên cầu lễ tượng Lý Lão Quân, mười phần kính tín, lệnh cho khắp chín châu đều lập miếu, mời người trụ trì lo hương khói phụng thờ. Vì vậy một lũ phương sĩ đua nhau mọc ra. Có người tiến cử phương sĩ Trương Quả, vốn là bậc thần tiên, Huyền Tông liền lấy lễ, mời về Trường An, bái phong làm Ngân Thanh Quang lộc đại phu, ban hiệu là Thông Nguyên tiên sinh.
Lại còn có người tiến cử phương sĩ Diệp Pháp Thiện có thuật lạ, giỏi bùa phép, niệm chú, Huyền Tông cũng làm lễ mời về kinh sư, phong làm tôn sư. Số phương sĩ tuy nhiều, duy chỉ hai người này là được kính nể hơn cả. Huyền Tông mới đem chuyện mỹ nhân hiện hình của Quốc Trung hỏi, Trương Quả thì thưa:
- Yêu quái là do người mà có, chuyện chẳng qua Dương tể tướng ngắm những người đẹp trong bình phong, sinh nghĩ dâm tà, vì vậy yêu nghiệt theo đó mà sinh, chỉ cần Diệp Tôn sư ra tay là xong.
Diệp Pháp Thiện thì thưa:
- Phàm các vật báu thì dễ sinh tinh yêu, huống chi lòng người lại tơ tưởng, tất hiện thành linh ứng. Thần xin dâng một đạo bùa, đốt ngay trước bình phong, đừng sinh tà ý, gặp tuần sóc vọng phải dùng hương hoa cúng lễ, tự nhiên sẽ chẳng có chuyện gì đáng sợ nữa.
Huyền Tông bèn mời Pháp Thiện tự tay vẽ một đạo bùa "Chính ất linh phù , rồi sai nội thị đem ban cho Quốc Trung, nói lại cả lời của hai thầy phù thủy, Quốc Trung nghe nói yêu tà là do người tưởng niệm mà sinh ra, thì tự nhiên chân lông, chân tóc dựng sởn cả lên, lên ngay lầu, bày bình phong ra, đem đạo bùa ra mà hóa, khoảnh khắc thấy khắp lầu ánh chớp sáng lòa. Từ đấy về sau, trên lầu yên ổn, không còn nghe thấy tiếng người nữa. Chỉ đến ngày sóc, ngày vọng, khi làm lễ hương hoa, thì lạ thay những người đẹp trong bình phong lung linh phát sáng chói mắt, nhưng nhìn phong thái từng người đẹp trên bình phong, thì vẫn đoan trang hiền thục, so với trước kia thì khác hẳn.
Chính là:
Chính thì thắng tà
Tà thì thua chính
Lấy chính sửa tà
Thì tà thành chính.
Huyền Tông nghe tâu, càng thêm tin pháp thuật của Diệp Pháp Thiện. Một hôm hỏi riêng Pháp Thiện:
- Trương Quả tiên sinh đạo đức cao diệu, trẫm thường hỏi chuyện đời, tiên sinh chỉ cười mà không đáp là tại sao?
Pháp Thiện tâu:
- Bình sinh Trương Quả vốn là bậc thần tiên nên cũng không biết thế nào mà nói cho chắc chắn. Chỉ biết ngay từ thời Đường Nghiêu (1) từng làm quan thị trung, còn lai lịch ra sao, chỉ riêng thần biết, ngoài ra thì chẳng ai hiểu ra sao cả đâu.
1 Tức Đào Đường, triều đại của vua Nghiên, 2357-2256 trước công nguyên. Thế là cách Đường Minh Hoàng khoảng trên 3000 năm!
Huyền Tông khẩn khoản:
- Xin tôn sư thử nói cho nghe!
Pháp Thiện thưa:
- Thần chỉ ngại tai họa, nên không dám trình chúa thượng.
Huyền Tông phán:
- Tôn sư là bậc thần tiên, phúc họa nào còn đáng sợ nữa, xin đừng giữ ý quá thế?
Pháp Thiện trầm ngâm thưa:
- Bệ hạ chẳng cần giục thần nói. Thần mà nói tất không sống được một khắc. Xin bệ hạ hãy thương thần, triệu Trương tiên sinh vào không ngại ở ngôi thiên tử, hạ mình mà cầu, để thần được sống vậy!
Huyền Tông bằng lòng. Pháp Thiện xin cho tả hữu lui ra, mật tâu rằng:
- Trương tiên sinh lúc trời đất còn hỗn độn chưa phân, vốn là tinh của loài dơi trắng vậy!
Nói chưa dứt lời miệng đã thổ đầy máu tươi, nằm hôn mê ngay mặt điện. Huyền Tông lập tức lệnh nội thị, truyền chỉ bằng lời, triệu ngay Trương Quả vào cung kiến giá.
Trương Quả chống gậy vào, Huyền Tông xuống ngai đón, mà rằng:
- Diệp tôn sư đắc tội với tiên sinh, chính lỗi là ở trẫm, trẫm xin thay lời, tiên sinh hãy nể mặt mà tha cho!
Nói xong, định quỳ gối mà lạy, Trương Quả vội vàng nâng dậy mà tâu:
- Sao lại dám để bệ hạ cúi mình vàng. Nhưng tội uốn lưỡi thì quả là không đáng tha vậy!
Liền cầm trượng, liên tiếp đánh vào người Pháp Thiện mà rằng:
- Sao không biến ngay đi!
Pháp Thiện bỗng tỉnh táo, đứng dậy ngay, sửa sang áo khăn lạy tạ Huyền Tông rồi quay ra tạ tội Trương Quả. Trương Quả cười:
- Gậy của ta không dễ được đâu!
Pháp Thiện hai ba lần lạy tạ, Huyền Tông cả mừng, ban cho hoa quả.
Mấy ngày sau, có sứ từ vùng biển tới, dâng một loại cỏ rất độc, người vùng biển vẫn nói rằng, dẫu là bậc thần tiên cũng không dám ăn loại cỏ này. Huyền Tông liền sai Pháp Thiện hỏi rõ, rồi ngầm bỏ loại cỏ này vào trong rượu. Triệu Trương Quả vào nội điện ban yến, trước tiên là cho uống rượu ngon. Huyền Tông hỏi:
- Có thể triệu đến đây chăng?
Trương Quả đáp:
- Thần xin gọi!
Liền ngửa mặt lên không mà tâu rằng:
- Đạo đồng hãy mau tới kiến giá.
Chưa dứt lời, bỗng thấy một đạo đồng, từ trên nóc điện bay xuống, tuổi khoảng mười bốn, mười lăm, đầu nhỏ bụng nhỏ, khăn áo mặt mày trang nghiêm, bái lạy trước điện. Huyền Tông ngạc nhiên, sai lấy một đấu lớn đổ đầy rượu ban cho. Đạo đồng tạ ơn, đỡ lấy đấu rượu uống một hơi cạn. Huyền Tông thấy đạo đồng uống rất khoái ý, liền lệnh cho uống một đấu nữa, đạo đồng lại bưng lấy uống, nhưng mới được hai ba hớp, thì xương cổ, xương sườn đã nổi cả lên. Trương Quả cười:
- Nó tửu lượng có hạn, không thể uống hơn.
Liền nhặt một hột đào mà ném, tiểu đồng theo tay Trương quả ngã ngay xuống, rượu tuôn ra đầy nền điện, nhìn kỹ lại thìchẳng thấy đạo đồng đâu cả mà là một cái hồ lô đựng được khoảng một đấu rượu. Huyền Tông cười ha hả mà rằng:
- Tiên sinh làm trò vui như thế này, thì thật đáng mặt thần thông quảng đại. Xin hãy uống ngay một chén nữa.
Liền ra mật hiệu, nội thị dâng rượu có bỏ cỏ độc lên rót mời. Trương Quả không từ chối, uống một hơi cạn. Lát sau, thấy Trương Quả cúi đầu, nhắm mắt rồi ngủ ngay trên ghế ngồi. Huyền Tông lệnh cho nội thị không được ồn, để mặc Trương Quả ngủ. Hồi lâu Trương Quả tỉnh dậy, đứng lên cười mà tâu:
- Loại rượu này không tốt, nếu kẻ khác uống, thì chẳng bao giờ tỉnh nữa.
Lấy trong ống tay áo ra một cái gương, Trương Quả soi kỹ mà rằng:
- Rượu độc làm đen cả răng thần rồi!
Huyền Tông nhìn, xuýt xoa thán phục mãi không thôi.
Chính là:
Đùa đem cỏ độc thử thần tiên
Chỉ thấy tiên ông ngủ tít liền
Tỉnh dậy thân hình nguyên vẹn cả
Riêng hàm răng mới, trắng thành đen.
Từ đó, Đường Minh Hoàng lại càng tin chuyện thần tiên.
Đêm thượng nguyên, Huyền Tông sai kết lầu cao, giăng đầy gấm lụa ở nội cung, treo đèn, bày yến tiệc, chẳng gọi đình thần yến ẩm, chẳng triệu phi tần mà đòi Trương Quả, Diệp Pháp Thiện vào. Trương Quả có việc nên chưa đến ngay, Pháp Thiện vào trước. Huyền Tông cho ngồi đầu bàn tiệc, nâng chén cùng uống, một lát sau, trăng đèn cùng sáng, ca nhạc cùng nổi, mười phần vui vẻ. Huyền Tông rượu say, chỉ những đèn gấm mà phán:
- Những cái đèn này quả là đẹp, ở các nơi khác liệu có thứ này chăng?
Pháp Thiện đưa mắt, nhìn khắp bốn phía, tay chỉ hướng Tây mà thưa:
- Ở phủ thành Tây Lương, đêm nay treo đèn cũng rất nhiều, chẳng thua gì ở Trường An này.
Huyền Tông phán:
- Trẫm không thấy gì cả?
Pháp Thiện thưa;
- Bệ hạ muốn thấy cũng chẳng khó gì!
Huyền Tông vội hỏi:
- Tôn sư nếu có pháp thuật, làm cho trẫm cũng có thể trông thấy cảnh đẹp sao?
Pháp Thiện thưa:
- Thần xin bệ hạ cưỡi gió mà tới, vừa đi vừa về chẳng hết bao lâu.
Huyền Tông vội đứng ngay dậy. Cao Lực Sĩ đứng ngay bên cạnh, lại phủ phục dưới đất mà tâu:
- Diệp tôn sư tuy có diệu pháp, nhưng chúa thượng há nên thử những chuyện như thế này. Xin chúa thượng không nên xem thường.
Huyền Tông đáp:
- Tôn sư tất không lừa trẫm, khanh đừng nhiều lời, trẫm cũng chẳng cần khanh đi theo. Khanh hãy cứ ở đấy đợi trẫm.
Cao Lực Sĩ không dám nói nữa, cung kính lui về phía sau.
Pháp Thiện xin Huyền Tông tạm ngừng yến tiệc, thay áo, cùng với hai nội thị, cũng thay y phục, ra đứng ởsân điện, tất cả cùng nhắm mắt lại. Bỗng thấy hai chân bay bổng như đang đi trên mây cao, khoảnh khắc, chân đã chạm đất, bên tai nghe tiếng người huyên náo, đều là thổ âm vùng Tây Lương. Pháp Thiện lớn tiếng bảo mở mắt. Huyễn Tông thấy ngay vô số đèn lồng hoa gấm rực rỡ hàng suốt mấy dặm, người xem đi lại đông nghịt, trong lòng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lẫn lộn cùng đám đông, đi khắp nơi xem, khẽ hỏi Pháp Thiện:
- Đây là chuyện mộng hay là chuyện thật vậy tôn sư?
Pháp Thiện thưa:
- Bệ hạ nếu vẫn chưa tin cuộc dạo chơi đêm nay, xin hãy thử một chút xem sao?
Bèn hỏi hai nội thị:
- Các ngươi trong người có mang theo vật gì không?
Nội thị thưa:
- Chỉ có ngọc như ý mà hoàng thượng hay cầm chơi thôi!
Pháp Thiện liền cùng Huyền Tông vào một quán rượu, gọi rượu uống, xong xuôi lấy viên ngọc như ý tạm gạ tiền rượu, xin Huyền Tông viết ngay một tờ thư chiếu, hẹn ngày sai người tới chuộc, rồi ra khỏi quán đi bộ ra ngoài thành, lại bảo mọi người nhắm mắt lại, khoảnh khắc sau, bay bổng trên mây, rơi ngay xuống sân điện. Cao Lực Sĩ ra đón, cúi đầu chúc mừng.
Nhìn trên yến tiệc, ngọn nến "Kim liên bảo chúc" vẫn cháy chưa hết một nửa.
Huyền Tông còn đang kinh ngạc, thì tả hữu thưa Trương Quả đến. Huyền Tông mời ngay vào. Trương Quả thưa:
- Thần có việc xuất du, chưa thể vâng mệnh triệu đến ngay. Xin bệ hạ hãy tha tội cho?
Huyền Tông phán:
- Tiên sinh chẳng khác gì hạc nội mây ngàn, sao lại chịu trói buộc bởi chức phận thần tử cho được, nên nào có tội gì cho cam. Nhưng không biết vừa rồi tiên sinh đi đâu?
Trương Quả thưa:
- Thần đi Quảng Lăng thăm một đạo hữu, không ngờ bệ hạ triệu, cho nên tới chậm.
Huyền Tông phán:
- Quảng Lăng với kinh sư xa lắm. Tiên sinh đi về sao mà nhanh vậy?
Trương Quả cười thưa:
- Sáng sớm chơi ở Bắc Hải, chiều ngự ở bến Thương Ngô, là chuyện thường của nhà tiên, huống chi Tây Lương với Quảng Lăng, chẳng đến một bước chân!
Rồi hỏi Pháp Thiện:
- Hội đèn ở Tây Lương ra sao?
Pháp Thiện đáp:
- Cũng gần như Tây Kinh vậy thôi!
Huyền Tông hỏi:
- Tiên sinh vừa ở Quảng Lăng về, hội đèn ở Quảng Lăng có vui không?
Trương Quả thưa:
- Hội đèn ở Quảng Lăng cũng đông vui lắm, lúc này là lúc đang náo nhiệt nhất.
Pháp Thiện tâu:
- Thần không dám mời bệ hạ, nếu còn thích thì hãy đi xem luôn thể, cũng là một dịp để lưu chút tình với bệ hạ vậy.
Huyền Tông hoan hỷ phán:
- Thế thì hay lắm!
Rồi hỏi Trương Quả:
- Tiên sinh có cùng đi chăng?
Trương Quả thưa:
- Thần xin theo hầu ngự giá. Cuộc đi này chẳng cần phải cưỡi mây vượt gió, cũng chẳng phải từng bước trên đường làm gì. Thần có một thuật nhỏ, khiến bệ hạ chẳng phải lên trời, cũng chẳng cần xuống đất, xin bệ hạ thử một lần cho vui.
Huyền Tông đáp:
- Như thế càng tốt, xin tiên sinh hãy thi thố diệu thuật.
Trương Quả đáp:
- Xin mời bệ hạ thay áo, mang những mũ áo thật đẹp vào.
Bảo Cao Lực Sĩ cũng thay y phục thật rực rỡ, lại chọn trong đám Lê Viên tứ đệ mấy người nhanh nhẹn, đều áo gấm thêu hoa lóa mắt. Trương Quả cởi thắt lưng lụa trên người ra, vứt lên không, liền hóa thành một cây cầu bằng lụa, một đầu cầu ngay trước sân điện, mà vút lên mãi từng mây cao tít chẳng thấy rõ đầu cầu bên kia. Hình dáng cầu thế nào, có bài từ "Tây Giang nguyệt" sau đây làm chứng:
Cầu lát ngọc làu làu không gợn
Lơn can hồng uốn lượn đôi bên
Dao đài sáng lạn tiếp liền
Mây năm sắc tỏa dưới trên Ngân Hà
Thẳng bước chớ dùng dằng quay lại
Cứ ung dung đừng ngại ngùng chi
Trên cao nhìn cảnh thật kỳ
Thực hư, may mắn được chơi thiên đường!
Trương Quả cùng Pháp Thiện đi trước dẫn đường, Huyền Tông thong thả bước lên cầu, bọn họ Cao cùng Lê Viên tử đệ theo sau, được dặn kỹ là không quay đầu nhìn lại, cứ nhìn phía trước mà đi. Khoảng vài trăm bước, Trương Quả, Pháp Thiện đã đứng lại nói:
- Xin bệ hạ hãy dừng chân, đã tới đất Quảng Lăng rồi!
Trong thành đèn treo rất nhiều, quang cảnh rộn ràng chẳng kém gì Tây Kinh. Bỗng thấy trên không một đám mây đủ năm sắc xuất hiện, đưa tới đội mỹ nhân quần áo thướt tha xanh đỏ đủ màu, chẳng khác gì một đoàn tiên nữ, cũng đứng trên không mà lạy chào. Huyền Tông cùng mọi người đứng bên cầu, ngửa mặt nhìn trời cao, trăng sáng như ban ngày, cúi xuống thì thành Quảng Lăng đèn hoa lấp lánh, lấy làm hân hoan bội phần. Pháp Thiện bảo bọn Lê Viên tử đệ dạo "Nghê thường vũ y khúc". Nhạc xong, Trương Quả cùng Pháp Thiện dẫn Huyền Tông cùng mọi người trở về.
Vừa mới xuống khỏi cầu, Trương Quả phất tay, cầu đã chẳng thấy đâu. Trong tay Trương Quả lại cầm chiếc thắt lưng lụa, thắt vào người như cũ.
Cao Lực Sĩ cùng bọn Lê Viên tử đệ không giấu vẻ kinh ngạc.
Huyền Tông thì không ngớt lời khen:
- Tiên sinh thần thông quảng đại, thật là tài vậy!
Trương Quả tâu:
- Đây chẳng qua chỉ là một trò chơi nhỏ của nhà tiên, chẳng đáng để bệ hạ thán phục nhiều.
Huyền Tông lại lệnh thay chén để ban rượu, mãi đến sáng rõ, mới bãi yến ra về.
Đời sau có người làm thơ than rằng:
Tiên ông bày vẽ chuyện thần thông
Khiên được vua bay bổng giữa không
Đang bậc chăn dân tôn quý thế
Nỡ cho phượng sĩ hứng rồi tung!
Ngày hôm sau Huyền Tông mật sai người đến Tây Lương phủ, tìm đến tửu điếm mà Huyền Tông đã cầm ngọc như ý, đem theo chiếc nhẫn bạc để chuộc lại. Sứ giả đi mấy ngày, quả nhiên chuộc được về, nên Huyền Tông lại càng tin rằng cuộc đi chơi tối hôm thượng nguyên là thật, không phải hư.
Mấy tháng sau, quan sở lại tâu về triều: "Đêm mười lăm tháng giêng sau canh hai, trên trời bỗng thấy hàng vạn đóa mây ngũ sắc. Trong mây ẩn hiện hàng đoàn tiên nữ, từng từng lớp lớp rất rõ ràng. Lại có nghe cả tiếng nhạc du dương, không phải là thứ nhạc ở trần gian. Những điều này rõ là điềm thái bình thịnh thế. Vậy nên tâu rõ thánh thượng biết". Huyền Tông xem xong lấy làm kỳ lạ, nhưng cũng không nói gì, chỉ ngự phê vào bản tâu.
Nguyên là điệu “Nghê thường vũ y khúc", là do ở năm Khai Nguyên thời Huyền Tông, Huyền Tông thường mơ chơi cung trăng, thấy khoảng mười tiên nữ, mặc áo trắng rộng, tiếng bảo ngọc khẽ lung linh, vừa hát vừa múa trong cung Quảng Hàn, thanh điệu thánh thót, ở nhân gian không hề nghe bao giờ. Huyền Tông bèn cất tiếng hỏi:
- Khúc nhạc này có tên gì?
Bầy tiên nữ thưa:
- Gọi là "Nghê thường vũ y khúc".
Huyền Tông trong giấc mộng nhưng vẫn nhớ thanh điệu, lúc tỉnh dậy vẫn không
quên, liền truyền cho nhạc công, tập thành khúc điệu quả là không phải điệu
khúc của nhân gian vậy!
Huyền Tông càng thêm tin hai vị đạo sĩ, lại nghe Trương Quả mỗi lần ra khỏi cửa, thường cưỡi một con lừa trắng, đi nhanh như bay, đến khi trở về vẫn con lừa ấy, tay phẩy mấy cái lừa thành hình giấy, đem cất vào trong tráp, lúc nào muốn cưỡi lại đem ra lấy nước phun vào, nghiễm nhiên thành lừa trắng. Huyền Tông càng thán phục, nhân đó muốn kết nhân duyên họ hàng, định đem Ngọc Châu công chúa gả cho Trương Quả. Trương Quả tâu rằng:
- Thần có biệt thự dưới chân dãy Vương Ốc Sơn, trước đã từng bỏ ra ba mươi vạn tiền để cưới con gái họ Vi ở Thái Bình, nay liệu có nên thay chăng. Huống nữa, thần dã tính chẳng đổi, chẳng màng vinh lộc, vào kinh sư đã lâu, lòng nhớ núi xa, xin bệ hạ gia ân cho trở về, thực lấy làm may mắn.
Huyền Tông phán:
- Tiên sinh không bằng lòng thờ chúa, trẫm cũng chẳng dám nài, nhưng sao đã vội bỏ trẫm mà đi. Tiên sinh cùng với Diệp tôn sư phải luôn có ở bên trẫm, hai người không thể thiếu một, để sớm hôm chỉ giáo cho trẫm. Xin đừng nghĩ tới chuyện bỏ đi vội.
Trương Quả cảm lòng thành, bèn cùng Pháp Thiện ở lại Trường An.
Pháp Thiện trước kia từng ở Tùng Dương, đánh bạn với thứ sử Lý Ung, Lý Ung vốn nhiều tài, vừa giỏi văn vừa tài viết chữ. Pháp Thiện từng nhờ viết giùm một bài văn bia cho ông tổ của một người thân, rồi được triệu về kinh sư. Lý Ung cũng được thăng làm quan ở kinh sư, trong lòng không thích Pháp Thiện quảng hành thuật pháp, sợ sẽ làm huyễn hoặc lòng Huyền Tông. Pháp Thiện đã đem bài văn bia mà Lý Ung đã làm cho, đến xin Lý Ung viết luôn cho. Lý Ung nhất định không chịu, nói thẳng luôn rằng:
- Ta đã hối vì ngài mà viết bài văn rồi, nay lại còn viết cả chữ nữa sao?
Pháp Thiện cười:
- Ngài đã vì bần đạo mà viết bài văn, nay lại không vì bần đạo mà cho chữ sao? Việc không thể ép được, xin sẽ liệu cách khác vậy thôi!
Rồi lặng lẽ cười mà cáo biệt.
Đêm hôm ấy, Pháp Thiện ngồi một mình trong phòng kín, bày đủ giấy mực, bút nghiên, tới canh ba, bèn chống kiếm, chỉ đủ mười phương, rồi đốt một đạo bùa, miệng niệm thần chú lẩm nhẩm, vỗ vào bài lệnh, bỗng thấy Lý Ung từ trong tường đi ra. Pháp Thiện không một lời chào hỏi, chỉ lấy kiếm mà sai khiến, Lý Ung đem giấy bút ra viết bài văn bia, còn đạo đồng thì mài mực, cắt nến, chẳng mấy chốc bài văn viết xong. Pháp Thiện lại đốt đạo bùa thứ hai, miệng lại niệm chú, giơ kiếm chỉ, rồi quát lớn một tiếng. Lý Ung đã không thấy đâu nữa.
Thì ra ban ngày Lý Ung viết chữ chẳng xong, nên nửa đêm Pháp Thiện chiêu nhiếp hồn phách Lý Ung đến viết. Sáng ngày hôm sau Pháp Thiện thân tới nhà Lý Ung mà tạ ơn, đem cả giấy viết tối qua ra cho xem, mà rằng:
- Đây chính là ngài viết trong mộng tối hôm qua!
Lý Ung xem qua, trợn mắt há miệng ngạc nhiên, mồ hôi toát như tắm. Pháp Thiện tiếp:
- Cũng bởi quý trọng văn ngài, lại cũng không muốn mất hết chữ tài hoa của ngài, không muốn có chữ của kẻ khác thay vào, nên phải cố cầu đại bút. Nhưng vì ngài đã chẳng chịu nhận lời, cho nên phải giở trò đùa một chút, cũng biết là đáng tội, xin ngài tha thứ cho tội vô lễ này vậy?
Lý Ung vừa sợ vừa giận, không nói một lời. Pháp Thiện lại mang ra một lễ rất hậu, coi như là nhuận bút. Lý Ung nhất định không chịu nhận.
Huyền Tông nghe chuyện này, kinh ngạc mà than rằng:
- Chuyện thần tiên là chuyện không nên chống cự vậy?
Tấm bia mà Lý Ung viết, người đương thời gọi là "Truy hồn bia". Từ đó triều đình ngày càng tin chuyện thần tiên, số phương sĩ cũng nhờ vậy ngày càng tăng nhiều. Một hôm, ở vùng Ngọc Châu, thứ sử dâng sớ tiến phương sĩ là La Công Viễn, quảng địa thần thông, có nhiều thuật lạ, về kinh ra mắt hoàng đế.
Trong triều tiên cũ chưa đi
Ngoài kia tiên mới dắt dây dẫn vào
Đừng chê tiên lấy đâu nhiều
Vì vua hôn muội, tin điều viển vông.
Muốn hiểu sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
Con của Lâm Phủ là Lâm Tự, cũng làm quan trong triều, lòng rất lo lắng tới sự hưng vong của gia tộc mình, cùng Lâm Phủ dạo trong vườn hoa sau dinh thự, thấy một người phu dịch làm vườn, nằm ngủ ngay dưới gốc cây, nhân đó nói nhỏ với Lâm Phủ:
- Phụ thân nắm triều chính đã lâu, oán cừu đầy thiên hạ, mai kia bỗng hoạn nạn một sớm kéo đến, dẫu có muốn gối cao ngủ kỹ như người phu dịch kia, liệu được chăng?
Lâm Phủ yên lặng không đáp. Từ đó thường sợ có hiệp sĩ, thích khách ám toán, nên ra khỏi nhà, người ngựa hộ vệ có tới hơn trăm, ngoài ra còn đội lính đi trước mấy trăm bộ để dẹp đường, đuổi hết kẻ qua người lại. Ở thì qua mấy lần tường, lần cửa như chống giặc dữ, một đêm như thế, thay chỗ ngủ đến mấy lần, dẫu là gia nhân cũng chẳng biết chỗ nào.
Dương Quốc Trung thì ngược lại, vốn có thú vui ở chốn tiêu phòng, quan tước cũng đã đến tả thừa tướng ngôi cao, mặc sức kiêu xa, dâm dật, chẳng sợ ai ganh ghét, hãm hại, cũng chẳng đếm xỉa đến dư luận khen chê.
Lúc này là tiết thượng ty (1), Quốc Trung phụng thánh chỉ, cùng với em là Dương Tiêm và chị em các phu nhân, ra sông Khúc Giang làm lễ "Tu hễ". Cả năm nhà làm thành một đội, mỗi nhà mặc một sắc áo khác nhau, con hầu, tiểu đồng đi theo không kể hết, áo quần sặc sỡ lóa mắt, chẳng khác gì trăm hoa khoe sắc, cưỡi ngựa đi xe, không hề dùng tàn lọng cheđậy gì cả, hai bên đường, người đứng xem như nước cuốn. Quốc Trung cùng Quắc Quốc phu nhân, cầm roi giật cương lấy làm trò cười, ai nấy vui chơi mãi đến tối mịt, thắp đèn đuốc lên mà về, rơi trâm, rơi hài đầy đường đầy ngõ. Đỗ Công Bộ có bài "Lệ nhân hành" tả rằng:
1 Thượng ty: tiết đầu tháng ba âm lịch, người xưa thường ra bờ sông làm phép tế rảy nước trừ tà ma, tiệc rượu cũng coi như một lễ hội vui chơi, gọi là "Tu hễ” hay "Phất hễ", nếu làm vào thượng ty thì còn gọi là "Xuân hễ", làm vào mùa thu gọi là "Thu hễ". (Từ điển Thiều Chửu”
Mùng ba tháng ba khí trời trong
Người đẹp đất kinh chơi bên sông
Tính nết thùy mị, vẻ đượm nồng
Xương thịt đều đặn, da trắng mỏng
Áo là, xiêm vóc, ánh xuân lồng
Bạc đúc kỳ lân, vàng vác công,
Trên đầu có gì quý?
Cánh trả buông theo mái tóc cong
Sau gáy có gì đẹp?
Vạt châu lẫn gọn vừa lưng ong
Màn mây người họ ở tiêu phòng (1)
Tần Quốc, Quắc Quốc, tước vinh phong
Trên bướu lạc đà chỗ xanh biếc
Trong mâm thủy tinh cá trắng bông
Đũa ngà ngán ngấy mãi chưa gắp
Dao loan thái nhỏ đành uổng công
Thị vệ phi ngự bụi không tung (2)
Bát trân bếp ngự dâng lại dùng
Đàn sáo réo rắt, trống thì thùng
Khách mời chen chúc bạn vương công
Yên ngựa đến sau sao sượng sùng (3)
Xuống ngay đệm gấm trước thềm rồng
Hoa dương (4) rắc tuyết dày lớp rong (5)
Chim xanh bay lại ngậm khăn hồng
Hơ tay thấy nóng(6) Hách vô cùng
Ai ơi! Chớ xán gần bên trong!
Cụ lớn Thừa tướng(7) không bằng lòng.(8)
1 Nơi Dương Quý Phi ở.
2 Chỉ bọn quan thị.
3 Chỉ Dương Quốc Trung.
4 Dương Hoa, người đời Nam Bắc Triều, thông gian với Ngụy Thái hậu, sợ tội, trốn sang nước Lương. Ngụy Thái hậu tưởng nhớ mà làm ra bài "Hoa bạch dương". Ám chỉ việc Dương Quốc Trung tư thông với Quắc Quốc phu nhân.
5 Dương Quốc Trung vốn là con Trương Dịch Chi, làm con nuôi họ Dương, cũng ví như hoa dương đã rụng xuống, trà trộn trong đám rau tàn. (Bản dịch thơ là "lớp rong")
6 Nguyên văn: " Chích thủ khả nhiệt", một thành ngữ chữ Hán, như câu phương ngôn của ta "Đặt lửa lửa đỏ, đặt cỏ cỏ cháy", ý nói người có quyền thế, hách dịch.
7 Chỉ Dương Quốc Trung.
8 Bản dịch thơ của N.T. chú thích thuộc bài thơ, theo "Thơ đường", tập I, có thay vài ý.
Hôm ấy cả đoàn đi chơi vui vẻ, ngày hôm sau đều vào triều tạ ơn nhà vua. Huyền Tông lại ban yến ở nội điện. Quốc Trung tâu:
- Chúng thần vâng mệnh làm lễ "Tu hể", không hề có ý tìm vui thú, mà chính là vì thánh thượng cùng hoàng gia đón điềm lành, rước điềm phúc. Ra sông Khúc Giang, xe ngựa lộng lẫy, trăm họ đều trông vào dân chúng người người vui vẻ thật là cảnh tượng của thời thái bình, chúng thần thật muôn vàn đội ơn thánh chúa!
Huyền Tông rất vừa ý mà phán:
- Các khanh trong lúc vui chơi, mà vẫn không quên đấng bề trên, thì thật sự trung quân ái quốc rất đáng khen, lẽ nên trọng thưởng vậy!
Yến tiệc xong, ngày mai, lại xuất trong nội phủ đồ chơi bằng ngọc bằng vàng ban cho mọi người. Hàn Quốc phu nhân thì được "Chiếu dạ ngọc cơ”, Quắc Quốc phu nhân ban cho bức bình phong "Tỏa tử trướng” , Tần Quốc phu nhân được ban mũ “Thất điệp quan”, Quý Phi thấy thế tâu:
- Bệ hạ hôm trước đem bình phong quý mà ban cho thiếp, trên bình khắc mỹ nhân của các đời trước, để cùng sánh với thiếp, nhưng thiếp tựnghĩ hình dung xấu xí. Xin bệ hạ hãy chuyển mà ban cho anh thiếp Quốc trung liệu có được chăng?
Huyền Tông cười:
- Trẫm nghe Quốc Trung tỳ thiếp rất nhiều. Mỗi năm tới thu đông, tuyển những hầu gái vừa to vừa béo, đứng vây kín phía sau, làm thành một bình phong che gió bằng thịt. Nay đem bình phong này ra ban cho, hẹn có thắng được bình phong bằng thịt ở dinh chăng?
Nguyên là bình phong này có tên là “Hồng nghê bình” , vốn là vật cũ của triều Tùy còn lại, trên khác đủ người đẹp các triều đại, sinh động chẳng khác gì người sống, mỗi người cao khoảng hơn ba thốn, lấy thủy tinh làm nền, xung quanhlà bằng đủ các loại ngọc đá quý mà khảm thành cực kỳ tinh xảo, chẳng khác gì có bàn tay của quỷ thần góp vào, chứ còn sức người, tài người không thể làm nên.
Người đời sau có bài từ làm chúng:
Bức bình phong cầu vồng biến ảo
Bút mực trần thua khéo thua xinh
Chẳng dùng màu đỏ sắc xanh
Nghìn châu vạn ngọc chấp hình thuyền quyên
Nét trạm trổ rất nên tinh xảo
Này mặt hoa mày liễu cười tươi
Cứ tên mà gọi từng người
Ngàn xưa người đẹp ai nào thiếu ai. (1)
1 Không thấy nói theo điệu gì.
Huyền Tông đem bình phong này ban cho Quốc Trung, lại nói rõ cả ý của Quý Phi bảo nội thị truyền lại. Quốc Trung tạ ơn mà nhận, đem bình phong đặt ở ngay hậu dinh trên lầu cao, thường cùng thân hữu, gia quyến ngồi ngắm, không ai là không ngợi khen, thật đáng là vật báu khó kiếm trên đời.
Một hôm, Quốc Trung ngồi một mình trên lầu đón gió mát, vừa ngắm người đẹp trên bình phong, thầm nghĩ: "Thế gian liệu ai có được những thứ quý như thế này. Ta mà được lấy một hai người, cũng thật vui sướng không gì sánh?". Đang nghĩ ngợi thế, thì thấy mệt mỏi, liền quay ra giường mà nằm, vừa mới ngã xuống gối, bỗng thấy những người đẹp trên bình phong đều nháy mắt khẽ lắc đầu, rồi chẳng mấy chốc, lần lượt bước xuống khỏi bình phong, người càng cao lớn dần đến mấy thước, hình dáng uyển chuyển chẳng khác gì người sống, bước thẳng lại trước giường, lần lượt xưng tên. Người thì nói là kẻ xé lụa, kẻ kể là người bước trên hoa sen vàng, cô thì rằng giặt lụa suối xưa hoặc kẻ trông lò rượu, người đeo ngọc, kẻ nhặt lông phỉ thúy, người là Hứa Phi Quỳnh, là Tiết Dạ Lai, là Đào Nguyên tiên tử, là Vu Sơn Thần nữ, rất nhiều, rất nhiều, kể ra không hết (1)
1 Số người đẹp đây kể rất nhiều, đa số không rõ lý lịch, chỉ biết: Người xé lựa là Bao Tự, đời Chu U Vương. Người bước trên hoa sen vàng là Phan Phi, vợ Đông Hôn Hầu nước Tề. Người giặt lụa là Tây Thi nước Việt. Người trông lò rượu là Trác Văn Quân đời nhà Hán. Hứa Phi Quỳnh, người đời Hán. Vu Sơn Thần nữ thì đã nhắc nhiều. Đào Nguyên tiên tử là người tiên gặp Lưu Thần Nguyễn Triệu người đời Hán.
Dương Quốc Trung tuy mắt nhìn rõ ràng, nhưng toàn thân không thể động đậy, miệng không mở ra được. Các người đẹp đều kiếm chỗ ngồi, chỗ dựa, chốc lát, lại thấy mười cô gái lưng ong xinh đẹp ra dáng kỹ nữ, cũng từ trên bình phong bước xuống, tự xưng là đội ca nô Chương Hoa nước Sở, rồi xếp hàng nắm tay nhau mà hát, tiếng ca vừa nhẹ nhàng, vừa trong trẻo. Hát xong, tất cả đều đứng dậy, một người tự xưng là Thần nữ Vu Sơn chỉ mặt Quốc Trung mà mắng:
- Nhà ngươi nắm quyền tể tướng, nhưng thực chỉ là một đứa tiểu nhân hèn hạ, tại sao lại dám chơi trèo đến cả hạng chúng ta, những là cuồng vọng, thật là đáng cười thay, đáng ghét thay!
Những mỹ nhân khác vỗ tay cười mà rằng:
- Con Ngọc Hoàng này ngu ngốc, Tam Lang nghe theo những lời nó làm gì, hãy để cho "Hồng Nghê bảo bình" này chứng kiến cái nhục nhã của con tiện tỳ này. Mai kia nó chịu họa không nhỏ. Chúng ta đôi co với nó làm gì. Đi thôi! Đi thôi!
Rồi tất cả trở lại bình phong, Quốc Trung như tỉnh mộng, toát mồ hôi khắp cả người, vội vàng xuống lầu, sai người nhà, cất ngay tấm bình phong đi, khóa luôn cả cửa lầu lại. Từ đó mỗi đêm trăng sáng, gió trong lại nghe trên lầu phụ nữ lao xao cười nói, ca hát. Người trong nhà, đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, chẳng một ai dám lên lầu này nữa.
Dương Quốc Trung vào cung, đem chuyện này tâu riêng với Dương Quý Phi, chỉ giấu biệt chuyện bị các mỹ nhân chửi mắng. Quý Phi nghe chuyện quái dị này, lấy làm kinh hoàng, liền thưa với Huyền Tông, xin cho hủy bình phong này đi. Huyền Tông phán:
- Người đẹp trên bình phong, đều là những bậc có tên tuổi của các triều trước, lại có cả tiên nữ, thần nữ nữa, sao lại coi thường mà phá bỏ. Hãy để trẫm hỏi Thông Nguyên tiên sinh cùng Diệp tôn sư thì sẽ biết diễm phúc họa ra sao!
Đường Huyền Tông lâu nay vẫn mê chuyện thần tiên, từ ngày Đường Cao Tông tôn Lão huynh lên làm Huyền Nguyên hoàng đế, đến Huyền Tông cũng chuyên cầu lễ tượng Lý Lão Quân, mười phần kính tín, lệnh cho khắp chín châu đều lập miếu, mời người trụ trì lo hương khói phụng thờ. Vì vậy một lũ phương sĩ đua nhau mọc ra. Có người tiến cử phương sĩ Trương Quả, vốn là bậc thần tiên, Huyền Tông liền lấy lễ, mời về Trường An, bái phong làm Ngân Thanh Quang lộc đại phu, ban hiệu là Thông Nguyên tiên sinh.
Lại còn có người tiến cử phương sĩ Diệp Pháp Thiện có thuật lạ, giỏi bùa phép, niệm chú, Huyền Tông cũng làm lễ mời về kinh sư, phong làm tôn sư. Số phương sĩ tuy nhiều, duy chỉ hai người này là được kính nể hơn cả. Huyền Tông mới đem chuyện mỹ nhân hiện hình của Quốc Trung hỏi, Trương Quả thì thưa:
- Yêu quái là do người mà có, chuyện chẳng qua Dương tể tướng ngắm những người đẹp trong bình phong, sinh nghĩ dâm tà, vì vậy yêu nghiệt theo đó mà sinh, chỉ cần Diệp Tôn sư ra tay là xong.
Diệp Pháp Thiện thì thưa:
- Phàm các vật báu thì dễ sinh tinh yêu, huống chi lòng người lại tơ tưởng, tất hiện thành linh ứng. Thần xin dâng một đạo bùa, đốt ngay trước bình phong, đừng sinh tà ý, gặp tuần sóc vọng phải dùng hương hoa cúng lễ, tự nhiên sẽ chẳng có chuyện gì đáng sợ nữa.
Huyền Tông bèn mời Pháp Thiện tự tay vẽ một đạo bùa "Chính ất linh phù , rồi sai nội thị đem ban cho Quốc Trung, nói lại cả lời của hai thầy phù thủy, Quốc Trung nghe nói yêu tà là do người tưởng niệm mà sinh ra, thì tự nhiên chân lông, chân tóc dựng sởn cả lên, lên ngay lầu, bày bình phong ra, đem đạo bùa ra mà hóa, khoảnh khắc thấy khắp lầu ánh chớp sáng lòa. Từ đấy về sau, trên lầu yên ổn, không còn nghe thấy tiếng người nữa. Chỉ đến ngày sóc, ngày vọng, khi làm lễ hương hoa, thì lạ thay những người đẹp trong bình phong lung linh phát sáng chói mắt, nhưng nhìn phong thái từng người đẹp trên bình phong, thì vẫn đoan trang hiền thục, so với trước kia thì khác hẳn.
Chính là:
Chính thì thắng tà
Tà thì thua chính
Lấy chính sửa tà
Thì tà thành chính.
Huyền Tông nghe tâu, càng thêm tin pháp thuật của Diệp Pháp Thiện. Một hôm hỏi riêng Pháp Thiện:
- Trương Quả tiên sinh đạo đức cao diệu, trẫm thường hỏi chuyện đời, tiên sinh chỉ cười mà không đáp là tại sao?
Pháp Thiện tâu:
- Bình sinh Trương Quả vốn là bậc thần tiên nên cũng không biết thế nào mà nói cho chắc chắn. Chỉ biết ngay từ thời Đường Nghiêu (1) từng làm quan thị trung, còn lai lịch ra sao, chỉ riêng thần biết, ngoài ra thì chẳng ai hiểu ra sao cả đâu.
1 Tức Đào Đường, triều đại của vua Nghiên, 2357-2256 trước công nguyên. Thế là cách Đường Minh Hoàng khoảng trên 3000 năm!
Huyền Tông khẩn khoản:
- Xin tôn sư thử nói cho nghe!
Pháp Thiện thưa:
- Thần chỉ ngại tai họa, nên không dám trình chúa thượng.
Huyền Tông phán:
- Tôn sư là bậc thần tiên, phúc họa nào còn đáng sợ nữa, xin đừng giữ ý quá thế?
Pháp Thiện trầm ngâm thưa:
- Bệ hạ chẳng cần giục thần nói. Thần mà nói tất không sống được một khắc. Xin bệ hạ hãy thương thần, triệu Trương tiên sinh vào không ngại ở ngôi thiên tử, hạ mình mà cầu, để thần được sống vậy!
Huyền Tông bằng lòng. Pháp Thiện xin cho tả hữu lui ra, mật tâu rằng:
- Trương tiên sinh lúc trời đất còn hỗn độn chưa phân, vốn là tinh của loài dơi trắng vậy!
Nói chưa dứt lời miệng đã thổ đầy máu tươi, nằm hôn mê ngay mặt điện. Huyền Tông lập tức lệnh nội thị, truyền chỉ bằng lời, triệu ngay Trương Quả vào cung kiến giá.
Trương Quả chống gậy vào, Huyền Tông xuống ngai đón, mà rằng:
- Diệp tôn sư đắc tội với tiên sinh, chính lỗi là ở trẫm, trẫm xin thay lời, tiên sinh hãy nể mặt mà tha cho!
Nói xong, định quỳ gối mà lạy, Trương Quả vội vàng nâng dậy mà tâu:
- Sao lại dám để bệ hạ cúi mình vàng. Nhưng tội uốn lưỡi thì quả là không đáng tha vậy!
Liền cầm trượng, liên tiếp đánh vào người Pháp Thiện mà rằng:
- Sao không biến ngay đi!
Pháp Thiện bỗng tỉnh táo, đứng dậy ngay, sửa sang áo khăn lạy tạ Huyền Tông rồi quay ra tạ tội Trương Quả. Trương Quả cười:
- Gậy của ta không dễ được đâu!
Pháp Thiện hai ba lần lạy tạ, Huyền Tông cả mừng, ban cho hoa quả.
Mấy ngày sau, có sứ từ vùng biển tới, dâng một loại cỏ rất độc, người vùng biển vẫn nói rằng, dẫu là bậc thần tiên cũng không dám ăn loại cỏ này. Huyền Tông liền sai Pháp Thiện hỏi rõ, rồi ngầm bỏ loại cỏ này vào trong rượu. Triệu Trương Quả vào nội điện ban yến, trước tiên là cho uống rượu ngon. Huyền Tông hỏi:
- Có thể triệu đến đây chăng?
Trương Quả đáp:
- Thần xin gọi!
Liền ngửa mặt lên không mà tâu rằng:
- Đạo đồng hãy mau tới kiến giá.
Chưa dứt lời, bỗng thấy một đạo đồng, từ trên nóc điện bay xuống, tuổi khoảng mười bốn, mười lăm, đầu nhỏ bụng nhỏ, khăn áo mặt mày trang nghiêm, bái lạy trước điện. Huyền Tông ngạc nhiên, sai lấy một đấu lớn đổ đầy rượu ban cho. Đạo đồng tạ ơn, đỡ lấy đấu rượu uống một hơi cạn. Huyền Tông thấy đạo đồng uống rất khoái ý, liền lệnh cho uống một đấu nữa, đạo đồng lại bưng lấy uống, nhưng mới được hai ba hớp, thì xương cổ, xương sườn đã nổi cả lên. Trương Quả cười:
- Nó tửu lượng có hạn, không thể uống hơn.
Liền nhặt một hột đào mà ném, tiểu đồng theo tay Trương quả ngã ngay xuống, rượu tuôn ra đầy nền điện, nhìn kỹ lại thìchẳng thấy đạo đồng đâu cả mà là một cái hồ lô đựng được khoảng một đấu rượu. Huyền Tông cười ha hả mà rằng:
- Tiên sinh làm trò vui như thế này, thì thật đáng mặt thần thông quảng đại. Xin hãy uống ngay một chén nữa.
Liền ra mật hiệu, nội thị dâng rượu có bỏ cỏ độc lên rót mời. Trương Quả không từ chối, uống một hơi cạn. Lát sau, thấy Trương Quả cúi đầu, nhắm mắt rồi ngủ ngay trên ghế ngồi. Huyền Tông lệnh cho nội thị không được ồn, để mặc Trương Quả ngủ. Hồi lâu Trương Quả tỉnh dậy, đứng lên cười mà tâu:
- Loại rượu này không tốt, nếu kẻ khác uống, thì chẳng bao giờ tỉnh nữa.
Lấy trong ống tay áo ra một cái gương, Trương Quả soi kỹ mà rằng:
- Rượu độc làm đen cả răng thần rồi!
Huyền Tông nhìn, xuýt xoa thán phục mãi không thôi.
Chính là:
Đùa đem cỏ độc thử thần tiên
Chỉ thấy tiên ông ngủ tít liền
Tỉnh dậy thân hình nguyên vẹn cả
Riêng hàm răng mới, trắng thành đen.
Từ đó, Đường Minh Hoàng lại càng tin chuyện thần tiên.
Đêm thượng nguyên, Huyền Tông sai kết lầu cao, giăng đầy gấm lụa ở nội cung, treo đèn, bày yến tiệc, chẳng gọi đình thần yến ẩm, chẳng triệu phi tần mà đòi Trương Quả, Diệp Pháp Thiện vào. Trương Quả có việc nên chưa đến ngay, Pháp Thiện vào trước. Huyền Tông cho ngồi đầu bàn tiệc, nâng chén cùng uống, một lát sau, trăng đèn cùng sáng, ca nhạc cùng nổi, mười phần vui vẻ. Huyền Tông rượu say, chỉ những đèn gấm mà phán:
- Những cái đèn này quả là đẹp, ở các nơi khác liệu có thứ này chăng?
Pháp Thiện đưa mắt, nhìn khắp bốn phía, tay chỉ hướng Tây mà thưa:
- Ở phủ thành Tây Lương, đêm nay treo đèn cũng rất nhiều, chẳng thua gì ở Trường An này.
Huyền Tông phán:
- Trẫm không thấy gì cả?
Pháp Thiện thưa;
- Bệ hạ muốn thấy cũng chẳng khó gì!
Huyền Tông vội hỏi:
- Tôn sư nếu có pháp thuật, làm cho trẫm cũng có thể trông thấy cảnh đẹp sao?
Pháp Thiện thưa:
- Thần xin bệ hạ cưỡi gió mà tới, vừa đi vừa về chẳng hết bao lâu.
Huyền Tông vội đứng ngay dậy. Cao Lực Sĩ đứng ngay bên cạnh, lại phủ phục dưới đất mà tâu:
- Diệp tôn sư tuy có diệu pháp, nhưng chúa thượng há nên thử những chuyện như thế này. Xin chúa thượng không nên xem thường.
Huyền Tông đáp:
- Tôn sư tất không lừa trẫm, khanh đừng nhiều lời, trẫm cũng chẳng cần khanh đi theo. Khanh hãy cứ ở đấy đợi trẫm.
Cao Lực Sĩ không dám nói nữa, cung kính lui về phía sau.
Pháp Thiện xin Huyền Tông tạm ngừng yến tiệc, thay áo, cùng với hai nội thị, cũng thay y phục, ra đứng ởsân điện, tất cả cùng nhắm mắt lại. Bỗng thấy hai chân bay bổng như đang đi trên mây cao, khoảnh khắc, chân đã chạm đất, bên tai nghe tiếng người huyên náo, đều là thổ âm vùng Tây Lương. Pháp Thiện lớn tiếng bảo mở mắt. Huyễn Tông thấy ngay vô số đèn lồng hoa gấm rực rỡ hàng suốt mấy dặm, người xem đi lại đông nghịt, trong lòng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lẫn lộn cùng đám đông, đi khắp nơi xem, khẽ hỏi Pháp Thiện:
- Đây là chuyện mộng hay là chuyện thật vậy tôn sư?
Pháp Thiện thưa:
- Bệ hạ nếu vẫn chưa tin cuộc dạo chơi đêm nay, xin hãy thử một chút xem sao?
Bèn hỏi hai nội thị:
- Các ngươi trong người có mang theo vật gì không?
Nội thị thưa:
- Chỉ có ngọc như ý mà hoàng thượng hay cầm chơi thôi!
Pháp Thiện liền cùng Huyền Tông vào một quán rượu, gọi rượu uống, xong xuôi lấy viên ngọc như ý tạm gạ tiền rượu, xin Huyền Tông viết ngay một tờ thư chiếu, hẹn ngày sai người tới chuộc, rồi ra khỏi quán đi bộ ra ngoài thành, lại bảo mọi người nhắm mắt lại, khoảnh khắc sau, bay bổng trên mây, rơi ngay xuống sân điện. Cao Lực Sĩ ra đón, cúi đầu chúc mừng.
Nhìn trên yến tiệc, ngọn nến "Kim liên bảo chúc" vẫn cháy chưa hết một nửa.
Huyền Tông còn đang kinh ngạc, thì tả hữu thưa Trương Quả đến. Huyền Tông mời ngay vào. Trương Quả thưa:
- Thần có việc xuất du, chưa thể vâng mệnh triệu đến ngay. Xin bệ hạ hãy tha tội cho?
Huyền Tông phán:
- Tiên sinh chẳng khác gì hạc nội mây ngàn, sao lại chịu trói buộc bởi chức phận thần tử cho được, nên nào có tội gì cho cam. Nhưng không biết vừa rồi tiên sinh đi đâu?
Trương Quả thưa:
- Thần đi Quảng Lăng thăm một đạo hữu, không ngờ bệ hạ triệu, cho nên tới chậm.
Huyền Tông phán:
- Quảng Lăng với kinh sư xa lắm. Tiên sinh đi về sao mà nhanh vậy?
Trương Quả cười thưa:
- Sáng sớm chơi ở Bắc Hải, chiều ngự ở bến Thương Ngô, là chuyện thường của nhà tiên, huống chi Tây Lương với Quảng Lăng, chẳng đến một bước chân!
Rồi hỏi Pháp Thiện:
- Hội đèn ở Tây Lương ra sao?
Pháp Thiện đáp:
- Cũng gần như Tây Kinh vậy thôi!
Huyền Tông hỏi:
- Tiên sinh vừa ở Quảng Lăng về, hội đèn ở Quảng Lăng có vui không?
Trương Quả thưa:
- Hội đèn ở Quảng Lăng cũng đông vui lắm, lúc này là lúc đang náo nhiệt nhất.
Pháp Thiện tâu:
- Thần không dám mời bệ hạ, nếu còn thích thì hãy đi xem luôn thể, cũng là một dịp để lưu chút tình với bệ hạ vậy.
Huyền Tông hoan hỷ phán:
- Thế thì hay lắm!
Rồi hỏi Trương Quả:
- Tiên sinh có cùng đi chăng?
Trương Quả thưa:
- Thần xin theo hầu ngự giá. Cuộc đi này chẳng cần phải cưỡi mây vượt gió, cũng chẳng phải từng bước trên đường làm gì. Thần có một thuật nhỏ, khiến bệ hạ chẳng phải lên trời, cũng chẳng cần xuống đất, xin bệ hạ thử một lần cho vui.
Huyền Tông đáp:
- Như thế càng tốt, xin tiên sinh hãy thi thố diệu thuật.
Trương Quả đáp:
- Xin mời bệ hạ thay áo, mang những mũ áo thật đẹp vào.
Bảo Cao Lực Sĩ cũng thay y phục thật rực rỡ, lại chọn trong đám Lê Viên tứ đệ mấy người nhanh nhẹn, đều áo gấm thêu hoa lóa mắt. Trương Quả cởi thắt lưng lụa trên người ra, vứt lên không, liền hóa thành một cây cầu bằng lụa, một đầu cầu ngay trước sân điện, mà vút lên mãi từng mây cao tít chẳng thấy rõ đầu cầu bên kia. Hình dáng cầu thế nào, có bài từ "Tây Giang nguyệt" sau đây làm chứng:
Cầu lát ngọc làu làu không gợn
Lơn can hồng uốn lượn đôi bên
Dao đài sáng lạn tiếp liền
Mây năm sắc tỏa dưới trên Ngân Hà
Thẳng bước chớ dùng dằng quay lại
Cứ ung dung đừng ngại ngùng chi
Trên cao nhìn cảnh thật kỳ
Thực hư, may mắn được chơi thiên đường!
Trương Quả cùng Pháp Thiện đi trước dẫn đường, Huyền Tông thong thả bước lên cầu, bọn họ Cao cùng Lê Viên tử đệ theo sau, được dặn kỹ là không quay đầu nhìn lại, cứ nhìn phía trước mà đi. Khoảng vài trăm bước, Trương Quả, Pháp Thiện đã đứng lại nói:
- Xin bệ hạ hãy dừng chân, đã tới đất Quảng Lăng rồi!
Trong thành đèn treo rất nhiều, quang cảnh rộn ràng chẳng kém gì Tây Kinh. Bỗng thấy trên không một đám mây đủ năm sắc xuất hiện, đưa tới đội mỹ nhân quần áo thướt tha xanh đỏ đủ màu, chẳng khác gì một đoàn tiên nữ, cũng đứng trên không mà lạy chào. Huyền Tông cùng mọi người đứng bên cầu, ngửa mặt nhìn trời cao, trăng sáng như ban ngày, cúi xuống thì thành Quảng Lăng đèn hoa lấp lánh, lấy làm hân hoan bội phần. Pháp Thiện bảo bọn Lê Viên tử đệ dạo "Nghê thường vũ y khúc". Nhạc xong, Trương Quả cùng Pháp Thiện dẫn Huyền Tông cùng mọi người trở về.
Vừa mới xuống khỏi cầu, Trương Quả phất tay, cầu đã chẳng thấy đâu. Trong tay Trương Quả lại cầm chiếc thắt lưng lụa, thắt vào người như cũ.
Cao Lực Sĩ cùng bọn Lê Viên tử đệ không giấu vẻ kinh ngạc.
Huyền Tông thì không ngớt lời khen:
- Tiên sinh thần thông quảng đại, thật là tài vậy!
Trương Quả tâu:
- Đây chẳng qua chỉ là một trò chơi nhỏ của nhà tiên, chẳng đáng để bệ hạ thán phục nhiều.
Huyền Tông lại lệnh thay chén để ban rượu, mãi đến sáng rõ, mới bãi yến ra về.
Đời sau có người làm thơ than rằng:
Tiên ông bày vẽ chuyện thần thông
Khiên được vua bay bổng giữa không
Đang bậc chăn dân tôn quý thế
Nỡ cho phượng sĩ hứng rồi tung!
Ngày hôm sau Huyền Tông mật sai người đến Tây Lương phủ, tìm đến tửu điếm mà Huyền Tông đã cầm ngọc như ý, đem theo chiếc nhẫn bạc để chuộc lại. Sứ giả đi mấy ngày, quả nhiên chuộc được về, nên Huyền Tông lại càng tin rằng cuộc đi chơi tối hôm thượng nguyên là thật, không phải hư.
Mấy tháng sau, quan sở lại tâu về triều: "Đêm mười lăm tháng giêng sau canh hai, trên trời bỗng thấy hàng vạn đóa mây ngũ sắc. Trong mây ẩn hiện hàng đoàn tiên nữ, từng từng lớp lớp rất rõ ràng. Lại có nghe cả tiếng nhạc du dương, không phải là thứ nhạc ở trần gian. Những điều này rõ là điềm thái bình thịnh thế. Vậy nên tâu rõ thánh thượng biết". Huyền Tông xem xong lấy làm kỳ lạ, nhưng cũng không nói gì, chỉ ngự phê vào bản tâu.
Nguyên là điệu “Nghê thường vũ y khúc", là do ở năm Khai Nguyên thời Huyền Tông, Huyền Tông thường mơ chơi cung trăng, thấy khoảng mười tiên nữ, mặc áo trắng rộng, tiếng bảo ngọc khẽ lung linh, vừa hát vừa múa trong cung Quảng Hàn, thanh điệu thánh thót, ở nhân gian không hề nghe bao giờ. Huyền Tông bèn cất tiếng hỏi:
- Khúc nhạc này có tên gì?
Bầy tiên nữ thưa:
- Gọi là "Nghê thường vũ y khúc".
Huyền Tông càng thêm tin hai vị đạo sĩ, lại nghe Trương Quả mỗi lần ra khỏi cửa, thường cưỡi một con lừa trắng, đi nhanh như bay, đến khi trở về vẫn con lừa ấy, tay phẩy mấy cái lừa thành hình giấy, đem cất vào trong tráp, lúc nào muốn cưỡi lại đem ra lấy nước phun vào, nghiễm nhiên thành lừa trắng. Huyền Tông càng thán phục, nhân đó muốn kết nhân duyên họ hàng, định đem Ngọc Châu công chúa gả cho Trương Quả. Trương Quả tâu rằng:
- Thần có biệt thự dưới chân dãy Vương Ốc Sơn, trước đã từng bỏ ra ba mươi vạn tiền để cưới con gái họ Vi ở Thái Bình, nay liệu có nên thay chăng. Huống nữa, thần dã tính chẳng đổi, chẳng màng vinh lộc, vào kinh sư đã lâu, lòng nhớ núi xa, xin bệ hạ gia ân cho trở về, thực lấy làm may mắn.
Huyền Tông phán:
- Tiên sinh không bằng lòng thờ chúa, trẫm cũng chẳng dám nài, nhưng sao đã vội bỏ trẫm mà đi. Tiên sinh cùng với Diệp tôn sư phải luôn có ở bên trẫm, hai người không thể thiếu một, để sớm hôm chỉ giáo cho trẫm. Xin đừng nghĩ tới chuyện bỏ đi vội.
Trương Quả cảm lòng thành, bèn cùng Pháp Thiện ở lại Trường An.
Pháp Thiện trước kia từng ở Tùng Dương, đánh bạn với thứ sử Lý Ung, Lý Ung vốn nhiều tài, vừa giỏi văn vừa tài viết chữ. Pháp Thiện từng nhờ viết giùm một bài văn bia cho ông tổ của một người thân, rồi được triệu về kinh sư. Lý Ung cũng được thăng làm quan ở kinh sư, trong lòng không thích Pháp Thiện quảng hành thuật pháp, sợ sẽ làm huyễn hoặc lòng Huyền Tông. Pháp Thiện đã đem bài văn bia mà Lý Ung đã làm cho, đến xin Lý Ung viết luôn cho. Lý Ung nhất định không chịu, nói thẳng luôn rằng:
- Ta đã hối vì ngài mà viết bài văn rồi, nay lại còn viết cả chữ nữa sao?
Pháp Thiện cười:
- Ngài đã vì bần đạo mà viết bài văn, nay lại không vì bần đạo mà cho chữ sao? Việc không thể ép được, xin sẽ liệu cách khác vậy thôi!
Rồi lặng lẽ cười mà cáo biệt.
Đêm hôm ấy, Pháp Thiện ngồi một mình trong phòng kín, bày đủ giấy mực, bút nghiên, tới canh ba, bèn chống kiếm, chỉ đủ mười phương, rồi đốt một đạo bùa, miệng niệm thần chú lẩm nhẩm, vỗ vào bài lệnh, bỗng thấy Lý Ung từ trong tường đi ra. Pháp Thiện không một lời chào hỏi, chỉ lấy kiếm mà sai khiến, Lý Ung đem giấy bút ra viết bài văn bia, còn đạo đồng thì mài mực, cắt nến, chẳng mấy chốc bài văn viết xong. Pháp Thiện lại đốt đạo bùa thứ hai, miệng lại niệm chú, giơ kiếm chỉ, rồi quát lớn một tiếng. Lý Ung đã không thấy đâu nữa.
Thì ra ban ngày Lý Ung viết chữ chẳng xong, nên nửa đêm Pháp Thiện chiêu nhiếp hồn phách Lý Ung đến viết. Sáng ngày hôm sau Pháp Thiện thân tới nhà Lý Ung mà tạ ơn, đem cả giấy viết tối qua ra cho xem, mà rằng:
- Đây chính là ngài viết trong mộng tối hôm qua!
Lý Ung xem qua, trợn mắt há miệng ngạc nhiên, mồ hôi toát như tắm. Pháp Thiện tiếp:
- Cũng bởi quý trọng văn ngài, lại cũng không muốn mất hết chữ tài hoa của ngài, không muốn có chữ của kẻ khác thay vào, nên phải cố cầu đại bút. Nhưng vì ngài đã chẳng chịu nhận lời, cho nên phải giở trò đùa một chút, cũng biết là đáng tội, xin ngài tha thứ cho tội vô lễ này vậy?
Lý Ung vừa sợ vừa giận, không nói một lời. Pháp Thiện lại mang ra một lễ rất hậu, coi như là nhuận bút. Lý Ung nhất định không chịu nhận.
Huyền Tông nghe chuyện này, kinh ngạc mà than rằng:
- Chuyện thần tiên là chuyện không nên chống cự vậy?
Tấm bia mà Lý Ung viết, người đương thời gọi là "Truy hồn bia". Từ đó triều đình ngày càng tin chuyện thần tiên, số phương sĩ cũng nhờ vậy ngày càng tăng nhiều. Một hôm, ở vùng Ngọc Châu, thứ sử dâng sớ tiến phương sĩ là La Công Viễn, quảng địa thần thông, có nhiều thuật lạ, về kinh ra mắt hoàng đế.
Trong triều tiên cũ chưa đi
Ngoài kia tiên mới dắt dây dẫn vào
Đừng chê tiên lấy đâu nhiều
Vì vua hôn muội, tin điều viển vông.
Muốn hiểu sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
Nguồn truyenviet.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét