Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

20 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 72,73,74,75

Hồi 72: Càn Long du Giang Nam

Không ngờ vợ Hoắc Tập Chiêm quả hết sức ranh mãnh. Càn Long hoàng đế một khi đã mắc vào tay "gái già" này rồi thì khó mà hòng rời ra được. Bởi vậy, ngài, để nàng ở lại Cảnh Nhân cung, ngày đêm thủ lại; lại phong cho là Hồi phi. Qua năm sau, Hồi phi sinh hạ một hoàng tử. Nàng thường phàn nàn mình sinh tại Hội bộ, không quen nếp sống ở Thanh triều Càn Long hoàng đế bèn hạ chỉ cho Nội vụ phủ xây cất ngay trong hoàng thành toà Bảo Nguyệt lâu. Lầu có chín căn, chung quanh tường đều ráp kính lớn. Những màn, trướng, giường, đồ trang hoàng trong phòng đều mua từ bộ lạc Hồi đem về. Trên tường vẽ đủ những phong cảnh của bộ lạc Hồi.

Toà Bảo Nguyệt lâu này đứng sát vào hoàng thành. Phía ngoài, trong một khuôn viên rộng hai dặm được xây cất doanh trại theo khung cảnh Hồi đế cho Hồi phi tựa lầu nhìn qua.

Khi nàng nhớ nhà, đôi hàng lệ lã chã tuôn rơi thì hoàng đế đem hết lời ngon ngọt khuyên dỗ. Ngài cũng ân thưởng cho rất nhiều quà cáp để nàng vui lòng theo ngài vào mật thất thủ lạc Căn mật thất này xây cất hết sức tinh xảo. Trên trần là một đoá hoa lớn toàn bằng vàng bạc châu báu dát thành Trong phòng, trừ cái móc áo duy nhất ra, không còn có gì nữa. Trên vách tường phía bắc lắp một tấm kính lớn cao một trượng năm thước, rộng sáu thước. Nhất cử nhất động của người trong phòng đều chiếu vào kính rõ mồn một.



Hoàng đế và Hồi phi ngày đêm nô đùa truy hoan trong mật thất. Phương pháp thủ lạc của ngài như thế nào, người ngoài không được rõ, chỉ biết đến năm thứ ba Hồi phi lại đẻ cho hoàng đế một cậu hoàng con nữa. Hoàng đế bèn cho Hồi phi cải trang thành kỳ nữ (con gái ăn mặc theo lối Mãn) tới bái kiến Thái hậu. Thái hậu cho là phi tử mới tuyển của hoàng đế, lại nhân nàng sinh hoàng tử nên mười phần sủng ái.

Ít hôm sau, vừa tới ngày lễ vạn thọ của Thái hậu, muốn làm đẹp lòng mẹ, hoàng đế bèn hạ lệnh cho Nội vụ phủ tập họp bọn kép hát ca nhi lại để diễn tuồng. Ngài đích thân đóng vai Lão lai tử, mang bộ râu bạc phơ, diễn một màn "Ban y hí thái". Hoàng thái hậu lấy làm thích lắm, sai bọn cung nữ đem nào kẹo bánh nào trái cây đưa lên sâu khấu cho Lão lai tử. Hoàng đế tạ thưởng ngay tại sân khấu khiến Thái hậu cười lên sằng sặc. Bọn quan viên văn võ ngồi xem hát thấy vậy nhất loạt quỳ xuống hô to: "Hoàng thái hậu, Hoàng thượng vạn thọ vô cương". Hoàng đế thấy quang cảnh ấy trong lòng bỗng nhớ lại ngày đức Thánh Tổ (Khang Hi) còn sinh thời đã rước Từ thái hậu sáu lần đi tuần du miền Giang Chiết, khiến muôn dân vui mừng. Thế mà nay ngài đăng vị đã mười lăm năm, thiên hạ được thái bình, Hoàng thái hậu tuổi còn đang mạnh, tai sao ngài lại không biết bắt chước? Ngài quay nhìn tả hữu, nhưng không thấy có ai có thể bàn tính được.

Cuối cùng ngài bỗng nhớ tới Phương Lạc Mẫn cũng vừa từ phương nam về kinh bèn cho triệu tới Tây như phòng.

Lạc Mẫn vốn là một vị lão thần của tiêu triều, vội cực lực khuyên can. Ông nói:

- Hoàng đế là người mà muôn dân ngưỡng vọng, chỉ nên toạ thủ, chớ có khinh suất ra khỏi kinh.

Càn Long hoàng đế nghe Lạc Mẫn nói, nhất thời chưa có chủ ý. Ngài tự nhủ nên đem việc này bàn với Thái hậu. Ngài chẳng mang theo thị vệ, một mình lẳng lặng bước tới cung Tử Ninh. Khi đi qua cửa Nguyệt Hoa môn, ngài tính sẽ dọc theo cửa Long môn mà vào, nhưng bỗng chợt nghe có tiếng nói chuyện rì rầm mé trong. Ngài dừng chân lại, nép mình trong cái máng, lắng nghe. Ngài nghe rõ ràng chính tiếng người nhũ mẫu nuôi ẵm ngài thuở nhỏ tên gọi Phùng Cách, còn một người nữa không biết là ai. Người kia hỏi:

- Thế hiện nay công chúa còn ở nhà họ Trần chứ?

Người nhũ mẫu đáp:

- Bị bọn tôi đánh tráo mất đứa con trai, Trần Các Lão sợ chuyện đổ bể vội cáo lão về nhà, tới nay đã bốn chục năm. Từ đó tin tức đôi nơi không có, thành thử chẳng được biết công chúa hiện giờ ra sao rồi.

Người nọ lại hỏi:

- Theo lời mụ, có phải tiểu thư nhà họ Trần chính là công chúa, con của Hoàng thái hậu, còn đương kim hoàng đế lại là con trai của Trần Các Lão, phải không?

Ngơi nhũ mẫu lại nói:

- Đúng thế, chớ còn gì nữa.

Người nọ lại tiếp:

- Việc đó thật hệ trọng chứ chẳng chơi đâu! Mụ không nhầm đấy chứ?

Người nhũ mẫu cả quyết xác nhận:

- Nhầm thế nào được. Hôm đó, chính tay tôi đánh đổi mà. Đó lại còn là mưu kế của chính tôi bày cho Thái hậu thì làm sao mà nhầm được. Chỉ vì làm chánh cung nhiều năm chẳng sinh nở, Thái hậu rất sợ hoàng tử khác lên ngôi mất. May thay năm đó bà và bà Trần Các Lão có mang cùng lúc. Hai bà chơi thân với nhau nên thái hậu thường cho mời bà Trần vào cung.

Người nọ nghe nhũ mẫu nói tới đây bèn bảo:

- Nếu vậy thì đương kim hoàng đế của bọn ta chính là dòng giống họ Trần thất rồi!

Người nhũ mẫu nói:

- Đúng vậy! Chỉ đáng buồn cho tôi lúc đó vất vả biết bao mà đến ngày nay Thái hậu và hoàng thượng đối với tôi chẳng ra sao cả, vẫn coi tôi như bao kẻ khác mà thôi.




Càn Long hoàng đế nghe trộm được bấy nhiêu chuyện trong lòng rất lấy làm lạ. Ngài vội quay về thư phòng, sai người ngầm gọi bà nhũ mẫu tới cật vấn. Bà thấy hoàng thượng hỏi mình, sợ quá, bò rạp xuống đất, dập đầu mãi xin tha tội và nói:

- Xin hoàng thượng đại lượng khoan hồng đừng đếm xỉa tới lời lẽ nô tài làm gì. Nô tài tội đáng muốn thác, chỉ xin hoàng thượng tha cho cái mạng chó dại dột này.

Càn Long hoàng đế dùng lời lẽ ngọt ngào an úi người nhũ mẫu rồi cho phép đứng dậy mà kể lại từ đầu chuyện đó ra sao. Bà nhũ mẫu thấy vẻ mặt của ngài hoà dịu hẳn đi, bèn đem kể hết mọi chuyện ra cho ngài. Lại nói:

- Nô tài tội đáng muốn thác, chẳng thể dám dối trá Hoàng thượng!

Càn Long hoàng đế đã biết chắc câu chuyện là có thực bất giác thở dài, ngồi ngẩn ra một lúc, chẳng nói chẳng rằng.

Bà nhũ mẫu đứng cạnh, không dám nói gì thêm mà cũng chẳng dám xin rút khỏi. Lát sau, hoàng đế giơ tay vỗ nhẹ xuống bàn rồi bảo:

- Ta quyết định đi thăm "họ".

Ngài lại bảo bà nhũ mẫu:

- Từ nay về sau, chớ có hé chuyện này với ai, nghe chưa?

Nói đoạn, ngài cho bà nhũ mẫu lui ra.

Bà nhũ mẫu về tới phòng được một lát thì thấy một tên thái giám bước vào. Hắn vâng lệnh hoàng đế đến thắt cổ bà ta chết ngay trên giường ngủ, rồi lén chôn xác ngay tại góc tường. Trước lúc hoàng đế cật vấn bà nhũ mẫu, bọn thị vệ và thái giám túc trực tại một căn phòng trước ngự thư phòng đã bị ngài đuổi ra ngoài hết, bởi vậy bấy nhiêu chuyện vừa kể chẳng có một người thứ ba nào biết được. Từ đó về sau, ngài cố ý lưu tâm tới mọi điểm. Ngài thấy từ diện mạo đến lời nói, quả chẳng có gì gọi là giống tiên đế cả… Lòng ngài càng nghi hoặc hơn.

Qua ngày hôm sau, ngài sang cung Từ Ninh thỉnh an. Vừa gặp mặt Thái hậu, ngài đã nói:

- Mặt mũi con sao chẳng giống tiên hoàng chút nào, hở mẹ?

Thái hậu bất chợt bị hỏi như vậy, mặt bà bỗng biến sắc, miệng không nói được lời nào!

Càn Long hoàng đế thấy thế, trong lòng đã rõ mười phần.

Sau đó, ngài quyết định tới nhà Trần Các Lão để thăm viếng cha mẹ. Song việc hoàng đế từ thâm cung ra ngoài, chẳng nên khinh ngôn mà bảo tuần du. Do đỏ, ngài định đi Giang Nam, giả thác chuyện gì đó, có thể mới khỏi bị đại thần cản ngăn.

Đang còn phân vân tính toán bỗng ngài sực nhớ tới ngày lễ vạn thọ của Thái hậu sắp tới. Ngài tỏ ý mừng rỡ vì đã có cớ, bảo nhân ngày vui của mẫu hậu, rước bà tuần du Giang Nam. Hơn nữa tiên hoàng đã từng rước Từ thánh thái hậu sáu lần đi tuần du Giang Chiết nên đã có tiền lệ. Lúc đó, Công bộ lại báo về cho ngài biết là công trình xây đắp con đê duyên hải nơi đây đã xong. Ngài lại có cớ để thân danh việc khánh thành con đê này mà lên tới Hải Ninh thăm Trần Các được.

Chủ ý đã định, ngài bèn tiến cung gặp Thái hậu. Ngài tâu rằng muốn rước bà xuất trần miền Giang Nam. Thái hậu nghe nói lúc đầu thoái thác, bảo sợ làm phiền bách tính. Nhưng về sau, hoàng đế ba bốn phen cầu khấn, bà mới nghĩ rằng trước đấy Từ Thánh thái hậu đã từng được hưởng qua phúc lớn này, hoàng đế đã có cái hiếu tâm như vậy tại sao ta lại không hưởng? Thế là bà gật đầu.




Hôm sau, hoàng đế toạ trào. Ngài đem ý kiến rước mẹ Nam tuần khánh thành con đê duyên hải ra nói với quần thần.

Lúc đó có vài vị đại thần như Cừu Viết Tu, Trần Đại Thu xuất ban can gián. Nhưng ý ngài đã quyết, không nghe lời ai can gián nữa nữa.

Sau đó, ngài hạ chỉ tháng tư năm thứ mười sáu niên hiệu Càn Long thì khởi cuộc Nam tuần. Một mặt, ngài sai Đại học, sĩ Lưu Thống Huấn trông coi việc triều chính, Sử Dĩ Trực thống lĩnh việc binh. Tờ thánh chỉ vừa ban xuống, thôi thì bọn quan viên dọc đường lo trối chết, chạy như điên. Trong bọn, có kẻ đề cập tới các thương gia buôn muối đất Dương Châu. Bọn lái buôn này bình nhật cậy thế lũng đoạn thương trường, xoay xở ít ra cũng trên vài ngàn vạn. Nếu kể tay hào phóng nhất, ngày tiêu muôn lượng, ném tiền qua cửa sổ, thì phải nói Giang, Uổng, Mã, Hoàng, bốn kẻ. Lưỡng Giang cũng biết bọn này lắm tiền, bèn cho gọi tới để giao cho việc cung đốn cuộc Nam tuần của hoàng đế.

Giang Hạc Đình phải kể là tay giàu nhất. Trong nhà y có một toà Thuỷ trúc viên, hết sức thanh u. Đình nuôi một gánh hát, ngày ngày ca múa trong vườn. Đình được tin hoàng đế nam tuần, vội sửa sang toà hoa viên cực kỳ hoa lệ. Trong gánh hát, có một con đào tên gọi Huệ Phong, mặt hoa da ngọc, đã hát hay lại múa giỏi. Đình dạy thêm cho nàng khá nhiều ca khúc mới, sắp sẵn để hát hầu hoàng thượng.

Song song với Giang Hạc Đình, còn có một đại thương gia buôn muối tên Uông Như Long cũng chẳng chịu thua kém.

Long biết Đình sửa soạn đón giá, cũng vội vàng lo liệu về phía mình. Trong nhà Long cũng có gánh hát và cô nào cô nấy, toàn hạng quốc sắc thiên hương cả. Trong bọn có Tuyết Như là sắc nước nhất, chanh cốm vừa xuân, suốt cả tỉnh Dương Châu ai cũng biết nhà họ Uông có cái vưu vật ấy. Chính Uông Như Long thấy nàng đẹp quá cũng phải muôn phần thưởng quý, thịt để trước miệng mèo đấy nhưng vẫn chưa nỡ vùi liễu dập hoa. Bởi vậy Tuyết Như tuổi đã mười tám mà ngọc đẹp chưa từng mang vết.

Phen này, Uông biết tin hoàng đế Nam du, bèn nói với quan tổng đốc xin đem toàn bộ gánh hát đến mua vui cho hoàng đế.

Hôm Thái hậu và hoàng thượng lên đường quả là một ngày hội lớn. Từng đàn thuyền ngự trương buồm nhấp nhô, liên tiếp kéo đi. Suốt dọc đường, kiếm mang hoa rước, tinh kỳ phất phới, chẳng mấy chốc đã tới Thanh Giang. Đám quan lại, thân sĩ hai bờ, chân đi giầy, tay cầm hốt, khúm núm đứng chực ở mũi thuyền đón giá.

Quan tổng đốc tâu có Thuỷ trúc viện của Giang thân sĩ là nơi có thể nghỉ chân, Hoàng đế liền truyền lệnh rời xa giá, đầu người nhấp nhô, ngựa xe rầm rộ, tiếng sênh phách đờn ca vang dậy. Ngoài vườn quân lính cầm giáo mác đứng nghiêm trang, Giang Hạc Đình chạy tới chạy lui toát mồ hôi trán, cố lo liệu đầy đủ mọi thứ. Hoàng đế mời Thái hậu dự yến xem hát.

Thấy cô đào Huệ Phong hát hay múa giỏi, ngài hết sức khen thưởng. Mãi tới lúc mặt trời xế bóng, ngài mới cùng Thái hậu lên kiệu về thuyền. Huệ Phong thấy mình được hoàng đế ưa thích, tin tưởng thế nào ngày mai cũng được thưởng tứ, cho nên trong lòng mùng rỡ lắm. Bọn quan viên lớn nhỏ địa phương ai cũng tưởng vậy, đã ngỏ lời mừng trước.


Hồi 73: Lạc thú miền Giang Nam

Sáng hôm sau, Lưỡng Giang tổng đốc đi cùng với bọn văn võ quan viên tới ngự chu để thỉnh an. Giang Hạc Đình cũng có mặt trong đám; không ngờ vừa mới tới mỏm sông, cả bọn đã thấy lũ thái giám xua tay bảo rằng hoàng thượng đang nghe ca trong thuyền chớ có làm phiền khiến anh nào anh nấy quýnh quýnh kéo nhau thối lui, miệng câm như hến, chẳng dám thở mạnh nữa. Duy chỉ có quan tổng đốc Lưỡng Giang là dám tiến đến nói khó với lũ thái giám cho phép đứng ở đầu thuyền đợi. Thế mà chúng cũng nhất định không chịu.

Cả bọn vô phương đành đứng dàn hàng trên bờ tít mãi nơi xa mà chờ. Mãi lâu sau, khi nhìn xuống họ thấy Uông Như Long bước ra ngồi trước mũi thuyền cười nói tự nhiên với bọn thái giám, lại thấy chiếc thuyền đó bốn bên buông màn kín mít, văng vẳng đưa ra những tiếng nhạc giọng ca vô cùng êm ái, vọng mãi tới phía xa bờ khiến ai đi ngang cũng phải dừng chân lắng nghe.

Giang thân sĩ lúc đó ngạc nhiên đến sững sờ. Ông tự nhủ: trong toàn Trung nguyên thì ca vũ nhất nương châu mà Dương Châu ca vũ lại nhất gánh hát nhà mình, vậy mà hôm nay lại có gánh hát nào giỏi giang đến mức lưu giữ được hoàng thượng dưới thuyền. Giang càng nghĩ càng tức, liền kéo một tên thái giám ghé tai khẽ hỏi, song hắn chẳng chịu hé miệng.

Bọn quan viên đứng ngoài xa đợi từ sáng cho đến trưa, chân đã thấy chồn, gân đã thấy mềm, lúc đó tiếng ca nhạc mới dứt. Nhưng tiếng ca vừa dứt thì tiếng cười đùa đã khanh khách nổi lên.

Lưỡng Giang tổng đốc khẩn cầu bọn thái giám lên thuyền thông báo giùm nhưng có ngờ đâu cứ mỗi cái mồm của bọn này là phải có đúng một vạn lạng… Về sau cầu khẩn mãi chúng mới vui lòng nhận cho với giá sáu ngàn. Bọn thái giám được tiền đút rồi mới vui lòng nói cho biết gánh trên thuyền là gánh Tứ Hỉ của Uông thân sĩ, trên gánh có một cô đào tên gọi Tuyết Như sắc đẹp tuyệt trần, đã được hoàng thượng chấm rồi. Buổi hát vừa dứt, hiện hoàng thượng đã truyền lệnh Tuyết cô nương hầu rượu trong bàn yến. Các vị đại nhân dù có muốn triều kiến thì cũng chưa đến lúc. Tốt hơn hãy cứ lui, đợi khi nảo yến tiệc xong họ sẽ tâu cho.

Bọn quan viên nghe xong chẳng biết lảm sao, đành tạm thời rút lui về, ăn vội ăn vàng cho qua bữa cơm trưa rồi lại kéo nhau tới mỏm sông chờ đợi bọn thái giám vào trong tâu trình. Bỗng thánh chỉ truyền ra, cho gọi độc mỗi Uông thân sĩ được vào khoang bệ kiến thôi.



Uông thân sĩ đã chực ở đầu thuyền từ lâu, khi nghe lệnh gọi mình, vội đội mũ, sửa áo, cúi thấp đầu xuống, run lập cập bước vào.

Lát sau, người ta thấy Uông thân sĩ miệng cười toe toét, huênh hoang bước ra khỏi khoang. Một lát sau, lại có thánh chỉ truyền ra, thưởng Uông Như Long một cái mũ nhị phẩm, tám mươi lạng bạc trắng, cho phép làm Ngự tiền đương sai (người sai phái trước mật vua).

Uông Như Long tiếp thánh chỉ, cất bước lên bờ. Nhiều quan viên chạy tới đón rước xa phụng, bộ mặt Long lúc đó mang vẻ kiêu căng rõ rệt. Long nhìn thấy Giang Hạc Đình lại càng làm bộ già, Đình chạy lại níu kéo hỏi han, nhưng Long phớt lờ chẳng thèm đếm xỉa tới.

Đình mắc cỡ quá, chỉ muốn độn thổ. Đã thế, Long thấy tổng đốc cũng chỉ vòng tay chào một cái rồi leo lên kiệu đi ngay.

Thấy Uông thân sĩ đã đi xa rồi, bọn thái giám mới truyền thánh chỉ ra bảo mọi người, quan lại cũng như thần sĩ, hãy lui về nha môn, quá trưa rồi, hoàng thượng mệt cần phải nghỉ, khỏi túc trực. Từ phía trong cũng đưa ra một vạn lạng bạc để thưởng cho Giang thân sĩ. Thân sĩ họ Giang chờ chực đã bao lâu mà chi được vỏn vẹn có một vạn lạng. Tiền tạ bọn thái giám đã gần hết số đó, Giang nghĩ lại mà chán, đành cúi đầu buồn bã trở về.

Tới nhà, Giang thân sĩ cho người đi dò thám mới được biết gánh hát Tứ Hỉ vốn là gánh hát của gia đình họ Uông. Hoàng thượng sinh trưởng nơi thanh cung, thường chỉ thấy bọn phấn son phương bắc chứ chưa bao giờ được thưởng thức cái đẹp duyên dáng của gái Giang Nam. Cho nên khi gặp Tuyết Như, một người đẹp bậc nhất đất Dương Châu, da trắng như tuyết, mịn như nhung, tiếng hát như oanh vàng líu lo trên cành xuân thì làm sao ngài chả mê tít đi ngay. Tuyết Như lại còn là một cô gái còn trinh, đêm đầu thiêng liêng ấy đã hoàn toàn dành cho ngài, thử hỏi ngài không sủng ái sao được.

Luôn ba ngày đêm, hoàng đế hụp lặn trong suối đào nguyên, chẳng thèm hỏi tới thần dân. Bọn quan lại thân sĩ bàng hoàng, chẳng hiểu ra sao, bèn lẻn tới bên thuyền hỏi dò bọn thái giám thì biết được hoàng thượng còn mải cùng với người đẹp ca vũ thủ lạc.

Đến ngày thứ tư, hoàng thượng mới triệu kiến Lưỡng Giang tổng đốc. Lúc này, ngài tỏ vẻ sung sướng, vui vẻ hết sức. Trước mặt viên tổng đốc, ngài khen lấy khen để, về việc tiếp rước hết, sức chu đáo và tổng đốc là người hết sức trung quân.

Ngài thưởng cho ông ta bốn vạn lạng. Viên tổng đốc vội dập đầu tạ ơn. Sáng hôm sau, thuyền rồng nhổ neo. Suốt dọc đường qua Trấn Giang, Nam Kinh, chỗ nào cũng cung ứng đầy đủ, chẳng thiếu một thứ gì. Lúc này, hoàng đế đã có người đẹp Tuyết Như hầu hạ bên cạnh, hôm sớm múa vui, thì có cần gì ai khác nữa.

Người thua thiệt nhất trong cuộc này chỉ có Giang thân sĩ.

Họ Giang nhớ mãi cái nhục này, nhất là đối với Uông Như Long. Y về tới nhà, bèn bàn tính với Huệ Phong suốt mấy ngày đêm, hy vọng tìm ra kế sách rửa được mặt sau này, để khỏi thẹn mình là tay giàu nhất đất Dương Châu. Mặt khác, nàng Huệ Phong bị một keo cụt hứng cũng cố tìm cách lấy lại tên tuổi mình.

Đã mấy ngày qua, nàng bỗng tìm ra được một điệu kế, gọi là I,Thuỷ hí đài". Thuỷ hí đàilà làm sao? Đó là kế biến mặt thuyền thành sân khấu, trên sân khấu được trần thiết hết sức hoa lệ. Sân khấu này làm hai cái đúng in nhau. Lại nhờ những tay soạn kịch trứ danh viết lại những tuồng như Hoàng mẫu Yến, Phong Thần truyện, Kim Sơn tự, với những giọng văn vô cùng vui nhộn hấp dẫn. Giang thân sĩ còn bỏ ra mười vạn bạc đút lót viên tổng quản thái giám để nhờ y ủng hộ ngầm bên trong.

Hôm đó, ngự chu tới chân núi Kim Sơn thì trời đã nửa đêm. Giang thân sĩ ngầm đốc thúc bọn địch phu chèo hai toà Thuỷ hí đài lại gần thuyền rồng rồi lấy xích sắt cột chặt lại.

Sáng hôm sau, khi hoàng đế còn đang cùng Tuyết Như yên giấc trên giường, bỗng một điệu nhạc du dương trỗi dậy.

Ngài hỏi thì viên tổng quản thái giám vội tâu có vị thân sĩ Dương Châu muốn hiến một ban ca vũ giúp vui phía ngoài khoang. Hoàng đế nghe nói, lấy làm thích, cho kéo hết rèm màn che cửa sổ lên. Ngài nhìn ngay thấy hai bên tả hữu ngự chu đều có hai cái sân khấu trang hoàng cực kỳ hoa lệ. Sân khấu bên tả lúc đó đang diễn vở Quần tiên vũ. Một đàn con gái son phấn đẹp như hoa như liễu, một bên ca, một bên vũ, tiếng du dương quyến rũ, điệu uyển chuyển mê hồn. Tiếng sênh, tiếng tiêu hoà tấu nhịp nhàng, chẳng khác gì bày tiên nữ ca vũ trên Quảng Hàn cung. Khi sân khấu bên tả ngừng diễn thì sân khấu bên hữu mở màn ngay. Đấy là cảnh Tán hoa thiên nữ (cô gái trời tung hoa). Một mỹ nhân tuyệt sắc bắt đầu ca và vũ, giọng oanh trong trẻo, dung nhan quyến rũ mê hồn…

Hoàng đế đã mê ngay, thì thầm tự nhủ: "Đẹp như thế kia đúng là nàng tiên rồi!"

Ngài quay lại hỏi:

- Con gái nhà ai vậy?

Viên tổng quản thái giám đã nhận tiền của Giang thân sĩ từ trước, liền tâu:

- Tâu hoàng thượng! Đây là gánh hát Cặp Khánh của thân sĩ Giang Hạc Đình đất Dương Châu. Cô gái đóng vai nàng tiên kia là đào chính tên gọi Huệ Phong.

Hoàng thượng nghe xong, gật đầu tán thưởng:

- Quả khó được kẻ trung can như hắn! Thằng cha này kể cũng đáng thương lắm!

Hoàng đế nằm trên giường, tay ôm Tuyết Như trong lòng, miệng uống rượu, mắt coi hát. Trong sân khấu vừa diễn xong màn ca vũ thì tiếng trống lớn tiếng thanh la vang rầm, rồi vở Thiên môn trận bắt đầu. Vở Thiên môn trận dứt, lại diễn tới vở Pháp môn tự.

Qua ngày hôm sau, trên sân khấu hai bên tả hữu lại luân phiên diễn những vở tuồng vui nhộn như hôm qua. Thế rồi, hết ngày này qua ngày khác, gánh hát luân phiên diễn xuất.

Hoàng đế vốn từ nhỏ chưa từng được xem những vở tuồng dân dã như vậy bởi thế ngài coi mãi không chán. Ban đêm, gánh hát lại diễn vở "Mục Liên cứu mẹ" rồi "Quan Âm du địa phủ". Trong rừng đèn rừng đuốc, nào quỉ, nào thần vụt hiện vụt mất, có lúc đèn đóm tắt ngỏm, nhưng lại có lúc lửa đuốc sáng rực trời. Hoàng đế vui hết mức, bèn chạy về sau thuyền mời Thái hậu cùng ra xem. Thái hậu xem rồi cũng hết lời tán thưởng.

Quang cảnh hoạt náo ấy chẳng biết kéo dài đã bao ngày. Chỉ thấy hôm đó, thái giám tâu bảo đã tới Tô Châu. Quan tuần phủ Tô Châu đem theo bọn quan lại, thân sĩ đứng ở phía ngoài đón giá. Hoàng đế nghe bảo, lấy làm lạ lắm, bèn nói:

- Thuyền rồng tuyệt nhiên không thấy dao động, tại sao tới Tô Châu được?

Tổng quản thái giám lúc đó mới được dịp tán tụng Giang Hạc Đình để vừa làm hoàng đế thích thú, vừa kể công được với Giang.

- Chuyện tài tình này đều nhờ óc khôn khéo của Giang Hạc Đình. Đình sợ Hoàng thượng dọc đường buồn bã, nên sáng tạo hai toà Thuỷ hí đài, tập luyện một gánh hát tuyệt hay để hiếu kính hoàng đế đấy!

Càn Long hoàng đế nghe đoạn liền nói:

- Quả thật khó được một người có lòng trung như Giang Hạc Đình.

Từ đó, Hoàng đế, thanh thì có Huệ Phong, sắc thì có Tuyết Như, lòng ngài vô cùng hứng khởi. Giang Hạc Đình được Hoàng đế thưởng tứ trở về, cố ý mặc mũ áo nhị phẩm vào rồi đến thăm Uông Như Long. Long thấy Đình cũng được ân huệ chẳng thua mình, trong lòng đã lấy làm ghen ghét lắm, đến lúc thấy cái vẻ mặt kiêu căng vênh váo của Đình, càng tức tối hơn.

Thế là từ đó, hai gia đình Uông, Giang ngấm ngầm kết mối oan cừu. Uông thân sĩ đêm ngày lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chuyện áp đảo họ Giang. Đó là việc sau này.

Lại nói Càn Long hoàng đế từ Tô Châu tới Hàng Châu, đem luôn hai toà Thuỷ hí đài vào giữa Tây Hồ để chọn quan viên xem hát. Lại thấy phong cảnh Tây Hồ xinh đẹp ngài bèn mời Thái hậu ngồi trên chiếc kiệu nhỏ ngày ngày du ngoạn đó đây.

Kể lại lúc Càn Long hoàng đế chưa tới Hàng Châu, bọn quan lại thân sĩ trong thành vội vã sửa soạn đón giá trọng thể. Thoạt tiên, bọn này đã tính tuyển lựa một trang tuyệt sắc giai nhân giả làm cô gái lái đò hái sen trong Tây Hồ, mong làm đẹp lòng Thánh thượng. Nhưng về sau được tin Dương Châu có Tuyết Như sắc nước hương trời đã chiếm mất đầu sổ, họ sợ rằng nếu bắt chước họ, ắt không khỏi bị người Dương Châu chê cười, và nếu bị hoàng đế chối từ, lại gây nhục cho thể diện cả một tỉnh thành lớn. Hơn nữa, việc xây cất cả một toà lâm viên vĩ đại chỉ trong một thời gian ngắn quyết không thể nào xong được. Bởi vậy họ cần phải tìm kế hoạch tuyệt mỹ mới hòng chiếm thế thượng phong.

Giữa lúc cả bọn còn phân vân suy tính, bỗng có một vị tên gọi Hàn Thán Sĩ đứng lên nói:

- Tôi có một kế. Tây Hồ của bọn ta có rất nhiều danh sơn cổ tháp. Nào chùa Tính Từ, chùa Hải Trào, chùa Chiêu Khánh, chùa Quảng Hoá, nào chùa Phượng Lâm, chùa Thanh Lương, trên nữa còn có Chí Linh Thiên Trúc. Cao tăng, đại Phật lại cũng rất nhiều. Hoàng đế trời sinh tính thông minh từ nhỏ đã thích kinh điển thiền cơ. Bởi vậy ngài thường xa giá tuần hành chùa Thanh Lương tại Ngũ Đài sơn. Chùa này vốn là nơi Thánh tổ thế phát qui y trước đây. Trong chùa, có cất một bảo toạ. Hoàng thượng thường bảo chúng tăng cao toạ tham thiền. Phương trượng của chùa pháp danh là Tuệ An. Thánh tổ đã phong Tuệ An là trí tuệ chính giác phật. Tuệ An có tám người môn đệ: Mạn Như, Trí Viên, Hạo Nhiên, Cao Lãng, Tâm Trứng, Đại Triệt, Trí Hằng, Vô Tượng. Tất cả tám người ai cũng đạt tới mức tham thiền thượng thừa, làu thông kinh sách, hoàng thượng đều gọi họ là sư huynh. Tất cả những điều này đều do bọn thái giám thân cận hoàng thượng cho bọn anh em tôi hồi còn ở kinh kỳ biết, chứ bọn quan lại, thân sĩ Dương Châu, Tô Châu thực chưa hề hay được. Bọn ta nhân cơ hội này, tìm kiếm các vị cao tăng trong thiên hạ, đặt rải rác khắp nơi danh lam thắng cảnh rồi đợi khi nào Hoàng thượng tới, chùa miếu sẽ xây lên những tháp cao, cất lên những đài lớn, nhất loạt thực hiện pháp sư. Ngoài ra, bọn ta nên đắp nhiều giảng đài, mời các vị cao tăng lên đài thuyết pháp. Hoàng thượng thấy vậy nhất định phải vui mừng, đồng thời hẳn cũng thấy thân sĩ, quan lại của tỉnh ta thanh cao chứ không tầm thường như các nơi khác.

Tuần phủ Chiết Giang nghe đoạn bèn hỏi:

- Nhờ đâu lão huynh biết được hoàng thượng nhất định vui mừng?

Hàn Thân sĩ trả lời:

- Hoàng thượng từ Dương Châu rồi Tô Châu tới đây, dọc đường toàn thụ hưởng thanh sắc phồn hoa, bỗng ngài vào nơi đất phật thanh tịnh, có khác chi người uống một liều thuốc thanh lương tán? Hoàng thượng lại vốn có Phật căn thì thử hỏi làm sao chẳng mừng?

Tràng lý luận của Hàn Thân Sĩ làm cho cử toạ thảy đều vỗ tay khen ngợi. Viên tuần phủ lại nói:

- Muốn cho hoàng đế vui mừng, thiết tương bọn ta phải đi mời pháp sư chùa Ngũ Đài sơn về trụ trì mới xong.

Nói đoạn chính tay ông viết một mật thư rồi sai người lên đường ngay tức khắc để mời cho kỳ được các vị danh tăng núi Ngũ Đài.

Hồi này, vị chủ trì chùa Thanh Lương là Huệ An đã cáo lão từ ngôi, nhường lại cho đại đồ đệ Mạn Như trông coi mọi việc nhà chùa. Sư Mạn Như tuy nói là tham thiền thông tuệ nhưng lại phải cái tính tham tiền hiếu sắc. Thấy tuần phủ Hàng Châu cho người tới mời cao tăng, Như đoán ngay rằng đây là một dịp tốt để làm tiền. Như cười nhạt bảo người đưa thư.

- Người Hàng Châu các ngươi cũng biết chạy tới ôm chân phật à? Hiện nay bọn ta trong chùa cần xây cất điện đồng tháp sắt, tối thiểu cũng phải có một trăm vạn lạng bạc mới xong được. Bọn sư huynh, sư đệ đều phải xuống núi đi phủ khuyến khắp nơi, có ai rảnh để tới miền Giang Nam lầy lội đó được?

Người đưa thư thấy giọng lưỡi sư Mạn Như có ý quyết tuyệt mà ngày tiệp giá đã gần kề trong lòng rất lấy làm bối rối lo lắng. Y đành phải thương lượng đôi ba lần với Mạn Như:

- Sư huynh, sư đệ đã không có ở trên núi, vậy thì xin đại sư phái cho vài vị đồ đệ đi thay cũng được.

Nhưng sư Mạn Như vẫn quầy quậy lắc đầu không chịu. Người đưa thư nọ chẳng biết làm cách nào, sốt ruột quá đành nói liều xin quyên cùng hai mươi vạn lạng bạc để nhà chùa xây tháp sắt. Vớ được tủ rồi, sư Mạnh Như khăng khăng một mực làm cao. Người nọ cò kè trả giá bốn mươi vạn lạng bạc.

Lúc đó, sư ta mói khứng chịu. Y quay sang phòng bên kêu luôn một lúc bốn nhà sư rồi dặn dò bảo theo người đưa thư đi Hàng Châu thuyết pháp Bọn quan viên, thân sĩ Hàng Châu nghe nói đã mời được nhiều vị cao tăng núi Ngũ Đài, sướng như bắt được vàng, vội dọn dẹp quét tước thiền đường sạch sẽ, trang hoàng nghiêm chỉnh. Khi bốn vị hoà thượng nọ tới Hàng Châu, cả bọn đều tề tựu đi đón rước.

Không ngờ khi thay mặt, nhất là lúc đàm đạo phật pháp họ mới biết bọn sư này một chữ không thông, cử chỉ lại lỗ mãng quê mùa hết mức, tất cả thở dài mất hết cả kỳ vọng. Song bởi lẽ bốn vị sư nọ vốn từ Ngũ Đài sơn tới nên dù sao bề ngoài họ cũng tỏ ý kính trọng chiếu lệ.

Ở đời thường có những chuyện kỳ cục xảy ra ngoài ý liệu. Bốn vị sư nọ ở chùa lâu dần chẳng thèm giữ giới nữa, ban đầu chúng lén xực đồ mặn khiến có người phải ngạc nhiên tại sao cổng sau nhà chùa lại đổ đầy cả lông gà xương vịt. Về sau tệ hơn, chúng còn lén đem cả gái về chùa nữa.

Đàn bà con gái Hàng Châu vốn tin phật. Họ nghe đồn Hàng Châu mở đạo tràng lớn cho nên kéo nhau tới. Những mỹ nhân khuê tú từ một giải Tô Hàng thấy ngự giá chưa tới, bèn rủ nhau viếng cảnh Tây Hồ, xem danh sơn và lễ phật.

Lợi dụng dịp này, bọn sư hổ mang nọ lén làm những căn mật thất trong chùa rồi hễ thấy cô nào, bà nào sạch nước là kéo ngay vào mật thất, dấu kín đó hưởng lạc. Số phụ nữ chúng bắt cóc, như vậy chưa đầy một tháng mà đã tới ba mươi sáu người. Những gia đình lân cận, những viễn khách hành hương thấy vợ con họ tự nhiên mất tích, bèn ồ ạt lùng sục kiếm tìm.

Bọn sư hổ mang mướn thợ làm gấp những địa đạo, những thâm phòng quanh co khúc khuỷu để giấu đám phụ nữ bắt cóc được, đêm ngày tác lạc. Chúng còn tự ý đem cầm bán những sản nghiệp trong chùa. Biết chúng cậy thế lực của bọn sư huynh sư đệ thân thiết với hoàng đế nên chẳng có ai dám can thiệp.

Nhiều người mất vợ mất con, tuy biết rõ bọn trọc này gây nhiều tội ác nhưng yếu vía, chẳng dám làm gì. Cũng có đôi kẻ can đảm làm đơn cáo quan, nhưng bọn quan lại giả câm giả điếc lờ luôn. Bọn trọc thấy không ai dám làm gì mình, càng đắc ý làm tới. Trước còn bắt cóc gái nhà dân, về sau bắt cả con nhà quan, nghĩa là cứ thấy gái đẹp là bắt cóc, chẳng chừa ai.

Hồi 74: Cuộc đón rước tân kỳ

Bọn sư hổ mang từ Ngũ Đài sơn tới Hàng Châu càng ngày càng lộng hành. Hồi đó, tại miền Đường Thế có một vị thân sĩ họ Dương, đã từng giữ chức tổng binh nơi quan ngoại, hiện đang dưỡng bệnh tại nhà. Ông Dương có một người vợ bé tên gọi Lâm nương vốn xuất thân từ chốn lầu xanh. Lâm nương mặt mũi xinh đẹp nên Dương tổng binh hết sức cưng quý. Nàng vốn tin phật, khi nghe đồn Hàng Châu đón cao tăng về thiết lập đạo tràng, bèn ngỏ ý với chồng muốn đi Hàng Châu hành hương… Dương tống binh bằng lòng và nhân tiện cùng đi luôn với nàng. Không ngờ chỉ được có ba ngày Lâm nương bỗng mất tích. Kiếm cùng cả mà chẳng thấy đâu, Dương tổng binh quýnh lên chạy đền nha môn quan tướng quân tố cáo. Vị tướng quân nọ phải mấy tên thân binh đi tìm giúp.

Ngẫu nhiên Dương tổng binh nghe con a hoàn của Lâm nương hót ra, mới biết cô vợ bé của mình bị bọn trọc Ngũ Đài sơn đánh lừa đem đi mất. Dương tổng binh vốn con nhà võ, nghe được tin đó lập tức đem bọn tuỳ tùng của mình xông vào trong miếu. Chốn địa huyệt này trang hoàng nào trướng gấm phòng the, nào gối dài chăn lớn, luôn luôn có đèn đuốc sáng choang.

Lâm nương cùng với hơn mười phụ nữ khác đều bị giam giữ ở đây. Dương tổng binh tìm được vợ rồi, vội lùng bắt bọn sư hổ mang nhưng bọn trọc này thấy động ổ đã cao chạy xa bay từ lúc nào. Dương tổng binh tức giận lồng lộn như trâu điên, quát tháo rầm lên như sấm. Ông đem Lâm nương định tới Tô Châu đánh trống thượng cáo, khiến cả bọn quan viên, thân sĩ hốt hoảng xô tới can ngăn, lại còn phải góp nhau lấy một số tiền là mười vạn lạng bạc gọi là "tiền che xấu" để đưa tiễn ông về quê. Ngoài ra còn ba mươi sáu người đàn bà khác cũng tìm ra được cả. Bọn quan lại, thân sĩ địa phương phải đưa từng người một về nhà.

Chuyện bê bối trên đã làm cho nơi phật đường trang nghiệm chịu một phen thất điên bát đảo. Mà ngày tiếp giá đã tới gần. Chốn đạo tràng tuy phải xây cất toàn mới nhưng cũng có thể chu tất được. Cái khó nhất là phải tìm đâu ra những vị danh tăng chủ trì giảng đàn bây giờ?

Mãi về sau, lại cũng Hàn Thân Sĩ nghĩ ra được biện pháp cấp cứu ông nói:

- Hàng Châu ta vốn đất văn vật, thiếu gì những tay tài cao học rộng, làu thông kinh điển. Tại sao bọn ta không mời họ lại thế phát tạm thời, chia nhau chủ trì giảng đàn.

Ý của Hàn Thân Sĩ vừa đưa ra thì bọn hàn sĩ làu thông kinh điển đều kéo tới đáp ứng ngay. Hàn Thân Sĩ cũng là người hiểu chút ít về pháp môn Đại thừa cũng như Tiểu thừa.

Thế là cả bọn quây lại với nhau làm thử một phen, sau đó chọn mấy tay cừ nhất, không những về văn từ nghĩa lý mà còn cả về lợi khẩu hùng biện, đem thế phát (cắt tóc) trước rồi chia đi các chùa trụ trì. Trước khi chia tay, cả bọn có mấy điều ước như sau: nếu kẻ nào có thể đối đáp vừa ý Hoàng thượng thì được làm hoà thượng vĩnh viễn và biếu thêm hai vạn lạng bạc. Nếu kẻ nào không được tiếp ngự giá thì khi Hoàng thượng hồi loan rồi, có quyền tự ý hoàn tục và được thưởng bốn ngàn lạng bạc thù lao.

Trong số hàn sĩ tình nguyện có bốn người uyên thâm kinh điển, biện luận lưu loát: một người họ Trình, một người họ Phương, một người họ Dư và một người nữa họ Cố. Hàn Thân Sĩ bèn giúp họ đổi tên mới: họ Trình thì đổi là Pháp Khánh, trụ trì tại chùa Chiêu Khánh; họ Phương thì đổi tên là Huệ Lâm trụ trì chùa Tỉnh Tư; họ Dư đổi thành là Thập Đắc, trụ trì tại chùa Thiên Trúc, họ Cố thì đổi tên là Bảo Tướng trụ trì chùa Linh Ân.

Trong số bốn vị này, Pháp Khánh là tay cơ cánh nhất. Bởi vậy người ta thiết lập đại pháp tràng ngay trước chùa Chiêu Khánh, bố trí bảy bảy bốn chín ngày thuỷ lục đạo tràng.

Cứ tối đến Pháp Khánh đại sư lại lên đàn thuyết pháp. Đại pháp tràng dựng lên giữa một đám đất bằng, có sàn cao trăm trượng, chung quanh che khắp, nào cờ, nào quạt, nào tán tỉa lọng vàng, giữa có tượng phật uy nghi.

Khi phát khởi đạo tràng thì trống chiêng dậy đất, đèn đuốc rực trời, hương khói nghi ngút, bay mùi thơm đi mấy dặm.

Thiện nam tín nữ qua lại nườm nượp; tiếng nam mô vang thấu tận trời xanh. Trên giảng đàn còn trang nghiêm hơn, lầu gác kết hoa cao vòi vọi lưng chừng trời. Giữa toà sen, Pháp Khánh đại sư ngồi ngay ngắn, tay chắp trước ngực, mắt nhắm nghiền, ảnh kim quay bàn trên đài, đèn đuốc sáng trưng, khói hương nghi ngút. Vị lão tăng nhập định, trông chẳng khác gì tượng phật giát vàng. Phía dưới đài, ở hai bên đường rải đá, năm ngàn tăng nhân đứng dàn hàng thẳng tắp nghiêm trang. Trên mặt đất, trải một lớp nệm hoa dầy gần thước để cho mọi người qua lại. Tứ bề lặng ngắt, không một tiếng động nhỏ. Thiện nam tín nữ bốn phương tới chiêm bái, muôn đầu nhấp nhô như sóng bể ồ ạt kéo từ ngoài cổng lớn vào, kẻ nào kẻ nấy chắp tay cúi đầu, đứng thẳng im lặng. Ngoài cổng lớn treo một lá cờ lớn trên có thêu sáu chứ: "Vâng chỉ kiến thiết đạo tràng" thật lớn. Hai bên có treo "Hạ mãi bài" trên viết: "Văn võ quan viên, quân dân các cấp tới đây đều phải xuống xe xuống ngựa".

Pháp Khánh đại sư tĩnh toạ một ngày trời, đến đêm hôm đó, ông bắt đầu thuyết pháp. Thật là tiếng to như chuông lớn, lưỡi dẻo như hoa sen, thuyết hay đến nỗi kẻ nào cũng phải gật đầu, người nào cũng muốn quy y.

Pháp Khánh đại sư thuyết pháp như vậy được mười bốn ngày thì Hoàng đế tới. Bọn quan lại, thân sĩ trình lên ngự lãm danh sách các vị tăng trụ trì các chùa. Hoàng đế thấy thiết lập đạo tràng quá lớn, trong lòng rất lấy làm mừng. Thái hậu cũng là người tin phật. Bà hay kể lại lúc đức Thánh tổ còn sinh thời, ngài có duyên với phật ra sao. Tây hồ vốn nơi đất phật. Vậy nên ưu đãi tăng nhân, hoằng dương phật pháp.

Càn Long hoàng đế bèn rước Thái hậu bước vào đạo tràng.

Hoàng đế dặn bảo bà: "Họ đã ở trong đạo tràng thì đều là con cháu nhà phật, phải nhất luận bình đẳng". Do đó, ngài cho phép nhân dân tha hồ chiêm ngưỡng dung nhan không cần phải lẩn tránh.

Pháp Khánh đại sư ngồi trên giảng đài, thấy ngự giá giáng lâm mà vẫn thản nhiên, coi như không có, vẫn cao giọng thuyết pháp. Hoàng đế và Thái hậu đem theo toàn thành quan viên đứng phía dưới đài lắng nghe một cách cung kính. Khi hết bài thuyết, Pháp Khánh đại sư mới bước xuống đài, cung kính đón rước ngự giá. Hoàng đế cười hỏi:

- Hoà thượng từ phương nào?

Pháp Khánh đáp:

- Tử phương tới tới!

Lúc đó hoàng đế cầm trong tay một chiếc quạt xếp. Bỗng ngài giơ cao chiếc quạt đập một cái thật mạnh vào đâu Pháp Khánh đại sư. Bọn quan viên theo hầu hai bên thấy vậy thất kinh biến sắc cho rằng hoàng đế nổi giận, nhưng khi nhìn lại thấy nét mặt của ngài vẫn tươi cười như thường, họ lấy làm lạ. Bỗng nghe từ trong cổ họng Pháp Khánh một tiếng "canh" ngân dài vang lên, y như lúc người ta đánh vào chiếc khánh. Tiếng khánh ấy vừa dài vừa vọng mãi đi xa…

Hoàng đế nghe xong, cười lớn bảo:

- Hoà thượng lầm rồi! Khánh của kẻ kia đâu có giống Khánh của hoà thượng? Khánh của hoà thượng cũng không giống Khánh của ta. Vậy nghĩa lý như thế nào?

Pháp Khánh lớn tiếng đáp:

- Khánh cũng biết giữ Pháp, chẳng phải Pháp, ắt chẳng dám lên tiếng!

Hoàng đế nói:

- Hoà thượng lại sai rồi! Tiếng của hoà thượng chẳng phải là tiếng, Pháp của hoà thượng cũng chẳng phải là Pháp! Không phải Khánh của hoà thượng thì cúng chẳng là Khánh. Có gì mà dám với không dám? Có gì phải giữ với không giữ? Lại muốn lên tiếng thì cứ lên tiếng, cần gì mà phải giữ.

Pháp Khánh cũng cười đáp:

- Hoà thượng không có cây quạt, cho nên hoà thượng là Khánh. Hoà thượng là Khánh chứ chẳng phải tiếng Khánh, cho nên hoà thượng là Pháp.

- Hoà đế hiểu lầm rồi. Cây quạt đập tới tiếng Khánh, nên phát ra. Hoà thượng viên tịch. Hoà thượng còn phải giữ cái diệu lý ấy.

Hoàng thượng nói đoạn, ném cây quạt cho Pháp Khánh rồi nói:

- Trẫm cho hoà thượng cây quạt.

Pháp Khánh tiếp lấy cây quạt của hoàng đế rồi đánh vào chiếc đầu trọc của mình liên tiếp, vừa đánh vừa kêu lên những tiếng "canh canh" nặng nhẹ mau chậm tuỳ theo cây quạt, chẳng khác gì lúc đánh chiếc Khánh.

Hoàng đế thấy thế, nhịn không nổi, bật phì cười. Ngài lại hỏi:

- Hoà thượng đã có quạt mà không giữ Pháp. Vậy thi hoà thượng lầm hay quạt lầm?

Pháp Khánh đáp:

- Chẳng phải hoà thượng lầm, cũng chẳng phải quạt lầm! Đó là Pháp Khánh lầm, là người cho Pháp Khánh lầm đấy!

Hoàng đế nghiêm mặt nói:

- Chỉ vì quạt lầm nên luỵ đến hoà thượng. Chi bằng vứt quách cái quạt đi là xong!

Nói đoạn, ngài giơ tay giật cái quạt trong tay Pháp Khánh rồi ném xuống đất, pháp Khánh vẫn bình thản, chẳng hoang mang, chỉ lượm chiếc quạt lên nói:

- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Cây quạt chẳng lầm, chỉ có Pháp Khánh lầm thôi!

Hoàng đế suy nghĩ một lát nói:

- Vậy Pháp Khánh nên giữ lấy cây quạt truyền cho ngươi đời, để họ khỏi lầm!

Pháp Khánh chắp tay nhắm mắt niệm phật hiệu:

"Tây thiên tự tại quang minh đại thiện giác ngộ viên mãn phật.

Nam vô thông minh trí tuệ vô khiên vô ngại phật!
"

Hoàng đế thấy thế cũng chắp tay đáp lễ:

- Phật nào? Phật nào? Ấy là kiền thi quyết.

Nói đoạn ngài quay mình bước vào trong điện đi xem chùa.

Xem xong ngài bước ra cửa, Pháp Khánh cầm đầu năm ngàn tăng nhân cùng thiện nam tín nữ cùng đưa ngự giá. Hoàng đế bước ra cửa lớn, quay đầu lại, vừa cười vừa nói với Pháp Khánh:

- Phá công phu sáng mai lại sớm!

Pháp Khánh khom mình đáp:

- Hoà thượng vốn không có nuốt kim.

- Để ý tới đó làm gì? Hoàng thượng phá công phu sáng mai lại sớm.

Pháp Khánh lại giơ cao cây quạt đánh vào đầu mình một cái, nhưng không phát ra tiếng "canh", hoàng đế cười hỏi:

- Chiếc Khánh sao không kêu nữa?

Pháp Khánh nói:

- Ấy là kiến thì quyết! Phật nào? Phật nào?

Hoàng đế nghe xong phá lên cười lớn, rồi bảo Pháp Khánh ngồi lên kiệu cùng tới chùa Tịnh Từ.

Nhà sư tru trì chùa Tịnh Từ là Huệ Lâm, đã đứng lại cửa chùa đón giá. Hoàng đế bước vào chùa, lễ phật xong bèn cùng hai hoà thượng trèo lên núi Ngô Sơn, đứng trên ngọn cao nhất nhìn thấy thuyền bè đi trên sông xuôi ngược rất nhiều. Ngài bỗng hỏi Huệ Lâm:

- Hoà thượng biết trên sông có bao nhiêu thuyền bè qua lại?

Huệ Lâm chẳng cần suy nghĩ tính toán, nói ngay:

- Chỉ có hai chiếc!

Hoàng đế chưng hửng, nhất thời chẳng thế nào hiểu nổi.

Huệ Lâm giải thích giùm ngài:

- Hai chiếc thuyền đó, một là tranh danh, một là đoạt lợi.

Hoàng đế lại hỏi:

- Hoà thượng mà cũng biết đoạt danh lợi ư?

Huệ Lâm nói:

- Hoà thượng không thấy danh lợi, bởi vậy mới thấy được bọn người danh lợi trong hai chiếc thuyền kia. Bọn người trong hai chiếc thuyền kia thấy được danh lợi, bởi vậy mới không thấy được những người ngoài hai chiếc kia.

Hoàng đế nghe xong gật đầu nói:

- Pháp Khánh chính là Huệ Lâm, Huệ Lâm chính là Pháp Khánh.

Qua ngày hôm sau, hoàng đế lại đưa Pháp Khánh và Huệ Lâm tới chùa Thiên Trúc. Nhà sư trụ trì chùa này tên gọi Thập Đắc. Hồi đó trời đã sang thu. Tháng tám. Thời tiết tuy có nóng nhưng vườn hoa mộc tê chùa Thiên Trúc đang độ nở bông.

Hoàng đế bỗng dưng hỏi Thập Đắc:

- Hoà thượng ngửi thấy mùi hương mộc tê không?

Thập Đắc đáp:

- Đấy là hương. Đấy chẳng phải mộc tê. Đấy là mộc tê. Đấy chẳng phải hương. Đấy chỉ là hai phần đoạn mà thôi.

Hoàng đế cười nói:

- Hoà thượng lại sai rồi! Đấy là mộc tê cũng tức là hương. Đấy là hương cũng tức là mộc tê, hương với mộc tê cũng do lỗ mũi mà ra.

Thập Đặc chắp hai bàn tay lại nói:

- Ví thử không có mộc tê, không có hương thì làm gì có kẻ ngửi thấy và kẻ hỏi có ngửi thấy hương mộc tê không.

Càn Long hoàng đế nghe xong lại gật đầu khen hay. Khu chùa Thiên Trúc ba mặt có núi bao bọc, đá chất thành tầng, rừng cây rậm rạp. Hoàng đế quyến luyến chẳng muốn rời khỏi đây nên ngài thường đưa mấy vị cao tăng ngày ngày viếng những nơi danh lam thắng cảnh, tham thiền ngộ đạo. Lúc đó ngài được hưởng cái thú nơi sơn lâm, thành thử nào Tuyết Như, Huệ Phong, nào thanh sắc phấn son, ngài đều ném tuốt ra sau ót hết.

Ngài ở lại chùa Thiên Trúc du ngoạn mấy hôm rồi mới xuống núi, qua chùa Linh Ân. Vừa bước tới sơn môn, ngài đã thấy đá nhọn chọc trời, cây cao khuất bóng. Ngài thốt lời tán thưởng:

- Thật là một nơi thanh kỳ hết sức!

Chùa Linh Ân này vốn có một vị cao tăng hiệu Pháp Hoa, năm đó tám mươi tám tuổi. Vì lão tăng này cáo ngôi dưỡng tĩnh trong một mật thất. Càn Long hoàng đế cũng biết đó là một vị hoà thượng đạo đức cao thâm. Nhà sư trụ trì chùa Linh Ân hiệu là Bảo Tướng đứng ngoài cổng chùa tiếp giá.

Hoàng đế tỏ ý muốn được gặp lão hoà thượng Pháp Hoa, Bảo Tướng bèn tâu:

- Pháp Hoa thiền sư diệt độ lần đầu, mong hoàng thượng để cho người yên.

Càn Long hoàng đế tỏ ý bực mình nói:

- Trẫm cần gặp Pháp Hoa. Y dám diệt độ, đó là pháp gì?

Bảo Tướng nói:

- Đó chẳng phải pháp. Đó là diệt độ lần đầu. Hoàng thượng nhất định muốn gặp, người sẽ diệt độ mắt. Đó chẳng còn là lần đầu, đó là diệt độ sắc tướng.

Hoàng đế hỏi:

- Hoà thượng nói sắc tướng. Hoà thượng là sắc tướng nào? Hoà thượng dám nói là Bảo Tướng? Hoà thượng có dám nói là Pháp Hoa?

Bảo Tướng hồi tấu:

- Hoà thượng là vô sắc. Sắc tức là không - không tức là sắc Hoà thượng là vô tướng: vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chứng sinh tướng, vô thọ ngã tướng.

Hoàng đế nghe tới đây, liền giơ một ngón tay lên nói:

- Hoà thượng dám nói có báu (bảo)?

Bảo Tướng nói tiếp:

- Hoà thượng là kiến thì quyết, hoà thượng là kim cương bất hoại thân. Bởi thế nên hoà thượng là báu.

Hoàng đế nói:

- Pháp Hoa chẳng phải kim cương bất hoại thân cho nên diệt độ, do đó không phải là báu.

Bảo tướng chỉ ngọn núi Phi Lai ngoài cửa sơn môn nói:

- Bảo nó chẳng phải là báu ư? Người đều chẳng tin. Nó chẳng diệt độ. Nó là Phi Lai. Cho nên gọi nó là báu.

Hoàng đế bèn hỏi:

- Nó có phải Bảo Tướng hay không?

Bảo Tướng đáp:

- Nó là Phi xứ phi lai thì cũng là Bảo Tướng.

Hoàng đế nghe xong gật đầu nói:

- Pháp Hoa chính là Bảo Tướng. Bảo Tướng lại chính là Pháp Hoa.

Câu chuyện tạm dứt. Bảo Tướng hầu bên ngự giá tiến vào đại sảnh bảo điện lễ phật. Hai người lại qua La Hán đường chiêm ngưỡng. Thấy năm trăm vị La Hán nào cũng đều hiện rõ kim thân tướng.

Hồi 75: Càn Long về tế tổ

 Càn Long hoàng đế tán thán:

- Đấy mới chính là những vị kim cương bất hoại thân vậy?

Câu nói ấy viên thái giám thị tùng nghe được, biết ý của hoàng đế, bèn cáo ngầm cho tuần phủ Chiết Giang hay. Ông này bên cho ngay bọn thợ nề tới La Hán đường đắp ngay một bức tượng kim thần cho chính Càn Long hoàng đế.

Càn Long thấy tuần phủ Chiết Giang đắp tượng kim thân cho mình tại La Hán đường Linh Ân thì lấy làm đắc ý lắm.

Ngài cười nói:

- Từ nay trẫm cũng là người của hội Long Hoa nữa.

Lúc đó đi hầu hai bên tả hữu có cả Lương Thi Chính. Chính vốn là một thi nhân thời danh, Hoàng đế thường cho theo bên mình đề có dịp thi trố tài thơ phú. Càn Long hoàng đế thấy sơn thuỷ đất Hàng Châu xinh đẹp, chùa miếu tráng lệ, bèn gọi Chính làm thơ. Trong thơ có hai câu: "Có núi có chùa cổ; Không chùa không danh tăng".

Càn Long hoàng đế xem xong nói:

- Tuyệt thay câu "Không chùa không danh tăng". Nhà trẫm tự có phật, pháp tự có danh tăng. Trẫm đặt chân tới đâu ắt phải truyền bá chân lý tới đó!

Quân sư thái giám nghe xong câu này lại lẻn tới cáo với tuần phủ Chiết Giang. Ông này hỏi nhỏ viên thái giám:

- Nhà hoàng thượng có phật gì? Có danh tăng nảo?

Viên thái giám vừa cười vừa nói:

- Đại nhân không bao giờ nghe nói trong Ung Hoà cung có Lạt ma tăng sao!

Vị tuần phủ nghe xong giật mình tỉnh ngộ biết rằng Hoàng đế cũng muốn xây cất một toà Ung Hoà cung tại Tây Hồ để cung dưỡng vài vị Lạt ma nào đó, bèn cho người tiến kinh dò xem, mới được biết hoàng đế cùng với quốc sư giao tình rất mật thiết. Ông liền mời Vô già tới trụ trì.

Vô già tới Hàng Châu, trước hết bái kiến hoàng đế, nói rõ cho ngài biết ý định xây cất một toà miếu Lạt ma, mở một cuộc đại hội Vô già. Hoàng đế vô cùng hoan hỉ, dặn bảo Nội vụ phủ phát ngay mười vạn lạng bạc đồng thời ngỏ ý với bọn quan lại thân sĩ hai tỉnh Chiết Giang quyên tiền. Được tất cả hơn năm vạn lạng. Vô già bèn hoạ đồ vạch chương trình và bắt đầu khởi công xây cất.

Lúc đó, Càn Long hoàng đế đã tuần du qua miền Hải Ninh. Trước hết ngài được bọn quan viên văn võ Chiết Giang đưa đi thăm con đê Hải Ninh. Xem xong nước triều, ngài giữ tất cả bọn văn võ quan viên lại ngoài thành rồi tự mình đem theo vài tên thị vệ và thái giám vào thành, đi thẳng tới nhà Trần Các Lão.

Trần Các lão chính là Trần Thế Quan. Sau khi đứa con trai ông bị bà phi Nữu Cô Lộc đánh tráo mất, ông cáo quan, đem theo gia quyến về Hải Ninh. Sau đó, Ung Chính hoàng đế, vì tình nghĩa thân thiết, đôi ba lần hạ thánh chỉ vời ông lên kinh làm quan. Ông cố từ chối mãi mà không được, hơn nữa sợ ngài nghi, đành phải tuân mệnh. Ung Chính hoàng đế hết sức kính trọng Thế Quan. Tất cả nhà ông, nào Trần Thuyết, nào Trần Nguyên Long, cha con chú cháu đều làm quan đến nhất phẩm triều đình, ngôi cao chót vót. Chính bản thân ông làm tới chức tể tướng, được phong là Văn Cần Công.

Đến thời Càn Long hoàng đế tại vị, Trần Thế Quan lần nữa cáo quan về nhà. Càn Long thưởng ông năm ngàn lạng bạc, ăn lộc ở nhà, lại còn tự sáng tác thi ca để tặng ông, trong bài có hai câu:

Lão thần qui cáo năng vô tích,

Hoàng tổ triều thần hữu kỷ nhân

Lão thần qui cáo sao không tiếc,

Hoàng tổ triều thân có mấy ai?


Rồi đến hôm nay, Càn Long hoàng đế xuống Giang Nam. Lúc này Trần Thế Quan đã mất. Nhưng từ khi biết mình chính là con trai Trần Các Lão thì hoàng đế đặc biệt ưu đãi nhà họ Trần. Phàm các bia mộ chi ở phần mộ đều được ngài cho dùng vương lễ. Con cháu nhà họ Trần sợ xúc phạm kỵ huý, nhờ ngự sử tâu xin, được ngài cho dùng vương lễ trong mộ, còn ngài thì vẫn dùng thường lễ của Các lão. Càn Long hoàng đế lại sai người tra xét con cháu họ Trần có bao nhiêu rồi đều thưởng cho cho cấp bậc quan tước không lớn thì nhỏ, đều lên kinh nhận chức. Bởi vậy khi ngài ngự giá tới nhà họ Trần, con cháu trong họ chẳng có mấy ai ở nhà nghênh đón, duy chỉ có một bọn đàn bà trẻ con, hoảng quá đến run bắn người lên. Về sau cụ bà Trần lão nảy ra ý mời viên tộc trưởng tới.

Ông tộc trưởng này tuy có đôi ba lần làm tri huyện, nhưng việc đón giá quả ông chưa từng biết tới bao giờ. Tuổi ông lại đã bát tuần, tai điếc mắt loà, thành thử ông chỉ có một việc run sợ rằng sẽ đắc tội với hoàng đế. Nào ngờ khi thấy vị tộc trưởng này, Càn Long hoàng đế lại hết sức mừng rỡ, hỏi ông gia sản họ Trần có bao nhiêu, cụ bà Trần lão có được mạnh giỏi không, thì ông lo lắng đối đáp cẩn thận lắm. Ngài bảo ông đưa đường tới mộ Trần Các Lão. Khi tới nơi, quay đầu lại ngài thấy có mấy chục vương công nội giám đi theo, bèn bảo họ ở lại hết, chỉ đem có hai tên thái giám đi thẳng tới trước mộ. Trước hết ngài quan sát trước sau một vòng, rồi sai hai tên thái giám đem bức màn vàng che lại. Bọn vương công thái giám bị màn che khuất, không biết hoàng đế làm những gì ở trước mộ, duy chỉ có hai tên thái giám che màn là thấy được rõ ràng mà thôi. Đến khi về tới kinh, một trong hai tên thái giám nọ tiết lộ ra mới biết ngài quỳ lạy ở trước mộ Trần Các lão. Kẻ nghe được chuyện hệ trọng nên không dám lộ cho người thứ ba biết.

Sau khi hành lễ xong, Càn Long hoàng đế lập tức hạ một đạo thượng dụ ban phát hai mươi vạn lạng cho cụ bà họ Trần làm tiền dưỡng lão. Lại còn thêm mười khoảnh ruộng đất lấy hoa màu cúng tế, trồng bốn trăm cây rào mộ, đồng thời ở trước mộ xây ba toà ngự tế bi đình, mái lợp ngói pha lê vàng, phía ngoài đích thân ngài trồng hai cây thông nhựa, hai cây trắc. Ngài còn hạ lệnh cho viên quan địa phương lập thêm một ngôi đền, xuân thu cúng tế hai kỳ, quét đền đốt nhang chu đáo.

Mọi việc xong xuôi, hoàng đế còn lưu mài tại trước mộ, lòng bồi hồi chẳng muốn rời. Bọn vương công đại thần thôi thúc, lúc đó Ngài mới lui theo cửa giữa ra ngoài. Ngài còn quay lại dặn bảo vị, tộc trưởng già phải đóng kín cửa giữa, chỉ được mở khi nào hoàng đế tới thăm mà thôi. Vị tộc trưởng vâng dạ luôn mồm.

Về tới hành cung, Càn Long hoàng đế thấy có phóng sớ đệ tâu trên chiếc án của Thượng thư Binh bộ. Mở ra xem, ngài được biết tổng đốc Mân Chiết bẩm báo có tên nghịch tặc Lâm Sảng Văn tại Đài Loan cử binh vây Gia Nghĩa nên phải cầu cứu viện binh ở kinh rất gấp.

Càn Long hoàng đế đọc xong bản tấu chương, lập tức hạ chỉ hồi kinh. Về tới nơi, tất nhiên, có đủ mặt quan viên văn võ tiếp giá. Nhưng người được triệu kiến đầu tiên phải là Phúc Khang An. Hồi đó, Phúc Khang An đã được thưởng chức Gia dung Ba đồ lỗ, ban cho yên cương vàng sử dụng, lại được vẽ tranh trong Tử Quang các, hết sức vinh dự.

Qua ngày hôm sau, thánh chỉ hạ xuống, phong Phúc Khang An làm Trấn Viễn tướng quân, tập hợp các võ tướng trong kinh lại, huy động Dũng Kiện quân đánh thốc ra Đài Loan tiêu diệt đám giặc. Thánh chỉ vừa mới xuống, bọn võ quan muốn lấy lòng Phúc Khang An nên kẻ nào cũng khoe mạnh tranh tiên xung sát, đánh cho Lâm Sảng Văn một trận tan tành. Văn phải chạy trốn biệt dạng vào mãi khu rừng sâu phía đông Đài Loan, cuối cùng bị viên nha tướng tay chân của An bắt sống đem về dâng trước đại doanh.

Phúc Khang An khải hoàn về Bắc Kinh, đem nộp Lâm Sảng Văn lên thánh thượng. Càn Long hoàng đế mừng rỡ hết chỗ nói, thánh chỉ hạ xuống phong An nhất đẳng Gia Nghĩa công, cho mũ bảo thạch, từ đoàn long phục, kim hoàng đế, Tử cương kim hoàng biện, san hô Triều Châu.

Thánh chỉ còn truyền cho các quận thành Đài Loan và Gia Nghĩa đều phải lập sinh từ (đền thờ sống) cho Gia nghĩa công.

Giữa lúc hoàng đế đang khen thưởng Phúc Khang An bỗng phu nhân của An lăn ra chết. Văn võ bá quan trong kinh đều đi phúng điếu. Vợ chồng An ăn ở với nhau hết sức ân tình.

Phu nhân của An người lại xinh đẹp, nay bỗng dưng đứt gánh giữa đường, bảo sao An chả bi thương. Càn Long hoàng đế cũng hạ chiếu an ủi và khuyên nhủ An, lại thưởng cho ba vạn lạng bạc chi phí việc tang sự, đặc phái đại thần ngự tế.

Bấy nhiêu ân điển đó, thật không có người thứ hai nào được.

Đúng lúc Phúc Khang An thương nhớ vợ không lúc nào nguôi thì khéo thay Càn Long hoàng đế lại có cô công chúa thứ sáu đến tuổi lấy chồng. Bởi thế A Văn Thành mới đứng ra làm mai để đi cầu hôn cho An. Nhạc mẫu của hoàng đế cũng vào cung, nói với bà Phú Sát để hùa vào. Nào ngờ Càn Long hoàng đế lập tức cự tuyệt, không chịu, Hoàng hậu Phù Sát cũng vừa cười vừa nói với mẹ là việc đó quyết không thể nào xong. Hơn nữa chính mẹ đẻ Phúc Khang An cũng không đồng ý cho An làm phò mã.

Lúc đó, Phúc Khang An có hai người anh ruột đều đã làm phò mã. Càn Long hoàng đế không tỏ ý yêu quý gì họ, lại chỉ rất quý yêu An. Yêu quý thì yêu quý chứ hoàng đế nhất quyết không chịu nhận An làm phò mã. Cái lý do sâu xa này thực chi có mấy người trong cuộc hiểu được thôi.

Về sau bà mẹ của Phó Hằng khẩn cầu nhiều phen khiến hoàng đế và Phú Sát phải đem cô con gái thứ sáu gả cho người em Phúc Khang An và làm mai cô cách cách của Thạch Thân vương cho An. Năm đó, An hai mươi sáu tuổi.

Phúc Khang An vừa vâng chỉ lấy vợ xong thì đám giặc Quách Nhĩ Khách xâm phạm miền Hậu Tạng. Càn Long hoàng đế lại truyền chỉ cho An thống lĩnh sáu lộ quân, hội cùng Đại học sĩ A văn Thành lên đường chinh phạt.

Bọn giặc khi nghe tới danh Gia Nghĩa công thì phách lạc hồn xiêu, xuất trận đầu đã thua liểng xiểng. Mới chưa đầy một tháng mà An đã bình xong.

Đám giặc này vừa yên, lại tới tù trưởng Giáp Nhĩ Cỗ Lạp Tập Trại làm phản. Hoàng đế lại hạ chỉ sai An đem quân quay lại diệt đám này. Tên tù trưởng này thấy Phúc Khang An cũng hoảng hồn bạt vía vội tới quỳ trước trướng của An xin hàng. Văn thư báo tiệp chạy về triều như bươm bướm.

Thánh chỉ ban ra, cho phép Khang An ban sư hồi trào, tấn phong làm quan Đại học sĩ, gia tước Trung Nhuệ Gia Dũng công. Trên đường về An còn được Hoàng đế thưởng tặng bài thơ "Ngự chế chí hỉ thi" do chính tay ngài viết lên chiếc quạt. Lại thưởng sáu túi đeo gia phong nhất đẳng Khinh xa đô uý, chiếc Vương công thân quân hiệp lệ, cũng thưởng cho người tuỳ tùng lục phẩm làm Linh tam khuyết. Phong thưởng như vậy, Hoàng đế quả đã quý trọng An hết sức rồi. Cho nên bọn quan viên địa phương hai bên đường anh nào anh nấy đều xu phụng An.

Hồi đó có Lưỡng hồ tổng đốc Bộc Đại Niên muốn lấy lòng An, bèn bàn tính với bọn Mạc Hữu cho chăng đèn kết hoa suốt một giải Trường Giang rồi khua trống chiêng tiếp đón.

Tuần phủ Hồ Nam lại tới Hoàng Châu mượn Thuỷ hí đài đem về rồi cho cặp hai bên đường của An, ngày đêm diễn tuồng cho An xem. Phúc Khang An ngồi trong thuyền uống rượu xem hát lấy làm khoái lắm.

Chẳng bao lâu, thuyền đã đến Động Đình hồ. Tại hồ này vốn có một loại thuyền đặc biệt, được gọi là thuyền Động Đình.

Bốn chung quanh thuyền che một kiểu rèm Tương, ngoài cửa sổ trông rất thoáng, đâu vào đấy tươm tất. Mũi cũng như lái thuyền đều có treo đèn ngũ sắc, hai bên đều căng màn lụa.

Người chèo thuyền toàn là những cô gái xinh xắn, ăn mặc hết sức diêm dúa, mỹ miều.

Đoàn thuyền hôm đó có tới một trăm chiếc. Cô lái đò nào cũng hát vang bài Chí hỉ thi của hoàng đế, tiếng ca véo von lảnh lót như ru hổn người vào cõi mộng. Phúc Khang An ngồi trên thuyền lớn tại trung tâm, còn hơn trăm chiếc thuyền Động Đình nọ thì bao quanh chiếc thuyền lớn của An, từ từ rẽ sóng đưa đi, ăn nhịp với giọng ca của hàng trăm cô lái đò xinh đẹp. Phúc Khang An nhìn quang cảnh một lượt, tấm tắc khen:

- Đám gái này thật là những nàng tiên miền Lạc Thuỷ!

Phúc Khang An vui quá, bèn bảo các thuyền Động Đình ghé sát lại chiếc thuyền mình, rồi nhảy sang. An thấy trong khoang những chiếc thuyền này cũng rất sạch sẽ lộng lẫy, bèn hạ lệnh dọn tiệc tại nơi đây, và cho mời mấy tay mạch hữu lại hầu rượu mình.

Tiệc tan, Phúc Khang An ngẫu nhiên bước quá ra khoang sau thuyền, thấy một cô gái ngồi tại đuôi thuyền, để chân trần, nước da trắng ngần, khoác trên lưng một chiếc khăn choàng màu hồng điểm sao đen, mặt mày vô cũng xinh đẹp - cũng má đào, cũng môi son, cũng eo thon, cũng ngực nở như mọi cô gái khuê các, tay đang cầm lái, hết vặn sang bên này lại bẻ sang bên kia theo chiều gió nhẹ. Mặt hồ lúc đó toàn một màu xanh biếc, in bóng cỏ cây hai bên bờ soi xuống. Thật là một quang cảnh thần tiên, thần tiên từ người đến cảnh vật chung quanh…

Phúc Khang An càng nhìn càng cảm thấy ngây ngất, lòng vừa say sưa vừa bâng khuâng. Bỗng An nghe cô gái cất cao giọng oanh ca một khúc hát vô cùng du dương êm ái. Làn gió nhẹ thổi lướt ngang, tà áo phất phơ trước gió, nhiều lúc tung lên, để lộ chiếc quần hồng và cả lượt áo lót mỏng bên trong.

Cô con gái quay đầu lại, nhìn thấy Phúc Khang An, liền ném vội cho An cái nhìn sắc như dao, nhoẻn một nụ cười vô cùng tình tứ. Phúc Khang An sau cái liếc và cái cười đó y như bị sét đánh, sững sờ. An vỗ tay vào mạn thuyền, khẽ nói:

- Giang Nam đất tốt người đẹp. Tại Bắc Kinh ta đâu thấy những cô gái mỹ miều thế này?

Nói đoạn, An vội quay vào khoang, gọi tên thị tòng chạy đi bảo ngay cô tuyệt sắc nọ vào trong với mình. Tên thị tòng tuân lệnh An, vội đi ngay, nhưng người con gái nói vọng lên, cốt để cho An nghe thấy:

- Ban ngày ban mặt, ai lại làm thế! Xấu hổ chết đi! Tôi chịu thôi.

Phúc Khang An từ trong nghe thấy, liền lim dim đôi mắt dặn với tên thị tòng:

- Vậy bảo nàng tối lên nhé!

Trời tối. Người ta thấy cô gái nọ tô son điểm phấn vô cùng lộng lẫy, tỏ ra hạng người phong lưu đài các, có một hương vị là lạ của miền Giang Nam. Nàng rón rén bước vào khoang thuyền của An, khép nép quỳ lạy hết sức kính cẩn.

Phúc Khang An lúc đó nhìn kỹ lại thì ra sắc đẹp của nàng còn hơn như ban ngày. Toàn thân nàng trước mắt An là một tuyệt phẩm của hoá công mà từ nhỏ đến nay An chưa thấy được bao giờ. An vội cúi xuống đỡ nàng dậy, kéo nàng vào lòng mình rồi hỏi cho biết họ tên. Người con gái nói tên là Bảo Trân. Thế là từ đó, Bảo Trân được An giữ luôn bên cạnh mình trong suốt thời gian xuống Giang Nam.


Thuyền đến Dương Châu, Phúc Khang An mua cho người đẹp một ngôi lầu lớn để nàng ở. Tất cả những đồ biếu của bọn quan lại địa phương cũng như những vật ban thưởng của hoàng đế, An đều cho nàng cả. Nếu tỉnh sang tiền thì tất cả có thể lên tới chừng năm sáu chục vạn lạng bạc. Chu toàn cho người đẹp xong, An đem quân nhắm hướng kinh thành ca khúc khải hoàn.

Càn Long hoàng đế thấy Phúc Khang An trở về, lòng mừng thầm khôn xiết, ban khen rồi truyền chỉ thưởng cho An được đội Tam nhập hoa linh, và tấn phong hàm bối tử, lại còn cho cả quân hộ vệ nữa.

Rồi một hôm, An vào cung tạ ơn. Một tên nội giám được lệnh đưa An vào trong phòng trưng bày đồ cổ. An thấy bên cạnh hoàng đế có một người đàn ông nom tuổi còn nhỏ mà xác thì thật to, tay đang cầm một cái bình cổ, cười cười nói nói với hoàng đế, cử chỉ rất suồng sã. Ấy thế mà hoàng đế vẫn không giận, còn cầm lấy tay gã nọ cười khà khà, bảo:

- Nhà ngươi nếu thích cái bình ấy thì ta cho đấy, đem về nhà mà dùng!


Ông lớn nọ nghe vua nói như vậy xách luôn cái bình đi, chẳng thốt một lời cám ơn. Phúc Khang An đứng bên cạnh thấy vậy, lấy làm hoài nghi, muốn hỏi nhưng lại không dám. Song khi lui ra khỏi cung An mới tìm tới nhà Lưu Thống Huân hỏi xem lại lịch ông nọ, thì được Huân cho biết:

- Đó chính là vị đại thần Tổng quản nghi trượng, mới được hoàng thượng cất nhắc lên, tên gọi là Hoà Khôn đấy.

Khi đang còn ở ngoài kinh đô, Phúc Khang An cũng đã nghe tin hoàng thượng hết sức tin dùng Hoà Khôn, nhưng thực chưa từng gặp Khôn lần nào. Nay được tận mắt thấy con người suồng sã đó, An thấy rất chán ghét. An dặn Bảo Lưu tướng quốc là cần phải hết sức đề phòng Hoà Khôn.

Nguyên lúc Càn Long hoàng đế đang còn là thái tử, ngài rất được Ung Chính hoàng đế và hoàng hậu Nữu Cô Lộc cưng chiều. Hoàng hậu thường cho phép ngài ở lại trong cung. Vốn còn niêu thiếu, tính tình lại hiếu động, ngài thường chạy nhảy khắp nơi để chơi đùa, bất cứ chỗ nào vui là đều có ngài. Ung Chính hoàng đế hồi đó có đến mười sáu phi tần, trong số đó có bốn người được nhà vua sủng ái nhất: một tên gọi Thư Mục Lộc, một tên gọi Doãn Nhĩ Căn Giác La, một tên gọi Mã Giai, một nữa tên gọi Trần Giai. Hai nàng Mã Giai và Trần Giai vốn người Hán, mạo xưng là kỳ nhân để được tuyển trái phép vào cung. Vì cả hai đều có nhan sắc nghiêng thành cho nên Ung Chính hoàng đế mới đặc biệt sủng ái. Lúc đó Càn Long hoàng đế cũng đã mười bảy tuổi.

Nguồn: http://vnthuquan.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved