Hồi 40: Giết cọp được
vợ
Đa Nhĩ Cổn thấy Thái Tông
hoàng đế ra đi, ý cũng muốn tiễn chân, nhưng chẳng ngờ khi chạy qua dưới rèm
bỗng nghe tiếng Văn hậu gọi giật lại:
-
Lão cửu về đây mau! Ta có chuyện muốn nói.
Cổn nghe đoạn, vội quay lại,
đứng sững trước mặt Văn hậu đợi lênh. Một lúc lâu mà Văn hậu cũng chẳng hạ
lệnh, chẳng bảo đi. Cổn vội vàng thỉnh an, miệng nói:
- Đa Nhĩ Cổn đợi lệnh hoàng
hậu!
Hồi 41: Hậu mê trai giết vua
Thái
Tông hoàng đế giận nhà Minh không thuận những điều kiện hoà ước, bèn ngự giá
thân chinh đánh vào quan nội.
Lúc xuất hành, ngài giao phó
triều chính cho Duệ Thân vương rồi đích thân chỉ huy tả, hữu dực tám vạn người
ngựa ra đi.
Quân tả dực theo đường Giới Sơn
đánh tới. Còn quân hữu dực theo lối Nhạn Môn quan và Hoàng Nhai khẩu đánh sang.
Hai lộ quân sẽ họp làm một ở Kế Châu rồi tiến thẳng vào địa phận Sung Châu.
Dọc đường, quân Mãn đánh tan ba
toà phủ thành, mười tám toà châu thành, sáu mươi bảy toà huyện thành, bắt được
Lỗ Vương của Minh triều đem chém đầu trước hàng quân, cướp được bách tính nam
nữ của Minh triều tới ba mươi sáu vạn người cùng trâu bò dê lợn tới năm mươi
lăm vạn con. Tiên phong A Ba Thái theo Nam lộ tiến đánh, đại binh đồn trú tại Sơn
Đông, Lữ Châu. Ròng rã hơn một tháng mà chẳng thấy một tên quân của nhà Minh,
Thái bèn cho cột chiến lợi phẩm như vải vóc tơ lụa, vàng bạc ngọc ngà lên xe
lừa, xe lạc đà rồi kéo vào Thiên Tân, Đồn Lộc. Quân đi dài tới hơn ba chục dặm
đường, tiếng xe lăn rầm rầm rộ rộ không lúc nào dứt, vượt Lư Câu Kiều đến hơn
mười ngày mà vẫn chưa qua hết…
Vua Minh là Sùng Trinh hoàng đế
hạ chiếu mộ quân ở các tỉnh. Quân mộ được vừa tới địa phận Thông Châu, được tin
quân Thanh vô cùng kiêu dũng, kẻ nào cũng kinh hồn bạt vía, chẳng dám chặn
đánh, chỉ lo trốn tránh.
Thái Tông hoàng đế thấy chẳng
tốn một tên quân nào mà thu được không biết bao nhiêu vàng bạc châu ngọc, lấy
làm sung sướng vô cùng, bèn hạ lệnh lui binh, bày tiệc khao thưởng ba quân và
chọn ngày ban sư.
Giữa lúc Thái Tông vui vẻ như
vậy, không ngờ trong cung điện của ngài xảy ra một cơn giông tố hãi hùng. Tính
mạng ngài rồi đây cũng vì đó mà tiêu vong.
Số là Duệ thân vương được Thái
Tông phó thác quốc sự, bèn nằm bẹp trong cung cấm với Văn hậu như vợ chồng,
chẳng cần kiêng cữ chút nào. Mọi người trong cung, từ trên xuống dưới đều là
người tâm phúc của vương, chẳng kẻ nào dám tiết lộ tăm hơi. Tuy nhiên trong số
cũng có hai người tuy không nói ra nhưng căm hận họ đến xương tuỷ: một người là
Hào Cách con trai Thái Tông, còn một người là Tiểu Ngọc Nhi, vợ của Duệ thân
vương.
Hào Cách tuy được lệnh lo việc
cưới hỏi cho Cố Luân công chúa, nhưng đâu có được tự do, bất cứ việc gì cũng
đều phải hỏi chú là Duệ thân vương. Thế mà lúc đó ông chú Duệ lại đang mê mệt
bà hậu, suốt ngày đêm nằm trong cung cấm. Cách đốc thúc thợ thuyền xây cất phủ
phò mã đã xong, nên cần hỏi chú mình xem bày biện trang hoàng bên trong ra sao
vội lóc tóc chạy vào cung xin gặp. Ngày thường, Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn hay ở
thư phòng mé tây cung Vĩnh Phúc nghỉ ngơi. Bởi vậy Cách chạy thẳng tới đây.
Nhưng Cách chẳng thấy chú, mà chỉ thấy có ba, bốn tên thái giám giữ cửa đang
đứng xớ rớ ở đó. Cách hỏi thì bọn này đều nói không biết. Cách quay ra khỏi
cung, chạy tới phủ Duệ thân vương để hỏi tin, được biết vương đã không về phủ
đến bốn, năm ngày rồi.
Còn Tiểu Ngọc Nhi thấy chồng đi
luôn bốn, năm ngày không về bèn nổi ghen, nhiều đêm không ngủ được. Bà ta thấy
Cách tới bèn gọi vào. Cách hỏi thím mình xem chú hiện ở đâu Tiểu Ngọc Nhi nghe
hỏi máu ghen bỗng nổi lên như men giấm trong huyết quản, nhất thời không kìm
hãm nổi, bèn cười nhạt nói:
- Chú ngươi ấy à? Y không trong
cung thì ở đâu. Bọn họ lúc này tha hồ mà sướng. Y làm gì mà nghĩ tới chuyện về?
Chuyện ngoại tình của Cổn và
Văn hậu, Cách đã biết từ lâu nhưng chưa có dịp cho nổ bung ra đó thôi. Không
ngờ hôm nay bà thím lại nói toạc ra khiến Cách không khỏi đôi má ửng hồng, cố
dằn lòng thong thả hỏi thím:
- Chú đã không về nhà, sao thím
không vào cung mà tìm?
Bà phi Tiểu Ngọc bảo Cách:
- Thím có vào tìm đôi ba lần. Nhưng
bọn cung nhân vốn là tay chân của chú nên đều bảo không có. Thím tính xông bừa
vào nhưng bị chúng cản lại và nói: "Đấng vạn tuế đã truyền chỉ: nếu không
có lệnh của hoàng hậu, cấm không ai được tự đo vào cung". Mấy hôm nay, thím
loanh quanh mãi chẳng biết tìm cách gì! Này cháu của thím! Đã tới đây cháu thử
tìm cách cho chúng một mẻ sợ, nếu không thím cháu mình còn mặt mũi nào mà
chường ra với thiên hạ nữa?
Lời nói của phi tử Tiểu Ngọc
Nhi quả đã khêu được lòng tức giận của Túc quận vương. Cách liền đập tay vào
ngực, hậm hực nói:
- Thím hãy yên tâm. Chuyến này
phụ hoàng trở về, cháu sẽ diện tấu cho phụ hoàng nghe, để ngài hạ chỉ cấm chú
vào cung. Thím nên nhẫn nại ít hôm, chớ có nói ra, sợ chú biết thì thím cháu ta
nguy cả đấy.
Nói đoạn, Túc quận vương Hào
Cách cáo biệt ra về. Ngày lành tháng tốt cho việc nghinh hôn đã tới. Bỗng một
đội người ngựa chạy như bay về cung báo hoàng đế hồi loan, văn võ triều thần
được tin này vội mũ áo chỉnh tề đi tiếp giá.
Đi đầu bọn triều thần, tất
nhiên là Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn trên lưng con tuấn mã lông hồng. Đoàn người
ra khỏi thành chín dặm thì gặp đại quân của Thái Tông hoàng đế. Văn võ bá quan
vội bò rạp xuống đất, tung hô vạn tuế.
Nhà vua thấy Cổn cũng nằm rạp
bên đường, vội nhảy xuống ngựa, giơ tay nâng dậy. Hai anh em đồng lên ngựa,
song song sát cánh tiến vào thành, tới Sùng Chính điện.
Thái Tông hoàng đế lên điện an
vị ngai vàng. Trăm quan y thứ triều hạ. Nhà vua truyền chỉ, thiết yến ngay tại
Tây Thiên điện. Thế rồi vua tôi chén tạc chén thù, mãi tới chiều tối ai nấy mới
tan tiệc ra về.
Đêm đó, quá khuya, nhà vua
không về cung nên nghi ngơi ngay tại Đông Thiên điện, có bọn cung nga hầu hạ.
Qua ngày hôm sau, ngày hôn lễ
của Cố Luân công chúa, kinh thành nhộn nhịp, xe ngựa dập dìu. Đường con phố
lớn, chỗ nào cũng treo đèn kết hoa, trăm họ ai cũng đều vui vẻ hân hoan.
Phò mã Sách Nhĩ Cáp, mũ áo
chỉnh tề, tiến vào cung để đón dâu. Cố Luân công chúa vào lạy nhà Thái miếu,
xong rồi từ biệt phụ hoàng và mẫu hậu, theo chân chồng ra khỏi cung về phủ phò
mã. Các thân vương, quân vương, bối lặc, bối tử, phụng quốc tướng quân, Hoà
thạc thân vương, phúc tấn, cách cách, tất cả bọn quốc thích hoàng thân lũ lượt
kéo nhau thành từng tốp vào cung chúc mừng.
Theo ý của Hào Cách thì tính,
tâu ngay việc ngoại tình của Đa Nhĩ Cổn cho Thái Tông hoàng đế nghe, nhưng bà
phúc tấn vợ y cố khuyên can. Bà bảo chồng:
- Phụ hoàng suốt ngày vất vả,
lại thêm nào yến tiệc khao mừng, nào đám cưới đưa dâu, lòng ngài lúc này cũng
có đôi phần vui sướng. Chi bằng đợi khi mọi việc xong xuôi rồi ta hãy tâu cho
ngài biết.
Hào Cách nghe lời vợ đành nén
lòng chờ đợi. Rồi mọi việc xong xuôi, Thái Tông hoàng đế hạ dụ đêm đó về cung. Rồi
suốt ngày hôm đó, ngài lại mở tiệc linh đình để khánh công đủ mặt các đại tiểu
quần thần. Tất cả triều thần hội họp tại Sùng Chính điện chuẩn bị đưa nhà vua
về cung. Chẳng ngờ đợi mãi tới khuya, bọn đình thần đứng chờ mãi, chân đã mỏi
lưng sắp gẫy mà vẫn không động tĩnh gì cả! Lui không dám lui vì không có lệnh,
hỏi cũng chẳng dám hỏi, vì biết đâu mà hỏi, cả bọn ngơ ngác chỉ biết còn nhìn
nhau tự vấn. Mãi sau, chỉ dụ mới ban ra cho biết thì ra đêm đó hoàng đế lại
không tiến cung nữa mà đổi lệnh qua sáng mai. Trăm quan được lệnh, lúc đó mới
dám rút lui. Đa Nhĩ Cổn đưa trăm quan ra về; khi qua cửa triều môn, bỗng thấy
một tên thái giám chạy như bay đuổi theo ông rồi ghé tai thì thầm mấy câu khiến
mặt ông thất sắc vội xua tay ra lệnh cho trăm quan ai về nhà nấy. Thấy mọi
người đi khuất hết, ông mới phóng ngựa chạy như bay vào cung Vĩnh Phúc, xuống ngựa,
rồi lẻn vào. Cổn gặp Văn hậu, mặt ngơ ngác như mất hồn. Hậu thấy lạ vội hỏi.
Cổn thở hắt ra một hơi dài như để vợi bớt phần nào nỗi lo sợ chứa chất trong
lòng, lúc lâu mới lên tiếng khẽ bảo Văn hậu:
- Thằng chó con Hào Cách đem
việc tụi mình ra tâu hết cho hoàng thượng nghe rồi. Hoàng thượng hiện giận lắm.
Đại hoạ thế nào cũng xảy ra, tụi mình phải tính kế mau mới mong thoát hiểm
được!
Thế rồi sau đó, người ta chỉ
nghe tiếng cặp tình nhân chị dâu em chồng này thì thào với nhau. Cổn đưa ra một
kế, dặn hậu phải lo liệu gấp. Lúc đầu bà không chịu, nhưng về sau nghĩ mãi bà
thấy không còn cách gì hơn. Bóng đêm tràn ngập cung cấm. Người ta lại nghe
những trận cười, những tiếng thì thầm cưng nựng. Mãi vào khuya, mới thấy Cổn ra
khỏi cung.
Canh năm sáng hôm sau, trăm
quan lớn nhỏ lại tề tập ở Sùng Chính điện để đón rước hoàng đế.
Trời vừa rạng đông. Thái Tông
hoàng đế xuất điện, mặt hầm hầm, có vẻ giận dữ lắm. Quần thần vội bò sát xuống
đất đập đầu lạy tạ.
Túc quận vương Hào Cách đi theo
sát Thái Tông hoàng đế ở phía sau. Nhà vua lên chiếc noãn kiệu có ba mươi hai
tên kiệu phu khiêng đi. Bọn thân vương hộ tống hai bên, chỉ giải tán khi tới
cung Vĩnh Phúc rồi lần lượt rút êm ra khỏi cửa Đại Thanh.
Bỗng một tên thái giám, chạy
lại đón đường, nắm vạt áo các quan, miệng thở hồng hộc, mãi mới lắp bắp được
mấy tiếng:
- Hoàng… Hoàng… Hoàng thượng
qui… qui… tiên rồi!
Câu nói động trời đó khiến trăm
quan hoảng hồn bạt vía, mắt mở tròn xoe, miệng há hốc đến không ngậm lại được!
Một lát sau, Duệ thân vương mới
lên tiếng bảo mọi người:
- Đứng đây mãi cũng vô ích. Bọn
ta nên quay vào triều đợi chỉ thì hơn! *
Cả bọn hối hả vào triều, chưa
kịp ngồi thì ý chỉ đã thấy ban ra. Chỉ ý truyền bảo Duệ thân vương vào cung tức
khắc để thương nghị đại sự, Đa Nhĩ Cổn được chỉ vội vã tuân theo.
Lúc đó, thi hài của Thái Tông
hoàng đế đã quàn tại chính điện trong Vĩnh Phúc cung. Cổn tiến tới trước hành
lễ xong có bọn cung nữ đưa vào tẩm cung, Cổn thấy Văn hậu đang ngồi trên giường
cúi đầu suy nghĩ, bèn vội tới thỉnh an. Nhưng Văn hậu như bộ không nhìn thấy,
lẳng lặng làm thinh. Bọn cung nữ đều máy nhau rút ra khỏi cung, chỉ để lại một
cô canh chừng hậu có sai khiến gì không. Ấy cũng nhờ người cung nữ này nên cuộc
hội kiến bí mật hôm đó giữa Văn hậu và Đa Nhĩ Cổn về sau mới được tiết lộ ra
ngoài. Duệ thân vương thấy Văn hậu chẳng nói chẳng rằng, bèn ghé ngồi trên an
lạc ỷ. Lúc sau, Văn hậu mới đứng dậy, thong thả bước tới trước, cầm lấy tay
Cổn, thì thầm nói những gì không biết. Người cung nữ để ý qua cửa sổ, chỉ thấy
Duệ thân vương lắc đầu lia lịa.
Văn hậu buồn bã âu sầu, đưa
cánh tay trắng như ngọc đặt lên đầu Cổn lay lay lắc lắc. Nhưng Cổn vẫn mặc,
chẳng trả lời, Văn hậu như có vẻ băn khoăn, lo sợ rồi bỗng thấy bà ném phịch
người xuống đất, vừa quỳ vừa cầu xin một cách khẩn thiết. Cổn vội quay mình
sang phía khác, mắt ngước nhìn lơ đễnh, như chẳng thèm để ý tới bà. Văn hậu lại
ghé sát tai Cổn nói, không biết những gì, Lúc đó, Cổn mới dần dần thay đổi thái
độ, từ chỗ lạnh nhạt đến chỗ tươi cười và gật đầu lia lịa tỏ vẻ ưng thuận. Cuối
cùng Cổn đỡ Văn hậu ngồi dậy, rồi từ biệt, xuất cung.
Hồi 42 : Bị phạt vạ
vì cưỡng hiếp mệng phụ
Duệ
thân vương Đa Nhĩ Cổn xuất cung, chạy tới Sùng Chính điện. Văn võ bá quan đều
vây lấy hỏi thăm tin tức. Cổn lớn tiếng nói:
- Hoàng thượng băng hà, hoàng
hậu đau xót muôn phần, tâm thần hoảng loạn, chẳng có chủ ý gì cả. Bởi vậy bà
cho gọi Tiểu vương vào cung thương nghị quốc gia đại sự, chủ ý của hoàng hậu là
quyết lập ông hoàng thứ chín Phúc Lâm lên ngôi hoàng đế. Chư vị đại thần có
tuân theo ý chỉ hay không?
Lời Duệ thân vương ai dám cãi.
Chỉ nghe một tiếng "tuân chỉ" vang lên rầm trời để đáp lại lời vương.
Cổn bèn đem trăm quan vào cung khóc bái rồi xúm nhau lại mang thi hài của Thái
Tông hoàng đế tới Sùng Chính điện khâm liệm. Một mặt, Cổn phò trợ Cửu hoàng tử
lên ngôi, chịu trăm quan triều hạ.
Cửu hoàng tử Phúc Lâm mới có
chín tuổi. Nhất thiết lễ nghi đều do Duệ thân vương chỉ dẫn. Việc xong, hoàng
hậu từ trong cung truyền chỉ ra ngoài phong Đa Nhĩ Cổn, Tế Nhĩ Cáp Lang, hai
người làm Phụ chảnh vương, giúp hoàng đế biện lý triều chính. Cổn tiếp ý chỉ,
hèn nói với bọn triều thần:
- Bọn ta hôm nay đồng tâm cộng
sự phò trợ ấu chúa, nên thề trước trời đất không bao giờ đem lòng phản bội.
Bọn triều thân nghe nói vội
đồng thanh đáp ứng. Cổn bèn mời đạo học sĩ Phạm Văn Trình thảo thệ thư (bản văn
thư thề với đất trời) ngay tại trong điện. Cổn cho lập hương án để mọi người
cùng tế lễ và tuyên thệ. Quan tán lễ bưng thệ thư tới trước hương án quỳ xuống,
lớn tiếng tuyên đọc:
"Đại Thiện, Tế Nhĩ Cáo
Lang, Đa Nhĩ Cổn, Hào Cách, A Tế Cách, Đa Đạc, A Đạt Lễ, A Ba Thái, La Lạc Ni,
Lạc Thạc Thác, Ngai Đạc Lễ, Mãn Đạc Hải, Đồn Tể, Phí Dương Cổ, Bác Hoà Thác,
Đồn Tê khác Hoà Thác, tất cả bọn tôi chẳng may gặp lúc tiên đế băng hà, trộm
nghĩ rằng nước không thể một ngày không vua, bởi vậy phụng nghinh hoàng tử của
tiên đế để kế đăng đại vị. Nếu có kẻ bất tuân định chế của tiên đế, chẳng sợ
người trung thành, coi thường hoàng thượng thơ ấu, thì đó là kẻ khi quân có
lòng gian xảo, hoặc nếu kẻ đó chẳng trọn tình nghĩa, chẳng làm nghĩa cứ, lại
còn lập tâm thù oán hãm hại người ngay, chối bỏ anh em, tự kết vây cánh thì trời
đất khiên phạt bắt phải chết non, chết yểu!" .
Hoàng tử Phúc Lâm lên ngôi lấy
hiệu là Thế Tổ hoàng đế, cải nguyên Thuận Trị. Nhất thiết quyền hành trị nước
đều do Đa Nhĩ Cổn một mình nắm giữ. Trịnh thân vương Tế Nhĩ Cáp Lang cũng biết
rõ Cổn không phải dễ chơi, đành mũ ni che tai để lấy lòng Cổn hoặc Cổn muốn làm
gì thì làm, chẳng để ý gì nữa.
Văn hoàng hậu đã thăng lên làm
Hoàng thái hậu. Lúc đó là lúc bà đang vào thời kỳ sung sức, nhiều ham muốn
khoái lạc làm sao mà chịu cảnh phòng không gối chiếc? May còn có Duệ thân vương
giúp bà đỡ buồn. Bà sợ người ngoài đàm tiếu cho nên phong Duệ làm Nhiếp chính
vương, trông coi tất cả mọi việc triều chính để tránh tiếng. Từ đó, Nhiếp chính
vương ở luôn trong cung cấm, lấy cớ là biện lý việc triều đình, để ngày đêm bất
cứ lúc nào cũng được gần gũi Thái hậu, quên hẳn bà phi Tiều Ngọc Nhi ở nhà vào
than ra thở mỏi mắt chờ trông.
Nhưng kẻ uất hận nhất phải là
Túc quận vương Hào Cách. Cách bàn tính với Dự vương Đa Đạc lấy cớ hỏi việc
triều chính để vào cung Nhiếp chính vương. Cổn lúc đó đang cùng Thái hậu mùi
mẫn trong thâm cung, nghe nói Cách xin yết kiến, lấy làm bực mình lắm. Cuối
cùng Cổn vẫn phải tiếp Cách. Trong thư phòng, Cổn thấy Cách mặt lộ vẻ giận.
Cổn hỏi, thì Cách đáp:
- Hoàng thượng hiện còn nhỏ
tuổi. Công việc của triều đình lại nhiều. Một mình Vương nhiếp chính, e có phần
lo không hết. Bởi vậy tiểu vương có ý cùng Dự vương mỗi ngày vào cung giúp việc
Vương gia…
Câu nói còn chưa xong, Cổn đã
hiểu ngay ý Cách. Cổn cười nhạt bảo:
- Đa tạ ý tốt của hai vị vương
gia, nhận chức Nhiếp chính vương tại hạ ắt phải lo tròn bổn phận. Lo tròn được
thì có công, không lo tròn được thì có tội. Nhị vị vương gia khỏi lo.
Cổn nói một hơi, gạt phắt tâu
bày của Cách, khiến nhị vị vương gia kia thắt họng, cụt hứng chỉ còn biết dạ dạ
luôn mồm rồi lui ra.
Từ đó, hận thù giữa Dự vương,
Túc vương với Đa Nhĩ Cổn càng ngày càng chồng chất. Cổn bèn phái người theo dõi
hai vị vương để loan báo tình hình cho mình biết. Đại học sĩ Phạm Văn Trình vốn
là tâm phúc của Cổn nhưng lại ở dưới trướng của Dự vương. Cổn bèn cho người gọi
Trình vào cung ngầm dặn Trình mật báo hành động của Dự vương. Cổn lại biết
Trình chết vợ nên đem một người đẹp tuyệt thế tên Oanh cô nương gả cho Trình
làm vợ kế.
Nói đến Oanh cô nương là cả một
câu chuyện. Nàng vốn là con gái của quan Tham tướng họ Nhan của Minh triều. Hổi
đó Đa Nhĩ Cổn đại chiến Tùng Sơn bắt được nàng đem về nuôi trong phủ. Nàng tuy
nhỏ tuổi nhưng có sắc đẹp mê hồn, răng nàng trắng, mắt nàng đen, đa tình, người
nhỏ nhắn yêu điệu. Cổn tính đem về nuôi đợi khi nàng lớn dành riêng cho mình
dùng.
Nhưng việc lúc này là cần lấy
lòng người, Cổn đành phải đem người đẹp thưởng cho Trình. Trình học sĩ thấy
nàng quả là một giai nhân tuyệt thế, lòng cảm kích Nhiếp chính vương tới tận
tim gan. Cả ngày ông chi muốn gần gũi người đẹp đề trò chuyện vui đùa. Có hôm
ông nói tới việc theo dõi Dự vương thì chính Oanh cô nương lại nghĩ kế giúp
ông. Nàng dọn một bữa tiệc hậu hĩ, cho mời Dự vương sang, cắt a hoàn xinh đẹp
hầu hạ. Nàng làm vậy cả với Hào Cách. Cả hai bị rượu ngon gái đẹp, lời nói
thường không được giữ gìn. Nhất là Dự vương, thấy có chỗ để dốc bầu tâm sự nên
thường lui tới nhà Trình chè chén. Vốn sành ăn, Dự Vương tò mò hỏi Trình xem ai
là người có tài đầu bếp quán thế như vậy thì Trình liền nói thực, bảo chính là
vợ mình. Vương đã từ lâu vốn nghe tiếng vợ kế của Trình là một trang giai nhân
tuyệt thế, muốn được gặp nhưng chưa có cơ hội. Nay nghe Trình nói vậy, Vương
bèn tiếp lời nói:
- Ồ! Vậy thì phiền phu nhân quá
nhỉ? Đã thế thì xin mời phu nhân ra đây, để tiểu vương có lời đa tạ.
Trình chẳng dám trái lời bèn
bảo a hoàn chạy vào nhà trong mời phu nhân ra. Nàng nghe nói Dự vương có lịnh
mời vội tô điểm son phấn hết sức lộng lẫy rồi cùng bốn con a hoàn bước ra phòng
khách. Đa Đạc vừa nhìn thấy Nhan thị mắt bỗng sáng lên, lòng sao xuyến ngay từ
phút đầu gặp mặt.
Nhan thị phấn điểm son tô, mùi
hương bay ngào ngạt, mỗi lần làn gió nhẹ thổi phớt qua là làn hương ngào ngạt
ấy xông vào mũi vương làm cho vương như ngây như dại. Dự vương vốn thuộc loại
hiếu sắc, nên khi thấy Nhan thị thì như mất cả thần hồn, mắt nhìn chòng chọc,
như chực nuốt chửng người đẹp để chiếm làm của mình. Nom vương thật trơ trẽn
đến tức cười. Nhan thị đứng từ xa thi lễ xong, bèn quay mình vào trong. Không
biết mất bao nhiêu giây phút Dự vương mới hoàn hồn.
Vương nhìn Trình cười nhạt, nói
giọng trịch thượng:
- Phạm lão tiên sinh! Năm nay
tiên sinh đã gần sáu chục, râu tóc đều đã bạc cả rồi thế mà lại chứa trong nhà
một vị phu nhân trẻ măng, tiên sinh không sợ người ta dị nghị sao? Nay Tiểu
vương có ý muốn nhờ một việc: tiên sinh hãy thương lượng với người đẹp giùm. Sáng
mai xin cho hồi âm.
Dự vương nói đoạn phất tay áo,
đứng dậy, cất bước ra ngoài.
Dự vương đi đã một lúc, Phạm
Văn Trình ngẫm nghĩ thấy vương có ý không tốt, bèn vào nhà trong bàn với vợ. Nhan
thị nói:
- Trong việc này chỉ có Duệ
vương là cứu được vợ chồng mình thôi. Ông nên qua khẩn cầu Duệ vương đi.
Hôm đó trời đã tối, Phạm Văn
Trình phải đợi qua hôm sau mới cân đại bố tử sửa soạn vào cung. Không ngờ Trình
vừa ra khỏi nhà thì đã có một đội thân binh của Dự vương rầm rộ xông vào, chẳng
nói chẳng rằng tìm bắt cho kỳ được Nhan thị bỏ vào noãn xa rồi đẩy về phủ. Đa
Đạc ở trong phủ trông chờ, bỗng thấy người đẹp đã được đem về, lòng mừng như mở
cờ. Y vội lại trước xe nắm lấy tay Nhan thị, khuyên nàng đừng lo sợ và bịa chuyện
bảo:
- Chỉ vì phúc tấn của Tiểu
vương thấy phụ thân thông minh xinh đẹp nên có ý mời phu nhân vào phủ để trò
chuyện kết bạn tâm giao đó thôi.
Nhan thị vốn là người đàn bà
trung trinh, nghe Dự vương nói vậy, bèn kêu la khóc lóc rùm lên, lại chỉ vào mặt
vương mà chửi bới tàn tệ. Vương bị chửi, thẹn quá hoá giận, bèn quát bảo thị nữ
đem lột truồng Nhan thị ra.
Dự vương có tính thích nhìn đàn
bà ở truồng. Bởi vậy hai tên thị nữ không dám trái lệnh, vội nhất tề động thủ.
Chúng bế xốc Nhan thị đặt trên
giường trước hết lột quần lụa, Nhan thị chỉ còn biết giơ cặp giò mũm mĩm trắng
như ngọc giãy đạp tứ tung. Hai thị nữ tiếp lực, mỗi đứa nắm mỗi chân tính đè
chặt xuống giường. Bỗng có hai tên nội giám hối hả chạy từ ngoài vào bảo Dự
vương, miệng lắp bắp mãi mới thành tiếng:
- Vương… Vương… Vương gia nhân…
nguy… nguy rồi…
Ba trăm quân ngự lâm tự trong
cung đã bố trí vây quanh Vương phủ rồi…
Chúng còn chưa nói xong thì đã
thấy một tên thái giám dẫn hơn mươi tên quân sĩ xông vào phòng, miệng nói:
Hoàng thái hậu có chỉ đây. Dự vương thấy việc xảy ra đột ngột có ý sợ, vội cúi
thấp mình xuống rồi quỳ trên mặt đất lĩnh chỉ.
Tên thái giám liền tuyên đọc ý
chỉ rồi bảo bọn quân sĩ áp tống Dự vương vào cung.
Dự vương vừa vào tới cung đã
thấy Túc quân vương Hào Cách cũng bị quân ngự lâm áp giải tới từ trước và Đa
Nhĩ Cổn đang chễm chệ ngồi phía trên. Cổn nghiêm nét mặt, buộc tội Dự vương
cưỡng đoạt mệnh phụ, gian dâm chưa thành, nên phạt bạc một ngàn lạng, và phải
nộp trâu mười lăm đầu, còn Túc thân vương Hào Cách biết chuyện mà chẳng tố cáo,
bị phạt 300 lạng bạc.
Dự vương từ khi bị phạt về nhà
trong lòng tức giận không nguôi. Y cáu tiết làm bừa, cho bọn binh lính trong
phủ hàng ngày đến nhà bách tính, hễ thấy gái đẹp là bắt ngay về phủ. Bọn gái
Bát Kỳ hoảng quá, cô nào cô nấy trốn biệt không dám thò mặt ra ngoài. Mãi về
sau, tin này đồn khắp Đô Sát viện.
Thừa Chính công Mãn Đại Hải
biết chuyện bèn dâng một tờ sớ vào triều. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn cả giận,
lại cho giải Dự vương vào cung, phạt vạ rất nặng. Cũng vì vậy Dự vương lại càng
thù Cổn đến xương tuỷ.
Dự vương tới gặp Hào Cách, hai
người bàn tính với nhau tìm cách đối phó Cổn. Riêng về Hào Cách y bỗng dưng bị
phạt tiền, tức lắm bèn cho gọi Cố sơn ngạc trân Hà Lạc Hội, Nghi chính đại thần
Dương Thiện, Giáp lại chương kinh Doãn Thành Cách, La Thạc cùng một bọn du đảng
vào phủ tính cuộc âm mưu hành thích Đa Nhĩ Cổn. Các nói với đồ đảng:
- Khi Đa Nhĩ Cổn chết rồi, Tiểu
vương sẽ làm nhiếp chính vương. Lúc đó các vị còn sợ không phú quý nữa ư?
Nào ngờ giữa lúc còn đang hội
họp, Hà Lạc Hội đã chuồn êm ra khỏi phủ, đi mật báo. Hội vốn là tâm phúc của
Nhiếp chính vương. Đa Nhĩ Cổn lúc đó đang ở trong cung ngắm Thái hậu chải đầu. Khổ
thay vợ Hào Cách lúc đó cũng vào cung để thỉnh an Thái hậu. Bà này có cái tài
chải đầu búi tóc rất giỏi, bởi vậy Thái hậu luôn gọi bà ta giúp. Túc vương phúc
tấn chẳng dám trái lịnh bèn vén tay áo cao lên để chải, cánh tay trắng như
tuyết lộ đến quá nửa, Đa Nhĩ Cổn đứng bên cạnh thấy đẹp quá, tâm hồn như mê
mẩn. Cổn nhìn đến khuôn mặt thì ôi thôi, thật là cả một trời xuân muôn hồng
nghìn tía, không có bút nào mà tả được cái đẹp, cái xinh, cái duyên, cái tình
của nàng. Cổn càng say mê càng cuồng vọng. Y nhủ thầm, không hiểu sao tên tiểu
tử Hào Cách lại có cái diễm phúc này! Báo thù xong ta phải đem người đẹp thế
này về phủ vui thú mới được.
Hồi
43 : Loạn giặc Sấm ,Minh Đế treo cổ chết
Giữa
lúc Đa Nhĩ Cổn đang say sưa ngắm nghía cánh tay nõn nà và khuôn mặt xinh đẹp
của cô cháu dâu, bỗng có một tên cung nữ chạy vào bẩm bên ngoài có Hà Lạc Hội
xin vào bái kiến. Cổn biết có việc cơ mật, vội chạy ra Tây thư phòng và cho gọi
vào. Hội vừa gặp Cổn liền đem âm mưu hành thích Nhiếp chính vương của Hào Cách
ra kể hết.
Cổn nghe xong vừa sợ vừa giận,
lập tức sai Hội đem đám binh sĩ giữ cung lặng lẽ đến Túc vương phu, bắt tất cả
bọn thân vương, bối lặc, đại thần có mặt hôm đó giải vây cung.
Nhiếp chính vương nhìn thấy Hào
Cách, nhớ tới chuyện Cách kể xấu mình trước Thái Tông hoàng đế trước đây, lại
càng căm tức, giận chưa thể đập cho Cách chết ngay được lúc này. Cổn gầm lên
như hổ rống, tức khắc cho lập hội đồng cùng Trịnh thân vương lên điện đốc cung
thẩm vấn can phạm, có Hà Lạc Hội làm chứng. Hào Cách thấy không thể chối cãi
bèn chửi bới Cổn tàn tệ. Nhiếp chính vương cả giận hạ lệnh phế Cách làm thứ
dân, giam cầm vĩnh viễn trong ngục tối, Cổn thâu hồi vương phủ, một mặt ngầm
đem cô cháu dâu xinh đẹp về giấu ở phủ mình, để ngày đêm hưởng dụng, không cho
bất cứ ai biết chuyện.
Xong việc riêng, Cổn nghĩ tới
việc công, đem bọn đại thần Á đạt lễ Thạc Thác và Ngô Đan ra kết tội chết, bắt
đại học sĩ Cương Lâm hạ ngục, đồng thời chém đầu không biết bao nhiêu người
trong đám triều thần, tịch thu tất cả quyến thuộc gia sản của họ đem về Duệ
vương phủ. Từ khi Hào Cách bị giam cấm trong ngục tối, Đa Nhĩ Cổn coi như đã
nhổ được cái đinh trước mắt, ngày ngày tự do vào cung của Thái hậu để thủ lạc,
chẳng còn phải kiêng kỵ gì nữa. Thế Tổ hoàng đế lúc đó còn nhỏ tuổi lại ở riêng
một cung làm sao mà biết được chuyện. Duy chỉ có Phạm Văn Trình là nghe ngóng
được đôi lời xì xào bên ngoài và liệu chừng rằng lòng người có ý không phục.
Lại nói vào hồi này, tại Minh
triều, bọn Lý Tự Thành, Trương Hiền Trung đã dấy binh làm phản.
Thành kéo theo bọn dân đói ở
Thiểm Tây, vét hết bọn dịch tốt trên đường, đông có tới 20 vạn người, ngựa
chiếm cứ nhiều tỉnh như Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên. Đầu mục của Thành
có bọn Lão Hồi Hồi, Hoa Lý Nhã, Tả Kim Vương, Cái Thế Vương, Xạ Tháp Vương,
Hoành Thiên Vương, Hổn Thập Vạn. Quá Thiên Tinh, Cửu Điền Long, Thuận Thiện
Vương, chia là 13 nhà, 73 doanh trại.
Quân Thành đi tới đâu, xông
ngang tiến dọc tha hồ mặc sức; quân binh của Minh triều đầu hàng vô số kể.
Số là Lý Tự Thành có một ông
cậu tên Cao Nghinh Tường cầm đầu đám binh mã này. Tường vốn là tên mã tặc xuất
thân rồi liên hiệp với tên đầu mục đám dân đói ở Diễn An phu tên Trương Hiền
Trung, xưng hiệu Đại Lượng Vương. Trường xưng là Sâm vương. Còn Trung thì xưng
Bát đại vương.
Nhưng về sau, Tường bị bọn quan
binh giết chết. Từ đó Thành nối hiệu Sâm vương của cậu, đem đại quân tiến vào
ngã Tây An. Trung không theo Thành mà lại kéo hùng binh sang ngã Tứ Xuyên.
Lý Tự Thành đánh mãi mới chiếm
nổi Tây An, cướp được Vương cung Tần vương, một vị thân vương của nhà Minh, rồi
đem Vương ra chém đầu. Thành tự tiện lập lên nước Đại Thuận, cải niên hiệu là
Vĩnh Xương. Uy thế càng ngày càng lững lẫy, Thành kéo binh đánh phá Thái
Nguyên, Đại Danh, Chán Định chiếm hết một dọc thành trì suốt vùng này.
Sùng Trinh hoàng đế nhà Minh
được tin này, sợ quá, vội hạ chiếu trưng tập quân binh để bảo vệ kinh thành. Buồn
thay lúc đó, Minh triều bị tên gian thần Nguy Trung Hiền, chuyên quyền làm bậy.
Hoàng đế có muốn làm gì cũng chẳng được. Vua thì bị ép, cùng khổ đến cực độ, mà
trung thần thì bói cũng chẳng ra một người! Thật là bi đát hết chỗ nói! Tin tức
này truyền tới tai Phạm Văn Trình, Trình bèn bảo Đa Nhĩ Cổn:
- Cơ hội có một, không nên bỏ
mất. Vương gia nên nhân lúc này đem quân đi thu phục Minh triều, lập đại công,
thử hỏi ai chả phục!
Nhiếp chính vương nghe xong gật
đầu khen phải. Thế là Cổn vào báo tin cho thái hậu hay. Văn thái hậu tuy lòng
không muốn xa rời người tình, nhưng vì quốc gia đại sự, đành phải ưng chịu.
Thế là bà gọi bảo con trai là
Thế Tổ hoàng đế chọn ngày lành, thăng điên Đốc cung, phong Đa Nhĩ Cổn là tướng
quân thống lĩnh hai phần ba quân lực Mãn Châu, Mông Cổ phối hợp với quân của
bọn Tam vương Hán quân Cung Thuận, Túc thuận công, tất cả không dưới mười vạn
người ngựa. Hoàng đế lại thưởng cho Cổn một cây tán, hai lá cờ độc kỳ lớn, rồi
mũ da cáo đen, áo bào da con điêu, áo choàng ngoài cũng da con điêu, nệm ngồi
da điêu, mũ mát, áo bào da trăn, áo choàng da trăn, nệm ngồi da trăn, yên ngựa
bằng lông diều hâu, ngựa tốt loại thượng thặng, không thiếu một thứ gì.
Cổn vào cung từ biệt Thái hậu.
Lúc lâm hành, Cổn tâu với Thái hậu nếu cướp được Trung nguyên, sẽ đón bà vào
quan nội cùng hưởng cảnh phú quý, phồn hoa của Trung Quốc.
Giờ Ngọ đúng ba khắc, tiếng
pháo nổ vang trời nơi thành ngoại, Đại tướng quân Đa Nhĩ Cổn nhảy lên yên ngựa,
trước mặt dựng cao tám cây cờ Đại độc kỳ, rồi đại binh ùn ùn kéo đi như nước
chảy về phía Sơn Hải quan. Khi ra tới biên cương, Cổn thân phái Đa Đạc, A Tế Cách,
Khổng Hữu Đức, Cảnh Trọng Minh, Thượng Khả Thiện cùng vương tử của Triều Tiên
là Lý Xí, người nào người nấy đem đại binh của mình tiến về phía trước còn
chính. Cổn thống lĩnh nha binh đồn trú tại các miền phụ cận Quảng Ninh và vùng
ông Hậu nghe ngóng tin tức.
Giữa lúc đang điều binh khiển
tướng như vậy, bỗng tiền quân A Tế Cách đưa từ ngoài vào một tên quan sai của
Minh triều. Tên quan sai này thấy Đa Nhĩ Cổn, vội quỳ xuống, miệng thưa:
- Bình tây bá Ngô Tam Quế có
khẩn thư, đặc sai phó tướng Diệp Vũ Chung đưa tên Đại tướng quân khai khán.
Tức thì có thị vệ quan tiếp
lấy, đưa lên cho Cổn. Cổn mở xem thấy thư viết: "Sùng Trinh hoàng đế bị treo
cổ chết ở Môi Sơn. Lý Tự Thành đánh phá thành Bắc Kinh. Đại tướng quân phát
binh cứu Trung Quốc thoát khỏi đại nạn"
Cổn đọc xong, bất giác ngạc
nhiên nói:
- Tên Lý Tự Thành quả lợi hại
thật! Chẳng mấy ngày mà hắn đã gây ra được chuyện lớn tày trời.
Cổn lại hỏi Diệp Vũ Chung xem
Sùng Trinh đế bị treo cổ chết như thế nào?
Diệp phó tướng bỗng nước mắt
chảy ròng, mãi sau mới trả lời được:
- Thật đáng thương cho vị hoàng
đế phải chết một cách oan uổng Văn võ khắp triều đều là một lũ gian thần: Quân
của Lý tặc đến chân thành rồi mà bách tính Bắc Kinh vẫn chưa hề biết tí gì. Mãi
tới ngày 17 tháng 3, khi lâm triều nhà vua hỏi: bên ngoài thế giặc ra sao, thì
bá quan văn võ chỉ còn có chảy nước mắt tỏ nỗi lo sợ mà thôi. Một lát sau có
tin từ Ngọ môn báo vào nói quân của Lý Tự Thành đang vây đánh khắp Cửu môn (9
cửa thành). Bọn đại thần vừa nghe qua, chẳng hỏi tới hoàng đế nữa, ai nấy chuồn
vội ra khỏi điện. Sùng Trinh hoàng đế thấy vậy, thở dài, thoái trào về cung, ôm
lấy hoàng hậu khóc rống lên. Lúc đó có tên Tổng quản thái giám thấy hoàng đế
khóc lóc thê thảm, bất giác xúc động, bèn kêu gọi bọn thái giám trong cung tất
cả khoảng hơn trăm, người nào cũng vác binh khí chạy ra, chống giữ hoàng thành.
Qua ngày 18, bên ngoài đánh phá kịch liệt, bên trong có một tên thái giám tên
gọi Đỗ Huân thấy thế nguy bỏ trốn ra đầu hàng rồi đem mọi việc trong thành nhất
nhất kể hết cho Thành nghe. Thành bèn dùng dây cho Huân leo trở lại thành ngay
đêm đó vào cung Sùng Trinh hoàng đế, xin ngài nhường ngôi cho y. Sùng Trình
hoàng đế bắt Đỗ Huân giam lại. Chiều tối hôm đó, thái giám Tào Hoá Thuần lén mở
cửa Chương Nghi môn, thế là quân giặc ùn ùn kéo vào, gặp người là chém, thấy
nhà là đốt, kinh thành ánh lửa rực trời, tiếng người kêu khóc dậy đất. Sùng
Trinh hoàng đế hạ lệnh đóng chặt cửa thành. Thương thay cho ngài, một mình ra
khỏi cửa cung, chạy lên núi Vạn tuế sơn, thấy binh lửa ngụt trời, bèn thở vắn
than dài: "Thế là chết cả đám dân vô tội rồi!". Than xong, ngài giỏ
mấy giọt nước mắt bi thương, quay về Kiều Thanh cung. Ngài lấy bút sơn viết một
đạo thượng dụ, giao phó cho Thành quốc công Chu Thuần Thần và tất cả đề đốc nội
ngoại chư quân, phò trợ Đông Cung. Viết xong, ngài cho mời hoàng hậu tới. Chỉ
trong nháy mắt, một số đông cung nữ, cả hoàng hậu và Viên quý phi đều có mặt
ngồi vây quanh lấy hoàng đế. Ngài sai bày tiệc rượu, uống liền ba chén rồi quay
lại bảo hoàng hậu:
- Việc lớn hỏng hết rồi!
. Hoàng đế vừa nói xong thì đã
nghe đám cung nữ oà lên khóc thảm thiết. Hoàng hậu cũng lấy vạt áo lau má lệ,
nói giọng trách móc: "Thần thiếp phụng sự bệ hạ đã mười tám năm, nhiều lẩn
khuyên can mà chẳng thèm nghe cho nên mới có ngày nay". Sùng Trinh hoàng
đế cũng chẳng buồn nói nhiều, chỉ cho gọi Thái tử Vĩnh vương, Dịch vương, rồi
cầm tay hai con nói được có một câu: Trốn đi. Lại dặn thái giám đem hai thái tử
ra khỏi cung ký thác cho bên ngoài hai nhà họ Chân và họ Điền nuôi dưỡng. Một
lát bọn cung nữ vào báo: Hoàng hậu thắt cổ chết. Sùng Trinh hoàng đế chạy vội
lại xem, thì hậu đã tắt thở! Ngài chỉ nói được có một tiếng: Tốt! Công chúa
ngồi bên cạnh oà khóc. Công chúa năm đó mới mười lăm, vẻ đẹp chim sa cá lặn. Ngài thấy
lúc nàng không đề phóng, bèn tuốt bội đao một tay che khuất mặt, một tay vung
đao chém tới Công chúa trúng đao ngã quỵ trong vũng máu, vai bên phải mất hẳn.
Nàng lăn lộn gào khóc. Hoàng đế gạt lệ nói: "Ai khiến mày sinh vào cửa vua
chúa làm gì?". Nói xong ngài quay đầu lại, thấy Viên quý phi đang ngồi bên
cạnh liền hỏi: "Tại sao ngươi chưa chết đi?". Viên quý phi nghe xong,
liền quỳ lạy hoàng đế mấy lạy rồi cởi dây lưng treo cổ trước mặt ngài. Chiếc
dây lưng bỗng đứt, nàng hồi tỉnh trở lại. Hoàng đế cầm ngược con dao dùng hết sức
bình sinh chém tới tấp vào người nàng đến mấy đao mới chết. Ngài, thu đao rồi
cùng bọn thái giám chạy tới cửa Đông Hoa môn. Cả bọn bị đám binh sĩ chăn lại.
Ngài đành quay sang cửa Tề Hoa môn tìm tới nhà Châu Thuần Thần. Đoàn người bị
bọn lính canh cửa không cho vào. Ngài lại chạy vội qua cửa An Định môn. Binh sĩ
dàn khắp mặt thành. Cửa thành đông như kiến không cách gì qua được nên ngài
đành thở dài quay về cung. Lúc đó Sùng Trinh hoàng đế mặc áo bào xanh chạy qua
chạy lại nên chẳng ai nhận ra được. Qua ngày thứ mười chín, vào lúc hừng sáng,
nội thành cũng bị giặc phá nốt. Hoàng đế lặng lẽ một mình chạy lên núi Môi Sơn
ngồi xuống thềm đình Thọ Hoàng. Chung quanh tiếng reo hò chém giết vang dậy.
Ngài đưa con mắt lạc thần nhìn quanh một vòng, thở dài sườn sượt. Rồi ngài giơ
tay cầm cây bút son để trên mặt án thư viết mấy chữ vào vạt áo xong rồi cởi
giải áo treo cổ chết ngay trong thành…
Sùng Trinh hoàng đế đã chết
trên núi Môi Sơn. Từ bên ngoài Lý Tự Thành đánh thốc vào cung. Thái giám Vương
Thừa Ân lúc đó chạy khắp nơi tìm kiếm nhà vua. Khi lên Môi Sơn vào đình Thọ
Hoàng hắn mới thấy xác nhà vua treo lủng lẳng trên hậu của, đầu tóc rũ rượi,
chân trái để trần, chân phải còn lại chiếc giầy đỏ. Nhìn tới vạt áo hắn thấy
mấy dòng chữ như sau:
"Trẫm lên ngôí vua đã mười
bảy năm trời. Bọn nghịch tặc bức bách kinh sư. Trẫm tuy đức bạc tài hèn nên
phạm tội với trời, nhưng thực ra tội lỗi đều do bọn bầy tôi làm trẫm lầm lạc.
Trẫm chết đi không mặt mũi nào nhìn thấy tổ tiên dưới suối vàng nữa. Hãy lột
hết mũ mãng của trẫm đi! Hãy lấy tóc che mặt cho trẫm. Hãy để mặc cho giặc băm
nát thây trẫm xin chớ giết hại một người dân nào".
Vương Thừa Ân đọc xong di
chiếu, không khỏi rơi lệ thương xót. Ân quỳ xuống lạy thây ma Sùng Trinh hoàng
đế tám lạy rồi lẩm nhẩm khấn khứa:
- Đức vạn tuế ngài ở cõi âm xin
hãy chậm chút, cho nô tài theo với!
Khấn xong, Ân cũng cởi thắt
lưng treo cổ lủng lẳng dưới chân Sùng Trinh hoàng đế.
Nói thêm những điều Diệp Vũ Ung
không biết nên không kể được ra.
- Lúc thành bị phá, Sùng Trinh
hoàng đế thăng điện không thấy bóng một tên thái giám. Ngài bèn xuống điện tự
tay đánh chuông, đánh mãi vẫn chẳng thấy một tên quan lớn quan nhỏ nào tới.
Nhưng lúc Lý Tự Thành vào cung, leo lên ngai vàng ngồi chễm chệ trong điện Kim
Loan, thì đánh chuông trống vừa kêu đã thấy Thành quốc công Chu Thuần Thần cầm
đầu văn võ đại thần toàn triều kéo vào quỳ mọp dưới đất lạy lấy lạy để, miệng
quai ra hô lớn:
- Hoàng đế vạn tuế!
Lý Tự Thành tra vấn thì chỉ có
vài vị đại thần như Phạm Cảnh Văn Nghê, Nguyễn Lộ là còn có lòng trung nghĩa.
Lại hỏi tới Sùng Trinh hoàng đế, thì bọn đại thần ngơ ngác nhìn nhau, chẳng
biết vua đâu. Về sau, phát giác thây nhà vua trên núi Môi Sơn, Thành hỏi tên
tiểu thái giám trông coi đình Thọ Hoàng thì hắn kể lại đầy đủ chi tiết lúc nhà
vua lâm tử với Vương Thừa Ân tuẫn tiết chết theo. Thành sai quân sĩ lấy cánh
cửa trong cung đặt xác hoàng đế tên khiêng đi, dùng chiếc áo quan bằng gỗ cây
liễu tẩm liệm qua loa rồi mang ra ngoài Đông Hoa môn bỏ trong kho chứa cỏ, chỉ
có ba, bốn tên thái giám già trông coi hàng ngày.
Lý Tự Thành ở lại trong cung,
hàng ngày có văn võ bá quan triều bái, chẳng thấy kẻ nào tới lạy trước quan tài
vua Minh. Bọn Trần Diễn, Nguy Tảo Đức, Trương Nhược Kỳ, Lương Triệu Dương,
Dương Quan Quang, Châu Khuê, cả một lũ gian thần đều quay lại xu phụng nịnh bợ
Lý Tự Thành. Cả cha Ngô Tam Quế là Đô chỉ huy Ngô Tương cũng đầu hàng họ Lý.
Ngô Tam Quế có một ái thiếp tên gọi là Trần Viên Viên, vốn là con đào hát trong
nhà ngoại thích Điền Uyển, có sắc đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Một hôm Quế tới
uổng rượu tại nhà họ Điền trông thấy liền xiêu lòng, bèn xin Điền Uyển đem về,
Quế sủng ái Trần thị hết mức ngày đêm ôm ấp. Quế được ý chỉ của Sùng Trinh
hoàng đế đem quân đồn trú tai Sơn hải quan. Y sợ da thịt của người tình quá non
mỏng không chịu nổi phong sương nơi quan ngoại nên gửi nàng lại nhà cha mình.
Khi Lý Tự Thành đánh Bắc Kinh, Ngô Tam Quế được phong Bình Tây bá, đem quân hồi
kinh hộ giá.
Vừa về tới Phong Nhuận, Quế đã
được tin kinh thành thất hãm. Quế hỏi tin được biết cha đã hàng giặc. Hỏi đến
Trần Viên Viên, thì nàng đã bị tên tướng giặc Lưu Tôn Mẫn cướp đi và đem nàng
dâng cho Lý Tự Thành hưởng thụ. Được những tin động trời ấy, thử hỏi làm sao
Quế chịu nổi? Thế là một mặt Quế đem đại binh ngày đêm đánh thốc về kinh, một
mặt sai phó tướng Diệp Vũ Chung tới quan ngoại nhờ cứu giúp.
Diệp Vũ Chung kể hết mọi sự
xong, Đa Nhĩ Cổn còn hỏi đi hỏi lại nhiều điều chưa rõ ràng rồi mới suy tính kỹ
lưỡng.
Sau đó Cổn lập tức truyền lệnh
huy động binh mã, dựng một cây cờ lớn trên viết bốn chữ"Đoàn quân nhân
nghĩa" diễu võ dương
oai, đánh thẳng vào Bắc Kinh, có quân của Bình Tây bá dẫn đường.
Lý Tự Thành nghe tin quân Mãn
Thanh kéo tới, hoảng quá bắt cóc thái tử của Minh triều và hai vị Vương gia rồi
bỏ chạy về hướng tây. Ngô Tam Quế đuổi đánh, giết được cha y là Ngô Tương. Lúc
hỏi tới Trần thị, Quế mới hay nàng đã bị Sấm Vương Thành đem đi mất. Quế đuổi
theo. Đến giữa đường, bắt gặp Trần thị đang một mình thui thủi. Thật là vui
buồn lẫn lộn! Quế lấy lại được người đẹp, chẳng còn bụng dạ nào mà truy kích
nữa, bèn quay về thành Bắc Kinh.
Đa Nhĩ Cổn vào cung nhà Minh,
chẳng cần làm khách, nhảy lên ngai vàng trong điện Anh Võ, để cho trăm quan
triều hạ.
Cổn một mặt cho chiếm giữ các
cung điện một mặt tự tay viết tờ sớ tâu về Thịnh Kinh, sai Phụ Quốc công Đồn Tề
Khắc Hoà Thác, và Cố sơn ngạch chân Hà Lạc Hội đón rước vào Bắc Kinh.
Cổn lại phái hàng thần của Minh
triều là Kim Chi Tuấn thiết lập vô số hành cung, dọc hai bên đường chạy từ Sơn
Hải quan thẳng tới Bắc Kinh.
Tới ngày hai mươi tháng chín, Duệ
thân vương được tin Thuận Trị hoàng đế đã cung thỉnh Thái hậu tiến vào thành
Bắc Kinh. Đa Nhĩ Cổn vội triệu tập văn võ đại thần khắp triều mũ áo chỉnh tề,
xuất thành xa chín dặm, cung tiếp thánh giá.
Bỗng người ta nghe chín tiếng
đại bác nổ rền, rồi ở phía trước, chuông trống, nghi tượng, cờ rồng xe phượng,
bọn thị tùng áo lông màu lam chia đôi hàng tả hữu, hộ tống long xa, oai vệ kéo
tới. Trong long xa là Thái hậu má còn mịn, tóc còn xanh, bế trong lòng chú Trời
con nhỏ xíu. Chiếc long xa từ từ lăn bánh, từ Vĩnh Định môn tiến vào Đại Thanh
môn. Hai bên đường, bách tính nhà nào nhà nấy bày hương án đón tiếp.
Từ trong các cửa sổ, các ngách
tường, đám dân đen nghé mắt nhìn trộm. Xa giá tiến vào Tử Cấm thành. Văn võ đại
thần nhất tề sui ra, chỉ còn lại một mình Nhiếp chính vương theo giá vào cung.
Thuận Trị Thái hậu vào Từ Ninh cung, nghỉ ngơi một lát rồi truyền chỉ cho Đa
Nhĩ Cổn vào.
Hai người tình cũ xa cách đã
lâu, nay được tái hội tự nhiên có một phen nghiêng trời lệch đất, tha hồ cho
tình yêu lai láng. Đôi bên trò truyện mãi khuya, Cổn mới lui ra trở về dinh
mình. Lúc đó Tiểu Ngọc Nhi, phúc tấn vợ Hoà Cách cũng đã theo gót vào Bắc Kinh.
Cổn trở về phủ cười đùa trò chuyện với vợ một lát, rồi qua quấy phá hai chục cô
thị thiếp một hồi, cuối cùng lẻn vào phòng cô cháu dâu nưng nịu mân mê bàn tay
ngọc.
Vợ Cổn, nàng Tiểu Ngọc Nhi từ
khi lấy chồng và biết chồng mình có tình với chị ruột mình, thì lòng lúc nào
cũng ngầm ỹ oán giận, không cách nào nguôi. Đôi ba lần tức quá nàng đã định
chạy vào cung để cãi nhau với chị, đánh ghen với chị, nhưng lại nghĩ chị mình
nay đã làm tới Thái hậu, thế lực vượt xa mình, thì làm sao mà chống lại, đành
lại phải câm nhịn.
Cổn mấy hôm đó vì trong cung
bận nhiều việc, đành phải ở lại mấy ngày đêm. Tiểu Ngọc Nhi máu ghen lại càng
sôi lên.
Thuận Trị hoàng đế chọn ngày
mồng một tháng mười để đăng cơ. Bởi vậy ngày hai mươi sáu tháng chín ngài hạ dụ
cho đại tiểu quần thần mặc tang phục để tang Sùng Trinh hoàng đế ba ngày. Tới
ngày mồng một, toàn triều thay đổi cát phục.
Hoàng đế thăng triều, ngồi giữa
điện Anh Võ Văn. Võ trăm quan nhất tề quỳ lạy tung hô vạn tuế ba lần. Sau đó
nhà vua hạ luôn ba đạo dụ: Đạo thứ nhất là đem Minh triều cải đổi ra thành Đại
Thanh, đại xá thiên hạ, miễn thuế cả nước một năm. Đạo thứ nhì là hạ lệnh chơ
thần dân trong thiên hạ phái nhất luật cắt tóc trong thời hạn mười ngày. Đạo
thứ ba là phong A Tế Cách làm Tĩnh viễn đại tướng quân, hợp binh lại với Ngô
Tam Quế. Thượng Khả Hi từ biên viễn Đại đồng lại hợp với quân Mông Cổ, tiến vào
Du lâm Diên An đánh mặt sau Thiểm Tây để tiêu diệt bọn Lý Tự Thành, lại phong
Đa Đạc làm Định quốc đại tướng quân xuống miền Giang Nam đi thu phục thiên hạ
của nhà Minh.
Chỉ nói riêng đạo dụ cắt tóc
cũng đã gây chết chóc cho không biết bao trung thần nghĩa sĩ. Nhưng thôi, chẳng
cần nhắc tới cho thêm đau lòng, chỉ cần nói chuyện Đa Nhĩ Cổn, sau khi phân
phát các lộ binh mã đi rồi, ngày đêm nằm lì trong cung cấm cùng Thái hậu thủ
lạc. Các bà tấn, vợ các thân vương, hàng ngày cũng phải luân phiên vào cung để
chúc mừng. Duy chỉ có Tiểu Ngọc Nhi vì ghen tức với chị đến tận xương tuỷ. nhất
định không thèm diện kiến.
Lần này thấy chồng vào cung ở
lỳ trong đó đến mấy ngày không về, nàng điên lên, cưỡi xe xông thẳng vào Từ
Ninh cung, đầu không chải, quần áo không thay. Bọn thái giám và cung nữ thấy
nàng có vẻ hung dữ bèn chặn lại. Đang ghen tức uất hận, lại không có chỗ tiết,
hơn nữa còn bị bọn người ngăn cản, nàng bèn đứng luôn ngoài cung chỉ trời vạch
đất, vung tay múa chân lớn tiếng chửi bới om sòm, một lời kêu Đa Nhĩ Cổn, hai
lời kêu Nhiếp chính vương. Nàng chửi bới chồng một lúc lâu rồi quay sang vạch
hết chuyện tư tình của Cổn với Thái hậu ra cho mọi người biết, khiến bọn thái
giám cũng như cung nữ hoảng hồn bạt vía, bịt tai chẳng dám nghe. Cuối cùng vài
cung nữ đành phải tới dùng lời ngọt ngào khuyên nhủ rồi mời nàng vào ngồi trong
Tây thư phòng, mặt khác sai người chạy vào trong thông báo cho Nhiếp chính
vương biết.
Lát sau, bọn cung nữ truyền lời
ra, nói mời nàng về trước và báo Vương gia đêm nay thế nào cũng về phủ. Tiểu
Ngọc Nhi nghe xong, chẳng biết làm gì hơn, đành lủi thủi lên xe trở về.
Trời gần tối, Đa Nhĩ Cổn quả
nhiên về nhà. Đa Nhĩ Cổn tuyệt nhiên chẳng đả động tới chuyện xảy ra lúc ban
ngày.
Hai vợ chồng ăn xong bữa tối
rồi cùng lên giường nằm nghỉ tại phòng Ngọc Nhi. Bọn thị thiếp thấy vậy rất lấy
làm lạ.
Qua ngày hôm sau, vào lúc sáng
sóm tinh sương, cả bọn kéo nhau tới đợi trước phòng Ngọc Nhi thì thấy nàng nằm
cứng đơ trên giường, thất khiếu đều chảy máu. Thì ra nàng đã chết từ lúc nào!
Cả bọn hoảng hồn bạt vía và
không cần phải suy nghĩ cũng biết được ai là thủ phạm, nhưng không đứa nào dám
kêu. Cổn coi việc xảy ra như không có gì đáng để ý, thủng thẳng cho gọi quan
sai tới mua sắm quan quách khâm liệm rồi làm lễ chôn cất.
Sau vài ngày tang ma, Nhiếp
chính vương Đa Nhĩ Cổn lại vào cung như cũ, có lần nằm luôn tới mười ngày chẳng
thấy ra ngoài. Chuyện tư tình giữa chị dâu em chồng từ khi Tiểu Ngọc Nhi kể xấu
tại cung môn không còn ai là không biết.
Tiếng đồn chẳng đẹp này tới tai
Thuận Trị hoàng đế. Nhà vua tuy nói là còn nhỏ tuổi nhưng cũng đã cảm thấy đôi
phần nhục nhã, khó chịu.
Không ngờ lúc đó có một vị Lễ
bộ thượng thư tên gọi Tiềm Khiêm Ích sớm đã biết tâm bịnh của Nhiếp chính vương
và của Thuận Trị hoàng đế. Ông nghĩ thế nào đó, bèn dâng một tờ sớ, ý rằng:
"Hoàng thái hậu hiện đang
xuân, sống một mình trong cung cấm, ắt hẳn cam chịu nhiều điều thương cảm.
Nhiếp chính vương có công cao vị cả, lại chẳng may đoạn huyền. Vậy chi bằng xin
Thái hậu hạ giá "(lấy xuống) Nhiếp chính vương khiến có thể cởi bỏ được
đại công của hoàng thúc".
Đa Nhĩ Cổn đọc xong bản sớ, bất
giác lòng như hoa nở. Ông bèn chạy vào cung đưa cho Thái hậu rồi bàn tính với
nhau.
Thái hậu tuy cảm thấy xấu hổ,
nhưng lại cười bảo Cổn:
- Ta không biết đâu đấy! Người
bàn tính với bọn chúng xem sao.
Cổn quay về phủ liền cho gọi
Tiềm Khiêm Ích tới. Hai người bàn đi tính lại với nhau suốt cả đêm. Qua ngày
hôm sau, Ích vào triều, đem ý mình tâu lên cho hoàng thượng rõ.
Thuận Trị hoàng đế tất nhiên
chuẩn tấu. Ngài hạ một đạo dụ xuống cho thần dân. Đạo dụ nói:
"Trẫm lấy tuổi trẻ lên
ngôi, đặt vạc nơi Yên Kinh, biểu chính ở muôn phương, quét sạch bốn bể, dốc
lòng đạo đức, cố làm cho nước nhà thịnh vượng. May nhờ được Thánh mẫu hoàng
Thái hậu hiền đức bên trong, Nhiếp chính vương hoàng thúc khuông phò bên ngoài,
một lòng một dạ, trẫm mới có cái cơ nghiệp như ngày nay. Trẫm nhớ lại Hoàng
Thái hậu từ khi Hoàng khảo về trời một niềm vịn râu rồng mà trông ngóng, ắt
không khỏi thương tâm, lại ngậm mật gấu để dạy con, không mở miệng cười. May
nhờ có Nhiếp chính vương nên trẫm phó thác được trách nhiệm, gởi gắm được tâm
lòng, lại nhuần thấm được từ ân vâng theo thêm ý đẹp. Trẫm nghĩ tới khi vương
đuổi hươu công thành đem xích đởm tỏ lòng trung, lúc tung ứng vọng trọng, đem
đan tâm mà phò trợ, hoặc khi vương mang kim đằng dẹp loạn, có công lập cơ công
phụ trọng, lúc đem Thiệt Khoán báo ơn, quên cái gián của Khâu tẩu năm xưa. Trẫm
lại cũng muôn làm vui nơi cung lạnh, cố đem cởi bỏ cảnh bi thương của con hạc
lạc đàn và tìm cách gây mừng nơi cụng vắng, để khỏi nghe hát khúc của con loan
cô độc. Tuy nói rằng cầm kính giữ lễ nhưng chấp kinh vẫn phái tòng quyền.
Thông biến kinh quyền chẳng qua
để giữ tròn đạo vợ nghĩa chồng để gây vui cho bực thân trưởng bên trên. Ôi
thôi! Lễ Kinh đều có đủ tuy chẳng nói cái điều tái giá nhưng gia pháp vẫn phải
theo dù không có cái luật trùng hôn, nhưng thánh nhân đâu có ngại chi tới điều
đạt tiết. Kẻ đại hiếu rất quý ở chỗ thuận theo đấng thân, đấy là nỗi khổ tâm
nhất của trẫm, trẫm mong được thần dân trong thiên hạ lượng xét chung. Nghi
điều của buổi đại hôn, trẫm giao cho Lễ bộ bàn định và tâu trình để trẫm cho
thi chiếu. Khâm thử" .
Hồi 44: Đám cưới của Hoàng Thái Hậu hạ giá Nhiếp Chính
Vương
Lễ bộ tiếp được thánh
chỉ, bèn đem bàn định những nghi tiết cho Thái hậu hạ giá. Bộ chọn ngày lành
tháng tốt để tổ chức hôn lễ. Mặc khác, phái định Hoà Thạc thân vương là Sung
Khâm sung chức Đại hôn chánh sứ, Nhiêu Dư quận vương sung chức Đại hôn phó sứ.
Hai vị chánh phó sứ có nhiệm trách đưa Nhiếp chính vương tới cửa Ngọ Môn để làm
lễ Nạp thái. Trên lễ đơn có kê khai đủ thứ như sau: ngựa vằn hai chục con, giáp
trụ hai chục bộ, đoạn hai trăm tấm, vải bốn trăm súc, vàng bốn trăm lạng, bạc
hai vạn lạng, đồ trà bằng vàng hai bộ, đồ trà bằng bạc bốn bộ, mâm bạc bốn
chiếc, ngựa tốt bốn chục con, giáp của lạc đà bốn chục chiếc. Tất cả những lễ
vật này bày thành hàng trong cung điện Thái Hoà. Còn ở Kiền Thanh cung thì
hoàng đế tứ yến mời Nhiếp chính vương vào tiệc.
Tiệc xong, Nhiếp chính vương
lại phải tới cung Thọ Ninh để làm lễ "Tam quy cửu khấu" tạ ơn.
Đến hôm lễ Đại hôn, ngay từ
canh năm, Nhiếp chính vương đã sắm sanh đầy đủ cả một ban chấp sự: một cặp voi
trắng dẫn đầu, phía sau là một cỗ xe báu, rồi đội nhạc, đèn đỏ, quản tượng sư,
Chỉnh nghi uý, Dẫn trượng, Liễu trượng, Lập trảo, Ngoạ trảo, Tính Việt, cờ ngũ
sắc Kim Long nhỏ, cờ Thuý Hoa, cờ Kim Tú, cờ Môn Kỳ, cờ Nhật Nguyệt, cờ Ngũ
Dân, cờ Ngũ Lôi, cờ Bát Phong, cờ Cam Vu, cờ Liệt Tú, cờ Ngũ tinh, cờ Ngũ Nhạc,
cờ Tứ độc, cờ Thần Võ, cờ Chu Tước, cờ Bạch Hổ, cờ Thang Long, cờ Thiên Mã, cờ
Thiên Lộc, cờ Tịch Tà, cờ Tê Ngưu, Cờ Xích Hùng, cờ Bạch Hùng, cờ Bạch Chấn Lộ,
cờ Minh Diên, cờ Xích Điểu, cờ tràng Hoa, cờ Hoàng hộc, cờ Bạch Tri, cờ Vân
Hạc, cờ Khổng Tước, cờ Nghi Phượng, cờ Tường Loan, cờ ngũ sắc Long độc, cờ Tiền
phong độc, cờ Hộ Quân độc, cờ Thiệp Kỳ Hoàng mao, Nghi Hoàng mao, Kim Tiết, cờ
Tiến thiên nạp ngôn tình, cờ Phu văn chấn văn tình, cờ Bao công hoài viễn tinh,
cờ Minh hình bật giáo tin, cờ Giáo hiếu biểu tiết tinh, cờ Long đều phan, cờ
Báo vĩ phan, cờ Giáng dẫn phan, cờ Tin phan, quạt Loan phụng vượng đỏ, quạt
đuôi trĩ, quạt đuôi công, quạt Đơn long nền đỏ, quạt Đơn long nền vàng, quạt
chữ thọ, tàn vuông đỏ, tàn vuông tía, tàn hoa ngũ sắc, tàn cửu long ngũ sắc,
tàn cửu long vàng, lọng Tứ Chi, lọng Thuý Hoa, lọng Cửu long vàng, Kích, giáo,
thương đuôi beo, cung tên, nghi đao, thượng mã, kim cơ, giao ỷ bằng vàng, ống
nhổ bằng vàng, hộp hương bằng vàng, lừ hương bằng vàng; phất trần, nắp bằng
vàng, bình rượu. Tất cả những vật này cứ đôi một lần lượt tiến lên trước. Số
nội giám hôm đó phải lực dịch vào việc nảy lên tới một ngàn hai trăm bốn mươi
sáu người.
Đoàn chấp sự đi từ cửa Đại
Thanh thẳng tới cửa cung Thọ Ninh đứng dày đặc con đường trải sỏi vàng.
Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn
ngồi ngay ngắn trong xe Kim liễu, theo sau có các tên ngự lâm quân, tên nào
cũng cầm thương đuôi beo, cầm nghi đao, cung tên, cưỡi trên lưng ngựa diễu võ
dương oai. Chót hết là một cây cờ Hoàng long đại tộc được giơ cao tung bay
trước gió.
Đoàn người từ từ tiến vào cửa
cung. Phía trong cung, lúc đó đã có một bọn Thân vương phúc tấn, các phu nhân
của bối lặc, bối tử, các bà mệnh phụ của các nội vụ đại thần, các bà mệnh phụ
nội quản lĩnh, xét theo phẩm trật mà ăn vận đại phục, đều đứng chờ đợi. Đến giờ
tốt, Hoàng Thái hậu mặt đồ cát phục vào, trong khi đó hoàng đế xuất lĩnh một
bọn Thân vương đại thần vào nội cung làm lễ "Tam
quy cửu khấu" và mời bà
lên Phượng liễn, có mười sáu cung nữ tuỳ tùng hộ vệ và ba mươi hai tên nội giám
khiêng liên ra khỏi cung. Bọn các bà phúc tấn, phu nhân, mệnh phụ hộ tống đều
ngồi trên những chiếc xe sơn, màu đỏ, theo phía sau. Còn chiếc kim liễn của
Nhiếp chính vương thì đi phía tay mặt hộ tống.
Khi tới cổng vương phủ tất cả
nghi trượng đều dừng lại nhưng bọn các quan lớn nhỏ thì tới cửa nghi môn mới
dừng.
Phượng liễn của Thái hậu đi
thẳng mãi vào chính viện mới đỗ xuống. Bọn nữ quan tiến lên, nâng Thái hậu ra
khỏi phượng liễn rồi đưa bà vào tây viện nghỉ ngơi.
Giờ động phòng tới. Bọn nữ quan
vào mời Thái hậu ra, rồi quỳ xuống dâng rượu. Nhiếp chính vương cùng bà làm lễ
hợp cẩn. Bọn nữ quan đưa hai người vào động phòng.
Qua ngày hôm sau, Thuận Trị
hoàng đế thăng điện Thái Hoà. Trăm quan dâng biểu khanh hạ. Hoàng đế giáng dụ
cho quần thần yến tiệc linh đình ngay tại hai bên thiên điện ở mé đông cũng nhứ
mé tây. Và sau đó, hoàng đế hạ chỉ, tôn Duệ vương lảm Hoàng phu Nhiếp chính
vương.
Mỗi ngày tảo triều, Hoàng phu
Nhiếp chính vương ngồi ở phía tay mặt hoàng đế, cùng chịu trăm quan quỳ lạy.
Thái hậu từ khi lấy Nhiếp chính vương, suốt ngày ở tân phòng mua vui hưởng lạc,
quên mất là mình đã tới 40 cái tuổi mà chỉ coi mình như cô gái đôi tám, sáng
nào cũng kề vai áp má, đêm nào cũng ấp ngực ủ môi. Nay đã lấy Đa Nhĩ Cổn, định
hẳn danh phận thì thái hậu có còn phải kiêng kỵ gì ai. Suốt ngày, bà nằm trong
phòng, độc chiếm lấy thúc thúc, báo hại hai chục cô hầu thiếp cùng cả cô cháu
dâu chẳng còn ai được xơ múi gì nữa.
Nhiếp chính vương suốt ngày kề
vai sát vế với bà chị dâu, thôi thì hết tân hoan đến cựu ái, mối ân tình quả
thật nồng nàn mùi mẫn. Nhưng rồi một tháng sau, thúc thúc Nhiếp chính vương đâm
chán, tự nhiên nhạt dần bà chị dâu. Cặp chị dâu em chồng này khi chưa cưới hỏi,
còn tằng tịu giấu giếm thì tha thiết lắm, thèm thuồng lắm, nhưng nay đã công
khai thì còn có gì ham hố mà chả chán. Bởi vậy Nhiếp chính vương thường lẻn vào
buồng cô cháu dâu để gỡ gạc. Thái hậu biết được, máu ghen nổi lên thế là sóng
gió tơi bời không ai can nổi.
Thực ra, Thái hậu cũng chẳng
lép gì! Bà chợt nhớ tới người xưa là Đại học sĩ Hồng Thừa Trù của mình. Thế là
bà cho triệu tình nhân vào phủ để trò chuyện mua vui khi vương ta vắng mặt. Ở
đời có cái gì bí mật mãi được! Chuyện Thái hậu tằng tịu với trai một ngày kia
cũng lọt vào tai Cổn. Ức lắm, nhưng không có cách đối phó nên Cổn đành chịu
vậy.
Lúc đó, Đa Đạc ở Giang Nam đã dẹp yên
khắp miền này, hưởng dụng đủ cảnh phồn hoa khoái lạc. Quan quân thủ hạ bắt được
gái đẹp, Đạc đem dâng cho Dự vương. Gái Giang Nam có cái tuyệt là nước da mịn
mát, thân hình mềm mại, quả là một cái thú đặc biệt. Trong phủ Đa Đạc đám son
phấn xanh đỏ này ít ra cũng được bốn năm chục nàng, đều là những trang tuyệt
sắc giai nhân. Trong số này có quả phụ Lưu Tam Tú, người tuy đã luống tuổi,
nhưng mặt hoa da phấn, sắc sảo quyến rũ hết sức. Dự vương yêu quý muôn phần,
nên phong cho nàng làm vương phi, ngày ngày cùng nàng du ngoạn hưởng lạc.
Hồi đó, gặp lúc Đoan dương giai
tiết, Dự vương cùng Lưu Tam Tú theo tới bờ sông xem bơi thuyền rồng. Thế rồi
vương liên tưởng tới Thái hậu ở trong cung cấm, tuy tận hưởng vinh hoa nhưng có
khi nào được xem cái trò vui này bao giờ. Bởi vậy vương, cho đóng mười chiếc
thuyền rồng, chọn một chục gái đẹp, tuyển một đội nhạc rồi gởi thẳng về kinh
dâng Thái hậu. Thái hậu nhận thuyền liền hạ chỉ mở đại hội thuyền rồng ở vùng
Tam Hải, mời rất nhiều phúc tấn, phu nhân, mệnh phụ ngồi trong thuỷ các để xem
thuyền. Thuận Trị hoàng đế ngồi ở chính giữa, có Nhiếp chính vương ngồi bên
cạnh. Mười chiếc thuyền rồng gióng lên mười hồi chiêng trống rồi lướt đi lướt
lại rẽ sóng thành những vệt hoa trên mặt nước. Một lát sau, đoàn thuyền rồng
nhất tề chèo gần lại bên thuỷ các.
Hai chục cô gái bước lên xin
Thái hậu và hoàng thượng ban thưởng. Thái hậu nhìn bọn gái đẹp bỗng cảm thấy
vui thích bèn hạ một tiếng thưởng, tức thì bọn Thái giám đưa những cái giỏ đã
chuẩn bị sẵn nào là bạc vụn, nào là y phục, nào là đồ chơi, nào là trái cây
xuống thuyền cho bọn con gái.
Giữa lúc mọi người đang mải
ngắm, bỗng một đại hán nhảy từ mũi thuyền lên gác, tay cầm một cây đao nhọn đâm
bổ vào Nhiếp chính vương. Vương mắt lẹ chân nhanh né được sang bên. Nhưng cây
đao nhọn cũng đã hạ xuống nhanh như chớp chém chết một tên tiểu thái giám. Quân
ngự lâm nhất tề xông lên, bắt giữ ngay tên thích khách, rồi giao cho hình bộ
thẩm vấn. Hắn khai thẳng ra rằng y nhận lệnh của một vị đệ nhất đại nhân trong
thiên hạ để hành thích.
Qua ngày hôm sau, hình bộ lại
vào nhà lao gọi ra để hỏi tiếp nhưng hung thủ đã tự vẫn chết từ lúc nào.
Nhiếp chính vương biết chuyện,
hết sức tức giận, tức khắc cách chức một loạt từ binh bộ thượng thư đến bọn
quan thừa thẩm rồi bắt cho hết để tra vấn. Vương lại ngờ là tên thích khách từ
Giang Nam tới. Hơn nữa Dự vương có cái thù với vương từ lâu, cho nên vương càng
ngờ chính Dự vương đã sai người hành thích. Càng ngờ càng tức giận. Vương lập tức
đòi Thái hậu hạ một đạo Thánh chỉ cách chức ngay Giang Nam tổng đốc, rồi phái
Thừa Trù tới thay, dặn kín Trù thu phục để nắm lấy quân đội và lần lần thu phục
hết binh quyền của Dự vương. Thành thử một việc ra mà lợi đủ đường, khiến vương
tống khứ được cả tên Trù, chẳng khác gì nhổ được cái đinh trong mắt. Tất cả
những chuyện này đều do kế hoạch của Hà Lạc Hội vẽ vạch cho vương.
Từ khi Nhiếp chính vương với
Thái hậu chính thức thành vợ chồng thì ân tình giữa hai người lại không được
nồng thắm như trước. Hồng Thừa Trù tuy đã bị tống đi nhưng máu ghen làm sao có
thể dứt hẳn trong lòng Nhiếp chính vương được, lại thêm một việc mưu sát đột
ngột khiến vương phải đôi phần hoảng sợ. Thái hậu tuy nói hạ giá nhưng bà chỉ ở
tại phủ của Nhiếp chính vương vẻn vẹn có một tháng, rồi lại vào Từ Nình cung ở
miết trong đó, vương phải chạy đi chạy lại, khi thì ở phủ khi thì vào cung,
việc này khiến vương càng lo có người ám toán dọc đường. Bởi vậy, vương cũng
bớt dần vào cung mà chỉ ở trong phủ mình cùng cô cháu dâu mua vui hưởng lạc mà
thôi. Nhưng lâu ngày rồi vương cũng chán, Vương lại thèm của lạ.
Hồi đó nước Triều Tiên có phái
một vị thần tên Kim Ngọc Thành đem đồ tiếng cống, ngụ tại khách quán. Thành có
dịp thổ lộ cho Hà Lạc Hội biết quốc vương của y có hai nàng công chúa nhan sắc
tuyệt vời. Hội vội chạy vào rỉ tai Nhiếp chính vương. Giữa lúc đang chán ngán
kém vui, Nhiếp chính vương được tin đó vội đặt ngay kế hoạch cho Hội thi hành.
Hội được lệnh lập tức tới
thương lượng với đại thần Triều Tiên. Vị này thấy đây là lệnh của Nhiếp chính
vương, đâu dám trái ý, vội quay về nước, tâu tỏ cho quốc vương hay. Vua Triều
Tiên là Lý Minh vốn có ý chơi trèo với thượng quốc đã từ lâu nên khi nghe nói
Nhiếp chính vương muốn lấy hai nàng công chúa của mình làm phi tử, thì còn gì
đắc ý hơn. Bởi vậy ông một mặt trả lời ưng thuận, một mặt báo cho hai cô con
gái ông hay. Hai cô công chúa được biết sắp trở thành phi tử của nước Đại
Thanh, trong lòng cũng lấy làm mãn nguyện lắm.
Nhưng họ còn phải giữ kẽ, bởi
vì họ biết bà Thái hậu nước Đại Thanh đã hạ giá lấy Nhiếp chính vương, tất
nhiên là được sủng hạnh chuyên phòng. Họ cho rằng nếu hai chị em họ qua Thanh
quốc thì thế nào cũng bị bà ta khi dễ. Nếu vương muốn lấy họ thì chi bằng mời
vương tới nước họ để thành thân rồi làm cho họ một toà vương phủ cao rộng to
lớn để họ vĩnh viễn ở đó, khỏi phải xa cha xa mẹ. Hai cô công chúa tính toán
với nhau như vậy, nên vua cha của hai nàng bèn cho người đem sở nguyện đó báo
cho Nhiếp chính vương hay. Vương được hồi đáp, lúc đầu cũng lấy làm nguyện ý vì
như thế tránh xa được tai mắt của Thái hậu, nhưng về sau suy đi nghĩ lại vương
lại thấy bất tiện, cho rằng chẳng ra thể thống gì khi mình đường đường là một
vị Nhiếp chính vương mà lại đi cầu thân ở một nước thuộc quốc. Mãi về sau Hà
Lạc Hội mới nghĩ ra một kế, đại thể vương cho xây cất một toà Hành cung ở thành
Khách Thích gần biên giới Triều Tiên để hai nàng công chúa ở còn vương thì láy
cớ là xuất quân đi tuần cảnh rồi tới với hai nàng.
Mọi việc xếp đặt đã xong, Nhiếp
chính vương chọn ngày Cát Nhật khởi trình từ Bắc Kinh, đem theo bọn quan binh
của Bắc kỳ Cô Sơn Ngạch Châm. Thái hậu tuy không muốn cho Nhiếp chính vương xa
mình, nhưng vì việc quốc gia đại sự chẳng tiện ngăn trở đành phải để cho vương
đi.
Lại nói Thuận Trị hoàng đế mỗi
ngày một lớn. Bởi vậy việc chung thân của ngài trở nên rất khẩn yếu. Trước đây,
Nhiếp chính vương đứng làm chủ đã hỏi con gái của bộ chủ bộ lạc Khoa Nhĩ Bí Ngô
Khắc Thiện cho hoàng đế làm hoàng hậu. Nay Nhiếp chính vương lên đường xuất
binh, nên Thái hậu phải nói với vương chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ đại
hôn cho hoàng đế. Nhiếp chính vương lúc đó, ngày đêm chỉ nghĩ tới hai nàng công
chúa Triều Tiên cho nên mọi việc trong cung vương để mặc thái hậu định liệu.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét