Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

5 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 91,92,93

HỒI 91
Cửa Thu Diên, vua tôi tháo thân,
Trạm Mã Ngôi, anh em nộp mạng.
Từ rằng: 
Xưa phú quý xa hoa cùng cực 
Nay nhà tan, non nước đọa đày 
Bỏ cung viện, bỏ đền đài 
Gót sen đạp sỏi, lỗi này tại ai 
Xưa ơn vua một nhà riêng hưởng 
Nay lòng dân hờn oán căm gan 
Núi băng nắng rọi tiêu tan 
Còn đâu nữa, cả Ngọc Hoàn 
Bây giờ mới hối còn toan nỗi gì? 
Theo điệu “Thiểm tự Chiêu Quân oán" 

Từ xưa vua hiền cùng hoàng hậu mẫu mực, không bao giờ dám cẩu thả trong việc giữ gìn chữ đức, luôn trong khuôn khổ cần kiệm, trên thì hợp mệnh trời, dưới vừa lòng dân, cho nên có thể phòng việc hoạn nạn khi hoạn nạn chưa sinh, chuyển họa thành phúc, bốn biển yên hàn chẳng có điều gì phải lo lắng, muôn dân vì vậy mà cũng được nhờ cậy. Nếu chẳng được thế, bề trên kiêu sa dâm dật, không biết kính trời yêu dân, dùng toàn bọn gian thần ngang ngược, ỷ thế được sủng ái, bọn phi tần cùng họ ngoại tác oai tác quái, bại hoại cả luân thường chỉ để cầu điều lợi cho bản thân, cho họ hàng, chẳng nghĩ gì đến giang sơn, đến nỗi trời thịnh nộ, người cũng oán hờn, can qua khắp chốn, nơi nơi thất thủ, xã tắc nghiêng ngửa. Bọn quyền thần bán nước, quý phi lấy bụng dạ tiểu nhân để khuynh loát thiên tử đều không thoát khỏi chết thảm. Nhưng theo đó là hàng triệu dân chúng lâm vào cảnh dọa đày, chết chóc, thiên tử cũng bôn ba vất vả. Mãi đến lúc này, mới hối hận than tiếc những lỗi lầm xưa, thì còn ích gì nữa.

***
Lại nói Huyền Tông nghe theo lời xui của Dương Quốc Trung, thúc bách Kha Thư Hãn ra quân để đến nỗi toàn quân tan nát, chủ soái tai ương, Đồng Quan rơi vào tay giặc. Các vùng Hà Đông, Hoa âm, Phùng Dực, Thượng Lạc, chủ tướng đều bỏ thành mà chạy. Theo pháp chế nhà Đường, ở các vùng biên trấn, cách ba mươi dặm, lại đặt một đống củi rơm khô, mỗi khi hoàng hôn, phóng hỏa mà đốt, cứ thế mà kéo dài đến kinh đô, để báo tin bình yên, nên gọi là "An bình hỏa". Lúc này, ba ngày liên tiếp, không thấy "An bình hỏa" đốt lên, Huyền Tông vô cùng lo sợ. Bỗng quân mã phi về liên tiếp, báo tin Kha Thư Hãn thua to, đất mất, giặc đang thừa thắng kéo về, thế không thể đương nổi. Huyền Tông kinh hoàng, lập tức triệu quần thần thương nghị. 


Quốc Trung sợ mọi người sẽ oán trách y thúc bách bằng được việc xuất sư liền uốn lưỡi lớn tiếng trước: 



- Kha Thư Hãn đáng ra phải xuất chiến từ lúc giặc chưa phòng giữ, nay chỉ vì quân chậm quá đến nỗi lũ nghịch tặc giảo hoạt đón trước được, thành ra trúng phải kế. 
Đổng bình chương sự Vi Tô Kiến nói: 
- Khinh địch thì bại, hối cũng chẳng kịp. Kế sách hiện nay, hãy mau trưng binh các đạo về tiếp viện. Rồi sai đại tướng dẫn lính mới mộ mà phòng giữ lấy kinh đô. 
Hàn lâm thừa chỉ Tần Quốc Trinh tâu: 
- Phải mau ban chỉ gọi Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật, kéo quân ngay về để chặn quân giặc vào Trường An. 
Quốc Trung trầm ngâm không nói, Huyền Tông hỏi: 
- Ý riêng của tể tướng ra sao? 
Quốc Trung thưa: 
- Binh ít mà chống giặc thì giữ thành là điều rất cần. Nhưng Đồng Quan đã mất, Trường An nguy lắm, lại gặp lúc thế giặc đang mạnh, càng ngày càng tiến gần kinh sư, binh lính bên ngoài chưa thể gọi về ngay, chẳng khác gì "Nước xa không cứu được lửa gần". Cứ như ngụ ý của thần, chi cho bằng xa giá nên tạm lánh vào Tây Thục. Trước tiên là để cho mình rồng yên ổn, không phải ngày đêm hoảng hốt vì gần giặc, sau đó là có thời giờ cho binh tướng ở bên ngoài đến. Đó mới là kế vạn toàn vậy! 
Huyền Tông nghe tâu, chưa kịp phán, thì đã thấy Quốc Trinh xuất ban tâu: 
- Nghịch tặc càn rỡ, thế tuy ngang ngược nhưng sao có thể địch lại sức mạnh của cả thiên triều. Nay bọn Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật, Nhan Chân Khanh, Trương Tuần đều nhiều trận đánh thắng. Gần đây có tin báo thái thú Đông Bình Ngô Vương Kỳ, dấy quân nhiều phen thắng lớn, giết rất nhiều quân giặc. Lại nghe An Lộc Sơn mắng bè đảng Nghiêm Trang, Cao Thượng rằng: "Các ngươi ngày trước khuyên ta phản lại triều đình là kế vạn toàn, nay ta bao lần bị quan quân dồn ép, vậy thì kế vạn toàn ở đâu?" Nghiêm Cao hai thằng tướng phản nghịch không biết đáp sao. Lộc Sơn định giết, tả hữu khuyên mãi mới thôi. Khí thế đã suy, rõ ràng chẳng sớm thì muộn sẽ tuyệt diệt. Nay binh tướng thua ở Đồng Quan, cũng bởi tại nghe lời dị nghị mà thúc bách xuất sư, không phải toàn tội Thư Hãn. Nay nếu quân các nơi kéo về, sẽ có ngày khôi phục được, sao lại chỉ vì một trận thua, đã vội tính chuyện chạy dài. Xa giá đã đi khỏi, kinh sư ai giữ, sao không tính kế an toàn cho xã tắc mà đã vội lo chuyện bỏ chạy vào Thục. Cứ như ngụ ý thì quả là không nên vậy. 


Huyền Tông truyền dụ, các quan hãy trình rõ ý mình, nhưng chẳng ai dám tâu điều gì nữa, nhiều người thác rằng: 
- Chúng thần xin nhường cho các quan ở Trung thư tỉnh bàn luận. 
Huyền Tông buồn bực không vui, bãi chầu về cung. 


Vì sao Dương Quốc Trung lại nghĩ tới việc chạy vào Tây Thục? Nguyên là trước kia y đã từng làm Kiến Nam tiết độ sứ, Tây Thục do đó là đất quen cũ, nghe tin An Lộc Sơn phản loạn, y đã sai bọn tâm phúc, ngầm sắp sẵn mọi thứ ở Tây Thục phòng lúc khốn nguy, nên mới đưa ra kế sách này, chẳng qua cũng chỉ là để lo lấy thân mình trước. 

Chính là: 
Chỉ vì mình sẵn đào ba ngách (1) 
Nên ép nhà vua ruổi như bay. 
1 Thành ngữ: “giảo thỏ, tam quật", con thỏ khôn, phải trữ sẵn ba hang. Xem thêm chú thích hồi 24 và 25. 

Lúc này Quốc Trung thấy trăm quan bàn cãi, Huyền Tông cũng chưa quyết bề nào, thì riêng nghĩ: "Thiên tử muốn thân chinh, rồi lại định nhường ngôi, đều may có chị em nhà mình khuyên giải. Nay mưu kế chạy vào Thục này, cũng phải họ giúp cho một tay thì mới xong đây!". Liền nhân đó đến ngay phủ của Quắc Quốc phu nhân vừa dự yến tiệc trong cung về, cùng Hàn Quốc phu nhân ai về phủ ấy, mỗi kẻ một đoàn, bọn theo hầu mặc dù năm sắc y phục, nghi trượng choáng lộn một vùng chẳng khác nào trăm hoa muôn sắc. Đang lúc xuống kiệu để bước lên sảnh đường, thì thấy Quốc Trung hoảng hốt tới vội vàng nói không thành lời: 
- Nguy lắm rồi! Chạy là hơn cả! Chạy là hơn cả thôi! 
Quắc Quốc phu nhân vội hỏi: 
- Có việc gì mà nguy thế? 
Quốc Trung đáp: 



- Đồng Quan thất thủ, quân giặc sắp tới. Mưu lược bây giờ, chẳng gì bằng là khuyên thánh thượng chạy ngay vào Thục. Chúng ta có nhà cửa trong ấy, dẫu có đi cũng chẳng mất phú quý. Hiện nay bách quan bàn bạc phân vân, thánh thượng chưa quyết ý, cần phải có chị em phu nhân vào ngay nội cung bàn trước với Quý Phi, rồi cùng nhau khuyên giải. Nếu để chậm, giặc tiến rất nhanh, lòng người biến loạn, chúng ta đến tan nát cả! 
Quắc Quốc phu nhân nghe nói hoảng hốt, vứt ngay mọi việc sang bên, sai hẹn với Hàn Quốc phu nhân, quay vào cung, gặp Quý Phi kín đáo đem những lời Quốc Trung vừa nói thuật lại một lượt. Cả ba chị em tìm Huyền Tông, cố sức khuyên nên chạy ngay vào Thục. (1) 
1 Nguyên văn khi nói việc chạy vào Thục của Huyền Tông đều dùng chữ "Hạnh Trục", hạnh: chỉ việc làm của vua. Cũng vì vậy Nguyễn Nhược Thị làm "Hạnh Thục ca" để chỉ việc chạy trốn khỏi Huế, của Hàm Nghi năm 1885, tương đương với từ "xuất bôn” chăng? 


Chị một câu, em một câu, lại khóc lóc, lại nước mắt ngắn dài, không cho Huyền Tông cưỡng lại, đòi thêm Quốc Trung vào để bàn. Quốc Trung hết lời ca tụng giải pháp thần diệu này, còn phòng xa: 
- Nếu bệ hạ nói rõ việc chạy vào Thục, đình thần tất bàn cãi phân vân, để rồi dây dưa lỡ mất cả việc lớn. Nay hãy cứ giả cách xuống chiếu thân ra trận, rồi lặng lẽ lên xe rồng đi Tây Thục vậy! 


Huyền Tông nghe theo, hạ chiếu thân chinh. Lấy Kinh triệu doãn Ngụy Phương Tiến làm Ngự sử đại phu kiêm Tri đồn sứ, Thiếu doãn Thôi Quang Viễn làm Tây Kinh lưu thứ tướng quân. Sai nội quan Biên Lệnh Thành coi sóc bảo vệ cung khuyết. Lại đặc sai Long Vũ tướng quân Trần Nguyên Lễ, tổng quản quân sĩ hộ giá, cấp cho đầy đủ tiền lụa. Chọn ngay hơn một nghìn ngựa, không cho người bên ngoài biết, ngay đêm hôm ấy, Huyền Tông kín đáo ra ngủ ngoài Trúc Bắc Nội. 


Hôm sau, trời mới lờ mờ sáng, riêng cùng chị em Quý Phi, hoàng thái tử, các hoàng tử phi chúa, hoàng tôn, thêm Dương Quốc Trung, Vi Kiến Tố, Ngụy Phương Tiến, Trần Nguyên Lễ các hoạn quan thân cận nhất của nội cung, ra theo đường cửa Thu Diên mà đi. 


Sắp lên đường, Huyền Tông muốn gọi Mai Phi Giang Thái Tần cùng đi. Dương Quý Phi ngăn lại mà rằng: 
- Xe ngựa của bệ hạ nên đi trước, còn những người khác thì từ từ rồi sẽ đi sau! 
Huyền Tông lại định báo cho tất cả vương tôn, vương phi ở kinh cùng đi theo xe rồng. Quốc Trung lại tâu: 
- Nếu như thế, thì dùng dằng biết đến ngày nào, lúc ấy người ngoài đều đã rõ việc cả. Chi bằng đại giá cứ đi trước, sau sẽ ban mật chỉ, cho ai nấy biết mà đi theo. 


Huyền Tông đành lên đường. Mai Phi cùng vương tôn, phi chúa đều không được đi theo. Xe đã lăn bánh, mà vẫn chẳng ai biết, trăm quan vẫn vào triều kiến, thấy cửa vẫn đóng, lính thị triều vẫn ba hàng đứng như cũ. Chờ mãi, cửa cung mới mở, người bên trong ùa ra như chạy loạn, phi tần chẳng khác gì chuột nước lụt, đồn ầm lên là thánh thượng không còn trong cung, không hiểu đi đâu, trong ngoài đều ầm ĩ. Tần Quốc Mô, Quốc Trinh đoán là Huyền Tông đã lên đường vào Thục, liền cưỡi ngựa chạy theo. Còn lại các quan viên, dân chúng cứ thế mà chạy tán loạn khắp bốn phương. Bọn tiểu thị dân kéo tràn vào cung cấm, tìm đến các nhà hoạn quan, trộm cướp đồ đạc của cải, cưỡi lừa ngựa lên tất cả các cung điện sân chầu. Công tử, vương tôn, nhất thời có những người không biết trốn đi đâu, gào khóc khắp các phố các đường. Về sau, Đỗ Công Bộ làm bài trường thiên "Ai vương tôn" (1) để ghi lại quang cảnh diễn ra ngay trước mắt lúc đó: 


Quạ đầu thành lông đầu trắng phơ, 
Đêm bay kêu trên cửa Diên Thu(2) 
Lại moi nhà các quan to 
Các quan chạy trốn giặc Hồ (3) lung tung 
Chín ngựa (4)chết, roi đồng đập gãy 
Bỏ thịt xương cố chạy lấy mình 
Dưới lưng vòng ngọc xanh xanh 
Góc đường ngồi khóc thương tình vương tôn 
Hỏi tên họ, đâu còn dám nhận 
Chỉ xin cho được phận tôi đòi 
Tháng ròng chui rúc chông gai 
Trên mình da thịt chẳng nơi nào lành 
Con cháu chúa (5) thảy rành cao mũi 
Giống rồng xem khác với người thường 
Rồng thất thế, sói đầy đường (6) 
Liệu mà giữ lấy nghìn vàng tấm thân 
Vì vương tôn dừng chân đứng tạm 
Lối lại qua chuyện dám kề cà 
Gió đưa hơi máu đêm qua 
Sớm nay đò cũ lạc đà nghênh ngang (7) 
Tướng phương bắc rặt phường thao lược (8) 
Nay vì đâu nhụt sức kém tài? 
Trộm nghe vua mới lên ngôi (9) 
Đức đà phục được rợ ngoài Hung Nô (10) 
Rạch da mặt, (11) trả thù xin quyết 
Chớ rỉ răng người biết không nên! 
Vương tôn cố sức giữ gìn 
Năm lăng trông lại còn bền khí thiêng. (12) 
1 “Ai vương tôn": thương thay cho vương tôn. Vương Tôn: con cháu dòng dõi vua Đường, chỉ chung quý tộc, tôn thất nhà Đường. 
2 Cửa tây vườn Thượng uyển của cung vua Đường. 
3 Chỉ quân An Lộc Sơn. 
4 Số ngựa đóng vào xe của thiên tử. 
5 Chỉ dòng dõi vua Đường. Nguyên văn mượn tiếng Hán Cao Tổ. 
6 Ý nói Đường Huyền Tông phải chạy ra Tây Thục, Túc Tông phải ở Linh Vũ (nay là huyện Linh Vũ tỉnh Ninh Hạ). Còn An Lộc Sơn thì xưng Hoàng đế ở Lạc Dương. 
7 Ý nói quân An Lộc Sơn dùng lạc đà chở các của báu cướp bóc được ở Trường An, đem về Phạm Dương là sào huyệt của Lộc Sơn. Kinh đô cũ: chỉ Trường An. 
8 Chỉ quân Kha Thư Hãn, tướng nhà Đường, phòng thủ Đồng Quan, nhưng bị thất thủ ngày 9-6-756. 
9 Bây giờ, Đường Huyền Tông ở Thành Đô, thủ phủ Tây Thục, Túc Tông lên ngôi ở Linh Vũ. 
10 Chỉ Hồi Hột, thân thiện với Túc Tông, cùng diệt An Lộc Sơn. 
11 Tục người Hung Nô xưa rạch mặt chảy máu để tỏ lòng trung thành. 
12 Năm lăng của các vua Hán, chỉ năm vua trước Huyền Tông. Ý nói Trường An nhà Đường còn khí thế thịnh vượng, có thể trung hưng. (Bản dịch thơ của NT, các chú thích của bài thơ đều theo "Thơ Đường I", có thay vài chữ).
 

Lại nói Huyền Tông vất vả lên đường vào Thục, xe rồng đi qua Tả Tạng, rất nhiều binh lính vác các bao cỏ khô cùng lương thực đứng chờ. Huyền Tông dừng xe hỏi nguyên cớ. Dương Quốc Trung tâu: 
- Tả Tạng tích trữ lương thảo rất nhiều, trong lúc vội vàng thế này, không thể nào mang đi hết được, chỉ sợ mai kia lọt vào tay quân giặc, ý thần định đốt cho cháy hết, không cho giặc có cái dùng. 
Huyền Tông buồn bã: 
- Giặc tới nếu chẳng kiếm được gì, thì lại đến đi cướp của trăm họ, chi bằng cứ để lại, đỡ khốn khổ cho dân. 
Liền quát quân lính tránh ra, rồi xe rồng lại lên đường. 
Qua khỏi cầu, Quốc Trung sai người đốt cầu, phòng quân giặc đuổi theo. Huyền Tông thấy thế ngậm ngùi: 
- Trăm họ đều đánh giặc, cần cầu để qua lại, sao nỡ tuyệt đường sống như vậy? 


Liền sai Cao Lực Sĩ dẫn binh lính dập tắt ngay cầu đang cháy. Người đời sau cho rằng Huyền Tông trong lúc chạy nạn, còn làm được hai việc tốt đẹp này, nên sau đó vẫn còn được quay về kinh đô Trường An, hưởng trọn tuổi đời. 


Chính là: 
Lời ngay muôn việc dễ xuôi 
Lòng người nhân khiến lòng trời đổi thay 
Không quên dân bước hiểm nguy 
Xui nên vận nước thêm dài thêm yên. 


Huyền Tông đến cung Vọng Hiền ở Hàm Dương, bọn quan lại sở tại đã bỏ trốn từ bao giờ, trời đã gần trưa, mà vẫn không có cơm để dâng ngự. Trăm họ hoặc có người dâng bánh bao thô, hoặc mạch, hoặc đậu. Vương tôn tranh nhau lấy tay bốc mà ăn, chẳng mấy chốc hết nhẵn. Huyền Tông lấy vàng bạc trả ơn rất hậu, lại ban lời khen ngợi. Trăm họ khóc lóc ngắn dài, Huyền Tông cũng chùi nước mắt mãi không thôi.


Trong số bách tính, có một cụ già râu tóc bạc trắng, họ Quách, tên Tòng Cẩn, sụt sùi mà tâu rằng: 
- An Lộc Sơn từ lâu đã ôm lòng hiểm ác, chẳng phải việc một ngày. Lúc ấy có người tới cửa khuyết mà can ngăn, bệ hạ mấy lần định giết. Để đến nỗi Lộc Sơn gây họa cho chín châu, khiến xa giá phải vất vả, dân chúng điêu linh. Từ xưa bậc thánh vương trị nước thì tìm đến kẻ trung lương, hỏi ý kiến bậc tài trí. Còn nhớ khi ngài Tống Cảnh làm tể tướng, mấy lần dâng lời nói ngay thẳng, thiên hạ nhờ đó mà được yên ổn. Nhưng mấy năm gần đây, trăm quan tâu bày đều dè xẻn, bọn nịnh thần tha hồ ngang ngược, để đến nỗi những chuyện ở ngoài cửa khuyết, bệ hạ chẳng được biết cho đúng thực hư. Những kẻ ở nơi quê mùa chúng tôi, từ lâu đã biết có ngày này, nhưng cửu trùng xa xôi kín mít, dẫu có muốn cũng chẳng thể nào mà đến nơi, thấy được mặt rồng để tâu rõ mọi việc cho được. 


Huyền Tông giậm chân than: 
- Cũng bởi trẫm không sáng suốt, giờ hối thì không kịp nữa rồi! 
Bèn dùng lời ngọt ngào mà an ủi. 
Quân sĩ đi theo đói khát, liền đến các thôn làng tìm lương ăn. Đêm hôm ấy, nghỉ lại ở trạm dịch Kim Thành, ngậm ngùi chịu đựng cái không chịu được vậy! 


Ngày hôm sau, xe rồng đến trạm Mã Ngôi (1), tường sĩ vừa mệt vừa đói, đều có khí sắc giận dữ, gặp lúc Hà Nguyên quân sứ Vương Tư Lễ vừa từ Đồng Quan chạy tới. Huyền Tông mới rõ Kha Thư Hãn đã bị bắt, nhân đó phong Tư Lễ làm Hà Tây Lũng hữu tiết độ sứ, sai ngay đi trấn nhậm để chiêu mộ lính tráng, chờ ngày đánh phía đông. 
1 Mã Ngôi dịch: nay thuộc huyện Hưng Bình, tỉnh Sơn Tây. Mã Ngôi vốn là tên người, thời Tấn xây thành ở đây để đánh nhau, sau thành địa danh, xưa gọi là thành Mã Ngôi, cũng gọi trạm Mã Ngôi, nay là trấn Mã Ngôi. (Đường thi tam bách thủ). 


Tư Lễ sắp lên đường, muốn nói riêng với Trần Nguyên Lễ: 
- Dương Quốc Trung vốn là kẻ đã gây loạn khởi hấn, tội ác chất đầy người người đều căm giận. Ta đã từng khuyên tướng quân Kha Thư Hãn dâng biểu xin giết đi, đáng tiếc Thư Hãn chẳng nghe lời. Nay sao tướng quân không giết quách thằng giặc này để hả lòng mọi người. 
Nguyên Lễ đáp: 
- Ý Nguyên Lễ này cũng như vậy! 
Liền bàn với Đông cung nội thị Lý Phụ Quốc, đang định mật tâu với thái tử, gặp lúc Thổ Phồn sai sứ gồm hơn hai mươi người, tới bàn chuyện hòa hảo, rồi theo luôn xe rồng. Quốc Trung cưỡi ngựa đi tới, mọi người kêu ca là không có gì ăn. Quốc Trung chưa kịp đáp lại. 
Nguyên Lễ đã quát lớn: 
- Dương Quốc Trung giao thông với Phiên sứ mưu phản, chúng ta còn để thằng giặc này làm gì? 



Binh sĩ lập tức nhốn nháo, Quốc Trung sợ cuống, vội ruổi ngựa chạy trốn. Binh sĩ đã dồn kín phía trước, dao thương múa loạn một hồi ánh thép loang loáng, đầu Quốc Trung đã lìa ra khỏi cổ, thoáng cái đã xong xuôi. Binh lính lấy thương, cắm đầu Quốc Trung vào, đem đến bên ngoài cửa trạm, rồi giết luôn cả con trai Quốc Trung là Hộ bộ thị lang Dương Huyên. 


Chính là: 
Dẫu núi băng kia cao vạn trượng 
Nắng cho một buổi ắt tan ngay. 


Quốc Trung mới bị giết xong, xe của Hàn Quốc phu nhân cũng vừa tới, quân sĩ ùa ngay trước xe, lôi Hàn Quốc phu nhân ra chém chết. Quắc Quốc phu nhân cùng với con là Bùi Huy, thêm vợ, con nhỏ của Quốc Trung bỏ chạy sang Trần Thương, bị huyện lệnh Tiết Cảnh Tiên dẫn nha lại cùng dân chúng đuổi theo bắt được, đều bị giết chết. 


Chính là: 
Xưa bôi nhàn nhạt nét ngài 
Bây giờ máu tắm láng lai cổ ngà. 


Huyền Tông nghe tin Quốc Trung bị giết bởi binh lính, vội ra ngay cửa trạm dịch, dùng lời ôn tồn phủ dụ ba quân, khuyên trở về cơ ngũ. Binh lính vẫn ồn ào không chịu tan, cứ vây kín lấy trạm dịch. 


Huyền Tông liền hỏi: 
- Các ngươi sao vẫn không chịu giải tán? 
Quân lính hò hét: 
- Phản tặc tuy đã giết, nhưng gốc rễ vẫn còn, sao dám giải tán cho được! 
Nguyên Lễ thưa : 
- Ý của binh lính. Quốc Trung tuy đã giết, nhưng Quý Phi cũng không đáng được hầu bệ hạ, xin thánh thượng định đoạt. 
Huyền Tông kinh hồn thất sắc: 
- Quý Phi ở trong thâm cung, với việc Quốc Trung phản nghịch thì có can hệ gì? 
Cao Lực Sĩ tâu: 
- Quý Phi dẫu thực vô tội, nhưng quân sĩ đã giết Quốc Trung, mà Quý Phi vẫn được ngay cạnh bệ hạ thì làm sao họ yên tâm. Xin bệ hạ hãy nghĩ kỹ. Quân sĩ mà yên thì mình rồng mới có thể vạn toàn. 
Huyền Tông yên lặng gật đầu, quay về quán dịch nhưng không nỡ vào hành cung, chỉ đến cổng nhỏ, dựa vào vương trượng mà cúi đầu đứng hồi lâu. Kinh triệu tư lục Vi Ngạc, con của Vi Kiến Tố, lúc này đứng hầu một bên, quỳ xuống mà tâu rằng: 
- Binh lính đã nổi giận thì khó mà đụng vào lắm, chuyện an nguy chỉ trong khoảnh khắc, cúi xin bệ hạ hãy nén lòng mà cắt ân đoạn ái, để đổi lấy sự an ninh cho quốc gia. 
Huyền Tông lần từng bước vào hành cung, trông thấy Quý Phi, một tiếng cũng không thốt nổi, chỉ ôm lấy Quý Phi mà khóc. Bên ngoài tiếng hò hét càng huyên náo hơn nhiều. Cao Lực Sĩ vội tâu: 
- Việc phải nhanh chóng quyết định mới yên! 
Huyền Tông dắt Quý Phi ra cửa phía bắc của trạm dịch, khóc rống: 
- Quý Phi! Trẫm cùng khanh vĩnh quyết từ nay! 
Quý Phi nghẹn ngào, nức nở thưa: 
- Nguyện xin bệ hạ hãy giữ gìn, thiếp mang tội đã nhiều, chết cũng chẳng ân hận. Chỉ xin được chết trước Phật đường! 
Huyền Tông khóc: 
- Nhờ đao kiếm của Phật pháp, để mai kia Quý Phi còn đường tái sinh dưới âm phủ! 
Rồi quay lại truyền Cao Lực Sĩ: 
- Khanh hãy dẫn tới cửa Phật mà xử cho cẩn thận? 
Nói xong, sụt sùi mà quay vào. 
Quý Phi vào trước Phật đường, lễ bái xong, Cao Lực Sĩ dâng giải khăn lụa, giục phải tự thắt cổ mà chết dưới một cây cổ thụ ngay trước Phật đường. Lúc này, Quý Phi mới ba mươi tám tuổi, là tháng sáu, năm thứ mười lăm đời Thiên Bảo. Than ôi! Thật như những câu sau đây trong bài "Trường hận ca" của Bạch Lạc Thiên: 


Chín lầu thành khuyết bụi tung 
Nghìn xe muôn ngựa qua vùng tây nam 
Đi lại đứng hơn năm dặm đất 
Cờ thúy hoa (1)bóng phát lung lay 
Sáu quân dùng dắng làm rầy 
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi! (2) 


Người đời sau ngâm vịnh về "Mã Ngôi dịch" rất nhiều, duy chỉ có bài thơ sau đây của Đỗ Chân Khanh là hay hơn cả. Bài thơ như sau: 


Dương liễu xanh xanh nước vỗ đê 
Thành xuân nhà cỏ én đưa về 
Hải đường gặp gió đông lay mạnh 
Đỏ ửng hoa rơi vó ngựa kề. 
1 Cờ hiệu của thiên tử khi ra khỏi cung, lấy lông chim thúy để trang sức nên có tên thế. (Đường thi tạm bách thủ). 
2 Tản Đà dịch.
 




Quý Phi đã chết, Cao Lực Sĩ liền ra trước cửa trạm dịch lớn tiếng trước ba quân: 
- Dương Quý Phi theo lệnh thánh thượng đã phải chết? 
Binh lính vẫn chưa tin, Cao Lực Sĩ theo thánh ý, đem thi thể Quý Phi đặt ngay trên giường, lấy chăn gấm đắp lại, khiêng ngay giường ra đặt giữa sân dịch trạm. Lệnh cho Trần Nguyên Lễ dẫn binh lính lần lượt vào xem tận mắt. Nguyên Lễ lại kéo chăn gấm ra, để lộ rõ đầu, cho mọi người cùng trông thấy. Ai nấy mới thực tin, đều cởi bỏ áo giáp mũ trụ, cúi lạy tung hô: 
- Vạn tuế thánh thượng! 


Rồi ra khỏi trạm dịch. Huyền Tông truyền cho Cao Lực Sĩ tìm quan tài, chôn vội chôn vàng ở ngoài cửa thành phía tây, ngay lối quành của đường đi lên phía Bắc. Táng xong, vừa gặp lúc phương nam dâng quả vải về tới. Huyền Tông thấy vật nhớ người, khóc nức nở, liền truyền đem quả vải ra tế ngoài mộ. 


Trương Hựu, một nhà thơ đời Đường, có bài thơ rằng: 


Cờ quạt bơ thờ giữa chúa tôi 
Người về nam một, bắc về mười 
Phấn hương đổ leo trên bùn đất 
Vải tiến vẫn dâng đến Mã Ngôi. 



Đường Huyền Tông nói với Cao Lực Sĩ: 
- Quý Phi thường kể có mộng lạ. Đến nay mới ứng vậy. 
Lực Sĩ thưa: 
- Quý Phi mộng ra sao, kẻ hèn này chưa được nghe. 
Huyền Tông kể lể: 
- Quý Phi thường nói rằng, mơ thấy cùng trẫm đi chơi Ly Sơn, đến trạm dịch Hưng Nguyên cùng nhau ngồi đối diện ăn uống, hậu viện phát hỏa, vội vàng chạy ra, nhìn vào cửa trạm dịch, các cây cổ thụ đều đang cháy rừng rực. Bỗng có hai con rồng bay tới. Trẫm cưỡi con rồng trắng, bay rất nhanh. Quý Phi cưỡi con rồng đen, bay rất chậm. Xung quanh không có ai, chỉ thấy mỗi một vật đầu bù, mặt đen, chẳng khác gì ma quỷ, lên tiếng: "Ta là thần ngọn núi này, thừa mệnh của thượng đế, phong cho ngươi làm Nguyên hậu, lo việc tằm tang của Ích Châu!". Rồi giật mình mà thức giấc. Ngay sau đó thì nghe tin phản loạn ở Ngư Dương. Giờ đang nghĩ lại, thì mới rõ là: Cùng trẫm đi Ly Sơn, "Ly" cũng có nghĩa là ly biệt. Mới ngồi ăn mà đã lửa cháy, thế là điềm mất ăn, hết ăn. Lửa lại là điềm của chiến trận, cả trạm dịch, cả cổ thụ đều cháy, trạm dịch, đồng âm với "dịch" là thay đổi, thêm chữ "mộc" bên cạnh chữ "dịch" thành chữ "dương", họ của Quý Phi. Trẫm cưỡi rồng trắng, điềm đi về phía tây (1). Quý Phi cưỡi rồng đen, điềm đi về âm phủ. Sơn thần, chính là quỷ ở núi, chữ "quỷ" với chữ "sơn" hợp lại thành chữ "Ngôi". Nguyên hậu trông coi tằm tang thì sinh ra tơ, lại ở Ích Châu, chữ "Ích" thêm chữ "Ty" là tơ thành chữ "Ích" là thắt cổ. Chính là điềm phải thắt cổ mà chết ở Mã Ngôi này vậy! 
1 Theo thuyết "ngũ hành” của Trung Quốc, thì màu trắng ứng với phương tây. 


Lực Sĩ thưa: 
- Mộng triệu không lành, đúng như thánh ý đã phán. Kẻ hèn này nhớ năm trước gặp phương sĩ Lý Hà Chu, họ Hà đã từng cho một bài sấm như thế này: 


Chợ Yên người vắng hết 
Cửa Hàm ngựa không về 
Nếu gặp ma dưới núi 
Vòng ngọc treo áo the. 


Bài sấm này rõ ràng ứng vào chuyện hôm nay. Câu một, chỉ Lộc Sơn phản loạn, câu hai chỉ Kha Thư Hãn thua trận (1), câu ba "ma dưới núi" cũng chính là chữ "Ngôi", tức Mã Ngôi này vậy. Quý Phi có tiểu tự Ngọc Hoàn, nay kẻ hèn này lại dâng lụa the để tự thắt cổ, thì dùng Ngọc Hoàn là vòng ngọc quấn lấy lụa the còn gì. Định mệnh đã như thế. Thánh thượng cũng yên lòng, chẳng nên quá bi thương. 
1 Yên: tên một nước cũ, thuộc vùng đông bắc Trung Quốc, vùng An Lộc Sơn làm phản. Hàm Quan: tên cửa ải ở Hàm Hương thuộc Thiểm Tây, vùng Kha Thư Hãn thua trận. 


Đang trò chuyện, Trần Nguyên Lễ vào, xin cho lên đường tiếp. Huyền Tông y theo. Lúc này nhạc công Trương Dã Hồ đứng lên, Huyền Tông chùi nước mắt mà nói: 
- Lần này ra Kiếm Môn, chim kêu hoa rụng, nước trong núi xanh, chẳng cái gì là không nhắc nhủ lòng tiếc thương của trẫm với Quý Phi. 
Chính là: 
Người buồn cảnh đẹp làm gì? 
Xót lòng, cay mắt tình đi, duyên còn. 
Không biết sự thể đến đâu, xin xem hồi sau phân giải.
HỒI 92
Đóng Linh Vũ, thái tử lên ngôi,
Chiếm Trường An, loạn thần làm ác.
Từ rằng: 
Xe rồng phải ruổi về tây 
Bầu trời phía Bắc, sao bay sáng ngời 
Vẫn là trăm sự tại trời 
Mà trong tai biến đổi lời quên cha 
Lại quên ruột thịt một nhà 
Truân chiên nếm đủ xấu xa nhọc nhằn 
Trai gian ác, gái lăng loàn 
Vạ thân, vạ cả xóm làng gần xa 
Theo điệu "Ô dạ đề" 


Nước nhà thái bình có đạo, kẻ sĩ đứng ở triều đình, tôi ra phận tôi, chúa nên ngôi chúa. Còn ở trong nội cung, cha ra đạo cha, con đủ phận con, đấy chính là những điều cơ bản của luân thường, để rồi từ đó mà có trăm họ muôn dân, nên nghĩa lớn của trời đất, chẳng chỗ nào là không yên ổn, chẳng người nào là không được ơn hưởng đức lớn. 


Đến khi vận đã suy, vua cũng chẳng giữ được nên đạo vua, thần chuyên nghĩ cách mê hoặc làm hư thân chúa, nên mới sinh sủng ái khác thường. Giặc giã bên ngoài nhiều như nấm, một sớm biến loạn, dẫn đến chín châu tranh giành, may mà mệnh trời chưa đổi, lòng người còn đó. Thiên tử tuy không khỏi "mông trần tại ngoại", phải bỏ cung khuyết lặn lội trong đám bụi đời ở bên ngoài, thái tử phải tòng quyền mà lên ngôi. Nhưng thế sự còn nên, Huyền Tông nhường ngôi làm thái thượng hoàng. Nếu không công nghiệp sẽ đi đến đâu, còn đó thế nguy kẻ nghịch tặc, còn đó tôn miếu xã tắc trong tay phản thần, dẫu thân thiết cũng phải bỏ mà chạy, chỉ bảo toàn được một hai kẻ thân người thích, còn đâu đành bỏ mặc, khiến cho bậc vương tôn công tử gặp nước lưu ly, cành vàng lá ngọc rơi vào tay giặc làm nhục, giết hại. Những việc cuối đời Thiên Bảo, nghĩ lại thật đáng giận mà cũng đáng thương, đáng buộc tóc vào tay để mà nhớ mãi vậy.
***
Lại nhắc chuyện Huyền Tông ngự giá đến Mã Ngôi, chúng quân sĩ giết Dương Quốc Trung cùng Hàn Quốc, Quắc Quốc phu nhân. Huyền Tông không biết làm thế nào, đành để Quý Phi chịu chết. Trần Nguyên Lễ mới khuyến khích được quân sĩ, mời xa giá lên đường. Quân sĩ thấy bộ tướng tay chân Dương Quốc Trung đều ở Thục, lại không chịu đi về Tây, kẻ xin về Hà Lũng, người bàn đi Thái Nguyên, cũng có ý xin quay về kinh đô, mạnh ai nấy nói. Huyền Tông ý vẫn muốn vào Thục, nhưng lại sợ trái ý quân sĩ, đành chỉ cúi đầu nghĩ ngợi, không nói rõ ý định đi đâu. Vi Ngạc tâu: 
- Thái Nguyên, Hà Lũng đều không phải là nơi dung thân của bậc thiên tử. Nếu về kinh sư tất phải có cách phòng ngự chu đáo. Người ngựa nay rất ít, không phải việc dễ. Cứ như ngu kiến của thần, chi bằng đi Phù Phong, rồi sẽ liệu chuyện lui sau vậy. 


Huyền Tông bằng lòng gật đầu, sai đem ý này của mình truyền dụ quân sĩ, ai nấy đều nghe theo. Ngày hôm ấy người ngựa từ Mã Ngôi lên đường. Đến mãi lúc đi, mới thấy rất nhiều dân chúng, già trẻ cản đường giữ lại, cảnh thật nhốn nháo, người người đều thưa: 
- Cung khuyết là nhà, là người thân của bệ hạ, là phần mộ của bệ hạ, nay bỏ mà đi, định còn đến đâu nữa? 


Huyền Tông đành ngọt ngào phủ dụ, nói rõ thánh ý rồi vẫn đi, nhưng trăm họ càng kéo đến nhiều hơn. Huyền Tông phải sai thái tử đứng ra khuyên bảo dân chúng. Mọi người liền túm lấy ngựa của thái tử mà thưa: 
- Phụ hoàng đã không muốn dùng ngựa xe, chúng thần xin dẫn con em, cùng thái tử về đông đánh giặc, bảo vệ Trường An. 
Thái tử đáp: 
- Đấng chí tôn phải vất vả dặm dài, là phận làm con, làm sao mà dám xa rời một ngày cho được. 
Trăm họ lại thưa: 
- Thái tử cùng phụ hoàng đều đi Tây Thục cả, bách tính ở Trung Nguyên lấy ai mà làm chủ? 
Thái tử đáp lại: 
- Các ngươi nếu muốn giữ, ta cũng không lòng nào mà chối từ, nhưng cũng phải thưa với phụ hoàng đã, rồi mới có thể nói chuyện tiến lui. 
Nói xong, lại định giục ngựa đi, nhưng vẫn bị trăm họ cản chặt cả đường, ngựa không thể nào bước được. Lúc này con của thái tử là Quảng Bình Vương Thục, Kiến Ninh Vương Đạm, đang theo sau ngựa, cả hai vương đều rất có trí dũng. Kiến Ninh Vương thấy lòng người như thế, liền lại níu yên thái tử mà thưa rằng: 
- Quân giặc xâm phạm cung khuyết, bốn biển nát tan, chẳng nhân tình người thế này lo chuyện hưng phục, còn đợi đến bao giờ. Nay điện hạ theo đấng chí tôn vào Thục, nếu quân giặc đốt sạch sạn đạo (1), quả là chắp tay mà dâng Trung Nguyên cho giặc. Lúc ấy, lòng người ly tán khó mà phục hồi, mai nay dẫu muốn cũng không sao kịp nữa. Chi bằng bây giờ, thu nhập binh lính phía tây bắc, triệu Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật lại, cùng nhau đánh sang đông, khôi phục hai kinh, rồi bình định chín châu, quét sạch cung khuyết, đón đấng chí tôn, khiến xã tắc nguy thành yên, tôn miếu mất mà lại còn. Đó phải chăng là điều hiếu lớn nhất không? Hà tất cứ phải khư khư một bước không rời, sớm hôm chiều chuộng mới tỏ được sự kính yêu của kẻ nhi nữ thường tình sao? 
1 Sạn đạo: đường đi ở vùng núi non rất hiểm trở, dùng gỗ cây và ván lát như thang, như cầu mới đi được. 


Quảng Bình Vương cũng đứng bên thưa thêm rằng: 
- Lòng người không thể để mất, Kiến Ninh Vương nói rất đúng, xin điện hạ hãy soi xét kỹ cho. 


Đông cung thị vệ Lý Phụ Quốc cũng đến trước thái tử, cúi lạy xin thái tử ở lại. Trăm họ reo hò không ngớt. Thái tử bèn sai Quảng Bình Vương ruổi ngựa đến ngay xa giá khởi tấu, chờ ý Huyền Tông định đoạt. 



Lúc này Huyền Tông cũng vừa truyền dừng xe để đợi Thái tử, đang định sai người quay lại xem sao thì vừa lúc Quảng Bình Vương tới thuật rõ chuyện trăm họ giữ lại. Huyền Tông phán: 
- Lòng người như thế, cũng chính là ý trời vậy. Trẫm sở dĩ không đốt cầu, là ý cùng với trăm họ đánh giặc, không dám để mất lòng dân. Nay lòng dân đã theo thái tử, quả là điều may mắn cho trẫm vậy! 


Liền truyền mệnh đem hai nghìn hậu quân, cùng ngựa Phi Long chia cho thái tử, lại phủ dụ tướng sĩ: 
- Thái tử nhân hiếu, có thể phò yên xã tắc, các khanh nên theo đúng đạo thần tử mà thờ thái tử. 
Lại truyền lời cho thái tử rằng: 
- Các bộ lạc ở tây bắc, trẫm vẫn phủ dụ rất ân cần, nay có thể dùng được. Đông cung hãy cố sức. Trẫm rồi sẽ truyền ngôi cho Đông cung một ngày gần đây. 
Thái tử nghe chiếu, nhìn về hướng tây mà kêu khóc, Quảng Bình Vương liền truyền dụ trăm họ: 
- Thái tử đã vâng chiếu ở lại, để vỗ yên trăm họ vậy! 
Dân chúng đều reo hò ầm ĩ: 
- Vạn tuế! 
Rồi hăm hở mà tan. Thái tử chưa rõ nên ở đâu cho tốt. Lý Phụ Quốc hỏi: 
- Trời mỗi lúc một nắng to, nơi này không thể ở lâu, nay ý mọi người thấy nên về đâu? 
Binh lính đều yên lặng không đáp. Kiến Ninh Vương cất tiếng: 
- Điện hạ ngày trước đã từng làm Sóc Phương Tiết độ sứ, quan tướng vùng ấy giờ vẫn còn nhớ rõ họ tên, thư từ đi lại. Nay vùng Hà Lũng, rất nhiều lũ bại trận theo giặc, người ngựa nhiều, Hà Tây Hành quân tư mã Bùi Miện hiện đang ở đó, người này vốn dòng danh giá áo mũ, tất chẳng bao giờ hai lòng, có thể cùng đến đó, rồi mưu đồ việc lớn. Giặc mới vào Trường An, tất bỏ trống vùng này, thừa cơ hội mà đi ngay, mới là thượng sách vậy. 


Ai nấy thấy phải lẽ, liền theo phương Bắc, thành đoàn mà đi. Tới bến Vị Thủy, gặp người ngựa thua chạy từ Đông Quan về, nhận nhầm là quân giặc, cùng nhau đâm chém một hồi, chết rất nhiều, mới lại thu tập tàn binh. Định qua sông, nhưng thuyền bè chẳng có, phải tìm chỗ nước nông, ôm ngựa mà bơi sang, những binh lính không có ngựa, đều đành khóc lóc mà quay lại. Tới Tân Bình, suốt ngày đêm đã đi hơn ba trăm dặm, binh sĩ, khí giới mất mát đến hơn một nửa, chỉ còn cả thảy mấy trăm người mà thôi. 


Chính là: 
Ngôi thái tử ngồi coi việc nước 
Lo việc quân trong bước gian nguy 
Hiện giờ vận nước lưu ly 
Danh tuy thái tử, thực thì rỗng không! 


Chuyện chia hai mối, hãy nói Huyền Tông để thái tử ở lại rồi, xa giá hướng về tây mà đi. Tới Kỳ Sơn, nghe đồn quân giặc đã kéo tới gần, Huyền Tông vội đốc thúc tướng sĩ, ngày đêm gấp về Phù Phong để nghỉ ngơi. Sĩ tốt mấy ngày liền mỏi mệt, đói khát, đều ngầm có ý bỏ trốn cả, thì thầm to nhỏ, toàn những lời bất kính. Trần Nguyên Lễ chẳng biết làm gì được, Huyền Tông lấy làm lo lắng. Tần Quốc Trinh tâu: 
- Trong khi lòng chúng nao núng thế này, không thể uy thế bức bách được, phải lấy tình lấy lý khuyên dụ khiến cho họ cảm động mới xong. 
Huyền Tông nghe theo. Vừa may đoàn người tiến cống hàng năm của thái thú Thành Đô theo lệ đem mười vạn tấm lụa mầu mùa xuân đến Phù Phong. Huyền Tông sai bày cả ra sân, gọi tướng sĩ vào, thân đứng ngoài hiên mà phủ dụ: 
- Trẫm gần đây đến tuổi lẩm cẩm, lại dựa phải lũ người chẳng tốt đến nỗi nghịch tặc làm loạn, thế thậm hung dữ, không thể không tạm tránh lúc mạnh của chúng. Các khanh vất vả theo đi, chẳng kịp từ biệt cha mẹ, vợ con, lặn lội tới đây, lao khổ cũng nhiều rồi. Bởi trẫm ở ngôi không chính mà dẫn đến thế, lòng thật hổ thẹn. Nay vào Thục, đường còn dài, người ngựa đều mỏi mệt, đi xa không dễ. Các khanh tự quay về nhà, trẫm sẽ cùng con cháu, cùng các quan viên nội cũng gắng sức mà đi. Các khanh cùng trẫm chia tay, hãy lấy một phần lụa xuân này, đổi lấy lương thảo. Về gặp cha mẹ, vợ con phụ lão ở Trường An, chuyển lời của trẫm, gắng giữ gìn, không cần phải nghĩ tới trẫm làm gì. 
Nói xong, nước mắt tuôn ướt cả hoàng bào. Binh sĩ nghe thương tâm, ai nấy đều khóc, cúi đầu mà tâu: 
- Chúng thần dẫu sống dẫu chết cũng đi theo bệ hạ, không bao giờ dám hai lòng. 
Huyền Tông chùi nước mắt rồi mới vào trong, nhưng vẫn còn ngoái lại mà nói với mọi người: 
- Đi hay ở là tùy các khanh, trẫm không dám cưỡng ép vậy. 
Tần Quốc Mô đứng ở phía sau lên tiếng: 
- Thiên tử đã nhân ái như vậy, chúng thần há không biết động lòng hay sao? 
Binh sĩ đều khóc mà quay ra. Huyền Tông sai Trần Nguyên Lễ đem hết cả lụa cấp cho quân sĩ, từ đó những lời bàn tán mới thực hết. 


Chính là: 
Ba quân xôn xao muốn làm loạn 
Phút chốc dẫu vua cũng mất mạng 
Chẳng dùng uy thế dẹp ba quân 
mà chỉ lòng nhân mới cứu đặng. 


Lòng quân đã định, ngày hôm sau Huyền Tông lại lên đường, đi đến Hà Trì. Thục Quận trưởng sử là Thôi Viên tới đón xa giá, tâu rõ đất Thục giàu có, quân sĩ khỏe mạnh, Huyền Tông rất vui, sai đi trước dẫn đường. Thế là đã vào đất Thục. Qua một cầu lớn, Huyền Tông hỏi tên cầu, Thôi Viên thưa: 
- Đây là cầu Vạn Lý! 
Huyền Tông nghe nói, sực tỉnh gật đầu mà phán: 
- Thế là lời nhà sư Nhất Hạnh đã nghiệm rồi. Trẫm chẳng còn sợ gì nữa! 
Nguyên là nhà đường có một thần tăng, tên gọi Nhất Hạnh, tinh thông thiên văn, lịch pháp, từng chế được cả "Hỗn thiên nghi" và "Phúc củ đô" (1), cực kỳ thần diệu. Còn về số so với Viên Thiên Cơ, Lý Thuần Phong chẳng thua kém gì. Huyền Tông thường đi Đông Đô, cùng Nhất Hạnh lên lầu tây của chùa Thiên Cung, ngắm nhìn trời sao, bâng khuâng mà than: 
- Trẫm coi sóc sông núi như thế này, tất là sẽ được hưởng mãi cảnh yên vui vậy! 
1 Tên các dụng cụ để đo mặt trời, trăng sao, đo động đất thời cổ Trung Quốc. 


Nhân đó mới hỏi Nhất Hạnh: 
- Trẫm may ra có thoát khỏi tai họa cả đời chăng? 
Nhất Hạnh thưa: 
- Bệ hạ "du hành Vạn Lý", tuổi thánh không có điều gì đáng lo. 
Lúc ấy Huyền Tông cũng nghe vậy, chỉ nghĩ đó là lời ngợi ca, nào ngờ có ngày đi mãi vào Tây Thục, qua cầu này, cũng tên là Vạn Lý, nhân đó lại nhớ tới lời Nhất Hạnh, mới thấy nghiệm. Nghĩ tới câu sau, biết rằng mình không gặp điều gì nguy hiểm nữa, cho nên trong lòng thoải mái mà phán: 
- Trẫm chẳng còn gì sợ nữa! 


Chính là: 
Đi xa Vạn Lý khéo lên cầu 
Lời sấm nhà sư thật nhiệm mầu 
"Thánh thọ vô cương" may mắn lắm 
Đường xa rong ruổi bớt lo âu. 


Huyền Tông giục quân sĩ đi nhanh, chỉ mấy ngày sau, đã tới trạm dịch Thành Đô. Từ điện đình, cung thất cho tới các vật dụng tuy đều là tranh cỏ dân dã, nhưng rất đầy đủ, tề chỉnh. Lại thêm núi cao sông sâu, thành quách gọn gàng, có thể tạm yên ổn. Chỉ có điều người sủng ái năm xưa không còn trước mặt, nghĩ lại chuyện mới ngày nào ở Mã Ngôi, không nén nổi đau xót. Cao Lực Sĩ phải nhiều lần khuyên giải. Vi Kiến Tố, Vi Ngạc, Tần Quốc Mô, Quốc Trinh đều dâng biểu bàn kế chống giặc, Huyền Tông giáng chiếu, phong cho thái tử làm Tống tiết chế, sai người đi các nơi lo liệu. Đặc sai Vĩnh Vương Lý Lân làm Sơn Nam đông đạo Lĩnh Nam, Kiền Trung, Giang Nam Tây đạo tiết độ sứ. Lấy Thiếu phủ tây giám Đậu Thiệu, Trường Sa Thái thú Lý Hiện làm Phó đô đại sứ. Ngày hôm sau lên đường đi Giang Lăng để nhận việc. Lại xuống chiếu lấy thái tử làm Thiên hạ binh mã Đại nguyên soái, lãnh Sóc Phương, Hà Bắc, Bình Lư Tiết độ sứ để thu phục Trường An, Lạc Dương. 


Nào ngờ chiếu chưa xuống đến nơi, thì thái tử đã tự mình lên ngôi chính vị thiên tử. Nguyên là thái tử ngày ấy qua sông Vị Thủy, đi đến Bành Thành, thái thú Lý Đôn ra đón, đem y phục cùng lương thực dâng lên. Đến Bình Lương xem ngựa, đến mấy vạn con, lại chiêu mộ dũng sĩ được tới hơn ba nghìn người. Vì vậy quân thanh ngày một vang động. Lúc này có Sóc Phương lưu hậu Đỗ Hồng Tiện, Lục Thành thủy lực vận sứ Ngụy Thiếu Du, Tiết độ phán quan Thôi Y, Độ chi phán quan Lư Giản Kim, giám trì phán quan Lý Hàm, cả bọn năm người, cùng bàn với nhau. 
- Thái tử nay ở Bình Lương, nhưng Bình Lương là đất bằng phẳng, không phải là nơi đóng quân tốt. Vùng Linh Vũ, binh lính, lương thảo đều giàu, chi bằng đón thái tử tới đó, gom các thành quách cùng binh lính phía bắc, phía tây thì thu phục được quân kỵ mã hùng mạnh, quay về nam mà định Trung Nguyên. Quả là tính chuyện một lúc cho vạn đời sau vậy! 


Bàn bạc xong xuôi, Lý Hàm đem sổ sách dâng thái tử, trình rõ số người ngựa, giáp trụ, lương thảo của cải Sóc Phương. Đỗ Hồng Tiện, Thôi Y thân tới tận Bình Lương, tâu với thái tử: 
- Sóc Phương lâu nay là nơi binh cường ngựa mạnh của thiên hạ, lại giao hảo với Thổ Phồn, Hồi Hột, bốn bễ quận huyện đều kiên trì chống giặc, đợi ngày hưng phục. Điện hạ nếu đóng quân ở Linh Vũ đưa hịch đi khắp nơi, thu thập kẻ trung nghĩa, giữ chắc lấy dãy đất này, không những kẻ thù chẳng đụng đến được, chúng thần đã cử Ngụy Thiếu Du, Lư Giản Kim xây dựng cung thất ở đó, tích trữ lương thảo, chờ điện hạ xa giá tận nơi xem xét. 


Quảng Bình Vương, Kiến Ninh Vương đều tán đồng, vì vậy thái tử liền dẫn người ngựa tới Linh Vũ. 


Mấy ngày sau, Hà Tây tư mã Bùi Miện làm Ngự sử trung thừa, nhân tới Linh Vũ ra mắt, cùng bọn Đỗ Hồng Tiệm bàn bạc, thưa với thái tử, nhắc lại lời Huyền Tông ngày còn ở Mã Ngôi, định truyền ngôi cho thái tử, nay là lúc nên định vị, để yên lòng mọi người. Thái tử không nghe : 
- Phụ hoàng vất vả đường dài, ta đâu dám tự chuyên lên ngôi báu? 
Bọn Bùi Miện lại thưa; 
- Tướng sĩ đều là người Quan Trung, ai mà không ngày đêm nhớ nhà muốn về, nhưng không ngại đường xa gập ghềnh, đi đến tận vùng sa mạc, biên tái xa xôi, những mong để dựa mình rồng, vịn cảnh phượng, kiến công lập nghiệp với đời. Nếu điện hạ cứ khư khư theo thói thường, mà không quyền biến, khiến cho lòng người một sớm ly tán, thì công huân lớn chẳng mong thành. Xin hãy nghĩ đến lòng chúng, lo đến kế lâu dài của xã tắc. 


Thái tử vẫn do dự, xung quanh phải nhiều lần khuyên giải mới nghe theo lời xin. 

Tháng bảy mùa thu, năm thứ mười lăm, đời Thiên Bảo (1), thái tử lên ngôi ở Linh Vũ, lấy hiệu là Túc Tông Hoàng đế, đổi làm năm Chí Đức Nguyên niên, dao tôn (2) Huyền Tông làm thượng hoàng Thiên đế, Bùi Miện, Đỗ Hồng Tiệm, cùng các quan đều được gia quan tiến trật. 


1 Tức năm 756 sau công nguyên, Việt Nam vẫn là thuộc Đường. 
2 Dao Tôn: tôn từ xa, vì lúc này Huyền Tông vẫn ở mãi Thành Đô.
 


Định dâng biểu tâu Minh Hoàng, thì vừa lúc chiếu thư của Minh Hoàng phong thái tử làm nguyên soái cũng tới. Lúc này Túc Tông mới biết là xa giá của Minh Hoàng đã tới Thành Đô, liền sai sứ giả dâng biểu vào Thục, đem việc lên ngôi tâu rõ. Minh Hoàng xem biểu mừng mà rằng: 
- Con ta theo đúng mệnh trời lòng người, "ứng thiên thuận nhân", ta còn lo gì nữa! 


Liền hạ chiếu: 
"Từ nay các tấu chương đều xưng là thái thượng hoàng. Các việc quân việc nước quan trọng, trước tiên phải tâu với hoàng đế để xem xét rồi sau đó tâu cho thái thượng hoàng biết. Đợi đến khi nào khôi phục được hai kinh, thì thượng hoàng sẽ không tham dự việc triều chính nữa. " 


Lại sai thị lang bình chương sự Phòng Quán, cùng với Vi Kiến Tố, Tần Quốc Mô, Quốc Trinh đem ngọc sách, ngọc tỷ tới Linh Vũ làm lễ truyền vị, lại ban cho các quan không phải quay về, phục mệnh của tân quân. 
Túc Tông khóc mà vái lạy, đem những thứ này để thờ một điện riêng, chưa dám làm lễ nhận ngay. 


Chính là: 
Ngôi báu đà lên trước 
Chiếu truyền mới đến sau 
Việc làm dù có phải 
Sau trước nghĩ thế nào? 



Về sau này các nhà nho đời Tống đều phần nhiều lấy việc Túc Tông chưa nhận được chiếu truyền của Minh Hoàng, mà đã tự mình lên ngôi báu, đổ cho là thừa lúc nguy cấp mà thoán vị, là làm việc phản cha. Nhưng cứ theo tình thế bây giờ mà nói, còn mất, nguy cấp khôn lường, phải giữ lấy lòng người, bất đắc dĩ phải làm. Huống chi Minh Hoàng bao nhiêu lần muốn nhường ngôi, đã nói ra miệng với nhiều người. Nay Túc Tông lên ngôi ở Linh Vũ cùng là đã theo mệnh trước, nên có thể châm chước ít nhiễu, nói rằng thoán vị, nói rằng phản cha, thì tựa hồ thái quá chăng! Nếu bàn đến lầm lỗi của Túc Tông thì là ở chỗ, sau khi tức vị, quá yêu thương em gái Trương Lương, đương lúc việc quân bận rộn, mà vẫn nghĩ tới chuyện vui hưởng khoái lạc, thì thật đáng cười. 


Chính là: 
Không lo ngôi báu, chơi cho thỏa 
Con hiếu là mong chuộc lỗi cha. 


Đã như vậy, chuyện lên ngôi cũng có thể chấp nhận được, nhưng còn việc thay đổi niên hiệu rõ ràng là không coi cha ra gì nữa. Giả sử lúc bấy giờ mà Nghiệp Hầu Lý Bí sớm đã ở ngay cạnh, tất công việc không đến nỗi như vậy. 
Về sau có người làm thơ than: 


Linh Vũ lên ngôi cao 
Thác rằng nhiều việc khó 
Cải niên hiệu tức thì 
Thật là một chuyện dở 
Các quan bàn việc này 
Không biết sửa tầm lỡ 
Tiếc rằng Lý Nghiệp Hầu 
Có ở triều chậm quá! 


Ngày nhàn, nói chuyện dông dài, hãy kể lúc này các thái tử, có người đi phía tây, có người đi tuần phía Bắc. Nguyên do là An Lộc Sơn không ngờ xa giá đã lên đường ngay, nên lệnh cho quân sĩ ở Đồng Quan không được coi thường mà tiến quân vào Trường An, vì vậy tướng giặc là Thôi Càn Hựu đành đóng binh để xem xét. Chờ đến khi xa giá đã đi được mấy ngày, Lộc Sơn nghe báo, mới sai bộ tướng Tôn Hiếu Triết, dẫn quân vào Trường An. 


Quân giặc vào kinh sư, thấy Tả Tạng đầy ắp lương thảo, của cải, tranh nhau mà cướp. Ngay đêm đó bày tiệc rượu ăn mừng, một mặt sai người đi Lạc Dương báo tin thắng trận, chờ Lộc Sơn vào kinh, nên cũng chẳng nghĩ tới việc đuổi theo xa giá, vì vậy Minh Hoàng được an toàn mà vào Thục. Túc Tông quay lên Sóc Phương cũng chẳng có gì trở ngại lớn. Đó âu cũng là lòng trời. 


Chính là: 
Rút quân chẳng đốt kho tàng 
Nhử giặc cướp của, không màng đuổi theo 
Rảnh đường vua thẳng một lèo... 


Lộc Sơn tới Trường An, nghe chuyện binh biến ở Mã Ngôi, Dương Quốc Trung bị giết, Quý Phi phải tự thắt cổ, Hàn Quốc, Quắc Quốc phu nhân bị giết, khóc lớn mà than: 
- Dương Quốc Trung quả là đáng chém, nhưng sao lại giết cả chị em Ngọc Hoàn của ta? Ta đến đây chính là để cùng các phu nhân hoan lạc. Nay thì hết cả mong chờ rồi, hận này bao nguôi? 


Lại nhớ tới vợ con An Khánh Tôn bị triều đình giết, nhất thời nổi cơn căm giận, liền ra lệnh cho Tôn Hiếu Triết tìm bằng hết trong kinh sư tôn thất, hoàng thân, chẳng kể hoàng tử, hoàng tôn, quận chúa, huyện chúa, cho đến các phò mã, quận mã cùng quốc thích đều bị chém một loạt. Lại lệnh khoét tim đàn ông, đàn bà bị giết để tế Khánh Tôn, Lộc Sơn thân đứng tế. Hôm ấy, Sùng Nhân điện đều treo trường gấm đặt bài vị Khánh Tôn, các tay đao phủ dồn thây người chết chém lại, chờ đến lúc tế mới moi tim. 


Chuyện cũng kỳ quái, khó tin, nhưng quả là bỗng trời tối sầm, đất bụi mù, sấm nổi đùng đùng, chớp giật sáng lòe, gió lớn thổi mạnh, những con dao của đao phủ gió cuốn bay biến, đài cao đắp lên, sét đánh tan nát cùng với bài vị của Khánh Tôn, các màn nhung trướng gấm đều bị thiêu ra tro. Lộc Sơn hoảng sợ, phải ngẩng nhìn trời mà lạy tội, không dám tiếp tục làm lễ nữa, lệnh cho quân sĩ đem các tử thi chôn lấp tất cả.


Chính là: 
Trị loạn là bởi lòng trời 
Hung tàn là trái đạo người 
Sấm sét răn đe đứa ác 
Một phen hồn phách tơi bời! 


Trước đây Minh Hoàng xuất bôn, nguyên ý muốn tôn thất, hoàng thân cùng chạy, bởi Dương Quốc Trung ngăn trở, nay bọn này đều bị giết cả. Tội ở Quốc Trung, thằng giặc này chết vẫn chưa hết gây họa vậy. 


Chính là: 
Bàn ngang gây hại lớn 
Tùng xẻo tột chưa đang. 


Hôm ấy các tử thi miễn được vạ moi tim, nhưng những người mà lâu nay Lộc Sơn thù oán, đều bị truy tìm giết cả. Lộc Sơn còn quát nạt: 
- Lý Thái Bạch thuở trước mượn cớ say rượu chửi ta, nay mà có đây nhất định phải giết ngay. 


Phàm những người thân tín của Quốc Trung, của Cao Lực Sĩ cũng đều đem giết. Những quan viên theo giá mà gia quyến còn ở kinh, đều đem chém cả. Chỉ có gia quyến Tần Quốc Mô, Quốc Trinh đã bỏ trốn từ trước, nên không bị hại. Nội thị Biên Lệnh Thành đầu hàng, đem chìa khóa của lục cung dâng lên. Lộc Sơn liền sai người lục soát khắp nơi, đến cung của Mai Phi Giang Thái Tần, thấy một thây cung nữ đã rữa nát, liền cho rằng Mai Phi đã chết rồi đây, nên không truy tìm nữa. May thay vì thế mà Mai Phi không bị giặc bắt, đến khi hoàng thượng trở về, lại cùng được bách niên giai lão đoàn viên vậy. 


Đáng cười thay là Dương Quý Phi, bị nạn thình lình, cũng chẳng qua là quá ngang ngược, ngăn trở nhà vua, không cho Mai Phi cùng đi, không ngờ có binh biến Mã Ngôi, đến nỗi tính mạng cũng không giữ nổi, phải chết trước. Người đời sau có thơ: 


Một họ anh em kéo cả đi 
Theo vua lại cấm cả Mai Phi 
Mã Ngôi bị giết toàn gia đó 
Cười ngất không ghen một chút chi! 



Lộc Sơn hạ lệnh, phàm các quan viên ở Trường An, không ra hàng ngay, lập tức xử tử. Vì vậy Kinh triệu doãn Thôi Quang Viễn, tể tướng đã về hưu Trần Hy Liệt, hình bộ thượng thư Trương Quân, Thái thường khanh Trương Tự đều ra hàng giặc. Trương Quân cùng Trương Tự đều là con của Yên Quốc Công Trương Duyệt. Trương Tự lại còn là phò mã, lấy Ninh Thân công chúa, là quốc thích mấy đời chịu ơn dày của quốc gia, lại là dòng dõi danh thần, không ngờ bại hoại cả gia phong đến thế.


Cha tước Yên Quốc Công 
Con thờ Yên Đế ngụy 
Nhục nhã cho giống dòng 
Thật “nan huynh nan đệ” . 


Lộc Sơn lấy Trần Hy Liệt, Trương Tự làm tả hữu thừa tướng, lại đem Thôi Quang Viễn làm kinh triệu doãn, các quan lại khác đều chịu chức mới của triều ngụy đầy vẻ hăm hở. Nhưng lũ giặc đều là phường thô lỗ, tham bạo, chẳng nghĩ gì đến việc mai sau, mới chiếm được Trường An, thì ý chí đã thỏa, ăn uống vét của, chơi bời, không hề bàn đến chuyện chinh tây. Lộc Sơn nhớ Phạm Dương cùng Đông Kinh, không thích ở Tây Kinh. 
Chính là: 
Rõ ràng bộ mặt tham tàn thế 
Sao cũng đòi xưng Thánh Vũ đây! 

Không rõ sự thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải.

HỒI 93
Hồ Ngưng Bích, Lôi Hải Thanh tuẫn tiết,
Chùa Phổ Thì, Vương Ma Cật làm thơ
Từ rằng: 
Trung nghĩa đem bàn thuật dễ thông 
Khó chăng khi gặp bước đường cùng 
Lê Viên tuẫn tiết bao nhiêu kẻ 
Xin chớ coi thường chí nhạc công 
Nhạc công tuẫn tiết 
Ai cô thần bi thiết hỏi trời xanh 
Thơ ngâm gửi gắm chút tình 
Hàng Châu, hàng chữ quên mình vì ai? 
Theo điệu: "Thanh sam thế”

Từ xưa trung thần nghĩa sĩ, được trời ban cho gan vàng dạ sắt, chẳng kể quý tiện. Có kẻ ở ngôi quý, hưởng lộc dày, ngày thường khoác lác hai chữ trung nghĩa, đến khi gặp việc lớn, nguy đến mạng sống, lại sẵn sàng vứt ngay hai chữ đó sang một bên, cốt giữ được thân mình, được gia quyến, tránh họa cầu toàn, cam lòng theo bọn phản nghịch, lá mặt lá trái, dù biết rõ ràng việc làm hiện nay của mình sẽ bị vạn đời mai mỉa, tiếng nhơ khôn rửa. Ngược lại, có những người chẳng phải phẩm tước cao sang, nhân thế truyền danh, thường ngày chẳng qua thuộc đội Lê Viên tử đệ của hoàng thượng, gặp cơn hoạn nạn, ai nấy đều ham sống sợ chết, phản chúa hàng giặc. Trên dưới đều nghĩ rằng bọn này thì lấy đâu ra kẻ biết đến hai chữ trung nghĩa, liệu có điều gì đáng trách, sao mà lại biết "cảm ân tri báo" giữa cảnh đời đen bạc này cho dược. Không ngờ riêng những người này nêu tấm gương trung nghĩa, chẳng sợ gì dao búa, mắng giặc chịu chết khiến cho lúc bấy giờ trở thành kẻ cô thần tử tiết, ai nghe cũng khiến nuốt lệ, đau xót hiện thành giấy mực, vịnh thành thơ từ, vì người chết mà truyền mãi cho đời sau. Thế cũng đủ thấy lòng trung nghĩa không chia bần tiện, phú quý, chính là kẻ hạ tiện thì lại hết lòng trung nghĩa, cảm động đất trời, lòng người vậy! 


** 


Lại nói chuyện An Lộc Sơn tuy đã tiếm xưng vương vị, chiếm đóng được nhiều nơi trong nước, kể cả Đông Kinh lẫn Tây Kinh, nhưng trước sau cũng chỉ là lũ giặc cỏ, chẳng hề có mưu lược sâu xa, lâu dài gì, lòng dạ lúc nào cũng nhớ tới Phạm Dương đất cũ, thích ở Đông Kinh, không muốn ở Tây Kinh. Đến khi vào Trường An, lệnh bắt quan hoạn cùng cung nữ, cho lính tâm phúc giải về Phạm Dương. Rồi lụa gấm, vàng bạc trong các kho, cùng các báu vật, trần thiết của các cung điện, đều cho áp giải về kho ở Phạm Dương. Lại hạ lệnh cho lũ Lê Viên tử đệ, cùng là bọn nhạc công của giáo phường, lâu nay vẫn được triều đình ân sủng, đều phải ra làm phận sự như cũ, nhược bằng trốn tránh không chịu ra, lập tức bị chém đầu. Cho đến lũ voi đã thuần, đôi ngựa biết múa trong chuồng của nhà vua Đường, không được để mất mát, cứ theo như cũ mà luyện tập, sẵn sàng cho Lộc Sơn thưởng ngoạn. 


Nguyên là đời Thiên Bảo, thượng hoàng chú trọng việc thanh sắc, mỗi lần đại yến, tất có tấu nhạc Thái Thường, gồm hai ban, một ban ngồi, một ban đứng. Ban ngồi, các nhạc công được ngồi ngay trên nền điện để tiện biểu diễn. Ban đứng thì các nhạc công phải đứng dưới thềm. Nhạc tấu xong rồi, tiếp đến trình diễn nhạc Phiên, gồm đánh trống cùng thổi kèn. Về sau các điệu mới của giáo phường cùng các nơi trong nước thường được gọi tới ngự lãm. Hoặc có khi còn sai cung nga, y phục thật rực rỡ, đến dưới điện vừa múa vừa hát. Các đội này đi đâu, đều có xe ngựa, thuyền lầu đưa đón rất sang trọng khác hẳn thói thường. Mỗi khi thượng hoàng gần say rồi, liền truyền đội voi của ngự uyển, dẫn những con voi đã được luyện tập thuần thục vào quỳ ngay dưới thềm vàng, lấy vòi dâng rượu, chúc thọ, những việc này đã được luyện từ trước rất công phu. Ngoài ra lại còn rèn cho mấy chục con ngựa biết múa, mỗi khi có lệnh, đội trưởng coi chuồng ngựa, dắt ngựa vào sân chầu, lũ ngựa nghe nhạc, đều cúi đầu quỳ gối trước, rồi cứ thế mà nhảy múa, rất khớp với tiết tấu của điệu nhạc. 

Nhà nho đời Tống Từ Tiết Hiếu tiên sinh, đã từng làm bài thơ "ngựa múa" như sau: 


Thái bình thiên tử thuở Đường triều 
Đàn hát thâu đêm, múa sớm chiều 
Điện gấm đỡ êm chân tuấn mã 
Màn hoa phủ kín bụng long câu (1) 
Chỉ can gõ trống hàng không lệch 
Chẳng phải ra roi múa tất đều 
Điệu cũ Lê Viên sau diễn lại 
Phạm Dương gươm giáo ít hay nhiều? 
1 Nguyên văn dùng chữ "Ác Oa", tên một con sông ở tỉnh Cam Túc, phía bắc Trung Quốc, nơi sản nhiều ngựa tốt. 


Thuở ấy yến tiệc của thượng hoàng, Lộc Sơn đều đứng ngay cạnh hầu, những lời thán phục, ngợi ca đều được nghe tận tai. Khi nảy ý nghịch loạn, giờ đắc chí, vẫn mong theo lệ cũ mà vui chơi, nào ngờ đâu lũ voi ngựa này cũng là cơ gây mầm ham muốn dẫn đến chuyện phản tày trời sau này vậy. 


Chính là: 
Ăn chơi thiên tử thật xa hoa 
Khiến kẻ ngoài thèm nhỏ dãi ra 
Hợm hĩnh khoe tài, voi ngựa múa 
Xa hoa tổ dẫn cướp vào nhà.(1) 

1 Theo ý của thành ngữ: "Dã dung hối dâm, mạn tàng hối đạo”. Trau chuốt làm dáng sinh ra lòng dâm dục, tiền của cất giấu không kín thì giục giã lòng tham của người ta. 


Lúc này đầu mục của các bộ lạc ở phương bắc, nghe tin Lộc Sơn đã chiếm được Tây Kinh, đều tới để chúc mừng, Lộc Sơn muốn đem những chuyện kỳ lạ để khoe khoang, lừa gạt bọn này, liền triệu tất cả đến trước diện, nói huênh hoang rằng: 
- Ta nay nhận mệnh trời mà làm thiên tử, không những lòng người quy thuận đã đành, mà đến vật vô tri, không loài nào là không phục. Ví như lũ voi lâu nay nuôi ở Thượng Lâm của ngự uyển, thấy ta ngồi yến tiệc, cũng quỳ xuống để nâng rượu chúc mừng. Còn lũ ngựa trong chuồng, nghe lệnh ta truyền tấu nhạc, vui mừng và nhảy múa. Há không phải là những sự kỳ lạ hay sao! 
Các đầu người Phiên nghe nói đều phủ phục dưới thềm, tung hô: 
- Vạn tuế! Vạn tuế! 
Lộc Sơn truyền lệnh cho đội voi ra sân triều. Lập tức, đội trưởng dẫn voi ra, khoảng chục con thuần thục hơn cả. Các đầu mục người Phiên chăm chú theo dõi. Xem lũ voi này dâng rượu bằng cách nào. Không ngờ bầy voi đều đưa mắt nhìn lên ngự điện, thấy người ngồi trên, không phải thiên tử dạo trước, nhất định đứng yên không chịu cử động gì cả, lại còn đưa mắt giận dữ nhìn chăm chăm. Đội trưởng rót rượu đưa cho con voi đầu đàn, bắt con voi lớn nhất này quỳ xuống dâng lên, voi dùng vòi cuốn lại đỡ lấy rượu vứt xa hàng mấy trượng. Tả hữu đều sợ xanh xám mặt mày, còn các đầu mục người Phiên thì bưng miệng cố nhịn cười. Lộc Sơn vừa giận vừa xấu hổ, lớn tiếng quát: 
- Lũ nghiệt súc, dám cả gan thế sao? 
Rồi truyền lệnh dẫn ngay lũ voi ra giết tất. Cuộc yến cũng tan trong huyên náo. Lúc ấy, đã có người làm thơ chế giễu rằng: 


Có hình có dáng gọi là voi 
Trước mặt không quỳ thật khác đời 
Bẽ mặt những phường luồn cúi lắm 
Gãi tai, gập gối bẩm thưa hoài. 


Lộc Sơn bị lũ voi làm cho mất mặt, bèn nghĩ ngay đến lũ ngựa, biết đâu còn gây chuyện phiền nhiễu hơn, chi bằng đừng đem ra khoe khoang nữa là xong. Liền truyền ngay lệnh, đem lũ ngựa múa đưa vào các quân doanh kỵ hết. Về sau có hai con ngựa ở đội này lưu lạc vào quân kỵ của tướng giặc Sử Tử Minh. Tử Minh nhân có bày tiệc rượu đãi tướng sĩ dưới quyền, cũng có tấu nhạc làmvui, gặp lúc hai con ngựa này ở ngay dưới sân, liền cùng nhảy múa như xưa. Quân lính không rõ nguyên nhân, vừa lạ lùng, vừa sợ hãi, lấy roi nện tới tấp. Hai ngựa bị đánh, cho là vì múa chưa đúng, lại càng như phát cuồng, nhảy hý loạn xạ, quân lính cả sợ côn búa càng đập mạnh, hai ngựa đều chết ngay. Trong đám giặc có kẻ biết rõ chuyện ngựa múa, chạy tới can thì nào còn kịp nữa. Chuyện há không đáng cười sao? 


Chính là: 
Chẳng khuất thương voi chết rồi 
Ngựa múa rối bời, lại phải đòn roi 
Vậy nên ngựa cũng bỏ đời 
Ngẫm câu đạo nghĩa ngựa voi thế nào?
***
Chuyện chia hai mối, chẳng phải kể rườm rà, chỉ nói Lộc Sơn ở Tây Kinh mặc sức giết người, lại nghe trước đó, trăm họ nhân loạn lạc trộm giấu của kho liền hạ lệnh cho các quan dưới quyền, tra hỏi truy bức, cho phép tố cáo, chẳng khác dây leo, cứ thế bắt kỳ hết trị tội không có ngày nào là không giết chóc. Nhân đó, những kẻ hung hiểm, buông lời thác oan, vu hãm người khác, quan nha chẳng cần tra hỏi ngọn ngành, cứ thế mà bắt bớ, nhiều người vô tội cũng bị giết cả. 


Thân mình, nhà cửa chẳng gì chắc chắn. Vì vậy dân chúng ngày đêm mong chờ vua Đường, tin đồn là hoàng thái tử đã thu phục được hùng binh bắc phương, về sẽ khôi phục Trường An, việc trong sớm tối. Lại có tin, quân của thái tử đã tới, trăm họ tranh nhau ra khỏi thành, cấm cũng không được, vì vậy đường phố, chợ búa trong thành cũng không một bóng người. Quân giặc thấy chiến trận lan tới phía Bắc, đều bàng hoàng trông chờ. Lộc Sơn liệu thế Trường An không thể ở lâu chi bằng sớm về Lạc Dương, liền lấy Trương Thông Nho làm lưu thú Tây Kinh, An Trung Thuận làm tướng quân tổng binh trấn thủ Quan Trung, lại sai Tôn Hiếu Triết giám đốc quân vụ, cai quản các tướng. Còn mình với con là An Khánh Tự, dẫn quân tâm phúc, cùng các tướng Phiên chọn ngày tốt về Đông Kinh. 


Trước hôm lên đường một ngày, mở yến tiệc chiêu đãi quan tướng văn võ khắp mặt. Truyền cho nội phủ sắp đặt khu ngự uyển ngay bên hồ Ngưng Bích, Lê Viên tử đệ, giáo phường nhạc công, tất cả đều phải tới hầu nhạc múa. Trong số những người này, chỉ có Lý Mô, Trương Dã Hồ, Hạ Hoài Chi đã theo giá chạy vào Thục, còn lại Hoàng Xiên Xước, Mã Tiên Kỳ... không kịp theo vua vẫn lưu lạc ở kinh đô, không dám không theo lệnh Lộc Sơn mà tới. Chỉ có Lôi Hải Thanh thác ốm không chịu đi. 



Hôm ấy, bên bờ hồ Ngưng Bích, yến tiệc bày la liệt, Lộc Sơn ngồi trên thềm cao. Khánh Tự đứng hầu một bên, bọn tay chân theo thứ tự ngồi từng dãy phía dưới. Rượu được mấy tuần, dưới thềm tiếng trống nối một hồi nhịp nhàng, sau đó là tiếng nhạc quân hành tấu rộn rã. Từng đội từng ban của Lê Viên tử đệ, giáo phường nhạc công, ban thứ nhất là Đông phương thuộc mộc, ban trưởng, đầu chít khăn tiêu xanh, lưng thắt dải lụa mềm ngọc bích, khoác áo cẩm bào thanh thiên, tay cầm một ngọn cờ nhỏ cũng màu xanh, trên cờ thêu rõ bốn chữ "Đông phương giốc âm", cả bốn chữ đều màu đỏ, thêu bằng chỉ quý lóng lánh sắc kim, hàm ý rằng "Mộc sinh hỏa". Theo sau cờ là hai mươi Lê Viên tử đệ, đầu đội khăn xanh, mặc áo xanh, tất cả đứng phía đông dưới thềm. 
Ban thứ hai là Nam phương thuộc hỏa, ban trưởng, đầu đội khăn hà đỏ, lưng thắt lụa mềm màu san hô, khoác cẩm bào hồng, tay cầm cờ nhỏ đỏ, trên cờ cũng thêu bốn chữ "Nam phương chủy âm", bốn chữ này đều thêu bằng chỉ kéo từ vàng, lấy ý "Hỏa sinh thổ". Theo sau cờ cũng hai mươi Lê Viên tử đệ, đội khăn ráng đỏ, áo hồng, đứng ở phía nam của thềm điện. 


Ban thứ ba là Tây Phương thuộc kim, ban trưởng đội khăn nguyệt bạch, thắt lưng lụa màu bạch ngọc mềm, khoác áo cẩm bào, tay cầm cờ nhỏ trắng, thêu bốn chữ "Tây phương thương âm" chữ đen, dùng vàng đen mà kéo thành chỉ thêu, lấy ý "Kim sinh thủy". Theo sau cờ cũng gồm hai mươi Lê Viên tử đệ đội khăn trắng, khoác áo trắng, dồn đứng ở phía tây thềm. 


Ban thứ tư là Bắc phương thuộc thủy, ban trưởng đội khăn đen, lưng thắt lụa mềm hắc tê, mặc áo bào đen, tay cầm cờ đen, cờ thêu bốn chữ "Bắc phương vũ âm", chữ thêu màu xanh, lấy lông biếc của chim thúy mà thêu, hàm ý: "Thủy sinh mộc" vậy. Theo sau cờ cũng có hai mươi nhạc công đội mũ lụa đen, áo bào cũng màu đen, đứng về phía bắc thềm điện. 


Ban thứ năm là Trung ương thuộc thổ, ban trưởng đội khăn mây vàng, thắt lưng màu sáp ong mềm, khoác hoàng bào, tay cầm cờ nhỏ vàng, thêu bốn chữ "Trung ương thuộc cung", chữ thêu bằng chỉ kéo từ bạc tinh, xung quanh lại viền đủ năm màu, hàm ý "Thổ sinh kim", thổ là nơi sinh vạn vật quý báu. Theo sau bốn mươi nhạc công, đầu đội khăn lụa vàng, khoác áo vàng, đứng ngay ở giữa sân điện. Năm người ban trưởng, cùng dẫn đội hình gồm một trăm hai mươi người, hàng ngũ chỉnh tề, theo đúng thứ tự mà đứng. (l) 
1 cách phân chia, sắp xếp của các đội, các ban đểu tuân theo luật ngũ hành tương sinh tương khắc của triết học Trung Hoa cổ đại, theo quan hệ tương ứng sau: Thủy - Hỏa - Mộc - Kim - Thổ; Bắc - Nam - Đông - Tây - Trung ương; Đen - Đỏ - Xanh - Trắng - Vàng; Vũ – Chủy - Bốc - Thương - Cung (Theo tự điển văn học Hữu Ngọc) 


Trong khi đợi tấu nhạc, Lộc Sơn hỏi: 
- Ban nhạc các ngươi đã tới đầy đủ chưa? 
Đội nhạc thưa đủ cả, chỉ thiếu Lôi Hải Thanh hiện đang ốm không có mặt. Lộc Sơn phán: 
- Lôi Hải Thanh là tay nổi tiếng trong đội nhạc, y không tới, thì sao còn là ban nhạc nữa. Khá cho ngay người tới gọi y. Dẫu có bệnh, cũng phải là ôm bệnh mà tới. 


Tả hữu vâng mệnh, vội đi gọi ngay. Lộc Sơn lệnh cho các ban nhạc vẫn theo thứ tự mà tấu nhạc, thôi thì đủ tiêu phượng, địch rồng, sáo ngà, sinh loan, chuông vàng, khánh ngọc, đàn Tần trống Yết, tỳ bà phương Bắc, cùng một lúc rộn ràng tiếp nối, hòa nhau, nào thổi, nào đánh, nào gảy, tiếng nghe thật đinh tai nhức óc. 


Giữa lúc huyên náo như vậy, năm mặt cờ bay, phất phới chuyển động, đoàn người nhịp nhàng uốn éo, tiến lui múa hát, đủ màu lấp lánh, khắp sân như gió cuốn. Ca hát, múa xong, tiếng nhạc cũng tạm dừng, các ban các đội theo chỗ cũ mà về, Lộc Sơn trong lòng hoan hỷ, vuốt râu khen ngợi: 
- Trẫm thuở trước theo hầu Lý Tam Lang (1) yến tiệc, cũng đã từng nhiều lần được thấy cảnh này, nhưng lúc ấy cũng chỉ là kẻ theo hầu, không sao khỏi sự trói buộc. Sao cho bằng sự khoan khoái bây giờ. Cái không được bằng bây giờ, là chẳng được chị em Dương Quý Phi sum họp mà hoan lạc vậy! 
1 Lý Tam Lang: chàng ba họ Lý, gọi một cách coi thường, không công nhận ngôi thiên tử của Đường Minh Hoàng. Theo "Từ Hải": Tam Lang là tự của Đường Minh Hoàng. Ở hồi 84 các mỹ nhân ở "Hồng Nghê Bình" cũng qua Quốc Trung mà gửi lời tới Ngọc Hoàn, tức Dương Quý Phi, Tam Lang, tức Đường Minh Hoàng. 


Lại cười tiếp: 
- Nghĩ lại trẫm dấy quân chưa lâu, mà đã lấy được nhiều nơi, có cả Đông Tây hai kinh. Đến nỗi Lý Tam Lang có nhà không ở được, có nước cũng không giữ được, phí cả tâm lực một đời, dạy nuôi thành một ban ca nhạc thế này, mà nay chẳng dược hưởng, phải để lại phần trẫm đây, há chẳng phải mệnh trời sao. Nay trẫm cha con, vua tôi cùng nhau yến tiệc, hãy vui say thả cửa, lũ nhạc công các người tấu nhạc nữa để trợ hứng nào? 


Các đội ca nhạc, nghe Lộc Sơn nói giọng Phiên như vậy, trong lòng đều bất giác cảm thương, nghẹn ngào nên tiếng nhạc nghe như rã rời, có kẻ lặng lẽ rớt nước mắt. Lộc Sơn nhận ra ngay, lớn tiếng quát: 
- Nay trẫm yến tiệc ở đây, các ngươi sao dám ra mặt khóc thương như vậy? 


Bắt tay chân xem xét, người nào mà rầu rĩ khóc lóc, lập tức lôi ra chém đầu. Cả bọn thất kinh, vội vàng giấu chùi nước mắt, giả dạng vui vẻ. Bỗng trong sân có tiếng khóc lớn, thì ra là Lôi Hải Thanh. Nguyên là Hải Thanh thác bệnh không chịu đến, bị Lộc Sơn sai người bức triệu, khi tới gặp lúc ca nhạc huyên náo, trong lòng Hải Thanh đã bực tức, lại nghe thêm những lời vênh vang của Lộc Sơn, cùng là những tiếng quát nạt, liền phẫn uất, nổi lòng nghĩa khí trung trinh, lớn tiếng khóc. Người dưới sân điện, thảy đều kinh hoàng. Bọn tay chân vội truy tìm kẻ táo gan, thì đã thấy Hải Thanh ưỡn ngực bước ra trước điện, kéo tất cả khăn lụa gấm phủ, cùng mọi thứ bày trên vứt cả xuống đất, chỉ mặt Lộc Sơn mà lớn tiếng mắng: 
- Mày là kẻ phản nghịch, chịu ơn dày của thiên tử, mà mang lòng phản loạn, tội đáng phanh làm vạn mảnh, còn dám lớn tiếng nói láo. Lôi Hải Thanh này dẫu chỉ là nhạc công, cũng biết điều trung nghĩa, không đời nào chịu hầu hạ phường phản nghịch. Hôm nay ta quyết sống chết với mày, dẫu có nát thân, thì đã có em ta là Lôi Vạn Xuân, sẵn sàng vì nước tận trung, chẳng chóng thì chày sẽ đâm chết lũ giặc chúng mày! 
Lộc Sơn trừng mắt há hốc mồm mà nhìn, một câu cũng không nói ra, mãi sau mới ra được lệnh mau chém đầu. Bọn tay sai, giơ đao tới tấp Hải Thanh đến lúc chết, miệng vẫn không ngớt chửi mắng. 


Chính là: 
An Kim Tàng nhớ mới năm nào 
Lôi Hải Thanh nay lại tiếp theo 
Nghĩa liệt nhạc công đời hiếm có 
Nghênh ngang áo mũ thẹn là bao! 



Lôi Hải Thanh chết rồi, Lộc Sơn vẫn chưa nguôi cơn giận dữ, truyền bãi ngay yến tiệc, giam tất cả các nhạc công chờ lệnh đưa đi đày. Đang lúc quát tháo, thì có thám mã về thưa: 
- Hoàng thái tử đã lên ngôi Linh Vũ, đủ cả niên hiệu, lấy một vị ẩn sĩ tên Lý Bí làm quân sư, lệnh cho Quảng Bình Vương, Kiến Ninh Vương cùng Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật dẫn quân khôi phục hai kinh. Còn tướng Lệnh Hồ Triều bao phen đánh Ung Khâu, nhưng gặp phải phòng ngự sứ Ung Khâu của nhà Đường là Trương Tuần, rất giỏi phòng giữ, Lệnh Hồ Triều mấy lấn đều thua. 


Lộc Sơn nghe ra, hạ lệnh ngay ngày hôm sau quay về Đông Kinh, mặt khác bàn bạc để điều tướng sĩ ứng cứu các nơi. Còn những cung nữ ở Tây Kinh, cùng vàng ngọc, các của báu khác với nhạc công, nhạc khí đều đưa hết về Đông Kinh. 


Lúc lên đường, Lộc Sơn cưỡi ngựa qua trước thái miếu, bỗng nhiên dừng ngựa, rồi lệnh cho quân sĩ nổi lửa đốt thái miếu. Quân lính vâng mệnh, lập tức bốn phía lửa cháy. Lộc Sơn ngồi trên ngựa nhìn, lửa vừa bén, một luồng khói xanh xông thẳng lên trời cao. Lộc Sơn ngửa mặt lên nhìn, chẳng ngờ luồng khói xanh cứ nhằm đúng đầu Lộc Sơn mà lao xuống, cuộn tròn như một cái vòng, quấn chặt lấy hai mắt Lộc Sơn. Nhìn ra thì hai mắt đã mờ tối, nước mắt chảy ra như trút, không thể cưỡi được ngựa nữa, đành phải lấy xe rồng nhẹ mà đi. Từ đó Lộc Sơn bị mờ cả hai mắt, ngày một nặng chữa chạy vẫn chẳng thuyên giảm, cuối cùng bị mù cả hai mắt. 


Chính là: 
Giặc đốt phá càn dỡ 
Thái Tông mắt vẫn mở 
Nên chọc mắt giặc mù 
Báo ứng giặc phải sợ. 


Lộc Sơn về đến Đông Kinh, hai mắt đã không nhìn thấy gì, trong lòng buồn bực, muốn gọi mấy nhạc công tới đàn hát giải buồn, nhưng lại nghĩ tới chuyện Lôi Hải Thanh, sinh nghi hoặc, không dám gần gũi đám Lê Viên tử đệ này, ý muốn đem bọn này giết quách, nhưng cũng tiếc tài hoa, nên vẫn giữ lại chờ khi cần đến.
***
Lại nói chuyện Lôi Hải Thanh tuẫn tiết được người người truyền tụng, kẻ kẻ ngợi ca, nhân đó mà cảm động đến cả lòng riêng của một viên quan có tiếng. Viên quan này chẳng phải ai khác, chính là người dạo trước tâu với thượng hoàng về chuyện Chung Quỳ, đó là Cấp sự trung Vương Duy. Họ Vương tự là Ma Cật, nguyên là người Thái Nguyên, lúc thiếu thời nằm đọc sách ở vùng núi Chung Nam, đời Khai Nguyên đậu tiến sĩ cập đệ, tính rất hiếu khách, cùng với em là Vương Tấn có rất nhiều tài lạ, Vương Duy học rộng, biết nhiều thứ khác nhau, chữ viết tranh vẽ vừa uyển chuyển vừa cứng cỏi, nổi danh một thời, từ các thân vương, cho đến phò mã, đều coi Vương là bậc thượng khách. Lại thêm tinh thông âm nhạc, có thể tự sáng tác âm điệu mới, đến nỗi Lê Viên giáo phường tranh nhau luyện tập, truyền tụng. Từng có một người bạn của họ Vương, được một bức tranh vẽ cảnh ban nhạc nhưng không rõ là đang tấu bài nhạc gì, Vương Duy nhìn qua liền bảo: 
- Bức tranh này, chính là vẽ vào đội nhạc công đánh đến phách thứ nhất của đoạn ba, điệu "Nghê Thường vũ y khúc". 


Có kẻ hiếu sự, tập hợp các nhạc công lại, cho tấu điệu nhạc này, đến phách thứ nhất của đoạn ba, đều nhất loạt bắt dừng lại không được cử động, rồi xem xét kỹ nhạc công, từ người thổi sáo, kẻ gẩy đàn, gõ trống, từ cánh tay, ngón tay so với cảnh tượng trong bức họa không khác nhau một chút nào. Bởi vậy không ai là không thán phục. 


Năm cuối đời Thiên Bảo, họ Vương làm Cấp sự trung, lúc An Lộc Sơn làm phản, thượng hoàng chạy vào Thục, họ Vương hốt hoảng không kịp theo ai, bị giặc bắt được, liền uống thuốc giả vờ ngây, nói năng ú ớ, để từ chối lệnh của ngụy triều. Lộc Sơn vốn trọng bậc tài năng nên không nỡ giết, sai người đưa về Lạc Dương, giam ở chùa Phổ Thịcho dưỡng bệnh ở đây. Vương Duy bản tính hiếu Phật, nay bị giữ trong chùa, chỉ suốt ngày tụng kinh, hoặc là tĩnh tọa, nghĩ tới chuyện Chung Quỳ móc mắt quỷ, nhai quỷ mà thượng hoàng kể lại dạo nào, cùng là việc Lộc Sơn bị mờ hai mắt mới rồi, cũng là ứng vào lúc giấc mộng của thượng hoàng. Cứ thế mà suy, thì lũ giặc quỷ này sắp đến ngày diệt vong, chỉ giận không kịp theo xa giá, để đến nỗi bị giặc giam giữ ở đây, chẳng biết đến bao giờ mới thấy được mặt rồng. 


Đang lúc nghĩ ngợi, nghe người kể về chuyện Lôi Hải Thanh tuẫn tiết ở hồ Ngưng Bích, bèn hỏi thật cặn kẽ mọi sự, mười phần thương cảm, nhìn trời cao mà gào khóc. Lại nghĩ tới đám Lê Viên giáo phường, nhiều lần tập luyện những khúc điệu của Vương, không ngờ giờ phải hầu hạ lũ phản nghịch, thật là nhục nhã cho chữ nghĩa, nhạc điệu của Vương. Lôi Hải Thanh, dẫu phải ẩn thân trong đám nhạc công nhưng thường ngày đã khác người, đúng là bậc trung quân ái quốc, đừng nói phải nghe những lời khoác lác điên cuồng của kẻ thù mà những điều tai nghe mắt thấy, cũng đủ không nén nỗi lòng căm phẫn. Lại tưởng tới cảnh hồ Ngưng Bích trong nội cung, vốn là nơi nghi ngơi của các thiên tử nhà Đường, nay trở thành nơi chè chén của lũ tội nghịch, thật là không hết nỗi thương tâm. Nghĩ tới đó, tưởng tới đó, Vương Duy liền lấy ngay giấy bút, viết bài thơ sau: 


Muôn bếp đau thương khói vật vờ, 
Trăm quan bao thuở được chầu vua? 
Hòe thu lá rụng cung hoang vắng, 
Ngưng Bích hồ vang tiếng trúc tơ.(1) 
1 Nguyên văn: "Vạn hộ thương tâm sinh dã yên; Bách quan hà nhật tái triều thiên?, Thu hòe diệp lạc không cung lý; Ngưng Bích trì đầu tấu quản huyền”. 


Với bài thơ này, Vương Duy chỉ nói tấm lòng bi thương của mình, chẳng hề định ngợi ca Lôi Hải Thanh, chẳng hề đưa cho người khác xem. Không ngờ Lê Viên giáo phường bị Lộc Sơn đưa về Đông Kinh, họ từ lâu đã kính mộ Vương, tên tuổi lẫy lừng, nay bị giam ở chùa Phổ Thịnày, nên họ hay lui tới thăm hỏi. May có người được đọc bài thơ, rồi truyền cho nhau cùng ngâm nga, mãi tới hành tại của Túc Tông cũng biết. Túc Tông nghe thấy, động lòng than thở, nhân đấy thường ngâm nga. Chỉ có ba chữ "Ngưng Bích Hồ" là nhắc tới một cách kín đáo việc tuẫn tiết của Lôi Hải Thanh. 


Mãi đến khi giặc loạn đã dẹp xong, Túc Tông về Tây Kinh, bàn tới việc thưởng phạt các quan. Lôi Hải Thanh được truy thưởng lòng trung nghĩa. Lúc này đám quan viên theo giặc, cũng là bị giam hãm trong tay giặc đều định tội khác nhau, Vương Duy tuy chưa từng hàng giặc, vẫn thuộc loại bị giặc giam giữ, nên đáng ra cũng trong vòng có tội nhưng em ruột là Vương Tấn, đang làm Hình bộ thị lang, dâng biểu xin từ bỏ hết quan chức để chuộc tội cho anh. Túc Tông nhân nhớ tới bài thơ "Ngưng Bích Trì" này, có mang ý không quên ơn vua, liền đặc chỉ xá tội, lại cho được giữ nguyên chức quan như cũ. Đó là chuyện sau này. 


Chính là: 
Có người ngay tuẫn tiết 
Được thơ càng nổi tiếng 
Có kẻ đáng gia hình 
Vì thơ mà được miễn. 


Lại nói An Lộc Sơn sau khi bị mù mắt, càng thêm bạo ngược, ngay cả với kẻ thân cận dưới quyền. Thấy ai cũng nghi ngờ, sợ hãi, đến nỗi như phát điên, công việc sai sót càng nhiều, càng lớn. Vì vậy lòng người ngày càng ly tán, kẻ thân cận xưa nay cũng thành cừu thù. 
Vậy nên: 
Tội lỗi sau trước chất núi 
Đất trời sớm muộn phân thây. 

Chẳng biết về sau sự việc ra sao, xin xem hồi tiếp phân giải.


Nguồn truyenviet.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved