Hồi 154: Đàn rắn trong cây cổ thụ
Đáng lý ra Tôn là cha
của đương kim hoàng đế thì không được vào quân cơ. Đó là theo quy pháp của tổ
tiên Thanh triều. Nhưng đưa Tôn vào quân cơ, là có dụng ý của Tây thái hậu. Để
làm việc đó, Tây thái hậu hạ một đạo thượng dụ nói nơi quân cơ có nhiều việc
rất khẩn yếu, cần có Thuần thân vương Dịch Tôn mới giải quyết được. Khi nào
hoàng đế trưởng thành, đích thân tham chính, lúc đó sẽ có ý chỉ mới.
Hồi 155: Anh thầy cúng tốt số
Hoàng thái hậu, hoàng hậu vào
phòng thay áo, nghỉ ngơi đôi chút thì bên ngoài trà, quả đã bày lên đầy cả mặt
bàn. Một tiếng trống lớn, có tiếng thanh la, não bạt theo kèm bỗng xé không
gian yên tĩnh, báo hiệu một cuộc vui nhộn lớn lao bắt đầu. Rồi tiếng hát giáo
đầu cất lên, trong khi màn nhung từ từ mở ra rộng toác.
Động
Nguyên đạo sĩ đã dặn trước gánh hát diễn mấy tuồng độc đáo mà nội đình ưa
thích. Mọi người chỉ còn chờ đợi chỉ dụ của Hoàng thái hậu.
Quả nhiên, khi Hoàng thái hậu
ngồi dùng trà, đã chọn ngay tuồng Hỗn
Nguyên hạp, tuồng Cản Tam
quan, Hoàng thượng chọn tuồng Hồi Long các, trong khi đó,
hoàng hậu biết tính Hoàng thái hậu, thích loại tuồng tiểu đơn, liền chọn ngay
tuồng Hồng Loan hy.
Hôm đó, Hoàng thái hậu thực là
vui sướng hết chỗ nói.
Thân quyến của các quan viên
đại thần ngồi hầu xung quanh xem hát. Trên sân khấu, tiếng sênh phách, tiếng ca
nhạc tưng bừng nhộn nhịp. Phía dưới, màn quây trướng phủ, bọn văn võ quan viên
đồng loạt cáo lui, chi còn lại mỗi một mình anh chàng đạo sĩ Động Nguyên, lượn
như bươm bướm giữa cái đám quần thoa đó để vâng dạ, để đón đưa, cung phụng.
Ngày vui kéo dài mãi tới lúc
mặt trời đã gác hẳn non Đoài, Hoàng thái hậu mới sửa soạn xa giá về cung. Đám
nữ quyến của bọn vương công đại thần xem đang dở mắt, bỗng được lệnh sửa soạn
ra về, bà nào bà nấy đành phải líu ríu lên xe, theo chân thái hậu vào thành.
Chỉ vỏn vẹn còn lại có bọn vương gia đại thần ngồi trơ thổ địa ra đấy với nhau.
Động Nguyên đạo sĩ thấy vậy mời
cả bọn vào ngồi trong chính sảnh. Bọn đại thần lúc này ai cũng muốn bầu bạn với
Nguyên, thôi thì nào xưng hô bằng tiểu đệ, đại ca, nào tâng bốc nhau lên như
diều giấy chiều thu. Tiệc rượu còn đầy đủ trên bàn. Cả bọn chia nhau an toạ,
vừa nốc rượu vừa xem hát, vừa trò chuyện hết sức tương đắc.
Rất nhiều tên kép hát nổi danh
nơi kinh thành hoa lệ này đều quen biết bọn vương gia đại thần. Bởi thế, khi
xong vai trò của mình trên sân khấu, anh nào cũng chạy xuống phía dưới, ngồi
lui về phía sau bọn đại thần vương gia cùng xem.
Bọn đại thần quay lại thấy bọn
kép hát, thôi thì tay bắt mặt mừng, coi như bạn thân lâu năm mới gặp, nào hò
rượu, nào quát đem đồ nhắm, tới tấp cả lên.
Vài hôm sau, Động Nguyên đạo sĩ
vào cung tạ ơn. Tây thái hậu giữ Nguyên lại ngủ trong cung một lèo đến mấy ngày
để trò chuyện. Nguyên giảng giải cho Thái hậu nghe thế nào là công phu Đại toạ
luyện khí, lại dạy cho cả bà cách luyện tập công phu Bát đoạn cẩmnhư thế nào.
Theo Nguyên, hằng ngày cứ trước
khi ngủ dậy, nếu tập luyện được công phu Bát
đoạn cẩm, ắt sẽ được trường thọ lâu năm. Tây thái hậu tin lời Động Nguyên
đạo sĩ, liền bắt đầu học tập từ ngày đó. Bà tập thành thạo, rồi từ đó bất luận
ở nơi đâu bà cũng đều ôn luyện qua một lần Bát
đoạn cẩm xong mới chịu khởi
thân. Bà luyện tập công phu này mãi đến già không gián đoạn. Ấy chính nhờ sự
luyện tập hằng ngày mà thân hình bà ngày càng đẫy đà đẹp tốt, đến già cũng
không già ốm, đó là việc về sau.
Động Nguyên đạo sĩ lúc này quả
được lòng Tây thái hậu.
Trước mặt thái hậu, Nguyên nói
là được bà nghe, hiến kế ắt được bà theo. Nguyên thường được thái hậu tuyên
triệu vào cung, cho ngồi tâu đáp mọi chuyện về đạo thuật. Nhiều hôm, nói chuyện
với Nguyên từ sáng đến tối mà thái hậu không thấy mỏi, thấy chán.
Có nhiều quan đại thần thấy
Nguyên đắc thế, đắc thời, vội tìm cách cầu thân, mời Nguyên vào phủ, đặt tiệc
khoản đãi ăn uống đến lúc say khướt, liền cho gọi nào là phúc tấn phu nhân, nào
là cách cách tiểu thơ ra trước cuộc rượu lạy Nguyên, tôn làm sư phụ.
Thế là từ hôm đó, cái phong khí
mới lạ kẻ tôn làm sư phụ, người nhận lấy đệ tử ấy tự nhiên mở ra một kỷ nguyên
mới. Thiếu gì những quyến thuộc quan gia trong kinh thành đều kéo nhau tới xin
nhập môn hạ làm nữ đệ tử. Mà một khi được nhận, đều coi như một điều vô cùng
vinh diệu!
Điểm đặc biệt là cứ mỗi một nữ
đệ tử xin nhập môn phải có một số tiền gọi là tiền bái kiến sư phụ, nhiều thì
phải kể vạn, mà ít thì cũng phải vài ngàn lạng. Ngoài chuyện tiền ra, còn phải
đưa tới nộp thêm các loại đồ thêu, có người thêu cả một cái áo đạo bào, có
người chắp lông hạc thành cả một cái áo thụng, lại cũng có người thêu cả một
cây cờ phạn treo phất phới trước Phật đài. Cũng có những anh quan nhỏ, cấp bậc
chức vụ chẳng cao bằng ai, hoặc tiền bái kiến sư phụ quá ít ỏi, đành phải cho
vợ hay con gái tới để bái kiến Nguyên, hắn bèn chẳng thèm để ý tới.
Thú vị nhất là mấy anh vương
gia cũng thiếp đi thư lại, mong sao cầu thân được với Nguyên, ấy thế hắn đã
chịu cho đâu, cứ một mặt phớt lờ.
Người duy nhất được Động Nguyên
đạo sĩ gọi đệ đệ huynh huynh, đó là Lý Liên Anh. Thực tế, chỉ có Anh mới là kẻ
chí tình được với hắn. Cả hai tên tâng bốc lẫn nhau trước thái hậu, nói tốt cho
nhau không thiếu một chuyện gì!
Lại một năm, đúng ngày rằm
tháng giêng. Tây thái hậu đích thân lại tới Bạch Vân quán hành hương. Và rồi từ
đó, hằng năm như một cái lệ, các quan viên văn võ trong kinh thành cứ đúng ngày
rằm tháng giêng phải tới Bạch Vân quán hành hương.
Một hôm trước ngày rằm, Động
Nguyên đạo sĩ sửa soạn tiệc vui, mời các vương gia đại thần tiệc tùng vui nhộn
suốt ngày trong miếu.
Rồi từ ngày rằm ấy, cửa miếu mở
toang, mặc sức cho khách thập phương chen nhau vào lễ Phật. Ngày hội bắt đầu từ
đó, kéo dài mãi tới hai mươi lăm mới hết, vừa đúng mười ngày.
Thôi thì trai thanh gái lịch,
ngựa xe kéo nhau tới như nước, phố xá chốn kinh thành đông nghẹt. Người ta đặt
tên cái ngày hội đó là ngày "hội Thần tiên".
Hội Thần tiên, đâu có phải chỉ
riêng bọn bách tính bình dân, mà cả những bà phúc tấn của các vị vương gia, các
bà mệnh phụ của các đại thần, công khanh, các tiểu thư khuê các, các cách cách
quý tộc, ăn mặc vô cùng lịch sự, trang điểm vô cùng mỹ miều.
Các bà phúc tấn, các bà mệnh
phụ, các tiểu thư, cách cách này đi trẩy hội khác hẳn bọn dân giã quê mùa. Các
bà, các cô đã tới miếu, thì tối hôm đó quyết chưa về phủ, còn phải ở lại một
tối: Có như thế mới gọi là đi trẩy hội Thần tiên. Ngủ lại thêm một đêm như vậy
gọi là Trúc Sơn.
Cái đám đàn bà này gần hết đều
là nữ đệ tử của Động Nguyên đạo sĩ. Còn đám tiểu thư, cách cách trẻ măng như
mấy con bê con, ngây thơ như mấy con thỏ mới sinh, lại còn ghi tên vào danh
sách để xin làm can nữ nữa chứ! (Can nữ là một loại con nuôi không chính thức,
hoặc để nhờ quyền thế, hoặc để nhờ dìu dắt, y như cái lối con tinh thần, cha
tinh thần). Hễ thấy Động Nguyên đạo sĩ là đều gọi một can gia, hai can gia, tỏ
tình thân thiết còn hơn cả gọi sư phụ.
Động Nguyên đạo sĩ mỗi khi thấy
đám can nữ của mình tới mè nheo bên nách, y cũng quấn quýt lấy chẳng kém.
Nguyên chuẩn bị vô cùng đầy đủ, nào là phòng ốc, nào là chăn gối, nào là mền
trướng, tất cả đều hết sức lộng lẫy đẹp tốt, để cho cái đám con nuôi ấy ngủ qua
đêm. Nhưng phòng lịch sự như vậy, có ít ra cũng đến mấy chục căn.
Trong đám phụ nữ, loại xồn xồn
nhưng còn bảnh, hoặc đám cách cách, tiểu thư mới toanh, còn nguyên xi, có nhiều
thị được Nguyên lưu lại đến ba, bốn đêm mới cho về. Nhiều ông quan tưởng rằng
đây là dịp có thể thăng quan tiến chức được, liền nhờ vợ nhờ con gái thay mình
nói khéo với Nguyên Can gia, xin nói tất cho vài lời trước mặt thái hậu. Nhiều
anh quan, muốn cho chắc ăn hơn, còn lo liệu một số tiền lớn, vài chục vạn lạng
bạc là ít, dâng cho Nguyên. Thực thế, miễn sao Động Nguyên sư phụ gật cho một
cái, nhận số tiền, đấm vào mõm trên, đấm xuống mõm dưới, thì mươi hôm sau là đã
thấy quan nhà ta nhảy trên hoạn lộ như cóc, từ cấp này lên bậc kia như bỡn.
Nhưng thú vị nhất phải nới cái
đám quan được thăng đó đã chẳng biết câm cái mồm đi cho nó đẹp mặt, trái lại,
còn ra ngoài vung vít khoe khoang cái tài cái khéo của vợ mình hoặc của con gái
mình cho thiên hạ biết, tưởng thế là vinh dự, hãnh diện lắm! Số phận hẩm hiu
nhất là của mấy anh quan già, có bà thái thái móm, hoặc có cô tiểu thư vổ răng,
môi sứt, rốn lồi.
Người ta nhớ mải năm nọ có ông
quan người Hàng Châu tên là Ngô thị lang còn để lại một câu chuyện thực là hi
hữu.
Số là Ngô thị lang, tuy là một
vị quan trong kinh đô đã lâu năm nhưng nghèo mạt, nghèo đến không có gạo ăn
hằng ngày nữa! Ngô thị lang cũng muốn chạy vạy chỗ này chỗ kia, may ra cuộc đời
có khá hơn đôi chút, nhưng khổ cái là lại chẳng có xu nhỏ nào trong túi. Ấy thế
mà Úc thị, vợ cưng của ông, lại là một trang mỹ nhân tuyệt thế, biết tiêu tiền,
khắp quan gia quyến thuộc trong thành ái mà chẳng rõ như vậy.
Năm đó, đúng vào ngày mồng bẩy
tháng giêng, Úc thị vào phủ Bát vương gia để mừng tuổi năm mới, vừa gặp lúc bà
phúc tấn của vương gia đang trang điểm son phấn để trẩy hội Thần tiên ở Bạch
Vân quán. Thấy vậy, Úc thị cao hứng cũng theo bà phúc tấn ra đi.
Động Nguyên đạo sĩ vừa trông
thấy Úc thị đã vội hỏi bà phúc tấn xem đó là vị thái thái của nhà nào? Bà phúc
tấn liền giới thiệu cho Nguyên biết đó là phu nhân Ngô thị lang.
Đã từ lâu Nguyên nghe tiếng Úc
thị sắc nước hương trời và đã có lòng ngưỡng mộ, nay bỗng được gặp, đời nào
chịu để cá về sông! Thế là ngay sau đó, Nguyên ngỏ ý muốn thu Úc thị làm can
nữ. Trái lại, Úc thị vội thối thác, chỉ vì không đem theo số tiền bái kiến sư
phụ.
Xin nhớ cho rằng muốn làm một
can nữ hoặc một nữ đệ tử của Động Nguyên đạo sĩ đâu phải chuyện dễ. Nhiều ít gì
thì cũng phải có một cái lễ bái kiến.
Lễ bái kiến nhiều thì trên vạn
ít thì cũng vài ngàn lạng, chứ đâu có cái chuyện cười suông mà được! Đó là chưa
kể còn phải có thân bằng quyến thuộc năm, ba lần khẩn cầu đến mới mong có cơ
được ghi vào danh sách đó của Nguyên. Ấy thế mà nay đối với Úc thị thì chính
Động Nguyên đạo sĩ lại phải hạ mình xuống khẩn cầu để thu làm can nữ, thử hỏi
còn gì vinh hạnh hơn cho Úc thị nữa chứ?
Bà phúc tấn ngồi bên cạnh càng
lấy làm hãnh diện lây, vội bảo thị nhận lời Động Nguyên đạo sĩ. Bà còn nói thêm
là thế nào sư phụ cũng sẽ có "hảo xứ" đôi lại về sau, khi nghe Úc thị
nói không có tiền bái kiến, thì bà vội bảo:
- Có đây! Có đây!
Rối thò ngay tay vào túi lấy ra
một tấm ngân phiếu năm ngàn lạng đưa cho Úc thị.
Úc thị nhận tấm ngân phiếu trao
lại cho Động Nguyên đạo sĩ. Nhưng không ai ngờ được Động Nguyên đạo sĩ, con
người đớp tiền lừng danh lâu nay, bỗng lắc đầu, xua tay lia lịa, bảo:
- Khỏi! Khỏi mà! Bần đạo nhận
thấy gương mặt Ngô thái thái có tiên căn, chúng ta đều là người có tiền duyên
cả mà! Tiền bái kiến còn cần gì!
Thế là ngay từ đêm đó, Ngô thái
thái ở lại trong miếu, không phải một đêm mà luôn bốn năm đêm liền, và tất
nhiên bà đã gặp tiên ông rất nhiều lần trong đại hội Thần tiên đó.
Lúc từ giã Bạch Vân quán, cùng
về với phúc tấn Bát vương gia, Úc thị còn được Động Nguyên đạo sĩ bắt nhận thêm
một ngân phiếu một vạn lạng bạc, gọi là chút lễ mọn "kiến diện" không
phải của can nữ mà lại là của Can gia.
Đến hết ngày hai mươi lãm tháng
giêng, miếu tan hội! Động Nguyện đạo sĩ nhận lời ký thác của Úc thị, bèn đem
vào cung tâu với thái hậu, nói Ngô thị Lang lâm cảnh nghèo khổ, xin Lão Phật
gia thưởng cho y một chức vụ.
Lời tâu xin này thật là đúng
lúc! Bởi vì Tây thái hậu đang tính hạ dụ chọn một học sai (quan coi về học
chánh).
Trong số các tỉnh tại Trung
Quốc, chức vu học sai ở Quảng Đông có thể nói là béo bở nhất.
Chẳng mấy hôm, theo lời Động
Nguyên đạo sĩ, quả nhiên Ngô thị lang đi làm học sai tỉnh Quảng Đông thật. Ngô
nhận thượng dụ, vội vàng dẫn thân tới Bạch Vân quán tạ ơn.
Về tới nhà, Ngô thị lang lại
còn bò rạp xuống đất dập đầu tạ ơn chính vợ ông là Úc thị nữa, mới thú vị chứ!
Chuẩn bị khăn gói, hòm xiểng, Ngô quả thực như người chết đi sống lại, lòng thì
cao hứng, mặt thì vênh vang với xóm giềng bè bạn không biết để đâu cho hết!
Một hôm, Từ Hy thái hậu ngồi
nói chuyện gẫu với Động Nguyên đạo sĩ. Bà bảo Nguyên trong Bạch Vân quán, hoa
viên xây cất đẹp thì đẹp thật, nhưng còn thiếu ít bức thư hoạ cần phải thêm
vào.
Động Nguyên đạo sĩ vội quỳ
xuống đất dập đầu tâu xin Lão Phật gia của y cho ít chữ về trang trí. Vì y biết
Từ Hi thái hậu cũng rất khá về chữ nghĩa.
Đang lúc cao hứng, và cũng muốn
đây là một dịp chưng tài với Nguyên, với thiên hạ. Từ Hi thái hậu liền gọi Lý
Liên Anh mài mực và đem cái bút bự viết đại tự cho bà. Cầm ngay ngắn cây bút
lông to tướng, Từ Hi thái hậu chỉ ngoáy có mấy nét trong nháy mắt mà mọi người
đã thấy một chữ "PHÚC" lớn rất đẹp.
Viết xong chữ PHÚC, lại được
Nguyên tâng bốc thêm mấy câu, Từ Hi thái hậu đã cao hứng lại cao hứng thêm, cho
lệnh cung nữ đi lấy thêm bức hoạ "Đường
hoa hỷ hoạ bình" mà bà đã vẽ từ trước với những nét vô cùng đắc ý, sau
đó, đưa hết cả hai bức hoạ cho Động Nguyên đạo sĩ.
Nguyên lại vội vàng quỳ mọp
xuống góc nhà dập đầu tạ ơn, rồi hí hửng mừng rỡ như được vàng, khệnh khạng vác
hai bức hoạ bước ra khỏi cung.
Về tới Bạch Vân quán, Động
Nguyên đạo sĩ gọi ngay anh thợ mộc tới, bắt làm ngay mấy cái khung chạm trổ
tinh vi, lồng bức hoạ vào, trông hết sức lộng lẫy, quý phái. Xong đâu đấy
Nguyên chọn ngày tết, sửa soạn một bữa tiệc thịnh soạn, cho gọi một gánh tuồng
về để uống rượu xem hát.
Động Nguyên đạo sĩ cho treo bức
tự hoạ và bức "Đường hoa
hỷ hoạ bình" lên trên cao, rồi mời đủ mặt vương công, đại thần tới hoa
viên thưởng ngoạn. Rượu được mấy tuần, một vị vương gia đứng dậy nói:
- Hằng năm, Lão Phật gia cho
bọn đại thần rất nhiều bức hoạ. Lão Phật gia tuy thạo viết chữ, vẽ tranh, nhưng
chỉ một mình thì làm sao viết xuể. Cho nên ngoài những chữ Phúc, Thọ, mấy chữ
đại tự đó ra, còn bao nhiêu những khải tự, những bức hoạ Hoa Điểu, đều là do Giao thái
thái vẽ thế viết thay cả đấy chứ Động Nguyên đạo sĩ nghe xong vội hỏi:
- Giao thái thái là bà nào vậy?
Vị Vương gia lại nói tiếp:
- Có lẽ sư phụ chưa rõ chuyện
này.
Rồi ông ta kể:
- Theo luật lệ trong cung thì
bọn thần từ trong và ngoài, trừ những nhân viên cung phụng trong nội đình, và
nam thương bái thư phòng, cũng như nhân viên Nội phủ ra, phải làm quan từ nhị
phẩm trở lên, mới được thái hậu thưởng cho chữ "PHÚC".
Bất luận quan to quan nhỏ nào,
nếu tuổi chưa tới năm mươi thì không được thưởng chữ "Thọ". Nhưng từ
lúc có Lão Phật gia ở trong cung, đặc biệt khai ân, bọn thần tử thường được
thưởng thư hoạ. Nhất là khi Lão Phật gia cao hứng lên, thì bất luận là ai cũng
đều được Lão Phật gia ban thưởng cho những bức hoạ, chữ PHÚC, chữ Thọ, do chính
tay Lão Phật gia viết và vẽ, cũng có khi còn được thưởng cả bức hoạ "Hoa Điểu" bức tranh Tiểu Khải Tự nữa.
Lão Phật gia khi còn là Phi tử
ở tại Đồng Âm thâm xứ, có học được kiểu tự hoạ rất tài tình, nên ngày nay mới
thưởng cho nhiều người như thế. Song một người thì làm sao cho xuể bấy nhiêu
việc được? Do đó, Lão Phật gia mới hạ mật chỉ xuống cho các vị tổng đốc, tuần
phủ ở các tỉnh, tìm cho bằng được những mệnh phụ viết đẹp vẽ giỏi, đưa vào cung
để thế Lão Phật gia viết chỉ và vẽ tranh.
Sau mật chỉ đó ít lâu, viền
tổng đốc Tứ Xuyên chọn được Giao thái thái, liền lén đưa vào cung, bà Giao thái
thái này tên là Tố Quân, nguyên người Vân Nam, theo chồng làm quan ở Tứ Xuyên.
Chẳng may, chổng chết, gia cảnh hết sức nghèo túng, khó khăn. Người con trai
tuy đã đỗ cử nhân nhưng cũng chưa được bổ đi làm quan. May được cái là Giao
thái thái vẽ tranh Hoa Điểu tuyệt đẹp, lại giỏi cả văn, hay cả viết chữ Tiểu
Khải Tự, cho nên nhờ đó bán tranh bán chữ trong giới quan trường vùng Tứ Xuyên
được đủ tiền độ nhật.
Thế rồi khi nhận được mật chỉ
của Lão Phật giao, tổng đốc Tứ Xuyên đưa Giao thái thái gấp về cung. Lão Phật
gia vừa gặp mặt Giao thái thái, tỏ ra vẻ hết sức mừng rỡ, liền cấp cho hằng
tháng hai trăm quan nguyệt bổng. Giao thái thái ở trong cung, suốt ngày chi có
mỗi một việc là thế Lão Phật gia viết chữ và vẽ tranh mà thôi.
Giao thái thái người mập ú, mặt
bự, mắt lớn. Bởi thế, Từ Hy thái hậu thường hay lấy thân hình bà mà đùa giỡn.
Phải cái Giao thái thái thư hoạ tuyệt vời nên Từ Hy thái hậu lúc nào cũng tỏ vẻ
quý trọng.
Theo lệ trong cung thì bất cứ
cung nữ hoặc nữ quan, hễ thấy thái hậu đều phải quỳ lạy, duy chỉ mỗi một mình
Giao thái thái là được miễn lễ ấy. Trong cung nội, từ người trên đến kẻ dưới,
ai cũng đều gọi bà ta là Giao thái thái. Bà được cái tính hiền hoà, ai cũng
thích.
Có một hôm nhân lễ vạn thọ của
thái hậu, bọn phi tần muốn làm vui lòng bà, đã dự tính làm một cái mão Phượng
quan rất lớn. Đến hôm vạn thọ, bọn phi tần đều ăn vận phẩm phục, cũng bảo cả
Giao thái thái ăn vận như vậy nữa. Bọn cung nữ đem bộ phẩm phục lại cho Giao
thái thái. Thế là trong mây phút sau, Giao thái thái đã thay hình đổi dạng. Bà
ta cũng có quần hồng, có mão Phượng quan, có hài có cốt, đầy đủ bộ lệ: Người
thì lùn lại mập ú, mà quần áo lại vừa rộng vừa dài, bà ta trông lúc này buồn
cười quá, người xù ra như cái bồ nứt cạp, đứng lù lù trên mặt đất trông như một
cây rơm.
Bọn cung nữ thấy vậy muốn cười
mà không dám, hè nhau lại dắt bà ta đi mừng lễ vạn thọ của thái hậu. Lúc này,
Thái hậu đang ngồi chính giữa điện để nhận lễ.
Một số đông phúc tấn, cách cách
người Mãn, ăn vận đại lễ đã đứng hai bên cạnh thái hậu, bỗng thấy Giao thái
thái ăn vận tròn xoe y như một quả bóng ngũ sắc nhúng nhinh từ ngoài vào, xuýt
cười ầm lên mà không dám ra tiếng. Họ chỉ cười thầm trong bụng là bởi vì lúc đó
Quang Tự hoàng đế cũng có mặt trên điện.
Về sau, khi hoàng đế ra khỏi
phòng rồi, Giao thái thái nằm bò trên mặt đất hành lễ, trông chẳng khác chi một
con ba ba rụt cổ nằm ỳ ra đó, thì cái người đầu tiên không nhịn được cười là
chính Tây thái hậu. Bà cười chảy cả nước mắt nước mũi, xuýt nữa té xuống ngai
vàng. Thấy vậy, bọn phi tần, và phụ nữ quý tộc người Mãn ùa theo, cười lên như
nắc nẻ.
Khắp cả cái điện rộng lớn thênh
thang lúc đó chỉ nghe có tiếng cười, tiếng thì hí hi, tiếng thì hô hố, tiếng
thì hềnh hệch, tiếng thì khăng khắc, tiếng thì khanh khách… tạo thành một tiếng
ồn chưa từng thấy ở trong cung cấm.
Tây thái hậu cười một lúc rồi
lên tiếng hỏi ai đã ăn vận cho Giao thái thái như vậy. Nhưng hỏi được câu hỏi
trên vừa xong thì bà lại phá lên cười nữa. Cuối cùng, Tây thái hậu ngừng lại,
lên tiếng bảo:
Hôm nay là ngày vui của mọi
người. Giao thái thái hãy vui cùng với bọn ta một hôm nhé!
Giao thái thái nghe thái hậu
truyền bảo, vội dập đầu tạ ơn.
Thế là hôm đó, Giao thái thái
được theo chân thái hậu du ngoạn Tam Hải. Tam Hải là một thắng cảnh rất rộng
lớn.
Bọn phi tần và quý phụ người
Mãn, có cặp chân to, có đôi giò bự, theo thái hậu chạy đi chạy lại xem nhởn nhơ
chẳng mệt mỏi gì, nhưng đối với Giao thái thái thì quả là một hình phạt vô cùng
thê thảm.
Giao thái thái vốn đàn bà Hán
lại có cặp chân bự, đầu đội mão Phượng quan vừa to vừa nặng, đi một bước là lặp
một bước, xiêu bên này vẹo bên kia, trông thương tâm hết sức!
Khổ cái nữa là hôm đó, thái hậu
lại cao hứng đi du ngoạn quá lâu, mãi tới khi mặt trời gần gác non Tây mới xa
giá về cung. Thái hậu thưởng cho Giao thái thái hôm đó rất nhiều đồ trân bảo
quý giá. Giao thái thái tạ ơn, rồi ra khỏi cung, quay về nhà.
Nhưng khi đặt chân vào nhà, đôi
chân là như đã sưng từ bao giờ! Bà nằm liệt giường, mặt nhăn nhó, như chỉ muốn
cầm đôi cẳng mà liệng vội đi cho đỡ nhức!
Hồi 156: Công trình
kiến trúc Di Hòa Viên
Sau khi đi du ngoạn Tam Hải về
cung, Từ Hi thái hậu phàn nàn với Lý Liên Anh là nơi này đã từ lâu không sửa
chữa gì cả, để đến nỗi nhiều chỗ lở lói suy sụp cả. Bà còn nói thêm là trước đó
vài năm, bà đã cho gọi Nội Vụ phủ bảo sửa chữa lại nhưng Cung thân vương tâu
không có tiền sửa chữa, Đông thái hậu lại bảo khỏi sửa, thế là chuyện dẹp. Hiện
nay, tình trạng nơi đây đã quá tệ, nếu không lo sửa sang lại, thì còn gì là hoa
viên nữa!
Lý
Liên Anh nghe Từ Hi thái hậu phàn nàn như vậy, vội chạy tới quân cơ xứ báo cáo
cho bọn đại thần nơi đây hay.
Bọn đại thần quân cơ, anh nào
chả mong được lòng thái hậu. Bởi thế họ đi gọi nhau lại, họp hành luôn mấy ngày
đêm để bàn tính việc tu bổ. Họ cho gọi cả viên đại thần Nội vụ đến, rồi biểu
quyết ngay một số tiền lớn khởi công động thồ tức khắc Khu Tam Hải đã lớn, họ
còn mở rộng thêm vây luôn cả một con đường lớn chạy dọc suốt từ khu thành tây
cũ đến mãi tận cửa sau, để xây cất thêm hai toà Bạch Thạch Kiều rất là cao lớn
gọi Kim Ngao, Ngọc Đống.
Tam Hải sửa chữa lại xong, bọn
đại thần liền tới thỉnh thái hậu đi du ngoạn. Tây thái hậu bày giá tới Tam Hải,
quả nơi đây lúc này khác hẳn khi xưa, cả một khu hoa viên đổ nát hoang tàn bỗng
trở nên rộng lớn lộng lẫy, nào đền đài tráng lệ, nào hồ ao trong mát, không
thiếu một cảnh đẹp nào! Tây thái hậu đi tới đâu khen tới đấy, thực là không
ngớt lời khen. Rất nhiều thân vương phúc tấn, đi hầu cạnh thái hậu du ngoạn hết
nơi này đến chỗ nọ, nhởn nhơ y như tiên nga trên thượng giới.
Giữa lúc đoàn du ngoạn đi hết
chỗ này sang chỗ khác, vô cùng cao hứng sướng khoái, bỗng Tây thái hậu nhớ tới
vườn Viên Minh thuở nọ. Bà cảm khái thốt ra lời nói:
- Tam Hải ngày nay đẹp nhưng
sánh với vườn Viên Minh lúc trước thực chỉ bằng một phần muôn! Đáng tiếc là
Tiên đế đã mất, mà vườn Viên Minh cũng đã huỷ! Cái ngày náo nhiệt phồn hoa xưa
kia bên cạnh Tiên đế, ta còn làm sao mà thấy lại được nữa!
Nói đoạn, Từ Hi thái hậu bỗng
lộ vẻ mặt thê thảm, đôi dòng lệ từ từ lăn trên đôi gò má. Bọn phi tần thấy vậy,
vội kiếm lời an ủi bà và hộ vệ bà trở về cung an nghỉ.
Lý Liên Anh thấy Thái hậu nhớ
tới vườn Viên Minh, trong lòng bỗng phát sinh một ý định. Bởi thế qua ngày hôm
sau, Anh vội vã chạy tới chốn quân cơ, bàn tính với bọn đại thần phác hoạ một
chương trình trùng tu vườn Viên Minh để làm vui lòng Thái hậu.
Trong số đại thần quân, có một
vị lên tiếng:
- Muốn trùng tu vườn Viên Minh,
nếu không có năm ngàn vạn lạng bạc thì đừng hòng. Nay Hoàng đế không còn tại
thế, trong vườn chỗ nào chỗ nấy đều có lưu lại những cảnh thương tâm thuở nọ.
Nếu Lão Phật gia qua đấy du ngoạn, tôi quyết Lão Phật gia không thể nào vui vẻ
được. Chi bằng bọn ta lấy số tiền trùng tu vườn Viên Minh làm một cái vườn khác
cũng rộng lớn như vườn Viên Mình. Khi Lão Phật gia xem thấy mới đẹp mà lại còn
tránh được chuyện thương tâm do kỷ niệm cũ gây ra.
Nghe lời bàn tính này bọn đại
thần đồng thanh khen hay.
Đôn Thân Vương Dịch Tôn nói:
- Lễ vạn thọ lục tuần của Lão
Phật gia sắp tới rồi! Vậy toà hoa viên này phải xong trước cái ngày lễ trọng
đại đó mới được! Đúng cái ngày lễ hôm đó, bọn ta sẽ thỉnh Lão Phật gia vào vườn
du ngoạn một hôm để cho Lão Phật gia nức lòng hởi dạ…
Nói tới đây, Vương bấm đốt ngón
tay, nói tiếp:
- Hiện nay là Quang Tự thứ mười
lăm. Năm thượng thọ lục tuần của Lão Phật gia là năm Quang Tự thứ hai mươi.
Trong quãng năm năm đó, công cuộc kiến thiết hoa viên đó chắc hoàn thành được.
Bọn đại thần nghe tới đây, đều
đồng thanh công nhận.
Chưa hết, Vương gia còn nói
thêm:
- Có điều toà hoa viên rộng lớn
như vậy, xây cất ít nhất cũng phải hơn một ngàn vạn lạng bạc, thử hỏi đào đâu
ra giữa lúc này? Chẳng lẽ bọn mình bắt Lão Phật gia mở hầu bao cho bọn mình xây
cất. Khó! Khó lắm!
Trong khi Dịch Tôn nói tới đây,
khựng lại, thở dài, thì bọn đại thần quân cơ anh nào anh nấy dập gãy cái đầu
xuống để suy nghĩ xem tiền đó đào tại nơi nào!
Thái giám Lý Liên Anh lúc này
cũng có mặt nơi đây. Giữa lúc bầu không khí nặng như đá đeo, Anh bỗng vỗ tay
đôm đốp mắt sáng lên, hấp tấp nói lẹ:
- Có rồi! Có rồi!
Bọn đại thần bỗng như có điện
giật, cồ đều ngóc lên, nhao nhao hỏi vội.
Tỏ vẻ đắc chí, Anh thong thả
nói y như một ông thầy đồ giảng bài:
- Chẳng phải bọn ta mỗi năm
phải trích ra hai trăm vạn lạng trong kinh phí của Hải quân đó sao? Nếu ta dành
số tiền đó lại trong năm năm, thì đã thấy có ngàn vạn lạng rồi còn gì?
Thử nghĩ xem nước Trung Quốc ta
toàn là đất liền; dùng Hải quân mà làm quỷ gì! Còn bọn ngoại quốc chúng đều là
thần tử của Đại Thanh triều ta cả, hơn nữa chúng lại là những tiểu quốc, thì bố
bảo chúng cũng chẳng dám sờ đến lông chân của thiên triều ta! Do đó, Hải quân thực
chẳng biết dùng vào việc gì. Bởi thế lấy kinh phí của đám quân này ai dám nói
ra nói vào một nửa lời chứ? Ví thử số tiền xoay sở được đó quá ít, không đủ chi
tôi đã có cách. Xin thưa ngay cách đây: ta mượn danh nghĩa Chấn hưng hải quân
mở rộng một cuộc quyên cũng để gọi là "Báo đáp Hải quân". Giả dụ số
kinh phí Báo đáp Hải quân thực ngân là bảy ngàn lạng ta sẽ tính cao lên một vạn
lạng, rồi xin Lão Phật gia cho họ một cái chức tri huyện thế là xong.! Đến cách
này mà chưa đủ, thì bọn ta anh em xúm lại chịu khó móc hầu bao lần chót, lẽ nào
lại chẳng được như ý nguyện để đạt tới thành công?
Nghe Lý Liên Anh diễn thuyết
một thôi, bọn đại thần đều đồng thanh coi như một diệu kế, nhất là khi nghe nói
Lão Phật gia biệt đãi đối với mình, anh nào anh nấy đều hí hửng, và còn xác
nhận thêm lời Anh nói quả chẳng sai tí nào!
Thế là nội vụ đã được quyết
định. Tất nhiên việc thực hiện phải đi theo ngay với lời nói. Chẳng bao ngày,
việc đầu tiên phải làm của bọn đại thần quân cơ này là kiểm kê hết mọi sổ sách
để đem ra dùng số kinh phí của Hải quân một triệu lạng bạc bớt số, tích trữ,
giấu diếm được bao lâu nay.
Việc thứ hai là xin Tây thái
hậu chỉ dụ cho mở một cuộc quyên cúng "Báo đáp Hải quân". Đến việc
thứ ba là chỉ định một vùng đất trống rộng lớn bao la bát ngát tại Vạn Thọ sơn
để kiến tạo hoa viên.
Hoa viên này vốn để chuẩn bị
khánh chúc ngày lễ Vạn thọ của Thái hậu, bởi thế mọi người đồng thanh đặt tên
là Di Hoà viên. Di Hoà có nghĩa là di dưỡng mối Thiên hoà.
Khi đưa ra chương trình kiến
tạo hoa viên Di Hoà, thì Vinh Lộc đã lại được bổ dụng chức tướng quân Tây An.
Lộc nghe được tin này, vội vàng quyên cúng ngay một số tiền lớn hai mươi lăm
vạn lạng bạc để lấy tiếng người đầu sổ, và tất nhiên để làm cái lễ mọn dâng
ngày vạn thọ của Thái hậu.
Từ Hi thái hậu vốn vẫn quý mến
Vinh Lộc bởi thế bà cho lệnh điều động Lộc về ngay kinh đô, đồng thời nhập vào
quân cơ xứ. Thấy đã có người xung phong quyên cúng, bọn vương công lo đến thân
mình, ngại đến cái quyền chức của mình, vội ùn ùn ghi danh đóng góp, kẻ thì
mười vạn, người thì hai chục vạn, tiền lúc đó được khiêng tới ùn ùn nơi quân
cơ.
Mặt khác, số tiền kinh phí Hải
quân thu được đến bốn, năm trăm vạn lạng bạc. Chưa hết, còn một khoản tiền đặc
biệt này nữa: đó là khoản tiền gọi "Nhân khoản" do Hộ bộ thượng thư
Diệm Kính Minh tâu lên sau tài khoá năm đó.
Nhân khoản là tiền gì? Chiếu lệ
cuối mỗi năm Hộ bộ thượng thư phải kiểm kê lập thành bản tồn khoản (những khoản
tiền còn lại) báo cáo vào cung để Lưỡng cung Thái hậu xem xét.
Bản tồn khoản này thường chỉ
ghi những khoản chính. Còn một khoản phụ kiểm kê từ các năm trước trở lại,
những khoản tiền đổi giá, tất cả những khoản đó đều là nhân khoản?
Nhân khoản không ghi vào biên
bản, và thường đem chia nhau từ anh quan to xuống tới anh quan nhỏ, mỗi anh cứ
cuối năm, có chút tiền bổng, khả dĩ an ủi lắm!
Nhưng từ khi Diệm Kinh Minh lên
làm Hộ bộ thượng thư thì nhân khoản không còn là nguồn an ủi của bọn quan lại
bộ Hộ nữa. Diệm sở dĩ cắt hết nhân khoản này, một là vì sợ chính khoản thiếu
hụt, cần phải có nhân khoản để đập vào, hai là để lấy lòng Thái hậu, chủ đích
mong bà khen giỏi trù tính chi tiêu.
Thế là năm đó, bản báo cáo dâng
lên, Thái hậu xem qua, mừng rú lên, vì tự nhiên mà có được một nhân khoản lớn
đến hơn bảy trăm vạn lạng bạc. Bà vội bảo Lý Liên Anh tới hội bê ngay số tiền
lớn đó về cho bà, để dồn vào số tiền chi phí trong công cuộc xây cất Di Hoà
viên.
Tiền nong dư dả, tha hồ mà vẽ
vời tô điểm cho Di Hoà viên. Thực thế, có thể nói Di Hoà viên được kiến thiết
chẳng kém phần hoa lệ, nguy nga so với bất cứ một hoa viên nào!
Hoa viên xây cất đằng đăng suốt
mấy năm trời, mãi tới năm Quang Tự thứ mười chín thì hoàn thành. Vị đại thần
giám đốc kiến tạo hoa viên bèn mời các vị vương gia đại thần vào thăm vườn và
xem xét lại một lần chót.
Hôm đó, Đôn thân vương chuẩn bị
từ sáng sớm, đem theo một đám đông đại thần tiến vào hoa viên để xem xét. Di
Hoà viên hoa lệ ra sao, kiến trúc như thế nào, xin mô tả qua để quý vị độc giả
biết thêm một công trình kiến trúc của thời quân chủ cách đây chưa bao xa, với
bao nhiêu mồ hôi nước mắt của quần chúng, hầu mong cung phụng cho hạnh phúc
riêng của một người, một dòng họ.
Di Hoà viên vốn xây cất trên
cái nền cũ của Thanh Y viên ngày trước, tại mặt tây Bắc Kinh, cách xa đô thành
chừng hai mươi dặm. Lưng tựa vào Vạn Thọ sơn, Động Nguyên viên, vây khắp hồ Côn
Minh vào giữa. Nếu do góc cửa đông mà đi vào, người ta phải qua cửa Nhân Thọ
môn.
Điện đài nơi đây đồ sộ cao lớn,
nhất là điện Nhân Thọ. Tiến vào cửa điện, người ta gặp ngay một toà lâu đài gọi
là Nguyệt Đài. Trong đài, tại tầng thứ nhất có bày bốn các tĩnh lớn.
Lên tầng thứ nhì, người ta thấy
có hai cái chum đồng chạm trổ hai con rồng và hai con phượng múa lượn chung
quanh. Trong giữa điện, đặt một cái ngai quý bằng gỗ mun, cửa ngoài khoá chặt.
Quay sang hướng tây, đi chẳng mấy bước, ta sẽ thấy một tấm biển, trên khắc bốn
chữ: "Thuỷ mộc từ thân".
Mặt tây ấy chính là hồ Côn
Minh. Phía bắc hồ, là toà Lạc Thọ đường. Toà đường này về sau trở thành tẩm
cung của Hoàng thái hậu. Trước mặt đường, cũng có một nguyệt đài.
Bên cạnh đài, lại còn có một
ngôi đình, xây cất theo kiểu noãn phòng (phòng ấm) toàn bằng pha lê. Phía trong
đình có trồng một cây thông, chẳng khác gì một cây san hô.
Lại về hướng tây, đi quanh quẩn
một hồi, ta sẽ phải đi qua một dãy hành lang dài đến mấy chục trượng. Nhìn về
phía Bắc, ta thấy một toà núi, trên đỉnh xây một toạ đài, tên gọi Quốc hoạ đài
cao đến vài chục trượng. Phía dưới đài là một cái điện, gọi tên là Bài Văn.
Điện dài chín gian, hết sức
rộng lớn, về sau thái hậu dùng nơi đây làm chỗ toạ triều. Trong điện, có một
đôi câu đối, vế trên viết:
"Vạn hốt tinh sơn triều
Bắc cực" .
Còn vế dưới viết:
"Cửu hoa tiên nhạc tấu Nam
huân "
Hai bên vách điện, xây đắp đến
mấy chục cây thập cẩm cao mãi đến tận xà nhà. Thềm điện tính cả thảy mười bốn
tầng.
Trên nguyệt đài bày bốn cái
đỉnh và chum bằng đồng, có chạm trổ từng cặp long, phượng trên từng đôi một.
Ở phía sau điện, có một cái gác
gọi là Phật Hương các, thềm cao đến vài chục bực toàn đá. Nếu theo cửa ngách mà
vào, ta sẽ thấy một cái bia đá lớn, trên khắc bảy chữ: "Mộ ái triều
phong thường tự tả"
Nếu lại mặt bắc mà đi, ta cung
sẽ gặp một cái gác, gọi là Bảo Vân các. Gác có mái đình bát quái, cửa cột bao
lơn, chấn song đều bằng đồng đúc.
Từ Bảo Vân các, có ba pho tượng
Kim thân. Phía sau gác, lại còn có một ngôi đình, gọi là Chung Hương giới. Đây
chính là nơi cao nhất của Vạn Thọ sơn.
Lại theo hướng nam mà đi ra, để
gặp một cái cổng, trên cổng đề bốn chữ "Đạo
dưỡng chính tính". Trước
cổng, một dãy tường thấp ôm quanh lấy đỉnh núi. Tựa vào bức sơn tường này mà
nhìn về nam, ta thấy trên mặt hồ, nào đình đài, nào lầu gác chẳng khác chi như
nhìn phong cảnh trên một áng mây bạc, rõ mồn một.
Bên cạnh điện, cất mấy ngôi
đình bát giác. Chuyển luân
tạng vốn là hai toà bảo tháp
làm bằng gỗ, mỗi toà cao tới mười mấy tầng. Cứ mỗi tầng, mặt ngoài đều có khắc
tượng Phật. Mỗi một toà tạng cao đúng ba trượng, ngày đêm xoay chuyển liên
tiếp, không bao giờ ngừng. Mãi về sau, năm Canh Tý, năm Bát quốc liên minh đánh
vào kinh thành, chiếm đóng Di Hoà viên, lúc đó, hai toà chuyển luân tạng mới
ngừng hẳn, không xoay chuyển được nữa.
Trong điện, còn có hai toà nhật
quỹ (đồng hồ mặt trời), trên mặt khắc ghi số giờ số khắc, giữa đặt một cái kim
đồng.
Mỗi khi mặt trời chiếu sáng,
cây kim chỉ vào số giờ nào, khắc nào, là ta biết ngay mấy giờ, mấy khắc. Bỏ Chuyển luân tạng mà đi quanh ra, ta gặp điện Huy Đức
phía trên có biển đề bốn chữ Phu
quang vinh khánh. Chốn này đã là mặt đông của điện Bài Văn. Về mặt tây, lại
còn có một ngôi điện nữa: điện Thánh Ly. Điện này đối diện với một cái rạp hát,
xây cất hết sức huy hoàng rực rỡ. Đấy chính là nơi Thái hậu đi xem hát.
Đi dọc theo đường núi quanh co
một lát, ta thấy một ngôi đình biển đề ba chữ "Hoạ trung du " chung
quanh có rất nhiều câu đối viết chữ hết sức tươi đẹp, để ca tụng phong cảnh như
sau:
1.
Cảnh tự viễn trần giai nhập
vịnh
Vật hàm diệu lý tổng kham tầm.
2.
Kỷ hử sùng tình ký viễn tích
Vô biên giai huống thiếp hương
khâm.
3.
Nhàn vân quy tụ liên phong ám
Phi bộc thuỳ không thân thạch
lương.
4.
U lại tĩnh trung quan thuỷ động
Trần tâm tức hậu mịch lương
lai.
5.
Xuyên nham độc chung tú
Thiên địa bất ngôn công.
6.
Sơ sắc nhân tâm viễn
Tuyền thanh nhập mục lương.
Bên cạnh ngôi đình này có một
cái động đá. Đi xuyên qua động này, ta thấy một cái bia đá lớn đập ngay vào
mắt. Trên mặt bia khắc một hàng mười chữ: "Sơn xuyên ánh phát sử nhân
ứng tiếp bất hạ". Lại đi
lên chút nữa, ta gặp một ngôi đình nữa, biển đề bốn chữ "Hổ sơn chân
ý". Đây chính là nơi thừa lương (nghỉ mát) của Thái hậu sau này. Và đây
cũng là nơi cao nhất của Vạn Thọ sơn rồi.
Đứng từ nơi đây, hướng về bắc,
nhìn xuôi xuống phía dưới núi, ta thấy bên ngoài bức tường lớn vây quanh, độ
hơn mười dặm, phố xá chốn kinh thành dọc ngang như bàn cờ, ngựa xe chạy như mắc
cửi. Ngay trước mặt ngôi đình, phía trên đề ba chữ "Chỉ thụ lâm".
Từ phía sau lầu cao có hơi thấp
hơn một chút, ta phóng tầm mắt về hướng đông bắc, ắt thấy ngoài xa chừng vài
dặm, một dãy tường thấp chạy loanh quanh như con rắn bò trên một khu đất bằng.
Khu đất này chính là cái nền cũ
của vườn Viên Minh thuở trước. Trên đỉnh núi ta đi về phía đông, tất phải theo
một con đường lớn lát toàn bằng đá hoa cương mài nhẵn thín, miếng nào miếng nấy
vuông vức.
Con đường này dài có đến vài
dặm, tuy khi còn ở trên núi có chỗ chìm xuống lại có chỗ vươn lên cao nhưng
tổng quát đều bằng phẳng rất dễ đi. Tận đầu mút con đường là một ngôi đình gọi
tên là Hội đình.
Từ Hội đình này, ta đi xuống
núi tới gác Cảnh Phúc, nơi đây Từ Hi thái hậu ăn cháo hằng ngày. Rồi lại từ gác
Cảnh Phúc đi ra, ta qua Như Y trang, rồi Bình An thất thăng tới Lạc Nông hiên.
Ở chính giữa hiên này đặt một cái ngai vàng. Phía sau ngai vàng bày một cái
ghế. Mé tả để một cái giao ỷ làm theo kiểu Tây phương, bên trên trùm một cái
màn vải vàng.
Lại từ Lạc Nông hiên đi xuôi
theo về hướng đông nam, ta gặp Chúc Tân lâu, Hàm Viễn đường. Trước ngôi đường
Hàm Viễn này, có một cái ao vuông, ăn thông với con suối, nước chảy róc rách
suốt ngày đêm từ trong núi ra. Khu đất này xây cất giống in như khu"Đồng
Âm thâm xứ" lúc Từ Hi
thái hậu còn là một phi tử trong cung. Những dãy lan can, những chiếc chấn song
quanh co vẽ chạm hết sức tinh vi khiến phong cảnh càng thanh u hơn.
Bên cạnh ao, cất một ngôi đường
gọi là Hoà Xuân đường, bên bìa chìa ra ao xây một cái cầu gọi là Tri Ngư kiều.
Bốn mặt chung quanh cây cầu này, đều có đình đài xây cất tinh xảo tráng lệ.
Đi qua cầu Tri Ngư, ta gặp một
toà viên lạc, mặt nam cũng như mặt bắc, đều có bốn, năm căn nhà đối diện nhau.
Khu nhà mặt nam chứa một chiếc thuyền rồng.
Khu nhà mặt bắc lại chứa một bộ
đồ thư tập thành. Bỏ qua viên lạc này, tới toà Đức Hoà viên. Chính giữa vườn,
xây một ngôi điện vũ, tên gọi Di Lạc điện.
Trước mặt điện, xây một cái rạp
hát lớn. Rạp cao ba tầng. Từ tầng cao nhất, ta nhìn ra xa, thấy Ngọc Lan đường
ở trước mặt. Đây chính là tẩm cung của Quang Tự hoàng đế sau này.
Hai bên giải vũ trước mặt điện
đều có những dãy phòng dài mười một gian, mỗi gian dùng ván chắn ngang. Hai dãy
phòng này dành cho các bậc vương công đại thần ngồi xem hát. Lại từ đây tiến về
hướng nam, ta tới hồ Côn Minh. Bước dọc theo bức tường đông mà đi bộ chừng hai
dặm đường ta gặp cửa cung môn, và một cái bia đá dựng ngay bên mé tả.
Cái bia này gọi là Chức Nữ
thạch, cao có tới bốn, năm thước, dựng lên từ năm Giáp Thân. Còn mé hữu cửa
cung, một con trâu đồng nằm trên mặt đất, dài bốn, năm thước, được đặt tên là
Khiên Ngưu.
Đối diện cửa cung môn, một cái
cầu tàu xây trên bờ Bạch Thạch hà dùng làm chỗ cặp thuyền du ngoạn trên hồ Côn
Minh.
Dọc theo hồ Côn Minh, đi về
hướng tây, ta gặp một cây cầu mười bảy nhịp. Đi qua cầu, tiến về hướng bắc, ta
thấy một cái miếu, đó là miếu Long Vương. Cột miếu hai bên có treo đôi câu đối
như sau:
Thiên ngoại thị ngân hà yên ba
uyển chuyên.
Vân tiền khai thuỷ ốc, hướng vũ
phi vi
Ba mặt đông tây nam ngoài cổng
miếu, đều có dựng bia đá. Đằng sau miếu là Hàm Hư đường. Phía sau ngôi đường
này, lại là Côn Minh hồ. Về phía tây, đối diện với hồ là Ngọc Tuyền sơn…
Phong cảnh của vườn Di Hoà đại
khái là như thế. Trong vườn có nhà máy điện, đốt đèn điện, có đường sắt, có tàu
thuỷ chạy hơi nước.
Cứ mỗi một nơi, đều có đến vài
chục viên tổng biện, bang biện uỷ viên, quá nửa đều là người Mãn.
Về sau, khi Hoàng thái hậu đem
Quang Tự hoàng đế vả hoàng hậu vào ở trong vườn, thì chỉ duy có tiền hoả thực
(tiền bếp) mà đã lên tới một vạn hai ngàn quan tiền mỗi ngày…
Kiến tạo khu vườn Di Hoà mục
đích để đợi ngày lễ vạn thọ của Hoàng thái hậu, mời bà vào du ngoạn mong làm
vui lòng bà. Bởi thế ban đốc công phải cố làm xong vào năm Quang Tự thứ mười
chín, tức là năm trước khi Từ Hi thái hậu vừa đúng sáu mươi tuổi.
Hồi 157: Trung Nhật chiến
tranh
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét