Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

22 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 154-157

Hồi 154: Đàn rắn trong cây cổ thụ

 Đáng lý ra Tôn là cha của đương kim hoàng đế thì không được vào quân cơ. Đó là theo quy pháp của tổ tiên Thanh triều. Nhưng đưa Tôn vào quân cơ, là có dụng ý của Tây thái hậu. Để làm việc đó, Tây thái hậu hạ một đạo thượng dụ nói nơi quân cơ có nhiều việc rất khẩn yếu, cần có Thuần thân vương Dịch Tôn mới giải quyết được. Khi nào hoàng đế trưởng thành, đích thân tham chính, lúc đó sẽ có ý chỉ mới.
Ông Đồng Hoà thấy đạo thượng dụ, cho thế không thể được, liền bảo Tả thứ sử là Thịnh Dục tâu lên quyết liệt tranh đấu.

Thấy Dục cả gan như vậy, bọn Tả thứ sử Tích Quân và Ngự sử Triệu Nhĩ Tốn cũng vội dâng thư lên khuyên can, nói Thuần Thân Vương không nên tham dự vào việc quân cơ.

Từ Hi thái hậu đâu có chịu thua. Bà xuống ngay một đạo dụ mới chỉ vỏn vẹn có bốn chữ:"Ưng vô dung nghị" (chớ có bàn bậy). Bọn đại thần xem xong đành khoanh tay, câm miệng hến, không biết cách nào hơn.

Quang Tự hoàng đế vốn không hợp tính Thuần thân vương. Cha thực của hoàng đế là Dịch Hoàn kia chứ đâu phải Dịch Tôn. Khổ cái là Dịch Hoàn lại bất hoà với Tây thái hậu. Câu chuyện lẹo tẹo giữa bốn người là như vậy.

Khi Quang Tự hoàng đế vào cung, bà phúc tấn, vợ Dịch Hoàn, rất không bằng lòng. Hai bà kể là chị em dâu với nhau.

Bà Phúc tấn này biết tính Tây thái hậu điêu xảo gian quyệt ra sao, cho nên biết rằng con mình nếu để cho Tây thái hậu nuôi dưỡng thì sẽ khổ sở suốt đời. Bởi thế, khi vua Quang Tự bước chân ra khỏi nhà, bà phúc tấn khóc lóc thảm thiết, bảo với mọi người là Tây thái hậu đã giết con bà rồi. Không ngờ lời nói này lại lọt vào tai Tây thái hậu. Từ đó Tây thái hậu ra mặt ghét vợ chồng Dịch Hoàn, và cũng vì vậy nên bà chẳng ưa gì Quang Tự hoàng đế.

Lần này Tây thái hậu lập Quang Tự làm hoàng đế lả có ý trả ơn Dịch Hoàn: đó là thâm tâm của Tây thái hậu. Nhưng ơn gì vậy?

Nguyên lai khi Văn Tông hoàng đế còn sống, đối với Dịch Hoàn rất thân thiết. Anh em hai người thường gặp mặt nhau ở trong cung Văn Tông, có tâm sự gì là thường hay cho Hoàn biết. Việc quan trọng nhất hồi đó là Văn Tông thấy Tây thái hậu tỏ ra một người đàn bà lăng loàn quá sá, không biết an phận mình nên đã có ý phế bỏ địa vị phi tử để tránh chuyện ỷ thế cậy quyền sau này, và thường đem ý này ra bàn với Hoàn. Nhưng Hoàn khuyên can năm ba lần, mong bảo toàn danh vị cho Tây thái hậu. Ấy cũng vì chuyện đó mà Tây thái hậu cảm kích lắm, coi như một cái ơn, nên đưa con trai của Hoàn lên làm vua.

Y tốt của Tây thái hậu buổi đầu là vậy, nhưng không ngờ hai vợ chổng Dịch Hoàn lại không thích thế, thường hay phao lời nói xấu Tây thái hậu. Mặt khác, Quang Tự hoàng đế lại hay chống đối Tây thái hậu. Ngay từ hồi nhỏ hai bên đã có chỗ không hợp tính rồi. Thấy thế, Tây thái hậu lại cho rằng vợ chồng Hoàn ngầm dặn con mình như thế, nên càng đề phòng gắt gao hơn. Bà truyền dụ cho cung môn cấm không được cho phép vợ chồng Dịch Hoàn gặp mặt hoàng đế, chỉ trừ trường hợp có đặc chiếu.

Lại cũng vì cái lệnh khắt khe này, vợ chồng Hoàn càng thâm thù Tây thái hậu. Nhiều lúc nhớ con, hai vợ chồng Hoàn chỉ còn biết ôm nhau khóc ròng mà thôi.



Hồi đó, Quang Tự hoàng đế đã định việc hôn nhân, chọn xong hoàng hậu. Bà hoàng hậu đó là con gái Quế Tường và cũng chính là cháu gái của Tây thái hậu. Tính tình của bà hậu này chẳng khác tính nết Tây thái hậu bao nhiêu. Trớ trêu thay là Quang Tự hoàng đế lại không ưa bà hoàng hậu này, ngài chỉ yêu có một cô tên gọi Cẩn Phi. Cẩn Phi người đã đẹp, tính nết lại thuận hảo, nhu hoà. Quang Tự hoàng đế đã có ý lập người đẹp này làm hoàng hậu, nhưng Tây thái hậu quyết không chịu. Vì thế, cái hố mâu thuẫn giữa hoàng đế và Thái hậu lại còn sâu thêm một tầng nữa.

Bọn cung nhân thái giám, bọn bầy tôi trong ngoài thấy Tây thái hậu không ưa hoàng đế và hai vợ chồng Dịch Hoàn, bèn đặt ra không biết bao điều vu khống đồn đại khắp nơi.

Chúng dựng lên một chuyện động trời. Chúng phao tin ở bên ngoài Tây Vực môn kinh thành, trong Bạch Vân quán, có một vị đạo sĩ tên gọi Động Nguyên. Nguyên có tài lạ là nhìn được rất xa. Đêm nào cũng vậy, Nguyên đứng giữa sân nhìn ra xa, đều thấy trên nóc phủ của Dịch Hoàn luôn luôn có một đám mây phủ kín, trong đám mây có một con rồng vàng lúc ẩn lúc hiện, bay múa trong không gian. Như thể e rằng Dịch Hoàn sẽ là chân mạng Thiên tử, không đề phòng không được.

Tây thái hậu nghe chuyện này, đã không cho là phỉ lý, lại còn lấy làm tin lắm. Thế là bà cho Lý Liên Anh truyền gọi tên đạo sĩ Động Nguyên vào cung, đích thân dò hỏi.

Nguyên liền đáp:

- Phải! Trên nóc nhà có mây phủ, đó đúng là triệu chứng của chân mạng đế vương. Nay Hoàng thái hậu hỏi tới kẻ tiểu đạo xin tới vương phủ xem xét kỹ rồi phúc chỉ sau.

Tày thái hậu chuẩn tấu, bèn phái thêm mấy tên tiểu thái giám nữa, ăn mặc giả làm người thường, đến trước cổng nhà Dịch Hoàn xem xét.

Động Nguyên đạo sĩ gật đầu luôn mấy cái, trong lòng đã có điều minh bạch, vội chạy về kinh tâu lên Thái hậu:

- Trong vưởng phủ có một cây bách già, Văn khí do đỉnh đôi cây cổ thụ đó bốc lên. Nay chỉ cần chặt cây bách đó là phá được đất nhà nọ, có thế mới hết lo ngại.

Tây thái hậu nghe đoạn, truyền thưởng cho Nguyên một số tiền rồi cho về. Sau đó, bà cho bày giá, ngồi trên chiếc xe nhẹ, giảm bớt bọn tuỳ tùng, tức tốc ra khỏi cung, lẳng lặng kéo vào trong phủ đệ của Dịch Hoàn khiến hai vợ chồng Hoàn hoảng hồn bạt vía, vội vàng hè nhau chạy ra nghênh tiếp thánh giá.

Tây thái hậu thấy bộ mặt hớt hải của vợ chồng Hoàn, cười lên hô hố, cầm lấy tay vợ Hoàn nói:

- Bọn mình chị em với nhau, khách khí mà làm gì! Ở trong cung buồn như chấu cắn, tôi tính ra thàm hoa viên nhà muội muội một lát để thưởng thức cái cảnh u nhã nơi đây đó!

Nghe vậy, Dịch Hoàn vội sai người bày tiệc ngay trong vườn hoa để thết đãi. Tây thái hậu vừa uống vừa xem hoa.

Cây bách già mọc ngay giữa vườn hoa, cành lá xum xuê, che kín cả mặt đất, ngọn thì thẳng vút mãi tận mây xanh. Thái hậu nhìn cây bách, miệng tấm tắc khen lấy khen để:

- Trời! Cây bách cao lớn quá nhỉ! Tôi hiện đang xây cất Di Hoà viện, thiếu hẳn mất loại cây gỗ lớn này, thật đáng tiếc?

Dịch Hoàn đứng bên cạnh, tưởng lời nói đó là thật, vội tâu:

- Nếu vậy, thần nguyện xin dâng cây cổ thụ đó lên Lão Phật gia.

Lời nói trúng ý thái hậu, bởi vậy, đợi khi tiệc dùng xong, bà liền cho lệnh bọn thợ mộc trong phủ nhất tề cưa búa chặt ngay. Chẳng bao lâu, cây bách già đã sáu bảy trăm năm đổ xuống cái rầm, nằm sóng sượt trên hoa viện dài đến mấy chục trượng.

Nhưng Tây thái hậu không ngờ khi cây vừa đổ xuống đánh rầm một cái thì bỗng từ trong cây lao vọt ra một đàn rắn to bằng bắp vế đến mấy chục con, mắt đỏ ngầu, vẩy vàng hườm như vàng y, xông bừa ra tứ phía, trông thật khủng khiếp. Một con rắn bự nhất từ trong đàn xông thẳng tới chỗ Thái hậu nhe nanh, cất cao cổ, tính nuốt chửng bà.

Tây thái hậu giật bắn mình, hồn vía lên tận mây xanh, rú lên một tiếng, té ngửa ra sau ghế. Dịch Hoàn cùng Lý Liên Anh, hai người đều đứng cạnh thấy Thái hậu đã ngất xỉu, vội vàng tìm cách đối phó với con rắn. Lý Liên Anh nhảy vội tới ôm lấy Thái hậu, cố ý lấy thân che cho bà tránh con độc xà. Còn Dịch Hoàn lúc này liều mạng với con rắn. Hoàn tay không xông vào, múa tít song quyền, cứ nhè đầu con rắn đấm lia lịa. Vô phúc cho con rắn, trúng một đấm của Hoàn, vật xuống đất, không cất cao được đầu lên như trước nữa.

Đau quá hoá khùng, nó quật ngược cái đuôi lên, quấn ngang bụng Hoàn đến mấy vòng như cái vành rổ. Rắn càng quấn càng chặt. Rắn càng xiết Hoàn càng thấy như tắc thở, Hoàn thở hắt ra ằng ặc… May thay lúc đó, bọn thợ mộc đã dừng tay, nghe la, chạy tới. Thế là cả bọn nhất tề xông vào chia tay nhau ốp con rắn, gỡ tháo vòng xiết cho Hoàn. Mấy phút sau, Hoàn đã thoát vòng xiết của rắn, nhưng lòng bàn chân đã bị rắn đớp cho đến mấy miếng, chất độc đã đủ thì giờ để ngấm vào máu. Hoàn trúng độc, cơ hồ té xỉu.

Lúc này Thái hậu đã được đưa vào trong hoa sảnh. Gia nhân vội đưa Hoàn vào trong sảnh. Mớ choàng mắt Hoàn thấy bóng Thái hậu rung rinh phía trước; nghĩ đến tội mình. Hoàn vội bò mọp xuống đất; dập đầu lia lịa, nói:

- Nô tài tội đáng muôn thác. Để Lão Phật gia phải một phen kinh hoảng, thật là tội của nô tài!

Lúc này, Tây thái hậu đã tỉnh lại, hoàn hồn rồi. Cả một bọn thái giám chạy tung lên như chiếc đèn kéo quân bên cạnh. Anh thì bóp vế, anh thì đấm lưng, anh thì mang nước sâm, anh thì đem bàn đèn, dọc tẩu, hộp thuốc phiện đến cho bà.

Bọn thái giám tung tăng như vậy một hồi lâu, khi khói thơm toả khắp căn phòng thơm phức, Thái hậu mới mở được miệng ra lệnh hồi cung.

Dịch Hoàn lại một phen quỳ mọp trước thềm, đưa tiễn thái hậu ra khỏi cổng phủ. Đợi Thái hậu và đoàn tuỳ tùng ới xa rồi, Hoàn mới lóp ngóp bò dậy, lắc lư bước vào nhà, cho gọi gấp anh thầy lang châm cửu vào phủ châm mấy mũi kim vào đùi, uống luôn một hơi chén thuốc giải độc.

Suốt đêm đó, chất độc hoành hành. Hoàn đau đớn nhức nhối, nhưng rồi ngày hôm sau cũng bớt đau dần, chỉ còn có đầu choáng mắt hoa, tim đập thình thình, tinh thần xem ra hết sức mệt mỏi.

Buổi trưa, đang chờ thang thuốc thứ nhì, bỗng Hoàn thấy Tây thái hậu sai Tiêu ngự y tới phủ chẩn mạch cho. Hoàn vội bày hương án tạ ơn. Chẩn mạch xong, viên ngự y không khai phương, chỉ lấy trong đẫy ra một ít thuốc cho Hoàn uống.

Thế rồi từ đó, viên ngự y tới nhà Hoàn ngày một, chẩn mạch cho Hoàn rồi lại cho uống thuốc chế sẵn, xong ra đi.

Nhưng có điều lạ là từ ngày uống thuốc của viên ngự y thì bệnh Hoàn càng ngày càng nặng thêm…

Trong phủ của Hoàn, tuy có nuôi mấy viên nội ngoại y sư đấy nhưng thấy ngự y tới săn sóc, còn ai dám cho đơn bốc thuốc nữa đâu.

Một hôm Tổng đốc Trực Lệ là Lý Thiếu Thuyên đích thân tới phủ thăm Hoàn. Hoàn thấy mặt Thuyên bỗng ứa nước mắt nói:

- Xem ra bệnh tôi không thể khỏi nổi rồi! Tôi chỉ còn có mỗi "một khối thịt" lưu lại trong cung, khối thịt ấy hiện là hoàng đế của mọi người đó. Tôi chết đi lòng thực không thể yên được. Chỉ mong sao ngài Tổng đốc để ý giùm hoàng thượng nhiều cho.




Nói đoạn Hoàn quay hẳn về phía Thuyên, vòng tay xá một cái thật dài. Thuyên vội vàng hồi tế và nói:

- Vương gia yên tâm. Đạo thần tử, há lại dám bất trung với hoàng thượng? Song, xem ra bệnh tình của Vương gia không có gì gọi là nguy hiểm đâu?

Hai mắt Hoàn lúc đó nhìn không còn rõ nữa. Hoàn thì thào nói:

- Tôi mong được gặp hoàng thượng một lần lắm!

Lý Thiếu Thuyên nghe đoạn, đoán biết Hoàn ý muốn gặp con lắm. Bởi thế sáng sớm ngày mai Thuyên vào triều tâu lên:

- Dịch Hoàn bệnh nguy, có ý muốn gặp đức Kim thượng một lần chót. Đức Kim thượng tính thời chí hiếu, mà thân phụ bệnh tình lại như thế, ý hẳn trong lòng cũng khắc khoải nhớ nhung lo lắng. Vậy mong cầu Hoàng thái hậu nghĩ tình cha con mà cho gặp mặt nhau một lần.

Từ Hi thái hậu xem tờ sớ xong lập tức đem vua Quang Tự cùng tới vương phủ thăm bệnh tình của Hoàn. Hai người vừa tới nơi, giữa lúc Hoàn thần trí lơ mơ mê mẩn. Nhưng vừa được thấy mặt Quang Tự, Hoàn bỗng tỉnh táo lại ngay, vội tụt xuống chân giường bò mọp xuống đất dập đầu kiến giá. Quang Tự hoàng đế tuy tuổi còn nhỏ nhưng phụ tử tình thâm, khi thấy cha bịnh hoạn ốm o gầy còm, bỗng rưng rưng giọt lệ. Sau cuộc viếng thăm, trở về cung Quang Tự hoàng đế còn cho nội giám đem mười cân nhâm sâm, một ngàn lạng vàng về gửi cho cha già bịnh hoạn.

Hồi đó, trong nha môn viên tổng đốc có một vị Thư Khải gia rất rành nghề thuốc. Người nhà tổng đốc nếu có ai đau ốm, đều một tay lão sư gia này trông coi thuốc thang cho cả.

Bởi vậy, Lý tổng đốc liền đưa vị sư gia này tới vương phủ để mong giúp một tay thang trị liệu. Nhưng cái khổ là, theo luật lệ trong cung hồi đó, nếu đã có ngự y chữa trị rồi thì thôi, các y sư khác dù có thần thông quảng đại tới đâu ba đầu sáu tay ghê gớm đến chừng nào đi nữa, cũng phải lo tỵ hiềm mà tránh ngay, ai bảo cũng chẳng dám chẩn bệnh bốc thuốc.

Vị Thư Khải sư gia ở trong vương phủ mấy hôm, chẳng có việc gì làm cả, chỉ thấy Thuần thân vương Dịch Hoàn mạnh mẽ vạm vỡ như thế mà uống riết thuốc của viên ngự y, bỗng quay ra chết.

Quang Tự hoàng đế ở trong cung được tin cha chết, oà lên khóc lóc thảm thiết. Từ Hi thái hậu bèn sai Lý Liên Anh truyền dụ, khuyên hoàng đế bớt buồn, bảo trọng thân thể. Bà căn dặn thêm cả Long Du hoàng thân tuỳ lúc an ủi khuyên can ngài. Mặt khác, bà hạ dụ phủ tuất, phát của kho ra một vạn lạng để làm đám cho vương gia.

Từ khi Dịch Hoàn chết rồi, Từ Hi thái hậu trong lòng mới được yên, khỏi phải lo ngại điều gì. Và cũng từ đó, bà đâm ra tín nhiệm tên đạo sĩ Động Nguyên quá đỗi. Bà đích thân hạ dụ phong cho Động Nguyên đạo sĩ làm Tổng đạo giáo ty, song hành với Chính Át chân nhân núi Long Hố tỉnh Giang Tây. Bà lại còn bỏ ra một vạng lạng để giúp Nguyên trùng tu Bạch Vân quán.

Bạch Vân quán xây cất tại phía ngoài cửa Tây trực môn thành Bắc Kinh, vốn là một ngôi miếu cũ kỹ, vắng vẻ quạnh hiu. Biển quán treo ngoài cửa đã rơi rụng từ thuở nào. Các pho tượng tiên phật bên trong cũng đã đổ ngã xiêu vẹo gần hết.

Nhưng từ khi Tây thái hậu cho tiền sửa lại, Động Nguyên đạo sĩ đem hết tâm lực vào việc trùng tu. Nguyên nhận lệnh của thái hậu phát tiền kho ra sửa miếu, bèn mở một cuộc lạc quyên trong số các vương gia đại thần. Thế là từ các quan lớn Tổng đốc, Tuần phủ, xuống tới bọn tiểu lại trong các phủ huyện, anh nào anh nấy cũng phải lo một số tiền hiếu kính, để mong được y nói tết cho mình trước thái hậu. Chi cần có một lần đó thôi mà Động Nguyên đạo sĩ đã quyên được tới sáu, bảy mươi vạn lạng bạc. Nguyên tức tốc cho khởi công, nào đắp nền cắt gỗ, xây cất lại ngôi miếu ngay trên nền cũ.

Ngôi miếu cũ nhỏ hẹp, chỉ vỏn vẹn có hai sào vườn, nhưng nay đã có số tiền lớn trong tay, Nguyên bèn bỏ ra một số lớn mua thêm luôn một lúc đến bốn, năm trăm mẫu ở chung quanh, gồm cả nhà cửa ao chuôm của dân chúng nghèo địa phương. Nguyên tự đặt giá đất, chỉ chi tiền có vài ba chục quan một mẫu. Lân bang xóm giềng đều sợ Nguyên, ai cũng phải bấm bụng bán vội cho y. Nguyên mua được đất rồi, cho người phá hết những nếp nhà cũ, vẽ cả một hoạ đồ xây cất mới đồ sộ vĩ đại kinh khủng. Ngoài mặt tiền, điện gác cao ngất, rộng rãi thênh thang. Bên trong, đình đài quanh co, hết dọc đến ngang, nào ao, nào hồ, nào cây, nào hoa, xen kẽ xếp đặt rất là ngăn nắp xum xuê. Đứng bên ngoài nhìn vào ai cũng phải tấm tắc khen ngợi miếu đình quả có nguy nga đồ sộ, rộng lớn thiệt.

Đến ngày hoàn thành miếu, Động Nguyên đạo sĩ vào cung để cung thỉnh hoàng thái hậu giáng lâm, thay đức Bồ Tát khải quang khánh thành. Tây thái hậu vốn là người tín ngưỡng Phật giáo, nghe Động Nguyên đạo sĩ cung thỉnh lấy làm khoái thích, hãnh diện lắm. Bà liền hạ dụ chọn ngày rằm tháng giêng thánh giá thân lâm Bạch Vân quán để hành hương.

Tờ chỉ dụ vừa xuống, bọn văn võ đại thần nào còn thiếu tên phải một phen bực tức không biết đường nào mà lần nữa. Thì ra chỉ tại trong tờ chỉ dụ của Tây thái hậu có chỗ nói là tất cả gia quyến bọn vương công đại thần đều phải theo giá tới miếu để cùng đi hành hương.

Gia quyến của bọn vương công đại thần bình nhật thường cấm cung ở nhà, hoạ hiếm lắm mới ra ngoài, nay gặp ý chỉ này đều phải sắm sửa gấp rút lên đường: thử hỏi kẻ nào dám chống, dám trái lại lệnh thái hậu, lại phải sắm sửa nào quần nào áo, nào phấn nào sáp, đủ thứ ăn chơi cho các bà vợ yêu chiều, các tiểu thư lả lướt hay mè nheo nữa chứ? Thực thế, hai tiếng "ăn mặc" lúc này đối với họ, nghe nó khủng khiếp quá! Các bà phúc tấn tóc đã hoa râm rồi, kể ra cách đối phó còn dễ, chứ mấy bà dì (thái thái) xồn xồn, mấy cô nương cách cách mới toanh, mấy trang tiểu thơ nước da trắng như trứng gà bóc thì quả là một việc mệt mỏi quá khi phải thoả mãn mọi đòi hỏi!

Mấy khi được tòng giá cạnh Hoàng thái hậu? Mấy khi được đủ thứ mắt, nào mắt xanh, mắt trắng đổ dồn về mình? Đúng là cơ hội ngàn năm có một! Các cô, các dì trẻ măng và các tiểu thư, các cách cách tươi như hoa, ai chả có chút hiếu thắng muốn hơn người, ít ra là hơn cái quần cái áo, nhất là lúc này? Nhưng than ôi! Chính cái hiếu thắng ấy đã làm cho các vương công đại thần điên cả đầu lên, đau nhói cả tim đó!

Quan đại thần ta ngồi đó, các cô tiểu thư, cô thì cha may cho con bộ áo gấm năm màu, cô thì mẹ mua cho hộp sáp của Tây phương. Vương gia tuy nằm đó nhưng hồn còn để mãi tận đâu đâu. Mua đâu được cho dì hai nó cái quần hạng tuyết phẩm ấy nhỉ? Sắm đâu được cho cái con cách cách khó tính ấy cái chuỗi hột xoàn đáng vạn lạng nhỉ? Các vị vương gia, các bậc đại thần quả được thêm một dịp tốt đua nhau vắt óc kiếm tiền…

Rồi cái ngày phải đến tất đến: đó là ngày rằm tháng Giêng. Sáng sớm tinh sương, bà nào, cô nào cô nấy, tất cả đều bận quá mức, nào trát một tảng phấn trắng bệch như vôi lên má, nào bôi một cục son đỏ như máu cá lên môi, nào mặc lên một bộ quần áo màu cổ cứng ngập lấp cả đôi tai, nào đóng một cái quần ống thẳng tắp dài quét sạch mấy hè đường.

Các bà các cô ùn ùn leo lên xe nhà riêng của phủ mình. Xe lọc cộc ra đi. Xe trực chỉ phía ngoài cửa Tây trực môn, trước Bạch Vân quán, chờ đây đón giá.

Tất cả bọn phải đợi một lúc lâu. Bỗng người ta thấy cờ quạt rợp trời từ xa ùn ùn kéo tới. Khói lò hương bốc trầm thơm lên nghi ngút, quyện lại trên cao như một đám mây xanh theo gió dần tan. Rồi cả một đoàn người ngựa đưa rước Hoàng thái hậu tới, uy nghi như một đám rước thần.

Bọn đại thần đã xốc lại áo, xách lại quần, sửa soạn từ nãy, để bò mọp xuống mặt đường đón tiếp thánh giá. Chẳng mấy phút, đoàn người ngựa qua đi; bọn đại thần vương công lúc đó chẳng ai báo ai, lần lượt lên ngựa, lên xe, tìm đường đất phóng chạy như bay, mong tới Bạch Vân quán trước mấy phút để kịp quỳ đón thánh giá lần nữa tại nơi đây.

Ngự xa của Hoàng thái hậu, Hoàng thượng và Hoàng hậu tiến thắng vào mãi giữa sân mới đỗ. Hai bên đường đi vào sâu trong miếu lúc đó có đông đủ gia quyến bọn vương công quỳ mọp để đón giá. Thôi thì trâm ngọc, xuyến vàng lóng lánh, áo quần xanh đỏ khoe màu, người ta chỉ thấy đầy sân xuân sắc.

Hoàng thái hậu đưa cặp mắt đuôi lươn (tuy tuổi tác lúc này đã luống nhưng vẫn còn rớt lại đôi lần tình tứ) quanh một lượt khắp sân, bất giác để lộ trên cặp môi tô đỏ chót một nụ cười vẫn còn đượm vẻ xuân tình.

Tây thái hậu, mặt đầy vẻ kiêu hãnh, thong thả cất bước vào trong điện. Động Nguyên đạo sĩ đã phủ phục ngay tại mấy bực thềm ngoài cửa từ lúc nào. Thấy Tây thái hậu bước gần tới, Nguyên hô lớn:

- Hoàng thái hậu, hoàng thượng vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Hoàng thái hậu bước tới trước Phật toà, thấy một pho tượng kim thân cao một trượng hai ngồi ngay chính giữa, nhận biết đó là tượng Ngọc hoàng thượng đế. Lý Liên Anh đem hương ngự tới và dâng lên. Hoàng thái hậu, hoàng đế và hoàng hậu nhất tề quỳ xuống bệ gạch lót nệm gấm, lạy mấy lạy. Phía sau, dưới mái hiên điện hai, ba trăm vị đại thần đều một loạt quỳ lên trên bồ đoàn lạy Phật.

Khung cảnh toàn miếu lúc này im phăng phắc gần như không có tiếng động. Bỗng tiếng chuông trống nổi lên vang dậy, bên đông khua thì bên tây đánh, bên tây đánh thì bên đông khua. Tiếp sau đó, người ta mới bắt đầu nghe những tiếng xủng xoảng của vòng ngọc, của xuyến vàng đeo bên mình các bà, các cô trong các gia đình quý tộc giàu sang và những tiếng leng keng, lích kích của những đồ trân châu, tô điểm óng ánh trên thân hình các ông lớn, mặt đang ửng lên vì vinh dự! Tất cả những âm thanh lạ tai đó hoà trộn lẫn nhau, tạo thành một tiếng ồn ào vĩ đại nhưng kỳ thú, khiến cảnh chùa miếu thanh vắng ngày nọ trở thành ầm nhộn nhịp phi thường…

Cuộc dâng hương đã xong. Bọn đại thần rút lui ra ngoài. Tây thái hậu truyền dụ Động Nguyên đạo sĩ tới, bà cho Nguyên được phép đi trước dân đường thăm viếng khắp nơi.

Động Nguyên đạo sĩ toàn thân ăn vận y phục đại lễ, tinh thần tỏ vẻ đắc ý, hãnh diện lắm, xun xoe đi trước, rũ đôi vai xuống một chút, khum cái lưng xuống một tí, cầm đầu cả đám đông đang lần lượt theo sau như nước chảy.

Tây thái hậu đi xem đã qua mấy lần điện, thấy tượng đắp đều là thiên thần, thiên tướng. Bà đi quanh ra một cửa tò vò Một khu vườn hoa xây cất, trồng trọt khúc chiết, quanh co vô cùng khéo léo tinh vi. Trong vườn, tuỳ từng chỗ đặc biệt, Nguyên cho nuôi nào hạc, nào hươu sao, nào công, nào gà gô, nào thỏ bạch… Có con từ trên bãi cỏ xanh rờn, lại có con ẩn núp trong các động rỗng núi giả sờn.

Hoàng thái hậu càng xem càng khoái.

Bà đi tiếp một chút nữa, qua mấy dãy hành lang bên trái viện, lúc đó mới thấy ngôi nhà chính, xây thành một dãy dài chín gian chính sảnh, nhưng lại năm nhô ra và bốn thụt vào.

Trong chính sảnh, người ta thấy Động Nguyên đạo sĩ đã cho bày biện bàn trà từ lúc nào. Đối diện với chính sảnh này, là một cái sân khấu diễn tuồng, căng màn kết hoa, đỏ rực cả một góc trời.

Đầy nhà, lúc này, đã được lên đèn, ánh sáng lấp lánh trông như sao trời đêm. Sân khấu đang sửa soạn mở màn.

Hai bên nhả chính sảnh, còn có mấy dãy nhà nhỏ, cửa màn kín đáo. Đó là những phòng để Hoàng thái hậu thay áo.


Hồi 155:  Anh thầy cúng tốt số

Hoàng thái hậu, hoàng hậu vào phòng thay áo, nghỉ ngơi đôi chút thì bên ngoài trà, quả đã bày lên đầy cả mặt bàn. Một tiếng trống lớn, có tiếng thanh la, não bạt theo kèm bỗng xé không gian yên tĩnh, báo hiệu một cuộc vui nhộn lớn lao bắt đầu. Rồi tiếng hát giáo đầu cất lên, trong khi màn nhung từ từ mở ra rộng toác.

Động Nguyên đạo sĩ đã dặn trước gánh hát diễn mấy tuồng độc đáo mà nội đình ưa thích. Mọi người chỉ còn chờ đợi chỉ dụ của Hoàng thái hậu.

Quả nhiên, khi Hoàng thái hậu ngồi dùng trà, đã chọn ngay tuồng Hỗn Nguyên hạp, tuồng Cản Tam quan, Hoàng thượng chọn tuồng Hồi Long các, trong khi đó, hoàng hậu biết tính Hoàng thái hậu, thích loại tuồng tiểu đơn, liền chọn ngay tuồng Hồng Loan hy.

Hôm đó, Hoàng thái hậu thực là vui sướng hết chỗ nói.

Thân quyến của các quan viên đại thần ngồi hầu xung quanh xem hát. Trên sân khấu, tiếng sênh phách, tiếng ca nhạc tưng bừng nhộn nhịp. Phía dưới, màn quây trướng phủ, bọn văn võ quan viên đồng loạt cáo lui, chi còn lại mỗi một mình anh chàng đạo sĩ Động Nguyên, lượn như bươm bướm giữa cái đám quần thoa đó để vâng dạ, để đón đưa, cung phụng.

Ngày vui kéo dài mãi tới lúc mặt trời đã gác hẳn non Đoài, Hoàng thái hậu mới sửa soạn xa giá về cung. Đám nữ quyến của bọn vương công đại thần xem đang dở mắt, bỗng được lệnh sửa soạn ra về, bà nào bà nấy đành phải líu ríu lên xe, theo chân thái hậu vào thành. Chỉ vỏn vẹn còn lại có bọn vương gia đại thần ngồi trơ thổ địa ra đấy với nhau.

Động Nguyên đạo sĩ thấy vậy mời cả bọn vào ngồi trong chính sảnh. Bọn đại thần lúc này ai cũng muốn bầu bạn với Nguyên, thôi thì nào xưng hô bằng tiểu đệ, đại ca, nào tâng bốc nhau lên như diều giấy chiều thu. Tiệc rượu còn đầy đủ trên bàn. Cả bọn chia nhau an toạ, vừa nốc rượu vừa xem hát, vừa trò chuyện hết sức tương đắc.

Rất nhiều tên kép hát nổi danh nơi kinh thành hoa lệ này đều quen biết bọn vương gia đại thần. Bởi thế, khi xong vai trò của mình trên sân khấu, anh nào cũng chạy xuống phía dưới, ngồi lui về phía sau bọn đại thần vương gia cùng xem.

Bọn đại thần quay lại thấy bọn kép hát, thôi thì tay bắt mặt mừng, coi như bạn thân lâu năm mới gặp, nào hò rượu, nào quát đem đồ nhắm, tới tấp cả lên.

Vài hôm sau, Động Nguyên đạo sĩ vào cung tạ ơn. Tây thái hậu giữ Nguyên lại ngủ trong cung một lèo đến mấy ngày để trò chuyện. Nguyên giảng giải cho Thái hậu nghe thế nào là công phu Đại toạ luyện khí, lại dạy cho cả bà cách luyện tập công phu Bát đoạn cẩmnhư thế nào.

Theo Nguyên, hằng ngày cứ trước khi ngủ dậy, nếu tập luyện được công phu Bát đoạn cẩm, ắt sẽ được trường thọ lâu năm. Tây thái hậu tin lời Động Nguyên đạo sĩ, liền bắt đầu học tập từ ngày đó. Bà tập thành thạo, rồi từ đó bất luận ở nơi đâu bà cũng đều ôn luyện qua một lần Bát đoạn cẩm xong mới chịu khởi thân. Bà luyện tập công phu này mãi đến già không gián đoạn. Ấy chính nhờ sự luyện tập hằng ngày mà thân hình bà ngày càng đẫy đà đẹp tốt, đến già cũng không già ốm, đó là việc về sau.

Động Nguyên đạo sĩ lúc này quả được lòng Tây thái hậu.

Trước mặt thái hậu, Nguyên nói là được bà nghe, hiến kế ắt được bà theo. Nguyên thường được thái hậu tuyên triệu vào cung, cho ngồi tâu đáp mọi chuyện về đạo thuật. Nhiều hôm, nói chuyện với Nguyên từ sáng đến tối mà thái hậu không thấy mỏi, thấy chán.

Có nhiều quan đại thần thấy Nguyên đắc thế, đắc thời, vội tìm cách cầu thân, mời Nguyên vào phủ, đặt tiệc khoản đãi ăn uống đến lúc say khướt, liền cho gọi nào là phúc tấn phu nhân, nào là cách cách tiểu thơ ra trước cuộc rượu lạy Nguyên, tôn làm sư phụ.

Thế là từ hôm đó, cái phong khí mới lạ kẻ tôn làm sư phụ, người nhận lấy đệ tử ấy tự nhiên mở ra một kỷ nguyên mới. Thiếu gì những quyến thuộc quan gia trong kinh thành đều kéo nhau tới xin nhập môn hạ làm nữ đệ tử. Mà một khi được nhận, đều coi như một điều vô cùng vinh diệu!

Điểm đặc biệt là cứ mỗi một nữ đệ tử xin nhập môn phải có một số tiền gọi là tiền bái kiến sư phụ, nhiều thì phải kể vạn, mà ít thì cũng phải vài ngàn lạng. Ngoài chuyện tiền ra, còn phải đưa tới nộp thêm các loại đồ thêu, có người thêu cả một cái áo đạo bào, có người chắp lông hạc thành cả một cái áo thụng, lại cũng có người thêu cả một cây cờ phạn treo phất phới trước Phật đài. Cũng có những anh quan nhỏ, cấp bậc chức vụ chẳng cao bằng ai, hoặc tiền bái kiến sư phụ quá ít ỏi, đành phải cho vợ hay con gái tới để bái kiến Nguyên, hắn bèn chẳng thèm để ý tới.

Thú vị nhất là mấy anh vương gia cũng thiếp đi thư lại, mong sao cầu thân được với Nguyên, ấy thế hắn đã chịu cho đâu, cứ một mặt phớt lờ.

Người duy nhất được Động Nguyên đạo sĩ gọi đệ đệ huynh huynh, đó là Lý Liên Anh. Thực tế, chỉ có Anh mới là kẻ chí tình được với hắn. Cả hai tên tâng bốc lẫn nhau trước thái hậu, nói tốt cho nhau không thiếu một chuyện gì!

Lại một năm, đúng ngày rằm tháng giêng. Tây thái hậu đích thân lại tới Bạch Vân quán hành hương. Và rồi từ đó, hằng năm như một cái lệ, các quan viên văn võ trong kinh thành cứ đúng ngày rằm tháng giêng phải tới Bạch Vân quán hành hương.

Một hôm trước ngày rằm, Động Nguyên đạo sĩ sửa soạn tiệc vui, mời các vương gia đại thần tiệc tùng vui nhộn suốt ngày trong miếu.

Rồi từ ngày rằm ấy, cửa miếu mở toang, mặc sức cho khách thập phương chen nhau vào lễ Phật. Ngày hội bắt đầu từ đó, kéo dài mãi tới hai mươi lăm mới hết, vừa đúng mười ngày.

Thôi thì trai thanh gái lịch, ngựa xe kéo nhau tới như nước, phố xá chốn kinh thành đông nghẹt. Người ta đặt tên cái ngày hội đó là ngày "hội Thần tiên".

Hội Thần tiên, đâu có phải chỉ riêng bọn bách tính bình dân, mà cả những bà phúc tấn của các vị vương gia, các bà mệnh phụ của các đại thần, công khanh, các tiểu thư khuê các, các cách cách quý tộc, ăn mặc vô cùng lịch sự, trang điểm vô cùng mỹ miều.

Các bà phúc tấn, các bà mệnh phụ, các tiểu thư, cách cách này đi trẩy hội khác hẳn bọn dân giã quê mùa. Các bà, các cô đã tới miếu, thì tối hôm đó quyết chưa về phủ, còn phải ở lại một tối: Có như thế mới gọi là đi trẩy hội Thần tiên. Ngủ lại thêm một đêm như vậy gọi là Trúc Sơn.

Cái đám đàn bà này gần hết đều là nữ đệ tử của Động Nguyên đạo sĩ. Còn đám tiểu thư, cách cách trẻ măng như mấy con bê con, ngây thơ như mấy con thỏ mới sinh, lại còn ghi tên vào danh sách để xin làm can nữ nữa chứ! (Can nữ là một loại con nuôi không chính thức, hoặc để nhờ quyền thế, hoặc để nhờ dìu dắt, y như cái lối con tinh thần, cha tinh thần). Hễ thấy Động Nguyên đạo sĩ là đều gọi một can gia, hai can gia, tỏ tình thân thiết còn hơn cả gọi sư phụ.

Động Nguyên đạo sĩ mỗi khi thấy đám can nữ của mình tới mè nheo bên nách, y cũng quấn quýt lấy chẳng kém. Nguyên chuẩn bị vô cùng đầy đủ, nào là phòng ốc, nào là chăn gối, nào là mền trướng, tất cả đều hết sức lộng lẫy đẹp tốt, để cho cái đám con nuôi ấy ngủ qua đêm. Nhưng phòng lịch sự như vậy, có ít ra cũng đến mấy chục căn.

Trong đám phụ nữ, loại xồn xồn nhưng còn bảnh, hoặc đám cách cách, tiểu thư mới toanh, còn nguyên xi, có nhiều thị được Nguyên lưu lại đến ba, bốn đêm mới cho về. Nhiều ông quan tưởng rằng đây là dịp có thể thăng quan tiến chức được, liền nhờ vợ nhờ con gái thay mình nói khéo với Nguyên Can gia, xin nói tất cho vài lời trước mặt thái hậu. Nhiều anh quan, muốn cho chắc ăn hơn, còn lo liệu một số tiền lớn, vài chục vạn lạng bạc là ít, dâng cho Nguyên. Thực thế, miễn sao Động Nguyên sư phụ gật cho một cái, nhận số tiền, đấm vào mõm trên, đấm xuống mõm dưới, thì mươi hôm sau là đã thấy quan nhà ta nhảy trên hoạn lộ như cóc, từ cấp này lên bậc kia như bỡn.

Nhưng thú vị nhất phải nới cái đám quan được thăng đó đã chẳng biết câm cái mồm đi cho nó đẹp mặt, trái lại, còn ra ngoài vung vít khoe khoang cái tài cái khéo của vợ mình hoặc của con gái mình cho thiên hạ biết, tưởng thế là vinh dự, hãnh diện lắm! Số phận hẩm hiu nhất là của mấy anh quan già, có bà thái thái móm, hoặc có cô tiểu thư vổ răng, môi sứt, rốn lồi.

Người ta nhớ mải năm nọ có ông quan người Hàng Châu tên là Ngô thị lang còn để lại một câu chuyện thực là hi hữu.

Số là Ngô thị lang, tuy là một vị quan trong kinh đô đã lâu năm nhưng nghèo mạt, nghèo đến không có gạo ăn hằng ngày nữa! Ngô thị lang cũng muốn chạy vạy chỗ này chỗ kia, may ra cuộc đời có khá hơn đôi chút, nhưng khổ cái là lại chẳng có xu nhỏ nào trong túi. Ấy thế mà Úc thị, vợ cưng của ông, lại là một trang mỹ nhân tuyệt thế, biết tiêu tiền, khắp quan gia quyến thuộc trong thành ái mà chẳng rõ như vậy.

Năm đó, đúng vào ngày mồng bẩy tháng giêng, Úc thị vào phủ Bát vương gia để mừng tuổi năm mới, vừa gặp lúc bà phúc tấn của vương gia đang trang điểm son phấn để trẩy hội Thần tiên ở Bạch Vân quán. Thấy vậy, Úc thị cao hứng cũng theo bà phúc tấn ra đi.

Động Nguyên đạo sĩ vừa trông thấy Úc thị đã vội hỏi bà phúc tấn xem đó là vị thái thái của nhà nào? Bà phúc tấn liền giới thiệu cho Nguyên biết đó là phu nhân Ngô thị lang.

Đã từ lâu Nguyên nghe tiếng Úc thị sắc nước hương trời và đã có lòng ngưỡng mộ, nay bỗng được gặp, đời nào chịu để cá về sông! Thế là ngay sau đó, Nguyên ngỏ ý muốn thu Úc thị làm can nữ. Trái lại, Úc thị vội thối thác, chỉ vì không đem theo số tiền bái kiến sư phụ.

Xin nhớ cho rằng muốn làm một can nữ hoặc một nữ đệ tử của Động Nguyên đạo sĩ đâu phải chuyện dễ. Nhiều ít gì thì cũng phải có một cái lễ bái kiến.

Lễ bái kiến nhiều thì trên vạn ít thì cũng vài ngàn lạng, chứ đâu có cái chuyện cười suông mà được! Đó là chưa kể còn phải có thân bằng quyến thuộc năm, ba lần khẩn cầu đến mới mong có cơ được ghi vào danh sách đó của Nguyên. Ấy thế mà nay đối với Úc thị thì chính Động Nguyên đạo sĩ lại phải hạ mình xuống khẩn cầu để thu làm can nữ, thử hỏi còn gì vinh hạnh hơn cho Úc thị nữa chứ?

Bà phúc tấn ngồi bên cạnh càng lấy làm hãnh diện lây, vội bảo thị nhận lời Động Nguyên đạo sĩ. Bà còn nói thêm là thế nào sư phụ cũng sẽ có "hảo xứ" đôi lại về sau, khi nghe Úc thị nói không có tiền bái kiến, thì bà vội bảo:

- Có đây! Có đây!

Rối thò ngay tay vào túi lấy ra một tấm ngân phiếu năm ngàn lạng đưa cho Úc thị.

Úc thị nhận tấm ngân phiếu trao lại cho Động Nguyên đạo sĩ. Nhưng không ai ngờ được Động Nguyên đạo sĩ, con người đớp tiền lừng danh lâu nay, bỗng lắc đầu, xua tay lia lịa, bảo:

- Khỏi! Khỏi mà! Bần đạo nhận thấy gương mặt Ngô thái thái có tiên căn, chúng ta đều là người có tiền duyên cả mà! Tiền bái kiến còn cần gì!

Thế là ngay từ đêm đó, Ngô thái thái ở lại trong miếu, không phải một đêm mà luôn bốn năm đêm liền, và tất nhiên bà đã gặp tiên ông rất nhiều lần trong đại hội Thần tiên đó.

Lúc từ giã Bạch Vân quán, cùng về với phúc tấn Bát vương gia, Úc thị còn được Động Nguyên đạo sĩ bắt nhận thêm một ngân phiếu một vạn lạng bạc, gọi là chút lễ mọn "kiến diện" không phải của can nữ mà lại là của Can gia.

Đến hết ngày hai mươi lãm tháng giêng, miếu tan hội! Động Nguyện đạo sĩ nhận lời ký thác của Úc thị, bèn đem vào cung tâu với thái hậu, nói Ngô thị Lang lâm cảnh nghèo khổ, xin Lão Phật gia thưởng cho y một chức vụ.

Lời tâu xin này thật là đúng lúc! Bởi vì Tây thái hậu đang tính hạ dụ chọn một học sai (quan coi về học chánh).

Trong số các tỉnh tại Trung Quốc, chức vu học sai ở Quảng Đông có thể nói là béo bở nhất.

Chẳng mấy hôm, theo lời Động Nguyên đạo sĩ, quả nhiên Ngô thị lang đi làm học sai tỉnh Quảng Đông thật. Ngô nhận thượng dụ, vội vàng dẫn thân tới Bạch Vân quán tạ ơn.

Về tới nhà, Ngô thị lang lại còn bò rạp xuống đất dập đầu tạ ơn chính vợ ông là Úc thị nữa, mới thú vị chứ! Chuẩn bị khăn gói, hòm xiểng, Ngô quả thực như người chết đi sống lại, lòng thì cao hứng, mặt thì vênh vang với xóm giềng bè bạn không biết để đâu cho hết!

Một hôm, Từ Hy thái hậu ngồi nói chuyện gẫu với Động Nguyên đạo sĩ. Bà bảo Nguyên trong Bạch Vân quán, hoa viên xây cất đẹp thì đẹp thật, nhưng còn thiếu ít bức thư hoạ cần phải thêm vào.

Động Nguyên đạo sĩ vội quỳ xuống đất dập đầu tâu xin Lão Phật gia của y cho ít chữ về trang trí. Vì y biết Từ Hi thái hậu cũng rất khá về chữ nghĩa.

Đang lúc cao hứng, và cũng muốn đây là một dịp chưng tài với Nguyên, với thiên hạ. Từ Hi thái hậu liền gọi Lý Liên Anh mài mực và đem cái bút bự viết đại tự cho bà. Cầm ngay ngắn cây bút lông to tướng, Từ Hi thái hậu chỉ ngoáy có mấy nét trong nháy mắt mà mọi người đã thấy một chữ "PHÚC" lớn rất đẹp.

Viết xong chữ PHÚC, lại được Nguyên tâng bốc thêm mấy câu, Từ Hi thái hậu đã cao hứng lại cao hứng thêm, cho lệnh cung nữ đi lấy thêm bức hoạ "Đường hoa hỷ hoạ bình" mà bà đã vẽ từ trước với những nét vô cùng đắc ý, sau đó, đưa hết cả hai bức hoạ cho Động Nguyên đạo sĩ.

Nguyên lại vội vàng quỳ mọp xuống góc nhà dập đầu tạ ơn, rồi hí hửng mừng rỡ như được vàng, khệnh khạng vác hai bức hoạ bước ra khỏi cung.

Về tới Bạch Vân quán, Động Nguyên đạo sĩ gọi ngay anh thợ mộc tới, bắt làm ngay mấy cái khung chạm trổ tinh vi, lồng bức hoạ vào, trông hết sức lộng lẫy, quý phái. Xong đâu đấy Nguyên chọn ngày tết, sửa soạn một bữa tiệc thịnh soạn, cho gọi một gánh tuồng về để uống rượu xem hát.

Động Nguyên đạo sĩ cho treo bức tự hoạ và bức "Đường hoa hỷ hoạ bình" lên trên cao, rồi mời đủ mặt vương công, đại thần tới hoa viên thưởng ngoạn. Rượu được mấy tuần, một vị vương gia đứng dậy nói:

- Hằng năm, Lão Phật gia cho bọn đại thần rất nhiều bức hoạ. Lão Phật gia tuy thạo viết chữ, vẽ tranh, nhưng chỉ một mình thì làm sao viết xuể. Cho nên ngoài những chữ Phúc, Thọ, mấy chữ đại tự đó ra, còn bao nhiêu những khải tự, những bức hoạ Hoa Điểu, đều là do Giao thái thái vẽ thế viết thay cả đấy chứ Động Nguyên đạo sĩ nghe xong vội hỏi:

- Giao thái thái là bà nào vậy?

Vị Vương gia lại nói tiếp:

- Có lẽ sư phụ chưa rõ chuyện này.

Rồi ông ta kể:

- Theo luật lệ trong cung thì bọn thần từ trong và ngoài, trừ những nhân viên cung phụng trong nội đình, và nam thương bái thư phòng, cũng như nhân viên Nội phủ ra, phải làm quan từ nhị phẩm trở lên, mới được thái hậu thưởng cho chữ "PHÚC".

Bất luận quan to quan nhỏ nào, nếu tuổi chưa tới năm mươi thì không được thưởng chữ "Thọ". Nhưng từ lúc có Lão Phật gia ở trong cung, đặc biệt khai ân, bọn thần tử thường được thưởng thư hoạ. Nhất là khi Lão Phật gia cao hứng lên, thì bất luận là ai cũng đều được Lão Phật gia ban thưởng cho những bức hoạ, chữ PHÚC, chữ Thọ, do chính tay Lão Phật gia viết và vẽ, cũng có khi còn được thưởng cả bức hoạ "Hoa Điểu" bức tranh Tiểu Khải Tự nữa.

Lão Phật gia khi còn là Phi tử ở tại Đồng Âm thâm xứ, có học được kiểu tự hoạ rất tài tình, nên ngày nay mới thưởng cho nhiều người như thế. Song một người thì làm sao cho xuể bấy nhiêu việc được? Do đó, Lão Phật gia mới hạ mật chỉ xuống cho các vị tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh, tìm cho bằng được những mệnh phụ viết đẹp vẽ giỏi, đưa vào cung để thế Lão Phật gia viết chỉ và vẽ tranh.

Sau mật chỉ đó ít lâu, viền tổng đốc Tứ Xuyên chọn được Giao thái thái, liền lén đưa vào cung, bà Giao thái thái này tên là Tố Quân, nguyên người Vân Nam, theo chồng làm quan ở Tứ Xuyên. Chẳng may, chổng chết, gia cảnh hết sức nghèo túng, khó khăn. Người con trai tuy đã đỗ cử nhân nhưng cũng chưa được bổ đi làm quan. May được cái là Giao thái thái vẽ tranh Hoa Điểu tuyệt đẹp, lại giỏi cả văn, hay cả viết chữ Tiểu Khải Tự, cho nên nhờ đó bán tranh bán chữ trong giới quan trường vùng Tứ Xuyên được đủ tiền độ nhật.

Thế rồi khi nhận được mật chỉ của Lão Phật giao, tổng đốc Tứ Xuyên đưa Giao thái thái gấp về cung. Lão Phật gia vừa gặp mặt Giao thái thái, tỏ ra vẻ hết sức mừng rỡ, liền cấp cho hằng tháng hai trăm quan nguyệt bổng. Giao thái thái ở trong cung, suốt ngày chi có mỗi một việc là thế Lão Phật gia viết chữ và vẽ tranh mà thôi.

Giao thái thái người mập ú, mặt bự, mắt lớn. Bởi thế, Từ Hy thái hậu thường hay lấy thân hình bà mà đùa giỡn. Phải cái Giao thái thái thư hoạ tuyệt vời nên Từ Hy thái hậu lúc nào cũng tỏ vẻ quý trọng.

Theo lệ trong cung thì bất cứ cung nữ hoặc nữ quan, hễ thấy thái hậu đều phải quỳ lạy, duy chỉ mỗi một mình Giao thái thái là được miễn lễ ấy. Trong cung nội, từ người trên đến kẻ dưới, ai cũng đều gọi bà ta là Giao thái thái. Bà được cái tính hiền hoà, ai cũng thích.

Có một hôm nhân lễ vạn thọ của thái hậu, bọn phi tần muốn làm vui lòng bà, đã dự tính làm một cái mão Phượng quan rất lớn. Đến hôm vạn thọ, bọn phi tần đều ăn vận phẩm phục, cũng bảo cả Giao thái thái ăn vận như vậy nữa. Bọn cung nữ đem bộ phẩm phục lại cho Giao thái thái. Thế là trong mây phút sau, Giao thái thái đã thay hình đổi dạng. Bà ta cũng có quần hồng, có mão Phượng quan, có hài có cốt, đầy đủ bộ lệ: Người thì lùn lại mập ú, mà quần áo lại vừa rộng vừa dài, bà ta trông lúc này buồn cười quá, người xù ra như cái bồ nứt cạp, đứng lù lù trên mặt đất trông như một cây rơm.

Bọn cung nữ thấy vậy muốn cười mà không dám, hè nhau lại dắt bà ta đi mừng lễ vạn thọ của thái hậu. Lúc này, Thái hậu đang ngồi chính giữa điện để nhận lễ.

Một số đông phúc tấn, cách cách người Mãn, ăn vận đại lễ đã đứng hai bên cạnh thái hậu, bỗng thấy Giao thái thái ăn vận tròn xoe y như một quả bóng ngũ sắc nhúng nhinh từ ngoài vào, xuýt cười ầm lên mà không dám ra tiếng. Họ chỉ cười thầm trong bụng là bởi vì lúc đó Quang Tự hoàng đế cũng có mặt trên điện.

Về sau, khi hoàng đế ra khỏi phòng rồi, Giao thái thái nằm bò trên mặt đất hành lễ, trông chẳng khác chi một con ba ba rụt cổ nằm ỳ ra đó, thì cái người đầu tiên không nhịn được cười là chính Tây thái hậu. Bà cười chảy cả nước mắt nước mũi, xuýt nữa té xuống ngai vàng. Thấy vậy, bọn phi tần, và phụ nữ quý tộc người Mãn ùa theo, cười lên như nắc nẻ.

Khắp cả cái điện rộng lớn thênh thang lúc đó chỉ nghe có tiếng cười, tiếng thì hí hi, tiếng thì hô hố, tiếng thì hềnh hệch, tiếng thì khăng khắc, tiếng thì khanh khách… tạo thành một tiếng ồn chưa từng thấy ở trong cung cấm.

Tây thái hậu cười một lúc rồi lên tiếng hỏi ai đã ăn vận cho Giao thái thái như vậy. Nhưng hỏi được câu hỏi trên vừa xong thì bà lại phá lên cười nữa. Cuối cùng, Tây thái hậu ngừng lại, lên tiếng bảo:

Hôm nay là ngày vui của mọi người. Giao thái thái hãy vui cùng với bọn ta một hôm nhé!

Giao thái thái nghe thái hậu truyền bảo, vội dập đầu tạ ơn.

Thế là hôm đó, Giao thái thái được theo chân thái hậu du ngoạn Tam Hải. Tam Hải là một thắng cảnh rất rộng lớn.

Bọn phi tần và quý phụ người Mãn, có cặp chân to, có đôi giò bự, theo thái hậu chạy đi chạy lại xem nhởn nhơ chẳng mệt mỏi gì, nhưng đối với Giao thái thái thì quả là một hình phạt vô cùng thê thảm.

Giao thái thái vốn đàn bà Hán lại có cặp chân bự, đầu đội mão Phượng quan vừa to vừa nặng, đi một bước là lặp một bước, xiêu bên này vẹo bên kia, trông thương tâm hết sức!

Khổ cái nữa là hôm đó, thái hậu lại cao hứng đi du ngoạn quá lâu, mãi tới khi mặt trời gần gác non Tây mới xa giá về cung. Thái hậu thưởng cho Giao thái thái hôm đó rất nhiều đồ trân bảo quý giá. Giao thái thái tạ ơn, rồi ra khỏi cung, quay về nhà.

Nhưng khi đặt chân vào nhà, đôi chân là như đã sưng từ bao giờ! Bà nằm liệt giường, mặt nhăn nhó, như chỉ muốn cầm đôi cẳng mà liệng vội đi cho đỡ nhức!

Hồi 156: Công trình kiến trúc Di Hòa Viên

Sau khi đi du ngoạn Tam Hải về cung, Từ Hi thái hậu phàn nàn với Lý Liên Anh là nơi này đã từ lâu không sửa chữa gì cả, để đến nỗi nhiều chỗ lở lói suy sụp cả. Bà còn nói thêm là trước đó vài năm, bà đã cho gọi Nội Vụ phủ bảo sửa chữa lại nhưng Cung thân vương tâu không có tiền sửa chữa, Đông thái hậu lại bảo khỏi sửa, thế là chuyện dẹp. Hiện nay, tình trạng nơi đây đã quá tệ, nếu không lo sửa sang lại, thì còn gì là hoa viên nữa!

Lý Liên Anh nghe Từ Hi thái hậu phàn nàn như vậy, vội chạy tới quân cơ xứ báo cáo cho bọn đại thần nơi đây hay.

Bọn đại thần quân cơ, anh nào chả mong được lòng thái hậu. Bởi thế họ đi gọi nhau lại, họp hành luôn mấy ngày đêm để bàn tính việc tu bổ. Họ cho gọi cả viên đại thần Nội vụ đến, rồi biểu quyết ngay một số tiền lớn khởi công động thồ tức khắc Khu Tam Hải đã lớn, họ còn mở rộng thêm vây luôn cả một con đường lớn chạy dọc suốt từ khu thành tây cũ đến mãi tận cửa sau, để xây cất thêm hai toà Bạch Thạch Kiều rất là cao lớn gọi Kim Ngao, Ngọc Đống.

Tam Hải sửa chữa lại xong, bọn đại thần liền tới thỉnh thái hậu đi du ngoạn. Tây thái hậu bày giá tới Tam Hải, quả nơi đây lúc này khác hẳn khi xưa, cả một khu hoa viên đổ nát hoang tàn bỗng trở nên rộng lớn lộng lẫy, nào đền đài tráng lệ, nào hồ ao trong mát, không thiếu một cảnh đẹp nào! Tây thái hậu đi tới đâu khen tới đấy, thực là không ngớt lời khen. Rất nhiều thân vương phúc tấn, đi hầu cạnh thái hậu du ngoạn hết nơi này đến chỗ nọ, nhởn nhơ y như tiên nga trên thượng giới.

Giữa lúc đoàn du ngoạn đi hết chỗ này sang chỗ khác, vô cùng cao hứng sướng khoái, bỗng Tây thái hậu nhớ tới vườn Viên Minh thuở nọ. Bà cảm khái thốt ra lời nói:

- Tam Hải ngày nay đẹp nhưng sánh với vườn Viên Minh lúc trước thực chỉ bằng một phần muôn! Đáng tiếc là Tiên đế đã mất, mà vườn Viên Minh cũng đã huỷ! Cái ngày náo nhiệt phồn hoa xưa kia bên cạnh Tiên đế, ta còn làm sao mà thấy lại được nữa!

Nói đoạn, Từ Hi thái hậu bỗng lộ vẻ mặt thê thảm, đôi dòng lệ từ từ lăn trên đôi gò má. Bọn phi tần thấy vậy, vội kiếm lời an ủi bà và hộ vệ bà trở về cung an nghỉ.

Lý Liên Anh thấy Thái hậu nhớ tới vườn Viên Minh, trong lòng bỗng phát sinh một ý định. Bởi thế qua ngày hôm sau, Anh vội vã chạy tới chốn quân cơ, bàn tính với bọn đại thần phác hoạ một chương trình trùng tu vườn Viên Minh để làm vui lòng Thái hậu.

Trong số đại thần quân, có một vị lên tiếng:

- Muốn trùng tu vườn Viên Minh, nếu không có năm ngàn vạn lạng bạc thì đừng hòng. Nay Hoàng đế không còn tại thế, trong vườn chỗ nào chỗ nấy đều có lưu lại những cảnh thương tâm thuở nọ. Nếu Lão Phật gia qua đấy du ngoạn, tôi quyết Lão Phật gia không thể nào vui vẻ được. Chi bằng bọn ta lấy số tiền trùng tu vườn Viên Minh làm một cái vườn khác cũng rộng lớn như vườn Viên Mình. Khi Lão Phật gia xem thấy mới đẹp mà lại còn tránh được chuyện thương tâm do kỷ niệm cũ gây ra.

Nghe lời bàn tính này bọn đại thần đồng thanh khen hay.

Đôn Thân Vương Dịch Tôn nói:

- Lễ vạn thọ lục tuần của Lão Phật gia sắp tới rồi! Vậy toà hoa viên này phải xong trước cái ngày lễ trọng đại đó mới được! Đúng cái ngày lễ hôm đó, bọn ta sẽ thỉnh Lão Phật gia vào vườn du ngoạn một hôm để cho Lão Phật gia nức lòng hởi dạ…

Nói tới đây, Vương bấm đốt ngón tay, nói tiếp:

- Hiện nay là Quang Tự thứ mười lăm. Năm thượng thọ lục tuần của Lão Phật gia là năm Quang Tự thứ hai mươi. Trong quãng năm năm đó, công cuộc kiến thiết hoa viên đó chắc hoàn thành được.

Bọn đại thần nghe tới đây, đều đồng thanh công nhận.

Chưa hết, Vương gia còn nói thêm:

- Có điều toà hoa viên rộng lớn như vậy, xây cất ít nhất cũng phải hơn một ngàn vạn lạng bạc, thử hỏi đào đâu ra giữa lúc này? Chẳng lẽ bọn mình bắt Lão Phật gia mở hầu bao cho bọn mình xây cất. Khó! Khó lắm!

Trong khi Dịch Tôn nói tới đây, khựng lại, thở dài, thì bọn đại thần quân cơ anh nào anh nấy dập gãy cái đầu xuống để suy nghĩ xem tiền đó đào tại nơi nào!

Thái giám Lý Liên Anh lúc này cũng có mặt nơi đây. Giữa lúc bầu không khí nặng như đá đeo, Anh bỗng vỗ tay đôm đốp mắt sáng lên, hấp tấp nói lẹ:

- Có rồi! Có rồi!

Bọn đại thần bỗng như có điện giật, cồ đều ngóc lên, nhao nhao hỏi vội.

Tỏ vẻ đắc chí, Anh thong thả nói y như một ông thầy đồ giảng bài:

- Chẳng phải bọn ta mỗi năm phải trích ra hai trăm vạn lạng trong kinh phí của Hải quân đó sao? Nếu ta dành số tiền đó lại trong năm năm, thì đã thấy có ngàn vạn lạng rồi còn gì?

Thử nghĩ xem nước Trung Quốc ta toàn là đất liền; dùng Hải quân mà làm quỷ gì! Còn bọn ngoại quốc chúng đều là thần tử của Đại Thanh triều ta cả, hơn nữa chúng lại là những tiểu quốc, thì bố bảo chúng cũng chẳng dám sờ đến lông chân của thiên triều ta! Do đó, Hải quân thực chẳng biết dùng vào việc gì. Bởi thế lấy kinh phí của đám quân này ai dám nói ra nói vào một nửa lời chứ? Ví thử số tiền xoay sở được đó quá ít, không đủ chi tôi đã có cách. Xin thưa ngay cách đây: ta mượn danh nghĩa Chấn hưng hải quân mở rộng một cuộc quyên cũng để gọi là "Báo đáp Hải quân". Giả dụ số kinh phí Báo đáp Hải quân thực ngân là bảy ngàn lạng ta sẽ tính cao lên một vạn lạng, rồi xin Lão Phật gia cho họ một cái chức tri huyện thế là xong.! Đến cách này mà chưa đủ, thì bọn ta anh em xúm lại chịu khó móc hầu bao lần chót, lẽ nào lại chẳng được như ý nguyện để đạt tới thành công?

Nghe Lý Liên Anh diễn thuyết một thôi, bọn đại thần đều đồng thanh coi như một diệu kế, nhất là khi nghe nói Lão Phật gia biệt đãi đối với mình, anh nào anh nấy đều hí hửng, và còn xác nhận thêm lời Anh nói quả chẳng sai tí nào!

Thế là nội vụ đã được quyết định. Tất nhiên việc thực hiện phải đi theo ngay với lời nói. Chẳng bao ngày, việc đầu tiên phải làm của bọn đại thần quân cơ này là kiểm kê hết mọi sổ sách để đem ra dùng số kinh phí của Hải quân một triệu lạng bạc bớt số, tích trữ, giấu diếm được bao lâu nay.

Việc thứ hai là xin Tây thái hậu chỉ dụ cho mở một cuộc quyên cúng "Báo đáp Hải quân". Đến việc thứ ba là chỉ định một vùng đất trống rộng lớn bao la bát ngát tại Vạn Thọ sơn để kiến tạo hoa viên.

Hoa viên này vốn để chuẩn bị khánh chúc ngày lễ Vạn thọ của Thái hậu, bởi thế mọi người đồng thanh đặt tên là Di Hoà viên. Di Hoà có nghĩa là di dưỡng mối Thiên hoà.

Khi đưa ra chương trình kiến tạo hoa viên Di Hoà, thì Vinh Lộc đã lại được bổ dụng chức tướng quân Tây An. Lộc nghe được tin này, vội vàng quyên cúng ngay một số tiền lớn hai mươi lăm vạn lạng bạc để lấy tiếng người đầu sổ, và tất nhiên để làm cái lễ mọn dâng ngày vạn thọ của Thái hậu.

Từ Hi thái hậu vốn vẫn quý mến Vinh Lộc bởi thế bà cho lệnh điều động Lộc về ngay kinh đô, đồng thời nhập vào quân cơ xứ. Thấy đã có người xung phong quyên cúng, bọn vương công lo đến thân mình, ngại đến cái quyền chức của mình, vội ùn ùn ghi danh đóng góp, kẻ thì mười vạn, người thì hai chục vạn, tiền lúc đó được khiêng tới ùn ùn nơi quân cơ.

Mặt khác, số tiền kinh phí Hải quân thu được đến bốn, năm trăm vạn lạng bạc. Chưa hết, còn một khoản tiền đặc biệt này nữa: đó là khoản tiền gọi "Nhân khoản" do Hộ bộ thượng thư Diệm Kính Minh tâu lên sau tài khoá năm đó.

Nhân khoản là tiền gì? Chiếu lệ cuối mỗi năm Hộ bộ thượng thư phải kiểm kê lập thành bản tồn khoản (những khoản tiền còn lại) báo cáo vào cung để Lưỡng cung Thái hậu xem xét.

Bản tồn khoản này thường chỉ ghi những khoản chính. Còn một khoản phụ kiểm kê từ các năm trước trở lại, những khoản tiền đổi giá, tất cả những khoản đó đều là nhân khoản?

Nhân khoản không ghi vào biên bản, và thường đem chia nhau từ anh quan to xuống tới anh quan nhỏ, mỗi anh cứ cuối năm, có chút tiền bổng, khả dĩ an ủi lắm!

Nhưng từ khi Diệm Kinh Minh lên làm Hộ bộ thượng thư thì nhân khoản không còn là nguồn an ủi của bọn quan lại bộ Hộ nữa. Diệm sở dĩ cắt hết nhân khoản này, một là vì sợ chính khoản thiếu hụt, cần phải có nhân khoản để đập vào, hai là để lấy lòng Thái hậu, chủ đích mong bà khen giỏi trù tính chi tiêu.

Thế là năm đó, bản báo cáo dâng lên, Thái hậu xem qua, mừng rú lên, vì tự nhiên mà có được một nhân khoản lớn đến hơn bảy trăm vạn lạng bạc. Bà vội bảo Lý Liên Anh tới hội bê ngay số tiền lớn đó về cho bà, để dồn vào số tiền chi phí trong công cuộc xây cất Di Hoà viên.

Tiền nong dư dả, tha hồ mà vẽ vời tô điểm cho Di Hoà viên. Thực thế, có thể nói Di Hoà viên được kiến thiết chẳng kém phần hoa lệ, nguy nga so với bất cứ một hoa viên nào!

Hoa viên xây cất đằng đăng suốt mấy năm trời, mãi tới năm Quang Tự thứ mười chín thì hoàn thành. Vị đại thần giám đốc kiến tạo hoa viên bèn mời các vị vương gia đại thần vào thăm vườn và xem xét lại một lần chót.

Hôm đó, Đôn thân vương chuẩn bị từ sáng sớm, đem theo một đám đông đại thần tiến vào hoa viên để xem xét. Di Hoà viên hoa lệ ra sao, kiến trúc như thế nào, xin mô tả qua để quý vị độc giả biết thêm một công trình kiến trúc của thời quân chủ cách đây chưa bao xa, với bao nhiêu mồ hôi nước mắt của quần chúng, hầu mong cung phụng cho hạnh phúc riêng của một người, một dòng họ.

Di Hoà viên vốn xây cất trên cái nền cũ của Thanh Y viên ngày trước, tại mặt tây Bắc Kinh, cách xa đô thành chừng hai mươi dặm. Lưng tựa vào Vạn Thọ sơn, Động Nguyên viên, vây khắp hồ Côn Minh vào giữa. Nếu do góc cửa đông mà đi vào, người ta phải qua cửa Nhân Thọ môn.



Điện đài nơi đây đồ sộ cao lớn, nhất là điện Nhân Thọ. Tiến vào cửa điện, người ta gặp ngay một toà lâu đài gọi là Nguyệt Đài. Trong đài, tại tầng thứ nhất có bày bốn các tĩnh lớn.

Lên tầng thứ nhì, người ta thấy có hai cái chum đồng chạm trổ hai con rồng và hai con phượng múa lượn chung quanh. Trong giữa điện, đặt một cái ngai quý bằng gỗ mun, cửa ngoài khoá chặt. Quay sang hướng tây, đi chẳng mấy bước, ta sẽ thấy một tấm biển, trên khắc bốn chữ: "Thuỷ mộc từ thân".

Mặt tây ấy chính là hồ Côn Minh. Phía bắc hồ, là toà Lạc Thọ đường. Toà đường này về sau trở thành tẩm cung của Hoàng thái hậu. Trước mặt đường, cũng có một nguyệt đài.

Bên cạnh đài, lại còn có một ngôi đình, xây cất theo kiểu noãn phòng (phòng ấm) toàn bằng pha lê. Phía trong đình có trồng một cây thông, chẳng khác gì một cây san hô.

Lại về hướng tây, đi quanh quẩn một hồi, ta sẽ phải đi qua một dãy hành lang dài đến mấy chục trượng. Nhìn về phía Bắc, ta thấy một toà núi, trên đỉnh xây một toạ đài, tên gọi Quốc hoạ đài cao đến vài chục trượng. Phía dưới đài là một cái điện, gọi tên là Bài Văn.

Điện dài chín gian, hết sức rộng lớn, về sau thái hậu dùng nơi đây làm chỗ toạ triều. Trong điện, có một đôi câu đối, vế trên viết:

"Vạn hốt tinh sơn triều Bắc cực"
.

Còn vế dưới viết:

"Cửu hoa tiên nhạc tấu Nam huân
"

Hai bên vách điện, xây đắp đến mấy chục cây thập cẩm cao mãi đến tận xà nhà. Thềm điện tính cả thảy mười bốn tầng.

Trên nguyệt đài bày bốn cái đỉnh và chum bằng đồng, có chạm trổ từng cặp long, phượng trên từng đôi một.

Ở phía sau điện, có một cái gác gọi là Phật Hương các, thềm cao đến vài chục bực toàn đá. Nếu theo cửa ngách mà vào, ta sẽ thấy một cái bia đá lớn, trên khắc bảy chữ: "Mộ ái triều phong thường tự tả"

Nếu lại mặt bắc mà đi, ta cung sẽ gặp một cái gác, gọi là Bảo Vân các. Gác có mái đình bát quái, cửa cột bao lơn, chấn song đều bằng đồng đúc.

Từ Bảo Vân các, có ba pho tượng Kim thân. Phía sau gác, lại còn có một ngôi đình, gọi là Chung Hương giới. Đây chính là nơi cao nhất của Vạn Thọ sơn.



Lại theo hướng nam mà đi ra, để gặp một cái cổng, trên cổng đề bốn chữ "Đạo dưỡng chính tính". Trước cổng, một dãy tường thấp ôm quanh lấy đỉnh núi. Tựa vào bức sơn tường này mà nhìn về nam, ta thấy trên mặt hồ, nào đình đài, nào lầu gác chẳng khác chi như nhìn phong cảnh trên một áng mây bạc, rõ mồn một.

Bên cạnh điện, cất mấy ngôi đình bát giác. Chuyển luân tạng vốn là hai toà bảo tháp làm bằng gỗ, mỗi toà cao tới mười mấy tầng. Cứ mỗi tầng, mặt ngoài đều có khắc tượng Phật. Mỗi một toà tạng cao đúng ba trượng, ngày đêm xoay chuyển liên tiếp, không bao giờ ngừng. Mãi về sau, năm Canh Tý, năm Bát quốc liên minh đánh vào kinh thành, chiếm đóng Di Hoà viên, lúc đó, hai toà chuyển luân tạng mới ngừng hẳn, không xoay chuyển được nữa.

Trong điện, còn có hai toà nhật quỹ (đồng hồ mặt trời), trên mặt khắc ghi số giờ số khắc, giữa đặt một cái kim đồng.

Mỗi khi mặt trời chiếu sáng, cây kim chỉ vào số giờ nào, khắc nào, là ta biết ngay mấy giờ, mấy khắc. Bỏ Chuyển luân tạng mà đi quanh ra, ta gặp điện Huy Đức phía trên có biển đề bốn chữ Phu quang vinh khánh. Chốn này đã là mặt đông của điện Bài Văn. Về mặt tây, lại còn có một ngôi điện nữa: điện Thánh Ly. Điện này đối diện với một cái rạp hát, xây cất hết sức huy hoàng rực rỡ. Đấy chính là nơi Thái hậu đi xem hát.

Đi dọc theo đường núi quanh co một lát, ta thấy một ngôi đình biển đề ba chữ "Hoạ trung du " chung quanh có rất nhiều câu đối viết chữ hết sức tươi đẹp, để ca tụng phong cảnh như sau:

1.

Cảnh tự viễn trần giai nhập vịnh

Vật hàm diệu lý tổng kham tầm.

2.

Kỷ hử sùng tình ký viễn tích

Vô biên giai huống thiếp hương khâm.

3.

Nhàn vân quy tụ liên phong ám

Phi bộc thuỳ không thân thạch lương.

4.

U lại tĩnh trung quan thuỷ động

Trần tâm tức hậu mịch lương lai.

5.

Xuyên nham độc chung tú

Thiên địa bất ngôn công.

6.

Sơ sắc nhân tâm viễn

Tuyền thanh nhập mục lương.


Bên cạnh ngôi đình này có một cái động đá. Đi xuyên qua động này, ta thấy một cái bia đá lớn đập ngay vào mắt. Trên mặt bia khắc một hàng mười chữ: "Sơn xuyên ánh phát sử nhân ứng tiếp bất hạ". Lại đi lên chút nữa, ta gặp một ngôi đình nữa, biển đề bốn chữ "Hổ sơn chân ý". Đây chính là nơi thừa lương (nghỉ mát) của Thái hậu sau này. Và đây cũng là nơi cao nhất của Vạn Thọ sơn rồi.

Đứng từ nơi đây, hướng về bắc, nhìn xuôi xuống phía dưới núi, ta thấy bên ngoài bức tường lớn vây quanh, độ hơn mười dặm, phố xá chốn kinh thành dọc ngang như bàn cờ, ngựa xe chạy như mắc cửi. Ngay trước mặt ngôi đình, phía trên đề ba chữ "Chỉ thụ lâm".

Từ phía sau lầu cao có hơi thấp hơn một chút, ta phóng tầm mắt về hướng đông bắc, ắt thấy ngoài xa chừng vài dặm, một dãy tường thấp chạy loanh quanh như con rắn bò trên một khu đất bằng.

Khu đất này chính là cái nền cũ của vườn Viên Minh thuở trước. Trên đỉnh núi ta đi về phía đông, tất phải theo một con đường lớn lát toàn bằng đá hoa cương mài nhẵn thín, miếng nào miếng nấy vuông vức.

Con đường này dài có đến vài dặm, tuy khi còn ở trên núi có chỗ chìm xuống lại có chỗ vươn lên cao nhưng tổng quát đều bằng phẳng rất dễ đi. Tận đầu mút con đường là một ngôi đình gọi tên là Hội đình.

Từ Hội đình này, ta đi xuống núi tới gác Cảnh Phúc, nơi đây Từ Hi thái hậu ăn cháo hằng ngày. Rồi lại từ gác Cảnh Phúc đi ra, ta qua Như Y trang, rồi Bình An thất thăng tới Lạc Nông hiên. Ở chính giữa hiên này đặt một cái ngai vàng. Phía sau ngai vàng bày một cái ghế. Mé tả để một cái giao ỷ làm theo kiểu Tây phương, bên trên trùm một cái màn vải vàng.

Lại từ Lạc Nông hiên đi xuôi theo về hướng đông nam, ta gặp Chúc Tân lâu, Hàm Viễn đường. Trước ngôi đường Hàm Viễn này, có một cái ao vuông, ăn thông với con suối, nước chảy róc rách suốt ngày đêm từ trong núi ra. Khu đất này xây cất giống in như khu"Đồng Âm thâm xứ" lúc Từ Hi thái hậu còn là một phi tử trong cung. Những dãy lan can, những chiếc chấn song quanh co vẽ chạm hết sức tinh vi khiến phong cảnh càng thanh u hơn.

Bên cạnh ao, cất một ngôi đường gọi là Hoà Xuân đường, bên bìa chìa ra ao xây một cái cầu gọi là Tri Ngư kiều. Bốn mặt chung quanh cây cầu này, đều có đình đài xây cất tinh xảo tráng lệ.

Đi qua cầu Tri Ngư, ta gặp một toà viên lạc, mặt nam cũng như mặt bắc, đều có bốn, năm căn nhà đối diện nhau. Khu nhà mặt nam chứa một chiếc thuyền rồng.



Khu nhà mặt bắc lại chứa một bộ đồ thư tập thành. Bỏ qua viên lạc này, tới toà Đức Hoà viên. Chính giữa vườn, xây một ngôi điện vũ, tên gọi Di Lạc điện.

Trước mặt điện, xây một cái rạp hát lớn. Rạp cao ba tầng. Từ tầng cao nhất, ta nhìn ra xa, thấy Ngọc Lan đường ở trước mặt. Đây chính là tẩm cung của Quang Tự hoàng đế sau này.

Hai bên giải vũ trước mặt điện đều có những dãy phòng dài mười một gian, mỗi gian dùng ván chắn ngang. Hai dãy phòng này dành cho các bậc vương công đại thần ngồi xem hát. Lại từ đây tiến về hướng nam, ta tới hồ Côn Minh. Bước dọc theo bức tường đông mà đi bộ chừng hai dặm đường ta gặp cửa cung môn, và một cái bia đá dựng ngay bên mé tả.

Cái bia này gọi là Chức Nữ thạch, cao có tới bốn, năm thước, dựng lên từ năm Giáp Thân. Còn mé hữu cửa cung, một con trâu đồng nằm trên mặt đất, dài bốn, năm thước, được đặt tên là Khiên Ngưu.

Đối diện cửa cung môn, một cái cầu tàu xây trên bờ Bạch Thạch hà dùng làm chỗ cặp thuyền du ngoạn trên hồ Côn Minh.

Dọc theo hồ Côn Minh, đi về hướng tây, ta gặp một cây cầu mười bảy nhịp. Đi qua cầu, tiến về hướng bắc, ta thấy một cái miếu, đó là miếu Long Vương. Cột miếu hai bên có treo đôi câu đối như sau:

Thiên ngoại thị ngân hà yên ba uyển chuyên.

Vân tiền khai thuỷ ốc, hướng vũ phi vi


Ba mặt đông tây nam ngoài cổng miếu, đều có dựng bia đá. Đằng sau miếu là Hàm Hư đường. Phía sau ngôi đường này, lại là Côn Minh hồ. Về phía tây, đối diện với hồ là Ngọc Tuyền sơn…

Phong cảnh của vườn Di Hoà đại khái là như thế. Trong vườn có nhà máy điện, đốt đèn điện, có đường sắt, có tàu thuỷ chạy hơi nước.

Cứ mỗi một nơi, đều có đến vài chục viên tổng biện, bang biện uỷ viên, quá nửa đều là người Mãn.

Về sau, khi Hoàng thái hậu đem Quang Tự hoàng đế vả hoàng hậu vào ở trong vườn, thì chỉ duy có tiền hoả thực (tiền bếp) mà đã lên tới một vạn hai ngàn quan tiền mỗi ngày…

Kiến tạo khu vườn Di Hoà mục đích để đợi ngày lễ vạn thọ của Hoàng thái hậu, mời bà vào du ngoạn mong làm vui lòng bà. Bởi thế ban đốc công phải cố làm xong vào năm Quang Tự thứ mười chín, tức là năm trước khi Từ Hi thái hậu vừa đúng sáu mươi tuổi.

Hồi 157: Trung Nhật chiến tranh

 Di Hoà viên làm xong năm thứ mười chín Quang Tự. Qua năm sau tức năm thứ hai mươi, lễ vạn thọ của Từ Hi thái hậu sáu mươi tuổi được tổ chức trọng thể.



Bọn Vinh Lộc và Dịch Tôn cầm đầu đám vương công đại thần vào triều tâu bày với Hoàng thái hậu trù bị đại điển (lễ lớn) để khánh hạ (ăn mừng).

Nhưng không ngờ, tháng sáu năm Giáp ngọ, Quang Tự hoàng đế bỗng khai chiến với Nhật Bản. Nguyên nhân cuộc đại chiến này như sau: Triều Tiên vốn là một thuộc quốc của Trung Quốc từ trước. Sau khi Lý Hi lên làm vua nước này, ông vua cha là Lý Thị Ung vẫn thường can dự vào triều chính. Vì thế có chuyện lủng củng, xích mích giữa tình cha con của họ Lý.

Thấy vậy, Hi bèn phong cho vua cha làm Đại Viện Quân, chủ đích là để cho ông đừng can dự vào triều chính nữa. Nhưng Hi không ngờ là cha mình, từ khi được phong tước như vậy, lại càng lộng hành hơn.

Do đó, triều đình Triều Tiên văn võ bá quan tự nhiên chia thành hai đảng, kình chống nhau, khuynh loát nhau. Vua Triều Tiên tức Lý Hi chẳng còn biết cách nào hơn dâng biểu vào Trung Quốc cáo cấp.

Từ Hi thái hậu thấy tờ sớ của Triều Tiên, lập tức sai Đề đốc Ngô Triệu Hữu, hiệp cùng Đồng tri Viên Thế Khải đem thẳng quân binh vào cung đinh Triều Tiên, lấy danh nghĩa là thế nhà vua dẹp nội loạn.

Chưa hết, Thái hậu còn sai thêm Ngô Đại Trưng, Khánh Dụ, Tục Xương, biện lý mọi việc sau khi đã bình định xong Triều Tiên, mặt khác, hạ dụ cho Lý Hồng Chương điều động thuyền binh, mang theo thuỷ sư đề đốc Đinh Nhữ Xương rầm rộ kéo tới Triều Tiên để tính chuyện bảo hộ.

Quân đội Trung Hoa kéo vào Triều Tiên, bắt trói Đại Viện Quân điệu về Bắc Kinh. Từ Hi thái hậu truyền dụ đem giam vào Bảo đình.

Vua Triều Tiên không ngờ câu chuyện lại nghiêm trọng đến thế, lúc này quả đã hối hận vô cùng. Tình phụ tử dù sao vẫn còn mang nặng trong lòng. Bởi vậy. Hi lại dâng biểu lên triều đình nhà Thanh xin phóng thích cha mình.

Lại một việc không ngờ nữa là khi Đại Viện Quân được thả về nước, ông ta liền sai người ngấm ngầm liên lạc với Nhật Bản, lén ước với Nhật cả một chương trình hành động lớn.

Được cơ hội ngàn năm một thuở, Nhật Bản lập tức sai Y Đằng Bác Văn sang Thiên Tân thương lượng với Lý Hồng Chương về vụ Triều Tiên. Bác Văn bảo Chương là bọn Ngô Triệu Trưng, Viên Thế Khải đến bảo hộ Triều Tiên đã cự tuyệt Nhật Bản, bởi vậy, yêu cầu Trung Quốc cho gọi ngay Trưng và Khải về trừng trị.

Trung Quốc và Nhật, hai bên thương lượng mấy hôm, kết qua là Trung Quốc phải theo ý kiên Nhật, mặt khác còn phải ký thêm một hiệp ước Trung - Nhật, đồng gởi quân sang bảo hộ Triều Tiên.

Chính vì hiệp ước này, nên về sau người ta thường thấy quân đội hai bên xung đột với nhau. Mầm hoạ của cuộc Trung - Nhật đại chiến đã nảy ngay từ đó.

Mọi chuyển biến bên ngoài thì như vậy, bên trong cung đình nhà Thanh còn nhiều điều rối rắm khác. Mà quan trọng nhất là việc bất hoà giữa Từ Hi thái hậu và Quang Tự hoàng đế.

Lúc sửa soạn làm lễ đại hôn của Quang Tự, thì theo ý hoàng đế, ngài định chọn hai cô gái của Giang Tây tuần phủ Đức Hinh kia, trong khi Từ Hi thái hậu lại quyết tuyển đứa cháu gái của mình tức là con gái của người anh Quế Tường làm Hoàng hậu cho nhà vua.

Ý định của thái hậu như thế, bà bèn lén đưa ngọc như ý cho con gái Quế Tường. Quang Tự hoàng đế tức mình lắm, nhất định không chịu, bèn cố ý đánh rớt, khiến ngọc như ý vỡ tan tành như cám vụn.

Nhưng rốt cuộc, con gái Quế Tường vẫn làm hoàng hậu, còn hai người con gái của Đức Hinh chỉ được phong làm Quý phi: một là Cẩn quý phi, một là Trân quý phi.

Việc trớ trêu thêm nữa là tuy có đủ ba người đẹp bên cạnh nhưng Quang Tự lại chỉ yêu tha thiết mỗi một Trân quý phi. Hoàng hậu cùng một phe với hoàng thái hậu, có lẽ cũng vì thế mà Quang Tự không muốn lui tới tình tự, cuối cùng gần như lãnh đạm thờ ơ, không có một chút nào tình nghĩa vợ chồng!

Và cũng vì vậy, Hoàng thái hậu và hoàng hậu đâm ra thù ghét Trân quý phi đến xương tuỷ. Tuy nhiên, Quang Tự hoàng đế đã tới tuổi trưởng thành, hoàng thái hậu không có cách gì giữ mãi quyền chính về mình mà không trao cho nhà vua, chỉ phải cái Quang Tự hoàng đế hình như người không có thời, kiếp vận thiếu hẳn may mắn, việc nước ngày càng hỏng nát, vấn đề đối ngoại ngày càng cấp bách.

Bọn đại thần trong triều đình đều liên lạc với Lý Liên Anh hợp cùng đảng với thái hậu. Duy chỉ còn có sư phó ông Đồng Hoà là còn có lòng trung, đem hết sức phò tá nhà vua mà thôi.

Hồi đó, ảnh hưởng của Nhật Bản càng ngày càng bành trướng ở Triều Tiên. Bọn thần tử Triều Tiên vốn đã chia làm hai đảng: Độc Lập và Sự Đại, sau lại còn thêm một đảng gọi là đảng Đông Học.

Thế lực của Đông Học đảng rất mạnh. Đảng này khơi sự, do hai đường Toàn La và Trung Thanh, đánh thốc tới Hán Thành.

Tả nghị chính là Phác Vinh Hiếu, nguyên là thủ lãnh của đảng Độc Lập, ỷ vào thế giúp đỡ của Nhật Bản, vẫn thường nuôi cái ý ly khai Trung Quốc.

Hiếu chỉ ngại có Trung Quốc thông thương uỷ viên là Viên Thế Khải thời thường ở bên cạnh giám sát mình, cho nên chưa dám động thủ. Nhưng về sau, được tin đảng Đông Học khởi sự, Hiếu bèn hạ lệnh đánh thốc vào vương cung, đốt chết tiêu Mân phi.

Mẫn phi vốn là người đẹp số một của trần gian này. Người anh ruột Mẫn phi tên là Mẫn Vịnh Tuấn vội chạy tới nha môn của Viên Thế Khải khóc lóc tố cáo, và khẩn cầu Trung Quốc phát binh báo thù cho em mình.

Viên Thế Khải đánh một công điện gấp cho Lý Hồng Chương, một mặt thông tri cho Nhật Bản biết chuyện này, đồng thời, huy động cấp kỳ toàn thể thuỷ quân, hướng ngả Nhân Xuyên Triều Tiên tiến phát, còn một mặt khác điều động lục quân kéo tới đồn trú tại chân núi Nha Sơn trong địa phận Triều Tiên.

Tướng Nhật tên là Đại Ô Khuê Giới đem chuyện quân Thanh xông vào Triều Tiên báo cáo với Chính phủ Nhật Bản. Tức thì Chính phủ Nhật lên tiếng cật vấn quốc vương Triều Tiên, nhất là về điểm: như thế Triều Tiên có phải là quốc gia độc lập không?

Quốc vương Triều Tiên sợ oai thế của Nhật Bản, không dám không nhận. Thế là Đại Ô Khuê Giới thông triều cho Trung Quốc trân trọng yêu cầu rút quân ra khỏi Triều Tiên cấp kỳ.

Viên Thế Khải đời nào chịu nước lép, bèn điện cáo gấp về cho Lý Hồng Chương, Chương bèn căn cứ vào hiệp ước Thiên Tân hồi nọ, yêu cầu cả hai nước Nhật cũng như Trung đồng thời lui quân. Nhật Bản không thèm trả lời. Lý Hồng Chương đâm lo ngại bèn lục tục tăng quân, nườm nượp kéo tới Triều Tiên để phòng bị bất trắc. Mặt khác, Chương thấy người Nhật có ý ghét Viên Thế Khải, bèn gọi Khải về Phụng Thiên, để thay thế bằng Vệ Nhữ Quý với một cánh quân hùng hậu hơn, công nghẹt cả Bình Nhưỡng. Để cho sự bố phòng được chu đáo, Chương tăng thêm chi quân của Mã Ngọc Côn đồn trú tại Nghĩa Chân có Diệp Chí Siêu giữ chức tướng tiên phong, trấn đóng tại Nha Sơn.

Bầy binh bố trận xong Chương tưởng thế là ung dung, không ngờ đùng một cái quân Nhật ồ ạt tấn công Nha Sơn khỏi cần tuyên chiến.

Tướng Thanh Diệp Chí Siêu chủ quan chẳng phòng bị gì nhiều, thế là chỉ một trận quân Siêu đã tan tành. Bộ quân đã vỡ, thuỷ quân đồn trú tại Phong đảo cũng co giò chạy. Tin bại trận chạy như một luồng điện về Bắc Kinh.

Quang Tự hoàng đế bị một cú bất ngờ bối rối hoang mang đến cùng độ, chẳng còn có chủ kiến gì nữa. Ngài vội chạy vào yết kiến Thái hậu.

Đã từ lâu rồi Quang Tự hoàng đế sủng ái hai nàng phi là Cẩn phi và Trân phi, cho nên hoàng hậu ghen tức thường chạy tới trước mặt Hoàng thái hậu tố cáo khóc lóc. Do Thái hậu đã sẵn không vui, nay thấy Quang Tự hoàng đế chạy vào hỏi ý về quân tình tại Nha Sơn thì bà cười nhạt một tiếng rồi bĩu môi mai mỉa:

- Ta đâu dám bàn tính đến chuyện đó? Sao hoàng đế không phái người thân tín của hoàng đế ra mà thương lượng điều đình?

Quang Tự hoàng đế bẽ bàng quá, vội trở về thư phòng triệu kiến sư phó ông Đồng Hoà kể qua việc quân tình ngoài biên ải, đồng thời cả lời cười mỉa của Thái hậu cho sư phó nghe.

Sư phó ông Đồng Hoà nghe rõ ràng gốc ngọn câu chuyện biết rằng Hoàng đế vốn tính trung hậu, nên trên thì bị hoàng thái hậu dùng quyền lực áp chế, dưới thì bị bọn thân vương thái giám bao vây lừa dối, càng cảm thấy thương ngài vô hạn.

Hoà bèn tâu:

- Hiện nay thời cuộc bên ngoài thật hết sức khó khăn mà bên trong lại nhiều chuyện. Hoàng thượng cần phải độc đoán mà chấn khởi kỷ cương triều đình lại một phen, mong tạo lập sự nghiệp oanh liệt mới được. Hoàng thượng hãy thu hồi đại chính của quốc gia vào tay, lúc đó mới có thể trấn phục được bọn bày tôi bên dưới. Chuyện này lũ Nhật cậy mạnh dấy binh, xin Hoàng thượng hạ lệnh hưng sư đánh tan lũ chúng.

Đại thắng chuyến này sẽ là dịp Hoàng thượng lập lại được oai quyền của mình trong cũng như ngoài. Và lúc đó cũng còn là lúc khỏi cần phải để tâm lo lắng quá nhiều về Thái hậu.

Quang Tự hoàng đế nghe lời ông Đồng Hoà, muốn khôi phục lại quyền hành của mình, bèn truyền dụ cho Lý Hồng Chương tích cực chuẩn bị chiến tranh. Chương nhận chỉ dụ trong lòng thực hết sức băn khoăn và tất nhiên không vừa ý nhất là tại chuyện bao nhiêu kinh phí của Hải quân, Hoàng thái hậu đã vét sạch để xây cất Di Hoà viên, song lệnh của Hoàng đế, Chương chẳng lẽ dám trái.

Chương bèn điều động hai tướng Nhiếp Quý Lâm và Tả Bảo Quý đem quân tới cứu ứng. Không ngờ quân của Lâm đại bại mà tướng Quý thì bị chết tại trận tiền.

Lục quân đã bất lợi, Lý Hồng Chương tính dùng thuỷ quân tiến đánh. Lúc này hải đội của Nhật Bản đã đánh vào Nhân Xuyên. Chương tức tốc truyền lệnh cho đề đốc Đinh Nhữ Xương điều động hải quân xông lên cứu viện, chiến thuyền của Trung Quốc lúc đó gồm có mười hai chiếc: Đính Viễn, Trấn Viễn, Lai Viễn, Tĩnh Viễn, Trí Viễn, Dương Oai, Liêu Dũng, Bình Viễn, Quang Giáp, Tế Viễn… Ngoài ra còn có tám chiếc thuỷ lôi đĩnh, lực lượng còn đủ để đương đầu với Nhật.

Đề đốc Đinh Nhữ Xương thấy đại quân Nhật tiến chiếm cửa bể Nhân Xuyên bèn nghĩ kế bao vây toàn bộ cửa bể này, nên vội xin chỉ thị của Lý Hồng Chương. Chương không dám tự quyết định, vội xin lệnh nha môn Tổng đốc.

Ban đại thần lúc đó được tin mở cuộc họp suốt nửa ngày để ra ý kiến với bốn chữ lớn:"Tương cơ hành sự" (tuỳ theo cơ hội thuận tiện mà làm việc). Khi bốn chữ về, tới đại bản doanh cũng chính là lúc bộ tham mưu đang sửa soạn bao vây hải cảng.

Hạm đội Nhật Bản chiếm xong cửa Nhân Xuyên xông vào sông Áp Lục. Đinh Nhữ Xương hạ lệnh khai pháo. Lúc này chiến thuyền của Trung Quốc còn cách hạm đội của Nhật Bản những chín dặm. Đại bác nổ ầm ầm. Nhưng bao nhiêu đạn đều rơi xuống bể, chứ không làm vỡ một mảnh ván nhỏ nào của chiến hạm Nhật.

Khoảng cách đôi bên mỗi lúc một ngắn. Giữa lúc Đề đốc Đinh Nhữ Xương đang định ra lệnh truy nã đại bác đợt nhì thì chiến thuyền du kích của Nhật đã mở máy phóng chạy như bay qua mặt sau, vây kín hạm đội Trung Quốc vào trung tâm rồi tức tốc trước sau giáp chiến.

Hạm đội Trung Quốc bị kẹt vào giữa, không còn lối nào thoát ra ngoài, chỉ còn cách tử chiến may ra có cơ tự thoát.

Súng nổ ỳ ùng, khói toả đen khắp cả một vùng bể rộng lớn. Sóng bể nổi lên như núi trắng xoá tiếp liền với nền trời trắng bệch tận phương xa.

Bị lâm vào mê hồn trận, chiến thuyền Trung Quốc chẳng bao lâu đã bị chia năm xẻ bảy, đầu đuôi không cứu nhau được.

Đề đốc Đinh Nhữ Xương ngồi trên soái hạm, phóng tầm mắt chỉ huy ra xa, chỉ thấy chiếc Trí Viễn bắn nhau kịch liệt với chiến thuyền Nhật, rồi bỗng chiến thuyền Nhật mở hết tốc lực xông thẳng vào thuyền Trí Viễn. Một tiếng nổ long trời, sóng nước vọt cao lên như núi rồi ầm ầm đổ xuống.

Thật đáng thương, chiếc Trí Viễn cả người lẫn thuyền chỉ một phút sau đã chìm nghỉm trong lòng đại dương không còn một tăm hơi vết tích nào nữa. Lân Vĩnh Thăng chỉ huy chiếc Kính Viễn chạy ở bên cạnh Trí Viễn, khi nhô lên lúc hụp xuống giữa khoảng sóng cao hơn núi, bọt trắng như tuyết, bắn trúng một thuyền địch vỡ toang khi chính nó cũng trúng một phát đạn ngư lôi tử thương, sườn toác ra, từ từ sủi bọt chìm dần xuống đáy bể.

Những chiến thuyền còn lại chiến đấu trong tuyệt vọng bị hạm đội Nhật xiết chặt vòng vây và lần lượt bị bắt mang đi.

Chiến thuyền duy nhất chạy thoát trong trận này là chiếc soái hạm của Đinh Nhữ Xương.

Thoát nạn, Xương vội cho chạy về bỏ neo ngoài cửa bể Lữ Thuận, bên cạnh đảo Lưu Công, một mặt đánh điện hoả tốc về báo cáo quân tình cho Lý Hồng Chương.

Về phía Nhật Bản, Minh Trị thiên hoàng nhân được tiệp báo liên tiếp bèn đích thân huy động đại, đội người ngựa đồn trú tại Quảng đảo, một mặt hạ lệnh cho Đại tướng lục quân là Sơn Hữu Minh chia quân tiến đánh Lữ Thuận và cửa Uy Hải, suốt một dọc bờ biển mục đích để vây khốn tàn quân Trung Quốc trong hải cảng để bắt sống.

Khi đoàn hải quân lục chiến đổ bộ được lên bờ, binh sĩ Nhật ào ạt xông vào công phá các pháo đài. Chiếm được các pháo đài, đoàn quân Nhật Bản quay họng súng lại nã trái pháo vào hạm đội Trung Quốc.

Thế là chỉ trong vài tiếng đồng hồ, toàn bộ hạm đội Trung Quốc đã tan tành như xác pháo, buồm lái trôi lềnh bềnh trên mặt bể trông thảm hại không thể nào tả xiết.

Trước tình cảnh này một viên chỉ huy pháo binh trên chiến thuyền Trấn Viễn tên gọi Lê Nguyên Hồng không chịu nổi bị thương, hét to lên một tiếng, co chân nhảy ùm xuống biển khơi tự vẫn. Nào ngờ khi Hồng lao mình xuống biển, có người trên chiếc Phi Ưng của Nhật Bản trông thấy. Thế là một chiếc ca nô được hạ thuỷ và xả hết tốc lực đến cứu Hồng. Bọn lính Nhật vớt Hồng lên, không làm khó dễ gì Hồng lại còn đưa Hồng về đảo Lưu Công.

Lê Nguyên Hồng tới đảo Lưu Công thấy Đinh Nhữ Xương ngồi trên soái hạm mãi đằng xa, trên mũi hạm có treo chiếc cờ trắng tự bao giờ! Hồng hỏi dò mới biết Xương đã viết thư cho viên Đại tướng Nhật Bản, yêu cầu bảo toàn tính mạng cho binh sĩ toàn thuyền rồi tự uống thuốc độc chết.

Đại thắng mấy trận liền, quân Nhật tiến vào nội địa Trung Quốc như vũ bão. Lục quân hết ngày này qua ngày khác báo tiệp, nào chiếm Cửu Liên thành, nào Phụng Hoàng thành, nào hãm Cái Châu, nào Đại Liên, nào Tu Nghiêm, nào Hải Thành, nào Lữ Thuận…

Tin thất bại ngoài biên cương, tin thất thủ liên tiếp bao nhiêu thành trì chạy về kinh như bươm bướm. Quang Tự hoàng đế hốt hoảng đến cực độ vội cho mời sư phó ông Đồng Hoà vào cung hỏi kế.

Hoà lúc này cũng vô kế khả thi. Còn đám văn võ bá quan khắp triều thì kẻ nào cũng lo riêng mạng mình, sợ riêng cho gia đình mình, đều một loạt quỳ xuống lậy xin Hoàng đế giảng hoà. Chẳng phải nói ai, ngay cả đến Từ Hi thái hậu cũng oán giận Quang Tự hoàng đế đã nghe lời ông Đông Hoà khai chiến với Nhật Bản một cách dại dột.

Thái hậu nói thêm, vừa nhiếc móc, vừa bó buộc Quang Tự hoàng đế phải theo ý kiến mọi người.

- Hoàng thượng nghe lời ông sư phó khai chiến với Nhật, nay đã thành chuyện bại quân nhục nước, ấy thế mà còn không mau mau giảng hoà với họ, ý còn muốn đọi đến khi giặc đến chân thành cắt đất xin hàng nữa chăng. Ôi! Lúc đó hoàng thượng dù có hối, ta e đã quá muộn rồi!

Quang Tự hoàng đế đã từ lâu thường nghe những lời ỉ oi, nhiếc móc tương tự như câu nói trên, hơn nữa lại thấy mình lực lượng quả đơn chiếc khó thể cưỡng lại mọi người, đành chỉ còn cách sai Lý Hồng Chương làm nghị hoà toàn quyền đại thần mở một cuộc hoà đàm với sứ thần Nhật Bản là Y Đằng Bác Văn. Đây là cuộc nghị hoà lần thứ nhất giữa Nhật và Trung Hoa trong cuộc xung đột còn dài về sau.

Kết quả cuộc hoà đàm ra sao? Trung Quốc bỏ Triều Tiên, cắt Đài Loan cho Nhật, bồi thường chiến phí, chút xíu nữa mất luôn cả Đông Tam tỉnh.

Sở dĩ Đông Tam tỉnh không mất là tại ba nước Nga, Đức, Pháp buộc Nhật phải trả lại cho Trung Hoa.

Từ khi thất bại trong cuộc chiến với Nhật, Quang Tự hoàng đế đâm ra chán nản sự đời. Mọi việc đại sự của triều đình, Ngài chẳng thèm để ý tới nữa, và lại mời hoàng thái hậu buông rèm nghe việc triều chính như cũ. Ngài quay ẩn mình trong thâm cung, suốt ngày mua vui với người đẹp Cẩn phi, Trân phi.

Hồi đó vào giữa lúc giao thời xuân hạ, Quang Tự suốt ngày giấu kín mình trong cung sâu, cũng có lúc cảm thấy buồn. Ngài truyền chỉ ngày mai bày giá qua chơi Tây Uyển.

Vườn Tây Uyển còn có tên là Tây Hải Tử, chu vi tới vài dặm, phía trên vườn, bắc một chiếc cầu đá dài tới năm sáu trăm bước. Cầu toàn bằng đá trắng, lan can, chấn song đều trạm trổ hết sức tinh vi.

Ở hai mặt đông cũng như tây cầu, có xây hai trụ cổng nghi môn đứng cao nghệu, trụ mé đông thì gọi Ngọc đông, còn trụ mé tây thì gọi Kim ngao.

Giữa hồ nước, nổi hẳn lên một bãi đất cao, gọi tên là Quỳnh Hoa đảo, bên trên, xây cất nào lâu đài, nào đình gác nguy nga san sát. Người ta cũng thấy một chiếc nữa cũng bằng đá, tiếp thông với đảo Quỳnh Hoa.

Ở hai mặt nam và bắc cầu này cũng có hai cái trụ nghi môn, bên trên đầu mỗi trụ có khắc một cái biển vuông, một biển đề hai chữ "Tích Thuý" còn một biển đề hai chữ "Đôi Vân".

Giữa hồ, trên đảo Quỳnh Hoa, về mặt nam thì có Doanh Đài ở mặt bắc thì có Ngũ Long đình; còn Tiêu viên và Tử Quang các thì lại đối diện nhau và cách qua một con lạch nước.

Trong hồ, lá súng đội nước lên nhấp nhô, điểm những đoá hoa màu tím xinh khêu gợi. Rồi sen xanh ngào ngạt hương đưa, lộ lên cao ít đoá bạch liên trông trinh trắng như những thiếu nữ còn đương tuổi cấm cung.

Một vài tảng bèo cám xanh xanh, đo đỏ, trôi bập bềnh đó đây, bên cạnh mấy con vịt đang nhởn nhơ bơi lội trên mặt sóng lăn tăn, càng làm tăng phong cảnh hồ thêm phần thơ mộng. Chưa hết, trên ngọn cây, trong chòm lá biếc, đàn chim xanh ríu rít chuyền cành.

Đôi con chim oanh lông màu vàng khươm lên giọng hót líu lo rồi bỗng xoè đôi cánh bay vút lên không trung xa tít. Trong khi đó, đàn cá vàng đang nhởn nhơ đùa nhảy trên mặt hồ nước trong mát, làm cho mặt hồ vốn thường yên tĩnh bỗng xôn xao, ầm ỹ lên chốc lát, để rồi lại nằm im trong mơ mộng.

Nếu đứng xa một chút mà ngắm, thì toàn thể Tây Uyển chẳng khác gì một bức gấm thêu muôn sắc ngàn màu, hội đủ hết những cái đẹp của vũ trụ thiên nhiên vào nơi đây, mục đích hình như hoá công muốn dành riêng cho những giai nhân tuyệt sắc chốn nhân gian.

Người sau đã làm thơ ca tụng Tây Uyển như sau: (Tạm dịch)

Đảo thắm rừng xanh gác điệp trùng.

Khói mây sớm tối mịt mờ trông.

Cột treo buồm gấm bay quanh phượng.

Bệ nước sâu vàng uốn khúc long.

Dưới bóng cây râm hơi gió lặng.

Trước hiên yến tiệc rượu hương nồng.

Thân này ngờ tự trời kia xuống.

Dao đảo là đây mới lạ lùng
?

Quang Tự hoàng đế giá hạnh Tây Uyển đúng vào một buổi sáng đẹp trời. Trên điện, yến tiệc đã bày biện sẵn sàng, nào là trân tu mỹ vị, nào là rượu ngon chén ngọc, tất cả đều đầy đủ cho một khung cảnh phú quý thần tiên.

Nguồn: http://vnthuquan.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved