Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

3 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 48,49,50

Hồi 48

Nhờ diệu kế, một bạn về đường,
Hủy dung nhan, bốn nàng bền chí.

Từ rằng: 
Khéo thay đất, lạ thay trời 
Tri âm lại trả nghĩa người tri âm 
Những như ân nổi oán chìm 
Trong mây nghe sấm, đen rầm xa xăm 
Hận ly biệt, âm thầm nhiều ít 
Trống chín châu hò hét dập dìu 
Cô trung níu lấy Tùy triều 
Sợi chỉ mảnh, đứt sớm chiều, hoa rơi! 
Trùng hưng may lại tốt tươi... 
Theo điệu "Vũ trung hoa" 

Từ xưa biết người thì sẽ có người biết mình, đã là bậc tri âm tất gặp người tri âm, đã là khách chung tình sẽ có khách chung tình báo đáp. Cả đời Tùy Dượng Đế chỉ mỗi chăm chú là phụ nữ, tất cả chỉ vì phụ nữ mà hành động, đem cả giang sơn gấm vóc vứt phí vứt hoài, cũng bởi thế nên có được những phụ nữ đột xuất vì cảm ân đó mà quên thân mình để báo bậc tri kỷ, báo quốc gia, xả thân thủ tiết, hủy hoại dung nhan báo đáp kẻ chung tình, danh thơm lưu sử sách. 
*** 
Lại nói chuyện Tư Mã Đức Kham sau khi đã sai thắt cổ Dượng Đế liền sai người đi báo cho Vũ Văn Hóa Cập. Hóa Cập lệnh cho Bùi Kiền Thông, dẫn lính tráng kéo đi giết chóc một loạt tôn thất, thân vương: Thục Vương Dương Tư, Tề Vương Dương Giản, Yên Vương Dương Đạm, không kể già trẻ, lớn bé, đều giết tuốt. Duy chỉ có Tần Vương Dương Hạo, vốn chơi thân với Trí Cập nên được Trí Cập cứu cho, thì may sống sót. Tiêu Hậu ở trong cung, lấy ván giường tủ đóng quan tài, rồi chôn cất cho Chu Quý Nhi, cùng Viên Bảo Nhi ở Lưu Châu đường thuộc Tây Viện. 
Chính là: 

Một gương châu gấm riêng còn mất 
Ba thước mồ ma đắp thấp cao? 

Hóa Cập giết xong các thân vương, tự mình đem theo giáp binh vào nội cung, định giết nốt hoàng hậu, các phi tần, để tuyệt tận gốc rễ. Đang trên đường vào chính cung, thấy một người đàn bà cùng với rất nhiều cung nữ theo sau khóc lóc, Hóa Cập lên tiếng quát: 
- Ngươi là ai? Mà lại vào đây khóc lóc? 
Người đàn bà này vội vàng quỳ xuống thưa: 
- Thiếp chính là hoàng hậu họ Tiêu, xin tướng quân tha mạng! 

Hóa Cập thấy Tiêu Hậu mặt hoa da phấn, dáng điệu thanh cao, trong lòng mười phần xứng ý, nên không đang tâm hạ sát, bèn nói: 
- Chúa thượng vô đạo, ngược đãi trăm họ, kẻ có công không được thưởng, cho nên mọi người giết đi, nhưng chẳng can hệ gì đến ngươi, không việc gì phải sợ hãi. Ta tuy là hạng vũ tướng, nhưng cũng bởi vì dân mà trừ hại, thực không có lòng nào khác. Nếu không có lòng tỵ hiềm, xin cùng hưởng phú quý. 



Rồi đưa tay đỡ Tiêu Hậu dậy. Tiêu Hậu thấy Hóa Cập nói năng nhẹ nhàng, nên cố lấy giọng thỏ thẻ, vừa sụt sùi: 
- Chúa thượng vô đạo, lẽ nên chịu tội chết. Còn sự sống chết của thiếp xin hoàn toàn nhờ cậy ở tướng quân cả? 
Hóa Cập đáp: 
- Ngươi hãy cứ yên lòng. Chuyện này chủ trương là ở ta cả, không sợ mất giàu sang đâu! 
Tiêu Hậu thưa: 
- Tướng quân đã nói thế, sao không lập con cháu nối ngôi để tỏ rõ việc làm đại nghĩa? 
Hóa Cập đáp: 
- Ta cũng nghĩ như vậy! 

Rồi ban lệnh: theo ý chỉ của hoàng hậu, lập Tấn Vương Dương Hạo làm vua, rồi tự mình lập làm Đại thừa tướng, cầm đầu trăm quan phong em trai là Vũ Văn Trí Cập làm Tả bộc xạ, phong em trai khác mẹ là Vũ Văn Sĩ Cập làm Hữu bộc xạ, phong con trưởng là Vũ Văn Thừa Cơ, con thứ là Vũ Văn Thừa Chỉ cùng làm tướng, coi giữ binh quyền, còn ngoài ra thì bọn tâm phúc đều được thưởng công, được trọng dụng. Nhưng bọn quan lại lâu nay có oán cừu với Vũ Văn Hóa Cập như Nội sử thị là Ngô Thế Cơ, Ngự sử đại phu Bùi Ôn, bí thư giám Viên Khắc, Tả phiên vệ tướng quân Lai Hoạch Nhi, Hữu phiên vệ tướng quân Vũ Văn Hiệp, Thiên ngưu Vũ Văn Xương, Lương Công Bùi Cử, kể cả gia quyến con cháu đều đem ra chém tất. Cấp sự lang Hứa Thiện Tâm chưa kịp đến triều dường để chúc mừng, Hóa Cập cho người tới tận nhà gọi đến, lúc được tha về, Thiện Tâm ra thẳng không tạ ơn, Hóa Cập nổi giận giết ngay. Mẹ Thiện Tâm là Phạm Thị, tuổi đã chín mươi hai, lúc làm tang không hề khóc, có người hỏi tại sao. Phạm Thị đáp: 
- Nó chết vì nạn nước, ta có đứa con như thế, thì việc gì mà phải khóc? 

Rồi nằm liệt, không chịu ăn mà chết. 

Hóa Cập nhân tướng sĩ đều muốn về tây, liền đưa hoàng hậu cùng vua mới trở về Trường An, đem theo tất cả những mỹ nhân để hưởng lạc, bắt hết cả thuyền bè, theo đường thủy từ Bành Thành mà đi đến Hiển Phúc cung. Bọn Tư Mã Đức Kham cùng Triệu Hằng Khu, ghét Hóa Cập dâm loạn với bọn cung phi, không nghĩ gì đến tướng sĩ, mới dẫn hậu quân ập bắt Hóa Cập, không ngờ không giữ được kín, lại bị Hóa Cập giết chết. Đi đến Hoạt Đài, Hóa Cập giao cho Vương Quỹ trông coi mọi việc, còn mình thì thẳng đến Lê Dương, đánh vào Thương Thành. 

*** 

Lại nói chuyện vợ chồng Vương Nghĩa, dẫn Triệu Vương cùng các phu nhân, đi cách Vu Thành khoảng hai ba chục dặm, nhờ một nhà dân nghỉ lại qua đêm, thì nghe phía sau tiếng pháo nổ, tiếng hò hét vang trời, tin tức người đi lại đều nói trong thành có biến lớn. Vương Nghĩa vẫn để Triệu Vương đóng giả gái như cũ, còn sấp xếp để Đình Đình, Tử Yên, cùng Dã Nhi đều cải dạng nam trang. Năm phu nhân Sa, Địch, Tần, Lý cùng với con a hoàn vẫn mặc áo quần phụ nữ cũ. Tử Yên nói: 
- Ta tối qua xem thiên văn, biết rằng chúa thượng đã bị giết hại rồi, chúng ta tuy thoát khỏi lồng vây, nhưng không biết đi đâu bây giờ cho yên? 
Vương Nghĩa đáp: 
- Chẳng nơi nào có thể đi được cả, trừ một nơi. 
Mọi người vội hỏi: 
- Nơi nào thế? 
Vương Nghĩa đáp: 
- Thái bộc Dương Nghĩa Thần, năm trước lo chúa thượng nghe lời bọn nịnh thần, thu hết binh quyền, vì vậy Dương Thái bộc trở về quê Thái bộc biết rõ số nhà Tùy đã hết, thay tên đổi họ, ẩn cư ở vùng đầm hồ Lôi Hạ thuộc Bộc Châu. Người này trí dũng kiêm toàn, trung quân ái chúa. Chúng ta nên đến quê thái bộc, thấy ấu chúa đây, thái bộc tất sẽ có phương cách. 
Tử Yên vui mừng nói: 
- Thái bộc chính là cậu của ta, ta vẫn hàng ngày hay nói chuyện cùng Sa phu nhân, tìm về đấy thì yên ổn rồi, chỉ sợ không biết ý của các phu nhân ra sao? 

Bàn bạc xong, mọi người thuê thuyền đi Bộc Châu. 

Lại nói Nghĩa Thần, từ năm Đại Nghiệp thứ bảy bị dèm pha nên phải nạp lại ấn kiếm, phòng xa lỡ tai họa đến thân, nên thay tên đổi họ, vào ở Lôi Hạ, hàng ngày làm bạn với ông ngư ông tiều. 

Hôm ấy, nghe tin ở Giang Đô, Hóa Cập giết vua loạn cung, Nghĩa Thần buồn rầu than: 
- Hóa Cập là loại thất phu ngu dốt, nên mới dám ngông cuồng như thế. Khá tiếc cho người em Sĩ Cập, vốn đi lại với ta khá thân thiết, mai kia có chuyện thiên hạ cùng hợp sức đánh dẹp bọn này, ta nỡ nào ngồi yên, nhìn dòng họ Vũ Văn phải cái nạn tuyệt hậu. Phải mau mau tìm cách khiến cho Sĩ Cập có thể giữ được thân mình, tránh khỏi họa này. 
Liền sai người nhà là Dương Phương, đem theo một cái bình, Nghĩa Thần tự tay lấy giấy bút niêm phong thật kín miệng, theo đường tắt đến Lê Dương, đưa cho Sĩ Cập. Sĩ Cập thấy Dương Phương, vui mừng nói: 
- Ta đang ngày đêm trông ngóng tin tức, không rõ hiện thái bộc đang ở đâu, thì nhà ngươi đến! 
Liền dẫn vào thư phòng, cho tả hữu ra ngoài cả, rồi hỏi: 
- Thái bộc hiện đang ở đâu? Gần đây làm những gì? 
Dương Phương đáp: 
- Thái bộc tiểu nhân từ ngày bị điều tiếng đến nay, thay tên đổi họ, về vùng Lôi Hạ, vui với chuyện kiếm củi, câu cá. 
Sĩ Cập hỏi: 
- Có thư của thái bộc không? 
Dương Phương thưa: 
- Thư thì thái bộc không đưa gì cả, chỉ có tự tay niêm phong vật này để làm tin mà thôi! 

Sĩ Cập vội mở ra xem, thì thấy bên trong chỉ có hai quả táo cùng một miếng đường hình con rùa, Sĩ Cập nhìn hồi lâu, vẫn chẳng hiểu ý nghĩa ra sao, liền gọi tả hữu dẫn Dương Phương ra hậu dinh cơm rượu, rồi lại trầm ngâm nghĩ ngợi. 

Bỗng bình phong vén lên, một mỹ nhân xuất hiện, đó là người em gái rất thân thiết của Sĩ Cập tên gọi Thục Cơ, tuổi vừa mười bảy, vẫn còn chưa chịu tính gia thất, tuy chẳng phải bậc khuynh quốc khuynh thành, nhưng cũng thông minh, sáng sủa. Thấy Sĩ Cập trầm ngâm không nói, liền hỏi: 
- Xin hỏi anh, cái này ai đưa đến, mà anh nghĩ ngợi, băn khoăn quá thế? 

Sĩ Cập đáp: 
- Cái này là một người bạn cũ, thái bộc nhà Tùy Dương Nghĩa Thần gửi đến. Thái bộc rất tinh thông binh pháp, biết rõ thiên văn, nhân bị tước cả binh quyền, bỏ quan đi ở ẩn. Nay sai người gửi đến cho ta một cái bình, niêm phong cẩn thận, ở bên trong chỉ hai thứ. Thật đúng là một câu đố khó giải. 
Thục Cơ xem xét một hồi, rồi nói: 
- Cũng chẳng có gì là hiểm hóc đâu. Chẳng qua khuyên anh nên mau mau theo về nhà Đường, thì may thoát khỏi họa thí nghịch vậy (1) 
1 Con rùa làm bằng đường, là "quy đường" nhưng "quy" là rùa, tại đồng âm với “quy" là về, theo, hàng. Nên hiểu ra là "theo về nhà Đường". Quả táo là "tảo”, hai quả táo là “tảo tảo", gần âm với "tốc tốc" là mau mau. Vì vậy Thục Cơ giải là: "Mau mau theo về với nhà Đường đi!" 
Sĩ Cập cả mừng: 
- Em gái ta thật thông minh tài trí, nhưng ta cũng không tiện viết thư trả lời, mà cũng cần lấy một vật gì đó gửi cho thái bộc, để thái bộc hiểu được ý định của ta mới được. 
Thục Cơ đáp: 
- Nhưng không biết chủ ý của anh đã thật quyết chưa, nếu đã quyết thì có gì khó trả lời. 
Sĩ Cập đáp: 
- Hóa Cập làm những việc này, ta đứng xem cũng biết sẽ thất bại, đến lúc bị đánh lại, sẽ không thể nào chống đỡ kịp nữa rồi! 
Thục Cơ liền nói: 
- Thế là ý anh đã quyết, em sẽ sang bên này, tìm mấy thứ nhỏ, gửi cho thái bộc là xong. 
Thục Cơ đi một lúc, quay lại, thấy tay cầm một cái hộp sơn đen, Sĩ Cập mở ra xem, thì thấy một con ngỗng làm bằng giấy cho trẻ con chơi, cổ con ngỗng lại đeo một cái thìa nhỏ tí, trên thìa lại có dính một lá bùa tính số mệnh nho nhỏ, tất cả đều được xếp gọn ghẽ. Sĩ Cập ngạc nhiên hỏi: 
- Như thế nghĩa là gì? 
Thúc Cơ ghé tai Sĩ Cập nói nhỏ mấy câu. Sĩ Cập khen hay, rồi đóng hộp lại, cũng niêm phong cẩn thận, rồi đưa ngay cho Dương Phương cầm về. 
Ngày hôm sau Sĩ Cập vào gặp Hóa Cập, nói: 
- Tần Vương Lý Thế Dân hội họp binh mã các nơi để chinh phạt, thần ý muốn dẫn một vài gia đinh, giả làm dân chạy loạn, lên trước xem xét hư thực ra sao, vài ngày xin quay về thưa kỹ. 
Hóa Cập bằng lòng, Sĩ Cập liền gọi vợ con, cùng với Thúc Cơ giả dạng nam trang, thu thập tế nhuyễn, rời khỏi Lê Dương, đến thẳng Trường An. Lúc này Cung Đế đã nhường ngôi cho Lý Uyên, vua Đường Lý Uyên lên ngôi, cải hiệu Vũ Đức, Sĩ Cập đem em dâng cho vua Đường làm chiêu nghi. Vua Đường phong cho Sĩ Cập làm thượng nghi cai quản công việc tam ty quân sự. 
Lại nói Dương Phương, cầm cái hộp sơn đen của Sĩ Cập về Bối Châu gặp chủ tâu trình, Nghĩa Thần mở ra xem, thấy thế vui mừng nói: 
- Thế là bạn ta có nơi chốn yên ổn rồi! 
Dương Phương hỏi: 
- Thưa thái bộc, như thế nghĩa là làm sao? 
Nghĩa Thần đáp: 
- Sĩ Cập chẳng nói gì cả, xin nhắn: Tôi xin kính cẩn vâng mệnh mà thôi! (1) 
1 con ngỗng là "nga" gần âm với “ngã” là tối, cái thìa là "cẩn" đồng âm với "cẩn” là kính cẩn, lá bùa tính toán số mệnh gọi là “toán mệnh" đọc chệch là "tuân mệnh". Vậy là "ngã cẩn tuân mệnh”. 

Nhân đó hỏi Dương Phương: 
- Người ở Lê Dương, thấy được những chuyện gì? Dòng dõi tiên đế có ai thoát nạn không, các quan trong triều, ai là người giữ được tiết nghĩa? 
Dương Phương thưa: 
- Tiêu Hoàng hậu thì đã thất tiết, các bậc phu nhân, phi tần cũng chạy trốn được ít nhiều, chỉ có Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi mắng giặc mà chết. Hoa phu nhân ở viện Thúy Hoa, Tạ phu nhân ở viện Ảnh Văn, Khương phu nhân ở viện Nhân Trí, đều tự thắt cổ chết. Hóa Cập thấy Lương phu nhân ở viện Cảnh Minh dung mạo thần tiên ý muốn giữ cho mình, nhưng phu nhân không chịu, chửi mắng thậm tệ, Hóa Cập tìm mọi cách dụ dỗ, phu nhân vẫn không theo, cuối cùng cũng bị giết. Viên Quý nhân nhà ta không hiểu đi đường nào, tiểu nhân hỏi kỹ mà vẫn không ai biết. Tôn thất, hoàng thân bị giết mất cả, chỉ có Tần Vương Hạo, thân thiết với Trí Cập, nên phải miễn cưỡng tôn lên làm vua, không ngờ gần đây đã bị Hóa Cập cho uống rượu độc giết chết. Nghe nói còn con nhỏ Triệu Vương Cảo trốn được, đang cho người lùng khắp nơi để bắt. 
Nghĩa Thần nghe xong, đập bàn, rơi nước mắt: 
- Nghịch tặc dám ngang ngược tàn ác đến thế, bá quan văn võ phần lớn lại là phường hám vị sợ chết, nhưng các vị đại thần ở các phiên trấn há không còn ai trung nghĩa nghĩ tới chuyện trừ diệt lũ nghịch tặc này hay sao? 

Khóc than một hồi, đêm ấy trong lòng buồn bực thắp một cây nến lớn, ngồi trong thư phòng, cúi đầu xem sách, lúc lúc lại than thở. 

Mãi tới canh hai thấy trong người mệt mỏi, lên giường nằm nhưng vẫn không ngủ được, ngoài cửa trăng sáng như ban ngày. Trong lúc trằn trọc chẳng yên, liền ngồi dậy ra sân, bước đi vẫn còn nghiêng ngửa, thì thấy một người đội mũ, áo bào đỏ, hoảng hốt tiến lại. Nghĩa Thần nhìn kỹ, nhưng trong lúc tâm thần bất định, ánh trăng lại chiếu từ phía sau, nên đành cất tiếng hỏi: 
- Hứa Công đến đây sao? 
Người này đáp: 
- Thật vừa may gặp tướng công ở ngoài này, xin tướng công mau ra tiếp ngự giá. 

Lúc này Nghĩa Thần quên cả chuyện Dượng Đế đã chết, vội bước ra phía cổng, thì thấy Dượng Đế đội khăn the mỏng, áo long cổn thêu rồng lúc ẩn lúc hiện, cổ lại quấn một dải lụa trắng, theo sau là hai cung nữ mà trên mặt đầy máu me, đỡ Dượng Đế. Nghĩa Thần hoảng hốt quỳ lạy, chỉ thấy Dượng Đế lấy hai tay bưng mặt, rồi nghe một cung nữ lên tiếng: 
- Lão tướng quân, bệ hạ dặn lão tướng quân thế này, mẹ con Triệu Vương tới, phiền lão tướng quân giữ gìn cho. Chỉ có mỗi việc đó thôi, xin lão tướng quân hãy bình thân. 

Nghĩa Thần đang định hỏi Triệu Vương ở đâu, ngẩng đầu lên nhìn, thì chẳng thấy nữa, trấn tỉnh lại, thì trăng đã lặn về Tây, tiếng gà xao xác báo sáng, phương đông đã thấy sáng mờ mờ. Nghĩa Thần trong lòng nghi hoặc, lấy làm lạ kỳ, ngồi dậy xuống giường, gọi tiểu đồng mở rộng cửa lớn, rồi dạo khắp trong sân ngoài ngõ, trông bên đông, ngó phía tây, vẫn chẳng thấy sự gì lạ. Bỗng thấy dưới suối có tiếng lao xao, rồi một chiếc thuyền ghé vào bờ. Nghĩa Thần cùng tiểu đồng núp sau gốc cây nhìn xuống, thấy một người chống thuyền, lên bờ buộc thuyền lại. Từ trên thuyền, một người đi xuống, đứng lại trên bờ cao, nhìn ngó xung quanh. Lúc này trời vẫn chưa sáng hẳn, người trong nhà vẫn chưa dậy. Nghĩa Thần không chờ được nữa, bước ra hỏi người này: 
- Ngài ở đâu đến đây, định tìm nhà ai bây giờ? 
Người này vội chắp tay vái chào rồi đáp: 
- Chúng tôi là người Giang Đô chạy nạn đến đây! 
Vừa nói vừa nhìn kỹ Nghĩa Thần từ đầu đến chân. Nghĩa Thần cũng nhìn lại một lần nữa: 
- Ngài có phải họ Vương chăng? 
Người này lại liếc nhìn, rồi nâng hai tay Nghĩa Thần, khẽ hỏi: 
- Lão tiên sinh có phải họ Dương chăng? 
Nghĩa Thần thấy nói thế, cũng nắm lấy tay người này vội hỏi: 
- Ngài có phải là Tuần hà Vương đại phu chăng? 
Người này đáp: 
- Tiểu nhân chính là viễn thần Vương Nghĩa! 
Nghĩa Thần nghe thấy thế liền kéo tay vào trong cổng. Vương Nghĩa vội ghé tai Nghĩa Thần nói nhỏ: 
- Xin hãy khoan đã! Hiện còn Triệu Vương cùng các phu nhân dưới thuyền kia? 
Nghĩa Thần thấy nói thế, vội giục: 
- Trời sắp sáng rồi! Mau mời Triệu Vương vào nhà ngay cho! 
Nghĩa Thần gọi tiểu đồng, mở rộng cửa chính, rồi vào nhà mặc đủ áo mũ cân dai, đứng chầu ngay bên cửa, để đón mọi người. Vương Nghĩa cũng đứng ngay bên giới thiệu từng người. 
Viên Tử Yên, lúc này đang đóng giả đàn ông, bước tới cổng, thấy Nghĩa Thần, vội vàng thưa: 
- Cậu ơi! Cháu gái cậu về đây! 
Nói rồi, không ngăn được nước mắt, bái lạy đi vào, Nghĩa Thần giơ hai tay kéo lại nhìn cho rõ: 
- Thì ra là con nhà họ Viên đây! Ta mấy hôm trước cũng có sai người đi hỏi thăm tin tức, nhưng chẳng ai biết, nay thì về đây rồi. Tốt lắm? Hãy khoan chào lễ vội, cứ vào trong nhà đi đã, giúp Triệu Vương cùng các phu nhân thay hành trang ngay đi. 

Nghĩa Thần lấy La phu nhân, họ La mất sớm, mới lấy Vương phu nhân hiện nay, sinh chỉ một người con, mới năm tuổi tròn, tên là Hình Nhi, lúc này Vương phu nhân cũng ra tiếp đón mọi người. Nghĩa Thần cùng Vương Nghĩa ngồi trong thảo đường, Vương Nghĩa đem những chuyện vào cung, ra thành thế nào, kể lại một lượt. Sau đó Triệu Vương bước ra, tuy mới chín tuổi, nhưng hiểu biết hơn người, rồi cả Sa phu nhân, cùng các phu nhân khác cũng lần lượt kéo ra. 

Nghĩa Thần thấy Triệu Vương đã thay quần áo, rõ ràng mặt vuông chữ điền, hai tai lớn, mắt sáng mi thanh, nghiễm nhiên một vị Thái tử cành vàng lá ngọc, bất giác trong lòng cũng thấy kính phục, gọi ngay tiểu đồng trải thảm, kê ghế dựa, rồi làm lễ vua tôi. Triệu Vương kéo tay Sa phu nhân mà rằng: 
- Mẫu thân? Lúc này là lúc nào, mà lão tướng quân còn định làm lễ thế này? Nếu cứ lấy chuyện lễ tiết ra mà đãi như vậy, thì mẹ con ta thật không dám đến đây! 
Rồi nhất định không chịu ngồi lên ghế dựa mới kê, Tử Yên nói: 
- Thưa cậu! Triệu Vương ít tuổi, chẳng cần phải thế, xin cậu làm lễ vái chào bình thường là được rồi! 
Nghĩa Thần đáp: 
- Nếu đã như thế, cũng không dám cưỡng ép, xin mời ngồi lên đệm đây, để lão thần vái chào vậy? 
Triệu Vương nói: 
- Xin cứ lạy chào mẫu thân trước, sau đó mới đến ta chứ! 
Sa phu nhân đáp: 
- Nếu bàn đến chuyện lễ nghĩa chính thống, thì trước tiên là Triệu Vương! 
Triệu Vương nói: 
- Mẫu thân, lúc này đang trong thảo đường như thế này, nói gì đến chính thống. Huống chi nếu ta không được tiên đế ký thác cho mẫu thân che chở cho, thì cũng đã cùng Thục Vương Tư, Tề Vương Giản đều thành hồn oan dưới dạ đài cả rồi! 
Nghĩa Thần thấy Triệu Vương nói năng đâu ra đó, nặng nghĩa đầy tình, lấy làm kinh ngạc. Tử Yên cùng Dã Nhi liền đỡ Sa phu nhân lên, rồi kéo Triệu Vương ngồi ngay bên vai phu nhân, Nghĩa Thần liền làm lễ vái lạy. Sa phu nhân rơi nước mắt mà rằng: 
- Nhà Tùy giờ chỉ còn mỗi một chút này, xin được lão tiên sinh giữ gìn cho. Trời đất có linh thiêng, cũng phải cảm ơn đó! 
Nghĩa Thần đáp: 
- Lão thần này đâu dám không hết lòng trung nghĩa? 
Rồi lạy bốn lạy, tiếp đó lạy chào các phu nhân cùng Dã Nhi. Đình Đình vội lui lại phía sau. Tử Yên cũng không dám nhận lễ. Nghĩa Thần nói với Vương Nghĩa: 
- Viên Quý nhân là cháu gái của ta, đứng ở hàng phu nhân như vậy thì có gì là không phải đâu. Huống chi Triệu Vương mà không có Vương đại phu cùng mọi người đây, thì làm sao chúng ta có dịp quân thần hội họp ở đây. Trước mắt, công việc còn nhiều chuyện, phải làm 
Vương đại phu còn phải khó nhọc nhiều. Xin để ta lòng thành vái một vái vậy! 

Tử Yên vội kéo Đình Đình đến bên cạnh Vương Nghĩa, cùng làm lễ. Sau đó Tử Yên bước ra lạy Nghĩa Thần bốn lạy. Nghĩa Thần sai người nhà bày ra bốn bàn tiệc rượu, rồi lên tiếng: 
- Đáng ra cũng muốn xin mời các phu nhân vào trong để khoản đãi, nhưng ở đây chỉ là cảnh rừng núi dân dã, cơm rau rượu quê, nào phải sang trọng gì. Phương chi cũng còn có chuyện muốn nói, nên xin hãy ngồi tạm ở thảo đường này cả, để mọi người được nâng chén cùng nhau. 

Sa phu nhân cùng Triệu Vương ngồi một bàn, các phu nhân Tần, Địch, Hạ, Lý, cùng Dã Nhi, Đình Đình với Tử Yên ngồi hai bàn, Vương Nghĩa cùng Nghĩa Thần ngồi một bàn. Rượu được ba tuần, Vương Nghĩa nói với Nghĩa Thần: 
- Lão tướng quân tuổi đã cao, mà vẫn còn thích dậy sớm, để may mắn tiểu nhân gặp được, khỏi phải hỏi thăm lôi thôi! 
Nghĩa Thần đáp: 
- Cũng chẳng phải ta thường dậy sớm đâu, mà chính tiên đế dã tới trước để báo tin, cho nên vội trở dậy ra cửa chờ đón vậy thôi! 
Triệu Vương vội hỏi: 
- Tiên đế báo tin ra sao? 
Nghĩa Thần đem chuyện tối qua kể lại tỉ mĩ, các phu nhân khóc sướt mướt. Nghĩa Thần nói với Triệu Vương: 
- Lão thần từ ngày bị đuổi về, làm một ông già thôn quê, chẳng hề ngó nhìn đến việc ngoài cửa, không ngờ tiên đế linh hiển, chẳng khác được giao phó công việc trước điện rồng. Thừa ơn Triệu Vương cùng các phu nhân giáng lâm nơi lều cỏ này, không phải lão thần này dám phụ tiên đế cùng Triệu Vương, nhưng ở nơi lều cỏ nhà tranh này, tường thấp mái dột, không phải là nơi cho rồng phượng ẩn náu, lỡ có chuyện gì sai sót, làm thế nào mà cứu chữa, mà chỉ có thể trú chân ba bốn ngày. Lâu hơn nữa thì sợ sinh biến vậy. 
Sa phu nhân cất lời: 
- Thế thì bây giờ nên chọn nơi nào? 
Nghĩa Thần đáp: 
- Chỗ ở thì cũng không phải là hiếm. Cha con Lý Huyền Thúy, đều là bậc đại thần nhà Tùy, nay nắm trong tay hai ba mươi vạn binh mã, đóng giữ Kim Dung thành; Đông bộ Việt Vương, Tả bộc xạ Vương Thế Sung, cũng có mấy vạn binh mã, đóng giữ Lạc Thương. Lý Uyên ở Tây Kinh, đã lập hoàng tôn đại vương Hưu làm vua, hưng binh thảo phạt, lúc này đang còn giả mượn danh nghĩa, lúc đã thành công, nhất định sẽ bỏ danh đó đi để tự lập, còn nếu bại thì cùng nhau chịu diệt vong, không thể tính chuyện suốt đời cho được. Vì vậy mà lão thần này vẫn trù trừ không dám quyết, chỉ có hai nơi này là có thể tin được: một là tổng quản U Châu, người này họ La tên Nghệ, tuổi tuy đã cao, nhưng vẫn dạ trung thành, vẫn còn kiên dũng, tiên đế giao cho La Nghệ trấn giữ U Châu, thủ hạ rất nhiều tay tài giỏi, bốn phương trộm cướp không dám đụng đến bờ cõi U Châu. Nếu nay Triệu Vương cùng phu nhân đến, thế nào cũng được tiếp đón chu đáo, săn sóc như một nhà, nhưng còn ngại nỗi lũ Đậu Kiến Đức, thanh thế cũng rất lớn, thường hay qua lại xung quanh, cho nên đường đi cũng có phần nguy hiểm. Tốt hơn cả có lẽ là nơi thứ hai này, chỗ Nghĩa Thành công chúa, tuy ở nước ngoài xa xôi, thuộc đất của Khả hãn, vẫn còn giữ được thói tục thuần phác trung hậu, không thể nào so sánh được với dân Trung Quốc chúng ta, tâm địa hiểm độc. Lão thần lại rõ công chúa thuộc dòng tôn thất đã suy tàn, chỉ còn mỗi dòng này là có thế lực hơn cả, nhưng lại không người nối dõi, trước đây trong dịp công chúa ở xa về chầu tiên đế, tiên đế đã đối đãi rất thân thiết, huống chi đều là bậc vua, bậc hoàng hậu của một nước láng giềng, trong tay cai quản mọi sự. Nếu Triệu Vương bằng lòng đi, công chúa nhất định sẽ lấy lễ mà tiếp đón thật lòng, có thể là nơi yên ổn lâu dài. Chỉ có chỗ này mới thật chắc chắn, còn ngoài ra, lão thần thật không dám nói tới. 
- Triệu Vương cùng mọi người gật đầu ưng thuận. Sa phu nhân nói: 
- Những lời vàng đá của lão tướng, đủ thấy dạ trung kiên, nhưng núi dài sông rộng, không biết đi bằng cách nào? 
Nghĩa Thần đáp: 
- Nếu ý của Triệu Vương đã định, lão thần này sẽ có cách chắc chắn. Nhưng chỉ nên đễ Triệu Vương, Sa phu nhân, cùng Vương đại phu. Ngoài ra nghe nói Tiết Mỹ nhân thạo nghề cung kiếm, cũng nên đi theo, còn bốn vị phu nhân đây và cháu gái lão thần đi thì có nhiều điều không tiện. 
Bốn vị phu nhân, nghe đến đây, đều rơi nước mắt mà rằng: 
- Chị em chúng tôi năm người thề cùng sinh tử, xin nhờ lão tướng quân nghĩ cách chu toàn cho. 
Nghĩa Thần đáp: 
- Xin đừng ngại, lão thần này hỏi thật bốn vị phu nhân đây, có thật cảm ơn sâu nặng của tiên đế, quyết lòng thủ tiết, hay là chẳng qua chỉ đợi thời, rồi tìm cách để sống nốt quãng đời còn lại? 
Tần phu nhân đáp: 
- Lão tướng quân nói ra điều ấy sao? Xin đừng nhận nhầm bốn chị em chúng tôi với hạng phụ nữ tầm thường. Cũng xin được hỏi lại lão tướng quân, lão tướng quân có định lại ra cửa theo lũ nghịch chăng? Nếu lão tướng quân còn tiếc rẻ không muốn bày cho chúng tôi kế hay chước lạ, chị em chúng tôi đến bờ sông, theo Tam Lư dại phu (1), thì cũng chẳng có gì khó. 
1Tam Lư đại phu: chức quan của Khuất Nguyên, quan nước Sở, bi bọn gian lận nói xấu. vua Sở đuổi đi không dùng, bèn nhảy xuống sông Mịch La tự tử (Điển cố văn học) 
Nghĩa Thần nói: 
- Không phải lão thần tiếc một kế sách nhỏ, lúc này một khắc một quý, nhưng rồi ra tháng rộng ngày dài, liệu có qua được không? 
Địch phu nhân lên tiếng: 
- Lão tướng quân lấy địa vị của một bậc trung thần nghĩa sĩ, một kẻ trượng phu mà nhìn nhận phụ nữ chỉ là kẻ dập dờn theo sóng nước, chẳng việc gì phải tính kế lâu dài. Nhưng gần đây lão tướng quân đã được nghe chuyện Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi cùng Lương phu nhân mắng lũ nghịch tặc, nêu gương tiết nghĩa, thay nhau tuẫn nạn khiến cho quân thần triều Tùy đủ thẹn với mình. Phương chi, chị em chúng tôi sống trong cảnh phồn hoa, chịu ơn dày của chúa thượng, mà lão tướng quân vẫn còn ngờ chị em chúng tôi có lòng khác. Nếu không nói rõ được chí mình, thì làm sao mà mọi người tin được? 
Địch phu nhân rút ngay một lưỡi đoản đao giắt ở giải quần, rạch lên khắp má phải má trái khuôn mặt đẹp như hoa của mình. Tần, Hạ, Lý, ba phu nhân thấy Địch phu nhân làm thế, người nào cũng đều rút ra mỗi đoạn đao. Sa phu nhân, Đình Đình, Dã Nhi, Tử Yên đều hoảng hồn, vội vàng túm tay ngăn lại, nhưng trên gương mặt người nào cũng đã có mấy vết rạch cả, máu chảy loang khắp mặt. Nghĩa Thần vội đứng dậy bái lạy mà rằng: 
- Thật là lão thần lỡ lời bất kính, cũng thật là không uổng tiên đế suốt một đời chung tình, nhưng cũng xin các vị phu nhân hãy tự thương lấy thân mình nữa! 
Triệu Vương đứng dậy khỏi ghế, kéo Nghĩa Thần dậy. Nghĩa Thần nói với bốn vị phu nhân: 
- Cách đây khoảng hai ba dặm, có thôn Đoạn Nhai, cả thôn chỉ khoảng mười nhà, tất cả đều thật thà, hiền lành, có một cái am nhỏ là am Nữ Trinh. Một lão ni cô coi sóc ở đó, vốn là mẫu thân Cao Khai Đạo người Thương Châu, chồng chết từ lúc còn ít tuổi, ở vậy thờ chồng. Ni cô hiểu biết hơn người, sáng suốt, thấy ra con mình đi làm giặc, chẳng thể nên công chuyện gì, nên cố tình rời về đây, tìm đến am này làm chỗ gửi thân suốt đời, là nơi khó thấy được vết ngựa xe qua lại. Nếu các phu nhân bằng lòng vào đây tu đạo, thì chắc chắn là có thể yên ổn suốt đời. Còn như những thứ chi dụng hàng ngày, lão thần xin cung đốn đầy đủ không thiếu một ngày, các phu nhân không cần phải lo lắng gì cả! 
Bốn phu nhân đều nói: 
- Thế thì thật tốt quá rồi! Đủ để sống nốt quãng đời thừa này, nhưng liệu đến ngày nào có thể đi được? 
Vương Nghĩa thưa: 
- Cần phải xem ngày nào tốt, sai người đến nói trước với lão ni rồi hãy đi sau. 
Hạ phu nhân đáp: 
- Sự đời đến như thế này, còn gì phải chọn ngày, xin lão tướng quân sai người đi bàn trước với lão ni ngay cho là hơn cả! 
Nghĩa Thần sai tiểu đồng lấy lịch thư lại xem ngày, vừa may ngày mai lại là ngày tốt. Tất cả ăn uống xong, các phu nhân cùng Triệu Vương vào bên trong, Nghĩa Thần sai tiểu đồng dắt ra hai con la, dặn người nhà đóng cửa cẩn thận, tiểu đồng theo hầu rồi cùng Vương Nghĩa đến am Nữ Trinh ở thôn Đoạn Nhai, để bàn bạc với lão ni. Lão ni vốn nghe tiếng Nghĩa Thần là bậc trung thần nghĩa sĩ, lại vốn là người trụ trì, liền ưng thuận ngay, cả hai lên đường về. 
Vương Nghĩa nói lại cho các phu nhân biết, am Nữ Trinh phòng ốc sạch sẽ, quang cảnh u nhàn thế nào. Các phu nhân nghe ra, cũng lấy làm vui mừng. Tử Yên nói với Nghĩa Thần: 
- Thưa cậu? Cháu cũng muốn được xuất gia cùng các phu nhân, vào am sống nốt quãng đời còn lại vậy. 
Nghĩa Thần đáp: 
- Cháu cứ ở lại đây đã. Ta hãy còn có chuyện muốn nói. 
Tử Yên lặng lẽ lui vào. Qua một đêm, canh năm hôm sau, Nghĩa Thần mới mời bốn phu nhân xuống thuyền, Sa phu nhân cùng Triệu Vương, Dã Nhi, Đình Đình đều nói:
- Giờ thì mỗi người mỗi nơi, chẳng biết rồi còn có ngày gặp nhau nữa không. May mà trời còn thương, còn có dịp trở về trung nguyên, cũng nên biết chỗ ở của nhau để mà tìm nhau, nên phải được tiễn đưa lần này! 
Nghĩa Thần thấy tình cảnh như vậy, cũng không nỡ cản ngăn, đành để mọi người đưa tiễn, rồi dẫn theo Tử Yên, vợ chồng Vương Nghĩa xuống thuyền. Đến am, lão ni ra đón, cùng với hai ni cô giúp việc một người là Trinh Đình, một người là Trinh Tĩnh tuổi đều mới mười bốn, mười lăm. Lão ni cùng các phu nhân làm lễ chào hỏi họ tên, rồi sai hai ni cô cùng đưa mọi người đi lễ các điện, Nghĩa Thần đưa ra hai mươi lạng bạc gửi lão ni. Lão ni nói: 
- Cháu gái lão tướng quân chưa phải lúc tu hành đâu, sau này hãy còn nhiều gặp gỡ lạ lùng dấy! 
Nghĩa Thần đáp: 
- Đúng thế, ta cũng không bảo Tử Yên ở am đây đâu, đưa tiễn các phu nhân đến đây rồi lại sẽ quay về đã. 
Lão ni giữ mọi người lại dùng cơm chay. Mãi chiều, Sa phu nhân, Dã Nhi, Đình Đình cùng bốn vị phu nhân khóc lóc thảm thiết chia tay, bọn Sa phu nhân cùng Triệu Vương xuống thuyền quay về nhà Nghĩa Thần. Nghĩa Thần sau đó sai Dương Phương nghe ngóng tin tức, chờ dược thuyền lớn đến, liền đưa Triệu Vương, Sa phu nhân, Dã Nhi cùng vợ chồng Vương Nghĩa lên thuyền đến tận chỗ Nghĩa Thành công chúa: 
Chính là: 

Ở đời lắm nỗi khổ đau 
Sinh ly, tử biệt, khổ nào khổ hơn?


HỒI 49

Thuyền câu cất tiếng hát, cừu địch tạm nhận quân thần,
Trước trận trao lời thề, Ngô Việt gá duyên Tần Tấn.

Từ rằng:
Nhọc mình khấp khểnh ba đào
Tận trung trăm mối nghìn mưu
Nửa vừng trăng sáng
Một lá chèo mau
Ai tri tâm đó, hảo cầu đừng quên.
Giáo gươm chan chát trên yên
Oán thù gác lại một bên
Đường cùng ngõ hẻm chớ nên chuốc hờn
Nhớ lời hẹn nước thề non
Đầu mày cuối một, sắt son từ rày.
Theo điệu "Lãnh đào sa"


Phàm chuyện gặp gỡ lạ lùng, đều có số mệnh, dằng dặc là cừu thù bỗng nhiên trở thành tri kỷ, yêu kính lẫn nhau, ví như Tề Hoàn Công với Quản Trọng chẳng hạn. Cũng có lúc đang là hai nước đối địch, bỗng trở nên khăng khít gắn bó, như Tấn Văn Công cùng Tần Mục Công vậy. Nói cho cùng ra, thì trời đã sinh ra hạng người phi thường, tất cũng đã xếp đặt sẵn những cuộc gặp gỡ kỳ lạ chẳng thể lường trước được, khiến người ta không thể lấy thành bại thịnh suy mà định đoạt cho được. Huống chi lại là chuyện yêu đương chồng vợ, một khi dã có sợi chỉ hồng của nguyệt lão buộc chân thì nghìn dặm xa cách, cũng có lúc hội họp nên vợ nên chồng.

***

Nay hãy khoan nói chuyện Vương Nghĩa cùng Triệu Vương đến chỗ Nghĩa Thành Công chúa xa xôi, hãy nói chuyện Đậu Kiến Đức, lúc đầu xưng Trường Lạc Vương ở Hà Bắc, sai Tế tửu Lăng Kính vào thành Hà Gian chiêu hàng được quận thừa Vương Tôn, Kiến Đức cho Tôn làm thứ sử quận Hà Gian. Quận thừa Hà Bắc thấy thế, cũng viết thư xin hàng.
Mùa đông năm ấy, có một con chim lớn đến đậu ở Lạc Thọ, hàng mấy vạn chim nhỏ bay theo, một ngày sau mới bay chỗ khác, dân gian truyền rằng chim phượng đến như thế là điềm lành xưa nay.

Lại thêm một người tiều phu, tên gọi Trương Hanh, ở Tôn Thành, vào rừng đốn củi, nhặt được một viên ngọc đen huyền khuê, lẻn vào trong cung Lạc Thọ dâng hiến Kiến Đức.

Vì vậy Kiến Đức chọn lên ngôi ở Lạc Thọ, cải niên hiệu làm Ngũ Phượng nguyên niên, lấy quốc hiệu là Đại Hạ, lập Tào Thị làm hoàng hậu. Trước kia Kiến Đức đã lấy Tần Thị, chỉ sinh được một con gái, tức là Tuyến Nương. Tần Thị mất đã lâu, đến lúc khởi sự rồi, Tào Đán dẫn thủ hạ theo về, Kiến Đức biết Tào Đán có con gái, đã quá tuổi phiếu mai (1) mà vẫn chưa lấy ai, mới cưới làm kế thất. Kiến Đức thấy Tào Thị trầm tĩnh, đoan trang, cười nói khoan dung, nên mười phần kính trọng, công việc trong quân, việc gì cũng được dự bàn, thật đáng bậc bạn tốt trong phòng khuê. Lại phong Tuyến Nương làm Dũng An Công chúa.

1 phiếu mai: tên một bài thơ trong Kinh Thi, nói về người con gái đã luống tuổi nhưng nếu kịp lấy chồng vẫn còn được: "Cây mai rụng, mười phần quả còn bảy, mười phần quả còn ba”, “Quả mất ba bảy đang vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì”. (Truyện Kiều)


Ra trận Tuyến Nương thường xử thiên phương kích, thật là thần xuất quỷ một, lại luyện được phép kim hoàn đạn, ném trăm trúng, tuổi đã mười chín, giắt hai lông chim ngũ sắc trên mũ, mười phần xinh đẹp. Kiến Đức giục Tuyến Nương về chuyện gia thất, Tuyến Nương thường nói, phải chọn được người ngang tài ngang sức mới chịu. Mỗi lần ra quân, Kiến Đức thường sai Tuyến Nương chỉ huy hậu quân, lại rèn luyện được một đội quân bản bộ, gồm ba trăm nữ binh, theo sát bên mình, so với phụ thân thì kỷ luật hiệu lệnh còn nghiêm ngặt hơn nhiều. Nhưng cũng rất yêu thương binh lính, cho nên được xung quanh rất kính phục.
Kiến Đức lại phong Dương Chính Đạo làm Huân Quốc Công, Tề Thiện Hằng làm bộc xạ, Tống Chính Mộc làm nạp ngôn, Lăng Kính làm tế tử, Lưu Hắc Thát, Cao Nhã Hiền làm tổng quản, Tôn An Tổ làm lãnh quân tướng quân, những kẻ còn lại cũng đều được gia phong quan tước. Lúc này, dưới trướng Kiến Đức, binh mã cũng đã hơn một vạn, đang định cất quân đánh Lý Mật, thì được tin Vũ Văn Hóa Cập giết vua tự xưng đế, nên nổi giận, định tiễu trừ Hóa Cập một phen đã. Tế tửu Lăng Kính thưa:
- Phản thần Hóa Cập, tội thật đáng ghét, nhưng y trong tay hơn mười vạn binh mã, khó thể coi thường, cần phải có một viên đại tướng túc trí đa mưu mới diệt trừ được. Thần xin tiến một người như thế để giúp chúa công.
Kiến Đức hỏi:
- Ai thế?
Lăng Kính thưa:
- Người này gồm tài thao lược, ôm đủ cơ mưu, làm thái bộc triều nhà Tùy, về sau bị nịnh thần ganh ghét, lui về vườn ruộng, thực là bậc tướng tài, người ở Hoài Đông, họ Dương, tên Nghĩa Thần.
Kiến Đức vui mừng phán:
- Ngươi không nói, cô (1) cũng cơ hồ quên mất, trước đây cô cũng đã từng đọ sức với Nghĩa Thần vài trận, đúng là bậc lương đống chi tài còn về việc chiến trận, thì thiên hạ ít người theo kịp. Ngươi hãy vì cô mang lễ mời cho được.
1 Cô: quê mùa, thấp kém, trơ trọi. Tiếng tự xưng nhún mình của các vua chư hầu ngày xưa, cũng như "quả nhân". "Thiếu gì cô quả, kém gì bá vương” (Truyện Kiểu).

Lăng Kính lĩnh mệnh, từ biệt Kiến Đức lên đường. Chưa đến một ngày, đã tới Bối Châu. Lãng Kính vào nhà trọ nghỉ ngơi, hỏi thăm nơi ở của Nghĩa Thần. Dân địa phương đáp:
- Cách thành này khoảng vài dặm, trong vùng đầm hồ Lôi Hạ, có một ông già, tự xưng họ Trương, ai nấy đều gọi là Trương Công, chỉ suốt ngày trên bờ hồ câu cá làm vui, có người nói ông già vốn họ Dương.
Lăng Kính liền thuê người dẫn đường, tìm đến Lôi Hạ. Thật là núi không cao nhưng đẹp, nước không sâu nhưng trong, tùng bách giao cành tươi biếc, vượn hạc nối đuôi nhau, trên bờ thỉnh thoảng một vài gian nhà ngói xinh xắn, bóng cây che mát, vài con thuyền lớn có, nhỏ có, cái giương buồm chạy, cái nằm ven bờ cỏ, soi bóng dập dờn. Người dẫn đường đứng lại chỉ tay mà rằng:
- Ngôi nhà ngói phía trước, chính là nơi ở của Trương Công, ông già đang ngồi bên con thuyền nhỏ kia, có lẽ chính là Trương Công đấy!
Lăng Kính đưa mắt nhìn theo, thì thấy một người đầu tóc đã bạc trắng, nhưng vẫn còn quắc thước, đang dựa vào mạn thuyền, một mình ngồi nâng chén uống rượu, mũi thuyền là bốn năm đứa bé nhà quê cùng nhau ca hát đùa rỡn. Lăng Kính bảo chủ thuyền neo thuyền từ xa, rồi tự mình lên bờ, đi vào con đường, núp dưới rừng cây để lại gần, thì nghe mấy trẻ mục đồng vừa hát xong, cất tiếng hỏi ông già:
- Trương Thái Công! Hôm qua thái công hát một khúc, nghe rất hay, hôm nay sao thái công không hát lại nghe cho vui nào?
Ông già nhắm đôi mắt say mà rằng:
- Lũ bay muốn nghe ta hát, thì hãy ngồi cho yên.
Rồi cất tiếng hát khúc "Túy tam tinh" sau dây:

Giận là giận trong chậu cá rồng quẫy lộn
Cười những cười cùng chuồng hươu lợn chạy đua
Mặc lòng ta trăng ngầm sóng đùa
Tay ôm cần, tay quăng tơ giữa dòng
Ta dám hỏi, bao giờ.
Gió khe lặng
Mưa núi dừng
Để cho ta

Mà xa say tỉnh Ly tao (1) ngâm vần
Khóc viếng Sở thần.
1 Ly tao: tên một bài thơ dài, cảm khái thời thế, thân phận không may của Khuất Nguyên, bề tôi nước Sở - Sở thần. Xem chú thích hồi bốn mươi tám.

Lăng Kính nghe xong, than:
- Thật là khúc ca cảm khái thời thế của bậc đại ẩn vậy thay!
Rồi lại xuống thuyền, bảo chống lại gần. Mấy trẻ mục đồng trông thấy vội lên bờ theo đàn bò của mình, Lăng Kính sang thuyền, chắp tay chào Nghĩa Thần:
- Từ dạo xa nhau đến nay lão tướng quân vẫn được mạnh khỏe chứ?
Nghĩa Thần ngước mắt nhìn, thấy một người mặc áo bào, đội khăn Gia Cát, bèn hỏi:
- Ngài là ai vậy?
Lăng Kính đáp:
- Lăng Kính này xa thái bộc đã lâu, không ngờ thái bộc râu tóc đã bạc trắng cả. Nhớ lại thuở ở cùng nhau, được thái bộc dạy dỗ, nay vẫn nhớ đức, giờ mới được gặp lại, khác gì quang mây lại thấy mặt trời.
Nghĩa Thần thấy nói thế liền đáp:
- Thì ra Lăng Tử Tiêu, đã lâu không gặp, nay sao lại rỗi rãi tới đây, xin mời vào tệ xá!
Rồi kéo tay Lăng Kính xuống thuyền, gọi tiểu đồng chống thuyền về bến, cùng Lăng Kính vào thảo dương làm lễ, chia ngôi chủ khách mà ngồi. Nghĩa Thần hỏi:
- Không biết hiền huynh lâu nay ở đâu?
Lăng Kính đáp:
- Từ ngày chia tay, thân chẳng biết về đâu. Nhân thấy Đậu Kiến Đức có lượng bao dung, cho nên tiểu đệ theo về với nhà Hạ, được phong chức tế tửu, nhân nhớ tới huynh đài, tìm tới thăm vậy!
Nghĩa Thần bày tiệc rượu khoản đãi, chén cạn vài tuần. Lăng Kính sai thủ hạ đem vàng bạc, lụa là bày ra trước mặt Nghĩa Thần, Nghĩa Thần kinh ngạc hỏi:
- Những cái này ở đâu ra?
Lăng Kính đáp:
- Hạ Vương lâu nay vẫn mến tài huynh đài, nên đặc sai tiểu đệ đem những thứ này đến biếu huynh đài.
Nghĩa Thần nói:
- Đậu Kiến Đức với ta từng có chuyện đọ sức đọ tài, nay lại đem quà đến thế này, tất phải có duyên cớ chứ?
Lăng Kính đáp:
- Mới đây chúa thượng bị giết, anh hùng khắp nơi nổi dậy, nơi nơi chiếm cứ quận huyện, xưng vương, xưng bá, ai cũng dương dương vì trăm họ mà trừ hại, yên thiên hạ. Ai là người có tài, có võ nghệ trong tay, đều muốn thi thố một phen. Thái bộc ôm mưu lược kinh bang tế thế, sánh ngang tài giỏi Tôn Vũ, Ngô Khởi, sao nỡ gửi thân nơi đầm lầy, núi hoang, làm một ông già không tên tuổi ở chốn lâm tuyền, vui với cảnh cây cỏ, thì thật là đáng tiếc. Nay Hạ Vương làm điều nghĩa, nói điều nhân, cải xưng vương hiệu, bốn phương cùng hưởng ứng, từ lâu biết thái bộc có tài lương đống, nên sai tiểu đệ đem lễ đến mời, để cùng cứu dân ra khỏi chốn nước lửa, mong theo được bậc minh quân như Nghiêu như Thuấn. Vạn lần xin huynh đài chớ khước từ mà làm cho Hạ Vương mất cả chỗ trông cậy vậy.
Nghĩa Thần đáp:
- "Trung thần bất sự nhị quân, liệt nữ bất canh nhị phu". Ta là bề tôi của nhà Tùy, chẳng có thể cứu giúp nạn quân vương, để đến nỗi bị bị bọn nghịch thần giết hại, cũng không thể báo thù, nay lại đi thờ chủ khác, thì còn mặt mũi nào mà đứng trong cõi thế?
Lăng Kính nói:
- Thái bộc nói sai rồi. Nay anh hùng trong thiên hạ, người nào lập nước ấy, nhà Tùy thế là đã hết vận thật rồi, còn nhớ đến mà làm gì nữa. Mà dẫu có muốn báo thù cho Tùy Nhị Đế, chẳng gì bằng theo Hạ Vương, mượn binh, mượn thế, kéo tới mà diệt lũ nghịch thần, có phải là vừa hả lòng vừa thỏa nguyện thái bộc không!
Nghĩa Thần bị Lăng Kính khơi dậy nguyện ước lâu nay, bèn đáp:
- Ngẫm kỹ lời hiền đệ nói, thì hình như cũng có lý, nghe Kiến Đức có thể hạ mình để thờ kẻ sĩ, lại không mang tiếng là phường oán nghịch. Nhưng nếu ưng thuận ba điều này của ta, thì lập tức ta theo về còn nếu không, thì quyết không thể vâng mệnh.
Lăng Kính hỏi:
- Ba điều gì?
Nghĩa Thần đáp:
- Một là không làm bề tôi nhà Hạ. Hai là không nêu tên tuổi ra. Ba là bắt được Hóa Cập rồi, báo được thù của Nhị Đế rồi, thì lập tức phải thả ta về với vườn ruộng, lâm tuyền.
Lăng Kính đáp:
- Chỉ có ba điều này, thì Hạ Vương chẳng ngại ngần gì mà không chiều lòng huynh đài.
Nghĩa Thần nghe thế, liền gọi người nhà ra nhận lễ vật. Lăng Kính liền cáo biệt. Nghĩa Thần còn dặn:
- Đi qua Tào Bộc sơn, bọn cường đạo Phạm Nguyện rất là thanh thế, có đến vài ngàn lâu la, sào huyệt mãi tận Thái Sơn, thường hay cướp bóc ở vùng Phùng Châu, hiện nay sơn trại không còn lương thực, bốn phía trống không. Hiền đệ nếu thu phục dược Phạm Nguyện cùng về với nhà Hạ, cũng đủ để diệt họ Vũ Văn.
Nghĩa Thần ghé tai Lăng Kính nôi mấy câu, Lăng Kính gật đầu, từ biệt xuống thuyền.

***

Đậu Kiến Đức ngày đêm luyện tập tướng sĩ, để hòng chinh phạt Hóa Cập, bỗng nghe nhà Đường sai quan nạp ngôn là Lưu Văn Tĩnh, đem thư ước hẹn cùng họp binh để đánh Hóa Cập. Kiến Đức xem thư, thấy hẹn cùng kéo binh đến Lê Dương, liền nói với Văn Tĩnh:
- Bọn giặc này, cô đã có ý chinh phạt từ lâu, đang định xuất binh. Phiền quan nạp ngôn về thưa lại với Tần Vương, chỉ cần phái một phó tướng, dẫn binh đến trước, cùng cô diệt hết bọn này để tạ trời đất.
Văn Tĩnh thưa:
- Lúc thần vâng mệnh lên đường, thì Tần Vương đã kéo quân ra khỏi Trường An rồi!
Văn Tĩnh cáo từ trở về, Kiến Đức vào cung, Dũng An Công chúa hỏi:
- Sứ nhà Đường tới có việc gì, thưa phụ hoàng?
Kiến Đức đáp:
- Tần Vương đưa thư đến hẹn, cùng hội binh tiễu trừ Hóa Cập. Ta cùng chúng thần bàn bạc, hẹn với Tần Vương ngày kia sẽ xuất quân.
Dũng An Công chúa tiếp:
- Cứ như ngu kiến của con, phụ hoàng hà tất phải xuất binh vội. Nay tổng quản phương Bắc là La Nghệ vừa mới về hàng phục nhà Đường, đang nghẽn lối sau của ta. Ngụy Điệu Nhi cũng có vài vạn quân, đang đóng giữ vùng Thâm Trạch, tự xưng là Ngụy Vương, cướp bóc vùng Dực Định, mấy năm nay cùng ta dựa dẫm lẫn nhau, nhưng chẳng phải là kế lâu dài. Chi bằng thừa lúc họ không phòng bị, kéo quân đánh úp một chuyến, trừ được hậu quả. Đợi lúc nào Lăng Kính trở về, rồi hãy bàn chuyện này, có phải chu toàn hơn không?
Tòa Hậu cũng tán thưởng lời bàn của Dũng An Công chúa, Kiến Đức phán:
- Ta đã có kế sách cả. Các người đừng nhiều lời.
Ngày hôm sau, Kiến Đức điều mười vạn binh, cho Lưu Hắc Thát làm Chinh Nam đại tướng quân, Cao Nhã Hiện làm tiên phong, Kiến Đức cùng Tào Đán lãnh trung quân. Dũng An công chúa làm hậu đội.
Tôn An Tổ cùng Tào Hậu ở lại giữ Lạc Thọ. Lại tuyển một đội nữ nhạc gồm hai mươi người, sai người đem biếu Ngụy Điêu Nhi, nhờ Điêu Nhi cất binh đánh La Nghệ, đề phòng Di Địch ở phía đông, hứa với Điêu Nhi, sau khi diệt Hóa Cập xong, đem những phi tần mỹ nữ cùng vàng ngọc thu được trả công. Điêu Nhi cả mừng, nhận lời, tin vào lời hứa của Kiến Đức, ngày đêm đắm chìm trong tửu sắc, không chút nghi ngờ gì. Nào hay Kiến Đức thống lãnh tinh binh, cuốn cờ im trống, đêm đi ngày trốn, tới thẳng Thâm Trạch, kéo quân vây kín thành. Điêu Nhi vẫn trong cơn say, bị bộ tướng Hà Gian cũ là Quan Đào, vẫn căm Điêu Nhi ngạo mạn khinh người, không chịu dùng. Quan Đào chém giết, dâng thành đầu hàng.

Kiến Đức lấy cớ ở đất người, nhưng lại lấy đất người đem hiến, thật là phường bất nghĩa, định chém chết. Vương Tôn cố khuyên can mãi, liền cho Quan Đào làm bộ tướng của chức cũ, những đàn bà con gái bị bắt, đều tha cho về, bao nhiêu vàng bạc thu được đều chia cho tướng sĩ. Xa gần nghe tin Hạ Vương không có bụng hiếu sát đều một lòng kính phục, các cháu vùng Dực Định đều tới quy hàng. Kiến Đức gộp thêm được mấy cánh quân luôn, uy danh ngày càng lớn, đánh luôn Dực Châu. Thứ sử Dực Châu là Khúc Lăng, dũng cảm lại chí khí, lúc đầu cũng tìm trăm cách để phòng giữ, về sau thành bị phá, nên cuối cùng cũng theo về Hạ Vương.

Lại nói La Nghệ, vốn là một viên túc tướng, tuổi đã ngoài sáu mươi, nhưng tinh thần vẫn sáng suốt bội phần, vốn cùng Tần phu nhân rất mức hòa thuận, khác gì họ Mạnh "tay nâng ngang mày" (*1).
*1 Tay nâng ngang mày: Theo "Hán sử:", nàng Mạnh Quang rất kính trọng chồng, mỗi lần dọn cơm cho chồng là Lương Hồng đều nâng khay lên tận ngang mày.


Dưới trướng La Nghệ có tới hai vạn tinh binh, nhưng rồi dần dần bị vua Tùy điều hết sang đông lại về tây, nên giờ cũng chỉ còn hơn một vạn, lính kỵ mã cũng chỉ còn sáu bảy nghìn người. May nhờ có La Thành, thiếu niên anh tuấn, sức khỏe trăm người khôn đương, lại được thân phụ truyền cho thương pháp bí truyền của dòng họ La, đến mức quỷ khóc thần sầu. Nhiều lần định tính chuyện hôn nhân, La Thành đều chối rằng đại sự cả đời, tuy có cha mẹ làm chủ, nhưng cũng phải để tự mình lựa chọn, cho nên việc nhân duyên vẫn chưa định xong.

La Thành nghe tiêu mã về báo, Kiến Đức dẫn đại binh kéo đến, liền thưa với phụ thân:
- Đậu Kiến Đức chưa biết lợi hại ra sao, kéo đại binh đến xâm phạm đất ta, ý con muốn nhân lúc binh tướng mới kéo đến, chưa đóng xong trại, dẫn hai nghìn binh mã đánh ngay một trận, làm nhụt nhuệ khí của chúng, cho chúng biết sự lợi hại ra sao, mà rút quân về cũng chưa biết chừng!
La lão tướng đáp:
- Con là bậc niên thiếu, thường cậy vào sức mạnh, đừng nên nóng vội làm càn, đó chính là điều tối kỵ trong đạo làm tướng. Ta tự có cách đánh lui bọn này.
Liền tập họp chúng tướng, sai Tả doanh tổng soái Trương Công Cẩn, dẫn một nghìn tinh binh, mai phục phía phải núi Cao Sơn ở ngoài thành, nghe bao giờ trong thành tử mẫu pháo nổ vang, dẫn tinh binh xông vào tiền quân của Kiến Đức. Lại sai hữu doanh tổng soái Sử Đại Nại, dẫn một nghìn tinh binh, mai phục phía trái núi Cao Sơn, chờ tử mẫu pháo trong thành nổ, cho tinh binh xông vào trung quân của Kiến Đức. Sai con La Thành, cũng đem một nghìn tinh binh, cách thành ba mươi dặm, mai phục ở Độc Long Cương, thấy binh tướng Kiến Đức bỏ chạy, thì xông ra đánh vào hậu đội. Còn mình cùng với Tiết Vạn Triệt, Tiết Vạn Nhẫn, ngồi giữ thành. Hai tướng cùng La Thành nhận lệnh, lãnh binh ra khỏi thành.

***

Lại nói Kiến Đức kéo đại binh thẳng tới U Châu, tướng tiên phong Lưu Hắc Thát hạ trại xong xuôi, thấy cửa thành đóng chặt, không chịu ra nghênh chiến, chỉ đành ở ngoài thành chửi bới. Tiếp theo đại binh của Kiến Đức kéo đến, trong thành vẫn yên lặng, liền làm thang mây, trèo lên thành tấn công. Bỗng nhiên trong thành, pháo mẹ pháo con nổ vang, thang mây cháy rụi, đành phải rút ra. Kiến Đức lại làm mấy trăm xe xung trận, trống mõ nhất tề ầm ĩ xông vào. Trong thành ném tạ sắt, thiết trùy xuống, giăng khắp mặt thành, xung xa đều gãy nát, xoay đủ trăm kế, chẳng làm gì hạ được thành. Ròng rã mấy ngày, tướng sĩ mỏi mệt.

Đêm ấy, khoảng canh ba La Nghệ bí mật truyền lệnh, sai Tiết Vạn Triệt, Tiết Vạn Nhẫn, hai anh em, dẫn ba quân ăn thật no, rồi ai nấy ngậm tăm, mở cửa thành xông vào trại quân Hạ. Lính tráng đều đang ngủ say, chỉ nghe một tiếng khác nào núi lở biển trào. Kiến Đức bàng hoàng tỉnh giấc, vội khoác giáp lên ngựa, tùy tướng Đặng Văn Tín theo sát, gặp ngay Tiết Vạn Triệt xông vào trung quân, chém cho Văn Tín một đao ngay trước cửa trướng. Kiến Đức vội xông vào đánh với Vạn Triệt, Cao Nhã Hiền thì chống đỡ Triết Vạn Nhẫn, Lưu Hắc Thát thì đánh với La Nghệ.

Cả sáu cùng đang ham chiến lại nghe tử mẫu pháo nổ vang, phía trái, phía phải núi, quân mai phục nhất tề kéo ra. Kiến Đức biết là trúng kế, bỏ trại mà chạy như bay, được khoảng hai ba chục dặm quân sĩ vẫn chưa hoàn hồn. Bỗng nghe ở sườn núi, thanh la rộn ràng, một viên niên thiếu dũng tướng, dẫn quân kéo ra, Tiên phong Cao Nhã Hiền coi thường ít tuổi, giơ cao đại đao chém xuống, bị La Thành đâm cho một thương, trúng ngay vào đùi trái Nhã Hiền. Nhã Hiền đau quá, suýt ngã ngựa, may được Lưu Hắc Thát tới kịp đỡ cho. Đánh khoảng hơn mười hiệp, không đỡ nổi cây thương dũng mãnh của La Thành lúc nào cũng như rồng múa nước dâng, mười phần tài nghệ. Kiến Đức thấy thế, sợ xảy chuyện không hay, xông vào cứu viện.

La Thành càng phấn chấn tinh thần, nhằm mặt Hắc Thát đâm một thương quát to một tiếng, rồi quay nhanh mũi thương đâm thẳng vào ngực Kiến Đức, Kiến Đức thất kinh vội vàng bỏ chạy. Đánh mãi đến gần sáng lại thấy một đội nữ binh từ phía sau kéo tới, bày thành thế trận, giữa trận là một viên nữ tướng, đầu đội mũ bàn long, trên cắm hai lông chim phượng xanh biếc, gắn hạt châu óng ánh. Mình mặc áo cẩm chiến bào màu trắng có thêu hoa, cấm thiên phương họa kích, cưỡi ngựa thanh tông. La Thành thấy thế, vội thu thương về, cất tiếng hỏi:
- Nhà ngươi là ai?
Tuyến Nương đáp:
- Người là ai mà dám hỏi ta?
La Thành đáp:
- Ngươi không trông thấy chữ trên cờ của ta sao?
Tuyến Nương nhìn lên, lá cờ gấm màu đỏ, có thêu chữ "La" ở phía dưới, thêu hai hàng chữ nhỏ hơn: "The đại danh gia tướng, thần thương thiên hạ văn", (1) Tuyến Nương hỏi:
- Thế ra là con trai La Tổng quản sao?
La Thành lại cùng nhìn lá cờ gấm của Tuyến Nương, chính giữa thêu một chữ lớn: "Hạ", dưới cũng có thêu hai hàng chữ nhỏ hơn: “Kết trận lan khuê đình tú, thôi trang tiên tướng đàm binh". (2)
1 Nhà nối đời làm tướng nổi danh dùng thương như thần, khắp thiên hạ đều nghe tiếng.
2 Bày thế trận, khách phòng lan tạm ngưng việc thêu thùa, trang điểm vội cho xong, để trong trướng hoa sen còn bàn việc binh.


Thấy thế, La Thành trong lòng ngầm nghĩ: "Ta nghe con gái Đậu Kiến Đức rất là tài giỏi, nhất định là người này chứ chẳng sai. Đáng tiếc cho cô gái đẹp dường này, mà chẳng chịu làm cái việc đánh phấn tô son, để ta khỏi phải giết mất. Hãy để ta thử nói xấu cho mấy câu khiến cho cô ta phải hổ thẹn mà rút quân thì hơn!". Bèn cất lời khiêu khích:
- Ta tưởng phụ thân ngươi cũng là bậc anh hùng nơi đầm lầy đồng cỏ, nhưng sao dưới trướng chẳng có lấy một viên tướng liều chết, đến nỗi phải cho con gái ra mà chịu nhục sao?
Tuyến Nương cũng trả miếng:
- Ta cũng tưởng như vậy, phụ thân nhà ngươi vốn là một viên túc tướng, mà trong thành đến nỗi không có một viên thủ hạ dũng cảm không sợ chết, để đến nỗi phải sai cả con chó con ra sủa người sao?
Bọn nữ binh đứng chung quanh cười ầm ĩ, La Thành tức giận đùng đùng, giơ cao thương xông tới. Tuyến Nương cũng chuyển động thiên phương họa kích một vòng để đỡ, vòng vèo vấn vít, đến hơn hai mươi hiệp vẫn bất phân thắng bại. La Thành thấy Tuyến Nương múa cây phương họa kích thật thần xuất quỷ một, một giọt mưa cũng không lọt trong lòng thầm nghĩ: "Khá tiếc một cô gái bản lĩnh dường này, mà lại rơi vào dám cỏ rậm rừng xanh. Nay ta hãy giả quay chạy, rồi bắn mũi tên, dọa một chút, xem cô ta đối phó ra sao?”. La Thành liền giơ thương đâm dứ một cái, rồi quay ngựa chạy, Tuyến Nương vội đuổi theo, chỉ nghe tiếng dây cung bật một tiếng khẽ, nhưng Tuyến Nương rất nhanh mắt, vội giơ tay trái ra, bắt ngay được mũi tên, nhưng nhìn lại thì là tên không có mũi sắt nhọn, mặt cánh có ghi bốn chữ "Tiểu tướng La Thành".

Tuyến Nương bỏ mũi tên vào túi đựng tên, rồi cau mày mà than thầm: "La lang! Rõ là chàng không nỡ lòng nào!". Rồi gác ngang cây thiên phương họa kích lên yên ngựa, rồi lấy ở trong túi gấm ra một viên hoàng kim đạn, thấy La Thành đang vừa cười vừa quay ngựa chạy. Tuyến Nương liền kéo cong cây nỏ, La Thành đang định bắn thêm một phát tên nữa, không nghĩ tới việc viên đạn bắn tới, thì viên đạn đã bay trúng ngay cán thương, suýt nữa làm cho La Thành đánh rơi cả thương. La Thành lệnh tả hữu nhặt viên đạn rơi, thì ra đó là một viên đạn tròn to hơn mắt rồng ít nhiều, trên mặt có khắc hai chữ "Tuyến Nương".

La Thành liền nghĩ: "Cừu thù mà lại có bản lĩnh đến thế này, giá mà ta được cùng Tuyến Nương này gá nghĩa vợ chồng, thì cũng thật là thỏa nguyện một đời vậy!" Mặt mày rạng rỡ. La Thành đưa mắt liếc nhìn Tuyến Nương, càng nhìn lại càng thấy lòng thêm yêu thương. Tuyến Nương ngồi trên mình ngựa, thấy La Thành tài mạo xuất chúng, phong thái hiên ngang, trong lòng cũng thấy rạo rực, thầm nghĩ: "Thật đáng hổ thẹn cho phận gái, mãi hôm nay mới dược gặp một chàng trai thế này. Đậu Tuyến Nương đây, mà lấy dược người chồng như La Thành, cũng không uổng một đời má phấn!" Hai người, bốn mắt nhìn nhau long lanh, cùng trên ngựa chẳng thể nào nói được lời nào khác, họ La nhìn họ Đậu, họ Đậu nhìn họ La, cứ thế một lúc lâu. Bọn nữ binh của quân Hạ, thấy thế cũng chẳng giữ gìn gì cười trêu La Thành:
- Cái vị tiểu tướng này, kể cũng ít thấy, đánh cũng chẳng đánh, rút cũng chẳng rút, cứ đứng nhìn ngắm mãi công chúa cành vàng lá ngọc của chúng ta. Nếu cần chiêm ngưỡng đến thế, hãy về vẽ lấy một bức tranh, rồi hàng ngày mà phụng dưỡng.
La Thành cười đáp:
- Ta xem công chúa của các ngươi cũng chỉ mười chín hai mươi là cùng chứ gì?
Tuyến Nương chỉ cúi đầu không đáp. Mấy nữ binh nhanh miệng lại ồn lên:
- Mũi tên lần này cũng trúng rồi. Nhưng công chúa không bắt cho!
Khiến Tuyến Nương cũng phải mỉm cười, khẽ hỏi La Thành:
- La công tử năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
La Thành đáp:
- Chỉ hơn hai mươi mùa xuân!
Tuyến Nương lại hỏi:
- Phụ mẫu còn mạnh khỏe cả phải không?
La Thành lại đáp:
- Gia từ năm nay mới năm mươi chín tuổi, gia nghiêm thì sáu mươi mốt tuổi! Xin hỏi việc nhân duyên của công chúa ra sao, đã làm lễ vu quy chưa?
Tuyến Nương xấu hổ, cúi đầu không nói, lại mấy nữ binh vừa rồi đáp thay:
- Công chúa của chúng tôi quả chưa nghĩ đến chuyện nghi thất nghi gia, chỉ có một lời thề rằng...
Đang nói nữa, thì thấy Tuyến Nương đưa mặt nhìn giận dữ, nữ binh vội vàng im bặt. Lấn này đến lượt gia tướng của La Thành lên tiếng:
- Thế công chúa của các người, cùng với tiểu tướng của chúng ta hãy cùng gá nghĩa, làm thành một nhà, cho mọi người ngày này sang ngày khác khỏi phải đánh giết mãi.
La Thành giục ngựa lên mấy bước, nói:
- Công chúa nếu không chê bai, chối bỏ, xin được tìm người mối mai để đến tận quý gia làm lễ cầu hôn có được chăng?
Tuyến Nương đáp:
- Hôn nhân là chuyện đại sự, không phải là chuyện của nhi nữ. Trong chốn quân doanh, đâu có thể nói cho xong được. La công tử nếu quyết chí, thiếp xin giữ mình chờ, nhưng chỉ sợ lòng dạ La công tử chưa thật chắc chắn thôi!
La Thành đáp:
- Có trời xanh trên cao, nếu La Thành này không cùng Đậu Thị...
Lại vội hỏi:
- Xin phép hỏi quý danh công chúa?
Tuyến Nương đáp:
- Có khắc trên đạn kim hoàn vừa rồi La công tử không thấy sao?
La Thành lại mới nói tiếp:
- Ta là La Thành, kiếp này mà không được cùng Đậu Tuyến Nương nên duyên chồng vợ thì chết không có đất chôn.
Tuyến Nương thấy La Thành thề nguyền chân thật, bất giác rơi nước mắt mà tiếp:
- La công tử nếu đã có lòng nghĩ đến thiếp, thiếp cũng xin hứa sống chết cũng lấy lòng chân thật mà chờ đợi. Nhưng chỉ sợ gia nghiêm La công tử cho người đến mà phụ hoàng thiếp không bằng lòng thì làm sao bây giờ?
La Thành đáp:
- Nếu như thế, sẽ xin tìm thêm người đến thuyết phục Hạ Vương!
Tuyến Nương nghĩ một hồi, rồi nói:
- La công tử có biết thái bộc nhà Tùy Dương Nghĩa Thần không?
La Thành đáp:
- Dương Thái bộc là bạn thân của gia nghiêm ta.
Tuyến Nương tiếp:
- Người này được phụ hoàng vừa kính vừa sợ. Xin đợi Hạ Vương diệt họ Vũ Văn trở về, La công tử tới nhờ Dương Thái bộc đứng ra làm mối, thì mọi sự sẽ yên ổn.
Đang nói, thấy phía sau bụi cuốn mịt mù, nữ binh vội thưa:
- Quân ta kéo tới rồi!
Tuyến Nương gạt nước mắt thưa:
- Thế là mọi việc xong xuôi! Xin La công tử quay ngựa cho?
Tất cả đều nghe theo, cách nhau được khoảng một tầm tên bắn, Tuyến Nương ruổi ngựa đuổi theo hỏi:
- La công tử đi rồi, bao giờ sẽ trở lại?
La Thành đáp:
- Tuy đã được công chúa chân thành hứa lời, nhưng cũng xin cho La Thành này một vật làm tin, để sau này gặp nhau có cái mà nhận nhau chứ.
Tuyến Nương đáp:
- Chả cần có thêm làm gì. Mũi tên của La công tử thiếp xin giữ gìn cẩn thận. Viên kim hoàn của thiếp. La công tử hãy giữ kỹ cho, coi như vật làm tín rồi còn gì!
La Thành cho ngựa tới gần, quyến luyến chẳng muốn rời, Tuyến Nương đành lên tiếng:
- La công tử đi thôi! Thiếp không thể chiều lòng La công tử hơn được!
Rồi lấy hai tay ôm mặt quay ngựa đi, theo toán nữ binh, dặn không được lộ chuyện vừa rồi. Được vài chục bước, đã thấy Kiến Đức vì chẳng thấy Tuyến Nương đâu, không thể không lo lắng, sai Tào Đán lãnh binh quay lại cứu viện, tất cả gặp nhau cùng hợp thành một đoàn mà quay về. La Thành thấy phía trước có binh mã kéo đến, đành thở dài một tiếng, rồi ruổi ngựa cùng binh lính quay về U Châu.
Chính là:

Tương tư xa cách nghìn trùng
Núi xa, sông cách, tương phùng . . . kiếp sau.

HỒI 50

Mượn tay giặc, nghĩa thần diệt phản thần,
Bày tiệc hoa, Tào hậu nhiếc Tiêu hậu.

Từ rằng: 
1 . Thời loạn hùm beo nhảy tứ tung 
Họa đâu phúc đó nghĩ khôn cùng 
Khen ai mưu trí, công danh toại một lá thuyền câu đậu bến sông. 
2. Đêm trước yêu đương, 
Đêm nay thẹn thùng 
Chén vàng lệ rơi 
Củi đậu nấu đậu 
Nhiếc chi đanh đá? 
Theo điệu “Triệu trung thố” 

Họa phúc, thịnh, suy trên đời này chẳng khác gì trong giấc mộng, trong cõi mờ mịt mênh mông, có người mộng thấy mình gặp phải cảnh thảm thương, buồn nản, rõ ràng là trong giấc mộng, nhưng rồi lại tới cảnh mộng khác, gặp lúc đắc ý hiển vinh, đến nỗi quên cả những cảnh mộng cũ, lúc nào cũng thấy vênh vang tự đắc, cho mình là thông minh tài bộ, thả cửa làm đủ điều tham gian ngang ngược, mãi tới lúc bước lừa khập khiễng, gà đồng xao xác, lại mới nhận ra thân phận. Phần nhiều các bậc anh hùng hảo hán, ai mà ít nhiều chẳng có bệnh này. 

*** 

Bây giờ hãy nói tiếp chuyện Hạ Vương Đậu Kiến Đức, thấy Tuyến Nương trở về, nghĩ rằng công chúa Dũng An con mình đánh bại được cả La Thành, trong lòng vui mừng, kiểm lại binh mã, vừa chết vừa bị thương đến hơn một nửa, đành phải quay về Lạc Thọ, chỉnh đốn lại giáp binh, mới có thể bàn chuyện đánh họ Vũ Văn. Tào Hậu đón Kiến Đức cùng Tuyến Nương, hỏi tới chuyện ra binh vừa rồi, Tuyến Nương thuật lại tỉ mỉ suốt lượt. Kiến Đức nói tiếp: 
- Bại thắng chưa thể bàn luận ngay, nhưng lần bại trận này, là lỗi ở cô khinh địch, nên đến nỗi dẫn đến binh bại. Chỉ tiếc thương Đặng Văn Tín một lòng trung nghĩa, vốn chẳng đáng chết. Nếu sớm biết nghe lời Tào Đán. Văn Tín, thì đâu đến nỗi thua như vậy. 
Tào Hậu hỏi: 
- Hai người nói những gì? 
Tuyến Nương đáp: 
- Khi kéo binh vây thành U Châu của La Nghệ, Tào tướng quân đã mật tâu với phụ hoàng, "Đại quân ở ngoài thành lâu ngày, chỉ sợ quân địch thấy lính tráng mỏi mệt, thừa cơ đêm đến ra khỏi thành cướp trại, một lúc không phòng bị, sợ gặp phải tay không vừa, xin cẩn trọng mới xong". Đặng Văn Tín cũng can ngăn: "Thắng luôn mấy trận, tướng sinh kiêu, lính sinh nhác, thì sợ rằng lại sẽ bại. Nay tướng sĩ, binh lính lâu ngày mỏi mệt, huống nữa La Nghệ vốn rất giỏi dùng binh, dẫu có bị chúng ta vây khốn, nhưng người ngựa trong thành đều cường tráng, quen chiến trận, xin đừng coi những lời này. là lời bàn suông". Nhưng rồi phụ hoàng đều chẳng nghe. 


Tào Hậu nói: 
- Bệ hạ thường có thể lấy yếu chống mạnh, mà vẫn giành phần thắng. Nhưng lại hay nổi thói kiêu căng, để đến nỗi ba quân tổn thất, nếu chẳng lấy chuyện này làm điều, thì chúng thiếp biết gửi thân phận vào đâu! 
Kiến Đức nói: 
- Hoàng hậu nói đúng lắm! Từ nay trở đi cô sẽ cẩn thận. 
Tào Hậu thưa: 
- Cứ như ý thiếp, bệ hạ nên hạ chiếu nhận lỗi lầm của mình, tự bỏ tôn hiệu, giảm thức ăn, mặc áo trắng, cởi ngựa trắng, làm lễ tang cho tướng sĩ, binh lính đã chết, chu cấp cho gia quyến của họ, thưởng công định tội rõ ràng, yên lòng kẻ dưới, nuôi dưỡng được nhuệ khí, để còn nghĩ chuyện đánh họ Vũ Văn. Có như thế, thì lo gì không thắng. 
Hạ Vương nghe theo. Ngay ngày hôm sau, thưởng công phạt tội, thân đứng ra tế lễ những kẻ chết vì nhà vua, thăm hỏi chu cấp cho gia quyến. Xa gần biết chuyện, không ai là không thán phục. 
Lại nghe báo Lăng Kính đã về, Hạ Vương vui mừng mà rằng: 
- Tử Tiêu về rồi! Công việc của cô thế nào cũng chu tất! 
Rồi gọi ngay Lăng Kính vào ngự điện, vừa an ủi vừa hỏi: 
- Quan tế tửu đi đường xa vất vả. Không biết việc chiêu hiền đến đâu rồi? 
Lăng Kính thưa: 
- Thần vâng theo nghiêm lệnh của chúa công, tìm gặp Dương Nghĩa Thần, nói rõ ý chúa công. Nghĩa Thần lúc đầu hai ba lần từ chối. Thần mới đem chuyện Tùy Nhị Đế bị giết thảm khốc ra sao, tướng quân nên tìm cách báo thù mới phải. Nghĩa Thần liền khẳng khái bằng lòng. Nhưng vẫn xin chúa công nghe cho ba điều. 
Hạ Vương hỏi. 
- Là những điều gì? 
Lăng Kính kể lại, Hạ Vương đáp: 
- Nếu đã theo cô đi chinh phạt, thì thế nào cũng là quan thần của cô. Chỉ cần hết lòng giúp cô diệt giặc, sao lại không nghe. 
Lăng Kính thưa: 
- Lúc thần từ biệt Nghĩa Thần, có dặn thần thêm mấy câu bí quyết để tìm thêm cho chúa công một người giúp đỡ, chắc chắn là sẽ diệt được Hóa Cập. 
Lăng Kính bèn ghé tai Kiến Đức, nói nhỏ mấy câu, Hạ Vương than rằng: 
- Dẫu có Tôn Vũ, Ngô Khởi thời Chiến Quốc, thì cũng đến thế là cùng. 
Ngày hôm sau thiết triều, quán thần lạy chào xong xuôi, Hạ Vương truyền cho Lưu Hắc Thát: 
- Hôm trước Tần Vương nhà Đường có thư lại, xin vay hai nghìn thạch lương, cung cấp cho quân dự bị, sau khi đánh Vũ Văn về, sẽ trả cả gốc lẫn lãi. Nay cô cùng với Tần Vương hợp binh đi diệt giặc, hai nước cũng như anh em, không thể không cho vay. Người hãy cùng Lăng Kính xếp sẵn hai trăm xe lớn, đổ đầy lương thực, dẫn theo binh lính hộ tống, đem giao cho Tần Vương, không được để lỡ việc. 
Hai người lĩnh mệnh lên đường. Lăng Kính dặn dò quân sĩ: 
- Trên đường giặc cướp rất nhiều, các ngươi nên giả trang làm dân phu, che đậy cho kỹ lương thực. Quân trang, khí giới mang theo, phải luôn đầy đủ, ai không tuân ta sẽ trị tội. 
Thế là cả đoàn hộ tống lên đường, chẳng mấy ngày, đã tới địa giới Tào Châu, Bối Châu. 

*** 

Hãy nói chuyện ở Thái Hàng Sơn có một đầu lĩnh tên là Phạm Nguyện, tự xưng là Phi Hổ Đại vương, dưới trướng có khoảng ba nghìn lâu la, đều là những tên dũng cảm, chọn ngay vùng giữa Bối Châu, Tào Châu này dựa vào sườn núi mà lập trại, chuyên cướp đoạt của bọn khách buôn. Gần đây đang lo lương thảo không đủ, bỗng nghe lâu la về báo, phía bắc kéo xuống hai trăm xe tải lương của Hạ Vương, đem giúp quân nhà Đường, không có lính hộ tống, cướp rất dễ. Phạm Nguyện vỗ tay mừng rỡ. 
- Đến đúng lúc lắm, ta đang thiếu ăn đây! 
Liền dẫn hai nghìn lâu la xuống núi, lúc này mới chập choạng tối. Bọn tiền thám quay lại báo: 
- Xe lương dồn thành vòng để làm thành trại, bọn dân phu quần áo lam lũ, chẳng thấy hiệu lệnh, canh gác gì cả, tất cả đều như ngủ cả rồi. 
Phạm Nguyện cả mừng, kéo thẳng đến chỗ xa doanh, thì thấy bốn bề yên lặng, chẳng một tiếng người. Bỗng một tiếng pháo nổ, bọn dân phu đều chồm cả dậy, bỏ chạy toán loạn, lâu la vội lại cướp xe, thì thấy toàn xe không, chẳng hề một hạt lương thực nào cả, Phạm Nguyện lúc này mới biết trúng kế, quất ngựa bỏ chạy, thì nghe tiếng pháo rầm trời, binh lính nhà Hạ từng từng lớp lớp bốn năm nghìn người kéo ra, vây lấy Phạm Nguyện vào giữa. Rồi đuốc đốt sáng trưng như ban ngày, phía quân Hạ tiến tới trước mặt một viên tướng, mũ kim khôi lấp lánh, tay cầm búa lớn, thét như sấm: 
- Thằng giặc cỏ Phạm Nguyện kia, mau mau xuống ngựa đầu hàng đi! 
Phạm Nguyện hỏi: 
- Nhà ngươi là ai? 
Lưu Hắc Thát đáp: 
- Ta là đại tướng nhà Hạ Lưu Hắc Thát? 
Phạm Nguyện nói: 
- Ta nghĩ là ai, thì ra Hắc Thát sao? Ta nghĩ ngươi trước kia cũng đã từng làm lục lâm ở đoạn đường này, nay sao lại vì nhà Hạ mà đem hết sức khó nhọc. Hãy nghĩ lại dạo còn làm lục lâm, ai là kẻ không đón đường đòi tiền mãi lộ. Hãy mau thả chúng ta ra, mai kia có bị người khác đánh bại, quay về nghề cũ, thì cũng còn chỗ thể tình. 
Hắc Thát nổi giận quát: 
- Thằng giặc cỏ lại dám bôi nhọ ta sao? 
Rồi giương cao búa xông vào, Phạm Nguyện vội đỡ. Đánh khoảng hơn ba mươi hiệp, bất phân thắng bại..Bỗng thấy trong trận quân Hạ, một người cưỡi ngựa tiến ra gọi lớn: 
- Hai vị tướng quân, xin hãy dừng ngựa, ta có lời giảng hòa hai vị có được không? 
Phạm Nguyện hỏi: 
- Lại còn ai nữa đây? 
Lăng Kính đáp: 
- Ta là quan tế tửu Lăng Kính nhà Hạ. 
Phạm Nguyện lại hỏi: 
- Tế tửu nói những gì nào? 
Lăng Kính đáp: 
- Nhà ngươi hiện nay như hổ bị nhốt trong hầm rồi, dẫu có cánh nữa, cũng chẳng bay nổi. Sao không bỏ tà quy chính, theo hàng Hạ Vương, cùng đi diệt Hóa Cập, báo thù cho Tùy Dượng Đế, quan sẽ được phong cực phẩm, thụ hưởng tước lộc, lại không hơn ở đây làm giặc cướp hay sao? 
Phạm Nguyện đáp: 
- Tế tửu nói tuy đúng, nhưng chỉ sợ Hạ Vương có dung cho không? 
- Hạ Vương lâu nay vẫn nổi tiếng chiêu hiền nạp sĩ, chẳng hề nhớ oán thù cũ, có gì mà lại không dung nổi. 
Phạm Nguyện nghe thế cả mừng, liền vứt giáo xuống ngựa đầu hàng. Hai nghìn lâu la cũng cởi giáp lạy theo. Phạm Nguyện mời hai người lên sơn trại nghỉ ngơi, rồi hãy dẫn binh đi tiếp. Lăng Kính đáp: 
- Lưu tướng quân cùng túc hạ hãy cứ ở sơn trại nghĩ ngơi, ta còn phải đi vùng hồ Lôi Hạ, mời Lương Thái bộc tới rồi cùng đi một thể. 
Nói rồi từ biệt hai người, dẫn tay chân lên đường. 

*** 

Lại nói Dương Nghĩa Thần, từ lúc Lăng Kính đi khỏi, có đêm xem thiên văn, nhìn về góc tây bắc, thấy chòm thái ất lạc hẳn vào góc, mà ánh sáng mờ tối như muốn tắt, trong lòng vui mừng, nói với Dương Phương: 
- Hóa Cập chết đến nơi rồi, ngươi hãy mau thu xếp hành trang khí giới, chờ Lăng Đại phu tới, cùng ta lên đường, giết lũ phản thần này, báo thù cho tiên đế. 
Ngày hôm sau, Lăng Kính vừa đến, Nghĩa Thần mời vào nhà, Lăng Kính nói ngay: 
- Vâng mệnh Hạ Vương, riêng tới mời lão tướng. Ba điều mà thái bộc cần, Hạ Vương hoàn toàn ưng thuận, Phạm Nguyện cũng đã trúng tuyệt kế của thái bộc mà về hàng, hiện đang chờ ở ngay sơn trại. 
Nghĩa Thần vui mừng, bày tiệc rượu khoản đãi, rồi dặn dò gia nhân, công việc nông trang. Nghĩa Thần hẹn đi trong vòng một tháng lại sẽ trở về, rồi cùng Lăng Kính lên đường, rời Lôi Hạ, đến 

Thái Hàng Sơn đã thấy Hắc Thát, Phạm Nguyện, người ngựa xuống đón, mời lên sơn trại. Phạm Nguyện đã được nghe kể Nghĩa Thần bày cách chiêu hàng mình như thế nào, nên vội bái lạy Nghĩa Thần mà rằng: 
- Nguyện này vốn là kẻ lỗ mãng, may được lão tướng quân nhìn đến, chỉ xin được cầm roi theo hầu, đem hết sức khuyển mã, để tận tình đền đáp lão tướng quân. 
Nghĩa Thần đáp: 
- Túc hạ đã quyết cải tà quy chính, thì quả là không phụ lòng mong ngóng của ta. Nhưng còn những đàn bà con gái trên sơn trại bị bắt về, hãy nên cấp tiền đi đường cho họ, rồi thả cho về nhà. Mai kia công thành danh toại, cái gì mà chẳng có. 

Phạm Nguyện nghe theo, thả cho tất cả đàn bà con gái về, đốt cả sơn trại, cùng một người với sáu bảy nghìn lâu la kẻo nhau về Lạc Thọ. Lăng Kính mời Nghĩa Thân vào quán dịch, rồi cùng Hắc Thái, Phạm Nguyện vào trình Hạ Vương. Phạm Nguyện đem bảo vật làm lễ ra mất Hạ Vương. Hạ Vương phán: 
- Khanh đã bằng lòng tới đây để giúp cô, lo việc quốc gia, thế đã là vật quý của nước nhà rồi. Cô còn lấy những vàng ngọc vô dụng ấy làm gì. Khanh hãy cứ giữ lấy, về sau mà thưởng cho tướng sĩ. 
Phạm Nguyện càng kính phục, Hạ Vương bây giờ mới hỏi Lăng Kính: 
- Tế tửu có mời được Nghĩa Thần không? 
Lăng Kính thưa: 
- Dương tướng quân hiện đang ở ngoài trạm dịch. Theo như thần nghĩ, người này trước kia đã từng đối địch với chúa công, chẳng ai chịu nhường ai. Nay nếu chúa công không thân hành ra đón, chào hỏi thật trịnh trọng, thì sợ ra người này vẫn giữ vẻ khách khí, không chịu đem hết tài năng ra để giúp chúa công chăng? 
Hạ Vương phán: 
- Khanh bàn luận thật sáng suốt. 
Sai sắp sẵn xe rồng, dẫn trăm quan ra tận ngoài thành nghênh tiếp vào đến trạm dịch, Nghĩa Thần lạy chào. Hạ Vương thấy Nghĩa Thần mày thanh tóc bạc trắng, dáng tiên phong đạo cốt, thật đáng bậc định quốc an dân, phò nguy cứu khốn, liền vội vái trả một nửa. 
Nghĩa Thần thưa: 
- Làm tôi của một nước đã mất, thật chịu ơn nặng của đại vương mời đến, đâu dám nhận lễ của đại vương. 
Hạ Vương phán: 
- Cô vẫn kính trọng thái bộc bởi lẽ trung thần nghĩa sĩ, nên cúi mình mời thái bộc tới để cùng diệt trừ lũ phản nghịch vậy. 
Nghĩa Thần đáp: 
- Lũ nghịch Hóa Cập, chỉ hận không thể trả ngay cừu thù để tạ đất trời. Những điều bàn bạc với tế tửu đều đã xong xuôi, chỉ xin đại vương, sau khi đã diệt xong Hóa Cập, lại cho vong thần này trở về vườn cũ. 
Hạ Vương phán: 
- Cô đã nói là phải giữ chữ tín với thiên hạ, nỡ lòng nào mà nuốt lời cho được. 

Rồi cùng vào thành, mời Nghĩa Thần vào nhà công quán nghỉ ngơi, sai bày yến tiệc, lấy lễ chủ khách ra đãi. Hai bên luận bàn, mãi tới khi mặt trời sắp lặn về tây, Hạ Vương mới trở về cung. Chọn ngày tốt để xuất sư, phong Lưu Hắc Thát làm đại tướng quân, đeo ấn nguyên soái, Phạm Nguyện làm tiên phong, Cao Nhã Hiền lãnh tiền quân, Tôn An Tổ, Tề Thiện Hằng lãnh hậu quân, Tào Đán làm tham quân nạp ngôn, Bùi Cử, Tống Chính Bản làm vận lương nạp ngôn, Dũng An công chúa làm giám quân chánh sứ. Lăng Kính cùng Khổng Đức Thiệu ở lại giữ Lạc Thọ, giúp Tào Hậu giám quốc, Nghĩa Thần cùng ngồi trong trướng với Hạ Vương, trù mưu tính kế. Cắt mười vạn tinh binh, rầm rộ nhằm thẳng Ngụy Huyện. 

Lúc này Tần Vương Lý Thế Dân, cùng với Hoài An Vương Thần Thông, đã dẫn binh tới Ngụy Huyện từ trước. Lưu Văn Tĩnh xem thư từ các nơi gửi đến xong, tâu với Tần Vương: 
- Ngụy Công Lý Mật sẽ kéo quân tới, còn Vương Thế Sung chưa dám nghĩ đến việc bắc phạt. Hạ chủ Kiến Đức khuyên đại vương chẳng phải khó nhọc, chỉ cần sai một hai phó tướng, dẫn binh lính cùng tới là đủ. 
Tần Vương đáp: 
- Điều này vừa hợp ý ta. Hôm qua, phụ hoàng vừa có chỉ tới, nói rõ Khả hãn Lưu Vũ Chu ở Định Dương kéo binh đánh Tĩnh Châu, Vương Thế Sung ở Lạc Dương xâm phạm Doãn Châu, Lương Tiêu Tiên nhòm ngó Hiệp Châu, cả ba cánh đều rất ngang ngạnh, đòi ta phải về lo việc đối phó. Khanh hãy cùng Hoài An Vương Lý Tĩnh, cùng nhau lo việc tiễu trừ Hóa Cập. 

Tần Vương liền đem ấn kiếm giao cho Thần Thông, còn mình thì theo đường tắt về Trường An. 

Vốn là Lý Tĩnh từ ngày đem theo Trương Xuất Trần về vùng Thái Nguyên, tìm đến Trương Trọng Kiên, Từ Hồng Khách, gặp Lưu Văn Tĩnh, đúng lúc Tần Vương mở Chiêu Hiền Quán. Văn Tĩnh dẫn cả ba người đến gặp Tần Vương, Tần Vương thấy phong độ hiên ngang, biết ngay là hạng khác thường, lấy lễ mời về. Hồng Khách thấy Tần Vương mặt rồng mắt phượng, biết ngay là bậc chân chúa, lại thấy Tần Vương nắm tay Trọng Kiên, khiến hai tay Trọng Kiên đau không chịu nổi, lui về một góc phòng. Tần Vương lại đưa mắt liếc nhìn, Trọng Kiên phải thưa: 
- Đại vương làm gì mà chiếm cứ tất cả như vậy, hãy nhường cho kẻ khác một góc chứ? 
Tần Vương mỉm cười buông tay, nhân chuyện này, Hồng Khách nói với Trọng Kiên: 
- Việc lớn trong thiên hạ đã xếp đặt xong rồi, hiền huynh còn cố tìm kiếm làm gì nữa? 

Bọn Trọng Kiên từ biệt Tần Vương, đem cả gia tài cho Trương Xuất Trần, rồi cùng Hồng Khách bỏ đi chu du hải ngoại, tận nước Phù Dư, lập nên một sự nghiệp khác. Lý Tĩnh lại dưới trướng Tần vương, tâm đầu ý hợp, nên mới giao cho việc cùng Hạ Vương diệt Vũ Văn, nắm quyền quân cơ đại sự với Hoài An Vương Thần Thông. 

*** 

Lại nói chuyện Vũ Văn Hóa Cập, được báo có ba cánh quân kéo đến, thế mạnh khôn đương, liền đem tất cả châu báu vàng lụa trong kho, chiêu nạp bọn cướp biển, để mong dùng chúng đánh lại chư hầu. 

Từ Mậu Công biết rõ Hóa Cập binh ít, tướng đơn, liền mật sai tướng tâm phúc Vương Bộ, dẫn ba nghìn người ngựa, giấu theo hơn ba trăm cân thuốc độc, giả danh Ân Đại Dụng vào thành hàng Hóa Cập. Hóa Cập cả mừng, phong ngay làm Điện tiền độ ngu hầu. 

Hoài An Vương Lý Thần Thông, được Tần Vương giao cho ấn kiếm, kéo quân đánh Hóa Cập, cách thành khoảng bốn mươi dặm dừng quân hạ trại. Hóa Cập từ trước đã rõ Tần Vương phải quay về cứu mặt tây bắc của nhà Đường, bụng khinh thường bọn Thần Thông vô mưu, dẫn ngay tướng sĩ ra ngoài thành nghênh địch. Nào ngờ Lý Tĩnh túc trí đa mưu, ngầm đem tinh binh mai phục chu đáo, chờ cho quân Hóa Cập lập trại, bày thành thế trận xong xuôi, sai Lưu Hoằng Cơ từ góc trận xông ra đánh Hóa Cập. 

Thủ hạ của Hóa Cập là đại tướng Đỗ Vinh, Mã Hoa, cả hai vác họa kích, phi ngựa ra ngăn lại, hai cây họa kích đều nhằm đầu ngựa Hoằng Cơ mà đánh bừa, bị Hoằng Cơ chém một đao bên phải, một đao bên trái, kích đều gãy đôi. Đỗ Vinh, Mã Hoa đành chỉ cầm cán kích quay ngựa chạy, Hoằng Cơ cũng phi ngựa về trận mình. Đỗ Vinh giật một cây thương trong tay lính, Lý Tĩnh thấy thế, đặt một mũi tên, nhằm giữa cổ Đỗ Vinh mà bắn, dây vừa buông, Đỗ Vinh đã lăn ngay khỏi ngựa. Quân Vũ Văn đại bại, may được con cả Thừa Cơ đem quân cứu viện. 

Hóa Cập bỏ Ngụy Huyện, đương đêm cùng Tiêu Hậu trốn về Liêu Thành. Quân nhà Đường dò biết, Lý Tĩnh nói: 
- Quân giặc tuy thua chạy về Liêu Thành nhưng thế vẫn còn lớn, một lúc chưa thể đánh ngay. Ý Lý Tĩnh này muốn xem động tĩnh ra sao, dò thật thực hư, tìm kế lạ rồi hãy tiến công. 
Thần Thông đáp: 
- Đúng như ý ta vậy? 
Rồi cả hai dẫn vài tùy tướng cưỡi ngựa, đang đêm ra ngoài doanh trại tới hai mươi dặm, thả ngựa trên gò cao, ngửa mặt nhìn mây gió. Lý Tĩnh nói: 
- Hóa Cập là phường phản nghịch, sắp mất nước, diệt thân nay mai. 
Các tướng thưa: 
- Thế giặc còn mạnh lắm, sao đã chịu thua. 
Lý Tĩnh đáp: 
- Khí sắc trên Liêu Thành trông như đã tuyệt rồi, làm sao Hóa Cập không chết cho được. Nhưng trông khí sắc của quân doanh cả nhà Đường lẫn nhà Ngụy cũng không có điềm thắng trận, chẳng hiểu thằng giặc này sẽ chết về tay ai đây? 
Nói chưa dứt lời, một đám mây đầy sát khí, xông vào giữa phận sao Ngưu, sao Đẩu, như sắp che kín cả bầu trời, nhưng rồi gió từ phương Nam tới, thổi mây như khói, như lửa của một màu. Lý Tĩnh ngửa mặt mà than: 
- Thì ra đánh thắng tụi giặc này lại là binh tướng của phương Bắc vậy? 
Trời đã về tối hẳn, tiếng quạ kêu rát họng, kéo nhau từng đàn về tổ. Lý Tĩnh lên tiếng bảo mọi người. 
- Ta đã nghĩ được diệu kế rồi đây? 
Rồi cả bọn lên ngựa trở về quân doanh, Hoài An Vương mới hỏi Lý Tĩnh : 
- Diệu kế ra sao? 
Lý Tĩnh ghé tai Hoài An Vương nói nhỏ mấy câu, Thần Thông gật đầu khen hay, liền ngầm sai tướng Khuất Đột Thông, chọn lấy năm trăm lính giỏi săn bắn, đem theo khí giới, lưới võng, lảng vảng ngoài thành, xem có chim nào từ thành bay ra, bắt cho kỳ hết, được con sống, tính con mà thưởng. Khuất Đột Thông theo lệnh mà làm. 

*** 

Lại nói Hạ Vương bàn chuyện diệt Vũ Văn với Nghĩa Thần, Nghĩa Thần thưa: 
- Mới vào đất giặc, chưa rõ thực hư, hãy sai Phạm Nguyện dẫn ba nghìn người ngựa, đi trước khiêu chiến, xem giặc động tĩnh ra sao, rồi sau mới định kế được thật toàn vẹn. 
Hạ Vương nghe theo, Nghĩa Thần liền sai Phạm Nguyện dẫn binh mà đi. 
- Chỉ cần ngươi thua, không cần ngươi thắng! 

Phạm Nguyện kéo quân tới thẳng Liêu Thành. Hóa Cập sai con trai đầu Vũ Văn Thừa Cơ ra địch, hai bên giao chiến tới hơn năm mươi hiệp, Phạm Nguyện giả thua, quay ngựa chạy khoảng hai mươi dặm, Thừa Cơ cũng không đuổi, hai bên khua chiêng thu quân. Nghĩa Thần cùng lệnh cho Hắc Thát lui quân hai mươi dặm hạ trại. Chỉ riêng có Lý Tĩnh là hiểu rõ kế dụ giặc của Nghĩa Thần, liền đem tất cả quạ yến, tước, tu hú... của Khuất Đột Thông bắt được, kể không biết mấy, lấy những hạt hồ đào, hạt mận, đập ra lấy nhân, bỏ thuốc pháo vào bên trong, dùng dây buộc những thứ đó vào đuôi chim, nhất tề sai lính tráng thả chúng vào thành. Hôm ấy, Thừa Cơ đánh bại Phạm Nguyện, dẫn binh trở về thành, vào trình Hóa Cập rằng binh Kiến Đức không đáng lo, ngày mai sẽ xin lĩnh năm vạn tinh binh, kéo ra quyết chiến một lần nữa, thừa thắng lên bắc bắt sống Kiến Đức, sang Tây phá tan Lý Uyên. Vũ Văn Trí Cập khuyên: 
- Cả ba cánh quân đều rất mạnh, đâu phải chỉ đánh một mặt mà xong, phải chia các tướng ra mà mai phục các cửa, bốn phía tiếp ứng lẫn nhau, thì mới không bị bất ngờ.

Hóa Cập khen phải, rồi sai đại tướng Dương Sĩ Lăm, Trịnh Thiện Quả, Tư Mã Hùng, Ninh Hổ, nhận kế sách, mai phục bốn phía. Thái tử Thừa Cơ làm tiền quán, ngự đệ Trí Cập lãnh trung quân. Hóa Cập tự lãnh hậu quân. Xếp đặt xong xuôi, tất, cả kéo ra khỏi Liêu Thành sáu mươi dặm hạ trại, lấy hiệu pháo làm lệnh ra quân, giữ Ân Khai Dụng, cùng Vũ Văn Thừa chỉ ở lại hộ giá trong thành. Các tướng lĩnh mệnh kéo quân ra khỏi thành, chỉ riêng Hóa Cập là chưa khởi hành, mà vẫn còn ngủ say trong cung với Tiêu Hậu. 

Bỗng nghe báo trong thành khắp nơi phát hỏa, Hóa Cập vội vàng trở dậy tuần sát thì đã thấy khói lửa mù mịt, khắp trời, thì ra đó là diệu kế của Lý Tĩnh, chỉ trong phút chốc, cả thành đỏ rực, từ lâu đài nhà cửa cho đến kho tàng đều bị thiêu cháy. Ân Đại Dụng lại giả danh cứu hỏa, lấy số nước còn lại khoảng ba ngày, sai ngầm bỏ thuốc độc vào tất cả. Hóa Cập thấy quân sĩ lúc đầu mắt hoa đầu váng, sau ra thượng thổ hạ tả, bệnh ùn ùn kéo đến kêu khóc ầm trời đất, cho rằng thiên địa giáng tai ương, mong trừ diệt dòng họ Vũ Văn, ngày đêm kinh hoàng. Quân Hạ Vương dò biết, về báo tường tận cho Kiến Đức. 

Nghĩa Thần biết ngay là mưu kế của Từ Mậu Công nhà Ngụy và Lý Tĩnh nhà Đường, bèn sai ngay Phạm Nguyện dẫn một vạn tinh binh, đóng giả lính họ Vũ Văn, nhưng có làm dấu hiệu riêng, nhân đêm tối lẻn vào đại trại của Trí Cập cách đó hai mươi dặm đợi sáng, lại điều Lưu Hắc Thát, Tào Đán, Vương Tôn lĩnh năm vạn quân đương đầu với Trí Cập, Nghĩa Thần thân dẫn hai vạn quân cướp trại, còn Cao Nhã Hiền, Tôn An Tổ, Tống Chính Bản lãnh bốn vạn binh lính, mai phục dọc đường, để sẵn sàng cứu ứng cho mọi nơi. Lại giữ lại hai vạn quân, giao cho Bùi Cử trông coi doanh trại, hộ giá công chúa Dũng An. Xếp đặt xong xuôi không quên cho quân sĩ ăn thật no, rồi ba phát pháo nổ ran. Hạ Vương dẫn quân kéo thẳng vào Liêu Thành. 

Quân nhà Đường, nhà Ngụy biết rõ việc này, cũng nổ pháo giúp oai, bốn cửa đều vang động. Hóa Cập đốc thúc tướng sĩ, cùng với Ân Đại Dụng ra thành nghênh địch. Hạ Vương nhận ra Hóa Cập, không nói một lời, vác thanh nguyệt yến đao xông tới. Hóa Cập cũng cho ngựa chồm lên đỡ, đánh hơn hai mươi hiệp, nào ngờ Đại Dụng quay lại thành, mở cổng cửa, quân Hạ Vương ùa vào thành như nước. Hóa Cập nhân có Trí Cập giấu quân hai bên đường, nên vừa đánh vừa lui. Lại thấy Nghĩa Thần, sau khi đã cướp được trại quân của Trí Cập, cũng kéo quân tới tiếp ứng, nói với Hạ Vương: 
- Chúa công mau vào thành phủ dụ trăm họ, thu thập lấy quốc bảo, thư tịch, để lão vong thần này chém đầu tên giặc này cho. 
Hạ Vương quay ngựa dẫn binh vào thành, Nghĩa Thần xông vào đánh nhau với Hóa Cập. Được khoảng ba bốn chục hiệp, Dũng An công chúa sợ Nghĩa Thần sơ xuất gì chăng, vội lôi trong túi gấm ra một viên kim đạn, giương cung bắn viên đạn đi, trúng ngay miệng Hóa Cập. Bốn năm nữ binh cầm đoản đao, xông thẳng lên trước ngựa Hóa Cập, cứ chân ngựa mà chém, Nghĩa Thần lại bồi thêm một thương, Hóa Cập ngã lăn xuống ngựa, Nghĩa Thần sai thủ hạ trói lại, nhốt vào xe tù. Lại thấy Tào Đán đã chém được Dương Sĩ Lãm, còn Lưu Hắc Thát cùng với Trí Cập, hai ba tướng nữa vẫn còn ham đánh chưa phân thắng bại. Nghĩa Thần rẽ quân lính ra, cho đẩy xe tù nhốt Hóa Cập lên trước hướng về quân Vũ Văn, gào lớn: 
- Các ngươi đều là binh sĩ nhà Tùy cũ, chỉ vì nghịch tặc ép buộc. 
Gia quyến các ngươi đều ở Quan Trung. Nay nghịch tặc đã bị nhốt trong cũi này rồi, các người muốn được về Quan Trung, thì hãy quy thuận Hạ Vương, sẽ được thăng quan thưởng cấp, nếu như không hàng, sẽ chôn sống kỳ hết! 

Quân Vũ Văn nghe thế, đều vứt binh khí, giáp trụ ra hàng. Trí Cập thấy anh đã bị nhốt trong xe, mình bị vây kín, lòng dạ hoang mang, lại thấy binh sĩ quay giáo, cởi áo hàng cả, liền dẫn mấy tên lính kỵ chạy trốn vào doanh trại của Vũ Văn Thừa Cơ. Không ngờ Tôn An Tổ phi ngựa lại như bay, đâm một thương vào sau lưng, ngã lăn khỏi ngựa. Nghĩa Thần quát binh lính, quàng ngay gông vào cổ Trí Cập, nhốt luôn vào xe tù, rồi kéo cả đại quân lại đánh Vũ Văn Thừa Cơ. 

*** 

Lại nói Hạ Vương dẫn quân vào Liêu Thành, đã thấy cửa thành mở rộng, một viên tướng xách một thủ cấp, đến trước ngựa Hạ Vương mà thưa: 
- Thần là bộ hạ của Ngụy Công, tùy tướng của Tả dực vệ đại tướng quân Từ Mậu Công, Vương Bộ, vâng lệnh chủ tướng giả danh Ân Đại Dụng, lãnh ba ngàn quân, giả làm cướp biển, về hàng Hóa Cập Hóa Cập cho làm Đô Ngu hầu. Hôm qua bỏ thuốc độc xuống các giếng nước, gây bệnh cho quân sĩ, hôm nay mở rộng cửa thành để đón quân của đại vương. Đây là thủ cấp con thứ của Hóa Cập là Vũ Văn Thừa Chỉ, thần xin dâng đại vương, mời đại vương vào điện, thần xin được cáo từ. 
Hạ Vương đáp: 
- Khanh đã có công phá thành, hãy lưu lại vài ngày, đợi có khao thưởng quân sĩ, rồi trở về cũng chưa muộn đâu? 
Vương Bộ thưa: 
- Từ tướng quân hiệu lệnh nghiêm túc, thật không dám ham khao thưởng, sợ lỡ hẹn của tướng quân. 
Nói rồi từ biệt. Hạ Vương than: 
- Vương Bộ thật là bậc trượng phu. Riêng việc này cũng đủ biết Từ Mậu Công làm chủ soái nghiêm minh đến chừng nào! 

Hạ Vương kéo quân vào, mời Tiêu Hậu ra chính điện, Kiến Đức làm lễ triều kiến, lập thần vị Tùy Dượng Đế, dẫn bách quan đều mặc quần áo trắng, làm lễ phát ai. Lúc này Dũng An công chúa cũng dẫn các tướng lục tục kéo vào, đem Hóa Cập, Trí Cập đặt ngay trước điện. Tào Đán xách thủ cấp Dương Sĩ Lãm, Phạm Nguyện xách thủ cấp Vũ Văn Thừa Cơ, Lưu Hắc Thát, Tôn An Tổ giải theo các tướng của Vũ Văn đều vào báo công. Hạ Vương sai quân sĩ đem Hóa Cập, Sĩ Cập trói vào cột, lấy dao mổ bụng để hiến tế Tùy Dượng Đế, lại bắt các tướng Vũ Văn quỳ ngay trước thần vị, ai nguyện hàng đều tha cho, kẻ nào không phục đều giết cả. Bỗng thấy Bùi Cử, được coi giữ đại trại, cho một tướng vào báo: 
- Dương lão tướng có thiếp đưa trình, nên phải sai mạt tướng vào tâu ngay đại vương rõ. 
Hạ Vương giở thiếp ra xem, thấy thiếp viết rằng: 

"Kính trình Hạ Vương: 
Phản thần Hóa Cập đã bị bắt, chí nguyện của thần đã toại, mong Hạ Vương nhớ lại lời hứa buổi đầu, mở lòng nhân đức, cho vong thần này được trở về với vườn ruộng. " 
Mũ treo huyền vũ sớm quay về 
Chẳng mến gì hơn mến núi khe 
Một lá thuyền con trôi ngơ ngác 
Động Đình mây nước gió thu vèo. 

Hạ Vương xem hết, thở dài: 
- Nghĩa Thần đi rồi? Cô mất một cánh tay! 
Lưu Hắc Thát, Tào Đán xin kéo quân đuổi theo, Hạ Vương phán: 
- Cô đã hứa như vậy, nay nếu đuổi theo thì ra bội ước. Thôi thì cô cũng vun đắp thêm danh tiếng cho vị cựu thần trung nghĩa vậy! 
Rồi đem châu báu, báu vật trong cung chia thưởng cho quân sĩ, đem quốc bảo, sổ sách giao cho Dũng An công chúa cất giữ, rồi nhân hỏi Tiêu Hậu: 
- Nay hoàng hậu muốn về đâu? 
Tiêu Hậu thưa: 
- Thiếp nay nước mất, nhà tan, chuyện sống chết, vinh nhục, xin nghe theo lệnh đại vương. 



Hạ Vương cười không nói gì. Dũng An công chúa đứng cạnh, sợ phụ hoàng lại theo vết xe của Hóa Cập, vội vàng trả lời: 
- Nếu như thế, xin để con cùng nương nương đây về Lạc Thọ trước. Một là để mẫu thân đỡ trông ngóng, hai để đại quân dẫu có chậm về ít nhiều cũng không sao. 
Hạ Vương vui mừng bằng lòng: 
- Công chúa bàn đúng lắm! Ngày mai hãy dẫn hai vạn binh mã, cùng với Tào Nạp ngôn về Lạc Thọ trước. 
Tối hôm ấy Tiêu Hậu mời Dũng An công chúa nghỉ lại trong cung. Sáng sớm hôm sau, Tào Đán đã lĩnh binh mã chờ sẵn, Tiêu Hậu thì đã theo Hàn Tuấn Nga, Nhã Nương, La La, Tiểu Hỉ, bốn cung nữ vừa ý nhất, lên kiệu vàng, còn Dũng An công chúa cũng tuyển trong đám cung nữ khoảng hai ba chục nữ binh khỏe mạnh, năm sáu mỹ nhân lanh lợi, rồi lên đường. 
Chính là: 

Bụi mịt mùa ngựa hí vang 
Đoàn quân chiến thắng, rộn ràng khai ca. 

Chỉ một ngày đã về tới Lạc Thọ, tiêu mã vội báo công chúa về triều, Tào Hậu sai Lăng Kính ra ngoài thành đón rước. Lăng Kính để Tiêu Hậu ở ngay quán dịch, Dũng An công chúa cùng Tào Đán vào thành ra mắt Tào Hậu. Công chúa đem quốc bảo, giấy tờ của nhà Tùy trình lên Tào Hậu, lại gọi cả bọn cung nô, mỹ nữ vào bái lạy, Tào Hậu cả mừng. Công chúa lại nói thêm: 
- Tiêu Hậu hiện đang để ở ngoài quán dịch, xin để mẫu thân tùy ý định đoạt. 
Tào Hậu phán: 
- Cái con hồ ly già ấy làm cho nhà Tùy mất cả thiên hạ, đi làm vợ khắp người ta, còn mang về đây làm gì? 
Lăng Kính thưa: 
- Chúa công chẳng bao giờ lại làm như Hóa Cập, cho nên mới đưa về đây Hoàng hậu nên lấy lễ mà tiếp, đợi chúa công về, thần đã có chỗ đưa Tiêu Hậu đi vậy. 
Công chúa nói: 
- Lăng đại phu nói đúng lắm! 
Tào Hậu tiếp: 
- Nếu đã như thế, bày yến tiệc ở trong cung rồi nói rằng ta bị đau chân vẫn chưa khỏi, không thể ra đón, chờ Tiêu Hậu vào cung. 
Lăng Kính nghe xong, liền ra trạm dịch thưa với Tiêu Hậu: 
- Quốc mẫu vẫn định ra nghênh tiếp nương nương, nhưng vì chân đau chưa khỏi, sai thần ra trình rõ, xin loan giá vào cung gặp gỡ. 
Tiêu Hậu lên xe loan, nghĩ lại buổi sinh thời Dượng Đế, trăm quan cung nữ theo hầu, nay trơ trọi mấy người, không ngăn nổi thương tâm. Chẳng mấy chốc, đã vào tới cung. Dũng An công chúa thay mặt mẫu hậu ra cửa đón. Tào Hậu đội mũ phượng, tóc tết hình rồng, áo phượng cổn, diện mạo đường đường, đoan trang chững chạc, chẳng chút yểu điệu thướt tha, cũng chẳng lưng ong thắt đáy, bốn cung nữ theo hầu xuống thềm đón Tiêu Hậu lên điện. 




Tào Hậu mời Tiêu Hậu ngồi lên trên, làm lễ lạy chào, nhưng đời nào Tiêu Hậu dám nhận, chối từ ba bốn bận, rồi lấy lẽ chủ khách mà chào hỏi, tả hữu mời vào chỗ ngồi. Tiêu Hậu cùng Tào Hậu, Dũng An công chúa vào cung Long An, đã thấy tiệc rượu bày đầy vẻ hoa mỹ. Tào Hậu nâng chén, nói với Tiêu Hậu: 
- Ở chốn lều tranh cỏ rậm, khác nhiều so với nơi xe loan lầu ngọc, may được lưu xe phượng, thực là vinh hạnh. 
Tiêu Hậu đáp: 
- Gặp bước thảm thương, đành theo đuổi kẻ khác, được thượng quốc đưa về đây thực đã là may mắn, lại được khoản đãi thế này, thực đã nở nang mày mặt. 
Mọi người ngồi yên chỗ, rượu được ba tuần, Tào Hậu hỏi Tiêu Hậu: 
- Giữa Đông Kinh với Tây Kinh, nơi nào đẹp hơn nơi nào? 
Tiêu Hậu đáp: 
- Tây Kinh thì được cái quy mô to rộng, nhưng cảnh không tao nhã. Đông Kinh không những cung các hoa lệ, mà lại hơn có Tây Uyển, hồ, biển, núi đều có. Mười sáu viện quanh co uốn lượn lầu các liên tiếp, bốn mùa lúc nào phong cảnh cũng đẹp. 
Tào Hậu nói: 
- Được nghe những chuyện nhã nhạc, ca múa, cắt lụa làm hoa, có lẽ vì thế mà nương nương đây có làm nhiều thơ từ tuyệt diệu chăng? 
Tiêu Hậu thưa: 
- Phần lớn đều do các phu nhân ở mười sáu viện làm, thiếp cùng tiên hoàng chẳng qua chỉ bình duyệt vậy thôi. 
Tào Hậu lại phán: 
- Đã từng được nghe kể về khúc "Thanh dạ du" trên ngựa đàn hát, đóng giả Chiêu Quân, Quan âm, dưới nguyệt đài đua ngựa, thật đúng là hàng nghìn năm cũng không có được vị đế vương nào được vui chơi sung sướng đến thế. 
Hàn Tuấn Nga đứng ở phía sau đỡ lời thưa: 
- Đêm ấy nhân nương nương thích ý, tiên hoàng sai chọn ngựa đưa vào cung rất nhiều, làm một cuộc du ngoạn đê trăng, thật là lần vui chơi ít có. 
Tào Hậu lại hỏi: 
- Người này là ai? 
Tiêu Hậu đáp: 
- Người này là Hàn Tuấn Nga, người này là Nhã Nương, nguyên đã từng được ban hiệu mỹ nhân, còn đây là La La, Tiểu Hỉ, đều theo hầu từ thuở nhỏ. 
Tào Hậu hỏi Tuấn Nga: 
- Các người dạo ấy có bao nhiêu mỹ nhân? 
Tuấn Nga đáp: 
- Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi, Tiết Dã Nhi, Hạnh Nương, Thỏa Nương, với tiện thiếp cùng Nhã Nương đây, về sau thêm Giáng Tiên, cùng Nguyệt Tân. 
Tào Hậu lại hỏi: 
- Hạnh Nương vì việc đoán chữ mà bị giết chết, Chu, Viên vì mắng giặc mà quên thân, còn những người khác? 
Nhã Nương thưa: 
- Thỏa Nương thì bị Vũ Văn Trí Cập bức bách, nhảy xuống hồ mà chết. 
Tào Hậu cười: 
- Người này cùng với Chu, Viên, có lẽ quá ngu si chăng. Sống ở trên đời, như cỏ chỉ có một mùa, sao không như hai người, cứ theo nương nương đây, mặc sa vào đâu cũng được, miễn là sung sướng, việc gì khổ sở đến quên thân như thế? 
Tiêu Hậu vẫn nghĩ rằng Tào Hậu cùng địa vị với mình nên không chú ý. Dũng An công chúa mới cất tiếng hỏi: 
- Còn có một mỹ nhân biết múa kiếm thì đi đâu? 
Tuấn Nga thưa: 
- Đó là Tiết Dã Nhi. Dã Nhi cùng năm vị phu nhân, thêm cả Triệu Vương, đã bỏ trốn trước một ngày, vẫn không biết là theo hướng nào. 
Tào Hậu gật đầu: 
- Năm vị phu nhân này dẫn theo Triệu Vương, đúng là những người hiểu biết vậy. 
Lại hỏi Tiêu Hậu: 
-- Thuở tiên đế còn trong ngự uyển, nghe nói tuy cùng phu nhân mười sáu viện rất yêu thương, nhưng đêm đến bao giờ cũng về với chính cung hoàng hậu phải không? Nếu đúng thế thì thật là phu phụ gắn bó keo sơn vậy! 
Tiêu Hậu đáp: 
- Trong một tháng, bao giờ cũng có khoảng bốn năm đêm ở lại trong các viện. 
Tào Hậu lại hỏi: 
- Nương nương quả là đã lấy sợi gấm mà buộc chân tiên đế vậy, ép tiên đế phải đem Ngô Giáng Tiên đày ra Nguyệt Quan, Viên Bảo Nhi vào Mê Lâu, chuyện này có không? 
Tiêu Hậu trong lòng thầm nghĩ: "Đây là những chuyện trong cung cấm ngày xưa, làm sao mà mãi tận đây cũng biết rõ ràng đến thế. Chi bằng cứ chối phắt đi là hơn cả". Rồi đáp: 
- Thiếp đối đãi với cung nữ rất rộng rãi, làm gì có những chuyện đó. 



Tào Hậu cười: 
- Hiện có người làm chứng, hãy để ta gọi ra, xem đúng hay sai nào. 
Rồi sai cung nữ vào gọi, lát sau, một cung nữ khoảng mười lăm mười sáu lạy chào Tiêu Hậu, Tiêu Hậu nhìn kỹ, thì ra là Thanh Cầm, cung nữ của Viên Tử Yên, vội gọi ngay lại gần mà hỏi: 
- Ta đã sai ngươi theo hầu Viên Tử Yên, sao ngươi lại ở đây? 
Công chúa đỡ lời: 
- Thanh Cầm vốn người phương Nam, một lần Tuyến Nương này đang ruổi ngựa trên đường bắt gặp, biết là cung nữ nhà Tùy, lại thấy lanh lợi, cho nên đem về theo. 
Tào Hậu lại cười chỉ La La hỏi: 
- Chỉ có con bé này là giữ đúng phép tắc của nương nương thôi. Tiên đế định ân ái, nó nhất định từ chối. Tiên đế phải làm thơ ban cho nó, mấy câu thơ tuyệt diệu này, nương nương còn nhớ chăng? 
Tiêu Hậu đáp: 
- Thiếp vẫn nhớ! 
Nhân đó liền đọc: 
Đong đưa đôi mắt sóng lao xao 
Phấn sáp tô nên nét diễm kiều 
Những muốn dẫn khanh vào mộng đẹp 
Tần ngần khanh chối, ý là sao 
Tào Hậu nghe xong liền than: 
- Lời cùng ý đều đẹp, tiên đế rõ thật là giống đa tình vậy? 
Dũng An công chúa nói: 
- Thế còn Ngô Giáng Tiên nữa, bây giờ ở đâu? 
Tuấn Nga thưa: 
- Giáng Tiên nghe tin tiên đế bị nạn, liền cùng Nguyệt Tân thắt cổ tự tử ở trong Nguyệt Quan. 
Dũng An công chúa lại hỏi: 
- Mười sáu vị phu nhân, mới đi được năm vị, còn các vị khác ở đâu cả? 
Nhã Nương thưa: 
- Hoa phu nhân, Tạ phu nhân, Khương phu nhân đều thắt cổ tự tử. Lương phu nhân cùng Tiết phu nhân không chịu theo Hóa Cập nên bị giết chết. Giang phu nhân ở Hòa Minh viện, La phu nhân ở Nghênh Huy viện, Giả phu nhân ở Giáng Dương viện, sau loạn cũng chẳng biết đi đâu. Nay chỉ còn lại Phàn phu nhân ở Tích Chân viện, Dương phu nhân ở Minh Hà viện, Chu phu nhân ở Thần Quang viện, đều hiện ở cung Liêu Thành. 
Tào Hậu cảm khái than: 
- Cả một tòa giang sơn gấm vóc như thế, mà bị mấy con ở này làm hỏng nát cả. Cũng còn may, có kẻ tử tiết, có kẻ quyên sinh, để báo đền tri kỷ, cũng an ủi được phần nào vong linh tiên đế ở dưới dạ đài. 
Lại hỏi Tiêu Hậu: 
- Ba vị phu nhân ở lại Liêu Thành, sao không cùng nương nương đi chuyến này luôn?
Tuấn Nga đỡ lời: 
- Không hiểu vì sao các phu nhân không chịu đi? 
Dũng An công chúa cười đáp: 
- Mỗi người ôm một cây tì bà, cần gì phải một cây đàn ba người hát theo nữa? 
Lúc này Tiêu Hậu bị hai mẹ con Tào Hậu, câu nhanh câu chậm, câu xoa câu chém, khích bác hết lời này sang chuyện khác, chẳng biết chống đỡ thế nào cho được, chỉ đành ngồi trơ mặt, cãi liều vài câu: 
- Hoàng hậu cùng công chúa ở chỗ không thấu hiểu hết. Thiếp đây cũng không phải phường tham sống sợ chết, chỉ bởi đêm ấy, nghịch tặc xông vào cung, thình lình sinh biến lớn, thây chất máu loang đầy đất, tiên đế nằm ngang trên giường đệm, Chu, Viên thì thây dựa vào lan can. Nếu không có thiếp chủ trì, lấy ván trầm hương của mấy giường chạm, đóng tạm làm quan tài, trước tiên là khâm liệm tiên đế, thu dọn tươm tất, nếu không thì làm sao tránh khỏi cảnh vương vãi thối rữa, rồi cũng chẳng thể tưởng cuối cùng ra sao! 
Tào Hậu nói: 
- Đó chính là việc của mẫu hậu triều đình vậy, ta cũng hiểu được chủ ý này của nương nương, không thèm học theo bọn thất phu, thất phụ, chết vùi nơi ngòi rãnh, mà vẫn còn mong giữ được sự tế tự của nhà Tùy, lập người nối nghiệp để nhà Tùy không đến nỗi tuyệt diệt. 
Tiêu Hậu thấy Tào Hậu nói thế, liền thêm. 
- Lời của hoàng hậu, thật là thấu hiểu lòng cho thiếp vậy! 
Tào Hậu lại tiếp: 
- Nghĩ như vậy thì thật đúng quá. Nhưng không hiểu tại sao, khi bọn phản thần đã lập Tần Vương Dương Hạo làm vua, chẳng được bao lâu lại còn đánh thuốc độc cho chết. Lúc bấy giờ, nương nương với phản thần tình sâu ý dậm, sao không nói cho một lời giải cứu, là duyên cớ làm sao? 
Tiêu Hậu đáp: 
- Lúc ấy thì kẻ vị vong này tính mệnh trong tay bọn giặc, dẫu có nói cũng chẳng cứu được ai nào! 
Tào Hậu cười! 
- Ba chữ "vị vong nhân" đáng ra không nên nói. Là "vị vong nhân" của họ Tùy, hay "vị vong nhân" của họ Vũ Văn? (1) 
1 “Vị vong nhân": người chưa chết, người đàn bà thủ tiết với chồng tự xưng. "Bỗng dưng mà lại ra người vị vong” (Cung oán ngâm khúc). Họ Vũ Văn: Họ kép, cũng có lúc gọi Hứa, nhà Hứa, vì được phong Hứa Quốc Công. 
Nói đến đây, Tiêu Hậu chỉ còn cách ôm mặt mà khóc, khiến Tuấn Nga, Nhã Nương cũng không ngăn nổi buồn thổn thức. Giữa lúc không biết nên như thế nào, thì thấy cung nhân vào thưa: 
- Chúa công đã về tới nơi, xin mời hoàng hậu ra nghênh giá. 
Tào Hậu nói với Tiêu Hậu: 
- Vốn muốn giữ nương nương lại cùng trò chuyện, nhưng vì chúa công đã về, mời nương nương tạm nghỉ ở nhà riêng Lăng đại phu, ngày mai xin lại được gặp mặt. 

Lệnh tiễn Tiêu Hậu lên loan, về nhà Lăng Kính. Chưa biết sự việc về sau ra sao, hãy chờ hồi sau phân giải.


Nguồn maxreading.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved