Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

1 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 35,36

HỒI 35

Ngày vui nhộn nhịp, đóng giả Bồ Tát Quan âm,
Đêm thu lài dài, khóc thật Chiêu Quân qua ải.

Từ rằng: 
Moi kim thổ huyết 
Để ai đó một người vui thích 
Một chút ơn 
Vắt óc nghĩ trò lố lăng kỳ quặc 
Ngoài ải hoa vàng, ca réo rắt 
Tù và, dương liễu phô thanh sắc 
Gió càng cao 
Biên tái ruổi dong thân gái 
Người quốc sắc 
Trăng như lụa 
Trời như ngọc 
Lả lướt say, ngổn ngang tiệc 
Quần hồng ngựa cưỡi như bay 
Lời thề biển rộng sông dài miên man 
 hồng đẫm lệ quan san. 

Theo điệu “Mãn giang hồng” 


Sự vui sướng trong trời đất, thật không biết thế nào là cùng. Tấm lòng của phụ nữ thì lại càng lạ lùng, khiến cho dù có là bậc anh hùng hảo hán, khí phách hiên ngang, cũng dễ thành đống xương khô tan tác như trò chơi, huống chi lại là loại vua chúa hoang dâm, thì làm sao mà giữ cho trọn vẹn được. 


Lại nói Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sáng ngày hôm sau, mãi tới giờ ngọ mới ngủ dậy, liền truyền cho Ngự lâm quân, đem đến một nghìn con ngựa, sắp sẵn yên cương, năm trăm con đến chờ trước cửa cung, năm trăm con trực sẵn ở cửa Tây Uyển. Lại sắc cho Quang lộc tự, trong Tây Uyển, các lầu, các viện đều phải sắp sẵn đầy đủ mọi thứ, để bất kỳ chỗ nào cũng có thể mở tiệc rượu thết đãi các phi tần cung nữ. Chẳng mấy lúc, mặt trời đã lặn về tây, vành trăng tròn dần dần nhô cao khỏi đường chân trời. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sau khi ngự tiệc rượu chiều, thay thanh long bào, tay dắt tay ra khỏi cửa cung, nhìn trăng sáng như lọc, sông Ngân lấp lánh, cả hai đều hớn hở trăm phần, cùng trèo lên ngoạn nguyệt hương xa, trong xe có đến hai hàng ghế ngồi, các màn che bốn bên xe đều được cuốn cao. Hai bên thành xe còn có thể đủ chỗ cho mấy phi tần cung nữ, hầu hạ rượu trà. Cung nữ được lệnh cưỡi ngựa, chia làm hai đội, một đội đi trước dẫn đường, một đội đi sau hộ vệ, vừa đi vừa ca hát, đàn địch. Lại được trăng sáng như ban ngày soi rõ đường ngự đạo rộng thênh thang. Cung nhân đều ăn mặc lộng lẫy, ngồi trên ngựa, bọc toàn lụa là gấm vóc, tiếng ti tiếng trúc rộn ràng, từ Đại nội kéo thẳng sang Tây Uyển. 
Dượng Đế ngồi trên hương xa, nhìn ra cảnh hoa lệ bên ngoài, mặt mày hớn hở, nói với Tiêu Hậu: 
- Từng nghe thuở xưa Chu Mục Vương cưỡi ngựa bát tuấn, cùng với Tây Vương Mẫu đi ăn yến ở Dao Trì, nữ nhạc hòa theo, nghìn năm coi đó là chuyện đẹp đẽ hiếm có. Nhưng cứ như trẫm nghĩ, cũng đến như cảnh này là cùng. 
Tiêu Hậu cười thưa: 
- Chuyện Dao Trì, Lãng Uyên đều là những chuyện hư ảo không đáng tin. Cuộc du ngoạn đêm nay mới là cảnh thực ở Dao Trì của bệ hạ vậy! 
Dượng Đế cười đáp: 
- Nếu cuộc vui đêm nay, mà là cuộc yến tiệc ở Dao Trì, thì trẫm chính là Mục Thiên tử, còn hoàng hậu chính là Tây Vương Mẫu vậy. 
Tiêu Hậu lại cười: 
- Nếu thiếp là Tây Vương Mẫu, thì lại làm bệ hạ phải khổ sở, vì nhớ Đổng Song Thành cùng Hứa Phi Quỳnh mà thôi. 

Cả hai nhìn nhau cả cười. 

Chẳng bao lâu, hương xa đã vào đến cửa Tây Uyển, các viện đều có các phu nhân dẫn cung nữ ra nghênh giá, viện nào cũng ca hát, đàn địch, hết đội này đến đội khác, lũ lượt kéo mãi không hết, toàn là các đội cung nữ. Kéo đến Trụ tất đình, nghênh Tiên Kiều, rồi tụ lại ở Xướng Tình hiên. Hiên này có tám cạnh, vừa cao vừa rộng, nền đài đều xây bằng đá trắng, có thể chứa một lúc hàng nghìn người. Bên trong trang hoàng gấm vóc phủ kín, đèn nến thắp sáng trưng. Dượng Đế xuống xe hương xa, các cung nữ xuống ngựa, vào hiên, Dượng Đế đưa mắt nhìn, chỉ thấy có mười bốn vị phu nhân, mà chẳng thấy Hoa Bạn Hồng ở viện Thúy Hoa, cùng Hạ Quỳnh ở Quỳnh viện Y Âm đâu cả, bèn hỏi Tần Phu Nhân ở viện Thanh Tu: 
- Vì sao không thấy Hoa phu nhân cùng Hạ phu nhân đâu cả? 
Tần phu nhân thưa: 
- Cả hai phu nhân sắp đến. 
Dượng Đế đang định hỏi thêm, bỗng nghe tiếng nhạc rất lạ tai, mỗi ngày một gần. Các cung nữ ùa ra thấy một chiếc kiệu đi lại: 
- Đẹp chưa kìa!Đẹp chưa kìa! 

Dượng Đế cùng Tiêu Hậu bước lên nguyệt đài nhìn ra cho rõ. Thì thấy hàng chục lá cờ ngũ sắc tiến lại, trên ngù cờ lại có một chiếc đèn lồng màu đỏ, do cung nữ ngồi trên ngựa cầm. Đội cờ quạt đi qua, lại thấy có đến bảy tám người, đội mũ lông chim, trông chẳng khác gì Trần Diệu Thường, tay cầm sênh hoặc cầm địch, cầm tiêu ngọc, vừa đàn địch vừa hát khúc "Thanh dạ du". Theo sau lại có người bưng lư trầm, một người bưng khánh ngọc. Trên cầu chiếc kiệu như một tòa núi, bọc bằng lụa trắng óng ánh, chẳng cây mà cũng chẳng lá gì cả, từ từ tiến lại. Trong hang núi, ngồi một Phật Bà Quan âm, mặt trắng như ngọc, tóc búi cao, giắt đầy thoa vàng, trâm ngọc chói ngời, trước ngực là hai dải lụa xanh quấn quýt bay tung ra hai phía, toàn thân phủ một tấm áo hồng, cánh áo bay phất phơ trước gió, một tay thì cầm tĩnh bình, một tay phất cành dương chi, phía dưới nhìn rõ đôi chân vừa trắng vừa mập mạp.


 Đứng hầu ngay cạnh là Hồng Hài Nhi, tóc tết dài bỏ ra hai phía, lộ rõ cả hai cánh tay ngà ngọc trắng muốt, cầm một chùm chuông bát bảo, mặc một áo lụa trắng thêu nổi lấp lánh như vẩy sừng, một cái quần màu hồng, có đính những hoa nhũ càng nổi bật dưới ánh đèn ánh trăng, hai chân cũng vừa trắng vừa tròn trĩnh, mặt mày hớn hở, ngẩng lên chào Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, rồi lại chăm chú đứng hầu Quan âm. Trước mặt Quan âm là một án thư nhỏ, trên cắm hai ngọn nến, ở giữa có bày một lư trầm, hương bay nghi ngút, khoảng bảy tám người khiêng. 

Dượng Đế tay đặt trên vai Tiêu Hậu, đang nhìn theo chiếc kiệu vừa đi khỏi, thì một toán người ngựa khác như một đám mây ập tới, tiếng nghe càng rộn ràng, cả bọn đều hướng về phía nguyệt đài nghe rõ lệnh truyền: 
- Chúa thượng, hoàng hậu hiện đang ở đây, các người hãy đi vòng về phía hiên tả rồi lên viện bằng cửa sau. 
Chào lễ xong xuôi, Tiêu Hậu mới nói: 
- Thì ra là Hoa phu nhân! 
Hoa phu nhân thưa: 
- Xin mời bệ hạ cùng hoàng hậu vào trong viện để mọi người được triều kiến. 
Dượng Đế đỡ Tiêu Hậu, hỏi Hoa phu nhân: 
- Ai đóng Phật Bà Quan âm, ai đóng Hồng Hài Nhi, là cung nữ của viện nào mà mặt mày xinh đẹp, ăn mặc cũng rực rỡ thế? 
Tiêu Hậu vội đáp: 
- Người đóng Phật bà, trông có vẻ giống Chu Quý Nhi. Còn Hồng Hài Nhi thì có lẽ là Viên Bảo Nhi. 
Dượng Đế cười: 
- Hoàng hậu nói thế chưa hẳn đã đúng, bởi Quý Nhi cùng Bảo Nhi đều có đôi chân chẳng khác gót sen vàng của Phan Phi, đằng này cả Quan âm cùng Hồng Hài Nhi đều có đôi chân rất tròn rất trắng! 
Hoa phu nhân cười thưa: 
- Dạo trước nghe bệ hạ nói, bệ hạ rất thích những cung nữ có đôi chân vừa trắng vừa đầy đặn, cho nên họ cố giả làm thế để vừa lòng bệ hạ đó thôi! 

Đang trò chuyện thì đã thấy đám giả trang Quan âm đi vào lạy chào, phía sau là hai cung nữ đóng giả Quan âm và Hồng Hài Nhi. 

Dượng Đế kéo dậy, nhìn kỹ, quả đúng là Quý Nhi và Bảo Nhi, bèn cả cười: 
- Đôi mắt hoàng hậu quả không bao giờ nhầm, rõ ràng là hai con bé này, thế còn đôi chân, thì làm thế nào cho to ra được? 

Quý Nhi giơ hẳn chân lên, Dượng Đế cúi nhìn, thì ra là dùng lụa trắng mà quấn thêm nhiều vòng, ngay cả ngón chân cũng vậy dưới ánh trăng, trông chẳng khác gì trời sinh ra như vậy thôi. Dượng Đế cười: 
- Đúng là bọn này nghĩ ra lắm trò tinh nghịch! 

Tiêu Hậu ngày thường rất thích Bảo Nhi, nay thấy Bảo Nhi giả trang Hồng Hài Nhi rất khéo, lòng càng yêu mến, liền kéo Bảo Nhi lại gần, ve vuốt đôi tay trắng như tuyết của Bảo Nhi, thấy lạnh như băng liền khuyên: 
- Trong vườn sương gió rất lợi hại, các ngươi hãy mặc ngay áo ấm vào? 
Dượng Đế cũng truyền bảo Quý Nhi: 
- Cả khanh nữa, áo khanh mặc cũng mỏng lắm! 

Nói rồi vuốt lên ống tay áo mỏng của Quý Nhi, có ngờ đâu là chỗ vết thương của Quý Nhi ở tay vẫn chưa khỏi, thấy Dượng Đế đụng đến, vội vàng rụt tay lại nhưng Dượng Đế đã sờ được phía trên cổ tay đeo vòng, thấy có buộc lụa trắng, liền hỏi Quý Nhi: 
- Tay khanh làm sao mà phải buộc? 

Quý Nhi đưa mắt nhìn Tiêu Hậu, cười không nói gì cả. Dượng Đế vốn cũng là người tế nhị, thấy thế liền bỏ tay ra, không hỏi thêm nữa. 
Tả hữu ồn ào: 
- Lại một đoàn rất đẹp đang đi đến kìa? 

Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vội bước ra hiên, nhìn lên phía cầu, dẫn đầu đoàn người có đến mười cô gái người Hồ, mặc áo chèn, vừa ngắn vừa chật, mỗi người đều đánh đàn tranh, hoặc đàn nguyệt, có người lại thổi kèn, tiếng nghe thật não nuột, ai oán, thỉnh thoảng nghe cả tiếng phách gõ nhịp nhàng. Phía sau là hai hàng cung nữ. Bốn cung nữ cưỡi ngựa, đánh đàn tỳ bà, vây lấy Chiêu Quân vào giữa. 




Chiêu Quân đầu đội mũ Phiên, có hai lông chim dài, giải vàng ngọc phủ trước trán, đuôi điêu quấn quanh, mặc một áo bào ngũ sắc, hai tay cũng ôm tỳ bà. Đang xem chăm chú, thấy Hạ phu nhân đi tới, Dượng Đế bèn hỏi: 
- Người đóng Chiêu Quân có phải là Tiết Dã Nhi không phu nhân? 
Hạ phu nhân đáp: 
- Dạ đúng? 
Rồi chỉ tay vào bốn người chung quanh Chiêu Quân. 
Hạ phu nhân nói tiếp: 
- Kia là Tuấn Nga, sau là Liễu Nương. Kia nữa là Thỏa Nương, sau là Nhã Nương. Bệ hạ định gọi họ lên hiên để đàn hát, hay muốn họ ở dưới đường phi ngựa? 
Dượng Đế cười hỏi: 
- Bọn này chỉ biết đi bộ từng bước. Nay làm sao mà lại cưỡi được cả ngựa nữa? 
Lương phu nhân thưa: 
- Họ đều là học trò của Chu Quý Nhi cả. Lúc nào rỗi, họ lại lấy ngựa ở trong tầu của Ngự uyển để tập, ngày nào chẳng thế! 
Phàn phu nhân lại chỉ tay thưa: 
- Toán phía sau lại bọn Viên Bảo Nhi đang cưỡi ngựa tới kìa! 
Thì ra Bảo Nhi, Quý Nhi đã ăn mặc đồ cung nữ. Tiêu Hậu cười, nói với Bảo Nhi: 
- Ngươi cũng biết cưỡi ngựa sao? Ta không thấy tập bao giờ cả? 
Dượng Đế vỗ tay: 
- Hay lắm! Hay lắm! Trước đây trẫm có sai Bùi Cử đổi cho người Hồ ở Tây Vực một con ngựa hay lạ lùng, ngươi mà cưỡi thì hợp lắm, không biết có đem tới đây không. 
Tả hữu thưa: 
- Đã đem đến chờ sẵn ở đây! 
Dượng Đế truyền: 
- Tốt lắm, mau dẫn ra đây! 
Tả hữu vội kéo một con ngựa ra trước hiên. Bảo Nhi cười cười thưa : 
- Tiện thiếp cưỡi không đẹp. Xin bệ hạ, hoàng hậu cùng các phu nhân đừng cười? 
Hai chân xỏ ngay vào đôi giày mũi cong, thắt thêm một dây lụa màu xanh biếc vào lưng, chạy đến bên ngựa, một tay trắng như tuyết giơ lên, đặt vào yến cương ngựa vàng. Cũng chẳng cần nhảy lên bàn đạp nhẹ nhàng nhún một cái đã ngồi ngay ngắn trên yên rồi. Dượng Đế thấy thế thích chí khen: 
- Cách lên ngựa như thế thì thật là tuyệt diệu. 
Hạ phu nhân liền truyền lệnh hãy cưỡi dạo một vòng, sau đó sẽ lên hiên đàn hát. Dượng Đế liền khiêng long ỷ ra ngay bên hiên, cùng Tiêu Hậu ngồi xem, xung quanh là các phu nhân cung nữ. 
Bảo Nhi cưỡi ngựa ô truy phi như bay, theo sau là một đoàn cung nữ ra roi đuổi theo. Lại thêm một toán cung nữ khác, ngựa bước thong thả theo đường trong ngự uyển đầy bóng cây che, vừa đàn vừa hát. Dượng Đế thấy thế hớn hở phán: 
- Thế này mới thực là huyền diệu. Các khúc đang hát kia, không phải là khúc “Thanh dạ du” của trẫm thì phải. Mà là khúc nào khác vậy, nghe cũng rất du dương. 
Sa phu nhân thưa: 
- Đấy là do Hạ phu nhân, bày cho họ đóng Chiêu Quân xuất tái, nên phải tự đặt ra "Tái ngoại khúc”, dạy Cho họ hát thật thuần thục, nghe cũng rất nhịp nhàng. 

Dượng Đế không kịp hỏi lại, chỉ giơ tay vẽ vẽ hình gì đó trên không. Bỗng thấy khoảng hai chục cung nữ cưỡi ngựa, chẳng chia dội ngũ gì cả, như một đám mây ập tới, hồng có, xanh có, cả vàng, cả trắng nhốn nháo rất vui mắt. Rồi cả bọn lần lượt vào góc hiên tây nam, vây Chiêu Quân vào giữa, giao tất cả nhạc cụ lại cho cung nữ, lại quay ngựa ra khỏi hiên, phi về phía tây bắc cùng nhau đứng thành hàng. Chỉ còn lại trước thềm Chiêu Quân với Bảo Nhi. Cả hai đều nai nịt gọn gàng, người phi về phía phải, người phi về phía trái. Hai tay giơ cao, những dải lụa màu bay phấp phới lúc bên phải lúc bên trái. 

Bỗng thấy Chiêu Quân, bay như một ánh chớp, đến nỗi Dượng Đế Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân, đều nhổm cả dậy rướn nhìn theo, nhìn chẳng rõ là người hay ngựa, chỉ thấy như một đám mây trắng, hạ xuống một vùng tuyết cũng trắng. Lại thấy Bảo Nhi như bay, lao thẳng sang, ngồi vững vàng trên con ngựa từ phía phải chạy lại, tiếng thanh la, tiếng trống rộn ràng. Hai ngựa, hai người lại như con thoi vút phải, vút trái, gặp nhau ở giữa hiên, có đến ba bốn vòng như thế, Bảo Nhi cùng Dã Nhi mới theo nhịp nhạc tấu rộn ràng, rời khỏi yên ngựa, một chân đạp vào bàn đạp, còn chân kia giơ ra khoảng không, nửa người dựa vào thân ngựa, một tay níu vào yên ngựa, một tay ra roi, ngựa lại thay nhau chạy lúc phải lúc trái, khác nào như chim yến xuyên trong đám hoa. Cuối cùng, cả hai dừng lại giữa hiên. Dượng Đế vừa kinh ngạc, vừa sung sướng vỗ tay cả cười: 
- Thật đúng là kỳ quan! Kỳ quan! 
Tiêu Hậu cùng mọi người đều tỏ lời khen ngợi. Cả bọn lúc này mới xuống ngựa, bước lên hiên, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đều đứng dậy đón. Tần phu nhân thưa: 
- Xin bệ hạ hãy chờ một lát, chúng mỹ nhân sẽ đàn hát "Tái ngoại khúc". Chỉ sợ bệ hạ đến mắt hoa, đầu váng mất thôi! 
Dượng Đế đang định trả lời, thì đã thấy Dã Nhi dẫn cả bọn cung nữ vừa phi ngựa đến trước lạy chào. Dượng Đế vội xua tay, rồi kéo Dã Nhi đứng dậy, thấy rõ ràng nhan sắc chẳng kém gì Chiêu 
Quân thuở trước. Dượng Đế vuốt ve âu yếm Dã Nhi rồi khẽ nói: 
- Dã Nhi thật tài, thật đẹp! Trẫm làm sao mà hiểu được khanh lại có nhiều điều xuất chúng đến vậy. Nếu không có hoàng hậu nghĩ ra cuộc chơi này, thì đến hàng nghìn năm trẫm cũng chẳng làm sao mà biết được. 

Bèn rút từ trong ống tay áo ra một cái quạt "Hỗn kim cung phiến", ở thu quạt có đeo một hạt ngọc để giữ cho quạt khỏi rơi, ban cho Dã Nhi. Dã Nhi tạ ơn nhận quạt. Tiêu Hậu liền hỏi: 
- Sao không thấy Viên Bảo Nhi đâu? 
Dương phu nhân chỉ tay thưa: 
- Bảo Nhi đang trốn sau lưng hoàng hậu kia! 
Tiêu Hậu quay lại cười: 
- Ngươi học bao giờ mà cưỡi ngựa giỏi đến thế? Cũng phải thưởng công khó nhọc của ngươi mới được! 
Dượng Đế nghe thấy liền cười: 
- Không phải trẫm bên trọng bên khinh, nhưng trẫm lấy gì nữa để thưởng cho Bảo Nhi bây giờ? Được rồi, để trẫm vay của hoàng hậu vật gì vậy? 
Tiêu Hậu vội vàng giơ tay rút một cành trâm vàng trên đầu mình đưa cho Dượng Đế. Dượng Đế cầm ban cho Bảo Nhi. Bảo Nhi lại không tạ ơn Dượng Đế, mà quay ra tạ ơn Tiêu Hậu, Tiêu Hậu vội ngăn lại, Dượng Đế cười mắng: 
- Cái con bé này gớm thật! Cả gan thế kia à? 
Dã Nhi cùng chúng phu nhân đang giở tỳ bà ra để đàn hát, thì Dượng Đế phán: 
- Hãy khoan đã! Bảo bọn nội thị, hãy đem nhung, gấm rải khắp trong hiên, rồi kê đôn hoa cùng án thấp bày tiệc rượu ngồi ngay trên nền điện vậy! 
Tả hữu lĩnh ý chỉ, vào bày biện xong xuôi, ra mời Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vào. Vua cùng hoàng hậu, ngồi ngay hướng chính nam, trên hai chiếc đôn hoa thấp. Đông tây hai bên, mỗi bên là bốn bàn tiệc, đều dùng đôn hoa thấp, là chỗ ngồi của các phu nhân mười sáu viện, cùng với Viên Quý Nhi. Dượng Đế lại sai bọn nội thị, bày tiệc rượu thứ hai, cũng ngay bên cạnh trong hiên, ban cho Dã Nhi ngồi đối diện, còn các mỹ nhân thì cứ thế ngồi xếp bằng ngay trên nền nhung. Dượng Đế phán: 
- Đêm nay so với các cuộc vui trước thật xứng ý hơn nhiều, hoàng hậu cùng các phu nhân, không thể không uống cho thật say. 
Lại nói với các mỹ nhân: 
- Các khanh cũng phải uống vài chén, sau đó hãy đàn hát, cho giọng thêm ngọt ngào, say sưa. 
Cười cười nói nói, uống một hồi, bọn Dã Nhi ôm tỳ bà đứng chờ sẵn, Dượng Đế nói:
- Bài từ "Thanh dạ du" của trẫm, lúc mới đến, đã nghe đàn hát mấy lần rồi, giờ chỉ cần nghe "Tái ngoại khúc" của Hạ phu nhân nữa là được. 
Hạ phu nhân thưa: 
- Sao lại có thể như thế được thưa chúa thượng! Lẽ đương nhiên là phải trình bài của chúa thượng trước đã. 
Dượng Đế nhân nhượng: 
- Bài của trẫm hãy cứ để sau đã. 
Thế là các mỹ nhân bắt đầu đàn hát. Đầu tiên Chiêu Quân ôm đàn tỳ bà, hát một khúc, lời ca như cuộn lấy mái hiên, sau đó bốn cung nữ đóng người Hồ cũng đàn tỳ bà họa theo. Khúc đầu tiên là bài từ "Phấn điệp nhi": 

Trăm lạy quân vương, 
Thiếp tôi xin nghìn lạy quân vương 
Ấy từ ai đó vẽ đường tanh hôi 
Chẳng ai giúp nước cứu đời 
Cống Hồ nhi nữ uổng đời quần thoa 
Đất Thiền vu tít mù xa 
Mối sầu đứt ruột tỳ bà lệ tuôn. 

Bài tiếp theo, theo điệu từ "Khấp Nhan Hồi" (1) 
1 Nhan Hồi: học trò giỏi nhất của Khổng Tử thời Xuân Thu, còn gọi Nhan Uyên, sống thanh bạch, cơm một giẻ, nước một bầu, trong ngõ hẹp. "Thương thay Nhan Tử dỡ dang; Ba mươi mốt tuổi tách đường công danh" (Lục Vân Tiên). 

Rúc một tiếng còi 
Thương cha nhớ mẹ vua đòi phải đi 
Một bước núi Hỗ 
Một bước nút Dĩ 
Rời phòng khuê rầu rĩ phong sương 
Thơ hồng nhan, mình tự thương 
Phong quang thiên tử, Chiêu Dương huy hoàng. 


Các mỹ nhân hát nghe lên bổng xuống trầm, du dương êm ái. Dã Nhi hát lại càng nghe nỉ non, như than như khóc, cứ dạo một khúc tỳ bà, lại hát một lượt, Dượng Đế rất bằng lòng, vừa khen vừa uống hết chén rượu này đến chén rượu khác. Tiêu Hậu nói với Hạ phu nhân: 
- Khúc này là từ ngoài ải xa, Chiêu Quân thương cha nhớ mẹ, nghĩ đến thân phận của mình, phu nhân cứ hết lòng nghĩ ngợi, nên nghe hay lắm. Đến khúc thứ ba là khúc gì nữa? 
Hạ phu nhân thưa: 
- Khúc "Thạch lưu hoa", tâu hoàng hậu? 

Lãnh cung cô quạnh tiếng oan ương 
Hoa mộng, trăng khuya vẫn vắng trông 
Đừng bảo móc mưa ơn thánh đế 
Gieo mình vạn dặm bãi hoang lương 
Khoe nhà Hán đường đường thiên tử 
Cũng đua đòi diệu kế Chu Lang 
Công lao tướng sĩ ải quan 
Khoanh tay để mặc hổ lang điên cuồng 
Kèn Hồ một khúc véo von 
Qua sông xa để muôn dòng lệ sa.
 
Bài thứ tư là "Hoàng long cổn". 
Buồn một nỗi Hiền Vương trên ải 
Ôm lòng thương thân gái lênh đênh 
Hán triều hoàng đế ươn hèn 
Chia tay sùi sụt, từng phen ngập ngừng 
Người hoa vàng, dặm nghìn đằng đẳng 
Mây trắng đùn, đuổi vướng áo hồng 
Bụi mù mịt, chẳng buồn trông 
Mày cong cong chếch, lệ ròng ròng sa. 




Dượng Đế nghe đến mê mẩn tâm thần, chẳng còn biết trời đất gì nữa. Tai nghiêng nghiêng như lắng nghe, như thức, như ngủ, như tỉnh, như mê, nhưng vẫn thấy Tiêu Hậu cùng mọi người vừa nghe, vừa xem vừa sụt sùi giọt đầy giọt vơi. Dượng Đế khẽ hỏi trống không: 
- Tại sao các khanh lại khóc than thế? Nay chỉ mới xem cảnh giả còn như vậy, nếu chẳng may gặp phải bước này, thì tấm thân sẽ còn ra sao nữa? 
Tiêu Hậu đáp: 
- Ngày trước chỉ mới Hầu Phi tử mất, mà đến nỗi bệ hạ còn xử chết cả đình thần. Đừng nói là kẻ quốc sắc thiên hương, mà ngay cả đến cung nữ bình thường, cũng không thể để rơi vào tay kẻ khác cho được 
Dượng Đế xua tay: 
- Thôi đừng nói nữa? Hãy nghe họ hát đã! 
Giờ là khúc "Tiểu đào hồng" 

Nhớ quê trong mộng mà thôi 
Cửu trùng cũng chẳng đoái hoài nữa đâu! 
Ngày mai ngựa tới trước lều 
Thế thôi, hết thấy đất trời quê hương 
Lòng tơ rối cung thương lỡ nhịp. 
Ba sinh này duyên kiếp còn đâu 
Cầu mong bình trị một câu 
Bốn phương phẳng lặng dài lâu thái bình. 


Cả trăm đàn tỳ bà đều nhất loạt nức nở ai oán; nghe chẳng khác nào gió thổi qua bờm ngựa, cát vãi vào thanh la, để cuối cùng dồn dập vút lên cao rồi tắt hẳn! Dượng Đế đứng lên, nói với Sa phu nhân: 
- Quả là tài tình, quả là tài tình? Lấy văn từ của khúc này để kết thúc thì quả là vượt xa khúc "Thanh dạ du” của trẫm. Lại càng thấy phu nhân thật mẫn tiệp, tài tình. 
Sa phu nhân thưa: 
- Toàn những lời quê mùa dân dã, có gì đâu mà chúa thượng khen! 
Tiêu Hậu nói: 
- Khúc này từ ý đều thật trọn vẹn, không thay được một chữ. Đó là công khó nhọc của Sa phu nhân suốt cả ngày nay, đêm qua. Người nghe khúc này, càng thấy nghĩa nặng tình sâu của bệ hạ, tưởng bệ hạ cũng nên thưởng công khó nhọc của Sa phu nhân mới phải! 
Dượng Đế đáp: 
- Thì trong lòng trẫm cũng nghĩ nhất định phải thưởng rồi! 
Bảo Nhi liếc nhìn Dượng Đế thưa: 
- Thì từ lâu bệ hạ đã thưởng còn gì? 
Dượng Đế cười mắng: 
- Cái con bé này không được hỗn. Hãy chờ đó rồi ta sẽ phân xử đến ngươi! 
Mọi người cùng cười, rồi thay hóa trang, lại ngồi xuống chỗ cũ. 
Tiếng nhạc nhẹ nhàng bài "Thanh dạ du" cất lên. Dượng Đế vội xua tay, phán: 
- Người xưa nói: Phải biết dừng lại đúng chỗ. Dẫu có vui khác nữa, trẫm cũng không dám thưởng thêm. Các khanh hãy đem chén lớn ra đây, trẫm uống vài chén nữa nào? 
Tiêu Hậu nhắc: 
- Trăng đã sắp lặn, ai nấy nên sửa soạn về cung thì vừa. 
Dượng Đế truyền cho nội thị: 
- Hãy bày thêm yến tiệc ở Vạn Hoa lâu. Các cung nữ đều cưỡi ngựa, mỗi người cầm một cái đèn lồng. Chia làm hai đội, một dội theo hoàng hậu đi đường trước núi, một đội theo trẫm, đi phía sau núi, đều kéo về dự yến tiệc ở Vạn Hoa lâu đã, rồi hãy ai về cung ấy! 
Chẳng mấy chốc, bên ngoài hàng vạn ngọn đèn lồng được thắp lên, chẳng khác gì sao sa, sáng rực trước hiên, ánh hắt lên cây cối, lầu các đầy vẻ lung linh huyền ảo. 

Dượng Đế, Tiêu Hậu ra khỏi hiên, cùng lên xe loan, xe rồng một lúc. Các phu nhân, quý nhân, mỹ nhân đều thong thả lên ngựa. Đi khoảng được một dặm, Tiêu Hậu từ trên xe nhìn ra, đều thấy các phu nhân mỹ nhân ở trước mặt, Tiêu Hậu vội dừng xe truyền lệnh cho các mỹ nhân: 
- Chúng phu nhân đi với ta là đủ rồi. Các người phải đi theo xe của chúa thượng, cớ sao lại dồn cả vào đây, chúa thượng mà thấy không có người theo hầu, chẳng trách gì các ngươi, mà lại cho lỗi ở ta. Hãy đợi kẻo chúa thượng nổi giận bây giờ. 
Các phu nhân đều tán đồng: 
- Hoàng hậu thật chu đáo! 

Vì vậy các phu nhân thì vây theo xe của Tiêu Hậu, còn các mỹ nhân thì dừng ngựa chờ xe của Dượng Đế. Dượng Đế lúc này đi đường sau núi, thấy các phu nhân, mỹ nhân đi theo xe Tiêu Hậu cả, nên cũng lấy làm phiền lòng, nhưng sợ lâu quá, Tiêu Hậu chờ không thấy, sẽ nghi ngại gì chăng, nên cũng phải lên xe đi tiếp, thành một đoàn. Nhưng trong lòng vẫn không thư thái, liền xuống xe, nhảy lên ngựa, vòng quanh núi mà đi. Thấy phía chân núi một người một ngựa, một đèn lồng đi tới. Dượng Đế nhận ra Thỏa Nương, Thỏa Nương vội vàng xuống ngựa. Dượng Đế vội ngăn lại rồi cầm tay hỏi: 
- Cái con bé dẻo miệng này, định ở chân núi này để làm nữ cường đạo hay sao? 
Thỏa Nương thưa: 
- Cường đạo thì không làm được. Nhưng thiếp vì sương gió lạnh, trên người thì lại toàn áo mỏng, chả như kẻ khác có người thương, nên phải quay về viện, mặc thêm áo ấm rồi mới quay lại. 
Dượng Đế vừa cười vừa mắng: 
- Thật đúng là dẻo miệng, Trẫm đâu có không thương các khanh, mà lại nói như vậy cho được? 
Thỏa Nương cười thưa: 
- Vừa rồi thiếp nghe Bảo Nhi kể chuyện bệ hạ vuốt cánh tay Quý Nhi, vô cùng thương cảm, cho nên thiếp đùa bệ hạ vậy thôi, may mà bệ hạ không bắt tội. Không biết hoàng hậu cùng các phu nhân đâu cả rồi bệ hạ? 
Dượng Đế đáp: 
- Khanh chẳng cần tìm họ, đi với trẫm cũng được rồi. Trẫm đang có chuyện muốn hỏi khanh ngay bây giờ đây! 
Thế là hai ngựa cùng đi song song, Dượng Đế hỏi: 
- Trẫm hỏi khanh, cánh tay Quý Nhi vì sao phải buộc lụa thế? 
Thỏa Nương đáp: 
- Cánh tay Quý Nhi chỉ vì bệ hạ, sao bệ hạ không hiểu mà còn phải đi hỏi thiếp? 
Dượng Đế nghe thế liền ngạc nhiên hỏi tiếp: 
- Trẫm làm sao mà hiểu được. Tại sao lại vì trẫm, khanh nói ngay đi! 
Thỏa Nương đáp: 
- Thiếp không nói. Bệ hạ cứ đi hỏi Quý Nhi thì rõ ngay thôi mà! 
Dượng Đế dọa: 
- Khanh mà không nói ngay, trẫm sẽ không để khanh yên tâm đâu nhé! 
Thỏa Nương không biết làm thế nào, đành phải đem mọi chuyện kể lại: Dượng Đế đau ốm mê man ra sao, Quý Nhi cắt thịt, lén bỏ vào siêu thuốc thế nào, kể hết lại cho Dượng Đế nghe. 
Chuyện kể vừa xong, thì thấy phía sau, bảy tám ngựa phi tới, Dượng Đế quay đầu lại nhìn thì ra là bọn mỹ nhân Tuấn Nga, bèn lớn tiếng hỏi: 
- Các khanh sao giờ mới đến đây? 
Dã Nhi cười thưa: 
- Hoàng hậu sợ bệ hạ giận, nên sai chúng thiếp quay lại hộ giá! 
Quý Nhi tấm tức thưa tiếp: 
- Thiếp đã nói với mọi người là bệ hạ đi theo đường sau núi này, mà không đi theo đường lớn đâu, nhưng mấy cái mụ già nhà quê này, không chịu nghe theo, làm phải đi bao nhiêu là đường vòng. 
Bảo Nhi ngồi trên yên cương: 
- Mấy chị này, bị em lừa một bữa nhớ đến già nhé! 
Dượng Đế phán: 
- Thôi được rồi, các khanh đi dẫn đường đi! 
Vừa nói vừa níu lấy ngựa của Quý Nhi tiếp: 
- Còn khanh thì cứ từ từ, đi sau với trẫm? 
Các mỹ nhân nghe thấy thế, bỏ Quý Nhi lại sau ruổi ngựa lên trước. 
Dượng Đế thấy các mỹ nhân đã đi cách đến một tầm tên bắn, liền cho ngựa đi sát vào ngựa Quý Nhi, khẽ nói: 
- Khanh mau sang ngồi cùng ngựa với trẫm, trẫm muốn nói chuyện với khanh. 
Quý Nhi vội nhảy khỏi ngựa, Dượng Đế đỡ cho Quý Nhi cùng ngồi trên yên ngựa của mình. Quý Nhi vứt dây cương cho cung nhân theo hầu cầm. Dượng Đế liền vội vàng hỏi Quý Nhi: 
- Trẫm làm sao mà biết được tấm lòng yêu mến chủ của khanh đến thế, nếu vừa rồi Thỏa Nương không nói cho trẫm hay, thì thật là phụ cả lòng sâu nặng của khanh vậy!
Nói rồi, luôn miệng xuýt xoa cảm thán, chỉ còn thiếu rơi nước mắt nữa thôi. Quý Nhi thưa: 
- Tiện thiếp chịu ơn lớn của bệ hạ, dẫu có quên cả thân mình cũng chẳng tiếc, phương chi chỉ là việc nhỏ mọn như vậy. Nhưng thật là chị Thỏa Nương, thiếp đã ân cần dặn kỹ, thế mà vẫn không nghe, vẫn cứ kể lại cho bệ hạ biết. Nay xin bệ hạ hãy "thủ khẩu như bình", chẳng bao giờ nói ra, chỉ cần có một người biết, thì hoàng hậu cùng các phu nhân đều sẽ nói thiếp xảo trá, làm như thế để được bệ hạ sủng ái riêng mà thôi! 




Dượng Đế đáp:
 
- Cung nữ khắp trong cung, hàng nghìn hàng vạn, nhưng trẫm xem ra, chẳng qua cũng chỉ là để mua vui nhất thời, làm sao mà có kẻ nào thật lòng yêu mến như khanh cho được. Nay nếu trẫm cất nhắc cho khanh ngay, chỉ sợ mọi người ghen ghét, rồi khanh cũng khó mà sống cho yên ổn. Nay trong người trẫm may sao lại có thắt chiếc đai ngọc, là vật truyền từ đời này sang đời khác, đáng giá nghìn vàng, trẫm ban cho khanh mà giữ lấy. 
Rồi rút từ lưng ra, đưa cho Quý Nhi, lại nói tiếp: 
- Mai sau lúc trẫm đã về chầu trời rồi, khanh lúc ấy vẫn còn xuân sắc, trẫm sẽ viết di chỉ, khanh tìm lấy một người chồng xứng đáng, để suốt đời có chỗ mà nương tựa. 
Quý Nhi nghe xong, liền rút đai ngọc ra, thưa: 
- Bệ hạ nói thế, thiếp không dám nhận, xin bệ hạ hãy cầm lại đai ngọc này vậy! 
Dượng Đế vội hỏi: 
- Vì sao thế? 
Quý Nhi thưa: 
- Thiếp nghe: tôi trung không thờ hai chúa, liệt nữ không lấy hai chồng. Thiếp tuy thân phận ty tiện, nhưng cũng ít nhiều hiểu được đạo nghĩa. Chẳng cần phải nói lúc bệ hạ đang khang cường, mà dẫu mai kia lúc bệ hạ trăm tuổi, xảy ra những đổi thay không ngờ đi nữa, nếu thiếp vẫn trộm sống ở đời này, kéo dài mạng già của mình, bỏ cả nhân luân, thì thật không đáng làm người. 

Nói xong, nước mắt ứa đầy. Dượng Đế thấy thế, cũng không ngăn được, nghẹn ngào nói trong nước mắt: 
- Khanh đã nghĩ đến chuyện thủy chung đến như vậy, trẫm xin nguyện cùng khanh sẽ được làm vợ chồng kiếp sau nhé! 
Rồi chỉ lên trời mà thề: 
- Đại Tùy thiên tử Dương Quảng cùng với mỹ nhân Quý Nhi họ Chu, tình sâu nghĩa nặng, xin trăng sao chứng cho, xin thề kiếp sau sẽ kết làm vợ chồng, để vẹn duyên tình. Nếu trái lời nguyền, không đáng làm người, mà phải vùi lấp nơi ngòi rãnh. 

Quý Nhi thấy Dượng Đế thề, vội vàng xuống ngựa, quỳ trên mặt đường. Dượng Đế thề xong cũng ngửa mặt lên trời tiếp: 
- Kính lạy hoàng thiên, kiếp sau Chu Quý Nhi này mà không cùng chăn gối với Hoàng đế Đại Tùy, thì xin nguyện thân này giữ phận cô độc, không còn thấy được mặt trời. 
Dượng Đế đưa tay kéo Quý Nhi lên ngựa, Quý Nhi vừa ngồi lên yên, thì thấy Dã Nhi phi ngựa đến tâu: 
- Hoàng hậu đã về cung từ lâu. Các phu nhân cũng đang chờ bệ hạ ở viện Cảnh Minh. 
Dượng Đế đáp: 
- Hoàng hậu vì cớ gì mà đã về cung rồi? 
Dã Nhi thưa: 
- Bệ hạ cứ về sẽ thấy! 
Về đến viện Cảnh Minh, các phu nhân thưa: 
- Vì sao bệ hạ về chậm thế? Vừa rồi chúng thiếp cùng hoàng hậu mới về đến đây, cùng kéo tới Vạn Hoa lâu chờ bệ hạ để dự yến tiệc không ngờ có một trận cuồng phong thổi bay cả cửa cả rèm, làm tất cả đèn nến đều tắt, lại vẫn chẳng thấy bệ hạ về, càng lo sợ hơn, vì vậy hoàng hậu đã về cung trước, bảo chúng thiếp ở đây chờ bệ hạ. 
Dượng Đế nghe thế, cũng thấy làm kỳ lạ, trong lòng cũng muốn về viện Nghênh Huy với Quý Nhi để cùng nhau dài ngắn chuyện trò, nhưng lại sợ Tiêu Hậu nghĩ ngợi này khác, nên đành phải lên xe về cung, mọi người cũng ai về viện nấy. 
Không biết sự thể sẽ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

HỒI 36

Quan Văn điện, Ngu Thế Nam thảo chiếu,
Ái Liên đình, Viên Bảo Nhi khinh sinh.

Từ rằng: 
Hứng thú chưa nguôi tình chưa mỏi 
Sớm nghe ra lòng bồi hồi 
Ngàn vui trăm thích chuyện loanh quanh 
Muốn khoe vẻ tài tử 
Cắn bút bài chưa thành 
Đáng khen họ Ngu nguồn văn mạnh 
Liếc nhìn người đẹp ngâm nga 
Cớ sao hồ nước đành gieo mình? 
Thấy cảnh lòng tan nát 
Dứt thịt gọi "ái khanh!” . 

Theo điệu "Lâm giang sơn" 


Dượng Đế vốn rất hiếu thắng, việc gì cũng cậy mình tài giỏi, kịp đến khi thảo chiếu chinh phạt, thì mới thấy mình Giang Lang tài tận (1). Viên Bảo Nhi tính tình ngây thơ, liền nói vài câu châm chọc, đến tai Dượng Đế, khiến Dượng Đế buồn rầu vô hạn. Thế mới biết chuyện tài tình thật giả cũng không phải dễ mà lừa dối cho được. 
1 Giang Lang, tên thật là Giang Yêm, người thời Lương, lúc ít tuổi chăm học, thơ văn được người đời đánh giá rất cao. Về già phú quý, làm tới Quang Lộc đại phu, nhưng văn chương thì mất hết khí sắc. Người ta đồn rằng, một lần Giang nằm ngủ, thần nhân đòi mất cây bút thần, hoặc tấm lụa quý trong bụng, nên "tài tận" về già (Thành Ngữ cố sự). 

*** 

Lại nói, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sau cuộc chơi trăng, một cuộc chơi mà các đời vua chúa cũng ít đời nào có cho được như thế, trở về cung, khi trống đã điểm canh năm mới cùng Tiêu Hậu đi nghỉ, nên ngày hôm sau tới giữa trưa mới dậy. Dượng Đế vì vẫn còn hứng thú chưa hết, lại nghĩ đến những lời thề thốt nhỏ to cùng với Quý Nhi trên yên ngựa, nhớ lại cảnh trăng khuya trong sáng, tình thật khó quên, chỉ giận trước kia đối với Quý Nhi chưa thật hậu tình, định ngày mai gọi Quý Nhi vào cung, cùng nhau trò chuyện, nhưng lại nghĩ: "Hôm nay, hoàng hậu có lẽ không sang Tây Uyển, chi bằng sang viện Nghênh Huy, thân thiết riêng với Quý Nhi một phen". 
Toan tính xong xuôi lại thấy một người nội giám vào tâu: 
- Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm, tối qua vì cưỡi ngựa quá sức, trở về viện đau bụng dữ dội, sau đó đẻ non một nam nhi, nhưng không sống nổi. Nay phu nhân rất yếu, thần khí hôn mê, nên vội sai kẻ bề tôi này lại trình chúa thượng biết. 
Dượng Đế nghe nói, dậm chân than: 
- Tiếc thay! Thương thay! Đêm qua đáng ra không được cho Sa phu nhân đi, đó chính là lỗi ở trẫm không chu đáo. 
Liền sai nội giám: 
- Gọi Thái y Sào Nguyên Phương, tới ngay viện Bảo Lâm, xem mạch, bốc thuốc cho Sa phu nhân. 
Và truyền cho nội giám ở viện Bảo Lâm: 
- Ngươi về viện, thưa với phu nhân trẫm sẽ tới thăm ngay. 
Tiêu Hậu nghe nói, cũng thở vắn than dài, và cho cung nữ tới hỏi thăm tin tức. 
Dượng Đế ngự thiện buổi sáng xong, lên xe rồng định tới cung Bảo Lâm, thấy Trung thư thị lang Bùi Cử, tới dâng biểu triều cống của các nước, và thưa: 
- Đột Quyết ở phía bắc, các nước Cao Xương ở phía tây, các tù trưởng ở vùng Sơn Khê phía nam, đều tới triều cận, duy chỉ có Vương Nguyên ở Cao Ly cậy mạnh không đến. 
Dượng Đế nổi giận: 
- Cao Ly tuy là nước ở góc biển, vẫn là đất phong của Cơ Tử ngày xưa, từ đời nhà Hán, đời Tấn trở lại đây, vẫn thần phục, đều là quận huyện của Trung Quốc, cớ sao bây giờ lại như vậy? 
Bùi Cử thưa: 
- Sở dĩ Cao Ly dám ngang ngược bởi cậy có hai mươi tư đạo, lại có ba con sông ngăn trở là Liêu Thủy, Áp Lực Giang, với Bối Thủy. Nếu muốn chinh phạt phải thủy lục cùng tiến mới xong. Hiện nay dãy Trường Thành phía bờ biển này, nghe nói đã đổ nát, mà vẫn chưa tu bổ gì được. Đường bộ thì không nói làm gì, từ Đăng Lai cho tới Bình Nhưỡng đều phải dùng dường thủy. Cho nên phải có người trí dũng kiêm toàn, mới có thể gánh vác được việc này. 

Dượng Đế nghĩ ngợi hồi lâu, rồi sắc cho Vũ Văn Thuật đôn đốc chế tạo thuyền chiến, khí giới, phong cho làm Chinh Cao Ly tổng soái, Sơn Đông hành đài tổng quản Lai Hoạch Nhi phong làm Chinh Cao Ly phó sứ, còn các tướng khác, thì cho phép Vũ Văn Thuật, Lai Hoạch Nhi tùy tiện bổ dụng. Quan lại các cấp không được cản trở, theo đúng kỳ hạn mà làm, tùy theo công trạng mà thăng thường. Dượng Đế nhân Bùi Cử tâu việc Trường Thành sụt lở ở vùng duyên hải, liền nghĩ tới chuyện tu sửa, lại sợ đem ra đình thần bàn luận, lắm ý vào ra, liền viết luôn một đạo sắc chỉ, lệnh cho Vũ Văn Chúc làm Tu thành đô hộ, Vũ Văn Khải làm Tu thành phó sứ, phía tây từ Du Lâm, kéo mãi tới Tử Hà ở phía đông, phải bồi đắp các đoạn sụt lở lại như cũ. Sai phái xong, Bùi Cử vâng mệnh trở ra. Dượng Đế lên xe về Tây Uyển. Chưa được một dặm, đã thấy Thủ uyển thái giám Mã Thủ Trung chạy theo tâu: 
- Đô viện Ma Thúc Mưu, hiện giờ chờ ở ngoài cửa xin được yết kiến chúa thượng. 
Lúc này Ma Thúc Mưu đào sông đã xong, cưỡi ngựa về Đông Kinh phục chỉ. Dượng Đế nghe tâu lại phải vào điện ngồi, cho Mã Thủ Trung dẫn Ma Thúc Mưu vào. Thúc Mưu cùng thừa tướng Vũ Văn Đạt, Hàn Lâm học sĩ Ngu Thế Cơ tiến vào, Thúc Mưu lạy chào xong xuôi rồi thưa: 
- Đường thủy đi Quảng Lăng, hạ thần đã đào xong, không rõ đến bao giờ thì bệ hạ có thể đi tuần thú phương Nam? 
Dượng Đế hỏi chuyện dùng hết bao nhân công, sông sâu nông, rộng hẹp, dài ngắn ra sao, Ma cứ thế thuật lại tỷ mỉ. Dượng Đế vừa lòng lắm, thưởng cho rất hậu, lưu lại kinh đô để sai phái, chờ ngày tuần thú phương Nam. Vũ Văn Đạt tâu: 
- Sông đào đã thông, bệ hạ tuần du, cần phải có mấy trăm thuyền rồng, như thế mới đúng nghi thức thiên tử, bằng đi thuyền dân chúng bình thường thì thật là bất tiện. 
Dượng Đế đáp: 
- Đúng lắm! 
Vũ Văn Đạt lại thưa tiếp: 
- Hoàng môn thị lang Vương Hoằng rất tháo vát, bệ hạ nên lệnh cho y tu tạo, nhất định sẽ vừa ý bệ hạ. 
Dượng Đế bằng lòng, lại ban sắc chỉ, mệnh cho Vương Hoằng, ở vùng Giang Hoài, phải đóng mười chiếc thuyền rồng đệ nhất hạng, năm trăm chiếc thuyền rồng đệ nhị hạng, các loại thuyền linh tinh khác một nghìn chiếc, hạn trong bốn tháng phải xong. Ngu Thế Cơ lại thưa: 
- Theo như ngu ý của thần, thì thuyền rồng đóng thế nào mà chẳng khác gì điện các ở trên cạn vậy. Để không thể nào gọi đó là những thuyền hình chim tu hú, thuyền hình ngỗng. Nhưng đã thế thì việc chống chèo sẽ làm thế nào? 
Dượng Đế đáp: 
- Việc chống chèo thì phải có thủy thủ thôi! 
Ngu Thế Cơ thưa: 
- Cứ theo ngu ý, chẳng gì đẹp tốt hơn là bệ hạ dùng gấm của Thục chế thành buồm, rồi lại lấy tơ ngũ sắc, bện thành dây thật chắc, buộc vào cột buồm. Có gió thì cứ giương buồm gấm Tây Thục lên mà đi, không có gió thì bắt dân phu dùng dây tơ ngũ sắc mà kéo, thật chẳng khác gì tòa lầu, điện các mà lại có chân đi được. Chẳng sợ gì thời tiết, gió mưa? 
Vũ Văn Đạt vẽ thêm: 
- Chuyện này rất hay rồi. Nhưng sợ rằng dùng phu kéo, trông không được đẹp. Bệ hạ sao không sai người đến vùng Ngô Việt, tuyển con gái khoảng mười lăm mười sáu, chia ra thành từng nhóm, từng đội như các cung nữ. Không có gió thì cho kéo dây đỏ ngũ sắc, có gió thì cho ngồi ôm mái chèo quanh thuyền. Bệ hạ dựa lan can mà ngắm, thật thú vị biết bao! 
Dượng Đế cả mừng, lập tức sai bọn thái giám đắc lực Cao Xương, về vùng Ngô, Việt, tuyển lấy một nghìn con gái mười lăm, mười sáu tuổi, làm đội "Điệu cước nữ" (1). Ngu Thế Cơ còn tiếp thưa: 
1 Đội “Điệu cước nữ”: Đội con gái làm cái chân của lâu đài, điện các. Gọi cho đẹp đội phu kéo thuyền rồng con gái! 

- Thánh chỉ chinh Liêu đã có, nay sông đào lại cũng đã xong, thuyền rồng cũng sẽ có ngay. Chi bằng nay cứ lấy danh nghĩa là chinh Liêu, còn chuyện tuần thú phương Nam làm sự thực, cũng không nói là trưng binh, chẳng cần phán là thu lương, chỉ cần ra một đạo chinh Liêu chiếu thư, bá cáo khắp thiên hạ. Nước Liêu là nước nhỏ, tự nhiên nhìn gió bay cờ mà hàng phục, trong khi đó thì bệ hạ vẫn đi tuần du Quảng Lăng. Thế có phải là lo một mà được hai việc không? 
Dượng Đế lại càng hớn hở: 
- Khanh nghĩ thật không chê vào đâu được? Cứ như lời khanh tâu mà làm. 
Chúng quan lạy chào ra khỏi điện. Dượng Đế vì bàn bạc mọi chuyện, quên hẳn việc đến viện Bảo Lâm, thấy Quý Nhi cùng Bảo Nhi hai người tới. Dượng Đế hỏi: 
- Các khanh từ đâu tới? 
Bảo Nhi thưa: 
- Bọn thiếp từ viện Bảo Lâm, thăm Sa phu nhân rồi tới đây. 
Dượng Đế sực nhớ: 
- Đúng rồi? Sức khỏe Sa phu nhân ra sao rồi! 
Quý Nhi thưa: 
- Sức khỏe thì thái y nói không có gì đáng ngại. Chỉ tiếc là không thể nào cứu được Thái tử. 
Dượng Đế nói với Quý Nhi: 
- Khanh hãy đi trước nói thay cho trẫm là, từ sáng tới giờ, trẫm phải lo thảo chiếu thư, không lúc nào rỗi, đợi công việc xong xuôi, trẫm sẽ tới thăm ngay. Nói xong, khanh lại đến đây. 

Quý Nhi vâng mệnh trở ra. 
Dượng Đế cùng Bảo Nhi tới Quảng Văn điện định tự tay viết chiếu thư, để khoe khoang với bề tôi. Nhưng ai ngờ muốn thì dễ, nói cũng dễ, chỉ có làm mới khó thôi. Dượng Đế cầm bút, nghĩ phải nghĩ trái, nghĩ đi nghĩ lại, nâng lên đặt xuống, mà chỉ được hai ba hàng, giơ lên xem lại, vẫn thấy không được, câu chẳng ra câu, ý chẳng ra ý, trong lòng vô cùng bực tức, đặt bút xuống, đứng dậy, đi loanh quanh một vòng, vừa đi vừa nghĩ ngợi. Bảo Nhi thấy thế khẽ cười thưa: 
- Bệ hạ chẳng phải là từ thần, cũng chẳng phải sử quan, việc gì phải lao tâm khổ tứ đến thế? 
Dượng Đế đáp: 
- Nếu trẫm không ngự lãm việc này, chỉ sợ rằng các quan ở Viện Hàn Lâm, chẳng người nào chân tài thực học có thể làm được. 
Bảo Nhi thưa: 
- Ở Viện Hàn Lâm nhất định sẽ có người biết việc thảo chiếu, viết thư, soạn sách trình bệ hạ. Nay bệ hạ chỉ cần chọn một người vốn tài cao học rộng, gọi vào điện, cho thảo thử xem sao. Nếu chưa thật vừa ý, thì sửa lại. Việc gì phải trầm tư mặc tưởng khổ sở đến thế? 
Dượng Đế lại nghĩ ngợi một hồi rồi phán: 
- Có đây rồi! 
Bảo Nhi vội hỏi: 
- Ai thế? Thưa bệ hạ! 
Dượng Đế đáp: 
- Anh em nhà Hàn Lâm học sĩ Ngu Thế Cơ, tên gọi là Ngu Thế Nam, hiện đang giữ chức Bí thư lang. Người này có tài học lớn, nhưng không chịu sống hòa thuận với ai bao giờ, nên đã mấy năm nay vẫn chưa được thăng thưởng gì cả. Nay có việc thảo chiếu thư này, hãy gọi vào đây, lệnh cho viết thử xem sao? 
Liền gọi hoàng môn gấp đi tuyên triệu Ngu Thế Nam, vào ngay Quảng Văn điện nghe mệnh hoàng đế. 
Chẳng bao lâu, hoàng môn đã đưa Ngu Thế Nam vào. Lạy chào xong, Dượng Đế phán: 
- Gần đây Liêu Đông Cao Ly cậy xa không chịu triều cống, trẫm sẽ thân chinh thảo phạt, nhưng trước hết cần phải viết một đoạn chiếu thư, báo cáo với bốn phương. Sợ Hàn Lâm Viện thảo không xứng ý trẫm, sực nhớ ra khanh là bậc tài học uyên bác, tất có những chỗ lập luận diệu kỳ, văn từ sâu sắc, nên triệu khanh vào đây, thảo cho trầm một tờ chiếu vậy. 
Ngu Thế Nam thưa: 
- Tiểu thần tài sức quê mùa, may ra chỉ tả được cảnh mây, gió, trăng, hoa, chứ làm sao mà hiển dương được thánh ý! 




Dượng Đế đáp:
 
- Khanh không phải nhún nhường quá thế! 
Rồi sai hoàng môn, kê một án thư riêng ngay bên phải điện Quảng Văn, rèm gấm vây quanh, đem đủ giấy, mực, nghiên, bút đặt trên án thư, lại ban cho đôn gấm để ngồi. Ngu Thế Nam tạ ơn, mở giấy ngự cũng chẳng phải nghĩ ngợi gì lâu, cầm bút mà viết, chẳng khác gì rồng cuốn rắn lượn, gió quét từng đợt trên giấy, không một lúc ngừng tay, chẳng mấy chốc đã viết xong, đưa trình Dượng Đế, Dượng Đế mở ra xem, thấy viết: 

"Đại Tùy Hoàng Đế, vì Liêu Đông Cao Ly lỗi đạo lớn tôi con, nên phải cất quân chinh phạt. Trước xuống chiếu cho bốn phương thấy rõ uy vũ của thiên triều, đức dày của thánh đế. 
Chiếu rằng: 
Trẫm nghe: 
Vũ trụ không hai vùng trời đất 
Cổ kim chỉ một đạo vua tôi 
Hoa Di tuy cách, nhưng hoàng đế giáo hóa không phân nội ngoại 
Phong khí dù riêng, mà thần dân tôn triều chẳng kể xa gần 
Nếu thuận thì lấy đức mà vỗ về, ban ơn mưa móc 
Nếu nghịch thì dùng uy mà răn đánh, nổi giận búa rìu 
Muôn phương triều cống, Nghiêu Thuấn nhận để mừng chữ thái bình 
Một đứa ngoan ngu. Văn Vương dùng để lo câu răn dạy. 
Thế cho nên: 
Cao Tông có việc đánh Phương Quỷ (1), không nề khó nhọc ba năm 
Hoàng Đế đem quân diệt Trác Lộc (2) chẳng ngại gian nan trăm trận 
Đánh rợ Hiểm Doãn (3) vị nguyên lão nhà Chu thành công 
Khắc đá núi Yên Nhiên (4) tướng Phiên diệu nhà Hán đại thắng 
Từ xưa các bậc thánh đế minh quân chưa hề có việc thôn tính Di dịch, mà luôn luôn một dạ khoan dung 
Huống chi Liêu Đông Cao Ly vốn trong vòng Điện Bặc (5) mà sao dám: 
Ngạo nghễ không theo, tổn thương lượng cao dày của đấng vương giả 
Ngông nghênh quen thói, xúc phạm uy sấm sét của trời Trung Hoa. 
Cho nên: 
Chỉnh đốn can qua, rạng rỡ thiên triều danh phận 
Quan minh sát phạt, răn đe ngu tối lăng loàn 
Hổ bôn ngàn đội, xông vào tổ mối, khác nào tuốt lá khô, bóp gỗ mục 

1 phương Quỷ: miền đất thuộc vùng Quý Châu, Thanh Hải ngày nay. Vua Cao Tông nhà Thương phải tự thân dẹp loạn ba năm. 
2 Trác Lộc: Hoàng Đế, một trong ngũ đế của thời tối cổ ở Trung Hoa, đem quân diệt bộ lạc Trác Lộc ở phía bắc. 
3 Hiểm Doãn: Tên gọi một dân tộc thiểu số phía bắc, đã từng bị Chu Công Đán, nguyên lão của Chu Thành Vương đánh dẹp. 
4 Yên Nhiên: Phiêu diệu tướng quân Đậu Kiến, nhà Hán, dẹp xong Hung Nô phương Bắc, về đến núi Yên Nhiên khắc chữ vào đá núi để ghi công trạng. 
5 Điện Bặc: Vùng đất gần kinh đô, vẫn được thiên triều giáo hóa. 

Châu chấu một đàn, chống cự xe trời, đúng như cày vườn trống, cuốc ruộng hoang 
Bảo cho: 
Nếu biết mau mau đổi nết biết điều, thì cũng được nhờ ơn như Tam 
Mêu thuở trước 
Bỏng như ương bướng giữ bề ngoan cố, thì sẽ chịu lây tội như Lâu 
Lan ngày xưa. 
Thương vì: 
Cũng thể dân đen, lẽ nào gạt ra vòng che chở 
Đều bầy con đỏ, không nỡ lột hết manh áo quần 
Sáu quân dậy đất, há như nghìn đội vương sư 
Năm sắc rợp trời, cũng để hiếu sinh một cửa 
Nộp khoản kịp thời, chuộc mình còn kịp 
Binh hùng kéo đến, trăm miệng khôn phân 
Sớm khá trước lo 
Khỏi bề sau hối. 
Nay chiếu 
Đại nghiệp, năm thứ 8, tháng 9, ngày 22 (1) 

1 Tức năm 613, sau công nguyên, Việt Nam lúc này cũng đang ở thời kỳ thuộc Tùy. 

Dượng Đế xem hết, cả mừng, cười lớn: 
- Bút chạy không lúc ngừng tay, văn chẳng hề phải chữa một chữ. Khanh thực là bậc kỳ tài. Người xưa nói: văn chương Hoa Hạ, nay thấy khanh thảo chiếu, mới thật rõ thế nào là Hoa Hạ. Lần này bình định Liêu Đông, công của khanh quả là không nhỏ. Vậy phiền khanh viết luôn cho. 

Liền gọi thị thần đem một tờ hoàng ma, là thứ giấy quý chuyên dùng viết chiếu thư của hoàng đế, trải lên án thư. Ngu Thế Nam, không dám không tuân, lập tức cầm bút, rõ ràng từng chữ theo lối chữ khải, viết lên giấy hoàng ma. Dượng Đế thấy thế, càng thêm trân trọng nhân tài, khen ngợi mấy câu, nhưng bởi Ngu Thế Nam phải chăm chú để viết, không thể nào trình tâu ngay được. Lúc này Bảo Nhi cũng đứng hầu một bên, nên Dượng Đế định quay lại nói chuyện với Bảo Nhi, thì thấy đôi mắt Bảo Nhi tròn như hạt châu, đang như ngây như dại nhìn Ngu Thế Nam viết chữ, đến quên cả chớp mắt, Dượng Đế thấy thế bèn không lên tiếng nữa, mặc cho Bảo Nhi nhìn. 

Có lẽ Bảo Nhi thấy lúc Dượng Đế thảo chiếu, bứt đầu vò tai khổ sở mà chữ nghĩa vẫn không ra, nay thấy Ngu Thế Nam múa bút chữ như rồng bay phượng múa, trong lòng thầm nghĩ: "Vô tài dầu có gắng sức gia công cũng chẳng nên trò gì. Thực tài thì thật là tha hồ tung hoành ngang dọc". Lại thấy Ngu Thế Nam dáng người thanh thoát, nhẹ nhàng, đến như không mang nổi áo, đúng như cổ nhân thường khen: "Nhược bất thắng y", cho nên lại càng làm Bảo Nhi thất thần. Mãi lúc sau, quay đầu nhìn lại, Dượng Đế đang chăm chú nhìn mình, như thấy rõ những ý nghĩ sâu kín ấy nên giật mình sợ hãi, mặt mày đỏ bừng, trong người bứt rứt không yên, chẳng nói nên lời, nhìn Dượng Đế. Dượng Đế cũng chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ cười, biết rõ tính tình của Bảo Nhi lâu nay, nên Dượng Đế cũng chẳng nghi hoặc gì lắm. 

Ngu Thế Nam viết xong chiếu, trình lên, Dượng Đế thấy nét chữ tươi đẹp rõ ràng, trong lòng mười phần hoan hỉ, gọi ngay tả hữu, rót thưởng cho ba chén rượu, lấy làm nhuận bút. Ngu Thế Nam bái nhận cạn chén, Dượng Đế hỏi: 
- Khanh thật có tài nhả ngọc phun châu, lời lời hàng hàng uẩn súc thật đáng phục. Nhưng không biết những chuyện người đời đồn đại có đáng tin không? 
Ngu Thế Nam thưa: 
- Chuyện ngụ ngôn của Trang Tử, là những lời phúng thích rất đẹp đẽ nhưng đều là những điều huyễn hoặc của mồm miệng từ chương. Kẻ quân tử có tình mà chưa nói hết lẽ, cũng chưa đáng tin. Nếu được như sử ghi; kinh truyện thì tuy có kỳ quái, vẫn còn có chỗ đáng tin được. 
Dượng Đế lại hỏi: 
- Trẫm xem "Triệu Phi Yến truyện", nghe nói Triệu có thể đứng múa trên bàn tay người khác, lưng eo nhẹ nhàng, chưa đầy chét tay, gió thổi cũng có thể bay. Thường ngờ rằng kẻ làm văn chương có thêm bớt ít nhiều, phụ nữ trên đời này, mấy ai được như thế. Nay hãy cứ trông dáng điệu của Bảo Nhi đây, mới thấy rằng người xưa kể lại cũng không phải là chuyện hư ảo cả. 
Ngu Thế Nam thưa : 
- Viên Mỹ nhân có dáng dấp thế nào kia? Thưa chúa thượng! 
Dượng Đế đáp: 
- Bảo Nhi thì có nhiều dáng dấp ngây thơ, chả cần bàn đến cả làm gì, chỉ việc thấy khanh vung bút, đã nhìn chăm chú, mắt không muốn rời, thật là có ý khâm phục tài năng, cũng không phải là một dáng dấp đẹp hay sao. Khanh là kẻ có tài, hãy đừng phụ tấm lòng như vậy, thử làm một bài thơ về việc đó, để cho Bảo Nhi có thể cùng với Phi Yến, được truyền tụng trên đời này chăng? 
Ngu Thế Nam nghe ra, không tiện chối từ, bước đến bên án, chẳng nghĩ gì lâu, cầm bút viết ngay bốn câu, trình lên Dượng Đế cầm xem thấy: 
Bút hạ hoa tiên nét chửa thành 
Vén tà áo đỏ đứng ngây nhìn 
Bởi thế dung nhan càng yểu điệu 
Lên điện thường theo chúa thánh minh.



Dượng Đế xem xong thích lắm, bèn nói với Bảo Nhi: 
- Thật là những câu thơ tuyệt tác, chẳng phụ lòng ngươi đứng ngây nhìn cảm phục. 
Lại sai ban cho ba chén rượu, Ngu Thế Nam uống xong, từ tạ ra khỏi điện, Dượng Đế còn hứa: 
- Khổ khanh phải hết văn đến thơ, ngày khác trẫm sẽ thăng thưởng. 
Ngu Thế Nam lại phải tạ ơn một lần nữa. 
Chính là: 

Văn chương chẳng biết nơi nào bán 
Chinh chiến mà yên đến bỏ thừa! 


Dượng Đế thấy Ngu Thế Nam đã về, bèn đưa chiếu thư cho nội tướng, huyện lệnh cho bộ Binh đem bá cáo khắp bốn phương, để khắp miền đều biết hoàng đế sẽ ngự giá chinh phạt. Nội tướng vâng mệnh, Dượng Đế lại cầm bài thơ của Ngu Thế Nam, đưa cho Bảo Nhi: 
- Ngu Thế Nam chỉ trong phút chốc mà làm được bài tứ tuyệt này. Vừa mẫn tiệp, vừa có ý, có tình vậy. 
Bảo Nhi cười thưa: 
- Nghĩa của bài thơ ra sao, tiện thiếp quả không hiểu. Nhưng trông chữ viết thì thật là hàng hàng gấm thêu. 
Dượng Đế lại cười, khẽ nói: 
- Ngày mai, trẫm sẽ đem khanh thưởng cho Ngu Thế Nam làm vợ bé, ý khanh ra sao?
Bảo Nhi thấy nói thế, vội mặt ủ mày chau, lặng yên không đáp. 
Dượng Đế đang còn định đùa Bảo Nhi nữa, bỗng thấy phía khóm tường vi bên trái, nghe như có ai đang thổi tiêu. Dượng Đế bèn đứng dậy, lững thững ra xem sao, loanh quanh một lúc, quay lại, không thấy Bảo Nhi đâu cả, đang định cho người tìm, thì nghe ở phía Ái Liên đình phía tây, có tiếng la hét. 
- Có người nhảy xuống hồ! 

Nguyên do Bảo Nhi giận mình trong một lúc lỡ ý, xem Ngu Thế 
Nam thảo chiếu, để Dượng Đế nhận ra, muốn đem Bảo Nhi tặng Ngu Thế Nam, chẳng phân biệt được lời đùa lời thật, tự giận mình, liền lặng lẽ đi ra, nhảy xuống hồ, để may ra thanh minh cho tấm lòng của mình chăng? 

Dượng Đế đi lại phía hiên tây của ái Liên đình, thấy một nội tướng ẩm từ dưới hồ lên một cung nga, nhận ra Bảo Nhi, giật mình hoảng hốt. Bảo Nhi mặt mày nhợt nhạt, hai mắt nhắm chặt, cả người đầm đìa những nước, Dượng Đế vào đình, ngồi lên trên một bệ cao, gọi nội tướng khiêng Bảo Nhi lại, hỏi nguyên do: 
- Có phải vừa rồi Bảo Nhi ra hồ rửa tay, hay làm gì đó, rồi trượt chân ngã xuống hồ không? 
Một nội giám thưa: 
- Vừa rồi kẻ hèn này ngẫu nhiên đi tới đây, thấy Viên Mỹ nhân mặt mày đẫm lệ, chạy nhanh về phía hồ, nhảy xuống rõ ràng. 
Dượng Đế cười hỏi Bảo Nhi: 
- Cái con bé ngớ ngẩn này, gây ra chuyện là bởi tại làm sao? 
Rồi cùng với nội giám cởi áo ngoài ra cho Bảo Nhi, thì mới thấy cả quần áo trong đều đã ướt cả, liền sai cung nhân, mau lấy quần áo khác cho Bảo Nhi thay. Dượng Đế thấy mọi người đã đi xa, bèn hỏi tiếp: 
- Vừa rồi trẫm chỉ mới đùa thế, sao khanh lại cho là chuyện thật. Trẫm làm sao mà thiếu khanh một giờ một khắc cho được! 
Bảo Nhi thấy nói thế mới tấm tức khóc, thì Hán Tuấn Nga cùng Chu Quý Nhi, tay mang quần áo từ từ đi lại, vừa đi vừa cười. Tuấn Nga hỏi: 
- Đây là vì bệ hạ cần các cô gái giặt lụa, "Hoãn sa nữ" (1) ôm đá mà gieo mình xuống sông đây mà! 
1 Cô gái giặt lụa: Ngũ Viên chạy trốn, gặp một người con gái đập sợi ở bờ sông vắng. Hỏi xin cơm, ăn xong, bỏ đi. Được một đoạn quay nhìn, thấy người con gái ôm đá nhảy xuống sông tự tử. Vì trước khi đi, Ngũ Viên căn dặn mãi đừng nói chuyện với ai. Cô gái cho rằng mình có lỗi với chồng vì đã nói chuyện với đàn ông, lại bị Ngũ Viên nghi ngờ, nên ôm đá nhảy xuống sông tự tử (Đông Chu liệt quốc). 

Dượng Đế đem chuyện Ngu Thế Nam thảo chiếu, cùng lời đùa của mình kể lại một lượt. Quý Nhi gật gật đầu khen: 
- Phụ nữ phải cương quyết thế mới được. 
Rồi cả hai thay quần áo cho Bảo Nhi, Quý Nhi thấy vạt long bào của Dượng Đế có vấy ít bùn nước, đòi đem áo khác để Dượng Đế thay, Dượng Đế không nghe mà còn nói: 
- Trẫm phải mặc cái áo này, để biểu dương gương trinh liệt của mỹ nhân. 
Tuấn Nga cười thưa: 
- Bệ hạ không thể hiểu được chúng thiếp đã phải chiều chuộng con bé này thế nào. Thật là từ nhỏ đã không dám đụng đến nó, chỉ sợ rồi nó lại nổi cơn ngây dại, cho nên chẳng bao giờ dám nói nặng một lời. 
Bảo Nhi thấy nói thế, liền cầm cái quạt ở tay Dượng Đế, đánh vào vai Tuấn Nga mà mắng: 
- Thật là giống yêu tinh nhà chị! Tôi là con chị đấy hẳn? 
Tuấn Nga cười đáp: 
- Chị Quý Nhi thử xem, cái con yêu tinh này, thấy bệ hạ thương nó, nó lại thêm ngỗ ngược. 
Rồi rũ rượi cười mãi không thôi. Dượng Đế giục: 
- Thôi không nói đùa nữa. Các khanh hãy theo ta đến viện Bảo Lâm đi! 
Đến viện Bảo Lâm, Dượng Đế lại trước giường, hỏi Sa phu nhân: 
- Phu nhân, khanh thấy trong người thế nào? Đã uống thuốc chưa? 
Sa phu nhân thưa: 
- Tối qua thiếp du ngoạn, không ngờ xảy ra chuyện này, nghĩ là không còn được thấy chúa thượng nữa kia! 
Dượng Đế đáp: 
- Nếu phu nhân thấy đi lại đã khó khăn như thế, đáng ra là nên đi hương xa, thì đâu đến nỗi như thế. Đó chính là vì trẫm chưa thật chu đáo, không nghĩ đến chuyện điều độ, vừa phải cho các khanh, nên đến nỗi này! 
Sa phu nhân đáp trong nước mắt: 
- Cũng bởi tại tiện thiếp phúc mỏng mệnh bạc, đến nỗi không giữ trọn hậu duệ của chúa thượng. Thiếp thật đáng tội, bệ hạ nào có lỗi gì đâu? 
Rồi lại giọt ngắn giọt dài, Dượng Đế phán: 
- Phu nhân chẳng nên phiền não. Tần Vương Dương Hạo, hoàng hậu rất thương yêu. Triệu Vương Dương Cảo, nay đã bảy tuổi, do Lã Phi sinh ra, chẳng may Lã Phi đã qua đời. Trẫm đem Dương Cảo làm con của khanh, thế là kẻ mất mẹ nay có mẹ, người mất con nay có con. Không biết ý của phu nhân thế nào? 
Quý Nhi đứng bên cạnh liền thưa: 
- Triệu Vương cốt tướng khác thường, nếu được như vậy, thì thật là ơn sâu của bệ hạ. Sa phu nhân sao lại không mừng. Chúng thiếp rồi cũng được nhờ đội ơn sâu. 
Sa phu nhân định trở dậy tạ ơn, Dượng Đế vội cản lại không cho. Bảo Nhi thưa: 
- Phu nhân ngọc thể chưa an. Để chúng thiếp thay mặt lạy tạ ơn chúa thượng. 
Các Mỹ nhân tề nhất quỳ lạy. Dượng Đế vội kéo dậy, rồi truyền: 
- Đợi trẫm chọn ngày nhất định. Phu nhân hãy lo điều dưỡng cho chóng khỏi để rồi còn cùng trẫm tuần du Quảng Lăng nữa. 
Bỗng thấy một nội giám, tay bưng một cái bình đẹp quỳ thưa: 
- Tâu bệ hạ! Vương Nghĩa vừa mới nấu được cao "Vạn thọ diên niên", đến chờ ở cửa để dâng lên bệ hạ. 
Dượng Đế cả mừng, nói: 
- Ta đương có chuyện này định nói với y, cho gọi vào đây! 
Vừa nói vừa đi ra phía điện, Vương Nghĩa vào quỳ lạy dưới thềm. Dượng Đế hỏi: 
- Nhà ngươi nấu được cao gì quý vậy? 
Vương Nghĩa thưa: 
- Hạ thần vừa rồi nhân dịp tiết xuân, về vùng Nam Hải dâng hương. Giữa đường gặp một đạo trưởng, nói có bắt được ở trong núi một con hươu, chuyên ăn linh dược thảo, đem về nấu với nhụy của trăm hoa, thành một loại cao, uống vào có thể giữ cho khí huyết phương cương, kéo dài tuổi thọ. Hạ thần đem về, chăm chú pha chế, kính dâng bệ hạ, để tỏ chút lòng hiếu kính vậy. 
Dượng Đế phán: 
- Đó cũng là một việc thật đáng khen. Không lâu nữa trẫm sẽ tuần du Quảng Lăng, khanh phải thu xếp để cùng đi với trẫm. Ta ủy cho khanh coi sóc mấy chiếc thuyền rồng đệ nhất đẳng, không được sai sót. 
Vương Nghĩa thưa: 
- Cuộc tuần du này, nhất định hạ thần xin được theo hầu bệ hạ. Còn Khương Đình Đình xin cũng được theo hầu hoàng hậu. 
Dượng Đế mừng nói: 
- Ở dưới thuyền không như ở trong cung, nếu được cả hai vợ chồng khanh cùng di theo, càng thấy rõ tấm lòng hiếu thuận của khanh. Lại còn việc này nữa, đêm qua, trẫm cùng các phu nhân làm một cuộc chơi trăng, chẳng ngờ Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm bị động thai, đẻ non mất một hoàng nam. Phu nhân đang rất đau xót. Trẫm còn thương cả Triệu Vương mất mẹ, nên đem cho làm con Sa phu nhân, cùng nương dựa lẫn nhau, khanh thấy thế nào? 
Vương Nghĩa thưa: 
- Hạ thần nghe Sa phu nhân vốn khoan hậu, đoan trang, Triệu Vương làm con thật là hợp ý, cũng đủ thấy tấm lòng nhân đức cao cả của bệ hạ. 
Dượng Đế phán: 
- Đó chính là do lòng yêu con của trẫm. Nếu như khanh nói, thì bên trong đã có Sa phu nhân cùng các mỹ nhân bảo dưỡng, còn bên ngoài thì phiền khanh trông nom hộ cho, giữ chức Phó bảo. Khanh hãy vì trẫm mà khắc một cái ấn ngọc phù hình vuông, trên có mấy chữ: "Triệu Vương, Dương Cão, tứ dữ Sa Ánh Phi tử vi tự" (l). Khắc xong, khanh cứ lặng lẽ đem vào đây cho trẫm. 
1 Triệu Vương, Dương Cảo, ban cho phi tử Sa Ánh làm con. 

Vương Nghĩa thưa: 
- Thần hiểu rồi! 
Dượng Đế truyền Bảo Nhi: 
- Hãy đem ra đây cho ta hai tấm lụa dệt bằng tơ của loại sâu lạ trên núi, ban cho Vương Nghĩa. 
Bảo Nhi đem tới, Vương Nghĩa lạy tạ ơn rồi ra khỏi ngự uyển. 
Chính là: 

Tình chàng gửi lại cho nàng 
Vì yêu nhan sắc lời vàng chẳng quên 
Nhưng rồi cuộc thế biến thiên 
Thị phi sau trước có bền được đâu!


Nguồn maxreading.com 

1 nhận xét:

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved