Hồi 30: Vu oan giá họa
Cáp Tề giết chết còn
lấy làm căm hận. Cho nên khi thấy Bố Chiêm Thái bị bại vì bọn Kiến Châu thì Lộc
đồng bệnh tương lân, thu nạp luôn Thái. Lộc và Thái ngày đêm bàn tính kế hoạch
báo thù. Hai người sực nhớ tới Cáp Đạt bộ chủ là Mông Cách Bố Lộc, trước đây đã
có lần giúp Nỗ Nhĩ Cáp Tề khinh rẻ Diệp Hách bộ bèn cùng cho rằng trong công
cuộc phục thù này, trước hết phải đánh Mông Cách.
Tháng năm năm thứ 27 niên hiệu
Vạn Lịch nhà Minh, Nạp Lâm Bố Lộc điều động đại đội nhân mã tiến đánh thành Cáp
Đạt. Cáp Đạt bộ chủ hoảng hốt lo sợ.
Ông nghĩ rằng trước đây ông có công giúp
người Kiến Châu thì ngày hôm nay, Nỗ Nhĩ Cáp Tề hẳn sẵn lòng giúp lại ông. Bởi
vậy ông đem theo ba người con trai tới Kiến Châu, nguyện ý dùng họ làm con tin,
chỉ yêu cầu Nỗ Nhĩ mau phát binh cứu nước ông.May thay, người em thứ hai của Nỗ Nhĩ Cáp Tề là Thư Nhĩ Cáp Tề lấy Ô Thích (em gái Bố Chiêm Thái bối lặc) làm vợ, thành thử Thái đích thân đem em gái tới Hưng Kinh. Thái thấy Nỗ, hết sức mắc cỡ. Nhưng Nỗ cho rằng đã là bà con thân thích với nhau rồi thì nên quên hết mọi hận thù thuở trước. Do đó hai người đánh chén với nhau, vui cười hể hả, không còn hậu ý gì nữa Trong lúc ăn nhậu, trò chuyện, Thái mới biết Nỗ đã mất bà đại phúc tấn. Thái liền nhắc tới em gái Bố Dương Cổ, tán dương sắc đẹp của nàng ta. Nỗ Nhĩ Cáp Tề bắt ngay lấy cơ hội, uỷ thác luôn cho Thái tới Diệp Hách bộ cầu hôn.
Hồi 31: Những vụ mưu sát
Đêm hôm sau, giữa lúc
Nỗ Nhĩ Cáp Tề, Đại Thiện, Hoàng Thái Cực và cô công chúa con ông, tất cả bốn
người đang ngủ say trong phòng, con chó ông nuôi tên gọi Dương Cổ Cáp bỗng sủa
ầm lên. Ông nhỏm dậy, giương mắt nhìn qua bóng đêm, thấy con Dương Cổ Cáp đứng
thẳng người bắt hai chân trước qua song cửa sổ. Ông nhìn qua cửa số thấy có
nhiều bóng người chuyển động thấp thoáng. Ông nghĩ ngay rằng lại có kẻ ám sát
vội chạy sang giường cạnh lay con gái ông dậy, rồi tới Đại Thiện, Hoàng Thái
Cực. Hai cậu công tử vội cầm mỗi người một cây đao sắc, tới nấp bên cánh cửa
sổ, rồi ông đứng bên trong dựng ngược cây kiếm, cho ra ngoài quát lớn:
- Kẻ nào nấp bên ngoài? Đã tới
đây rồi tại sao không dám tiến vào? Ta sắp ra đây. Bọn ngươi có dám đối địch
cùng ta chăng?
Nói đoạn ông dùng cây kiếm đập
mạnh vào cánh cửa số, lấy chân đạp tung ra, làm bộ như muốn nhảy qua cửa số mà
ra ngoài, nhưng thực ra ông đã quay lẹ mình sang trái, nhảy vèo qua cửa chính
ra. Bọn thích khách bên ngoài không ngờ ông lại khôn ngoan và mau lẹ đến thế,
hoảng hốt co giò chạy vội. Ông nhìn kỹ thì ra đó là một tên thị vệ trong phủ
của ông tên gọi Mạnh Hải. Ông giận sôi gan hạ lịnh tất cả thị vệ đóng kín cổng
thành rồi chia nhau đi lùng bắt thích khách.
Qua ngày hôm sau có một người
chú họ tên Lang Đôn từ thành Ma Thích lại. Đôn bảo Nỗ Nhĩ Cáp Tề:
- Cả họ đều là cừu địch của
mày. Mày bắt ai bây giò chứ?
Nỗ nghe xong bất giác hoảng sợ,
chẳng dám bắt hung thủ nữa. Hôm đó, ông dọn sang ngủ bên phòng bà trắc phi Y
Nhĩ Căn Giác La. Ngủ tới nửa đêm, bỗng nghe ngoài phòng có tiếng động "rắc
rắc" ông vội mặc áo trỗi dậy. A Ba Thái, con trai của Giác La, theo mẹ ngủ
tại phòng đó. Thái cũng cầm đao theo cha, lặng lẽ lẻn ra ngoài. Hai cha con Nỗ
Nhĩ Cáp Tề nấp kín vào một góc kẹt của lò sưởi.
Trời đêm đó tối quá, tất cả khu
nhà như chìm trong bể mực, không thể nhận ra được bất cứ ai, dù chỉ trong
khoảng một thước. Thích khách sờ soạng mãi mới mò tới gần lò sưởi.
Bỗng trên không trung có tiếng
sấm nổi dậy. Rồi một tia chớp loé lên, chiếu sáng khắp cả khu nhà. Nỗ Nhĩ Cáp
Tề nhờ lúc trời chớp, giơ cao sống đao đánh xuống thật mạnh, khiến thích khách
ngã lăn xuống đất. Nỗ Nhĩ nhảy tới, đưa chân trái đè chặt ngực tên thích khách
xuống đất, miệng kêu "Lạc Mạc" liền mấy tiếng. Lạc Mạc là một tên thị
vê thân cận, nghe đại bối lặc kêu vội xách đao chạy lên. Nỗ Nhĩ sai trói tên
thích khách. Mạc nói:
- Tên ác tặc này đã xúc phạm
tới đại giá của đại bối lặc. Giết quách là hơn!
Nỗ Nhĩ Cáp Tề sợ mang tội với
họ mạc, bèn làm bộ hỏi tên hung thủ:
- Thằng kia? Có phải mi tới trộm
ngựa không?
Hung thủ nghe đoạn gật đầu. Nỗ
Nhĩ bật cười khanh khách, bảo Lạc Mạc cởi trói thả ra. Hung thủ vội quỳ xuống
đất lậy Nỗ Nhĩ rồi quay mình bỏ đi.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho rằng mình
khoan thứ cho người ắt người phải hối cải. Nào ngờ, mấy ngày sau lại xảy ra một
chuyện nữa. Đêm đó, Nỗ Nhĩ lúc cởi áo đi nghỉ, nhác thấy một đứa thị nữ ở phòng
bên vò đầu bứt cổ, đã đi nằm rồi lại dậy đốt đèn lên, đốt đèn xong lại tắt, tắt
rồi lại đốt…
Linh tính báo cho ông biết thế
nào đêm nay cũng có chuyện.
Ông bèn lẳng lặng ngồi dậy, mặc
nhuyễn giáp, đeo cung tên lẻn ra ngoài phòng.
Trời tối như mực. Bên cạnh bức
rèm, một bóng đen lao vút lại. Nỗ Nhĩ Cáp Tề vội rút tên giương cung bắn một
phát.
Thích khách quả thật nhanh
nhẹn, tung người lên cao tránh thoát mũi tên. Ông đuổi tới, phóng liền ba phát
tên, trúng ngay gót chân hung thủ. Hắn la lên một tiếng rồi té huỵch xuống đất.
Bọn thị vệ lúc đó đã biết tin, nhất tề ồ tới trói gô thích khách, khảo đả. Hắn
khai tên Nghĩa Tô. Nhưng rồi Nỗ Nhĩ cũng lại tha cho hắn đi.
Từ đó về sau, người trong phủ
ai cũng lưu ý đề phòng từng phút. Hoàng Thái Cực tuổi tuy còn nhỏ, nhưng là
người rất có kiến thức. Cực nói nhỏ với cha:
- Hiện nay, kẻ thù rất đông,
phụ thân đề phòng khó lắm. Chi bằng phụ thân tạm thời ra ngoài đề tránh bất
trắc.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề gật đầu nghe kế.
Một ý nghĩ bỗng vụt tới. Ông nghĩ Lý Thành Lương, xưa kia đã thông đồng với Ni
Kham Ngoại Lan giết hại ông và cha, mãi tới nay thù còn chưa báo mà thi hài ông
cha cũng chưa đem về được. Thiết tưởng nay đem quân xuất thành hướng tới Minh
triều hỏi tội, lúc đắc thắng trở về vừa có thể áp phục được anh em họ hàng, lại
hoàn tất được ý muốn của ông cha đã khuất. Nỗ Nhĩ nghĩ vậy xong cho dựng một
cây cờ trắng lớn, trên viết bốn chữ "Báo
thù rửa hận". Ông lại điểm năm ngàn tinh binh, cho mặc hiếu phục. Việc
trong nhà ông giao cho người em thứ là Thư Nhĩ Cáp Tề rồi chuẩn bị xuất quân.
Tất cả họ hàng nghe Nỗ Nhĩ Cáp Tề xuất sư lần này để báo thù rửa hận cho ông
cha, ai cũng đều cảm phục, kéo nhau tiễn ra khỏi thành Hưng Kinh.
Lại nói đến Lý thành Lương sau
khi giết chết hai cha con đô đốc Giác Xương An, trong lòng lúc nào cũng tâm
niệm đề phòng Nỗ Nhĩ Cáp Tề tìm cách báo thù. Quả nhiên hôm nay Nỗ đã tới vấn
tội. Được tin này, Lương mất cả chủ ý. May thay dưới trướng ông có một viên
quan vốn đa mưu túc kế, liền hiến một kế sách, nhưng đợi tới khi quân địch tới
chân thành mới nói.
Chẳng mấy ngày, thám mã liên
tiếp đưa tin:
- Binh mã Kiến Châu còn cách
thành mười dặm.
- Binh mã Kiến Châu chỉ còn
cách thành năm dăm.
- Binh mã Kiến Châu đã hạ trại
sát chân thành.
Lý Thành Lương được tin vẫn
không thèm để ý tới, chỉ dặn dò quân sĩ giữ vững cửa thành, không được giao
chiến với giặc.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề tới ngoài thành
Phủ Thuận, khiêu chiến suốt ngày mà vẫn chẳng thấy quân trong thành xuất chiến,
Nỗ Nhĩ cũng đành vô kế khả thi. Qua ngày thứ tư, Nỗ Nhĩ lại đem quân tới chân
thành khiêu chiến. Bỗng từ trên thành, một phong thư bắn xuống. Nỗ Nhĩ bóc ra
xem, chẳng ngờ lòng uất hận bỗng tiêu tan, trái lại hết sức cảm kích đối với Lý
Thành Lương, y theo lời lẽ trong thư, lui binh xa thành mười dặm.
Hôm sau, Nỗ Nhĩ mình mặc áo
nhũn, chỉ đem theo có bốn, năm chục tên quân tiến thẳng vào thành. Vừa tới chân
thành, Nỗ Nhĩ thấy cửa thành mở rộng, từ bên trong Lý Thành Lương thân ra đón
tiếp. Hai người cưỡi ngựa song hành, vào tới dinh quan tồng binh mới xuống
ngựa.
Một bàn rượu được đặt ra, hai
người ngồi đối ẩm. Lý Thành Lương dần dần nói đến chuyện ngộ sát ông và cha Nỗ
Nhĩ, cuối cùng đưa ra ý kiến:
- Nay để bảo toàn giao tình
giữa hai bên, tình nguyện trả thi hài của hai vị gia tiên. Đồng thời xin cấp
sắc thư ba mươi đạo, ngựa ba mươi con.
Nói đoạn, Lương sai thị vệ bưng
sắc thư ra đặt trên án thư rồi dắt ngựa đến xếp hàng ngay giữa viện. Nỗ Nhĩ
nhìn kỹ thì thấy ngựa đều là thứ tuấn mã, không thể nào không thích. Quay đầu
lại, Nỗ còn thấy đèn đuốc sáng trưng, khói hương nghi ngút, càng làm tôn nghiêm
thêm ba mươi đạo sắc thư bằng vải đoạn màu vàng. Nỗ cảm thấy đôi chân như nhũn
ra, muốn quỳ xuống đất mà lạy. Lương tiến lên, ngăn lại nói:
- Thong thả hãy tạ ơn, ba ngày
trước tại hạ đã thế Đại bối lặc xin được thánh chỉ tại đây. Hoàng thượng vẫn
phong bối lặc làm Kiến Châu đô đốc như cũ.
Nói đoạn, Lương lớn tiếng hô:
- Xin mời ra đây!
Chỉ nghe bên trong có bát âm
nổi dậy. Rồi hai vị văn quan đầu đội thánh chỉ, từ từ bước ra ngoài.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề đã mấy năm nay mơ
tưởng chỉ duy có một việc phục lại nguyên chức đô đốc. Nay đã thấy trước mặt
một sự thực hiển nhiên. Bởi vậy bèn bò rạp xuống đất, dập đầu tung hô:
- Vạn tuế vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Nỗ Nhĩ vừa tạ ơn xong thì Lương
cùng các quan viên thủ hạ nhất tề tiến ra chúc mừng.
Đêm hôm đó Lương lại bày tiệc.
Tiếng bát âm nối dậy nhà trên thì đàn sáo, nhà dưới thì trống phách. Cuộc vui
kéo mãi suốt đêm. Nỗ Nhĩ nghỉ lại phủ quan tổng binh. Sáng hôm sau thức dậy, Nỗ
Nhĩ đã thấy khắp phủ đệ treo toàn màu trắng. Trước cổng lớn, một cây cờ trắng
đang phất phơ trước gió. Tất cả đều màu trắng chẳng khác gì một toà lâu đài
bằng ngọc.
Nỗ Nhĩ lấy làm kỳ, bèn hỏi ra
mới biết rằng Lương đứng việc tổ chức ngày lễ điếu hai cha con cố đô đốc Giác
Xương An. Bữa cơm trưa đã xong, người ta thấy đưa vào hai cỗ quan tài, Nỗ Nhĩ
biết đó là thi hài của cha và ông, bò lăn xuống đất kêu khóc thảm thiết.
Lý Thành Lương vội chạy tới
nâng Nỗ Nhĩ dậy cho dựng hai chiếc quan tài giữa sảnh. Toàn thành văn võ quan
viên khăn áo chỉnh tề đều tới phúng điếu. Cuộc hành lễ đã xong, Nỗ Nhĩ mới hỏi
Lương xem ai là người giữ gìn cấn thận thi hài cha, ông của mình. Lương chỉ một
người đứng cạnh và bảo:
- Y cũng là một vị bộ chủ tên
gọi ước Xước. Thi hài cha, ông của túc hạ chính nhờ y gìn giữ lâu nay đó.
Nỗ Nhĩ tiến lên vài bước chắp
tay lạy tạ ơn.
Qua ngày hôm sau, Nỗ Nhĩ mang
hai cỗ quan tài ra khỏi thành trở về, có Lý Thành Lương tiễn đưa. Khi từ biệt,
Nỗ Nhĩ tặng Lương một con ngựa tên gọi Tam Phi, có tài leo núi như chạy trên
đồng bằng, vốn một loại ngựa quý hiếm có. Lương cũng lấy làm cảm kích đối với
Nỗ Nhĩ. Lương bèn viết tấu chương về triều tàu với Minh hoàng đế rằng Nỗ Nhĩ
rất cảm kích đối với thánh ân.
Chẳng mấy ngày, thánh chỉ từ
Bắc Kinh tới nói mỗi năm thưởng cho đô đốc Kiến Châu tám trăm lạng bạc, mười
lăm tấm đoạn hoa.
Tờ thánh chí này tới thành Hưng
Kinh, đã làm cho Nỗ Nhĩ Cáp Tề mặt mũi vẻ vang. Quả nhiên, từ đó toàn thể họ
hàng chẳng còn ai dám khinh nhờn ông nữa.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề mong mỏi lập
nhiều công nghiệp lớn khác để khoe khoang với bà con họ hàng. Đại Thiện nghĩ ra
một kế sách giúp cha. Thiện nói:
- Phụ nhân nên tới Bắc Kinh
tiến cống một phen. Khi trở về nếu được điều may mắn, thì vừa có thể khoa
trương oai vũ đối với thân tộc vừa có thể chế phục các bộ lạc khác.
Nỗ Nhĩ cho lời con là phải, lập
tức truyền lệnh cho người tới các bộ lạc sưu tầm: ngọc châu, đà điểu và nhiều
đồ quý khác nữa. Lại chọn một trăm con ngựa tốt đem theo. Sửa soạn xong, Nỗ nhờ
chọn ngày tốt khởi hành với một ngàn vệ binh kiêu dũng.
Bối lặc các bộ lạc cũng như các
anh em thân thuộc, tất nhiên, có một cuộc vui nhộn tưng bừng để tiễn đưa quan
đô đốc lên đường.
Đô đốc Nỗ Nhĩ Cáp Tề trên đường
đi chẳng mấy ngày đã tới Phủ Thuận quan.
Ninh Viễn Bá được tin Kiến Châu
đô đốc tiến kinh triều cống, lấy làm vui mừng lắm. Ông liền sai quân sĩ thu dọn
phòng trại sạch sẽ cho Nỗ Nhĩ tạm trú. Rồi chọn ngày tốt cùng Nỗ Nhĩ tiến kinh.
Ý Nỗ Nhĩ muốn đem theo vào kinh ba trăm vệ binh, nhưng Lý Thành Lương bảo theo
quy củ tiến cống thì không được mang nhiều nên chỉ cho Nỗ Nhĩ mang theo bốn
mươi tên mà thôi. Người em thứ hai cũng theo Nỗ Nhĩ tiến kinh triều cống.
Hai anh em Nỗ Nhĩ Cáp Tề chưa
từng tới Bắc Kinh bao giờ cho nên khi tới nơi, thấy kinh đô hoa lệ phồn thịnh,
nhân vật thanh tú, trong lòng lấy làm mến thích. Rồi những cung điện cao lớn
hiện ra trước mắt khiến họ sinh ra sợ hãi.
Hai anh em vào thành tới ở
trong một toà khách quan. Ngay đêm đó, có hai vị công công tói dạy cho họ những
lễ tiết khi vào triều. Nỗ Nhĩ tạ ơn hai vị công công khá nhiều lễ vật, ngoài ra
còn biếu xén khắp các gia môn.
Ba hôm sau, đã đến ngày vào
triều. Nửa đêm hôm trước, hai anh em Nỗ Nhĩ ngồi trên xe lừa đi thẳng vào tới
cửa triều đình. Họ xuống xe, theo người dẫn đạo, tiến vào nội nha trong hoàng
thành. Đêm còn khuya, đường xá vắng lặng, họ chỉ thấy hai bên tường cao vòi
vọi, đứng sừng sững trong bóng đêm dày đặc. Những góc điện nhô ra ngoài trời,
chênh vênh trên đầu các bức tường, chỗ cao chỗ thấp không biết bao nhiêu mà kể.
Càng ngắm, càng nhận họ càng
thấy mới lạ. Đi quanh đi quẩn một lúc lâu, hai anh em Nỗ Nhĩ mới tới triều
phòng, trong có rất nhiều quan viên túc trực từ lâu, tiến ra ngoài đón rước.
Một vị quan thông dịch chuyển ngữ cho đôi bên.
Ngưng một lát, mọi người bỗng
nghe vọng ra tiếng chuông vang vang từ Cảnh Dương cung. Ai nấy đều sửa lại mũ
áo rồi xếp thành hàng nối đuôi nhau tiên thắng lên điện. Dưới bệ ngọc, hai bên
chia ban đứng xếp hàng thứ tự, nghiêm cẩn.
Trời đã rạng đông. ánh nắng đã
soi rực góc trơi đông, nhuộm hồng những khuôn mặt của bá quan văn võ đứng trong
điện, đang lặng lẽ đợi chờ, thỉnh thoảng tiếng sột soạt của các tà áo mới bị
gió thổi tung rồi lại im bặt.
Mọi người đứng đã khá lâu. Bỗng
nghe tiếng nhạc trỗi dậy, vừa lúc trời đã sáng to. Trên điện, màu sắc rực rỡ,
lấp lánh làm choá cả mắt, khó nhìn rõ mọi thứ. Bọn thị vệ ngự tiền đi qua đi
lại hai bên tả hữu trước mặt. Lại còn thái giám mỗi người tay cầm cây đèn lồng
"sa cung đăng" diễu qua diễu lại trước ngự toạ, nhảy xong múa điệu
nhạc, khi khoan thai, khi dồn dập, họ chia ra đứng hai bên, lặng lẽ, nghiêm
trang, tiếng nhạc cũng ngừng bặt.
Lúc đó Thần Tông hoàng đế đã
ngồi ngay ngắn trên ngai vàng cao ngất ở phần cuối điện. Điện đình lặng lẽ
thêm.
Bỗng trên thềm đá, có tiếng roi
gõ mạnh ba tiếng. Tức thì Tán lễ quan đứng hai bên cạnh điện, xướng lễ. Sau đó
là các văn thần võ tướng chia ban tiến lên từng đợt rồi quỳ xuống dập đầu gục
lạy. Ninh Viễn Bá Lý Thành Lương cũng nối gót trăm quan bò dài xuống đất, trịnh
trọng tâu mấy điều. Rồi, trong giây lát, từ bên trên có lệnh truyền xuống.
Lương thụt lùi lui ra. Lúc đó, hướng đạo quan mới đưa hai anh em Nỗ Nhĩ lên
điện. Một tấm thảm nhung trải ngang hình chữ nhật suốt từ bên tả sang bên hữu
trên thềm điện. Hai anh em Nỗ Nhĩ tới đây, ngừng lạy quỳ mọp xuống làm lễ
"Tam quy cửu khấu". Tán lễ quan hô lớn một tiếng
"Lui" tức thì hai anh em đứng dậy, lui xuống mé dưới điện, tâm thần
bấn loạn đến nỗi dung nhan đức hoàng đế như thế nào cũng chẳng rõ nữa.
Hồi 32: Du ngoạn doanh đài
Một
lát sau, tan triều, vài quan chức cùng với thông dịch quan đưa hai anh em Nỗ
Nhĩ sang Bảo Hoà điện để dự yến do hoàng đế ban. Yến tiệc xong, hai anh em Nỗ
Nhĩ hướng lên phía ngai vàng, gục đầu tạ ơn rồi lui ra khỏi trường môn, lên xe
về khách quán.
Ngày hôm sau, thánh chỉ giáng
xuống, gọi nội vụ đại thần Cung Lý Phiên đưa hai anh em Nỗ Nhĩ đi dạo chơi
doanh đài.
Hồi đó đang vào hè. Sáng sớm
tinh sương, bọn Nỗ Nhĩ thức dậy ăn mặc đàng hoàng, theo hai vị quan trên đi
thắng vào cửa Tây uyển. Anh em Nỗ Nhĩ để tâm quan sát. Họ thấy những cây liễu
to cao, buông cành lả lướt xuống tận mặt đất. Bóng liễu trùm lên cả một vùng
đất phủ cỏ xanh rờn. Bên dưới, cung nga mỹ nữ qua lại du ngoạn. Làn gió nhẹ
thỉnh thoảng lại thổi qua, đẩy đưa mấy cành liễu lướt thướt. Rồi dãy tường hoa
chảy dài theo bờ nước xa tít. Bọn Nỗ Nhĩ phóng tầm mắt trên đê, chỉ thấy rặt
một loại cỏ bò trồng từng khóm, từng cụm. Trên mặt nước đàn én lông sắc tía bay
đi bay lại, như có ý đua với những con thuý điểu màu áo xanh miệng chim chíp kêu
tạo thành một điệu nhạc tân kỳ.
Càng đi sâu vào vườn phong cảnh
càng u nhã, tĩnh mịch. Hai anh em Nỗ Nhĩ phải vượt qua một cái cầu ván. Hoa sen
nở bên dưới đang mùa, hương thơm ngào ngạt, sộc vào mùi khiến tâm hổn kẻ trần
tục như bớt được bao phần ô trọc. Phía bên cầu cất một toà thuỷ cát, bốn mặt
yểm kính lấp lánh, gió lúc nào cũng hun hút thối qua song cửa nghe vi vút.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề xem xét kỹ khắp
nơi, càng thấy cảm phục, cho là một nơi thần tiên hiếm có, chỉ có Thần Tông
hoàng đế mới là người tốt phúc được hưởng mà thôi.
Trong khi Nỗ Nhĩ còn đang suy
tương như vậy thì cả bọn đã bước tới cửa Tiểu Hồng Môn. Trước mặt mọi người
phong cảnh bỗng mở rộng: đó là một hồ nước lớn, bát ngát. Trên hồ có một cái
cầu dài bằng gỗ sơn son khúc khuỷu quanh có chạy ngang trên mặt nước, hai bên
có bao lơn cũng sơn đỏ viền mép cầu. Thư Nhĩ Cáp Tề đi lên trên mặt cầu, miệng
không ngót tán dương. Nỗ Nhĩ quay lại, trừng mắt nhìn em, khiến Thư Nhĩ ngậm
miệng, im bặt không dám ho he thêm tiếng nào nữa.
Chẳng mấy chốc, cả bọn đã vượt
khỏi chiếc cầu dài. Đối diện họ là một toà lâu đài cao rộng làm bằng ván sơn
đỏ, phía trước viết ba chữ "CỬA DOANH ĐÀI". Đi qua toà lầu này
thì tới một con đường đá rộng dài, hai bên có những cây cổ thụ mọc cao chót vót
đến tận mây xanh. Bên cạnh đường là một toà đại sảnh, từ trong đó chạy ra vài
tên thái giám mời khách vào uống trà. Vừa uống trà vừa nghỉ ngơi lấy sức. Bọn
Nỗ Nhĩ Cáp Tề hỏi các viên quan hướng đạo thêm nhiều chi tiết đặc biệt của
Doanh đài. Họ lại quành về sau sảnh để ra ngoài, xuyên qua một khu rừng thông. Ngoài
mép rừng xây một kè đá trắng dài làm bến. Bọn Nỗ Nhĩ vừa ra khỏi rừng vừa thấy
một chiếc thuyền lớn. Thế là cả bọn xuống thuyền. Thuyền từ từ trôi ra giữa hồ.
Quay đầu nhìn lại mé bờ, bọn Nỗ Nhĩ thấy lâu đài san sát; thật là những điện
ngọc lầu quỳnh, vàng son tráng lệ ẩn hiện trong rừng xanh lá cây bóng rợp. Nỗ
Nhĩ Cáp Tề ngự trên mui thuyền, lòng bất giác xúc động, bụng bảo dạ: Địa phương
này quả thật đẹp như cành tiên, ví thử cho ta sống ở đây một năm thì dù có phải
chết đi cùng cam tâm. Hai mắt ông đăm đăm nhìn mặt hồ, suy ngẫm.
Nỗ Nhĩ còn đang xuất thần thì
thuyền đã tới bờ. Cả bọn rời thuyền ra khỏi cửa lên xe trở về khách quán. Lý
Thành Lương lúc đó cũng đã về tới nơi. Yến tiệc lại được bày ra ngay tại khách
quán. Giữa lúc đang ăn nhậu say sưa, mọi người lại thấy mấy ả phấn son ở đâu
tới, rồi điệu múa tiếng ca nổi lên chen với những tiếng nhạc du dương êm ái. Các
nàng, nước da trắng như tuyết, giọng hát ấm như oanh, đã làm cho hai anh em Nỗ
Nhĩ Cáp Tề đâm ra ngây ngất say mê.
Ngày hôm sau, thánh chỉ giáng
xuống, phong Nỗ Nhĩ Cáp Tề làm Long hổ tướng quân, em ông là Thư Nhĩ Cáp Tề
cũng được thưởng khá nhiều đồ vật quý giá. Tạ ơn xong, họ thu xếp hành lý lên
đường trở về quê.
Hai anh em Nỗ Nhĩ diễu võ
giương oai suốt dọc đường về tới quan ngoại. Bộ lạc các nơi được tin Nỗ Nhĩ có
điều vinh hiển, ai cũng kéo tới Hưng Kinh chúc mừng. Trong câu chuyện hàn
huyên, Nỗ Nhĩ tả lại cảnh hoa lệ ở kinh đô nhà Minh, rồi đến sắc đẹp tuyệt trần
của phụ nữ Trung Quốc khiến ai cũng ca tụng và thèm thuồng ước muốn.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề bắt chước xây cất
cung điện cao rộng ngay tại Hưng Kinh, định lễ tiết cho anh em bối lặc khiến
dần dần mọi người phải công nhận cái địa vị tôn quý của ông.
Qua năm thứ hai, ông thường đem
quân ra khỏi thành, nói rằng đi săn, có khi đến hai ba tháng không về, thật ra
là đem quân đi đánh chiếm thành trì cướp bóc ruộng đất của ke khác. Ông còn
phân chia tướng sĩ thủ hạ cùng anh em thân thích tản mạn đi khắp nơi cũng để
đánh thành chiếm đất.
Vào năm thứ hai mươi sáu niên
hiệu Vạn lịch nhà Minh, Nỗ Nhĩ Cáp Tề cho người con trai là Chử Anh và mấy
người em tên Ba Nhã Tề Hoà, Cát Cái, Phí Anh Đông đem một ngàn quân đi đánh Chữ
Lạp Khố lộ, lấy được hơn hai chục đồn trại bắt được đến hơn một vạn người dân
bách tính.
Qua năm sau, ông lại sai Ngạch
Diệc Đô, Phí Anh Đông, Hỗ Nhĩ Hán đem một ngàn tinh binh đi đánh Ác Rập bộ ở
Đông Hải của Hách Tịch Hắc lộ. Nga Mạc cùng Tô Khoái lộ, Phật Nạp Hách Tháp
Khắc Sách lộ, bắt sống được đến hai ngàn người đem về.
Đến năm ba mươi bảy, Nỗ Nhĩ Cáp
Tề sai thị vệ Hỗ Nhĩ Mạc đem một ngàn quân tiến đánh Thuần Dã lộ, bắt được một
số dân, ước đến hai ngàn, đem về Hưng Kinh.
Năm thứ ba mươi tám, ông sai
Ngạch Diệc Đô chỉ huy một ngàn quân sĩ tinh nhuệ đánh Mộc Độ Lỗ, Tuy Phương,
Ninh Cổ Tháp, Ni Mã Sát, bốn lộ cả thảy, áp giải bốn tay lộ trưởng cùng gia
quyến của họ trở về. Khi hành quân qua miền Nhã Lan, lại đánh phá thành trì của
họ, cướp được đến hơn một vạn người đem về.
Sang năm thứ ba mươi chín, ông
lại sai con trai thứ bảy là A Ba Thái cùng Phí Anh Đông, An Phí Dương Cố, đem
một ngàn quân sĩ tấn công Ô Nhĩ Cổ, Thần Mộc Luân, bắt sống được một ngàn người
đem về.
Rồi một năm sau, ông lại tấn
công Hà Hoà Lý, Ngạch Diệc Đô Hỗ Nhĩ Hán, đích thân chỉ huy đánh phá Hỗ Nhĩ Cổp
Lộ với hai ngàn binh sĩ, vây hãm Trát Khố Tháp ba ngày liền, cuối cùng phá vỡ
thành, giết chết hơn một ngàn người, bắt sống hơn hai ngàn.
Các lộ trưởng của các lộ về
phía tả, thảy đều sợ hãi quay lại đầu hàng Nỗ Nhĩ. Khắp vùng Kiến Châu, Nỗ Nhĩ
dụng binh hết năm này qua năm khác, so với trước tăng gấp bội. Thế mà ông vẫn
chưa lấy làm vừa ý, kẻ khiến ông căm giận nhất là Ngô Nhĩ Cổ Đạt, tù trưởng bộ
lạc Cáp Đạt mà cũng là con rể ông. Hồi đó, ngoài thì bị thế ép của Minh triều,
trong lại chịu cảnh kiềm chế của Phú Sát thị, ông bất đắc dĩ phải đem con gái
gả cho Ngô Nhĩ Cổ Đạt. Từ đó, hai vợ chồng ông đâm ra bất hoà kịch liệt. Mãi
đến khi đi cống trở về, được Thần Tông hoàng đế cho phép thống trị người Nữ
Chân, ông mới lấy danh nghĩa bảo vệ Cáp Đạt, đích thân đem quân thẳng tới bộ
lạc này, buộc Ngô Nhĩ Cổ Đạt phải giao cho mình bức tỷ thư đời đời truyền lại
do Minh triều cấp. Hồi đó Cáp Đạt bộ có tới bảy trăm đạo địa phương. Nỗ Nhĩ Cáp
Tề bèn vây chặt thành trì của Ngô Nhĩ Cố Đạt, đến con chuột cũng không chạy
thoát được, mục đích chỉ để lấy chiếc tỷ thư.
Ngô Nhĩ nhất định không chịu,
bèn mở cửa thành đích thân đem quân đối địch với nhạc gia. Nỗ Nhĩ thấy thế giận
sôi gan, liền cho gọi hai đại tướng tay chân tên gọi Hỗ Nhĩ Mạc, Phí Anh Đông,
luân phiên đánh phá. Ông còn sai người chạy về Hưng Kinh lấy thêm hai ngàn binh
trợ chiến.
Ngô Nhĩ Cổ Đạt tử thủ Cổ thành
được đến hơn hai chục hôm, lương hết viện tuyệt: Vào quãng nửa đêm đó, binh
Kiến Châu đánh thốc vào thành, bắt trói hết toàn gia Ngô Nhĩ. Nỗ Nhĩ vào thành,
một mặt sai người áp giải vợ chồng Ngô Nhĩ về Hưng Kinh, mặt khác ra lệnh cho
tướng lĩnh đi khắp nơi để thu phục thuộc địa.
Dưới trướng của Ngô Nhĩ, có một
tên bộ tướng tên gọi Sát Thai Chẩm. Chẩm được tin Cáp Đạt bộ bị Kiên Châu tiêu
diệt mất rồi, liền đem hai trăm đạo địa phương tới đầu hàng Diệp Hách bộ, để
cầu xin Bố Dương Cổ bảo hộ cho mình. Cổ tham đất của Chẩm, bèn đích thân đem
đại đội người ngựa dàn trận để đợi. Nỗ Nhĩ được tin đó giận lắm nói:
- Ta với Diệp Hách vừa mới đính
ước hôn nhân. Em gái Bố Dương Cổ, ta đã hỏi lấy nhưng chưa cưới, thế mà nay Cổ
lại dám cả gan đối đầu với ta thì láo thật!
Nói đoạn, Nỗ Nhĩ sai Đại Thiện
đem quân đồn trú tại Cáp Đạt, thân tự điều động đại binh đến Diệp Hách bộ.
Bố Dương Cổ thấy Nỗ Nhĩ tới bèn
trách Nỗ Nhĩ đã phản bội minh ước tiêu diệt Cáp Đạt. Nỗ Nhĩ cười nói:
- Đây là việc của gia đình ta,
có quan hệ gì tới ngươi đâu mà ngươi nói. Hiện nay, ngươi đã thâu hai trăm đạo
địa phương của Cáp Đạt, hỏi ngươi có phản bội minh ước hay không? Một việc nữa
là em gái ngươi đã hứa gả cho ta làm vợ, ta hiện vẫn chưa lấy được nàng đem về.
Thế mà ngươi lại đem quân đánh nhau với ta, như thế có phải ngươi đã có ý từ
hôn rõ ràng rồi không?
Bố Dương Cổ nghe xong, tức như
điên, răng nghiến kèn kẹt đến muốn vỡ ra. Cổ quát lớn:
- Lời nói của mi thối lắm! Có
thể để cho mi hoành hành bất pháp mà không thể cho ta trượng nghĩa chấp ngôn
được sao? Ta nay quyết thoái hôn, không thèm gả em gái cho mi nữa, nghe chưa?
Nỗ Nhĩ Cáp Tề vừa nghe xong câu
nói "Không thèm gả em gái", tức giận sôi gan, vì điều đó vốn là một
điều phạm kỵ đối với ông. Nỗ Nhĩ liền khoát tay một cái tức thì binh tướng của
ông nhất tề xông lên chém giết. Hai bên trống trận vang gầm, tiếng hò hét kêu
la inh ỏi. Cuộc ác đấu càng lúc càng kịch liệt. Hai bên đánh nhau mãi tới lúc
mặt trời đã gác núi mà vẫn chưa phân thắng bại. Hai bên cùng đánh trống khua
chiêng thu quân. Qua ngày hôm sau, hai bên lại đánh nhau.
Rồi cứ như thế, đánh nhau suốt
một hơi sáu hôm liền. Quân binh Diệp Hách bộ coi mòi yếu dần, khó bề chống nổi,
bèn lùi vào trong thành, đóng chặt cửa không xuất chiến nữa mà cho người ngày
đêm đưa tin cấp cứu tói Phủ Thuận quan.
Quảng Ninh tổng binh của Minh
triều là Trương Thừa Am, đi tuần cảnh tới miền Phủ Thuận, được tin đó lập tức
điều động ba ngàn binh mã tiến tới cứu viện cho Diệp Hách bộ. giữa lúc Nỗ Nhĩ
Cáp Tề đang thúc quân kiệt lực đánh thành, bỗng phía sau chiêng trống vang ầm,
rồi một chi quân đông đảo ùn ùn kéo tói đi đầu là một cây cờ lớn trên viết hai
chữ "Đại Minh".
Nỗ Nhĩ Cáp Tề tự nhủ: Mình vừa
được Minh triều phong chức vậy thì quân mã này tới đây ắt để giúp ta. Ông liền
hạ lệnh cho quân mã tách làm hai hàng, rồi tự mình tiến lên đón.
Chẳng ngờ, viên tướng Minh đi
đầu im lặng chẳng nói lời nào, khi tói gần liền giơ cao ngọn cờ lệnh phất phất
mấy cái. Tức thì chi quân Minh xông tới tấn công như bão táp. Nỗ Nhĩ trở tay
không kịp, đành phải quay lui. Trận cuộc rối loạn. Nỗ Nhĩ đem hết dũng cảm áp
trận, rồi thúc quân tiến tới chiến đấu.
Hồi 33 : Tranh chấp
biên cương
Giữa
lúc đôi bên đang ác đấu, bỗng mặt sau có tiếng trống trận nổi dậy. Một chi quân
mã từ trong thành đánh ra.
Kiến Châu binh trước sau đều
gặp địch, đánh một trận là thua một trận, đánh hai trận là thua hai trận, thua
luôn một hơi, phải lùi xa bốn chục dặm. Người ngựa tính lại chết mất hơn hai
ngàn. Thấy không còn cách gì chống nổi nữa, Kiến Châu binh đành phải chuồn về
Hưng Kinh mất dạng.
Từ đó về sau, Nỗ Nhĩ Cáp Tề hận
Bố Dương Cổ sâu đến tận xương tuỷ. Ông luyện tập binh mã ngày đêm, quyết chí
báo thù. Chỉ có Ô Lạp Đặc bối lặc Bố Chiêm Thái là hay thường lui tới tặng đồ
lễ vật. Bởi vậy, Nỗ Nhĩ có biệt nhãn với Thái.
Thái thấy Diệp Hách thoái hôn,
lại làm mối cho Nỗ một đám khác. Thái muốn đem đứa con gái của Mãn Thái là anh
mình đến gả cho Nỗ.
Năm sau Nỗ Nhĩ Cáp Tề có một
đứa con gái rất xinh đẹp. Ô Lạp Nạp Thích cũng chơi thân với nàng.
Hai năm sau, Bố Chiêm Thái đến
Hưng Kinh thăm cô cháu gái. Nỗ Nhĩ lưu lại trong phủ. Nhờ đó, hai chú cháu
thường được gặp mặt nhau bàn luận hàn huyên. Những lúc nói chuyện, người con
gái của Thư Nhĩ cũng thường được dự chuyện bên cạnh. Bố Chiêm Thái trước đây đã
đưa lễ vật để hỏi con gái Minh An, bối lặc Khoa Nhĩ Bí Đạt Mông Cổ làm vợ nhưng
về sau không thành. Thái buồn rầu vô hạn. Nay Thái thấy một vị mỹ nhân đáng yêu
như thế thì tránh sao không buồn lòng. Lúc không người để ý, Thái nói nhỏ ý
mình với cô cháu gái. Ô Lạp thị đem chuyện này nói với Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Hồi đó Nỗ
với Thái bồ bịch với nhau lắm, ông bèn đứng làm mai hỏi cô cháu gái cho Thái.
Qua năm thứ nhì, Ô Lạp thị sinh
đứa con trai, đặt tên là A Tế Cách. Sau đó sinh thêm hai đứa con trai nữa, một
gọi Đa Nhĩ Cổn, một gọi là Đa Đạc, đó là chuyện về sau.
Lại nói người em gái Bố Dương
Cổ vốn là một trang tuyệt thế giai nhân. Khắp cả xứ Mãn Châu không ai là không
biết nàng đẹp. Trong gia đình người Mãn ở ngay gian giữa, chỗ tôn nghiêm nhất,
thường có đặt tượng ba vị thần để thờ cúng: Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Quan Thế
âm Bồ Tát, Quan Công. Họ thường nói thật Quan âm là một nữ Bồ Tát có sắc đẹp
tuyệt trần. Do đó họ gọi em gái Bố Dương. Cổ là Hoạt Quan âm (Quan âm sống).
Hoạt Quan âm có sắc đẹp, lại
được cha mẹ cưng chiều, thường hay trang điểm lộng lẫy khiến bất cứ ai nhìn
thấy cũng phải xôn xao trong lòng. Nàng thường cùng các bối lặc Cáp Đạt, Huy
Phát, Ô Lạp, Triết Trần đi săn, đuổi thú, bắn chim, hết sức lanh lẹ hoạt bát. Bọn
bối lặc thấy nàng đẹp anh nào cũng thèm thuồng muốn đến rỏ rãi. Trong số các
bối lặc, nàng thường giao du với Mãng Cữ Lặc Đại, con trai của Lặc Ba Cáp Đạt
Nhĩ Hãn, vốn là bối lặc của bộ Khách Nhĩ Khách đất Mông Cổ Mãng Cổ Lặc Đại cũng
là một thanh niên tuấn tú. Vì yêu mê nàng nên Đại thường tới Diệp Hách bộ du
ngoạn. Trong các cuộc săn bắn, chàng và nàng luôn cưỡi ngựa song hành tìm nơi
cây cối rậm rạp để cùng nhau trò chuyện, tình tự. Về sau, khi anh nàng muốn
liên kết lại với Kiến Châu vệ, hứa gả nàng cho Nỗ Nhĩ Cáp Tề, nàng biết điều đó
nên nhiều lần cãi nhau kịch liệt. Rồi mỗi lần người Kiến Châu tới rước dâu là
mỗi lần nàng liều mạng chống lại, nhất định không chịu đi Báo hại Bố Dương Cổ
chỉ còn biết nói dối là nàng bị bệnh để khất lần cho qua chuyện. Chuyện rắc rối
này kéo dài mãi tới mấy năm thì vừa lúc xảy ra cuộc ác đấu giữa Kiến Châu và
Diệp Hách.
Bố Dương Cổ ỷ có Minh triều ủng
hộ nên nhân dịp này thoái hôn với Nỗ Nhĩ Cáp Tề. Mãng Cổ Lặc Đại biết vậy vội
sai người đem rất nhiều sính lễ cầu hôn. Cổ thấy em gái mình ưng thuận nên cũng
chịu hứa gả. Tin này đồn ra ngoài, khi chạy tới tai bọn bộ chủ, anh nào cũng
dậm chân than thở.
- Thật là một đoá hoa tươi đem
cắm bãi cứt trâu!
Qua năm sau, Bá Cáp Nhĩ Đạt Hán
đem con trai Mãng Cổ Lặc Đại đến Diệp Hách bộ đón dâu. Khách Nhĩ Khách bộ cách
rất xa Diệp Hách bộ. Bởi vậy trên đường về, đám cưới này có thể bị quân của các
bộ lạc khác chặn đường đánh cướp. Nhờ Mãng Cổ Lặc Đại vốn là một trang thiếu
niên anh hùng, lại thêm quân của Ba Cáp Đạt Nhĩ Hán rất đông nên dọc đường được
bảo vệ an toàn. Tuy nhiên, họ vẫn trải qua không biết bao nhiêu là gian khổ,
hiểm nguy mới về tới được Khách Nhĩ Khách.
Về tới nhà, Mãng Cổ Lặc Đại
muốn lấy lòng người đẹp, bèn xây cất một toà nhà hết sức lộng lẫy. Chăng ngờ
chưa được một năm, khi toà nhà chưa xong thì người vợ đẹp của Đại chết khiến
Đại khóc lóc thê thảm, chết đi sống lại nhiều phen. Từ đó Đại thề không lấy ai
nữa, định thủ nghĩa với vợ cho trọn đời. Tin này đồn đi khắp nơi, các bộ lạc xứ
Mãn Châu ai cũng phàn nàn thương hại. Ô Lạp bối lặc hay tin cũng than thở.
- Tiếc thay người đẹp như vậy
mà chết yểu? Chẳng giống con vợ họ Giác La nhà mình, người xấu như quỷ tính lại
dữ như cọp, thế mà hắn không chịu chết cho, mới bực mình chứ.
Lúc Ô Lạp bối lặc phàn nàn như
vậy, không ngờ bà Giác La thị đứng ở sau bình phong nghe rõ cả. Bà vốn cậy thế
Nỗ Nhĩ Cáp Tề, vì bà là cháu của ông này, nên ăn ở với chồng có chỗ trịch
thượng, kiêu căng. Hôm nay chính tai bà nghe được lời chồng nguyền rủa cho mình
chết đi, thì làm sao chả tức điên lên. Bà không do dự gì nữa, nhảy bổ ra, chỉ
vào mặt chồng hạch hỏi. Bố Chiêm Thái vốn sợ vợ, nay thấy bà xã làm dữ thì
hoảng hồn bạt vía, mắt trợn lên trắng dã, miệng há hốc đến không ngậm lại được
nữa. Bà công chúa Giác La xỉa xói, chửi bới anh chồng tội nghiệp kia một lúc đã
đời rồi quay mình đi hậm hực nói doạ:
- Tao về nhà tố cáo việc này
với chú tao, rồi mi biết…
Bố Chiêm Thái nghe nàng nói,
giật mình bở vía, vội chạy lại dập đầu xin tha lỗi. Không ngờ, bà Giác La không
thèm để ý tới. Bố Chiêm Thái nhục quá hoá giận. Máu hoả bốc lên đến tận đỉnh
đầu. Thái thấy vợ đã đi hơi xa, liền rút một chiếc tên, đặt lên cung nhắm cẩn
thận rồi bắn một phát thấu suốt qua lồng ngực vợ. Thấy câu chuyện trở thành tai
hại, bọn thị vệ lẻn trốn về Hưng Kinh, đem mọi chuyện xảy ra tố cáo với Nỗ Nhĩ
Cáp Tề.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề và Nhã Nhĩ Cáp
Tề, hai anh em nghe xong vừa buồn vừa giận. Họ lập tức điều động người ngựa kéo
tới Ô Lạp. Bố Chiêm Thái vốn đã có lần ăn đòn của quân Kiến Châu, nay nghe
chúng sắp tới thì kinh hồn táng đởm, vội bỏ thành trì, chạy vắt giò lên cổ sang
thành Diệp Hách bộ. Thành thử Nỗ Nhĩ Cáp Tề chẳng mất một tên quân nào mà tự
nhiên được tất cả các thành trì của Ô Lạp. Thanh thế của Nỗ đã lớn, bây giờ lại
còn lớn hơn. Nỗ để người em thứ hai ở lại giữ Ô Lạp rồi tự mình đem quân tới
Diệp Hách bộ, viết lá thư sai người cầm vào thành. Thư rằng:
"Trước đây ta bắt được Bố
Chiêm Thái trên trận địa. Ta tha chết cho hắn, nuôi nâng giúp đỡ hắn như quyên
thuộc, lại còn gả đứa cháu gái thứ ba cho hắn làm vợ. Thế mà hắn vong án bội
nghĩa dám âm mưu phản loạn. Ta vì vấn tội mà tiến đánh nước hắn. Nay hắn đã
theo ngươi, ngươi hãy cắt đầu hắn đem dâng! "
Ba bức thư tương tự liên tiếp
gửi vào thành, nhưng bối lặc Bố Dương Cổ coi khinh, chẳng để ý. Nỗ Nhĩ Cáp Tề
căm giận đến cực điểm, sai người về nhà điều động thêm bốn vạn binh mã tới,
chuẩn bị ác đấu. Một hôm ông với người con trai Đại Thiện bàn kế phá thành,
chẳng ngờ dưới trướng có vài tên lính nghe lỏm được. Chúng vốn người Ô Lạp nên
vội trốn về tố cáo với Bố Dương Cổ.
Cổ lập tức truyền lệnh di tản
tất cả dân chúng hai bên lộ Trương Cát Đường A vào thành xong đốt rụi tất cả
nhà cửa trang trại. Đại binh của Nỗ Nhĩ Cáp Tề kéo tới nhưng ăn chẳng có nơi, ở
chẳng có chốn, cả một cánh đồng không mông quạnh, xa tít tắp, chỉ còn lại những
bãi cỏ lùm cây và toà thành Ngột Tô, cách đó không xa. Ông bèn thúc quân đánh
thành này. Thành trưởng là Sơn Đàm Hỗ Thạch Mộc cô thế chống không nổi phải đầu
hàng. Ông đem quân vào đóng trong thành không ngờ thành bị phát dịch đậu mùa,
quân Kiến Châu chết hơn quá nửa. Nỗ Nhĩ Cáp Tề thấy tình thế bất hảo, vội bỏ
thành Ngột Tô, lòng bực tức vô cùng.
Chẳng biết xì cái tức vào đâu,
Nỗ Nhĩ Cáp Tề liền phóng hoả một hơi không biết bao nhiêu thành trì, nào là Nhã
Cáp thành, Hắc Nhị Tô thành, nào là Hà Đôn thành, Khách Bố Tề thành, nào là Nga
Cát Đại thành… và mười chín nơi đồn trại khác cũng theo lửa mà ra tro cả.
Bố Dượng Cổ thấy quân Kiến Châu
dữ tợn, tàn ác, chạy tới cáo cấp với triều Minh. Nhà Minh liền sai quan Châu
Đại Kỳ đem một ngàn pháo binh giúp quân Diệp Hách bảo vệ thành trì. Quân Kiến
Châu biết hoả pháo lợi hại, đành rút quân trở về Tuy phải rút lui, nhưng thực
ra chuyến đi này, Nỗ Nhĩ Cáp Tề cũng đã xơi ngon Cáp Đạt bộ với bao thành trì
phụ thuộc. Về mặt nam của bộ này, người ta thấy có đồn Sài Hà, đồn Phủ An, đồn
Tam Đại, đồn Bạch Gia Sung, đồn Tùng Sơn. Những đồn này đất đai phì nhiêu,
người dân Kiến Châu thường sang đây để cày cấy làm ăn. Chúng còn tiếp giáp với
Thiết Lĩnh quan của nhà Minh miền giới tuyến. Vì ruộng đất béo bở nên thưởng
xảy ra việc vượt biên giới để cày cấy kiếm lợi một cách bừa bãi.
Quan tổng binh nhà Minh là
Trương Thừa Âm sai viên thông sự quan tên gọi Đổng Quốc Âm tới nói với Nỗ Nhĩ
Cáp Tề:
- Ruộng đất ở vùng Sài Hà, Tam
Đại, mà dân chúng Kiến Châu của ngươi cày cấy đó, đều thuộc Minh triều ta. Ngươi
nên đem hết số cư dân ở sáu cái đồn kia về thành đi. Địa phương này từ nay sẽ
được dựng cờ cắm mốc, cấm không được vượt giới cày cấy như trước nữa.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề đáp:
- Nói những điều vô lễ như vậy,
thật quả Minh triều ngươi có ý kiếm chuyện với ta rồi.
Nói đoạn Nỗ Nhĩ đưa Đổng Quốc
Âm ra khỏi thành, chẳng thèm đếm xỉa đến ý kiến của quan tổng binh nhà Minh.
Trương Thừa Âm thấy Kiến Châu
ngang ngược lếu láo như vậy, tự nhủ:
- Ta nay mới tới làm quan tổng
binh nơi đây. Nếu không cho chúng biết oai danh của ta thì làm sao chúng sợ ta
được.
Nghĩ vậy, Âm liền truyền lệnh
cho binh sĩ nhất tề động thủ, đuổi tất cả bọn dân chúng hiện ngụ ở sáu cái đồn
kia trở về Kiến Châu rồi ở ngay lằn ranh giới, còn cắm mốc đá và sai quân canh
giữ, không cho người Kiến Châu vượt giới tuyến sang cầy cấy bừa bãi nữa.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề được tin tức lắm,
nói:
- Triều Minh thường hay giúp
bọn Diệp Hách đem quân tới phá ta. Chỉ vì chúng thuộc triều nước lớn, ta đành
phải nhịn đấy thôi. Nay cố ý kiếm chuyện, khinh khi thái quá, phen này ta phải
xuất quân cùng chúng quyết một phen sống mái mới được!
Nói đoạn, ông sai đại tướng Hỗ
Nhĩ Cổ ra khỏi thành, điểm đủ người ngựa. Còn mình thì quay vào nhà trong, luôn
luôn mồm kêu lớn:
- Đem quân trang lại đây cho
ta!
Bà Ô Lạp vội chạy tới lấy nhung
trang rồi vừa giúp chồng nai nịt, vừa hỏi chồng xem chuyến này đi đánh ai và có
cần bà đi để hầu hạ chăm nom không. Nỗ Nhĩ tức khí, hung hăng đáp lời bà:
- Ta đi đánh Minh triều. Chúng
khinh khi ta thái quá. Chuyến này ta đi để xem ai cao ai thấp, cuộc đánh nhau
hẳn ác liệt bà không đi được đâu.
Bà Ô Lạp vốn được chồng rất yêu
quý, bởi vậy khi nghe Nỗ Nhĩ nói cần xa bà để ra quân chinh chiến, bà liền để
rơi mình vào lòng chồng, miệng năn nỉ:
- Thiếp theo đô đốc cùng đi
không nên ư?
Nỗ Nhĩ Cáp Tề xoa xoa đôi má
phấn mịn màng của bà một lúc rồi chậm rãi nói:
- Nên lắm chứ nhưng mình nên ở
nhà.
Nỗ Nhĩ nói tới đó bỗng có tiếng
người con thứ bảy tên A Đa Thái từ ngoài đi vội vào phòng, ghé sát tai bố thì
thầm mây câu.
Nỗ Nhĩ Cáp Tề tức thì biến sắc,
để lộ vẻ hung dữ chết người…
Anh Minh hoàng đế (tức Nỗ Nhĩ
Cáp Tề) ôn lại dĩ vãng, vừa đến đây nét mặt bỗng biến sắc. Ngài nằm trên giường
bệnh đã mấy tiếng đồng hồ không động cựa, vì ngài mải mê trong câu chuyện của
quá khứ. Nhưng ký ức chỗ này không còn cho phép ngài nằm yên đấy nữa, nhớ tới
cái hậu quả vô cùng khủng khiếp là chính tay ngài đã giết mất đứa con thân yêu
Chữ Anh, hơn nữa lại còn hạ lệnh giết cả Thư Nhĩ Cáp Tề, người em đã từng vào
sinh ra tử để xây dựng sự nghiệp cho ngài.
Anh Minh hoàng đế bỗng thét lên
một tiếng, vang động ra cả phía ngoài, thân hình ngài vụt ngồi dậy. Nhưng vì yếu
quá, bởi vết thương trầm trọng, ngài lại nằm vật xuống nước mắt chảy ràn rụa.
Đại bối lặc Đại Thiện từ lâu
vẫn ngồi phía ngoài để theo dõi sức khoẻ của ngài, vừa nghe tiếng thét biết là
có biến, vội tông cửa chạy vào. Đại Thiện chỉ còn kịp thấy cha đang duỗi thẳng
hai chân ra một lần chót, đôi mắt trợn ngược lên, và hắt hơi thở cuối cùng trên
giường bệnh. Thế là Anh Minh hoàng đế đã ra đi.
***
Hồi 34 :Vua Thái Tông
đăng vị
Bà Nạp Thích nằm phục bên cạnh chồng, kêu gào thảm thiết. Đại Thiện, Đa Nhĩ Cổn cùng nắm tay cha mà khóc. Giữa lúc buồn khổ sầu thảm ấy, Tứ bối lặc hối hả chạy từ ngoài vào thấy cha đã chết nằm đó nhưng chẳng khóc lóc gì, hỏi ngay tới việc lập thái tử.
- Phụ hoàng trối lại lập ai làm thái tử?
Đại bối lặc thấy mặt y có vẻ chẳng lành, biết lúc này chẳng thể nói, bèn trả lời một cách hàm hồ.
- Phụ hoàng vừa mất. Mọi sự bọn ta sẽ thu xếp.
Tứ bối lặc nghe đoạn lạnh lùng nói:
- Có gì mà phải thu xếp dần! Phụ hoàng đã mất thì lập thái tử là một việc tối quan hệ. Anh ở đây lo tang sự cho phụ hoàng. Còn em binh quyền nắm trong tay em có thể chủ động việc này. Đối với hai anh A Mẫn và Mãng Cổ Nhĩ Thái em đã nói qua rồi. Mọi sự bên ngoài, hai anh đó đều nghe theo em cả, anh khỏi cần lo ngại. Em sẽ xếp đặt ổn thoả.
Nói xong Tứ bối lặc trở ra, có vẻ dương dương tự đắc. Bà Nạp Thích và Đại Thiên xem cử chỉ của Tứ bối lặc biết y đã có dự bị bên ngoài. Nếu xảy ra cuộc tranh giành ngôi báu tất nhiên nguy hiểm không thể tránh khỏi. Vả chăng bà Nạp Thích cũng chẳng dại gì để con cưng của bà bị giết, bởi vậy bà khẩn khoản với Đại Thiện chớ tiết lộ việc vua cha đã lập Đa Nhĩ Cổn làm thái tử, tình nguyện bỏ luôn cái ngai vàng của hoàng đế để bảo toàn tính mạng cho cả hai mẹ con.
Đại bối lặc thấy tình cảnh của bà Nạp Thích quả thật nguy ngập nên đồng tình lờ chuyện thái tử đi.
Qua ngày thứ hai, các vị bối lặc, đại thần đưa thi hài Anh Minh hoàng đế vào thành Thẩm Dương, quàn tại chính điện để thờ phụng, có Đạt Hải Pháp sư cùng bọn Thích Ma Tăng tụng kinh siêu độ.
Đến giờ khâm liệm, văn võ bá quan cùng các bối lặc, thân vương tề tập tại nội điện để sửa soạn làm lễ. Bỗng thấy Tứ bối lặc, Nhị bối lặc, và Tam bối lặc ai cũng đeo bộ đao hùng hổ tiến vào điện, phía sau có đến hai ba trăm tên võ sĩ theo bén gót dàn hàng chữ nhất dưới thềm. Tứ bối lặc nhảy lên điện, miệng hô lớn:
- Còn có một việc lớn chưa ổn định. Di thể của phụ hoàng thong thả rồi hãy liệm.
Hô xong, y kéo mạnh Đại bối lặc lại giữa điện. Các vị đại thần ai cũng mặt cắt không còn giọt máu. Mọi người lại nghe Tứ bối lặc cất tiếng bảo Đại bối lặc.
- Nước không thể một ngày không vua, dân không thể một ngày không chúa. Phụ hoàng mất đã ba ngày, thế mà ta chưa định được ngôi quốc chủ, đến nỗi lòng ba quân bên ngoài xao xuyến, rối loạn tới cực điểm. Em tuy nắm binh quyền nhưng thực không trấn áp nổi nữa. Nếu không tin anh hãy nhìn kìa!
Nói đến đây, Tứ bối lặc lấy tay chỉ ra ngoài cửa điện. Những tiếng đổ vỡ rầm rầm bỗng vang lên làm mọi người giật mình.
Thì ra cửa điện đã bị phá tan hoang. Ngoài cửa, đông nghẹt lính tráng kẻ nào kẻ nấy đều nai nịt, gươm giáo tua tủa sáng ngời… Đám quân sĩ vừa trông thấy Tứ bối lặc, đồng thanh hồ rầm trời:
- Tứ bối lặc vạn tuế! Tứ bối lặc vạn tuế!
Vừa tung hô, chúng vừa giơ cao gươm giáo, một phần để mừng, một phần để doạ…
Khi đám binh sĩ tung hô vạn tuế vừa xong, Tứ bối lặc lại bảo Đại bối lặc:
- Lúc phụ hoàng lâm chung chỉ có anh và em mà thôi. Vậy phụ hoàng đã nói những gì với anh?
Đại bối lặc nghe Tứ bối lặc nói xong hiểu rõ thâm ý của em, tự nhủ chính mình cũng chẳng muốn làm thái tử thì tội gì không thuận nước xuôi thuyền để giải nỗi hận thù. Bởi vậy ông liền trả lời:
- Phụ hoàng lúc lâm tử có nói với anh rằng: "Tứ bối lặc niên thiếu lại có kiến thức, đáng nên lập làm thái tử".
Câu nói vừa dứt thì tiếng tung hô vạn tuế lại nổi dậy ở dưới điện. Tức thì Nhị bối lặc A Mãn, Tam bối lặc Mãng Cổ Nhĩ Thái chạy vút lên điện, công kênh Tứ bối lặc lên ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng rồi quay đầu lại, nói với đám đông:
- Nước không thể một ngày không vua. Lập thái tử hay không lập thái tử, việc đó không thành vấn đề. Hiện nay bọn ta đã tôn Tứ bối lặc lên làm vua. Nếu có kẻ nào không chịu hãy nhìn báu dao của ta đây!
Nói xong, hai ông đích thân nằm bò sát xuống đất làm đại lễ trước ngai vàng của Tứ bối lặc. Thấy hành động của hai bối lặc như vậy, văn võ bá quan đứng đầy nghẹt trong điện nhất tề quỳ xuống làm lễ, dập đầu triều hạ, miệng tung hô:
- Hoàng đế vạn tuế, vạn tuế!
Tứ bối lặc lúc đó tự nhiên nẩy sinh một ý khá đặc biệt, ông vội kéo Đại bối lặc, Nhị bối lạc, Tam bối lặc cùng ngồi xuống ngai vàng, kề vai sát cánh bên nhau để cùng chịu trăm quan triều hạ.
Việc triều hạ vừa xong thì đã thấy Thích Ma Tăng lên điện tâu xin hoàng đế tống liệm, Hoàng Thái Cực (tức Tứ bối lặc, tân hoàng đế) ngồi trên ngai vàng, im lặng không trả lời như có ý chưa nghe thấy. Đại bối lặc cũng tưởng tân hoàng đế không nghe thấy thật, nên nhắc lại thêm một lượt. Nhưng Hoàng Thái Cực bỗng nhiên nói lớn:
- Đại hành hoàng đế hiện còn một điều sở nguyện nhưng chưa được giải quyết, bởi vậy việc khâm liệm hãy khoan!
Sau đó, ông truyền chỉ cho Tuyên quan mời bà Kế đại phi ra trước điện. Đại bối lặc nghe xong biết Tân hoàng đế có ý chẳng lành vội tâu lên.
- Chẳng nên! Chẳng nên? Bởi Kế đại phi hiện đã ở địa vị Thái Hậu. Nếu hoàng thượng cần chỉ dụ, thiết tưởng phải tự khuất thân vào cung của Thái hậu mà truyền. Hơn nữa, phụ hoàng vừa mới mất, kế đại phi đang lúc thương xót muôn phần, hoàng thượng không nên tuyên triệu.
Hoàng Thái Cực vừa cười vừa nói:
- Lời của Đại bối lặc quả không sai chút nào. Khốn thay, việc ngày nay thực ra không phải trẫm dám tuyên triệu Kế đại phi mà lại là phụ hoàng di chỉ tuyên triệu đại phi. Bởi vậy trẩm đâu dám chống đối di chỉ của phụ hoàng.
Đại bối lặc nghe lời nói của Hoàng Thái Cực là danh chính ngôn thuận, không tiện ngăn trở thêm nữa. Chẳng bao lâu bà Nạp Thích, mặt đầy nước mắt, bước ra trước điện.
Văn võ trăm quan ai cũng tiến lên thỉnh an. Hoàng Thái Cực cũng như mọi người thỉnh an xong, bỗng ông quát lên một tiếng lớn:
- Nghe di chỉ đây!
Quát xong, ông đích thân quỳ xuống trước. Tức thì, văn võ bá quan không ai bảo ai cũng vội vàng răm rắp quỳ theo. Tân hoàng đế bò mọp sát đất rồi tuyên đọc.
- Đại hành hoàng đế, có khẩu chiếu giao trẫm truyền rằng: "Sau khi ta mất rồi bà Nạp Thích phải tuẫn táng theo ta!"
Tuyên bố xong, ông đứng dậy, mặt nghiêm nghị đợi chờ. Bà Nạp Thích nghe xong câu nói, thét lên ruột tiếng thảm thiết ba hồn bảy vía lên tận mây xanh. Bà lảo đảo người đi mấy vòng rồi té xỉu ngay vào trong lòng mấy ngýời cung nữ đứng bên cạnh. Lát sau, bà tỉnh dần lại, gần như mất trí, không còn nói lên được lời nào. Hai người con của bà là Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc chạy lên bên cạnh bà, nắm lấy vạt áo mẹ oà lên khóc lóc thảm thiết. Bà cũng oà khóc mếu máo qua đôi lệ, mãi mới bật lên được thành tiếng:
- Ta may được hầu hạ tiên đế từ lúc 12 tuổi, đến nay đã 26 năm, tình sâu như bể, vốn bất nhẫn tương ly, duy chỉ có điều hai đứa con ta là Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc tuổi còn quá nhỏ mà thôi. Sau khi ta chết rồi, chỉ cầu mong hoàng thượng nể tình tiên đế mà săn sóc giùm ta.
Nói xong, bà Nạp Thích liền quỳ xuống đất lạy liền mấy lạy. Hoàng Thái Cực thấy vậy, vội vàng hồi bái. Bà Nạp Thích từ từ đứng dậy, rồi trở về cung.
Lát sau hai con cung nữ trở ra, báo lên:
- Đại phi đã tuẫn tiết theo tiên đế.
Tin báo này vừa xong thì một tin khác cũng vừa tới:
- Thưa, phi A Tế Căn và Đức Nhân Thạch cũng đều tự vẫn cả.
Ba bà phi đã tuẫn tiết cả. Sau đó người ta mới thấy trên chính điện chiêng khua trống gióng, bát âm đàn sáo trôi dậy để làm lễ tấm liệm thi thể Anh Minh hoàng đế. Người ta cũng được nghe Hoàng Thái Cực và triều đình tuyên bố cải hiệu là Thiên Thông năm thứ nhất, hoàng đế là Thái Tông (tức là vị Hoàng đế thứ nhì của nhà Mãn Thanh).
Nhân vì Đại bối lặc, Nhị bối lặc và Tam bối lặc có công lớn đối với mình, Thái Tông hoàng có biệt nhãn đối với họ.
Trong những buổi thiết triều, Thái Tông hoàng đế thường mời cả ba người lên cùng ngồi trên ngai ngang hàng với mình để chịu lễ "quỳ lạy" của bá quan. Sau đó, Thái Tông hoàng đế lại đem việc lập hoàng hậu bàn với anh cả là Đại bối lặc Đại Thiện.
Đại bối lặc hỏi Thái Tông hoàng đế có ý muốn lập ai vào ngôi đó thì Thái Tông hoàng đế bèn đáp:
- Khi phụ hoàng còn tại thế, tuy đã lấy cho trẫm nàng nguyên phi, hơn nữa trong hậu cung còn có rất nhiều phi tần được sủng ái. Nhưng theo ý riêng trẫm, thì chỉ có nàng Bác Nhĩ Tế Cát Đặc là người trẫm muốn lập lên làm hoàng hậu mà thôi. Song trẫm lại sơ rằng thiên hạ sẽ cười trẫm vì nàng vốn đã gái có chồng rồi. Do đó, trẫm do dự mãi, không dám quyết.
Đại bối lặc bèn hồi tâu:
- Bệ hạ thực quá lo xa. Xưa nay, vợ chồng cốt lấy ái tình làm trọng. Nàng Cát Đặc đã hợp ý bệ hạ, thì việc lập làm hoàng hậu có gì khó khăn nữa đâu. Nếu bệ hạ sợ dư luận đàm tiếu về trường hợp riêng của nàng thì hạ thần sẽ hiến cho bẽ hạ một kế, là bệ hạ sẽ cùng nàng làm lễ hôn phối một lần nữa, tế cáo tại nhà Tông miếu một cách trọng thể. Như thế thử hỏi có ai dám chê trách gì về việc lập hoàng hậu của bệ hạ nữa?
Thái Tông hoàng đế nghe xong, gật đầu lia lịa, miệng khen "đúng, đúng" và tiếp thêm:
- Cuộc lễ này cần phải thật linh đình và trang trọng, vậy ai có thể là người lo liệu việc này cho trẫm?
Đại bối lặc suy nghĩ một lát, bèn nói:
- Có rồi! Có rồi. Trong cung của bệ hạ, há chẳng có một cái bụng bự lễ giáo, tức là cái ông mà mọi người gọi là Phạm tiên sinh đó sao? Bệ hạ chỉ cần gọi ông ta tới mà hỏi là xong!
Thái Tông hoàng đế nghe vậy, gật đầu khen phải. Hôm đó, quay về cung, Thái Tông hoàng đế liền truyền gọi Phạm tiên sinh vào bệ kiến. Thế là chỉ vỏn vẹn có một đêm bàn tính với Phạm tiên sinh, Thái Tông hoàng đế đã có cả một chương trình về cuộc lễ đại hôn, với đầy đủ chi tiết.
Qua ngày hôm sau, Thái Tông hoàng đế hạ chỉ giao hết mọi việc lễ lạt cho bộ Lễ lo liệu. Chẳng mấy chốc, khắp thành trong ngoài không chỗ nào là không biết tin nhà vua sách phong Hoàng hậu, thậm chí còn có kẻ nhảy lên tưng tưng, miệng gào: "Hoàng đế ta cưới hoàng hậu".
Ngày hôn lễ đã đến, hoàng cung chăng đèn kết hoa tưng bừng náo nhiệt xưa nay chưa từng thấy. Hoàng hậu ngồi trên chiếc xe phượng liễn, một đội âm nhạc, rồi một đội âm nhạc khác nữa kế tiếp nhau trỗi nhạc đưa hoàng hậu vào cung. Tiếng nhạc đưa xa hàng mấy dặm, dân chúng như phải đứng tim lại mà nghe, mà hân hoan với niềm sung sướng của đức vua của họ.
Xe hoàng hậu vào tới cung. Bà được đoàn cung nữ xinh như mộng đưa lên bệ rồng bệ kiến Thái Tông hoàng đế. Tiếng bát âm lại trỗi dậy những nghì thức phức tạp của một cuộc đại hôn trong cung đình được lo liệu chu đáo. Hôm đó, không một cung, một phi tần nào là không quần đẹp áo tốt dự vào cuộc đại lễ này. Sau cuộc lễ quân thần, đến cuộc lễ phu thê.
Thái Tông hoàng đế và hoàng hậu kề vai ngồi trên ngai vàng để trăm quan triều hạ. Rồi đến cuộc lễ tại nhà Thái miếu. Hoàng đế và hoàng hậu cùng bá quan lại một phen võng lọng kiệu sang đó. Các cuộc lễ bên ngoài đã xong, nhà vua và hoàng hậu quay về cung, chịu lễ bái yến và chúc mừng của phi tần. Tiếp sau đó là cuộc lễ, tương kiến trong gia đình, nào là anh em, nào là chú bác, nào là chị em, nào là cô dì… tất cả đều theo nghi tiết mà hành lễ, mười phần hoàn hảo. Cuối cùng, đến cuộc triều hạ mệnh phụ, cũng vô cùng trọng thể. Mọi cuộc lễ đều xong, lúc đó nhà vua và hoàng hậu mới song song ngồi trên xe loan vào tẩm cung để làm lễ hợp cẩn. Thái Tông hoàng đế đến lúc này mới được rảnh để nhìn ngắm tường tận người vợ yêu của mình. Nàng mặc y phục hoàng hậu theo đúng nghi thức Đại hôn, thêu kim tuyến óng ánh muôn màu trước ánh đèn lồng soi sáng cung đình như ban ngày. Hoàng hậu hôm nay trang điểm vô cùng tinh tế, cặp lông mày nhỏ như lá liễu, uốn vòng cung trên đôi mắt đa tình lúc nào cũng như mặt nước hổ thu lóng lánh, đôi môi thắm nở một nụ cười hệt như bông hoa hàm tiếu. Mái tóc mây được những năm cung nữ chuyên môn chải búi. Người ta chỉ cần nhìn vào mái tóc đó cũng đủ để phải ngây hồn rồi. Tóc của bà là loại tóc mây đen óng ánh, lả lướt xuống đôi vai, mỗi khi làn gió nhẹ thổi qua những sợi tóc mảnh như tơ phất phơ bị làn gió xuân xao động. Đôi hài hết sức đặc biệt. Chung quanh hài dính toàn ngọc lưu ly nhỏ như hạt đậu, ánh sáng chiếu ra ngoài thành muôn đường sáng quắc. Phía trước, chiếc nào cũng có một con phượng xinh xinh, mỗi khi hoàng hậu bước đi đôi cánh phượng nhún nhẩy y như khi chúng đang bay trên khoảng trời xanh cao vút. Thái Tông hoàng đế càng nhìn hoàng hậu càng thấy mê mẩn tinh thần.
Theo sau gót hoàng hậu, một đoàn phi tần cũng áo mới xiêm mới, cũng đủ màu đủ vẻ, chẳng khác gì một đoàn tiên nữ đang theo hầu nàng Hằng Nga, đạo chơi trên Nguyệt điện.
Tuy các nàng phi tần cũng là những giai nhân tuyệt sắc, nhưng bên cạnh hoàng hậu, ai cũng thấy các nàng còn thua xa. Hoàng hậu quả là một giai nhân xưa nay chưa từng thấy ở cái xứ Mãn Châu man dại này. Bà là một đoá hoa rừng mà tạo hoá như có ý dành riêng cho dân tộc Mãn để tô điểm cho ngài vàng dòng tộc Mãn. Đứng trong đám phi tần nọ, bà như một con chim phượng hoàng giữa đàn gà, một cành mẫu đơn đang độ trong một vườn hoa tuy đủ sắc đủ vẻ nhưng quá tầm thường.
Mọi người đẹp trong hoàng cung hôm đó thực đã bị hoàng hậu hạ giá hết. Người ta chỉ thấy có bà duy nhất là nghiêng nước nghiêng thành. Chính cái sắc ấy đã khiến Thái Tông hoàng đế mê mệt đến độ bất chấp cả điều tiếng của thiên hạ để lăn xả vào đường tình, không chút e ngại.
Thái Tông hoàng đế càng trông thấy hoàng hậu của mình càng thấy lòng xốn xang bối rối. Ngài bèn liếc mắt cho toàn thể phi tần, cung nữ lùi ra ngoài rồi ngồi xuống bên cạnh hoàng hậu xinh đẹp của mình, hai kề vai, tay trong tay, tuy đôi miệng chưa nói điều gì nhưng ánh mắt đã gởi cho nhau những niềm ân ái kín sâu xưa nay chưa từng nói tới bao giờ.
Hoàng hậu sẽ vén ống tay áo lụa mỏng, để lộ cánh tay trắng như tuyết, cầm lấy hồ rượu bồ đào nhẹ rót vào hai chiếc ly bằng pha lê đặt trên bàn trước mặt. Ngắm đôi tay xinh như ngọc ấy, Thái Tông hoàng đế cảm thấy mình như được thượng đế cưng chiều nhất, dành riêng cho mình ưu vật có một không hai dưới trần thế. Thế rồi hai ly rượu được nâng lên để làm hợp cẩn, men rượu vừa say trong khi men tình cũng đã thấm sâu tận các thớ thịt cùng làn da của đôi tình nhân… Đây là cuộc tình duyên ngẫu nhiên của Thái Tông hoàng đế, bắt nguồn từ cuộc hành quân của Anh Minh hoàng đế ra Phủ Thuận.
Thân mẫu của Hoàng Thái Cực (tức Thái Tông hoàng đế) là bà Diệp Hách Nạp Thích rất được Anh Minh hoàng đế cưng chiều. Hoàng Thái Cực sinh ra trong cuộc ân ái mặn nồng đó. Chàng lại khôi ngô tuấn tú, nên càng được Anh Minh hoàng đế thêm phân sủng ái. Chàng tuổi tuy còn nhỏ nhưng giải quyết mọi việc rất nhanh và đúng. Thấy con có tài năng xuất chúng, Anh Minh hoàng đế để chàng lại kinh thành, thay mặt ngài xử lý mọi việc trong bộ lạc. Ngài còn cho gọi thêm mấy người anh là A Bái, Thang Cổ Đạt tháp Bái và A Bá Thái Giáp Cực chu toàn công việc.
Hoàng Thái Cực vâng lệnh cha, không dám biếng trễ, ngày đêm lo liệu mọi việc đến quên cả ăn ngủ. Bà Diệp Hách thấy chàng quá vất vả càng thương chàng. Bà biết chàng rất thích đi săn nên bảo mấy người anh của Cực thay phiên nhau xử lý công việc, để cho Cực có chút thì giờ rảnh rang ra ngoài săn bắn giải trí. Thế là Cực được các anh cho phép đi săn luôn ba ngày. Cực liền đem bọn thị vệ vào săn trong rặng núi phía tây…
Hôm đó đoàn thợ săn cao hứng đi sâu mãi vào rừng thẳm đến hàng năm, sáu chục dặm. Họ săn được không biết bao nhiêu thú, bao nhiêu chim. Họ cắm trại câng lều trong giữa khu rừng, tha hồ uống rượu ăn thịt, ca múa, vui thâu đêm. Thật là một đêm vui nhộn hiếm có mà Hoàng Thái Cực cảm thấy đặc biệt thích thú.
Qua ngày hôm sau, đoàn thợ săn lại lên đường đi tiếp, dã thú càng vào sâu trong rừng thẳm càng có nhiều. Đoàn đi tới một khu rừng thông, bỗng thấy trên một bãi đất trống rộng trước mặt có đàn hươu sao đang gặm cỏ. Hoàng Thái Cực mừng rỡ đến cực độ, vội truyền lệnh cho hơn một trăm tên kỵ mã thị vệ hướng về hướng tây săn đuổi, chỉ một chàng mình ở lại Cực lúc đó đứng dưới bóng một cây thông cao, bỗng thấy một con hươu mẹ bị người đuối đang hoảng hốt ba chân bốn cẳng chạy vào khu rừng thông. Cực vội nhảy lên mình ngựa, đuổi gấp. Con hươu mẹ thấy trong rừng có người chạy ra giật mình hoảng sợ, quay đầu chạy tạt về hướng đông, lẹ như mũi tên bắn. Tóm được chú mồi ngon, Cực đời nào chịu bỏ, phóng ngựa như bay đuổi theo. Ngựa của Cực vốn thuộc loại có tiếng cho nên đuổi một lát đã gần kịp, Cực tay tả giương cung, tay hữu rút tên rồi phóng luôn ba mũi, một mũi trúng ngay giữa lưng hươu mẹ. Hươu mẹ chịu đau, vừa chạy vừa lắc, xuyên thẳng tới đầu núi, bốn vó phóng như điên. Tuấn mã như cũng cảm thấy khoái thích lao theo như gió. Chẳng mấy chốc, Cực đã đuổi qua đầu núi, nhìn về trước chỉ thấy sừng sững đứng chắn ngang hai ngọn núi cao chót vót, chênh vênh trên đỉnh khu rừng già. Cực lúc đó đã thấm mệt nên muốn tới nghỉ ngơi đôi chút tại khu rừng, nhất là khi hươu chạy qua đầu núi, chẳng hiểu đã phóng về ngả nào mất hút.
Cực thả lỏng cho ngựa từ từ bước một vào rừng. Đang định xuống ngựa, bỗng nghe đằng sau gáy có tiếng "vút" xé không khí về phía trái. Thế rồi hai tiếng "vút vút" nữa tiếp theo liền.
Hai mũi tên sau thì một mũi chui qua nách Cực, còn mũi kia cắm vào vai áo nhuyễn giáp. Cực biết có người mưu hại, vội rạp đầu xuống, tay giật mạnh giây cương cho ngựa chạy vào hẳn trong rừng già để tạm nấp. Bỗng có tiếng gầm thét nối lên ở phía sau chàng rồi những tiếng vó ngựa rầm rầm đuổi theo, tiếng "vút vút" của những mũi tên bắn đi, tạo thành một quang cảnh hỗn độn giữa khu rừng núi âm u tịch mịch.
Một chiếc tên bay tới, trúng vào đùi ngựa. Lại một chiếc tên nữa cắm phập đùi Cực. May mà khoảng cách hơi xa cho nên sức yếu, tên cắm vào không sâu lắm, Cực vội dùng tay rút phắt tên ra. Con ngựa trúng tên, đau quá hoá khùng, hí một tràng dài rồi giơ cao bốn vó lao mình về trước, xuyên vào khu rừng. Cực bám chặt lấy cổ ngựa, tai chỉ nghe tiếng gió lướt vù vù, chẳng còn biết được gì xảy ra chung quanh nữa.
Chàng phi như thế không biết đã bao lâu, ngựa giảm bị tốc lực, chàng ngồi thẳng người lên, thở phào mấy cái dốc hết nỗi mệt nhọc ra ngoài. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, bốn phía đều là rừng núi bát ngát, cỏ rậm. Xa xa có tiếng suối chảy rì rào. Thật là một quang cảnh nên thơ.
Cực lúc đó đã quá khát, bèn cho ngựa hướng về phía co tiếng suối quay đầu lại sau không thấy kẻ nào theo đuổi, chàng nhảy xuống ngựa, tay cầm cương, rồi dắt ngựa từ từ đi trên đám cỏ mòn lá sắc. Vết thương trên đùi không nặng gì lắm nên không trở ngại nhiều cho cuộc đi bộ của chàng. Càng đi tới tiếng suối càng nghe rõ. Tìm đường về trái rồi về phải nhưng không thấy, chàng đành chậm bước tiến lên. Khi vượt qua một đoạn đèo núi, chàng mừng quýnh bởi đã thấy một thác nước trắng xoá như tấm lụa bạch chạy dài từ trên đỉnh núi xuống mãi tới chân đèo, rồi từ nơi chân đèo, thác nước đã biến thành một con suối nhỏ oằn oèo như lưng rắn chạy trên khu đồng cỏ xanh rì.
Hoàng Thái Cực lòng mừng rỡ khôn xiết, cố đi thêm một đoạn đường ngắn nữa. Chàng cho ngựa uống nước ở một cái vũng cạnh thác, rồi tiến lên vài bước, bụm hai tay hứng nước thác đưa vào miệng. Chàng uống luôn mấy ngụm nước trong mát, cảm thấy tinh thần sảng khoái, thư thái rồi ngồi xuống cạnh thác nước, đưa mắt nhìn trời mây… Phong cảnh núi non thật hùng vĩ. Tứ bề vắng lặng như tờ.
Giữa lúc đang mê mải thương thức cảnh tượng thiên nhiên. Hoàng Thái Cực bỗng nghe một tiếng gầm thét vang lên, xé tan bầu không khí tĩnh mịch. Rồi có tiếng vó ngựa nện trên đường đá lộp cộp vội vã chạy về phía chàng. Cực lúc đó chẳng khác gì con chim phải tên nghe những thanh âm đó mà hoảng sợ, trống ngực đập thình thình.
Phải chăng kẻ thù khi nãy đã đuổi tới đây? Nhưng chàng không đến nỗi lo lắm, bởi vì chỗ chàng ngồi bên cạnh thác nước được bóng cây che khuất, người bên ngoài không thể nhìn thấy được. Chàng lặng lẽ kéo con ngựa xích lại gần mình, rồi nhô đầu ra, nhìn về phía bờ suối.
Trên cánh đồng bằng trước mặt, một bọn người đông có tới ba, bốn chục, cưỡi ngựa đuổi theo một con sói lớn. Con sói khi chạy ra đến giữa cánh đồng thì bị bọn người vây quanh, chạy ngả nào cũng bị chặn lại. Nhìn kỹ bọn người cưỡi ngựa chàng lấy làm lạ lắm. Bởi đó toàn là những thiếu nữ trẻ đẹp, môi son mắt phượng. Các nàng vừa đuổi thú vừa hò hét vang tròn. Con sói xem ra hết đường chạy, chỉ còn một ngả duy nhất là con suối. Các cô gái kia đâu có chịu bỏ; vội quất ngựa đuổi theo. Sói hối hả chạy gần tới bờ suối.
Hoàng Thái Cực không thể ngồi yên, giương cung đặt tên nhắm chính sọ con sói bắn một phát. Cùng lúc đó, một cô gái trong bọn, cũng bắn trúng ngay sau ót con mồi, đối ngược lại với mũi tên của Cực. Sói la lên một tiếng thảm thiết rồi chết lăn ra đất. Cô gái chạy tới, nhảy xuống ngựa xem, thấy có hai mũi tên thì lấy làm lạ. Giữa lúc nàng còn phân vân thì đoàn con gái chạy theo sau đều đã tới, vây lấy con sói. Có một nàng trong số nhanh mắt nhìn thấy bóng Hoàng Thái Cực bên suối, bèn hò cả bọn chạy tới.
Cực lúc này biết rằng khó nấp, chàng dắt ngựa đi ra. Các cô gái chạy lại, vây quanh chàng rồi đưa tới trước mặt một cô nàng có tư thế của một vị chủ nhân. Khi giáp mặt, chàng mới có dịp nhìn kỹ. Chàng không ngờ lại có người đẹp đến thế. Mắt chàng bỗng như bị choá vì sặc đẹp rực rỡ của nàng.
Trang giai nhân trước mặt chàng qua là một ưu vật, sắc nước hương trời. Thân hình nhỏ nhắn, lưng eo, dáng yểu điệu dịu dàng. Chân nàng đi đôi man hài, mình mặc chiếc áo ngắn, tay cộc. Toàn thân nai nịt vừa gọn gàng vừa xinh đẹp, khiến ai cũng phải si mê. Khuôn mặt nàng hình trái xoan, trắng mịn, không cần trang điểm mà vẫn duyên dáng mặn mà. Đôi mi cong cong lá liễu, phủ dài trên cặp mắt lóng lánh. Chiếc mũi dọc dừa và cặp môi thắm như muốn cướp hồn những khách đa tình.
Giai nhân thấy có một chàng trai trẻ đứng trước mặt mình, đôi má bất giác ửng hồng, ra chiều e lệ ngại ngùng. Nàng quay lại bảo thị nữ đứng bên:
- Hỏi xem y là ai? Tại sao dám vào rừng săn bắn của ta?
Thị nữ được lệnh, bèn lại gần Hoàng Thái Cực, bảo:
- Công nương vừa nói gì, công tử nghe rõ rồi chứ?
Nghe hỏi đi hỏi lại hai, ba lần mà Cực vẫn không trả lời.
Đôi mắt chàng bị khuôn mặt xinh tươi kia hút lấy, có nghe thấy gì nữa đâu. Bọn thị nữ vây quanh thấy chàng như ngây như ngốc chẳng khác kẻ mất hồn, bèn cười ồ lên và đùa giễu với nhau:
- Anh chàng này xem chừng điếc chắc?
Có cô nói:
- Hắn có lẽ câm nữa đây?
Lai có cô thêm:
- E rằng là hắn sắp cả mù rồi…
Cô thứ tư có vẻ già dặn từng trải hơn, cười nhạt bào mọi người:
- Bậy nè! Hắn chẳng câm, cũng chẳng điếc đâu. Hắn chỉ mất hồn thôi.
Bọn chị em lại cười ồ cả lên khiến Hoàng Thái Cực giật mình như vừa tỉnh một giấc mộng, bất giác cũng mỉm cười. Rồi chàng lên tiếng:
- Ta vốn là một vị bối lặc. Đây là lần đẩu ta thấy có kẻ dám bảo ta vừa mù, vừa điếc, vừa câm. Mấy con a hoàn này gớm thật.
Bọn thị nữ nghe chàng tự xưng là bối lặc, lại phá lên cười nữa. Chúng chỉ vào mặt chàng, giễu cợt:
- Chị em hãy nhìn anh chàng bối lặc khốn khổ này xem. Hắn ra ngoài mà chả có một mống lính hầu nào! Hắn phải tự giắt ngựa, trông thảm não chưa kìa! Chẳng bù với Tái Tang bối lặc của bọn ta, mỗi khi ra cửa, tiền hô hậu hét ít ra là phải hàng trăm tuỳ tùng.
Hoàng Thái Cực chẳng đặng đừng, đành phải xưng tên họ, kể gia thế rồi thuật cuộc đi săn, gặp con hươu mẹ, đuổi đến nửa đường bị địch nhân ám hại nên phải chạy trốn lạc bước tới đây. Chàng kể rành mạch từ trước đến sau, đầy đủ chi tiết.
Cô gái ngồi nghe hết, tin là chàng nói thật. Hơn nữa nàng thường được thân phụ nàng kể lại cho nghe, nào là bộ lạc Kiến Châu cường thịnh ra sao, nào là Tứ bối lặc anh hùng thế nào, nên lại càng tin thêm. Nàng trông kỹ, thấy chàng quả nhiên khôi ngô tuấn tú, ăn nói hoạt bát, tỏ ra học thức hơn người. Nàng bất giác cảm thấy lòng mình xao xuyến, khó nói nên lời.
Một lúc sau, nàng mới cất giọng oanh thỏ thẻ:
- Bối lặc đã là người Kiến Châu thì đối với bọn thiếp chính là chỗ thân tình rồi. Địa phương này xa uý bộ tới hai trăm dặm. Thiết tưởng bối lặc nhất thời chưa thể về kịp, mà lều trại của bọn thiếp thì ở gần đây, vậy xin bối lặc quá bộ lại nghỉ, uống chén trà, nói chuyện cho vui.
Nôi đoạn nàng nhảy lên mình ngựa, chạy trước dẫn đường.
Hoàng Thái Cực lúc này đã quá si mê, chẳng thể chẳng lên ngựa theo đi. Phía sau bọn thị nữ xinh đẹp cười nói huyên thuyên, lần lượt bước theo. Đoàn người đi qua cánh rừng nhỏ thì thấy một khu lều trại khá lớn. Cực xuống ngựa bước theo vào lều, sau khi chia ngôi chủ khách, bọn thị nữ dâng rượu thịt. Cực chẳng làm khách, vào tiệc ngay, vừa ăn uống vừa hỏi về gia thế người đẹp. Nàng vui vẻ trả lời:
- Địa phương này là biên địa của bộ lạc Khoa Nhi Bí. Phụ thân của thiếp chính là Bộ chủ Bác Nhĩ Tề Cát Đặc, tên Tắc Tang bối lặc.
Hoàng Thái Cực nghe tới đây biết nàng là con gái của Tắc Tang bối lặc, bất giác lòng mừng khấp khởi. Chàng vội đứng dậy, cúi chào thỉnh an, rồi cất giọng trịnh trọng nói:
- Thì ra cô nương vốn là một vị cách cách. Tại hạ thực đã quá đường đột xúc phạm tới phương nhan nhiều lắm.
Vừa nói Cực vừa để ý liếc nhìn tấm thân yểu điệu, thướt tha của nàng. Chàng nhớ lại lời đồn đại của dân chung Mãn Châu, nói rằng Tắc Tang bối lặc có hai vị cách cách, hai đoá hoa hàm tiếu giữa mùa xuân đương độ. Da thịt của cả hai nàng trắng mịn như ngọc, bởi vậy cô lớn mới có tên Đại Ngọc Nhi, còn cô bé Tiểu Ngọc Nhi.
Hoàng Thái Cực có ý tinh nghịch, bèn lên tiếng hói nàng:
- Xin hỏi phương danh của cách cách là gì?
Cách cách Đại Ngọc Nhi (vì cô này là lớn) nghe hỏi cúi đầu hơi thấp xuống, lấy khăn che cặp môi hồng chỉ mỉm cười mà chẳng chịu trả lời. Một đứa thị nữ đứng hầu bên cạnh vốn tính nhanh nhẹn hoạt bát đã tiếp lời:
- Cách cách của tiện nữ tên gọi Đại Ngọc Nhi đấy ạ!
Đại Ngọc Nhi bỗng sa sầm nét mặt. Đứa thị nữ giật mình sợ hãi, lùi hẳn lại đến hai bước. Ngọc Nhi vừa khoát tay vừa bảo đứa thị nữ:
- Ra ngoài kia ngay đi! Đừng ở đây mà lẻo mép. Nếu không có lệnh gọi, cấm được vào, nghe chưa?
Bọn thị nữ thấy cách cách nổi giận, nhất tề lui ra, túm năm tụm ba trò chuyện. Bên trong lều chỉ còn lại có Ngọc Nhi và Thái Cực.
Chàng và nàng trò chuyện có mòi tương đắc lắm, mãi tới chiều tối, đèn cũng chẳng cần đốt, cơm chiều cũng chẳng hò dọn. Bon thị nữ không có lệnh gọi không dám hỏi, chi biết đợi chờ phía ngoài. Chúng ngồi nghe hết tiếng cười này đến tiếng cười khác, trong lều quả đã có một cuộc vui hiếm có.
Cuộc vui hiếm có của đôi trai gái tuổi xuân đương độ ấy kéo mãi suốt sáng. Lúc đó, bọn thị nữ mới được lệnh sửa soạn tiệc rượu. Đại Ngọc Nhi với Hoàng Thái Cực ngồi vào tiệc, vai kề vai, trò chuyện không dứt. Bữa tiệc kéo dài đến gần trưa.
Cực lúc đó mới sực nhớ tới việc nhà, bèn khẩn khoản cáo từ. Ngọc Nhi chẳng còn biết nói sao, đành sai người chạy về bộ lạc điều động một đội quân hộ tống chàng về Kiến Châu.
Lúc tạm biệt của hai người, bọn thị nữ lưu ý chỉ thấy vị cách cách của chúng đôi mắt đỏ hoe ngồi trên mình ngựa đưa tiễn mãi chẳng nỡ trở về. Đôi ngựa kề đầu chàng và nàng chẳng biết đã nói bao nhiêu chuyện cuối cùng đành bịn rịn chia tay. Đại Ngọc Nhi chằng còn lòng dạ nào săn bắn nữa. Nàng cho lệnh nhổ lều, cuốn gói lặng lẽ âm thầm trở về bộ lạc.
Lại nói bà Diệp Hách Nạp Thích từ khi Hoàng Thái Cực vào rừng săn bắn thường băn khoăn ra vào không yên. Đêm đầu không thấy con về, bà chỉ nhớ chứ không lo vì Cực đi săn qua đêm là thường. Qua ngày thứ hai, mãi tới chiều tối mà vẫn chẳng thấy Cực về thì bà đã thấy sốt ruột. Đến lúc lên đèn bà chỉ thấy bọn thị vệ hối hả chạy bố từ ngoài vào nói rằng Tứ bối lặc bị lạc đường chẳng rõ chạy về phương nào càng lấy làm lo, và cật vấn bọn thị vệ kỹ lưỡng thì thấy chính chúng cũng không rõ lý do nữa. Chúng chỉ khai rằng khi tất cà đuổi theo bầy hươu thì duy có Tứ hối lặc ngồi lại trong rừng thông, đến khi chúng quay về thì chẳng thấy chàng đâu nữa. Chúng đã tìm kiếm khắp cả ngả rừng, mãi đến đêm khuya mà chẳng thấy vết tích, bọn chúng đành phải quay về bẩm cáo.
Hai hôm sau, Tứ bối lặc trở về, dương dương đắc ý. Bà Diệp Hách chạy lại nắm lấy tay con, miệng cuống quýt hỏi han. Tử bối lặc nói chẳng có gì lạ xảy ra. Chàng chỉ giục bà cho người đi ngay tới bối lặc Khoa Nhĩ Bí để làm mai cho chàng. Các bà phúc tấn, các nàng cách cách nghe chàng nói, ai cũng cho chàng là điên! Bà Diệp Hách cật vấn mãi chàng mới thổ lộ chân tình, kể lại một lượt cho mẹ nghe.
Chàng còn nói với mẹ:
- Lần này con mới thấy được một người đẹp đấy, mẹ ạ.
Chàng buộc mẹ cho người đi làm mai cầu thân, bà Diệp Hách cau mày bảo:
- Phụ thân con đã định việc hôn nhân cho con rồi, ai còn dám mai mối kiếm đám khác?
Tứ bối lặc vẫn nài nỉ mẹ, không chịu thôi. Bà Diệp Hách chỉ còn biết thoái thác bằng cách bảo đợi phụ thân chàng ít ngày nữa trở về sẽ đứng ra chủ trương cho chàng.
Ít hôm sau, Anh Minh hoàng đế trở về. Lần này xuất quân thắng trận nên ngài vui vẻ lắm. Giữa lúc ngày đang cao hứng, Hoàng Thái Cực đem việc làm mai ra nói, được ngài bằng lòng ngay…
Thế là sau cuộc yến tiệc thành công, Anh Minh hoàng đế cho ngay một vị đại thần mang theo rất nhiều lễ vật đến Khoa Nhĩ Bí cấu hôn. Vị đại thần đi rồi, Hoàng Thái Cực ngày đêm mong ngóng hết ra lại vào, thở vắn than dài.
Đã bao ngày đêm mới thấy vị đại thần trở về, với đầy đủ sính lễ, tất cả vẫn còn nguyên phong, Anh Minh hoàng đế lấy làm lạ, bèn hỏi thì đại thần tâu:
- Tâu bệ hạ! Thật đáng tiếc vì chúng ta đến quá trễ! Khi thần tới Khoa Nhĩ Bí gặp Tắc Tang bối lặc, trình lời cầu hôn thì Tắc Tang cự tuyệt. Ông nói vừa hôm qua ông đã định việc hôn phối cho con gái ông lấy thế tử Đức Nhĩ Cách Lạc của bối lặc Kim Đài Thạch nước Diệp Hách rồi. Thần không tin thì Tắc Tang bối lặc nói ngay rằng mai nhân còn đó để chứng minh sự thực. Ông còn cho gọi một người ra trình diện. Thì ra đó là một viên quan nước Diệp Hách tên gọi A Nhĩ Tháp Thạch. Thần không còn biết nói gì hơn, đành cáo từ ra về.
Anh Minh hoàng đế nghe lời tấu xong cũng chẳng còn biết nói gì hơn. Người đau khổ nhất còn ai khác hơn là Hoàng Thái Cực, chàng không ngờ người đẹp của chàng lại bị người anh con ông cậu cướp mất. Chàng phát điên lên, nhiều lúc như ngày như dại. Chàng buộc mẹ chàng tới Diệp Hách nói với gia đình nhà cậu hãy nhường người đẹp Đại Ngọc Nhi lại cho chàng. Nhưng bà Diệp Hách e chẳng tiện đối với gia đình bên ngoại về việc này, bèn không chịu đi. Thế là mối hận thù phát sinh mãnh liệt trong lòng cậu con cưng của bà. Hoàng Thái Cực định huy động quân mã tới Diệp Hách quyết một phen sống mái. Nhưng Anh Minh hoàng đế ngăn lại và buộc chàng phải cưới vợ ngay tức khắc với người con gái mà ông đã lựa chọn từ trước. Chàng vẫn âm thầm tưởng nhớ đến người đẹp dù đã có người bạn trăm năm xinh đẹp cũng chẳng kém.
Chẳng ngờ ít lâu sau, Diệp Hách bộ ám trợ quân Minh, trong khi Anh Minh hoàng đế đánh bại quân Minh ở núi Tát Nhĩ Hủ. Bởi vậy Kim Đài Thạch chuyển quân qua chinh phạt Diệp Hách. Hoàng Thái Cực trong dịp này được kể là một vị tướng hăng hái nhất, xin xung chức tiên phong đánh phá Đông thành.
Đông thành chính là nơi tổng hành doanh của cha con Kim Đài Thạch. Lòng tưởng nhớ người đẹp năm xưa lúc này bộc phát dữ dội khiến chàng đốc thúc quân sĩ ngày đêm đánh phá, quên cả ăn, bỏ cả nghỉ. Bởi vậy Đông thành chẳng mấy chốc đã bị phá tan.
Kim Đài Thạch thấy đại sự đã hỏng, vội đem bà phúc tấn và gia quyến lên đài cao. Hoàng Thái Cực cho rằng Đại Ngọc Nhĩ cũng có trên đó, bèn hạ lệnh cho binh sĩ vây kín chân đài rồi hô lớn:
- Cửu cửu mau xuống hàng đi để tránh cho Cửu cửu mẫu và biểu tẩu khỏi kinh sợ.
Nhưng sau đó chàng nghe nói người đẹp của chàng còn ở lại trong cung. Thật may cho chàng là đại bối lặc Đại Thiện đem quân tới vừa đúng lúc. Chàng bèn giao quân mã cho anh rồi tức tốc phi ngựa vào cung chỉ mang theo có hai trăm cận vệ.
Lại nói Đại Ngọc Nhi từ khi lấy Đức Nhĩ Cách Lặc thì tình ân nghĩa ái kể thực thắm thiết nồng nàn, thường cùng cưỡi ngựa vào rừng săn bắn, hưởng mọi khoái lạc hạnh phúc.
Tuy vậy, đôi khi nàng cũng nhớ tới cái đêm cùng Hoàng Thái Cực trong căn lều săn khi chưa xuất giá, cảm thấy lòng xao xuyến bâng khuâng. Đức Nhĩ Cách Lặc đối với nàng thật muôn phần yêu quý cưng chiều cho nên lòng tưởng nhớ đó dần dần phai nhạt. Đến lúc này, lúc quốc gia đại sự, chồng thì bị quân Mãn bắt, chưa biết sống chết ra sao, nàng chỉ còn độc thân trốn núp trong thâm cung. Nàng cảm thấy lo sợ ghê gớm song cũng còn đôi chút hy vọng vì nàng nghĩ tới gia đình nhà mình còn có tình cậu cháu với họ Giác La thì nhất định tính mạng của nàng không có gì đáng ngại.
Giữa lúc Đại Ngọc Nhi suy nghĩ vẩn vơ như vậy, bỗng một đoàn cung nữ hớt hơ hót hải chạy tới la lên vội báo nàng:
- Nguy mất lồi! Nguy mất rồi Quân Mãn Châu đã phá thành ùa vào trong cung rồi.
Liền đó, Đại Ngọc Nhi nghe tiếng chân người ngựa rầm rập lao tới như thác lũ. Nàng đứng bật dậy, tỏ vẻ cương nghị đem theo đám cung nữ xông ra bên ngoài nghiêm nét mặt quát bảo tốp binh sĩ đang hùng hổ tiến vào:
- Bọn ngươi cầm gươm vác giáo xông vào nơi cung cấm thực chẳng còn đạo lý nào nữa! Hoàng đế của bọn bay với gia đình ta vốn có tình cậu cháu, chỉ vì mối bất hoà nhất thời xảy ra, ắt cũng không thể vì thế mà xúc phạm chốn cung đình. Việc bất pháp này nếu hoàng đế của bọn người mà biết được, ta e rằng cái đầu của bọn người khó lòng thoát rớt đấy.
Toán quân sĩ nhìn thấy Đại Ngọc Nhi mặt đẹp như hoa nở, tiếng nói lại sang sảng và lạnh lùng như băng giá, liền đứng khựng lại, tiến thoái lưỡng nan. Giữa lúc đó, bỗng một viên tướng trẻ ngồi trên lưng con bạch mã, phi như gió tới trước cửa cung. Toán binh sĩ vội xà thấp đầu xuống miệng hô: "Tứ bối lặc", xong đứng ra hai hàng, im phăng phắc.
Đại Ngọc Nhi nhận ngay ra Hoàng Thái Cực, người tình một đêm của nàng thuở nọ. Nàng liếc mắt nhìn trộm, mới biết hồi này người tình của mình càng tuấn tú, đáng yêu hơn. Nàng bất giác ửng hồng đôi má. Tứ bối lặc vừa thấy nàng liền tiến vội tới thỉnh an và cố chọn lấy cách xưng hô cũng như giọng nói bình thường nhất:
- Biểu tẩu lâu nay có được mạnh giỏi không? Tôi tới hơi trễ, khiến tẩu tẩu phải sợ hãi một phen, mong tẩu tẩu thứ lỗi cho. Tôi sẽ xin ở lại đây đề hầu hạ tẩu tẩu.
Rồi chàng khoát tay ra hiệu binh sĩ lui hết.
Đại Ngọc Nhi mặt càng đỏ thêm. Nàng cúi xuống, lấy vạt áo che nửa miệng hoa, mỉm cười đáp:
- Binh sĩ của quý bộ xông vào trong cung thì làm sao thiếp chẳng sợ hãi. May có bối lặc đến kịp khiến thiếp tránh được một phen nguy hiểm, đó thực là một cái ơn tái tạo. Song trong tình thế hiện nay, thiếp đã trở thành một cung tần vong quốc, thì cái chuyện hiểm nguy, sợ hãi kia cũng đành phải chịu chứ đâu dám oán giận bối lặc.
Nàng vừa nói xong bỗng mắt đỏ hoe, rồi nguýt chàng một cái dài lộ vẻ oán giận đến cùng cực. Chàng thấy vậy hiểu ý nàng, chỉ muốn đem lòng mình mà thổ lộ nhưng lại sợ con mắt tò mò của bọn cung nữ còn đứng cả đấy. Chàng bèn ghé sát tai nàng:
- Biểu đệ đứng đã quá lâu, chân đã quá mỏi. Bởi vậy biểu đệ mong biểu tẩu đưa vào trong cung ngồi nghỉ một lát cho đỡ mệt, không biết có được không? Biểu đệ còn có một việc mong được Phụng cáo.
Đại Ngọc Nhi thản nhiên nói:
- Chúng ta đều là người chí thân với nhau. Ngồi nghỉ một lát có hại gì?
Nói đoạn, nàng cùng bọn cung nữ đi trước dẫn đường. Hoàng Thái Cực theo sau, đi quanh quẩn một lúc lâu qua không biết bao nhiêu là cung điện mới tới một căn phòng trang trí rất lộng lẫy. Chàng biết đây là phòng ngủ của người đẹp Đại Ngọc Nhi, trong đầu liền nảy sinh một ý tưởng bất chính. Đại Ngọc Nhi quay đầu lại nhìn chàng nhoẻn miệng cười hỏi:
- Chỗ này có thể ngồi được chứ?
Cực tiếp lời:
- Ngồi được. Ngồi được lắm!
Nói đoạn, chàng tiến vào phòng. Đại Ngọc Nhi khoát tay ra hiệu cho các cung nữ lui ra hết. Cực thấy lúc đó chẳng còn ai, bèn đứng dậy tiến lên vài bước cầm lấy tay Ngọc Nhi nói:
- Biểu tẩu? Tẩu có nghĩ tới nỗi khổ sầu của biểu đệ không?
Ngọc Nhi khẽ giật tay ra khỏi tay chàng rồi lấy ở trên giường kỷ chiếc khăn màu hồng, vừa chùi nước mắt vừa khóc thút thít nói:
- Chàng thật là bạc.
Nàng chỉ nói được có một câu đó rồi bỗng oà lên khóc nghe bi thiết đến xé phối cào gan. Chàng đem hết mọi việc xảy ra và mối khổ tâm của mình ôn tồn thuật cho nàng nghe. Chàng còn nói những lời âu yếm rồi xin lỗi đôi ba lần. Người đẹp bỗng nhiên thôi khóc. Chàng đưa tay kéo nàng sát lại bên mình. rồi thay nàng lau nốt mấy giọt lệ còn đọng trên hàng mi. Chàng cất tiếng nói nhỏ nhẹ như chỉ muốn cho hai người nghe thôi:
- Người đẹp của anh đừng có sầu khổ làm gì. Nếu anh không thực tâm yêu em thì đời nào anh liều mạng tới đây ác chiến? Bây giờ đã gặp được em, mối tình xưa vẫn còn đó, em hà tất phải buồn tủi chuyện quốc phá gia vong nữa?
Nàng nghe lời chàng nói, ngẩng lên nhìn chàng âu yếm.
Cái cảnh gương vơ lại lành, hoa xưa ong cũ, khỏi nói ai cũng biết nó nồng thắm đến độ nào!
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét