HỒI 94
An Lộc Sơn bị đâm xổ ruột chết ngay,
Nam Tễ Vân cắt đứt ngón tay cầu viện.
An Lộc Sơn bị đâm xổ ruột chết ngay,
Nam Tễ Vân cắt đứt ngón tay cầu viện.
Từ rằng:
1 Đời cha phản nghịch phụ ơn nước
Đến đời con nào khác được đâu
Cha chống chúa, con phản cha
Lưỡi dao họ Lý mạng già tiêu tan.
2. Đầu rắn nát, đuôi hãy quằn
Tướng cầm quân lại thù hằn ghét ghen
Thương ai vì nước quên thân
Ngón tay đứt, nước mắt tràn, lòng đau.
Theo điệu “Hồ đảo luyện"
Vua sở dĩ được tôn quý là bởi trời, là do cha, một khi đã chống trời, phản cha, thì làm thế nào mà thoát khỏi tội chết. Cho nên dẫu có bị quân chinh phạt của đấng thiên tử giết chết, gục dưới lưỡi đao của phép nước thì cũng chẳng lấy làm lạ, duy có điều khác thường là người báo oán đó lại chính là đứa con ngỗ ngược của kẻ phản loạn vậy. Thân vừa mới phản vua, thì quay trở lại con giết cha, đủ khoái trá lòng người, đủ làm lạnh gáy bao kẻ. Trời báo đứa ác, thật cũng khéo thay.
Cho đến người suốt đời chưa từng nghĩ tới sự phản nghịch, nhưng đến khi nắm quyền hành trong tay, khống chế một vùng, chẳng hề nghĩ đến bảo toàn đất nước, riêng lo thân mình, sợ người ám hại, căm bạn bè thành công nghiệp, ngồi điềm nhiên nhìn thành nhỏ mất trong sớm tối. Bậc trung thần nghĩa sĩ phòng giữ cô thành bằng hai bàn tay không, dẫu cố gắng hết tâm lực, thì cung sức tận tình suy, đến nỗi phải quặn lòng, khóc ra máu, thắm thiết xin quân cứu viện, chẳng khác gì Thân Bao Tư nước Sở kêu khóc bảy ngày trước sân chầu nhà Tần vậy. Thế mà nỡ vẫn đóng binh không động, điềm nhiên không mảy may thổn thức, để đến nỗi thành mất, tướng chết quân tan, trăm họ máu chảy đầu rơi. Lũ người như thế thì khác nào phản nghịch, nói đến cũng đủ dựng tóc vì căm giận!
1 Đời cha phản nghịch phụ ơn nước
Đến đời con nào khác được đâu
Cha chống chúa, con phản cha
Lưỡi dao họ Lý mạng già tiêu tan.
2. Đầu rắn nát, đuôi hãy quằn
Tướng cầm quân lại thù hằn ghét ghen
Thương ai vì nước quên thân
Ngón tay đứt, nước mắt tràn, lòng đau.
Theo điệu “Hồ đảo luyện"
Vua sở dĩ được tôn quý là bởi trời, là do cha, một khi đã chống trời, phản cha, thì làm thế nào mà thoát khỏi tội chết. Cho nên dẫu có bị quân chinh phạt của đấng thiên tử giết chết, gục dưới lưỡi đao của phép nước thì cũng chẳng lấy làm lạ, duy có điều khác thường là người báo oán đó lại chính là đứa con ngỗ ngược của kẻ phản loạn vậy. Thân vừa mới phản vua, thì quay trở lại con giết cha, đủ khoái trá lòng người, đủ làm lạnh gáy bao kẻ. Trời báo đứa ác, thật cũng khéo thay.
Cho đến người suốt đời chưa từng nghĩ tới sự phản nghịch, nhưng đến khi nắm quyền hành trong tay, khống chế một vùng, chẳng hề nghĩ đến bảo toàn đất nước, riêng lo thân mình, sợ người ám hại, căm bạn bè thành công nghiệp, ngồi điềm nhiên nhìn thành nhỏ mất trong sớm tối. Bậc trung thần nghĩa sĩ phòng giữ cô thành bằng hai bàn tay không, dẫu cố gắng hết tâm lực, thì cung sức tận tình suy, đến nỗi phải quặn lòng, khóc ra máu, thắm thiết xin quân cứu viện, chẳng khác gì Thân Bao Tư nước Sở kêu khóc bảy ngày trước sân chầu nhà Tần vậy. Thế mà nỡ vẫn đóng binh không động, điềm nhiên không mảy may thổn thức, để đến nỗi thành mất, tướng chết quân tan, trăm họ máu chảy đầu rơi. Lũ người như thế thì khác nào phản nghịch, nói đến cũng đủ dựng tóc vì căm giận!
***
Nói chuyện An Lộc Sơn
từ ngày hai mắt bị mù tính tình càng tàn bạo, tay chân cho đến kẻ hầu hạ, có
điều gì không vừa ý, là đập đánh rất tàn nhẫn hoặc giết ngay lập tức. Lộc Sơn
có viên nội giám ngày đêm không rời bên mình tên gọi Lý Chủ Nhi, nhưng ngày nào
cũng thường bị đánh. Nói ra cũng thật buồn cười, Nghiêm Trang là bậc đại thần
rất thân tín, nhưng chỉ cần một câu nói không vừa ý, cũng không tránh khỏi roi
vọt. Bởi vậy kẻ trong người ngoài, đều đem lòng oán hận, Lộc Sơn suốt đêm ngày
trong nội cung, văn võ tướng sĩ ít khi được thấy mặt. Trước đây đã lập An Khánh
Tự làm thái tử, về sau lại có người thiếp yêu là Đoàn Thị, sinh một con trai
đặt tên là Khánh ân. Lộc Sơn bởi sủng ái Đoàn Thị nên yêu con, ý muốn phế Khánh
Tự, mà lập Khánh ân làm thái tử. Khánh Tự nhân không được cha yêu, ngày đêm băn
khoăn, hoảng hốt, chẳng biết làm thế nào. Liền ngầm gọi riêng Trang Nghiêm vào
nội cung, đuổi hết tay chân ra, bí mật bàn bạc, xin Nghiêm Trang vạch cho một
kế sách chu toàn. Trang Nghiêm cũng vốn phường hiểm ác, đã quen xúi người làm
việc phản loạn, gần đây lại khổ cực vì luôn bị Lộc Sơn đánh đập, lòng cũng căm
tức không cùng. Thường ngày thấy tính tình Khánh Tự ngu độn, có thể bắt nạt,
lòng thầm nghĩ: "Nhược bằng tay này sớm lên ngôi báu, thì ta có thể dễ
dàng nắm hết quyền hành". Nay Khánh Tự dã cầu xin mách nước, chẳng khác
nào khơi thêm tà dâm ở Trang Nghiêm, dẫu muốn khuyên ngay Khánh Tự làm việc thí
nghịch, nhưng cũng khó mà nói, cứ trầm ngâm mãi. Khánh Tự phải hai ba lần nài
nỉ:
- Ta gần đây luôn bị phụ hoàng đánh đập, điều đó chẳng đáng ngại, chỉ sợ phụ hoàng quá yêu trẻ nhỏ, mai đây liệu có chuyện gì thay đổi ngôi thái tử chăng? Nên phải được kế lâu dài của tiên sinh thì mới không lo gì nữa. Xin tiên sinh chỉ giáo cho!
Trang Nghiêm vờ buồn bã thở dài:
- Xưa nay vẫn nói yêu mẹ thì bồng con nhỏ. Chúa thượng đã yêu Đoàn Thị, thì lẽ tự nhiên là yêu con Đoàn Thị sinh ra, mai kia chuyện phế lập cũng là chuyện tất xảy ra vậy. Xin điện hạ hãy thôi đừng nghĩ đến chuyện nối ngôi cao. Nhưng dẫu có thế đi chăng nữa, sợ rồi tính mạng cũng chẳng giữ được!
Khánh Tự ngạc nhiên hỏi:
- Ta không có tội gì thì sao lại đến nỗi thế!
Trang Nghiêm đáp:
- Điện hạ chưa bao giờ đọc sách, nên không biết những chuyện ngày xưa; đã lập một con thì phải phế một con, đứa con bị phế, có mấy khi mà lại giữ được tính mạng. Sao khỏi chuyện đố kỵ, chuyện hiềm nghi, thế không thể không trừ thì mới yên được, cần gì phải có tội hay không kia chứ!
Khánh Tự nghe thấy thế rất kinh hoàng:
- Nếu đã như vậy thì làm thế nào bây giờ để giữ được tính mạng?
Trang Nghiêm đáp:
- Trong quan hệ giữa cha với con chỉ có hai cách: một là vâng theo, hai là phản nghịch mà thôi.
Khánh Tự hỏi tiếp:
- Không thể nào trốn tránh được thì sao?
Trang Nghiêm đáp:
- Người xưa nói rằng: "Đánh roi nhỏ thì gắng mà chịu, đánh gậy lớn thì phải chạy". Điều này chẳng qua là để nói chuyện trong gia thuộc mà thôi, cha mẹ dạy con, đương lúc giận dữ, lấy gậy lớn mà trách phạt, sợ có thể thương tổn, sợ rồi cha mẹ sẽ đau thương, hối hận, nên tránh nhanh cái họa mang tiếng xấu cho cha mẹ, nếu không tạm thời trốn tránh, vậy nên mới nói: "Đại trượng tắc tẩu" vậy. Nay vừa là cha vừa là bậc thiên tử chí tôn, mà lại nhẫn tâm giết cả con, chỉ cần nói một lời, viết vài chữ, công việc xong xuôi ngay, có chạy đường nào cũng chẳng kịp, cũng chẳng có chỗ nào yên.
Khánh Tự căn vặn:
- Thế là cả tiên sinh cũng không có cách nào cứu ta chăng?
Trang Nghiêm đáp:
- Thần này nếu dâng lời can gián thẳng thắn, thì lại phải chịu đánh đập, mà chẳng ích gì, ngược lại còn giận dữ kéo đến, tai họa lớn ập ngay. Làm thế nào mà thần cứu cho được?
Khánh Tự nghẹn ngào:
- Ta chính là con bà cả, mà không được nối ngôi, thì căm biết chừng nào. Nay chẳng nhẽ lại còn cam chịu chết nữa hay sao?
Trang Nghiêm lấp lửng:
- Điện hạ nếu tránh được cái họa không giữ được thân, thì chuyện phế lập cũng sẽ không xảy ra vậy.
Khánh Tự đáp:
- Xin tiên sinh hãy dạy cho ta mưu kế kỳ diệu. Ta nhất định không thể bó tay chịu chết đâu! .
Trang Nghiêm giả bộ trù trừ, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thong thả:
- Nếu điện hạ đã quyết không khoanh tay chờ chết thì lại là chuyện khác. Còn nếu khoanh tay, tất cái chết sẽ đến. Không muốn chết, thì không được khoanh tay. Ngạn ngữ có câu: "Vua bảo bầy tôi chết, không thể không chết, cha bảo con chết, không thể không chết . Nói đến như vậy, thì người ta chẳng còn đường sống. Cũng chẳng khác gì chúa thượng đây với hoàng đế nhà Đường vậy, chẳng phải là quan hệ quân thần sao. Huống chi lại từng được nhận làm con nuôi của Dương Quý Phi, thì lại vừa là quần thần, vừa là phụ tử nữa kia. Nhưng sau này vua Đường bức chế quá phát hoảng, không thể chờ bó tay chờ chết, đành phải nổi can qua. Nếu chúa thượng cũng ngồi yên như bọn ta đây, thì làm sao mà tránh khỏi họa, lại còn cướp thành chiếm đất, lên ngôi chí tôn, thỏa nguyện bình sinh cả đời người. Cứ thế mà suy, phải thấy là việc gì cũng cần nhìn thời lượng thế mà làm một cách mạnh bạo, mới có thể chuyển họa thành phúc. Nhưng không biết điện hạ có thể từ chỗ không thể tìm ra một kế muôn một nào cả, mà lại có thể tìm ra được một kế vạn bất đắc dĩ không?
Khánh Tự nghe xong cúi đầu nghĩ ngợi, rồi cất tiếng:
- Tiên sinh đã vì ta mà bày mưu tính kế cho, thì thế nào cũng xin kính cẩn nghe theo.
Trang Nghiêm nói:
- Dẫu có như vậy, vẫn phải mượn tay người này mới được, không có y không xong. Đó chính là Lý Chu Nhi. Thần xin mật gọi tới bàn bạc vậy.
Khánh Tự đáp:
- Mọi chuyện đều phải nhờ tiên sinh lo liệu cho, để chậm sợ sinh biến, phải lấy nhanh làm quí vậy.
Trang Nghiêm vâng lời, từ tạ ra về. Gặp ngay Lý Chu Nhi ở cửa cung, hẹn riêng y chiều tối hôm ấy xong việc hầu hạ đến phủ, có chuyện cần thương nghị.
Tối đến, Lý Chu Nhi đã có mặt, Nghiêm Trang sai bày tiệc rượu ngay ở phòng kín, cả hai ngồi đối diện nâng chén. Nghiêm Trang cười hỏi:
- Túc hạ mấy ngày gần đây, phải bao nhiêu roi cả thảy rồi!
Chu Nhi thản nhiên đáp:
- Chuyện không đáng nói, từ trước đến nay số roi vọt tiểu nhân phải chịu, tính sao cho hết. Chẳng biết đến bao giờ cho hết cái nạn này?
Trang Nghiêm đáp:
- Chẳng nói gì túc hạ, mà đến bậc đại thần thân cận như ta đây rồi đến thái tử sắp lên ngôi báu, cũng chẳng nhớ hết số lần bị roi vọt. Thánh nhân có nói: "Vua lấy lễ mà đãi bầy tôi". Lại nói "Phàm làm cha, phải dừng lại chỗ nhân từ". Chúa thượng nay xử sự như vậy, liệu có phải là lấy lễ mà đãi bầy tôi, lấy từ mà dạy con cái chăng" Huống chi nay thiên hạ chưa yên, vạn nhất lòng người trong ngoài đều lìa tan, thì nghiệp lớn coi như đổ vậy!
Chu Nhi đáp:
- Thái tử hãy còn chưa biết đấy. Từ lâu chúa thượng đã có ý phế con lớn lập con nhỏ, phế đích lập thứ. Mai này còn chẳng biết việc gì sẽ xảy ra nữa kia!
Trang Nghiêm nói:
- Sao thái tử lại không biết! Ngày hôm nay vừa ngồi lo lắng kể với ta xong. Ta nghĩ rằng, thái tử vốn nhân hậu, nếu được sớm lên ngôi báu, thì ta với túc hạ tha hồ yên ổn, chẳng còn phải lo gì đến cái vạ đánh đập nữa. Làm thế nào mà tìm được một kế sách diệu kỳ, bắt chúa thượng nhường ngôi cho thái tử ngay là mọi chuyện đều trở nên tốt đẹp ngay.
Chu Nhi khoát tay:
- Chúa thượng tàn bạo như thế, ai người dám nói, mà tính chuyện khuyên nhủ cho được.
Trang Nghiêm nói:
- Nếu đã như vậy, ta là bậc đại thần, cũng còn ít nhiều thể diện triều đình, không phải lúc nào cũng có thể roi vọt cho được. Túc hạ hầu hạ ở trong nội cung, mai này sợ không phải chỉ là chuyện đánh đập mà chỉ sợ vui mừng giận dữ không thường, chẳng biết đi đời lúc nào.
Chu Nhi nghe vậy, bất giác vung tay đấm ngực mà giận dữ:
- Người ta ở đời, tất cả đều chết cả thôi. Nhưng chẳng tội chẳng nợ gì mất đầu phơi thây. Sao bằng hãy một lần làm cho động địa kinh thiên, nếu chẳng thoát được cái họa thây rơi đầu, thì cũng lưu danh tiếng với đời vậy!
Trang Nghiêm tìm đủ mọi cách để Chu Nhi nói được điều này, rồi liền vỗ tay đứng dậy nói tiếp:
- Túc hạ nếu thật có thể làm được việc lớn, thì chẳng có thể nào chết mà ngược lại còn trở thành bậc công thần có công phò tá lớn nữa kia. Chỉ sợ túc hạ chưa quyết ý thôi!
Chu Nhi đáp:
- Tiểu nhân đã nhất quyết rồi! Nhưng đây không phải ý của thái tử. Thái tử còn bị ràng buộc bởi tình cha con, liệu có dung chúng ta chăng?
Trang Nghiêm đáp:
- Chẳng giấu gì túc hạ, ta đã thương nghị với thái tử rồi. Thái tử cũng vì không được chúa thượng yêu nữa, sợ tai họa đến nơi, nói với ta rằng: “Mọi chuyện đều nhờ khanh lo liệu cả cho!". Ta nghĩ túc hạ thế nào cũng đồng lòng, nên mới hẹn túc hạ tới đây bàn bạc.
Chu Nhi nói:
- Nếu đã như thế, việc không nên chậm, chỉ trong sáng tối ngày mai hành sự ngay. Nhân hai ngày nay mắt rồng đang đau nhiều không thể ngủ với cung nữ, một mình ngủ riêng trên điện, chính nên thu xếp cho xong. Chúa thượng thường hay giữ riêng kiếm sắc ở ngay dưới gối, chiều mai phải tìm cách lấy cắp đi, thì chẳng còn điều gì đáng ngại nữa.
Nói xong cùng nhau chia tay.
Ngày hôm sau, Trang Nghiêm hẹn ngầm với Khánh Tự, định đến chập tối, Khánh Tự, Trang Nghiêm cùng giấu kiếm ngắn trong người, nói thác là theo lệnh của Lộc Sơn, vào thẳng trong điện, quân tướng canh điện không dám giữ. Lộc Sơn lúc này đã nằm yên trong trướng gấm, không ngờ Chu Nhi cầm đao thình lình xông vào. Lộc Sơn hai mắt đã mù, chẳng nhận ra người nào, đang định cất tiếng hỏi, Chu Nhi đã ập tới bên, lật ngay chăn lên, dưới ánh đèn, Lộc Sơn ở trần lộ rõ cái bụng to tướng. Nói thời chậm, làm thời nhanh, đao đưa ngay vào bụng. Lộc Sơn nhịn đau, giơ tay tới gối mò tìm kiếm sắc nhưng không thấy đâu, liền ôm lấy cái cọc màn mà hét:
- Cái này nhất định là người trong nhà làm phản rồi!
Miệng dẫu la, nhưng bụng thì ruột gan đã tuôn đầy ra ngoài hàng đấu, hét lớn một tiếng, quằn quại được một chốc thì đã: Ô hô! Ai tai! Thương ôi! Lúc này chính là vào tháng giêng, năm thứ hai, đời Chí Đức. Nghịch tặc phản chúa, giết hại lương dân, tàn ngược trăm họ, tội ác đầy trời, đã bị đâm chết, loạn thần bị nghịch tử báo ứng, lẽ trời lồng lộng. Người đời sau có hai bài từ "Quản chi nhi" rất hay nói vềchuyện này như sau:
1. An Lộc Sơn!
Xưa mày là chó theo Trương Thủ Khuê
Tử hinh được miễn, vỗ về chăm nom
Việc binh lại vẫn đua đòi
Lòng lang dạ sói, xăm xoi tranh giành
Mình rồng đầu lợn hôi tanh
Thân mù chết, hiện nguyên hình giống heo
Lý Chu Nhi là đứa thế nào?
2. Xưa, Minh Hoàng tưởng mày tử tế
Lễ tắm con, lạy mẹ, lạy cha
Thưởng tiền thân mật một nhà
Con nuôi hầu cận hóa ra phản thần
Bỗng dấy nghịch, chiếm giang san
Leo ngôi báu những dọc ngang hại đời
Lẽ báo ứng, khéo nực cười
Lưỡi kiếm sắc đâm những lòi ruột ra
Lòng son thuở trước đâu xa!
Lộc Sơn bị giết rồi, tả hữu kinh hoàng hỗn loạn, Khánh Tự cùng Trang Nghiêm có mặt ngay, trong tay lấp lánh kiếm ngắn, lớn tiếng quát nạt mọi người phải im lặng. Một phần lâu nay ai nấy đều bị Lộc Sơn đối xử tàn nhẫn, nay y chết đều lấy làm may mắn, hai nữa thấy Khánh Tự cùng Trang Nghiêm chủ trương, nên chẳng ai dám ho he. Trang Nghiêm ra lệnh đào hố ngay ở gầm giường xuống sâu mấy mét, lấy chăn gói kín xác Lộc Sơn mà chôn ngay, cấm mọi người không được tiết lộ.
Sáng ngày hôm sau, ban lệnh cho ai nấy biết chúa thượng bị bệnh nặng đột ngột, truyền mệnh cho Khánh Tự nối ngôi. Khánh Tự liền tiếm xưng ngôi cao. Mật lệnh thắt cổ chết ngay Đoàn Thị cùng con Khánh Ân, tiếm tôn Lộc Sơn làm thái thượng hoàng, thăng thưởng cho các tướng, các quan, để yên lòng mọi người.
Mấy ngày sau, mới truyền tin Lộc Sơn đã chết, lệnh cho quần thần không phải vào cung làm lễ khóc viếng gì cả. Mật quật xác ở gầm giường lên, thì xác đã thối rữa, cứ thế mà khâm liệm, rồi phát tang mai táng luôn.
Nghiêm Trang thấy Khánh Tự đần độn, sợ kẻ dưới không phục, nên tránh không để Khánh Tự gặp quần thần. Khánh Tự chỉ ngày đêm đắm say trong tửu sắc, phàm bao nhiêu phi tần sủng ái của Lộc sơn, chẳng tha sự dâm loạn. Mọi việc lớn nhỏ đều do Nghiêm Trang quyết đoán, tự phong làm Bằng Dực Vương. Trang Nghiêm lấy danh Khánh Tự, sai thứ sử của giặc ở Biện Châu là Doãn Tử Kỳ, dẫn mười ba vạn quân đánh thành Thư Dương. Thái thú Thư Dương Hứa Viễn liền cầu cứu phòng ngự sứ Ung Khâu Trương Tuần.
- Ta gần đây luôn bị phụ hoàng đánh đập, điều đó chẳng đáng ngại, chỉ sợ phụ hoàng quá yêu trẻ nhỏ, mai đây liệu có chuyện gì thay đổi ngôi thái tử chăng? Nên phải được kế lâu dài của tiên sinh thì mới không lo gì nữa. Xin tiên sinh chỉ giáo cho!
Trang Nghiêm vờ buồn bã thở dài:
- Xưa nay vẫn nói yêu mẹ thì bồng con nhỏ. Chúa thượng đã yêu Đoàn Thị, thì lẽ tự nhiên là yêu con Đoàn Thị sinh ra, mai kia chuyện phế lập cũng là chuyện tất xảy ra vậy. Xin điện hạ hãy thôi đừng nghĩ đến chuyện nối ngôi cao. Nhưng dẫu có thế đi chăng nữa, sợ rồi tính mạng cũng chẳng giữ được!
Khánh Tự ngạc nhiên hỏi:
- Ta không có tội gì thì sao lại đến nỗi thế!
Trang Nghiêm đáp:
- Điện hạ chưa bao giờ đọc sách, nên không biết những chuyện ngày xưa; đã lập một con thì phải phế một con, đứa con bị phế, có mấy khi mà lại giữ được tính mạng. Sao khỏi chuyện đố kỵ, chuyện hiềm nghi, thế không thể không trừ thì mới yên được, cần gì phải có tội hay không kia chứ!
Khánh Tự nghe thấy thế rất kinh hoàng:
- Nếu đã như vậy thì làm thế nào bây giờ để giữ được tính mạng?
Trang Nghiêm đáp:
- Trong quan hệ giữa cha với con chỉ có hai cách: một là vâng theo, hai là phản nghịch mà thôi.
Khánh Tự hỏi tiếp:
- Không thể nào trốn tránh được thì sao?
Trang Nghiêm đáp:
- Người xưa nói rằng: "Đánh roi nhỏ thì gắng mà chịu, đánh gậy lớn thì phải chạy". Điều này chẳng qua là để nói chuyện trong gia thuộc mà thôi, cha mẹ dạy con, đương lúc giận dữ, lấy gậy lớn mà trách phạt, sợ có thể thương tổn, sợ rồi cha mẹ sẽ đau thương, hối hận, nên tránh nhanh cái họa mang tiếng xấu cho cha mẹ, nếu không tạm thời trốn tránh, vậy nên mới nói: "Đại trượng tắc tẩu" vậy. Nay vừa là cha vừa là bậc thiên tử chí tôn, mà lại nhẫn tâm giết cả con, chỉ cần nói một lời, viết vài chữ, công việc xong xuôi ngay, có chạy đường nào cũng chẳng kịp, cũng chẳng có chỗ nào yên.
Khánh Tự căn vặn:
- Thế là cả tiên sinh cũng không có cách nào cứu ta chăng?
Trang Nghiêm đáp:
- Thần này nếu dâng lời can gián thẳng thắn, thì lại phải chịu đánh đập, mà chẳng ích gì, ngược lại còn giận dữ kéo đến, tai họa lớn ập ngay. Làm thế nào mà thần cứu cho được?
Khánh Tự nghẹn ngào:
- Ta chính là con bà cả, mà không được nối ngôi, thì căm biết chừng nào. Nay chẳng nhẽ lại còn cam chịu chết nữa hay sao?
Trang Nghiêm lấp lửng:
- Điện hạ nếu tránh được cái họa không giữ được thân, thì chuyện phế lập cũng sẽ không xảy ra vậy.
Khánh Tự đáp:
- Xin tiên sinh hãy dạy cho ta mưu kế kỳ diệu. Ta nhất định không thể bó tay chịu chết đâu! .
Trang Nghiêm giả bộ trù trừ, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thong thả:
- Nếu điện hạ đã quyết không khoanh tay chờ chết thì lại là chuyện khác. Còn nếu khoanh tay, tất cái chết sẽ đến. Không muốn chết, thì không được khoanh tay. Ngạn ngữ có câu: "Vua bảo bầy tôi chết, không thể không chết, cha bảo con chết, không thể không chết . Nói đến như vậy, thì người ta chẳng còn đường sống. Cũng chẳng khác gì chúa thượng đây với hoàng đế nhà Đường vậy, chẳng phải là quan hệ quân thần sao. Huống chi lại từng được nhận làm con nuôi của Dương Quý Phi, thì lại vừa là quần thần, vừa là phụ tử nữa kia. Nhưng sau này vua Đường bức chế quá phát hoảng, không thể chờ bó tay chờ chết, đành phải nổi can qua. Nếu chúa thượng cũng ngồi yên như bọn ta đây, thì làm sao mà tránh khỏi họa, lại còn cướp thành chiếm đất, lên ngôi chí tôn, thỏa nguyện bình sinh cả đời người. Cứ thế mà suy, phải thấy là việc gì cũng cần nhìn thời lượng thế mà làm một cách mạnh bạo, mới có thể chuyển họa thành phúc. Nhưng không biết điện hạ có thể từ chỗ không thể tìm ra một kế muôn một nào cả, mà lại có thể tìm ra được một kế vạn bất đắc dĩ không?
Khánh Tự nghe xong cúi đầu nghĩ ngợi, rồi cất tiếng:
- Tiên sinh đã vì ta mà bày mưu tính kế cho, thì thế nào cũng xin kính cẩn nghe theo.
Trang Nghiêm nói:
- Dẫu có như vậy, vẫn phải mượn tay người này mới được, không có y không xong. Đó chính là Lý Chu Nhi. Thần xin mật gọi tới bàn bạc vậy.
Khánh Tự đáp:
- Mọi chuyện đều phải nhờ tiên sinh lo liệu cho, để chậm sợ sinh biến, phải lấy nhanh làm quí vậy.
Trang Nghiêm vâng lời, từ tạ ra về. Gặp ngay Lý Chu Nhi ở cửa cung, hẹn riêng y chiều tối hôm ấy xong việc hầu hạ đến phủ, có chuyện cần thương nghị.
Tối đến, Lý Chu Nhi đã có mặt, Nghiêm Trang sai bày tiệc rượu ngay ở phòng kín, cả hai ngồi đối diện nâng chén. Nghiêm Trang cười hỏi:
- Túc hạ mấy ngày gần đây, phải bao nhiêu roi cả thảy rồi!
Chu Nhi thản nhiên đáp:
- Chuyện không đáng nói, từ trước đến nay số roi vọt tiểu nhân phải chịu, tính sao cho hết. Chẳng biết đến bao giờ cho hết cái nạn này?
Trang Nghiêm đáp:
- Chẳng nói gì túc hạ, mà đến bậc đại thần thân cận như ta đây rồi đến thái tử sắp lên ngôi báu, cũng chẳng nhớ hết số lần bị roi vọt. Thánh nhân có nói: "Vua lấy lễ mà đãi bầy tôi". Lại nói "Phàm làm cha, phải dừng lại chỗ nhân từ". Chúa thượng nay xử sự như vậy, liệu có phải là lấy lễ mà đãi bầy tôi, lấy từ mà dạy con cái chăng" Huống chi nay thiên hạ chưa yên, vạn nhất lòng người trong ngoài đều lìa tan, thì nghiệp lớn coi như đổ vậy!
Chu Nhi đáp:
- Thái tử hãy còn chưa biết đấy. Từ lâu chúa thượng đã có ý phế con lớn lập con nhỏ, phế đích lập thứ. Mai này còn chẳng biết việc gì sẽ xảy ra nữa kia!
Trang Nghiêm nói:
- Sao thái tử lại không biết! Ngày hôm nay vừa ngồi lo lắng kể với ta xong. Ta nghĩ rằng, thái tử vốn nhân hậu, nếu được sớm lên ngôi báu, thì ta với túc hạ tha hồ yên ổn, chẳng còn phải lo gì đến cái vạ đánh đập nữa. Làm thế nào mà tìm được một kế sách diệu kỳ, bắt chúa thượng nhường ngôi cho thái tử ngay là mọi chuyện đều trở nên tốt đẹp ngay.
Chu Nhi khoát tay:
- Chúa thượng tàn bạo như thế, ai người dám nói, mà tính chuyện khuyên nhủ cho được.
Trang Nghiêm nói:
- Nếu đã như vậy, ta là bậc đại thần, cũng còn ít nhiều thể diện triều đình, không phải lúc nào cũng có thể roi vọt cho được. Túc hạ hầu hạ ở trong nội cung, mai này sợ không phải chỉ là chuyện đánh đập mà chỉ sợ vui mừng giận dữ không thường, chẳng biết đi đời lúc nào.
Chu Nhi nghe vậy, bất giác vung tay đấm ngực mà giận dữ:
- Người ta ở đời, tất cả đều chết cả thôi. Nhưng chẳng tội chẳng nợ gì mất đầu phơi thây. Sao bằng hãy một lần làm cho động địa kinh thiên, nếu chẳng thoát được cái họa thây rơi đầu, thì cũng lưu danh tiếng với đời vậy!
Trang Nghiêm tìm đủ mọi cách để Chu Nhi nói được điều này, rồi liền vỗ tay đứng dậy nói tiếp:
- Túc hạ nếu thật có thể làm được việc lớn, thì chẳng có thể nào chết mà ngược lại còn trở thành bậc công thần có công phò tá lớn nữa kia. Chỉ sợ túc hạ chưa quyết ý thôi!
Chu Nhi đáp:
- Tiểu nhân đã nhất quyết rồi! Nhưng đây không phải ý của thái tử. Thái tử còn bị ràng buộc bởi tình cha con, liệu có dung chúng ta chăng?
Trang Nghiêm đáp:
- Chẳng giấu gì túc hạ, ta đã thương nghị với thái tử rồi. Thái tử cũng vì không được chúa thượng yêu nữa, sợ tai họa đến nơi, nói với ta rằng: “Mọi chuyện đều nhờ khanh lo liệu cả cho!". Ta nghĩ túc hạ thế nào cũng đồng lòng, nên mới hẹn túc hạ tới đây bàn bạc.
Chu Nhi nói:
- Nếu đã như thế, việc không nên chậm, chỉ trong sáng tối ngày mai hành sự ngay. Nhân hai ngày nay mắt rồng đang đau nhiều không thể ngủ với cung nữ, một mình ngủ riêng trên điện, chính nên thu xếp cho xong. Chúa thượng thường hay giữ riêng kiếm sắc ở ngay dưới gối, chiều mai phải tìm cách lấy cắp đi, thì chẳng còn điều gì đáng ngại nữa.
Nói xong cùng nhau chia tay.
Ngày hôm sau, Trang Nghiêm hẹn ngầm với Khánh Tự, định đến chập tối, Khánh Tự, Trang Nghiêm cùng giấu kiếm ngắn trong người, nói thác là theo lệnh của Lộc Sơn, vào thẳng trong điện, quân tướng canh điện không dám giữ. Lộc Sơn lúc này đã nằm yên trong trướng gấm, không ngờ Chu Nhi cầm đao thình lình xông vào. Lộc Sơn hai mắt đã mù, chẳng nhận ra người nào, đang định cất tiếng hỏi, Chu Nhi đã ập tới bên, lật ngay chăn lên, dưới ánh đèn, Lộc Sơn ở trần lộ rõ cái bụng to tướng. Nói thời chậm, làm thời nhanh, đao đưa ngay vào bụng. Lộc Sơn nhịn đau, giơ tay tới gối mò tìm kiếm sắc nhưng không thấy đâu, liền ôm lấy cái cọc màn mà hét:
- Cái này nhất định là người trong nhà làm phản rồi!
Miệng dẫu la, nhưng bụng thì ruột gan đã tuôn đầy ra ngoài hàng đấu, hét lớn một tiếng, quằn quại được một chốc thì đã: Ô hô! Ai tai! Thương ôi! Lúc này chính là vào tháng giêng, năm thứ hai, đời Chí Đức. Nghịch tặc phản chúa, giết hại lương dân, tàn ngược trăm họ, tội ác đầy trời, đã bị đâm chết, loạn thần bị nghịch tử báo ứng, lẽ trời lồng lộng. Người đời sau có hai bài từ "Quản chi nhi" rất hay nói vềchuyện này như sau:
1. An Lộc Sơn!
Xưa mày là chó theo Trương Thủ Khuê
Tử hinh được miễn, vỗ về chăm nom
Việc binh lại vẫn đua đòi
Lòng lang dạ sói, xăm xoi tranh giành
Mình rồng đầu lợn hôi tanh
Thân mù chết, hiện nguyên hình giống heo
Lý Chu Nhi là đứa thế nào?
2. Xưa, Minh Hoàng tưởng mày tử tế
Lễ tắm con, lạy mẹ, lạy cha
Thưởng tiền thân mật một nhà
Con nuôi hầu cận hóa ra phản thần
Bỗng dấy nghịch, chiếm giang san
Leo ngôi báu những dọc ngang hại đời
Lẽ báo ứng, khéo nực cười
Lưỡi kiếm sắc đâm những lòi ruột ra
Lòng son thuở trước đâu xa!
Lộc Sơn bị giết rồi, tả hữu kinh hoàng hỗn loạn, Khánh Tự cùng Trang Nghiêm có mặt ngay, trong tay lấp lánh kiếm ngắn, lớn tiếng quát nạt mọi người phải im lặng. Một phần lâu nay ai nấy đều bị Lộc Sơn đối xử tàn nhẫn, nay y chết đều lấy làm may mắn, hai nữa thấy Khánh Tự cùng Trang Nghiêm chủ trương, nên chẳng ai dám ho he. Trang Nghiêm ra lệnh đào hố ngay ở gầm giường xuống sâu mấy mét, lấy chăn gói kín xác Lộc Sơn mà chôn ngay, cấm mọi người không được tiết lộ.
Sáng ngày hôm sau, ban lệnh cho ai nấy biết chúa thượng bị bệnh nặng đột ngột, truyền mệnh cho Khánh Tự nối ngôi. Khánh Tự liền tiếm xưng ngôi cao. Mật lệnh thắt cổ chết ngay Đoàn Thị cùng con Khánh Ân, tiếm tôn Lộc Sơn làm thái thượng hoàng, thăng thưởng cho các tướng, các quan, để yên lòng mọi người.
Mấy ngày sau, mới truyền tin Lộc Sơn đã chết, lệnh cho quần thần không phải vào cung làm lễ khóc viếng gì cả. Mật quật xác ở gầm giường lên, thì xác đã thối rữa, cứ thế mà khâm liệm, rồi phát tang mai táng luôn.
Nghiêm Trang thấy Khánh Tự đần độn, sợ kẻ dưới không phục, nên tránh không để Khánh Tự gặp quần thần. Khánh Tự chỉ ngày đêm đắm say trong tửu sắc, phàm bao nhiêu phi tần sủng ái của Lộc sơn, chẳng tha sự dâm loạn. Mọi việc lớn nhỏ đều do Nghiêm Trang quyết đoán, tự phong làm Bằng Dực Vương. Trang Nghiêm lấy danh Khánh Tự, sai thứ sử của giặc ở Biện Châu là Doãn Tử Kỳ, dẫn mười ba vạn quân đánh thành Thư Dương. Thái thú Thư Dương Hứa Viễn liền cầu cứu phòng ngự sứ Ung Khâu Trương Tuần.
***
Lại nói Trương Tuần ở
Ung Khâu có Nam Tễ Vân cùng Lôi Vạn Xuân theo đến làm lang tướng dưới trướng.
Lúc Minh Hoàng xa giá vào Thục, tướng giặc là Lệnh Hồ Triều tiến đánh Ung Khâu,
Trương Tuần dẫn hai tướng Nam, Lôi cùng quân sĩ tận lực chống cự. Lệnh Hồ Triều
vốn là đồng học của Trương Tuần, bèn viết thư gửi, kể lại quan hệ thân thuộc
cũ, rồi tiếp: "Thiên hạ mất còn là chuyện chưa thể đoán nổi, nhưng giữ một
chiếc thành con như thế này liệu có ích gì, chi cho bằng hàng đi là hay hơn
cả".
Dưới trướng họ Trương có sáu viên đại tướng, cũng khuyên Trương nên đầu hàng. Trương Tuần giận dữ, bày họa tượng Thiên tử trên cao, rồi dẫn quân sĩ vái lạy, khóc lóc, khuyến dụ nghĩa lớn một hồi, ai nấy đều phấn khích. Trương Tuần chém đầu sứ giặc, cùng cả sáu viên đại tướng khuyên hàng. Vì vậy lòng người càng nhất tâm đồng chí, chống giữ. Trong thành thiếu tên, họ Trương liền sai vặn hơn một nghìn người bằng rơm cỏ, cho khoác áo đen, nhân lúc trời tối thòng dây xuống chân thành, quân giặc nghi ngờ hoảng sợ, bắn ra như mưa, nên lấy được vô số tên tốt.
Tối hôm sau, vẫn cứ thả người rơm xuống như cũ, quân giặc đều cười nhưng lại không phòng bị gì nữa. Trương Tuần liền tuyển lấy năm trăm dũng sĩ, nhảy xuống, đâm thẳng vào trại giặc. Giặc đang lúc bất ngờ, phải bỏ trại chạy, bị giết rất nhiều. Lệnh Hồ Triều phẫn uất thân tự đôn đốc lính đánh thành. Trương Tuần sai Lôi Vạn quân lên mặt thành xem xét. Lúc này Vạn Xuân đã nghe tin anh Hải Thanh tuẫn tiết, mười phần thương xót, nghiến răng trừng mắt lên mặt thành, không ngờ quân giặc liên tiếp bắn lên. Vạn Xuân trúng luôn năm sáu phát tên vào mặt, nhưng vẫn đứng như trời trồng không suy suyển. Từ xa Lệnh Hồ Triều nhìn, mới ngờ là người gỗ, đến khi thấy tay nhổ lên, máu loang đầy mặt, mới biết đó là Lôi Vạn Xuân, vô cùng kính phục.
Chính là:
Người rơm tưởng là người thật
Người thật lại bảo gỗ tạc oai phong
Phe trung rơm gỗ đều trung
Kém ai trí dũng, một lòng sắt son.
Tức khắc, Trương Tuần lên thành, Lệnh Hồ Triều đứng lên chòi cao nhìn thấy, lớn tiếng gọi:
- Trương huynh! Ta đã thấy Lôi Vạn Xuân, cũng biết rõ phép làm tướng rất nghiêm minh của Trương huynh. Nhưng còn đạo trời thì làm sao bây giờ?
Trương Tuần đáp:
- Túc hạ chưa biết đạo người, làm sao nói tới đạo trời được. Túc hạ bình thường hàng ngày "thuyết trung đàm nghĩa". Thế nay trung nghĩa đâu rồi? Đã thế xin đừng nhiều lời! Hãy quyết một phen thắng phụ!
Rồi dẫn lính quyết chiến. Quân sĩ đều gắng hết lòng, bắt sống được tới mười bốn viên tướng giặc, chém được hơn tám trăm đầu giặc. Lệnh Hồ Triều thua chạy về Trần Lực, còn lại thì tụm ở Sa Qua. Trương Tuần nhân đêm tối tập kích, giặc đại bại, họ Trương thắng trận quay về. Bỗng thám binh về báo:
- Tướng giặc là Dương Triều Tông, dẫn binh lấy Ninh Lăng, chắn mất đường về rồi!
Trương Tuần chia quân giữ Ung Khâu, tự mình ngày đêm đi Ninh Lăng. Vừa gặp lúc Hứa Viễn kéo quân đến, liền hợp nhất cùng đánh. Mấy lần giao chiến, phá vở được quân Dương Triều Tông, chém hàng mấy ngàn thủ cấp. Tin chiến thắng bay về hành tại. Túc Tông xuống chiếu phong cho Trương Tuần làm Hà Nam Tiết độ phó sứ. Hứa Viễn cũng được thăng làm thái thú Thư Dương.
Cho đến khi Doãn Tử Kỳ tiến công Thư Dương, Hứa Viễn nhận ít quân, sai sứ tới Trương Tuần cầu viện. Trương Tuần biết Thư Dương là nơi hiểm yếu, không thể không quyết giữ, bên dẫn ba nghìn quân từ Ninh Lăng đi Thư Dương, hợp với tướng sĩ của Hứa Viễn, được khoảng không quá bảy nghìn người. Trương Tuần cùng Nam Tễ Vân, Lôi Vạn Xuân với các tướng khác, hết lòng kháng cự, thắng được mấy trận. Trương Tuần muốn bắn tên giết Tử Kỳ, nhưng lại không biết mặt. Liền lấy tên cỏ bông bắn ra, quân giặc nghi ngờ trong thành hết tên, nhặt tên cỏ bông này trình lên Tử Kỳ. Vì vậy Trương Tuần theo dõi biết được mặt mũi Tử Kỳ, lệnh cho Nam Tễ Vân bắn trúng ngay mắt trái.
Chính là:
Lộc Sơn hai mắt mù
Tử Kỳ một mắt chột
Cái mặt chúa tôi ngươi
Không mắt có lẽ tốt.
Từ đó chuyện đánh chuyện giữ, Hứa Viễn đều nghe theo lệnh Trương Tuần. Họ Trương đúng là văn võ toàn tài, không những đánh giỏi mà mưu lược cũng tài, việc binh pháp không chịu nệ theo sách xưa mà biết tùy cơ ứng biến. Lại bản tâm trung nghĩa, mỗi lần ra trận giết giặc, mắm môi nghiến răng, trừng mắt dựng tóc. Nhưng giữa lúc việc quân bận rộn, vẫn không bỏ làm từ ngâm thơ. Nhân trèo lên thành lâu, xa nghe tiếng sáo, liền làm bài: "Trong quân nghe tiếng sáo” sau đây:
Trèo lên chót vót cao
Ngựa giặc thả bên hào
Sắc gió bụi không rõ
Lòng trời đất thế sao?
Cửa mới trăng ải đến
Giặc giã mây thành ngầu
Sớm tối lên lầu ấy
Vi vu tiếng sáo đâu.(1)
1 Bài này thấy có được chọn trong đường Thi tiên chú” quyển 8, các "Đường thi tam bách thủ”, “Đường Thi nhất bách thủ” không thấy. "Thơ Đường I” cũng vậy.
Ngồi nhàn nói chuyện phiếm. Hãy nói Hứa Viễn giữ thành Thư Dương, tích trữ lương thảo được đến hơn trăm vạn thạch, sau bị Tông Phiên Quắc Vương Cự, điều đến hơn một nửa cho các cánh quân khác, chẳng cần biết Hứa Viễn có bằng lòng không, vì vậy trong thành thiếu lương, đến lúc này thì đã gần như cạn khô. Mỗi ngày, mỗi người chỉ được cấp một hai lẻ, phải ăn đủ các thứ linh tinh khác như lá trà, giấy vỏ cây. Quân giặc đánh thành rất gấp, dùng thang mây, hình dạng giống như con thuồng luồng, sai những tên lính dũng cảm khoảng ba trăm người trèo lên mặt thành. Trương Tuần biết trước việc này, sai người nấp sẵn trong ba cái hầm lớn ở trên mặt thành, đợi cho trèo thang gần tới, mỗi một hầm lăn ra một cây gỗ lớn, cứ thế mà lao trúng thang, giặc không thể nào trèo lên được. Trên cây gỗ có cây đóng sẵn móc sắt, làm gỗ cứ bám chặt thang, giặc không tài nào leo qua được. Có cây lại treo sẵn những giỏ sắt đựng thuốc pháo, thuốc pháo cháy, thang mây đứt. Giặc bị thiêu cháy, rơi xuống chân thành. Quân giặc lại làm lừa bằng gỗ để đánh thành, Trương Tuần sai nấu chảy chì đổ xuống, lính trèo lên thành đều bị cháy thiêu. Phàm những cách làm này đều thừa cơ mà nghĩ ra, quân giặc vừa hoảng vừa phục, không dám tiến nữa, chỉ ở ngoài thành đóng doanh trại vây kín lớp này đến lớp khác. Trương Tuần, Hứa Viễn chia nhau chống giữ, cùng với quân sĩ ăn lá, nuốt giấy, nhất định không chịu bỏ thành.
Lúc này đại tướng Hứa Thúc Dực đóng tại Tiều Quận, Hạ Lan Tiến Minh đóng tại Lâm Hoài, đều án binh không chịu cứu, nhất là Lâm Hoài rất gần Thư Dương, Trương Tuần sai Nam Tễ Vân tới Lâm Hoài vay lương xin tiếp viện ngay cho.
Tễ Vân vâng lệnh, dẫn ba mươi người ngựa mở cửa thành xông ra đột ngột mà chạy. Quân giặc hàng vạn tên xúm cả lại, Tễ Vân đâm thẳng vào, bắn bên phải, bên trái, không phát nào là không trúng, đám giặc như bị xé toạc ra. Tễ Vân thoát khỏi vòng vây đến Lâm Hoài, gặp Hạ Lan Tiến Minh xin cứu viện. Không ngờ Tiến Minh không hòa thuận gì với Hứa Thúc Dực, sợ chia quân ra nơi khác, có kẻ đến đánh. thì sao, hai nữa lòng sẵn đố kỵ, không muốn cho Hứa Viễn, Trương Tuần nên công trạng, nhất định không chịu phát binh, cũng không cho vay một đấu lương thực nào cả, còn cất lời:
- Lúc này Thư Dương có khi đã mất rồi, ta dẫu có phát binh, cho vay lương thực cũng chẳng kịp nữa đâu!
Tễ Vân đáp:
- Thư Dương dẫu chết cũng cố giữ để chờ viện binh, đại binh mà kéo đến ngay, thì nhất định không mất. Nếu như quả đã mất, thì họ Nam này, vốn là con trai thứ tám trong nhà, xin lấy cái chết để tạ ơn đại nhân.
Tiến Minh vẫn không nghe, Tễ Vân khẳng khái gào lớn:
- Thư Dương với Lâm Hoài chẳng khác gì da với lông, cùng nương tựa lẫn nhau. Thư Dương mà mất, sẽ đến lượt Lâm Hoài, sao đại nhân lại không cứu?
Nói xong rồi ngửa mặt lên trời mà hét lớn. Tiến Minh cũng kính ái lòng trung dũng, ý muốn giữ lại, nên mới lấy lời ôn hòa mà an ủi, sai bày tiệc rượu khoản đãi, có cả ban nhạc góp vui, Tễ Vân khóc lớn mà rằng:
- Lúc tiểu nhân này ra đi, trong thành Tư Dương đã không có ăn hơn một tháng nay rồi, nay một mình muốn ngồi ăn, làm sao nuốt cho trôi! Đại nhân ngồi ôm binh cường mã tráng, không hề có ý định chia lửa cứu nạn, há bậc trung thần nghĩa sĩ lại làm như vậy sao?
Gào xong, như phát điên, tự mình cắn đứt một ngón tay, đưa cho Tiến Minh thấy:
- Tiểu nhân đã không làm được theo ý chủ tướng, xin lưu ngón tay này ở đây để làm tin, quay về báo với chủ tướng rồi cùng chết.
Cùng một lúc, máu ở ngón tay, máu ở mắt tuôn như suối. Khách ngồi bàn tiệc đều đưa tay chùi nước mắt. Tiến Minh đã quyết không cứu cũng nghĩ là Tễ Vân chẳng ở lại nào, liền từ tốn mà đuổi ra.
Đây chính là một câu chuyện đau thương, vô cùng căm giận của nghìn năm. Mãi cho đến nay ở Thư Dương, trong miếu thờ Trương Tuần, vẫn còn một pho tượng Hạ Lan Tiến Minh bằng đồng, cởi trần, tay bị trói, quỳ ở dưới thềm để cho mọi người đánh đập, những mong bõ lòng tức giận. Người đời sau cũng có hai bài từ "Quản chi nhi" nói rất hay về chuyện này, như sau:
1. Hạ Lan Tiến Minh !
Xưa mày ău lộc nhà Đường
Tưởng mày cứu bạn tai ương thoát nàn
Ai ngờ mày lập mưu gian
Làm ngơ không viện binh sang Thư Thành
Tễ Vân ôm hận một mình
Cắn một ngón, chính để giành mai sau!
2. Hạ Lan Tiến Minh!
Mai sau vẫn ngàn đời thương tiếc
Nam Tễ Vân khốn thiết cầu binh
Mà mày gỗ đá làm thinh
Bạn nguy không cứu, vô tình lắm thay
Chuyện xưa kể đến đoạn này
Phừng phừng nổi giận chau mày nghiến răng
Tượng mày quỳ miếu Thư Dương
Cầm roi ta quất dọc ngang đầu mày.
Tễ Vân từ Lâm Hoài chạy đi Ninh Lãng, cùng với biên tướng Liêm Thản, dẫn mấy trăm lính, vừa bộ binh, vừa kỵ binh, mạo hiểm lẻn về Thư Dương, đánh nhau với quân giặc, làm tan tác một trại lính của giặc, mới vào được thành. Trong thành nghe tin cứu binh chẳng có, không phải là không gào khóc, có kẻ xin hãy bỏ thành mà chạy.
Trương Tuần cùng Hứa Viễn thản nhiên phủ dụ trăm họ rằng:
- Thư Dương chính là bức thành che của vũng Gianh Hoài, nếu bỏ thành mà đi, giặc cứ thế đuổi dài về phía đông, thì Giang Hoài chẳng còn. Huống chi chúng ta đều đã mỏi mệt, đói khát. có chạy cũng chẳng được, rồi sẽ bị tàn sát hết cả. Lâm Hoài dẫu chẳng đến cứu nhưng các quận xung quanh há không có bậc nghĩa sĩ. Chi cho bằng hãy cố giữ sức mà chờ. Chỉ có điều trong thành đã hết lương, nên chẳng lòng nào mà giữ cả, để mọi người cũng chịu cơ hàn. Nay tùy ý mọi người. Còn chúng ta là hai người do triều đình sai coi giữ đất này, lẽ đương nhiên phải đem thân mình ra mà làm tròn, không dám nói tới việc đi khỏi đây.
Ai nấy nghe những lời này đều phấn khích, nguyện đem hết lòng hết sức để giữ thành, rồi giết ngựa, ngựa cũng hết, bắt chim đào chuột mà ăn, chim chuột cũng hết. Trương Tuần giết người thiếp yêu, Hứa Viễn giết gia đồng để cho quân sĩ ăn. Ai ai cũng cảm động trong lòng, dù biết sẽ chết, nhưng không hề có ý phản loạn.
Thế là cầm giữ được mấy ngày nữa, quân tướng đều xanh xao, gầy giơ xương, phần nhiều ốm đau, không còn đủ sức mà cầm cự nữa.
Quân giặc trèo cả được lên mặt thành. Trương Tuần hướng về phía tây vái lạy mà rằng:
- Thần lực đã cạn rồi! Chẳng giữ trọn được thành để báo đáp triều đình, dẫu có chết cũng nguyện sẽ thành con quỷ cường tráng để giết lũ giặc!
Nay ở chùa Từ Nhân vùng Thịnh Kinh có đắp một pho tượng quỷ Bồ Tát mặt xanh, tóc đỏ, miệng ngậm rắn lớn, chẳng khác gì quỷ dạ xoa, chính là tượng quỷ do Trương Tuần biến thành theo như lời thề ở thành Thư Dương này. Thành bị phá, họ Trương, họ Hứa cùng các tướng đều bị bắt. Doãn Tử Kỳ sai Hứa Viễn về Lạc Dương, còn Trương Tuần cùng Nam Tễ Vân, cộng cả thảy ba mươi sáu người đều bị giết hại. Trương Tuần cho đến khi chết sắc mặt vẫn không đổi. Vạn Xuân, Tễ Vân đều không ngớt mắng giặc cho mãi đến khi chết. Còn lại mười người khác, cũng không ai chịu khuất phục.
Về sau có người làm thơ ngợi ca:
Trương Tuần chết trước tròn chữ trung
Hứa Viễn thác sau vẹn chữ tiết
Chết theo đâu phải chỉ Nam, Lôi
Ba mươi sáu người rạng nghĩa liệt.
Thành Thư Dương bị mất sau ba ngày, cứu binh của Tiết độ sứ Hà Nam Trương Hao mới tới nơi. Thì ra Trương Hạo nghe tin Thư Dương nguy cấp, vội kéo quân gấp đi cứu viện, chỉ lo không kịp, liền sai kỵ mã phi như bay đem hịch tới cho thái thú Tiều Quận Lư Khâu Hiểu tức tốc dẫn quân bản bộ đi trước. Khâu Hiểu vốn ngạo ngược, không chịu nghe lệnh, chẳng cần cất quân. Đến khi Trương Hạo kéo được quân tới, thì thành đã mất. Trương Hạo nổi giận đùng đùng, lệnh vũ sĩ trói ngay Lư Khâu Hiểu, giải đến trước hàng quân đánh kỳ chết.
Chính là:
Cây roi đánh tội Lư Khâu Hiểu
Cất chờ trị Hạ Lan Tiến Minh.
Dưới trướng họ Trương có sáu viên đại tướng, cũng khuyên Trương nên đầu hàng. Trương Tuần giận dữ, bày họa tượng Thiên tử trên cao, rồi dẫn quân sĩ vái lạy, khóc lóc, khuyến dụ nghĩa lớn một hồi, ai nấy đều phấn khích. Trương Tuần chém đầu sứ giặc, cùng cả sáu viên đại tướng khuyên hàng. Vì vậy lòng người càng nhất tâm đồng chí, chống giữ. Trong thành thiếu tên, họ Trương liền sai vặn hơn một nghìn người bằng rơm cỏ, cho khoác áo đen, nhân lúc trời tối thòng dây xuống chân thành, quân giặc nghi ngờ hoảng sợ, bắn ra như mưa, nên lấy được vô số tên tốt.
Tối hôm sau, vẫn cứ thả người rơm xuống như cũ, quân giặc đều cười nhưng lại không phòng bị gì nữa. Trương Tuần liền tuyển lấy năm trăm dũng sĩ, nhảy xuống, đâm thẳng vào trại giặc. Giặc đang lúc bất ngờ, phải bỏ trại chạy, bị giết rất nhiều. Lệnh Hồ Triều phẫn uất thân tự đôn đốc lính đánh thành. Trương Tuần sai Lôi Vạn quân lên mặt thành xem xét. Lúc này Vạn Xuân đã nghe tin anh Hải Thanh tuẫn tiết, mười phần thương xót, nghiến răng trừng mắt lên mặt thành, không ngờ quân giặc liên tiếp bắn lên. Vạn Xuân trúng luôn năm sáu phát tên vào mặt, nhưng vẫn đứng như trời trồng không suy suyển. Từ xa Lệnh Hồ Triều nhìn, mới ngờ là người gỗ, đến khi thấy tay nhổ lên, máu loang đầy mặt, mới biết đó là Lôi Vạn Xuân, vô cùng kính phục.
Chính là:
Người rơm tưởng là người thật
Người thật lại bảo gỗ tạc oai phong
Phe trung rơm gỗ đều trung
Kém ai trí dũng, một lòng sắt son.
Tức khắc, Trương Tuần lên thành, Lệnh Hồ Triều đứng lên chòi cao nhìn thấy, lớn tiếng gọi:
- Trương huynh! Ta đã thấy Lôi Vạn Xuân, cũng biết rõ phép làm tướng rất nghiêm minh của Trương huynh. Nhưng còn đạo trời thì làm sao bây giờ?
Trương Tuần đáp:
- Túc hạ chưa biết đạo người, làm sao nói tới đạo trời được. Túc hạ bình thường hàng ngày "thuyết trung đàm nghĩa". Thế nay trung nghĩa đâu rồi? Đã thế xin đừng nhiều lời! Hãy quyết một phen thắng phụ!
Rồi dẫn lính quyết chiến. Quân sĩ đều gắng hết lòng, bắt sống được tới mười bốn viên tướng giặc, chém được hơn tám trăm đầu giặc. Lệnh Hồ Triều thua chạy về Trần Lực, còn lại thì tụm ở Sa Qua. Trương Tuần nhân đêm tối tập kích, giặc đại bại, họ Trương thắng trận quay về. Bỗng thám binh về báo:
- Tướng giặc là Dương Triều Tông, dẫn binh lấy Ninh Lăng, chắn mất đường về rồi!
Trương Tuần chia quân giữ Ung Khâu, tự mình ngày đêm đi Ninh Lăng. Vừa gặp lúc Hứa Viễn kéo quân đến, liền hợp nhất cùng đánh. Mấy lần giao chiến, phá vở được quân Dương Triều Tông, chém hàng mấy ngàn thủ cấp. Tin chiến thắng bay về hành tại. Túc Tông xuống chiếu phong cho Trương Tuần làm Hà Nam Tiết độ phó sứ. Hứa Viễn cũng được thăng làm thái thú Thư Dương.
Cho đến khi Doãn Tử Kỳ tiến công Thư Dương, Hứa Viễn nhận ít quân, sai sứ tới Trương Tuần cầu viện. Trương Tuần biết Thư Dương là nơi hiểm yếu, không thể không quyết giữ, bên dẫn ba nghìn quân từ Ninh Lăng đi Thư Dương, hợp với tướng sĩ của Hứa Viễn, được khoảng không quá bảy nghìn người. Trương Tuần cùng Nam Tễ Vân, Lôi Vạn Xuân với các tướng khác, hết lòng kháng cự, thắng được mấy trận. Trương Tuần muốn bắn tên giết Tử Kỳ, nhưng lại không biết mặt. Liền lấy tên cỏ bông bắn ra, quân giặc nghi ngờ trong thành hết tên, nhặt tên cỏ bông này trình lên Tử Kỳ. Vì vậy Trương Tuần theo dõi biết được mặt mũi Tử Kỳ, lệnh cho Nam Tễ Vân bắn trúng ngay mắt trái.
Chính là:
Lộc Sơn hai mắt mù
Tử Kỳ một mắt chột
Cái mặt chúa tôi ngươi
Không mắt có lẽ tốt.
Từ đó chuyện đánh chuyện giữ, Hứa Viễn đều nghe theo lệnh Trương Tuần. Họ Trương đúng là văn võ toàn tài, không những đánh giỏi mà mưu lược cũng tài, việc binh pháp không chịu nệ theo sách xưa mà biết tùy cơ ứng biến. Lại bản tâm trung nghĩa, mỗi lần ra trận giết giặc, mắm môi nghiến răng, trừng mắt dựng tóc. Nhưng giữa lúc việc quân bận rộn, vẫn không bỏ làm từ ngâm thơ. Nhân trèo lên thành lâu, xa nghe tiếng sáo, liền làm bài: "Trong quân nghe tiếng sáo” sau đây:
Trèo lên chót vót cao
Ngựa giặc thả bên hào
Sắc gió bụi không rõ
Lòng trời đất thế sao?
Cửa mới trăng ải đến
Giặc giã mây thành ngầu
Sớm tối lên lầu ấy
Vi vu tiếng sáo đâu.(1)
1 Bài này thấy có được chọn trong đường Thi tiên chú” quyển 8, các "Đường thi tam bách thủ”, “Đường Thi nhất bách thủ” không thấy. "Thơ Đường I” cũng vậy.
Ngồi nhàn nói chuyện phiếm. Hãy nói Hứa Viễn giữ thành Thư Dương, tích trữ lương thảo được đến hơn trăm vạn thạch, sau bị Tông Phiên Quắc Vương Cự, điều đến hơn một nửa cho các cánh quân khác, chẳng cần biết Hứa Viễn có bằng lòng không, vì vậy trong thành thiếu lương, đến lúc này thì đã gần như cạn khô. Mỗi ngày, mỗi người chỉ được cấp một hai lẻ, phải ăn đủ các thứ linh tinh khác như lá trà, giấy vỏ cây. Quân giặc đánh thành rất gấp, dùng thang mây, hình dạng giống như con thuồng luồng, sai những tên lính dũng cảm khoảng ba trăm người trèo lên mặt thành. Trương Tuần biết trước việc này, sai người nấp sẵn trong ba cái hầm lớn ở trên mặt thành, đợi cho trèo thang gần tới, mỗi một hầm lăn ra một cây gỗ lớn, cứ thế mà lao trúng thang, giặc không thể nào trèo lên được. Trên cây gỗ có cây đóng sẵn móc sắt, làm gỗ cứ bám chặt thang, giặc không tài nào leo qua được. Có cây lại treo sẵn những giỏ sắt đựng thuốc pháo, thuốc pháo cháy, thang mây đứt. Giặc bị thiêu cháy, rơi xuống chân thành. Quân giặc lại làm lừa bằng gỗ để đánh thành, Trương Tuần sai nấu chảy chì đổ xuống, lính trèo lên thành đều bị cháy thiêu. Phàm những cách làm này đều thừa cơ mà nghĩ ra, quân giặc vừa hoảng vừa phục, không dám tiến nữa, chỉ ở ngoài thành đóng doanh trại vây kín lớp này đến lớp khác. Trương Tuần, Hứa Viễn chia nhau chống giữ, cùng với quân sĩ ăn lá, nuốt giấy, nhất định không chịu bỏ thành.
Lúc này đại tướng Hứa Thúc Dực đóng tại Tiều Quận, Hạ Lan Tiến Minh đóng tại Lâm Hoài, đều án binh không chịu cứu, nhất là Lâm Hoài rất gần Thư Dương, Trương Tuần sai Nam Tễ Vân tới Lâm Hoài vay lương xin tiếp viện ngay cho.
Tễ Vân vâng lệnh, dẫn ba mươi người ngựa mở cửa thành xông ra đột ngột mà chạy. Quân giặc hàng vạn tên xúm cả lại, Tễ Vân đâm thẳng vào, bắn bên phải, bên trái, không phát nào là không trúng, đám giặc như bị xé toạc ra. Tễ Vân thoát khỏi vòng vây đến Lâm Hoài, gặp Hạ Lan Tiến Minh xin cứu viện. Không ngờ Tiến Minh không hòa thuận gì với Hứa Thúc Dực, sợ chia quân ra nơi khác, có kẻ đến đánh. thì sao, hai nữa lòng sẵn đố kỵ, không muốn cho Hứa Viễn, Trương Tuần nên công trạng, nhất định không chịu phát binh, cũng không cho vay một đấu lương thực nào cả, còn cất lời:
- Lúc này Thư Dương có khi đã mất rồi, ta dẫu có phát binh, cho vay lương thực cũng chẳng kịp nữa đâu!
Tễ Vân đáp:
- Thư Dương dẫu chết cũng cố giữ để chờ viện binh, đại binh mà kéo đến ngay, thì nhất định không mất. Nếu như quả đã mất, thì họ Nam này, vốn là con trai thứ tám trong nhà, xin lấy cái chết để tạ ơn đại nhân.
Tiến Minh vẫn không nghe, Tễ Vân khẳng khái gào lớn:
- Thư Dương với Lâm Hoài chẳng khác gì da với lông, cùng nương tựa lẫn nhau. Thư Dương mà mất, sẽ đến lượt Lâm Hoài, sao đại nhân lại không cứu?
Nói xong rồi ngửa mặt lên trời mà hét lớn. Tiến Minh cũng kính ái lòng trung dũng, ý muốn giữ lại, nên mới lấy lời ôn hòa mà an ủi, sai bày tiệc rượu khoản đãi, có cả ban nhạc góp vui, Tễ Vân khóc lớn mà rằng:
- Lúc tiểu nhân này ra đi, trong thành Tư Dương đã không có ăn hơn một tháng nay rồi, nay một mình muốn ngồi ăn, làm sao nuốt cho trôi! Đại nhân ngồi ôm binh cường mã tráng, không hề có ý định chia lửa cứu nạn, há bậc trung thần nghĩa sĩ lại làm như vậy sao?
Gào xong, như phát điên, tự mình cắn đứt một ngón tay, đưa cho Tiến Minh thấy:
- Tiểu nhân đã không làm được theo ý chủ tướng, xin lưu ngón tay này ở đây để làm tin, quay về báo với chủ tướng rồi cùng chết.
Cùng một lúc, máu ở ngón tay, máu ở mắt tuôn như suối. Khách ngồi bàn tiệc đều đưa tay chùi nước mắt. Tiến Minh đã quyết không cứu cũng nghĩ là Tễ Vân chẳng ở lại nào, liền từ tốn mà đuổi ra.
Đây chính là một câu chuyện đau thương, vô cùng căm giận của nghìn năm. Mãi cho đến nay ở Thư Dương, trong miếu thờ Trương Tuần, vẫn còn một pho tượng Hạ Lan Tiến Minh bằng đồng, cởi trần, tay bị trói, quỳ ở dưới thềm để cho mọi người đánh đập, những mong bõ lòng tức giận. Người đời sau cũng có hai bài từ "Quản chi nhi" nói rất hay về chuyện này, như sau:
1. Hạ Lan Tiến Minh !
Xưa mày ău lộc nhà Đường
Tưởng mày cứu bạn tai ương thoát nàn
Ai ngờ mày lập mưu gian
Làm ngơ không viện binh sang Thư Thành
Tễ Vân ôm hận một mình
Cắn một ngón, chính để giành mai sau!
2. Hạ Lan Tiến Minh!
Mai sau vẫn ngàn đời thương tiếc
Nam Tễ Vân khốn thiết cầu binh
Mà mày gỗ đá làm thinh
Bạn nguy không cứu, vô tình lắm thay
Chuyện xưa kể đến đoạn này
Phừng phừng nổi giận chau mày nghiến răng
Tượng mày quỳ miếu Thư Dương
Cầm roi ta quất dọc ngang đầu mày.
Tễ Vân từ Lâm Hoài chạy đi Ninh Lãng, cùng với biên tướng Liêm Thản, dẫn mấy trăm lính, vừa bộ binh, vừa kỵ binh, mạo hiểm lẻn về Thư Dương, đánh nhau với quân giặc, làm tan tác một trại lính của giặc, mới vào được thành. Trong thành nghe tin cứu binh chẳng có, không phải là không gào khóc, có kẻ xin hãy bỏ thành mà chạy.
Trương Tuần cùng Hứa Viễn thản nhiên phủ dụ trăm họ rằng:
- Thư Dương chính là bức thành che của vũng Gianh Hoài, nếu bỏ thành mà đi, giặc cứ thế đuổi dài về phía đông, thì Giang Hoài chẳng còn. Huống chi chúng ta đều đã mỏi mệt, đói khát. có chạy cũng chẳng được, rồi sẽ bị tàn sát hết cả. Lâm Hoài dẫu chẳng đến cứu nhưng các quận xung quanh há không có bậc nghĩa sĩ. Chi cho bằng hãy cố giữ sức mà chờ. Chỉ có điều trong thành đã hết lương, nên chẳng lòng nào mà giữ cả, để mọi người cũng chịu cơ hàn. Nay tùy ý mọi người. Còn chúng ta là hai người do triều đình sai coi giữ đất này, lẽ đương nhiên phải đem thân mình ra mà làm tròn, không dám nói tới việc đi khỏi đây.
Ai nấy nghe những lời này đều phấn khích, nguyện đem hết lòng hết sức để giữ thành, rồi giết ngựa, ngựa cũng hết, bắt chim đào chuột mà ăn, chim chuột cũng hết. Trương Tuần giết người thiếp yêu, Hứa Viễn giết gia đồng để cho quân sĩ ăn. Ai ai cũng cảm động trong lòng, dù biết sẽ chết, nhưng không hề có ý phản loạn.
Thế là cầm giữ được mấy ngày nữa, quân tướng đều xanh xao, gầy giơ xương, phần nhiều ốm đau, không còn đủ sức mà cầm cự nữa.
Quân giặc trèo cả được lên mặt thành. Trương Tuần hướng về phía tây vái lạy mà rằng:
- Thần lực đã cạn rồi! Chẳng giữ trọn được thành để báo đáp triều đình, dẫu có chết cũng nguyện sẽ thành con quỷ cường tráng để giết lũ giặc!
Nay ở chùa Từ Nhân vùng Thịnh Kinh có đắp một pho tượng quỷ Bồ Tát mặt xanh, tóc đỏ, miệng ngậm rắn lớn, chẳng khác gì quỷ dạ xoa, chính là tượng quỷ do Trương Tuần biến thành theo như lời thề ở thành Thư Dương này. Thành bị phá, họ Trương, họ Hứa cùng các tướng đều bị bắt. Doãn Tử Kỳ sai Hứa Viễn về Lạc Dương, còn Trương Tuần cùng Nam Tễ Vân, cộng cả thảy ba mươi sáu người đều bị giết hại. Trương Tuần cho đến khi chết sắc mặt vẫn không đổi. Vạn Xuân, Tễ Vân đều không ngớt mắng giặc cho mãi đến khi chết. Còn lại mười người khác, cũng không ai chịu khuất phục.
Về sau có người làm thơ ngợi ca:
Trương Tuần chết trước tròn chữ trung
Hứa Viễn thác sau vẹn chữ tiết
Chết theo đâu phải chỉ Nam, Lôi
Ba mươi sáu người rạng nghĩa liệt.
Thành Thư Dương bị mất sau ba ngày, cứu binh của Tiết độ sứ Hà Nam Trương Hao mới tới nơi. Thì ra Trương Hạo nghe tin Thư Dương nguy cấp, vội kéo quân gấp đi cứu viện, chỉ lo không kịp, liền sai kỵ mã phi như bay đem hịch tới cho thái thú Tiều Quận Lư Khâu Hiểu tức tốc dẫn quân bản bộ đi trước. Khâu Hiểu vốn ngạo ngược, không chịu nghe lệnh, chẳng cần cất quân. Đến khi Trương Hạo kéo được quân tới, thì thành đã mất. Trương Hạo nổi giận đùng đùng, lệnh vũ sĩ trói ngay Lư Khâu Hiểu, giải đến trước hàng quân đánh kỳ chết.
Chính là:
Cây roi đánh tội Lư Khâu Hiểu
Cất chờ trị Hạ Lan Tiến Minh.
HỒI 95
Lý nhạc công thổi sáo gặp tiên ông,
Vương cung phụng nghe cờ học thần nữ.
Từ rằng:
1. Thanh âm kỳ diệu cảm tiên ông
Đêm sáng trăng gặp gỡ giữa rừng
Những tiếc trúc tre còn vướng tục
Giọng cao, điệu gấp vỡ như không.
2. Cờ tiên cao nhã thần thông
Bổ vây, cứu ứng có không nhiệm mầu
Trợ tài công thủ thấp cao
Mới ra tay đã đứng đầu nhân gian.
Theo điệu "Nguyệt trung hành"
Người ta sinh ra ở đời, không những trung hiếu tiết nghĩa, công nghiệp, đạo đức, văn chương đều có thể để tiếng thơm cho đời sau, trở thành bất hủ, mà ngay đến những tài vặt, những cái khéo nhỏ, nếu biết chuyên tâm gắng chí thì danh tiếng cũng nổi một thời, tài nghệ đến mức "tinh diệu nhập thần", được vua chúa biết đến, cảm động cả bậc thần tiên, khiến bản thân có được những cuộc gặp gỡ hiếm có, truyền mãi mãi đời sau như một thiên giai thoại.
**
Hãy nói chuyện Trương
Hạo xử tội chết Lư Khẩu Hiệu xong, liền đưa công văn sang trách tội Hạ Lan Tiến
Minh không chịu cứu thành Thư Dương, vừa khi triều đình sai Trương Hạo ra trấn
thủ Lâm Hoài, đổi Tiến Minh đi nơi khác. Họ Trương bèn dẫn quân đánh lấy lại
Thư Dương. Đang đánh nhau to, thì bốn bề mây đen kéo đến, gió lạnh buốt đập vào
mặt Tử Kỳ. Tiếng thần gào quỷ khóc vang dội, từ trên không âm binh kéo xuống,
quân Tử Kỳ hoảng sợ, rối loạn bỏ chạy.
Đúng là:
Thân chết làm ma thề phá giặc
Tôi trung hồn phách mãi còn thiêng.
Tử Kỳ thua to, bỏ Thư Dương chạy về Trần Lưu. Ai ngờ trăm họ Trần Lưu lâu nay vần căm hờn quân nghịch tàn ác, thương tiếc những kẻ trung lương bị sát hại bèn rủ nhau nổi dậy, chém ngay Tử Kỳ, mở cửa thành đón quân triều đình.
Trương Hạo vỗ về dân chúng, chia binh đóng giữ các nơi, kể tên những bề tôi tử nạn ở Thư Dương dâng biểu tấu lên. Thượng Hoàng xuống chiếu truyền Túc Tông khen thưởng cho những người tuẫn tiết này.
Thượng hoàng từ ngày vào Thục, vắng hình bóng Dương Quý Phi, lòng luôn tưởng nhớ. Bọn Lê Viên tử đệ thì quá nửa thất lạc, hầu cận cũ còn lại rất ít, nên lúc nào cũng rầu rĩ. May có Cao Lực Sĩ ngày đêm ở bên hết cách khuyên giải. Bỗng được tin An Lộc Sơn thiêu hủy tôn miếu, giết hại hoàng tộc, tàn sát bách tính, thượng hoàng đấm ngực, dậm chân, vô cùng đau đớn. Tiếp đó là tin Lộc Sơn bị giết, thượng hoàng ân hận:
- Trẫm tiếc rằng không tự tay băm vằm thằng giặc này được nữa.
Nhân nhớ tới quan tể tướng đã mất là Trương Cửu Linh, người xưa kia đã từng quyết đoán Lộc Sơn rành rành có tướng phản nghịch, không nên để sống, giờ mới thấy là lời sáng suốt, nếu biết nghe theo thì sao đến nỗi gặp vạ này. Bèn sai thái giám đưa lễ vật đến Khúc Giang, kèm một bài văn tế do thượng hoàng thân soạn ra, để đọc trước mộ.
Bài văn tế như sau:
Nhớ khanh xưa:
Có lời can gián
Rằng An Lộc Sơn
Tướng phản rõ ràng
Chớ nên để sống
Bởi giết chẳng thương
Trẫm không nghe lời
Buông tha đứa gian
Đã không trừ diệt
Sai trấn ngoài phiên
Gây nên vạ lớn
Rất là lỗi lầm
Khanh nếu còn sống
Trẫm càng thẹn thùng
Nhớ tôi trung cũ
Giọt lệ chứa chan
Sai bày lễ tế
Tỏ ý phàn nàn
Khen khanh sáng suốt
Nghĩ trẫm tối tăm
Thượng hưởng!
Thượng hoàng không những truy tế Trương Cửu Linh, lại còn ban thưởng cho gia quyến họ Trương rất nhiều. Xuống chiếu cho tìm hết tên tuổi những trung thần tử nạn tâu lên cho Túc Tông. Nghe đến việc Lôi Hải Thanh tuẫn tiết ở hồ Ngưng Bích, thượng hoàng rất khen ngợi, Trương Dã Hồ nhân dịp thưa:
- Lê Viên tử đệ cũ là Hoàng Phan Xước bị giặc bắt, nay đã trốn được về Đông Kinh, rất muốn vào hầu thượng hoàng, nhưng mình đã thất thân ở nơi hang ổ giặc, sợ bị tội nên chưa dám vào.
Thượng hoàng phán:
- Lũ nhạc công các ngươi, hầu dễ ai theo được Hải Thanh. Bị giặc bắt cũng không đáng trách lắm. Phan Xước trốn được từ trong tay giặc ra, chắc biết rõ chuyện Hải Thanh, trẫm đang muốn nghe tường tận, hãy triệu Phan Xước vào đây.
Tả hữu vâng lệnh, Phan Xước đập đầu xuống thềm khóc lóc tạ tội. Thượng hoàng tha cho rồi hỏi:
- Chuyện Hải Thanh tuẫn tiết ở hồ Ngưng Bích khanh biết rõ cả chứ?
Phan Xước thưa:
- Những việc này thần đều được tận mắt trông thấy đầu đuôi.
Thượng hoàng phán:
- Hãy kể tỉ mỉ trẫm nghe!
Phan Xước liền đem việc An Lộc Sơn thết yến, tấu nhạc, các nhạc công thương cảm khóc lóc, Lộc Sơn giết những ai có hoen nước mắt, Hải Thanh khóc rống cầm nhạc cụ ném, chửi Lộc Sơn mà chết như thế nào, kể lại ngọn ngành. Thượng hoàng than:
- Hải Thanh tận trung như vậy mà anh em Trương Quân, Trương Tự lại không bằng con dê con chó.
Nhân hỏi Phan Xước:
- Thế còn khanh lúc đó có rơi nước mắt không?
Phan Xước thưa:
- Muôn tâu thượng hoàng, mắt thấy lòng đau, làm sao mà không rơi lệ cho được!
Nội giám Phùng Thần Uy đứng cạnh, xưa vẫn thường bị Phan Xước đâm hông, ức không chịu nổi, nay có dịp trả thù:
- Muôn tâu thượng hoàng, Phan Xước nói sai. Kẻ hầu hạ này nghe thiên hạ đồn rằng Phan Xước trổ tài nịnh Lộc Sơn. Một lần Lộc Sơn nằm mơ thấy bao nhiêu giấy dán cửa sổ đều bong rơi ra cả (1), Phan Xước nịnh rằng: "Đó là điềm báo ánh sáng của chúa thượng chiếu rọi khắp nơi!". Lần khác Lộc Sơn mơ thấy tay áo dài, che kín cả bàn tay, thì Phan Xước nịnh rằng: "Thùy y nhi trị thiên hạ" (2). Đều là những lời a dua xiểm nịnh. Làm sao hạng người thế lại có thể rơi nước mắt cho được.
1 Vùng bắc Trung Quốc xưa, mùa đông chưa đủ phương tiện chống rét, thường dùng giấy và hồ dán kín cửa sổ, mùa hè lại bóc ra. Chữ "Hồ”, là keo dán, đồng âm với "Hồ”, là tộc Hồ, chỉ An Lộc Sơn.
2 Áo dài lễ của người Trung Quốc xưa có ống tay vừa dài vừa rất rộng, có thể che kín hai bàn tay, giấu các vật lớn. "Thùy y nhị trị thiên hạ", rũ tay áo ngồi mà thiên hạ yên vui, chỉ cách cai trị thiên hạ của thời Nghiêu Thuấn.
Thượng hoàng liền hỏi Phan Xước:
- Khanh có nói như vậy không?
Phan Xước vốn là kẻ hay khôi hài, nổi tiếng nhanh trí, xưa kia trước mặt nhà vua hay kể chuyện bông đùa mua vui, là nghiệp riêng của quan hề, nên giờ cũng không chút lúng túng, sợ hãi, vẫn điềm nhiên thưa:
- Lộc Sơn mộng thấy hai chuyện này thật, thần cũng có nói như vậy. Thần nghĩ rằng cả hai mộng này đều rất xấu, Lộc Sơn chết đến nơi rồi. Cho nên thần không muốn nói thật để mang họa vào thân, mà tìm lời khéo léo tán dương, chính là để giữ được cái thân hèn này, mong có được ngày hầu hạ thượng hoàng vậy.
Thượng hoàng hỏi:
- Vì sao hai giấc mộng này đều xấu, khanh biết Lộc Sơn tất đại bại?
Phan Xước tâu:
- Giấy dán chặt vững là nhờ có hồ, nay giấy bong, hồ hỏng còn gì. Tay áo lụng thụng thì hai tay còn múa may quay cuồng gì nữa. Há chẳng phải là điềm trời báo trước Lộc Sơn chết hay sao!
Thượng hoàng nghe ra, thích chí cười vang, liền vẫn cho Phan Xước sung chức thị thần như xưa.
Chính là:
Người nghe được dịp cả cười
Người kể trút hết tột đi nhẹ nhàng.
Từ đó Phan Xước lúc nào cũng được hầu hạ cạnh thượng hoàng, kể hết chuyện Đông Kinh đến Tây Kinh, chêm vào những câu vui đùa, làm thượng hoàng bớt phần sầu não.
Một hôm, lại có một người trong đám Lê Viên tử đệ tìm đến, chính là nhạc công nổi tiếng Lý Mô.
Số là, khi xa giá chạy vào Thục, Lý Mô lật đật theo nhưng không kịp. Tàn quân Kha Thư Hãn kéo theo, đường xá càng khó đi, Lý Mô ẩn vào một hang núi, ở nhờ trong một ngôi chùa cổ. Nhà sư trụ trì biết là bậc thân cận của Đường Minh Hoàng, không dám coi thường, ân cần mời nghĩ lại đến năm sáu ngày liền.
Một tối, trăng thanh gió mát, mọi người đã ngủ hết. Lý Mô lòng dạ buồn bực, không tài nào nhắm mắt, lần bước dưới ánh trăng hóng mát, hứng lên bước qua cổng chùa, rút chiếc sáo trong túi ra, ngồi xuống tảng đá, bên một gốc cây lớn, nâng sáo lên thổi. Tiếng cao thấp vi vút du dương, vẳng khắp hang sâu núi thẳm trong đêm thanh vắng.
Chưa hết bài thì từ xa, trong rừng một hình người cao lớn khác thường xuất hiện, từng bước nặng nề đi tới, nhìn kỹ là một con cọp mình người, mặc một chiếc áo mỏng mầu trắng, đùi để trần, đi đất, ngồi lên bậc của cổng chùa, nói rõ từng tiếng:
- Hay! Hay lắm! Thêm một bài nữa nghe xem nào!
Lý Mô sợ hết vía, không dám không vâng lời, cố giữ hơi thở bình thường, thổi thêm một bài.
Người đầu cọp như nửa tỉnh nửa mê lắng nghe, bất giác ngủ thiếp đi, nằm quay ra, chắn ngang lấy cổng vào, tiếng ngáy nghe như sấm dậy. Lý Mô định vào chùa trốn, nhưng sợ qua cổng làm người đầu cọp tỉnh dậy, đành phải đưa mắt nhìn khắp xung quanh tìm nơi ẩn tránh. Vội giấu ống sáo vào đám cỏ rậm, nhẹ nhàng trèo lên cây to leo lên mãi trên ngọn cao tít, kéo cành lá che kín, ngồi thật vững vàng mà rình.
Lát sau, người đầu cọp tỉnh dậy, không thấy Lý Mô, càu nhàu tiếc rẻ:
- Dại quá! Có biết ăn thịt ngay lúc đó, để nó trốn mất rồi?
Đứng dậy, hú một tiếng dài, tức thì có đến chục con cọp hoa gấm từ đâu nhảy tới, quỳ trước người đầu cọp, chẳng khác gì trăm quan chầu thiên tử. Người đầu cọp phán:
- Mới rồi có một thằng bé thổi sáo, lừa ta ngủ quên mà trốn mất. Lúc nãy ta nằm ngang cổng chùa, chắc nó không dám vào chùa, các ngươi hãy chia nhau mà tìm cho ta ngay!
Cả bầy cọp tản ra bốn phía, người đầu cọp vẫn ngồi uy nghi tại chỗ. Sang canh năm, bầy cọp lần lượt trở về, đều thưa bằng tiếng người rõ ràng:
- Chúng con đã tìm kỹ khắp chốn mà chẳng thấy đâu cả.
Vừa lúc ánh trăng tàn chiếu chênh chếch lên ngọn cây, lộ rõ hình Lý Mô, người đầu cọp cười ghê rợn:
- Hà hà! Tưởng chớp tan, mây cuốn mất rồi, ai ngờ nó vẫn ở đây.
Rồi cả bầy hướng lên ngọn cây, hết nhảy lại vồ để bắt. May mà cây khá cao, nên vẫn chẳng ăn thua. Lý Mô hồn vía không còn, run lập cập, chỉ chực ngã nhào, cố bíu chặt thân cây. Đang lúc nguy cấp thì bỗng trên không có tiếng dõng dạc quát:
- Đây là người nhà thiên tử, lũ nghiệt súc chúng bay không được càn rỡ thế!
Bầy cọp sợ hãi, lũ lượt bỏ đi.
Gần sáng, đầy tớ theo Lý Mô tìm đến, Lý Mô mới dám tụt xuống. May mà cây sáo giấu trong cỏ vẫn còn.
Chính là:
Tiếng tiêu gọi phượng xuống lầu vàng
Sáo vẫy vua tôi cọp một đoàn
Thiều Nhạc triều Nghiêu cùng sân Thuấn
Muôn chim ngàn thú múa ca vang.
Lần sợ hãi đó, làm Lý Mô ốm mất mấy ngày, đến lúc bình phục định ra đi thì một viên quan ngày trước ở kinh đô, nay được ra làm thứ sử Việt Châu là Hoàng Phủ Chính vào nghỉ trong chùa, gặp Lý Mô, kể lể chuyện mình rồi hỏi Lý Mô:
- Nay nhạc sư định đi đâu?
Lý Mô đáp:
- Tiểu nhân định đi theo giá vào Thục.
Phủ Chính khuyên:
- Gần đây đường đi vào Tây Thục đầy rẫy binh lính, xe ngựa hỗn độn, chớ nên mạo hiểm. Cứ theo ta tạm về Việt Châu, đợi khi đã ít nhiều yên ổn hãy đi cũng chưa muộn.
Lý Mô bằng lòng, cả hai từ biệt sư trụ trì, dần dà tới Việt Châu, Lý Mô ở luôn trong nhà công của thứ sử.
Vùng này có một hồ rộng, nước trong phẳng lặng như gương, thật là một thắng cảnh. Việc quan thư thả, Phủ Chính rủ Lý Mô cùng ra chơi hồ, Lý Mô khen:
- Hồ đẹp thế này, gặp đêm trăng thì thật là thần tiên.
Phủ Chính gật đầu đáp:
- Ta cũng muốn làm một cuộc chơi hồ đêm trăng lắm!
Bèn chọn một đêm trăng sáng, bày sẵn rượu ngon thức nhắm, mời mấy người trong phủ, cùng Lý Mô lên thuyền chơi hồ. Trăng sánh như nước, nước ngời như trăng, tất cả trong cõi hư, cõi thực khó phân, khác gì cánh Tô Đông Pha tả ở bài "Xích Bích Phú" ở đời Tống sau này:
Này chèo quế, nọ thuyền lan
Nhẹ khua trăng nước, sáng tràn tinh không. (1)
1 Nguyên văn: "Quế trao hề lan tương; Kích không minh hề tố lưu quang."
Ai nấy rượu đã ngà ngà, đều muốn được nghe tiếng sáo huyền diệu của Lý Mô, có kẻ cất tiếng:
- Năm xưa trước lầu Cần Chánh chỉ cần tiếng sáo cất lên, đã ngăn được sự huyên náo của hàng nghìn vạn người, thiên hạ vẫn đồn như một sự lạ. Đêm nay may được gặp gỡ, xin được nghe một lần cho bõ khát khao!
Phủ Chính cũng cười:
- Cái sáo của Lý nhạc sư, ta đã mang theo đây rồi mà!
Ai nấy đều vui mừng:
- Đúng là may mắn quá rồi!
Lý Mô nói vài lời khiêm tốn, rồi cầm sáo thổi, tiếng nghe chẳng khác gì tiêu nhạc, ai nấy xuýt xoa khen ngợi. Khúc đầu vừa dứt, thì thấy phía trước mặt một lá thuyền nhỏ lướt tới. Trên thuyền trông rõ một tiểu đồng bơi chèo, một ông già đứng giữa thuyền lớn tiếng nói:
- Sáo nghe hay lắm, cho lão lên thuyền nghe với có được chăng?
Mọi người, dưới ánh trăng trố mắt nhìn thì thấy:
Óng ả râu dài
Đường đường khuôn mặt
Áo quê khăn lụa, phục sức như tiên
Vạt hở, phất trần, phong lưu khác tục
Rõ ràng là bậc phi phàm
Khoan thai tiếng nói, thành tâm giọng cười.
Ai nấy đều biết không phải người thường, lễ phép vái chào, mời lên thuyền lớn. Ông già cất tiếng:
- Lão già này vốn là người rừng núi quê mùa, đường đột thế này, xin tha lổi!
Mọi người mời ngồi, ông già tiếp:
- Tình cờ dạo chơi dưới trăng, bỗng nghe tiếng sáo thánh thót, xin mạo muội thưa vài điều.
Lý Mô đỡ lời:
- Nghề mọn không đáng làm nhàm tai quý khách. Lão trượng nghe tiếng mà tìm đến, hẳn là bậc tri âm. Kính xin được nghe lời chỉ giáo.
Ông già khoan thai:
- Khúc vừa rồi, chính là điệu "Tử vân hồi", là một điệu trong cung cấm để hầu thiên tử, nghĩa là "Mây tía vây quanh". Nhạc sư đã nắm được hết tài điệu, nhưng trong lúc bay bổng, uốn nắn, có pha đôi chút giọng của nhạc Phiên là sao?
Lý Mô giật mình thưa:
- Lão trượng quả là bậc tinh thông âm luật. Khi xưa tiểu nhân học sáo vỡ lòng với một ông thầy người Phiên.
Ông lão tiếp:
- Sáo tên chữ là địch, nhưng địch cũng còn có nghĩa là gột rửa, tẩy xóa hết tà uế, hướng về cái đúng mực, thanh cao. Thế thì sao lại có thể để tiếng sáo vương vào cái ô tạp của giọng Phiên. Phải tinh lọc cho hết mới được đến mức tuyệt diệu.
Lý Mô chắp tay:
- Xin kính cẩn vâng lời lão trượng!
Ông già lại tiếp:
- Chiếc sáo của nhạc sư vẫn là chiếc sáo dùng từ trước chứ!
Lý Mô đáp:
- Đây là chiếc sáo làm bằng trúc có vân tía ở đầm Vân Mộng, do thiên tử ban cho dùng đã quen lâu nay.
Ông già nói:
- Trúc vân tía ở phía nam đầu Vân Mộng, hàng năm cứ khoảng tháng bảy thì măng mọc. Mọc vào rằm tháng bảy năm nay, thì rằm tháng bảy năm sau phải đốn mà dùng. Nếu để quá thì tiếng sáo nghe nhẹ mà nổi. Vừa rồi, lão nghe tiếng nhẹ mà nổi, đúng là loại trúc chặt trước kỳ hạn. Cây sáo này chỉ có thể dùng để chơi những điệu ôn hòa, tươi mát. Thổi những khúc sắt đá, thanh cao, hùng tráng thì ống trúc không chịu thấu, sẽ nổ tung ra.
Mọi người chưa tin, Lý Mô vâng vâng dạ dạ, nhưng cũng bán tin bán nghi. ông lão liền nói:
- Các ngài chưa tin, xin hãy cho phép lão già này thổi thử.
Bèn cầm lấy ống sáo, thổi một khúc, tiếng nghe trong vắt, hùng tráng như muốn thức rồng thiêng trong vực sâu, như giục tiếng khóc nức nở của người đàn bà góa. Lý Mô cùng mọi người như mê như tỉnh. Đến chỗ cao nhất, xung quanh đang chăm chú thì bỗng tách mấy tiếng liên tiếp, ống sáo vỡ ra làm đôi. Ai nấy giật mình kính phục. Ông lão cất tiếng:
- Hỏng mất sáo của nhạc sư rồi! Lão có đem theo hai chiếc đây, xin lấy đền nhạc sư một cây vậy!
Rồi móc trong túi ra hai chiếc sáo, một cái rất dài, còn một chiếc hơi ngắn, ông già cầm chiếc ngắn trao cho Lý Mô:
- Xin mời nhạc sư thử thổi xem!
Lý Mô cầm lấy, thấy rất vừa tay, lọt hơi, các loại sáo thường không sao sánh kịp, mừng lắm, hai ba lần tạ ơn. Phủ Chính cười nói:
- Xưa nay vẫn có câu: "Kiếm quý thì dành hiệp sĩ, phấn son thì tặng cho giai nhân". Lão trượng đã xem Lý nhạc sư như bậc tri âm, sao không làm quà luôn chiếc sáo dài kia luôn?
Ông già đáp:
- Thật không dám tiếc. Nhưng chiếc sáo này không thể nào dùng trong cõi nhân gian. Dù có tặng, Lý nhạc sư cũng không thể thổi được.
Lý Mô nói:
- Xin cho tiểu nhân thử một lần xem sao!
Ông già đưa chiếc sáo dài cho, Lý Mô xoay đi xoay lại ba bốn lần vẫn chẳng thành điệu thành khúc gì, tiếng thì chẳng rõ.
Ông già nói:
- Của này không phải của cõi trần, khó thổi lắm.
Lý Mô vẫn say:
- Ngoài lão trượng ra, không còn ai thổi được. Vậy xin phiền lão trượng cho nghe một khúc vậy! ông già lắc đầu:
- Cõi trần không nên thổi!
Lý Mô hỏi:
- Thổi thì sao kia ạ?
Ông già cười:
- Ngày trước, Lý nhạc sư thổi ở cổng chùa, bất quá mới là nhạc trần gian thôi, thế mà lũ yêu cọp đã hàng bầy kéo đến. Nay ở giữa hồ rộng mênh mông, vắng lặng, lỡ kích động đến loài giao long thì sao?
Mọi người tranh nhau cải:
- Không thể có chuyện như vậy được?
Ông già đáp:
- Các ngài cứ đòi nghe, lão thổi, nếu có chuyện gì, xin đừng hoảng sợ.
Ông già cầm ống sáo, ghé môi thổi, tiếng rung chói tai, chim ngủ trên cây nhớn nhác bay loạn xạ, tiếng kêu hoảng hốt. Thổi thêm mấy nhịp nữa, thì ánh trăng như nhạt dần, ảm đạm, gió thổi càng mạnh, càng lạnh hơn, nước hồ chao động, sóng dâng ì ầm, cá lớn cá nhỏ nhảy rung. Tất cả trên thuyền kinh hãi thất thanh:
- Thôi! Đừng thổi nữa! Xin thôi cho!
Ông già cười ha hả, cất sáo đi, đứng lên, chào từ biệt. Mọi người cố giữ lại. Lý Mô vội nói:
- Tiểu nhân chưa kịp rõ tôn tính, đại danh của lão trượng.
Ông già cười đáp:
- Đêm trước, giữa không trung, có tiếng quát nạt bầy yêu cọp, chính là lão đó. Còn họ tên thì có làm gì!
Dứt lời, nhảy sang thuyền con, tiểu đồng lập tức khua chèo làm thuyền lướt như bay, nháy mắt đã không thấy đâu nữa rồi! Mọi người vừa sợ vừa phục, ngợi khen Lý Mô thổi sáo mà khiến tiên ông phải giáng trần để nghe.
Đúng là:
Sáo rủ đến bầy cọp
Sáo mới về tiên ông
Cọp sợ tiên mà chạy
Tiếng sáo tiên còn truyền.
Từ khi được tiên ông truyền thụ diệu thuật, Lý Mô ngày càng tinh thông. Phủ Chính biết rõ nguồn gốc Lý Mô, không dám giữ lâu, nên khi được tin đường xá đi lại dễ dàng rồi, vội sắm sửa hành lý, lộ phí cho Lý Mô lên đường vào Thục.
Đến nơi, Lý Mô trước tiên tìm Cao Lực Sĩ, nhờ dẫn vào bệ kiến. Thượng hoàng thương vất vả lặn lội đường dài, liền ban cho áo mũ, ở lại hầu ngay bên mình. Lý Mô đem chuyện gặp gỡ dọc đường kể lại. Thượng hoàng vốn đắm say chuyện thần tiên liền tấm tắc khen mãi, Cao Lực Sĩ nhân đó thưa chuyện Vương Tích Tân cũng gặp tiên, xin được vào chầu.
Đúng là:
Thân chết làm ma thề phá giặc
Tôi trung hồn phách mãi còn thiêng.
Tử Kỳ thua to, bỏ Thư Dương chạy về Trần Lưu. Ai ngờ trăm họ Trần Lưu lâu nay vần căm hờn quân nghịch tàn ác, thương tiếc những kẻ trung lương bị sát hại bèn rủ nhau nổi dậy, chém ngay Tử Kỳ, mở cửa thành đón quân triều đình.
Trương Hạo vỗ về dân chúng, chia binh đóng giữ các nơi, kể tên những bề tôi tử nạn ở Thư Dương dâng biểu tấu lên. Thượng Hoàng xuống chiếu truyền Túc Tông khen thưởng cho những người tuẫn tiết này.
Thượng hoàng từ ngày vào Thục, vắng hình bóng Dương Quý Phi, lòng luôn tưởng nhớ. Bọn Lê Viên tử đệ thì quá nửa thất lạc, hầu cận cũ còn lại rất ít, nên lúc nào cũng rầu rĩ. May có Cao Lực Sĩ ngày đêm ở bên hết cách khuyên giải. Bỗng được tin An Lộc Sơn thiêu hủy tôn miếu, giết hại hoàng tộc, tàn sát bách tính, thượng hoàng đấm ngực, dậm chân, vô cùng đau đớn. Tiếp đó là tin Lộc Sơn bị giết, thượng hoàng ân hận:
- Trẫm tiếc rằng không tự tay băm vằm thằng giặc này được nữa.
Nhân nhớ tới quan tể tướng đã mất là Trương Cửu Linh, người xưa kia đã từng quyết đoán Lộc Sơn rành rành có tướng phản nghịch, không nên để sống, giờ mới thấy là lời sáng suốt, nếu biết nghe theo thì sao đến nỗi gặp vạ này. Bèn sai thái giám đưa lễ vật đến Khúc Giang, kèm một bài văn tế do thượng hoàng thân soạn ra, để đọc trước mộ.
Bài văn tế như sau:
Nhớ khanh xưa:
Có lời can gián
Rằng An Lộc Sơn
Tướng phản rõ ràng
Chớ nên để sống
Bởi giết chẳng thương
Trẫm không nghe lời
Buông tha đứa gian
Đã không trừ diệt
Sai trấn ngoài phiên
Gây nên vạ lớn
Rất là lỗi lầm
Khanh nếu còn sống
Trẫm càng thẹn thùng
Nhớ tôi trung cũ
Giọt lệ chứa chan
Sai bày lễ tế
Tỏ ý phàn nàn
Khen khanh sáng suốt
Nghĩ trẫm tối tăm
Thượng hưởng!
Thượng hoàng không những truy tế Trương Cửu Linh, lại còn ban thưởng cho gia quyến họ Trương rất nhiều. Xuống chiếu cho tìm hết tên tuổi những trung thần tử nạn tâu lên cho Túc Tông. Nghe đến việc Lôi Hải Thanh tuẫn tiết ở hồ Ngưng Bích, thượng hoàng rất khen ngợi, Trương Dã Hồ nhân dịp thưa:
- Lê Viên tử đệ cũ là Hoàng Phan Xước bị giặc bắt, nay đã trốn được về Đông Kinh, rất muốn vào hầu thượng hoàng, nhưng mình đã thất thân ở nơi hang ổ giặc, sợ bị tội nên chưa dám vào.
Thượng hoàng phán:
- Lũ nhạc công các ngươi, hầu dễ ai theo được Hải Thanh. Bị giặc bắt cũng không đáng trách lắm. Phan Xước trốn được từ trong tay giặc ra, chắc biết rõ chuyện Hải Thanh, trẫm đang muốn nghe tường tận, hãy triệu Phan Xước vào đây.
Tả hữu vâng lệnh, Phan Xước đập đầu xuống thềm khóc lóc tạ tội. Thượng hoàng tha cho rồi hỏi:
- Chuyện Hải Thanh tuẫn tiết ở hồ Ngưng Bích khanh biết rõ cả chứ?
Phan Xước thưa:
- Những việc này thần đều được tận mắt trông thấy đầu đuôi.
Thượng hoàng phán:
- Hãy kể tỉ mỉ trẫm nghe!
Phan Xước liền đem việc An Lộc Sơn thết yến, tấu nhạc, các nhạc công thương cảm khóc lóc, Lộc Sơn giết những ai có hoen nước mắt, Hải Thanh khóc rống cầm nhạc cụ ném, chửi Lộc Sơn mà chết như thế nào, kể lại ngọn ngành. Thượng hoàng than:
- Hải Thanh tận trung như vậy mà anh em Trương Quân, Trương Tự lại không bằng con dê con chó.
Nhân hỏi Phan Xước:
- Thế còn khanh lúc đó có rơi nước mắt không?
Phan Xước thưa:
- Muôn tâu thượng hoàng, mắt thấy lòng đau, làm sao mà không rơi lệ cho được!
Nội giám Phùng Thần Uy đứng cạnh, xưa vẫn thường bị Phan Xước đâm hông, ức không chịu nổi, nay có dịp trả thù:
- Muôn tâu thượng hoàng, Phan Xước nói sai. Kẻ hầu hạ này nghe thiên hạ đồn rằng Phan Xước trổ tài nịnh Lộc Sơn. Một lần Lộc Sơn nằm mơ thấy bao nhiêu giấy dán cửa sổ đều bong rơi ra cả (1), Phan Xước nịnh rằng: "Đó là điềm báo ánh sáng của chúa thượng chiếu rọi khắp nơi!". Lần khác Lộc Sơn mơ thấy tay áo dài, che kín cả bàn tay, thì Phan Xước nịnh rằng: "Thùy y nhi trị thiên hạ" (2). Đều là những lời a dua xiểm nịnh. Làm sao hạng người thế lại có thể rơi nước mắt cho được.
1 Vùng bắc Trung Quốc xưa, mùa đông chưa đủ phương tiện chống rét, thường dùng giấy và hồ dán kín cửa sổ, mùa hè lại bóc ra. Chữ "Hồ”, là keo dán, đồng âm với "Hồ”, là tộc Hồ, chỉ An Lộc Sơn.
2 Áo dài lễ của người Trung Quốc xưa có ống tay vừa dài vừa rất rộng, có thể che kín hai bàn tay, giấu các vật lớn. "Thùy y nhị trị thiên hạ", rũ tay áo ngồi mà thiên hạ yên vui, chỉ cách cai trị thiên hạ của thời Nghiêu Thuấn.
Thượng hoàng liền hỏi Phan Xước:
- Khanh có nói như vậy không?
Phan Xước vốn là kẻ hay khôi hài, nổi tiếng nhanh trí, xưa kia trước mặt nhà vua hay kể chuyện bông đùa mua vui, là nghiệp riêng của quan hề, nên giờ cũng không chút lúng túng, sợ hãi, vẫn điềm nhiên thưa:
- Lộc Sơn mộng thấy hai chuyện này thật, thần cũng có nói như vậy. Thần nghĩ rằng cả hai mộng này đều rất xấu, Lộc Sơn chết đến nơi rồi. Cho nên thần không muốn nói thật để mang họa vào thân, mà tìm lời khéo léo tán dương, chính là để giữ được cái thân hèn này, mong có được ngày hầu hạ thượng hoàng vậy.
Thượng hoàng hỏi:
- Vì sao hai giấc mộng này đều xấu, khanh biết Lộc Sơn tất đại bại?
Phan Xước tâu:
- Giấy dán chặt vững là nhờ có hồ, nay giấy bong, hồ hỏng còn gì. Tay áo lụng thụng thì hai tay còn múa may quay cuồng gì nữa. Há chẳng phải là điềm trời báo trước Lộc Sơn chết hay sao!
Thượng hoàng nghe ra, thích chí cười vang, liền vẫn cho Phan Xước sung chức thị thần như xưa.
Chính là:
Người nghe được dịp cả cười
Người kể trút hết tột đi nhẹ nhàng.
Từ đó Phan Xước lúc nào cũng được hầu hạ cạnh thượng hoàng, kể hết chuyện Đông Kinh đến Tây Kinh, chêm vào những câu vui đùa, làm thượng hoàng bớt phần sầu não.
Một hôm, lại có một người trong đám Lê Viên tử đệ tìm đến, chính là nhạc công nổi tiếng Lý Mô.
Số là, khi xa giá chạy vào Thục, Lý Mô lật đật theo nhưng không kịp. Tàn quân Kha Thư Hãn kéo theo, đường xá càng khó đi, Lý Mô ẩn vào một hang núi, ở nhờ trong một ngôi chùa cổ. Nhà sư trụ trì biết là bậc thân cận của Đường Minh Hoàng, không dám coi thường, ân cần mời nghĩ lại đến năm sáu ngày liền.
Một tối, trăng thanh gió mát, mọi người đã ngủ hết. Lý Mô lòng dạ buồn bực, không tài nào nhắm mắt, lần bước dưới ánh trăng hóng mát, hứng lên bước qua cổng chùa, rút chiếc sáo trong túi ra, ngồi xuống tảng đá, bên một gốc cây lớn, nâng sáo lên thổi. Tiếng cao thấp vi vút du dương, vẳng khắp hang sâu núi thẳm trong đêm thanh vắng.
Chưa hết bài thì từ xa, trong rừng một hình người cao lớn khác thường xuất hiện, từng bước nặng nề đi tới, nhìn kỹ là một con cọp mình người, mặc một chiếc áo mỏng mầu trắng, đùi để trần, đi đất, ngồi lên bậc của cổng chùa, nói rõ từng tiếng:
- Hay! Hay lắm! Thêm một bài nữa nghe xem nào!
Lý Mô sợ hết vía, không dám không vâng lời, cố giữ hơi thở bình thường, thổi thêm một bài.
Người đầu cọp như nửa tỉnh nửa mê lắng nghe, bất giác ngủ thiếp đi, nằm quay ra, chắn ngang lấy cổng vào, tiếng ngáy nghe như sấm dậy. Lý Mô định vào chùa trốn, nhưng sợ qua cổng làm người đầu cọp tỉnh dậy, đành phải đưa mắt nhìn khắp xung quanh tìm nơi ẩn tránh. Vội giấu ống sáo vào đám cỏ rậm, nhẹ nhàng trèo lên cây to leo lên mãi trên ngọn cao tít, kéo cành lá che kín, ngồi thật vững vàng mà rình.
Lát sau, người đầu cọp tỉnh dậy, không thấy Lý Mô, càu nhàu tiếc rẻ:
- Dại quá! Có biết ăn thịt ngay lúc đó, để nó trốn mất rồi?
Đứng dậy, hú một tiếng dài, tức thì có đến chục con cọp hoa gấm từ đâu nhảy tới, quỳ trước người đầu cọp, chẳng khác gì trăm quan chầu thiên tử. Người đầu cọp phán:
- Mới rồi có một thằng bé thổi sáo, lừa ta ngủ quên mà trốn mất. Lúc nãy ta nằm ngang cổng chùa, chắc nó không dám vào chùa, các ngươi hãy chia nhau mà tìm cho ta ngay!
Cả bầy cọp tản ra bốn phía, người đầu cọp vẫn ngồi uy nghi tại chỗ. Sang canh năm, bầy cọp lần lượt trở về, đều thưa bằng tiếng người rõ ràng:
- Chúng con đã tìm kỹ khắp chốn mà chẳng thấy đâu cả.
Vừa lúc ánh trăng tàn chiếu chênh chếch lên ngọn cây, lộ rõ hình Lý Mô, người đầu cọp cười ghê rợn:
- Hà hà! Tưởng chớp tan, mây cuốn mất rồi, ai ngờ nó vẫn ở đây.
Rồi cả bầy hướng lên ngọn cây, hết nhảy lại vồ để bắt. May mà cây khá cao, nên vẫn chẳng ăn thua. Lý Mô hồn vía không còn, run lập cập, chỉ chực ngã nhào, cố bíu chặt thân cây. Đang lúc nguy cấp thì bỗng trên không có tiếng dõng dạc quát:
- Đây là người nhà thiên tử, lũ nghiệt súc chúng bay không được càn rỡ thế!
Bầy cọp sợ hãi, lũ lượt bỏ đi.
Gần sáng, đầy tớ theo Lý Mô tìm đến, Lý Mô mới dám tụt xuống. May mà cây sáo giấu trong cỏ vẫn còn.
Chính là:
Tiếng tiêu gọi phượng xuống lầu vàng
Sáo vẫy vua tôi cọp một đoàn
Thiều Nhạc triều Nghiêu cùng sân Thuấn
Muôn chim ngàn thú múa ca vang.
Lần sợ hãi đó, làm Lý Mô ốm mất mấy ngày, đến lúc bình phục định ra đi thì một viên quan ngày trước ở kinh đô, nay được ra làm thứ sử Việt Châu là Hoàng Phủ Chính vào nghỉ trong chùa, gặp Lý Mô, kể lể chuyện mình rồi hỏi Lý Mô:
- Nay nhạc sư định đi đâu?
Lý Mô đáp:
- Tiểu nhân định đi theo giá vào Thục.
Phủ Chính khuyên:
- Gần đây đường đi vào Tây Thục đầy rẫy binh lính, xe ngựa hỗn độn, chớ nên mạo hiểm. Cứ theo ta tạm về Việt Châu, đợi khi đã ít nhiều yên ổn hãy đi cũng chưa muộn.
Lý Mô bằng lòng, cả hai từ biệt sư trụ trì, dần dà tới Việt Châu, Lý Mô ở luôn trong nhà công của thứ sử.
Vùng này có một hồ rộng, nước trong phẳng lặng như gương, thật là một thắng cảnh. Việc quan thư thả, Phủ Chính rủ Lý Mô cùng ra chơi hồ, Lý Mô khen:
- Hồ đẹp thế này, gặp đêm trăng thì thật là thần tiên.
Phủ Chính gật đầu đáp:
- Ta cũng muốn làm một cuộc chơi hồ đêm trăng lắm!
Bèn chọn một đêm trăng sáng, bày sẵn rượu ngon thức nhắm, mời mấy người trong phủ, cùng Lý Mô lên thuyền chơi hồ. Trăng sánh như nước, nước ngời như trăng, tất cả trong cõi hư, cõi thực khó phân, khác gì cánh Tô Đông Pha tả ở bài "Xích Bích Phú" ở đời Tống sau này:
Này chèo quế, nọ thuyền lan
Nhẹ khua trăng nước, sáng tràn tinh không. (1)
1 Nguyên văn: "Quế trao hề lan tương; Kích không minh hề tố lưu quang."
Ai nấy rượu đã ngà ngà, đều muốn được nghe tiếng sáo huyền diệu của Lý Mô, có kẻ cất tiếng:
- Năm xưa trước lầu Cần Chánh chỉ cần tiếng sáo cất lên, đã ngăn được sự huyên náo của hàng nghìn vạn người, thiên hạ vẫn đồn như một sự lạ. Đêm nay may được gặp gỡ, xin được nghe một lần cho bõ khát khao!
Phủ Chính cũng cười:
- Cái sáo của Lý nhạc sư, ta đã mang theo đây rồi mà!
Ai nấy đều vui mừng:
- Đúng là may mắn quá rồi!
Lý Mô nói vài lời khiêm tốn, rồi cầm sáo thổi, tiếng nghe chẳng khác gì tiêu nhạc, ai nấy xuýt xoa khen ngợi. Khúc đầu vừa dứt, thì thấy phía trước mặt một lá thuyền nhỏ lướt tới. Trên thuyền trông rõ một tiểu đồng bơi chèo, một ông già đứng giữa thuyền lớn tiếng nói:
- Sáo nghe hay lắm, cho lão lên thuyền nghe với có được chăng?
Mọi người, dưới ánh trăng trố mắt nhìn thì thấy:
Óng ả râu dài
Đường đường khuôn mặt
Áo quê khăn lụa, phục sức như tiên
Vạt hở, phất trần, phong lưu khác tục
Rõ ràng là bậc phi phàm
Khoan thai tiếng nói, thành tâm giọng cười.
Ai nấy đều biết không phải người thường, lễ phép vái chào, mời lên thuyền lớn. Ông già cất tiếng:
- Lão già này vốn là người rừng núi quê mùa, đường đột thế này, xin tha lổi!
Mọi người mời ngồi, ông già tiếp:
- Tình cờ dạo chơi dưới trăng, bỗng nghe tiếng sáo thánh thót, xin mạo muội thưa vài điều.
Lý Mô đỡ lời:
- Nghề mọn không đáng làm nhàm tai quý khách. Lão trượng nghe tiếng mà tìm đến, hẳn là bậc tri âm. Kính xin được nghe lời chỉ giáo.
Ông già khoan thai:
- Khúc vừa rồi, chính là điệu "Tử vân hồi", là một điệu trong cung cấm để hầu thiên tử, nghĩa là "Mây tía vây quanh". Nhạc sư đã nắm được hết tài điệu, nhưng trong lúc bay bổng, uốn nắn, có pha đôi chút giọng của nhạc Phiên là sao?
Lý Mô giật mình thưa:
- Lão trượng quả là bậc tinh thông âm luật. Khi xưa tiểu nhân học sáo vỡ lòng với một ông thầy người Phiên.
Ông lão tiếp:
- Sáo tên chữ là địch, nhưng địch cũng còn có nghĩa là gột rửa, tẩy xóa hết tà uế, hướng về cái đúng mực, thanh cao. Thế thì sao lại có thể để tiếng sáo vương vào cái ô tạp của giọng Phiên. Phải tinh lọc cho hết mới được đến mức tuyệt diệu.
Lý Mô chắp tay:
- Xin kính cẩn vâng lời lão trượng!
Ông già lại tiếp:
- Chiếc sáo của nhạc sư vẫn là chiếc sáo dùng từ trước chứ!
Lý Mô đáp:
- Đây là chiếc sáo làm bằng trúc có vân tía ở đầm Vân Mộng, do thiên tử ban cho dùng đã quen lâu nay.
Ông già nói:
- Trúc vân tía ở phía nam đầu Vân Mộng, hàng năm cứ khoảng tháng bảy thì măng mọc. Mọc vào rằm tháng bảy năm nay, thì rằm tháng bảy năm sau phải đốn mà dùng. Nếu để quá thì tiếng sáo nghe nhẹ mà nổi. Vừa rồi, lão nghe tiếng nhẹ mà nổi, đúng là loại trúc chặt trước kỳ hạn. Cây sáo này chỉ có thể dùng để chơi những điệu ôn hòa, tươi mát. Thổi những khúc sắt đá, thanh cao, hùng tráng thì ống trúc không chịu thấu, sẽ nổ tung ra.
Mọi người chưa tin, Lý Mô vâng vâng dạ dạ, nhưng cũng bán tin bán nghi. ông lão liền nói:
- Các ngài chưa tin, xin hãy cho phép lão già này thổi thử.
Bèn cầm lấy ống sáo, thổi một khúc, tiếng nghe trong vắt, hùng tráng như muốn thức rồng thiêng trong vực sâu, như giục tiếng khóc nức nở của người đàn bà góa. Lý Mô cùng mọi người như mê như tỉnh. Đến chỗ cao nhất, xung quanh đang chăm chú thì bỗng tách mấy tiếng liên tiếp, ống sáo vỡ ra làm đôi. Ai nấy giật mình kính phục. Ông lão cất tiếng:
- Hỏng mất sáo của nhạc sư rồi! Lão có đem theo hai chiếc đây, xin lấy đền nhạc sư một cây vậy!
Rồi móc trong túi ra hai chiếc sáo, một cái rất dài, còn một chiếc hơi ngắn, ông già cầm chiếc ngắn trao cho Lý Mô:
- Xin mời nhạc sư thử thổi xem!
Lý Mô cầm lấy, thấy rất vừa tay, lọt hơi, các loại sáo thường không sao sánh kịp, mừng lắm, hai ba lần tạ ơn. Phủ Chính cười nói:
- Xưa nay vẫn có câu: "Kiếm quý thì dành hiệp sĩ, phấn son thì tặng cho giai nhân". Lão trượng đã xem Lý nhạc sư như bậc tri âm, sao không làm quà luôn chiếc sáo dài kia luôn?
Ông già đáp:
- Thật không dám tiếc. Nhưng chiếc sáo này không thể nào dùng trong cõi nhân gian. Dù có tặng, Lý nhạc sư cũng không thể thổi được.
Lý Mô nói:
- Xin cho tiểu nhân thử một lần xem sao!
Ông già đưa chiếc sáo dài cho, Lý Mô xoay đi xoay lại ba bốn lần vẫn chẳng thành điệu thành khúc gì, tiếng thì chẳng rõ.
Ông già nói:
- Của này không phải của cõi trần, khó thổi lắm.
Lý Mô vẫn say:
- Ngoài lão trượng ra, không còn ai thổi được. Vậy xin phiền lão trượng cho nghe một khúc vậy! ông già lắc đầu:
- Cõi trần không nên thổi!
Lý Mô hỏi:
- Thổi thì sao kia ạ?
Ông già cười:
- Ngày trước, Lý nhạc sư thổi ở cổng chùa, bất quá mới là nhạc trần gian thôi, thế mà lũ yêu cọp đã hàng bầy kéo đến. Nay ở giữa hồ rộng mênh mông, vắng lặng, lỡ kích động đến loài giao long thì sao?
Mọi người tranh nhau cải:
- Không thể có chuyện như vậy được?
Ông già đáp:
- Các ngài cứ đòi nghe, lão thổi, nếu có chuyện gì, xin đừng hoảng sợ.
Ông già cầm ống sáo, ghé môi thổi, tiếng rung chói tai, chim ngủ trên cây nhớn nhác bay loạn xạ, tiếng kêu hoảng hốt. Thổi thêm mấy nhịp nữa, thì ánh trăng như nhạt dần, ảm đạm, gió thổi càng mạnh, càng lạnh hơn, nước hồ chao động, sóng dâng ì ầm, cá lớn cá nhỏ nhảy rung. Tất cả trên thuyền kinh hãi thất thanh:
- Thôi! Đừng thổi nữa! Xin thôi cho!
Ông già cười ha hả, cất sáo đi, đứng lên, chào từ biệt. Mọi người cố giữ lại. Lý Mô vội nói:
- Tiểu nhân chưa kịp rõ tôn tính, đại danh của lão trượng.
Ông già cười đáp:
- Đêm trước, giữa không trung, có tiếng quát nạt bầy yêu cọp, chính là lão đó. Còn họ tên thì có làm gì!
Dứt lời, nhảy sang thuyền con, tiểu đồng lập tức khua chèo làm thuyền lướt như bay, nháy mắt đã không thấy đâu nữa rồi! Mọi người vừa sợ vừa phục, ngợi khen Lý Mô thổi sáo mà khiến tiên ông phải giáng trần để nghe.
Đúng là:
Sáo rủ đến bầy cọp
Sáo mới về tiên ông
Cọp sợ tiên mà chạy
Tiếng sáo tiên còn truyền.
Từ khi được tiên ông truyền thụ diệu thuật, Lý Mô ngày càng tinh thông. Phủ Chính biết rõ nguồn gốc Lý Mô, không dám giữ lâu, nên khi được tin đường xá đi lại dễ dàng rồi, vội sắm sửa hành lý, lộ phí cho Lý Mô lên đường vào Thục.
Đến nơi, Lý Mô trước tiên tìm Cao Lực Sĩ, nhờ dẫn vào bệ kiến. Thượng hoàng thương vất vả lặn lội đường dài, liền ban cho áo mũ, ở lại hầu ngay bên mình. Lý Mô đem chuyện gặp gỡ dọc đường kể lại. Thượng hoàng vốn đắm say chuyện thần tiên liền tấm tắc khen mãi, Cao Lực Sĩ nhân đó thưa chuyện Vương Tích Tân cũng gặp tiên, xin được vào chầu.
***
Lại kể, Vương Tích Tân
vốn quê Trường An, dòng dõi gia thế, từ bé đã thích đánh cờ, từng được học với
nhiều thầy nổi tiếng làng cờ, có danh lớn ở kinh đô. Lúc thanh niên, Tích Tân
chơi bời với năm bảy công tử, có lần tụ tập ở một khu vườn tiệc rượu. Ngà ngà
say rồi, một người lạ vào, đến cổng, xuống ngựa, thân nhiên bước tới bàn tiệc,
nhìn trang phục, văn không ra văn, võ không ra võ, bái chào xong cất tiếng:
- Các ngài tụ họp ở đây đông vui, trang nhã, lẽ ra không dám quấy phiền. Nhưng vì lỡ đường, cổ khô miệng khát, mong chén rượu thấm giọng liệu có được chăng?
Tích Tân thấy người này phong thái, hiên ngang biết ngay không phải kẻ tầm thường, chẳng đợi mọi người bằng lòng, đã đứng dậy vái chào, mời ngồi lên trên. Người này chẳng nề hà ngồi xuống. Tích Tân rót rượu vào một chén lớn bưng tới trước mặt. Người này đón lấy, uống một hơi cạn sạch, lại đòi rót thêm. Tích Tân rót nữa, đưa thêm các thức nhắm lại mời.
Bọn công tử xung quanh, đều là con cháu các nhà quyền quý, quen thói ngông nghênh, không coi ai ra gì, nay thấy người này cử chỉ, nói năng đường đột, cao ngạo, đều tỏ ý bất bình, rất muốn biết lai lịch người khách, nhưng chưa tiện hỏi. Một công tử cầm chén rượu nâng lên, cố ý ra một tửu lệnh rằng:
- Từng người trong chúng ta, hãy kể về gia thế mình, ai thuộc loại quý hiển nhất, sẽ uống ba chén rượu lớn. Xin mời quý khách nói trước!
Người này nói:
- Ta xin uống ba chén trước rồi sẽ nói sau nhé!
Tích Tân sai rót rượu. Người này uống hết ba chén lớn, đứng dậy, ra khỏi bàn tiệc, giơ tay, nói với tất cả:
- Tổ tiên ta, cao tổ làm thiên tử, tằng tổ làm thiên tử, ông nội làm thiên tử, cha làm thiên tử, hiện ta cũng làm thiên tử.
Nói xong, bước thẳng ra cửa, lên ngựa phi nước đại. Mọi người chưa kịp kinh ngạc, bỗng quan nội giám cùng mấy thị vệ dắt ngựa tìm đến. Thì ra, thời ấy, Đường Huyền Tông thường giả trang vi hành ngoài thành, rồi ngẫu nhiên gặp bọn công tử này.
Hôm sau, Cao Lực Sĩ tới hỏi cặn kẽ, biết người dâng rượu là Tích Tân, Huyền Tông liền triệu vào cung, thưởng rất hậu rồi phán:
- Bọn kia toàn lũ công tử kiêu ngạo, khoe khoang gia thế, trâng tráo chẳng khác gì lũ ăn mày. Riêng nhà ngươi nhã nhặn, thật đáng khen!
Rồi cho phép Tích Tân vào Viện hàn lâm đọc sách. Sau biết Tích Tân giỏi cờ dịch, liền ban cho chức Dịch kỳ cung phụng.
Chính là:
Nếu không nhờ chén rượu
Sao có chuyện gần vua.
Tích Tân từ ngày có cuộc gặp gỡ khác thường ấy, được hầu cận đấng chí tôn. Đến khi An Lộc Sơn nổi loạn. Huyền Tông cùng các quan cuống cuồng chạy vào đất Thục, Tích Tân cũng đem một lão bộc chạy theo, nhưng đường Thục hiểm trở như đường lên trời. Mỗi đêm tìm nơi nghỉ lại thì bao nhiêu hàng cơm, quán trọ, các nhà rộng rãi ven đường, đều bị vương tôn, đại thần dùng quyền, dùng sức mạnh chiếm sạch. Tích Tân cứ đành phải tìm sâu vào những nhà nghèo.
Một chiều, đi quanh co, men mãi theo khe suối, vô tình lọt vào một thôn hoang vắng, trời đã gần tối, cả thôn chỉ có mỗi một nhà, ba gian tranh nứa, nửa khép nửa mở. Gọi xin ngủ trọ, một bà già từ trong cửa ra nói:
- Nhà chỉ có mỗi già này với đứa con dâu thôi. Lẽ ra không nên để khách lạ nghỉ lại. Nhưng quanh đây chẳng còn nhà, trời lại đã tối, nếu khách bằng lòng ngủ ngoài thềm thì xin vâng.
Tích Tân cảm tạ:
- Vậy cũng may lắm rồi!
Bà già đưa trà nước cùng mấy cái bánh bao ra đãi khách. Xong xuôi vào nhà, đóng cửa lại. Tích Tân lắng tai nghe, biết bà già gài cửa xong thì hai mẹ con mỗi người một buồng. Hai thầy trò Tích Tân cũng dọn chỗ nằm ở thềm, người lão bộc mệt đã ngủ ngay, riêng Tích Tân vẫn trằn trọc không nhắm mắt được. Bỗng nghe mẹ chồng gọi nàng dâu:
- Đêm hôm chẳng có việc gì khuây khỏa, mẹ con ta đánh một ván cờ nhé!
Người nàng dâu đáp:
- Thế thì hay lắm!
Tích Tân lấy làm lạ, thầm nghĩ: "Đàn bà rừng núi, sao lại biết đánh cờ nhỉ? Mà hai người ở hai buồng đánh thế sao được?". Tích Tân nhổm dậy, đến bên khe cửa lén nhìn trộm vào, thấy đèn đóm chẳng có tối như bưng, bèn áp sát tai vào nghe.
Bà mẹ cất tiếng:
- Mẹ cho con đi trước!
Nàng dâu đáp:
- Con đi con Đông năm tới Nam chín.
Im lặng một lát, bà già lên tiếng:
- Mẹ đi con Đông năm tới Nam mười hai.
Lại yên lặng, rồi nàng dâu nói:
- Con đi con Tây tám tới Nam mười.
Lại im lặng, rồi bà già tiếp:
- Mẹ đi con Tây chín đến Nam mười bốn.
Cứ mỗi lần đi, lại yên lặng nghĩ ngợi một hồi. Đêm đã sang canh tư, mới đi được cả thảy ba mươi sáu nước. Tích Tân gắng nhớ kỹ từng bước. Bỗng nghe tiếng bà già cười vui vẻ:
- Con dâu lão thua rồi, thế là mẹ thắng chín ván nhé? (1)
1 Loại cờ này nguyên chữ Hán là "Dịch kỳ", cũng gọi là cờ vây, không giống cờ tướng của ấn Độ, Việt Nam, cũng không phải cờ vua của Tây phương. Theo "Quảng sự loại" thì chính vua Nghiêu nghĩ ra cờ dịch này để dạy con là Đan Chu. Cách đánh là làm thế nào vây, chẹn đường đối phương. Bàn cờ hình vuông, ngang dọc đều mười bảy đường, cộng thành 289 ô vuông nhỏ, con cờ tròn, chia hai loại trắng đen, mỗi loại những 150 con. Đời sau, thêm thành mười chín đường. 361 ô nhỏ (Từ Hải). Cách đánh của hai mẹ con như kiểu dùng tọa độ để xác định từng con bằng lời mà không cần bàn, như kiểu đánh cờ tướng không cần bàn của ta chăng? Tất nhiên phải nhớ tài nhiều hơn.
Nàng dâu thưa:
- Con tính nhầm một nước, thua là phải rồi. Sau đó thấy im lặng.
Sáng ra, mở cửa, Tích Tân sửa lại áo mũ vào chào. Bà già tóc bạc như cước, nhưng phong thái rất thư thái, tuyệt không một chút quê mùa. Tích Tân xin được lạy chào người nàng dâu. Bà già gọi ra, Tích Tân nhìn lên, thì thấy:
Tuy là trang phục lối quê
Nhác xem phong vận nhiều bề cao sang
Ra vào cử chỉ thư nhàn
Phòng khuê đào mận lại càng khác xa
Trang nghiêm đượm vẻ nhu hòa
Cầu Lam thần nữ phải là Vân Anh?
Tích Tân thi lễ xong, hỏi sang bí quyết của cờ dịch, bà già nói:
- Mẹ con già này đêm khuya đánh cho đỡ buồn không ngờ làm phiền tới quý khách!
Tích Tân ba bốn lần nài nỉ xin học, bà già bèn nói:
- Cờ dịch chính là một phép toán nhỏ, nhưng bên trong chứa đựng nhiều lẽ huyền diệu. Quý khách đã say mê như thế, thì tất cũng đã giỏi lắm rồi. Bây giờ xin hãy tự sắp xếp các con cờ, để già này xem qua, nếu xem có điều gì cần bàn thêm chăng?
Rồi sai lấy bàn cờ cùng quân cờ ra. Tích Tân cố đem hết tài nghệ ra để khoe. Vừa bày được bốn năm chục con thì nàng dâu tủm tỉm cười nói với bà già:
- Quý khách đây cũng hiểu biết, có thể học được những thế cờ ở cõi trần đấy!
Bà già liền này cho Tích Tân đủ cách công thủ, sát, đoạt, cứu ứng phòng ngự. Ý thì đại lược nhưng đều là những điều xưa nay chưa nghe, chưa nghĩ tới bao giờ, Tích Tân xin học thêm. Bà già cười:
- Chỉ cần chừng ấy cũng đủ là vô địch trên cõi nhân gian rồi đấy! Xa giá thiên tử đã đi xa rồi, quý khách nên nhanh chân mới kịp.
Tích Tân tạ ơn mà lui ra. Đi mới được vài mươi bước, quay nhìn lại thì nhà cửa, sân vườn, cổng ngõ không thấy đâu nữa, mới thấy là mình được gặp tiên, lấy làm kinh dị.
Đúng là:
Huyền vi cờ dịch lẽ âm dương
Bí quyết xem ra chẳng phải thường
Vô địch cõi trần, cười nghĩ lại
Mục rồi cán búa, nợ duyên vương. (1)
1 Theo "Thần tiên truyện": Xưa có người vào núi hái củi, thấy hai ông tiên ngồi đánh cờ, đứng lại xem. Xong một ván, anh ta lại nhìn, thì thấy cái cán búa của mình đã mục nát.
Tích Tân từ đó tài nghệ đến mức nhập thần, Cao Lực Sĩ tâu với thượng hoàng, gọi Tích Tân vào kể hết đầu đuôi. Hoàng Phan Xước đứng nghe xong liền tâu:
- Cờ gọi là "thủ đàm", tức là nói chuyện bằng tay. Hai mẹ con bà tiên đánh cờ bằng miệng, thật là chuyện kỳ quặc xưa nay.
Thượng hoàng cười phán:
- Người trần tục đánh cờ, lấy tay thay miệng, lại phải có mắt nhìn. Người tiên đánh cờ, lấy miệng làm tay, mà chẳng cần mắt nhìn.
Tích Tân thưa:
- Hạ thần cứ theo nước cờ của hai mẹ con bà tiên đem bày ra xem xét, tính toán mãi cạn lòng nát óc mà vẫn không hiểu ra câu:
"Thế là mẹ thắng chín ván nhé?", là nghĩa ra làm sao?
Thượng hoàng phán:
- Chắc không phải là những thế cờ ở dưới trần này thường biết. Nhưng cứ ghi nhớ lấy, đợi có lúc gặp người tài giỏi hơn sẽ rõ được cũng nên!
Cao Lực Sĩ tâu:
- Tích Tân ngày trước nhân cuộc rượu mà được gặp thái thượng hoàng. Nay nhân giỏi cờ mà được gặp tiên nữ, đều là những cuộc gặp gỡ tuyệt diệu cả!
Thượng hoàng phán tiếp:
- Lý Mô gặp tiên ông dạy thổi sáo. Tích Tân gặp tiên bà dạy cờ Tiên cả, nhưng chẳng rõ loại tiên nào. Trương Quả, Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn, chỉ cần một trong ba người mà có ở đây, ắt biết rõ lai lịch các vị tiên ngay.
Đang chuyện phiếm, bỗng sứ giả của Túc Tông đến tâu rằng Vĩnh Vương Lý Lân phản nghịch, tiếm hiệu xưng hoàng đế ở Giang Nam. Thượng hoàng giận lắm, ra lệnh cất quân đánh dẹp.
Ít hôm sau, Túc Tông sai thái giám Đạm Đình Giao dâng biểu báo tin thắng trận, ngợi khen Quảng Bình Vương cùng Quách Tử Nghi thắng nhiều trận vẻ vang, lại được tướng sĩ, binh lính Hồi Hột tiếp viện đã khôi phục được Tây Kinh, chẳng bao lâu nữa Đông Kinh cũng sẽ thu về, Thượng hoàng mừng lắm.
Chính là:
Tin mừng nối nhau tới váng tai
Cờ nghĩa phất hai kinh rộn mắt.
Muốn biết công việc hai kinh rõ ràng, xin xem tiếp hồi sau.
- Các ngài tụ họp ở đây đông vui, trang nhã, lẽ ra không dám quấy phiền. Nhưng vì lỡ đường, cổ khô miệng khát, mong chén rượu thấm giọng liệu có được chăng?
Tích Tân thấy người này phong thái, hiên ngang biết ngay không phải kẻ tầm thường, chẳng đợi mọi người bằng lòng, đã đứng dậy vái chào, mời ngồi lên trên. Người này chẳng nề hà ngồi xuống. Tích Tân rót rượu vào một chén lớn bưng tới trước mặt. Người này đón lấy, uống một hơi cạn sạch, lại đòi rót thêm. Tích Tân rót nữa, đưa thêm các thức nhắm lại mời.
Bọn công tử xung quanh, đều là con cháu các nhà quyền quý, quen thói ngông nghênh, không coi ai ra gì, nay thấy người này cử chỉ, nói năng đường đột, cao ngạo, đều tỏ ý bất bình, rất muốn biết lai lịch người khách, nhưng chưa tiện hỏi. Một công tử cầm chén rượu nâng lên, cố ý ra một tửu lệnh rằng:
- Từng người trong chúng ta, hãy kể về gia thế mình, ai thuộc loại quý hiển nhất, sẽ uống ba chén rượu lớn. Xin mời quý khách nói trước!
Người này nói:
- Ta xin uống ba chén trước rồi sẽ nói sau nhé!
Tích Tân sai rót rượu. Người này uống hết ba chén lớn, đứng dậy, ra khỏi bàn tiệc, giơ tay, nói với tất cả:
- Tổ tiên ta, cao tổ làm thiên tử, tằng tổ làm thiên tử, ông nội làm thiên tử, cha làm thiên tử, hiện ta cũng làm thiên tử.
Nói xong, bước thẳng ra cửa, lên ngựa phi nước đại. Mọi người chưa kịp kinh ngạc, bỗng quan nội giám cùng mấy thị vệ dắt ngựa tìm đến. Thì ra, thời ấy, Đường Huyền Tông thường giả trang vi hành ngoài thành, rồi ngẫu nhiên gặp bọn công tử này.
Hôm sau, Cao Lực Sĩ tới hỏi cặn kẽ, biết người dâng rượu là Tích Tân, Huyền Tông liền triệu vào cung, thưởng rất hậu rồi phán:
- Bọn kia toàn lũ công tử kiêu ngạo, khoe khoang gia thế, trâng tráo chẳng khác gì lũ ăn mày. Riêng nhà ngươi nhã nhặn, thật đáng khen!
Rồi cho phép Tích Tân vào Viện hàn lâm đọc sách. Sau biết Tích Tân giỏi cờ dịch, liền ban cho chức Dịch kỳ cung phụng.
Chính là:
Nếu không nhờ chén rượu
Sao có chuyện gần vua.
Tích Tân từ ngày có cuộc gặp gỡ khác thường ấy, được hầu cận đấng chí tôn. Đến khi An Lộc Sơn nổi loạn. Huyền Tông cùng các quan cuống cuồng chạy vào đất Thục, Tích Tân cũng đem một lão bộc chạy theo, nhưng đường Thục hiểm trở như đường lên trời. Mỗi đêm tìm nơi nghỉ lại thì bao nhiêu hàng cơm, quán trọ, các nhà rộng rãi ven đường, đều bị vương tôn, đại thần dùng quyền, dùng sức mạnh chiếm sạch. Tích Tân cứ đành phải tìm sâu vào những nhà nghèo.
Một chiều, đi quanh co, men mãi theo khe suối, vô tình lọt vào một thôn hoang vắng, trời đã gần tối, cả thôn chỉ có mỗi một nhà, ba gian tranh nứa, nửa khép nửa mở. Gọi xin ngủ trọ, một bà già từ trong cửa ra nói:
- Nhà chỉ có mỗi già này với đứa con dâu thôi. Lẽ ra không nên để khách lạ nghỉ lại. Nhưng quanh đây chẳng còn nhà, trời lại đã tối, nếu khách bằng lòng ngủ ngoài thềm thì xin vâng.
Tích Tân cảm tạ:
- Vậy cũng may lắm rồi!
Bà già đưa trà nước cùng mấy cái bánh bao ra đãi khách. Xong xuôi vào nhà, đóng cửa lại. Tích Tân lắng tai nghe, biết bà già gài cửa xong thì hai mẹ con mỗi người một buồng. Hai thầy trò Tích Tân cũng dọn chỗ nằm ở thềm, người lão bộc mệt đã ngủ ngay, riêng Tích Tân vẫn trằn trọc không nhắm mắt được. Bỗng nghe mẹ chồng gọi nàng dâu:
- Đêm hôm chẳng có việc gì khuây khỏa, mẹ con ta đánh một ván cờ nhé!
Người nàng dâu đáp:
- Thế thì hay lắm!
Tích Tân lấy làm lạ, thầm nghĩ: "Đàn bà rừng núi, sao lại biết đánh cờ nhỉ? Mà hai người ở hai buồng đánh thế sao được?". Tích Tân nhổm dậy, đến bên khe cửa lén nhìn trộm vào, thấy đèn đóm chẳng có tối như bưng, bèn áp sát tai vào nghe.
Bà mẹ cất tiếng:
- Mẹ cho con đi trước!
Nàng dâu đáp:
- Con đi con Đông năm tới Nam chín.
Im lặng một lát, bà già lên tiếng:
- Mẹ đi con Đông năm tới Nam mười hai.
Lại yên lặng, rồi nàng dâu nói:
- Con đi con Tây tám tới Nam mười.
Lại im lặng, rồi bà già tiếp:
- Mẹ đi con Tây chín đến Nam mười bốn.
Cứ mỗi lần đi, lại yên lặng nghĩ ngợi một hồi. Đêm đã sang canh tư, mới đi được cả thảy ba mươi sáu nước. Tích Tân gắng nhớ kỹ từng bước. Bỗng nghe tiếng bà già cười vui vẻ:
- Con dâu lão thua rồi, thế là mẹ thắng chín ván nhé? (1)
1 Loại cờ này nguyên chữ Hán là "Dịch kỳ", cũng gọi là cờ vây, không giống cờ tướng của ấn Độ, Việt Nam, cũng không phải cờ vua của Tây phương. Theo "Quảng sự loại" thì chính vua Nghiêu nghĩ ra cờ dịch này để dạy con là Đan Chu. Cách đánh là làm thế nào vây, chẹn đường đối phương. Bàn cờ hình vuông, ngang dọc đều mười bảy đường, cộng thành 289 ô vuông nhỏ, con cờ tròn, chia hai loại trắng đen, mỗi loại những 150 con. Đời sau, thêm thành mười chín đường. 361 ô nhỏ (Từ Hải). Cách đánh của hai mẹ con như kiểu dùng tọa độ để xác định từng con bằng lời mà không cần bàn, như kiểu đánh cờ tướng không cần bàn của ta chăng? Tất nhiên phải nhớ tài nhiều hơn.
Nàng dâu thưa:
- Con tính nhầm một nước, thua là phải rồi. Sau đó thấy im lặng.
Sáng ra, mở cửa, Tích Tân sửa lại áo mũ vào chào. Bà già tóc bạc như cước, nhưng phong thái rất thư thái, tuyệt không một chút quê mùa. Tích Tân xin được lạy chào người nàng dâu. Bà già gọi ra, Tích Tân nhìn lên, thì thấy:
Tuy là trang phục lối quê
Nhác xem phong vận nhiều bề cao sang
Ra vào cử chỉ thư nhàn
Phòng khuê đào mận lại càng khác xa
Trang nghiêm đượm vẻ nhu hòa
Cầu Lam thần nữ phải là Vân Anh?
Tích Tân thi lễ xong, hỏi sang bí quyết của cờ dịch, bà già nói:
- Mẹ con già này đêm khuya đánh cho đỡ buồn không ngờ làm phiền tới quý khách!
Tích Tân ba bốn lần nài nỉ xin học, bà già bèn nói:
- Cờ dịch chính là một phép toán nhỏ, nhưng bên trong chứa đựng nhiều lẽ huyền diệu. Quý khách đã say mê như thế, thì tất cũng đã giỏi lắm rồi. Bây giờ xin hãy tự sắp xếp các con cờ, để già này xem qua, nếu xem có điều gì cần bàn thêm chăng?
Rồi sai lấy bàn cờ cùng quân cờ ra. Tích Tân cố đem hết tài nghệ ra để khoe. Vừa bày được bốn năm chục con thì nàng dâu tủm tỉm cười nói với bà già:
- Quý khách đây cũng hiểu biết, có thể học được những thế cờ ở cõi trần đấy!
Bà già liền này cho Tích Tân đủ cách công thủ, sát, đoạt, cứu ứng phòng ngự. Ý thì đại lược nhưng đều là những điều xưa nay chưa nghe, chưa nghĩ tới bao giờ, Tích Tân xin học thêm. Bà già cười:
- Chỉ cần chừng ấy cũng đủ là vô địch trên cõi nhân gian rồi đấy! Xa giá thiên tử đã đi xa rồi, quý khách nên nhanh chân mới kịp.
Tích Tân tạ ơn mà lui ra. Đi mới được vài mươi bước, quay nhìn lại thì nhà cửa, sân vườn, cổng ngõ không thấy đâu nữa, mới thấy là mình được gặp tiên, lấy làm kinh dị.
Đúng là:
Huyền vi cờ dịch lẽ âm dương
Bí quyết xem ra chẳng phải thường
Vô địch cõi trần, cười nghĩ lại
Mục rồi cán búa, nợ duyên vương. (1)
1 Theo "Thần tiên truyện": Xưa có người vào núi hái củi, thấy hai ông tiên ngồi đánh cờ, đứng lại xem. Xong một ván, anh ta lại nhìn, thì thấy cái cán búa của mình đã mục nát.
Tích Tân từ đó tài nghệ đến mức nhập thần, Cao Lực Sĩ tâu với thượng hoàng, gọi Tích Tân vào kể hết đầu đuôi. Hoàng Phan Xước đứng nghe xong liền tâu:
- Cờ gọi là "thủ đàm", tức là nói chuyện bằng tay. Hai mẹ con bà tiên đánh cờ bằng miệng, thật là chuyện kỳ quặc xưa nay.
Thượng hoàng cười phán:
- Người trần tục đánh cờ, lấy tay thay miệng, lại phải có mắt nhìn. Người tiên đánh cờ, lấy miệng làm tay, mà chẳng cần mắt nhìn.
Tích Tân thưa:
- Hạ thần cứ theo nước cờ của hai mẹ con bà tiên đem bày ra xem xét, tính toán mãi cạn lòng nát óc mà vẫn không hiểu ra câu:
"Thế là mẹ thắng chín ván nhé?", là nghĩa ra làm sao?
Thượng hoàng phán:
- Chắc không phải là những thế cờ ở dưới trần này thường biết. Nhưng cứ ghi nhớ lấy, đợi có lúc gặp người tài giỏi hơn sẽ rõ được cũng nên!
Cao Lực Sĩ tâu:
- Tích Tân ngày trước nhân cuộc rượu mà được gặp thái thượng hoàng. Nay nhân giỏi cờ mà được gặp tiên nữ, đều là những cuộc gặp gỡ tuyệt diệu cả!
Thượng hoàng phán tiếp:
- Lý Mô gặp tiên ông dạy thổi sáo. Tích Tân gặp tiên bà dạy cờ Tiên cả, nhưng chẳng rõ loại tiên nào. Trương Quả, Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn, chỉ cần một trong ba người mà có ở đây, ắt biết rõ lai lịch các vị tiên ngay.
Đang chuyện phiếm, bỗng sứ giả của Túc Tông đến tâu rằng Vĩnh Vương Lý Lân phản nghịch, tiếm hiệu xưng hoàng đế ở Giang Nam. Thượng hoàng giận lắm, ra lệnh cất quân đánh dẹp.
Ít hôm sau, Túc Tông sai thái giám Đạm Đình Giao dâng biểu báo tin thắng trận, ngợi khen Quảng Bình Vương cùng Quách Tử Nghi thắng nhiều trận vẻ vang, lại được tướng sĩ, binh lính Hồi Hột tiếp viện đã khôi phục được Tây Kinh, chẳng bao lâu nữa Đông Kinh cũng sẽ thu về, Thượng hoàng mừng lắm.
Chính là:
Tin mừng nối nhau tới váng tai
Cờ nghĩa phất hai kinh rộn mắt.
Muốn biết công việc hai kinh rõ ràng, xin xem tiếp hồi sau.
HỒI 96
Liều trăm mạng, Quách Tử Nghi báo nghĩa,
Thu hai kinh, Quảng Bình Vương dâng công.
Từ rằng:
Bậc anh hùng mang ơn lo to báo
Dẫu gian nguy điên đảo không quên
Ân nhân gặp vận oan khiên
Trăm mạng người thân trải lòng một tấm
Tình bằng hữu như son như gấm
Đạo vua tôi trung thấm nghiã đền
Khải hoàn nhờ sức tôi hiền
Văn mưu võ lược, nước bền dân yên.
Theo điệu: "Hạ thánh triều”
Từ Xưa đến nay, người làm ơn, không phải ai cũng nghĩ đến việc được báo. Nhưng kẻ đã lo được việc đền ơn, thì mấy ai đến nỗi phụ ơn. Thời Chiến Quốc, Hậu Sinh nói với Tín Lăng Quân rất hay rằng:
- Công tử mà có ơn với người khác, xin công tử hãy quên đi. Nhưng người ta có ơn với công tử, lại xin công tử đừng bao giờ quên.
Không quên ơn người khác, tất lo liệu tới việc báo, chẳng sớm thì muộn vậy!
Khổng Tử cũng nói rằng:
- Hãy lấy lẽ công bằng ngay thẳng mà báo oán, còn phải lấy đức mà báo đức vậy thôi!
Ô hô! Việc báo ơn không nói được bằng sự ngay thẳng, công bằng, mà phải nói là ơn nghĩa, ơn tình. Báo đức với báo oán là hai việc khác nhau. Báo oán thì không được quá khắc nghiệt, chỉ cần ở mức công bằng là đủ rồi. Ngay trong những oán thù đó, có cái phải báo, có cái không nên báo, gặp thời nên báo thì báo, có thời không báo cũng không báo. Tất cả đều bởi lẽ chính trực, công bằng cả vậy. Nhưng đã là ơn thì phải báo, không những thế mà còn phải báo rất hậu, không thể nói tới chuyện ơn đền thế nào thì báo thế ấy. Ơn một bát cơm, lấy nghìn vàng mà báo, nào phải chuyện đếm đong mua bán ở đây Ta đương gặp lúc nguy khốn, người xả thân cứu ta, trong tình cảnh bức bách hiểm nguy như thế, dẫu có thể công việc không thành, cũng phải nhận ở đây lòng tốt của người, mà suốt đời nhớ ơn. Huống chi lại thực đã cứu ta khỏi cảnh hoạn nạn, chẳng khác gì nghĩa ruột thịt tử sinh còn gì. Ta nay làm nên công nghiệp thế nào chăng nữa, cũng đều từ ơn đó mà ra. Với cái ơn lớn đến thế, dẫu có xả thân, bỏ nhà mà báo cũng thực chẳng quá.
Từ chuyện báo ơn đền nghĩa trên đây, đến việc của vua của bầy tôi tuy không thể nói chuyện thí ơn đền nghĩa, nhưng kẻ bề tôi có công định yên xã tắc, cứu khốn phò nguy, lập nên công huân hiển hách cho buổi thịnh thời, chẳng lúc nào quên ơn thánh chúa, ra sức hết lòng mưu đồ xã tắc, cũng nào phải là nghĩ đến chuyện được đền ơn đâu!
Bậc anh hùng mang ơn lo to báo
Dẫu gian nguy điên đảo không quên
Ân nhân gặp vận oan khiên
Trăm mạng người thân trải lòng một tấm
Tình bằng hữu như son như gấm
Đạo vua tôi trung thấm nghiã đền
Khải hoàn nhờ sức tôi hiền
Văn mưu võ lược, nước bền dân yên.
Theo điệu: "Hạ thánh triều”
Từ Xưa đến nay, người làm ơn, không phải ai cũng nghĩ đến việc được báo. Nhưng kẻ đã lo được việc đền ơn, thì mấy ai đến nỗi phụ ơn. Thời Chiến Quốc, Hậu Sinh nói với Tín Lăng Quân rất hay rằng:
- Công tử mà có ơn với người khác, xin công tử hãy quên đi. Nhưng người ta có ơn với công tử, lại xin công tử đừng bao giờ quên.
Không quên ơn người khác, tất lo liệu tới việc báo, chẳng sớm thì muộn vậy!
Khổng Tử cũng nói rằng:
- Hãy lấy lẽ công bằng ngay thẳng mà báo oán, còn phải lấy đức mà báo đức vậy thôi!
Ô hô! Việc báo ơn không nói được bằng sự ngay thẳng, công bằng, mà phải nói là ơn nghĩa, ơn tình. Báo đức với báo oán là hai việc khác nhau. Báo oán thì không được quá khắc nghiệt, chỉ cần ở mức công bằng là đủ rồi. Ngay trong những oán thù đó, có cái phải báo, có cái không nên báo, gặp thời nên báo thì báo, có thời không báo cũng không báo. Tất cả đều bởi lẽ chính trực, công bằng cả vậy. Nhưng đã là ơn thì phải báo, không những thế mà còn phải báo rất hậu, không thể nói tới chuyện ơn đền thế nào thì báo thế ấy. Ơn một bát cơm, lấy nghìn vàng mà báo, nào phải chuyện đếm đong mua bán ở đây Ta đương gặp lúc nguy khốn, người xả thân cứu ta, trong tình cảnh bức bách hiểm nguy như thế, dẫu có thể công việc không thành, cũng phải nhận ở đây lòng tốt của người, mà suốt đời nhớ ơn. Huống chi lại thực đã cứu ta khỏi cảnh hoạn nạn, chẳng khác gì nghĩa ruột thịt tử sinh còn gì. Ta nay làm nên công nghiệp thế nào chăng nữa, cũng đều từ ơn đó mà ra. Với cái ơn lớn đến thế, dẫu có xả thân, bỏ nhà mà báo cũng thực chẳng quá.
Từ chuyện báo ơn đền nghĩa trên đây, đến việc của vua của bầy tôi tuy không thể nói chuyện thí ơn đền nghĩa, nhưng kẻ bề tôi có công định yên xã tắc, cứu khốn phò nguy, lập nên công huân hiển hách cho buổi thịnh thời, chẳng lúc nào quên ơn thánh chúa, ra sức hết lòng mưu đồ xã tắc, cũng nào phải là nghĩ đến chuyện được đền ơn đâu!
***
Lại nói chuyện Túc Tông
từ ngày lên ngôi ở Linh Vũ, liền phong Quách Tử Nghi làm Vũ bộ thượng thư,
trưởng sử Linh Vũ là Lý Quang Bật làm Hộ bộ thượng thư bắc bộ lưu thú, kiêm
Đông bình chương sự. Lại sai người triệu Lý Bí về triều. Lý Bí tự là Trương
Nguyên, vốn người Kinh Triệu, sinh ra đã khác thường, mang vẻ tiên phong đạo
cốt, ngay từ lúc nhỏ vẫn như nghe có tiếng nhạc tiên ở trên không đến đón rước,
người như động đậy muốn bay lên trời để theo đi, người nhà phải cùng nhau ôm
chặt lấy. Mỗi lần nghe tiếng nhạc, người nhà phải giã nhiều tỏi rồi vẫy tung
lên trời như mưa tưới vậy về sau tiếng nhạc mới thưa dần. Đến năm bảy tuổi, đã
biết làm phú ngâm thơ, thông minh, dị thường.
Đời Khai Nguyên thời Huyền Tông, có lần hạ chiếu triệu về kinh những người già cả, hiểu biết dạo Phật, đạo Lão, để cùng nhau đàm đạo. Có một tiểu đồng họ Viên, tên Thục, tuổi vừa mới lên mười, cùng mọi người tranh luận mãi mà vẫn không thua kém. Huyền Tông vô cùng khâm phục, nhân đó mới hỏi Viên Thục:
- Ở ngoài cung cấm còn có trẻ nhỏ nào thông minh như khanh không?
Nguyên Viên Thục vốn là con của cô ruột Lý Bí, với Lý Bí chính là anh em con cô con cậu, cúi lạy mà tâu:
- Con của người cậu thân, tên gọi Lý Bí, kém thần ba tuổi, thế nhưng thông tuệ gấp mười lần!
Huyền Tông liền sai sứ đi triệu, Lý Bí vâng mệnh có mặt, từ cử chỉ bái lạy, đến lời thưa bẩm, đều rất đoan chính. Gặp giữa lúc Huyền Tông đang đánh cờ dịch với Yên Quốc Công Trương Duyệt, bèn sai Trương Duyệt ra đề thử tài. Trương Duyệt bảo làm một bài thơ về chuyện: "Vuông tròn, động tĩnh". Lý Bí tâu rằng ý quá đại lược, từ chối không làm. Trương Duyệt phải chỉ bàn cờ trên án mà giải thích thêm rằng:
Vuông như bàn cờ
Tròn như con cờ
Động như cờ sống
Tĩnh như cờ chết.
Đọc xong, Trương Duyệt còn nói sợ Lý Bí bằng ấy tuổi, chắc gì đã hiểu, liền nói luôn:
- Đây chính là ta mượn chuyện đánh cờ mà bàn chuyện vuông tròn, động tĩnh, túc hạ hãy nói rõ ý đó, không cần phải tả chuyện đánh cờ vậy.
Lý Bí thưa:
- Tiểu sinh hiểu rồi!
Liền ứng khẩu đọc ngay:
Vuông như làm việc nghĩa
Tròn như rèn luyện chí
Động như trổ đại tài
Tĩnh như vừa đắc ý.
Trương Duyệt nghe xong, vô cùng kinh ngạc mà thưa với Huyền Tông:
- Người này thực là người bạn ít tuổi của thần vậy.
Nhân đó lạy mừng triều đình được bậc thần đồng.
Chính là:
Bậc lão thần nhận làm bạn nhỏ
Mừng thánh chúa nay có thần đồng.
Huyền Tông thưởng cho rất hậu, lại cho phép Lý Bí được vào Hàn lâm viện đọc sách, đợi đến lúc tuổi trường thành, sẽ ban quan chức. Lý Bí ba bốn lần từ tạ. Cho làm bạn áo vải với thái tử, được thái tử rất yêu kính. Lúc bấy giờ Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung đều ghét, Lý Bí vì vậy xin cáo về ở ẩn vùng Dĩnh Dương.
Mãi đến nay, Túc Tông nhớ đến bạn thuở xưa, sai sứ mời về hành tại, lấy lễ chủ khách mà đãi, đi ra thì cùng sóng ngựa đôi, ngủ thì cùng chung giường, từ chuyện lớn đến việc nhỏ đều cùng bàn bạc, muốn phong làm tả thừa tướng, nhưng Lý Bí cương quyết từ chối, chỉ xin mặc áo trắng theo bên ngự giá.
Một hôm Túc Tông cùng Lý Bí sóng ngựa ra khỏi cung, đi một vòng trong doanh, quân lính chỉ trộm mà nói rằng:
- Ngài mặc áo vàng là bậc thánh nhân, còn người mặc áo trắng là người trong núi đấy!
Túc Tông nghe được, nhân nói với Lý Bí:
- Trong lúc giặc giã như thế này, quả không dám lấy chức tước để khuất phục. Nhưng cũng nên mặc áo tía để tuyệt hẳn những lời dị nghị, nghi ngờ của mọi người.
Liền ra lệnh lấy áo bào tía ban cho, LýBí đành phải bái tạ mà nhận. Túc Tông liền sai tả hữu hầu hạ Lý Bí thay áo mũ. Thay xong, Lý Bí đang định tạ ơn, Túc Tông cười mà phán rằng:
- Khoan đã, khoan đã, ăn mặc như thế thì cũng phải xưng hô như thế nào cho xứng chứ?
Liền lấy ngay trong tay áo một đạo sắc thư, phong cho Lý Bí làm Tham mưu quân quốc nguyên soái phủ hành quan trưởng sử. Lý Bí cố từ, Túc Tông khuyên:
- Không phải trẫm định ràng buộc gì khanh đâu, nay đang lúc gian nan, đợi lúc nào thiên hạ thái bình, thì xin tùy theo chí của khanh vậy!
Lý Bí tạ ơn mà nhận. Túc Tông muốn phong Kiến Ninh Vương Lý Dạm làm Đại nguyên soái. Lý Bí thưa:
- Kiến Ninh Vương quả có thể làm nổi chức nguyên soái, nhưng hiện Quảng Bình Vương là con cả, mai kia Kiến Ninh Vương công thành danh lớn, sẽ xử với Quảng Bình Vương ra sao.
Túc Tông đáp:
- Quảng Bình Vương vốn đã có chức phận nối ngôi xã tắc, thì chức nguyên soái liệu có đáng gì?
Lý Bí thưa:
- Quảng Bình Vương thì chưa chính vị làm Đông cung, nay đang lúc khói lửa, lòng người hướng về nguyên soái. Nếu khiến Ninh Vương thành công nghiệp, bệ hạ lại không lấy làm Đông cung, thì với công tích lớn như vậy, liệu có chịu yên. Chuyện mới rồi từ Thái Tông, đến thượng hoàng đều thế cả đó sao?
Túc Tông gật đầu:
- Khanh nói phải lắm! Để trẫm nghĩ thêm nữa!
Lý Bí lui ra. Kiến Ninh Vương đón gặp, tạ ơn rằng:
- Vừa rồi được nghe những lời tâu của ngài, chính là rất hợp với ý ta. Ta thật biết ơn vậy!
Lý Bí thưa:
- Điện hạ. đã hiếu hạnh như thế, thật là phúc cho quốc gia vậy!
Vì vậy Túc Tông bèn phong cho Quảng Bình Vương Lý Thục làm thiên hạ binh mã Đại nguyên soái. Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng quân đội của họ đều thuộc quyền thống lãnh của nguyên soái.
Lúc này Lý Quang Bật đóng giữ ở Thái Nguyên, bao nhiêu quân sĩ phần lớn đều đã đi canh giữ ở phương bắc, ở Thái Nguyên chỉ còn khoảng một vạn người. Tướng giặc là Sử Tử Minh dẫn hơn mười vạn lính đến đánh thành Thái Nguyên.
Các tướng đều xin tu sửa thành trì để đợi giặc. Quang Bật nói:
- Thành Thái Nguyên này chu vi có tới bốn mươi dặm, tu sửa không phải dễ, quân giặc sắp tới mới lo chữa chạy, thì chưa trông thấy giặc đã mệt mỏi rồi!
Liền lệnh cho quân sĩ đào hầm hố, đào rãnh sâu dài hàng mấy nghìn thước. Đến khi quân giặc đánh ngoài thành, Quang Bật liền lệnh cho lấy ngay bùn đất ở các lũy mới đắp thêm vào bên trong thành, để chống giữ lâu dài. Quân giặc đánh phá hơn một tháng, chẳng có chỗ nào sụt lở. Quang Bật lại tìm được ở xưởng đúc tiền, ba anh em thợ đúc rất giỏi việc đào khoét địa đạo, liền gọi đến thưởng cho rất hậu, rồi sai dẫn thêm nhiều người, đào thật nhiều địa đạo để chờ giặc. Có một tên giặc đang ngửa mặt lên thành mà chửi, Quang Bật sai người từ địa đạo giơ tay kéo chân tên này xuống, giải lên mặt thành mà chém đầu. Từ đó quân giặc làm gì cũng cứ chằm chằm nhìn xuống chân mình.
Quang Bật làm pháo lớn, bắn đá to, mỗi một phát bắn ra là chết hàng chục tên giặc, nên Sử Tử Minh phải lui trại quân ra phía ngoài thành hàng mấy chục bộ nữa. Quang Bật lại sai người sang trại giặc nói dối là lương thực trong thành đã cạn, hẹn với quân giặc ngày giờ ra hàng. Tử Minh tin lời, nên không phòng bị gì nữa. Quang Bật ngầm sai người đi trong địa đạo, đến doanh trại quân giặc, đem theo những tấm gỗ che chống. Đến hẹn rồi, sai hơn hai nghìn người, cưỡi ngựa ra khỏi thành, giả dạng như kiểu ra hàng. Quân giặc trông thấy từ xa, hoa chân múa tay đón, thình lình đất dưới chân sụt xuống sâu, chận chết vô số, lũ giặc kinh hoàng. Quan quân cứ trống dong cờ mở mà xông hết ra khỏi thành, chém quân giặc kể có hàng vạn. Tử Minh đành phải dẫn quân sĩ bỏ chạy.
Quang Bật dâng biểu báo tin thắng trận. Quảng Bình Vương thấy Thái Nguyên vốn là yếu địa, nay bị vây hãm, định sai tướng đến giải vây nhân nghe thắng trận mới thôi. Quách Tử Nghi thấy Hà Đông nằm giữa hai kinh, chỉ cần lấy được Hà Đông thì có thể thu lại. Lúc này tướng giặc là Thôi Càn Hựu đang đóng giữ Hà Đông. Tử Nghi mật sai người lẻn vào Hà Đông, tìm đến các tướng sĩ quan lại nhà Đường bị giặc bắt theo, hẹn ước làm nội ứng để trong ngoài cùng đánh. Thôi Càn Hựu vì vậy không chống đỡ được, phải bỏ thành mà chạy. Tử Nghi dẫn quân đuổi theo, chém đầu rất nhiều. Càn Hựu may mà chạy thoát, Hà Đông về với triều đình.
Chính là:
Tướng tài Quách Lý hai người
Tiên công phòng thủ trong ngoài thắng to.
Túc Tông liền lấy Tử Nghi làm Thiên hạ binh mã phó nguyên soái giao cho lo khôi phục hai kinh. Bỗng nghe tin Vĩnh Vương Lý Lân ở Giang Lăng tiếm nghịch xưng hoàng đế. Nguyên là Lý Lân đã ra trấn giữ Giang Lăng từ trước, cậy mình giầu có, nhiều người ngựa, khí giới, kiêu ngạo không phục ai, nghe tin Túc Tông lên ngôi ở Linh Vũ bèn cùng bộ tướng, liêu thuộc bàn bạc, rằng thái tử có thể tự xưng ngôi báu, thì ta có cả một vùng Giang Lăng, sao lại không thể làm chúa một vùng, để tính chuyện khởi nghiệp riêng.
Túc Tông sợ chuyện tranh giành, mới xuống chiếu sai sứ bãi chức bắt ngay về Thục, Lý Lân không chịu, quyết chí phản nghịch, tự xưng hoàng đế, ý muốn chiêu nạp các hiền tài, để cho dân chúng trông vào. Nghe tin Lý Bạch lui về ẩn ở Lưu Sơn, cách Giang Lăng không xa, sai sứ mời đến. Lý Bạch chối từ không đến. Lý Lân bèn sai người rình sẵn, chờ Lý Bạch ra khỏi nhà, bắt đưa về Giang Lăng, buộc nhận quan chức, Lý Bạch cố từ không chịu, Lý Lân không thể nào thay đổi ý của Lý Bạch, chỉ đành như giam lỏng, không cho Lý Bạch trở về.
Túc Tông nghe tin Lý Lân làm phản, một mặt làm biểu dâng lên thượng hoàng rõ, một mặt sai Hoài Nam Tiết độ sứ Cao Thích, cùng phó sứ Lý Thành Vũ dẫn quân hỏi tội.
Lúc này nội giám Lý Phụ Quốc luồn lách trong cung, cùng với Trương Hoàng hậu chuyên quyền. Lại thêm nội giám Biên Lệnh Thành, nhân bị giặc ghét bỏ, bèn từ phía giặc chạy trốn về hành tại, nhờ cậy Lý Quốc Phụ để được dùng. Lý Bí bèn tâu rằng:
- Lệnh Thành là hoạn quan, may được chúa thượng giao cho việc lớn, ngoài thì cầm binh quyền, trong thì quản cung cấm, mà giặc tới hàng, đem tất cả chìa khóa cung cấm giao cho giặc, rõ ràng là phản nghịch. Tội thật đáng giết.
Túc Tông liền sai giải Lệnh Thành ra chém đầu, để làm gương cho những kẻ theo giặc. Lúc này Lý Quốc Phụ cũng tâu rằng:
- Hàn lâm học sĩ Lý Bạch hiện đang là kẻ bày mưu tính kế cho phản nghịch Lý Lân. Lẽ nên sai binh quan ghi vào sổ những kẻ theo giặc, đợi đến khi thái bình, án theo quốc pháp mà trị tội.
Tại sao Phụ Quốc lại bỗng nói tới chuyện này? Chỉ vì lúc Lý Bạch còn ở triều, làm thơ uống rượu rất ngang tàng, phẩm hạnh cao thượng, không thèm để ý đến bọn hoạn quan, nên bọn này đều ghét Lý Bạch. Nay Phụ Quốc tâu thế, một phần cũng hợp ý triều đình đang tìm những kẻ theo giặc để trừng phạt, phần nữa là bực tức chuyện Lý Bí tâu xin nhà vua giết mất Lệnh Thành. Nay y kể tội Lý Bạch để mọi người thấy rằng, hạng văn nhân danh tiếng, được hoàng thượng thương yêu đến thế, cũng vẫn theo giặc như thường, nào dâu chỉ kẻ hoạn quan mới xấu thôi đâu!
Túc Tông làm theo lời tâu, truyền ngay lệnh xuống pháp ty. Việc này làm kinh động Quách Tử Nghi, Tử Nghi nghĩ ngợi: "Năm trước Lý Bạch cứu tính mạng ta, ơn lớn chưa đền, nay há có thể ngồi nhìn hay sao?". Liền ngay trong đêm viết biểu, sáng hôm sau phủ phục trước sân rồng dâng lên.
Tờ biểu đại lược như sau:
“Hạ thần trộm xét thấy Lý Bạch xưa là bề tôi hầu việc thơ văn được thượng hoàng gia ơn, đặc cách bổ dụng, nhưng cố ý xin về nghỉ, nằm không ở Lư Sơn. Coi đó cũng đủ biết tư cách làm người của họ ra sao. Nay không may bị nghịch tặc ở cõi xa ức hiếp. Hạ thần nghe rằng lúc đầu Lý Bạch cố ý chối từ, kế đó bị thúc bách nhiều, bắt buộc phải nhận quan chức của giặc mà vẫn không đổi.
Thế mà các quan xét cho Lý Bạch là phản nghịch, thần e rằng quá nặng. Hạ thần xin đem tính mạng cả gia quyến, hơn một trăm người bảo lãnh cho họ Lý. Hạ thần đã từng chịu ơn sâu của họ Lý ngày trước, nhưng thật không dám vì ơn riêng mà dâng lời bênh vực cuồng xiên. Sau này mọi sự yên ổn, sẽ có trăm tai nghìn mắt dân chúng làm chứng điều phải trái. Nếu thần nói sai, gia quyến một trăm mạng cam chịu phép nước.
Cẩn tấu!”
Túc Tông xem biểu, lệnh cho pháp ty hãy để án này lại đó, đợi ngày yên hàn rồi sẽ quyết. Về sau Vĩnh Vương Lân đại bại phải tử, quan lại sở tại bắt giải lũ người theo Lý Lân về chờ ngày xử quyết. Lý Bạch vì thế cũng bị giam trong nhà ngục ở Tầm Dương. Triều đình nhân có Quách Tử Nghi đã viết biểu tâu, đặc sai quan đến tra xét. Quan trở về tâu rằng: Lý Bạch quả có bị Lý Lân ức hiếp, không như những kẻ theo giặc khác, tội đáng được giảm. Vì vậy có thánh chỉ truyền Lý Bạch đi đày dài hạn ở Dạ Lang (1), còn lại lũ theo giặc kia, tất cả đều phải tội chết.
Năm Càn Nguyên, ban chiếu đại xá thiên hạ, Lý Bạch mới được tha trở về, đến địa giới huyện Đương Đồ, ngồi trên thuyền vừa ngắm trăng vừa uống rượu say sưa, muốn vớt ánh trăng dưới đáy nước nên đâm dầu xuống sông rồi chết. Người hai bên bờ, lúc này bỗng thấy Lý Bạch cưỡi cá chép lớn, bay lên trời mà đi mất. (2) Đó là chuyện sau này.
1 Dạ Lang: nay thuộc huyện Đồng Tử, tỉnh Quý Châu.
2 Tất nhiên đây chỉ là huyền thoại. Theo "Lịch sử văn học Trung Quốc", Quyển 2, của Viện khoa học Trung Quốc, thì Lý Bạch chết bệnh ở nhà ông chú họ là Lý Dương Bằng, làm huyện lệnh Đương Đồ, thọ 62 tuổi, vào năm 762.
Chính là:
Mang ơn lắm báo tay hào kiệt
Vô lội đi đày, khổ Trích Tiên
Anh hùng đem nhà đền nghĩa cũ
Trích Tiên chán sống bỏ thăng thiên.
Hãy nói chuyện khác, Túc Tông lấy Quảng Bình Vương làm nguyên soái, ý muốn lập luôn làm thái tử. Lý Bí tâu:
- Bệ hạ tức vị ở Linh Vũ, chính là do việc quân bức bách, phải gấp rút có chính danh phân xử mọi việc. Nhưng nay muốn lập thái tử thì lại nên thỉnh mệnh thái thượng hoàng. Nếu không hậu thế sẽ không hiểu hết cái thế bất đắc dĩ của bệ hạ vậy.
Quảng Bình Vương cùng từ chối mà thưa:
- Hiện nay bệ hạ cũng chưa được sớm hôm chăm sóc thượng hoàng, thần đâu dám lĩnh ngôi Đông cung.
Túc Tông vì vậy tạm để ngôi thái tử chưa định vội. Kiến Ninh Vương nói riêng với Lý Bí rằng:
- Anh em ta đều bị bọn Lý Phụ Quốc, Trương Hoàng hậu ghen ghét. Hai người này chuyên tâu những lời bài xích. Ta phải sớm trừ cái họa này mới xong.
Lý Bí đáp:
- Điều này thì thần chưa nghe thấy. Xin hãy cẩn thận, đừng bàn luận rộng rãi vội!
Kiến Ninh Vương không nghe, nhiều lần trước mặt Túc Tông, kể tội họ Lý, họ Trương. Hai người này cùng bàn cách xiểm nịnh, vu cho Kiến Ninh tìm cách hãm hại Quảng Bình Vương, để mưa đoạt ngôi thái tử. Túc Tông vội vàng tức giận, truyền chỉ giết chết Kiến Ninh Vương. Lý Bí muốn can thì việc đã rồi. Khá tiếc một người hiền như thế, chỉ vì những lời bịa đặt, đến nỗi bỏ đời. Nhớ lúc Túc Tông còn ở ngôi Đông Cung, bị Lý Lâm Phủ ghen ghét, chịu bao nhiêu kinh hoàng, mà vẫn không lấy đó làm răn. Nay giặc lớn chưa diệt, mà đã giết mất con hiền, sao lại nhẫn tâm đến thế. Người đời sau có thơ than:
Giá con vì nghe gièm
Thượng hoàng đầu têu đó
Túc Tông thật nhẫn tâm
Kiến Ninh chết xấu số
Nhớ chăng thuở Đông cung
Nơm nớp sợ tai ương
Nay sao theo vết cũ
Để miệng chúng vào ra
Vua cha không sáng suốt
Tôi con chịu oan gia
Lũ đàn bà ghen tuông
Cùng hoạn quan nịnh nọt
Tội băm vằm không tha.
Năm thứ hai đời Chí Đức, Túc Tông ngự giá tới Phượng Tường, lệnh cho Quảng Bình Vương cùng Quách Tử Nghi hưng binh khôi phục hai kinh.
Quách Tử Nghi xin được nhờ kỵ binh rất tinh nhuệ của Hồi Hột giúp thêm cho. Khả Hãn Hồi Hột liền cho con trai là Diệp Hoạch, kéo một vạn quân đi trước tiếp ứng. Túc Tông hứa sẽ trọng thưởng. Diệp Hoạch xin là khi nào chiếm được thành, đất đai, sĩ dân thì thuộc về triều đình, vàng lụa cùng đàn bà con gái thì thuộc về Hồi Hột. Túc Tông trong lúc muốn mau thắng trận nên đành phải nghe theo. Lại tập hợp thêm các lính cưỡi ngựa phương bắc, cùng Tây Vực, cộng tất cả được mười lăm vạn người.
Lý Bí hiến kế, trước nên đánh vào Phạm Dương, lật nhào sào huyệt của giặc.
Túc Tông phán:
- Đại quân đã tập hợp, lẽ nên đánh thẳng vào Trường An, chẳng nên làm khổ binh lính, lại phải đánh vào Phạm Dương trước.
Lý Bí thưa:
- Nay phần lớn binh sĩ đều người phương Bắc quen với rét buốt mà ngại nóng bức. Hãy thừa lúc họ vừa mới đến còn đang hăng hái, đánh vào nơi đã suy yếu, thì hai kinh cũng thu về. Nay nếu đánh hai kinh trước, giặc sẽ chạy về sào huyệt, quen thuộc vùng Quan Đông, mùa xuân kịp về, quan quân tất nhớ nhà, giặc lại có thời gian dưỡng nuôi người ngựa để chờ quân triều đình kéo lên, hoặc lại tự ý kéo xuống, thì chiến trận chẳng biết đến bao giờ mới xong. Chi bằng kéo ngay lên phương Bắc, khử trừ sào huyệt, giặc chẳng còn nơi quay về. Sau đó nhóm toàn quân mà vây giặc, thì gì mà chẳng tóm gọn.
Túc Tông phán:
- Lời bàn của khanh hay lắm, nhưng trẫm lâu nay chẳng được thăm hỏi thượng hoàng, ý cũng muốn khôi phục ngay hai kinh, để đón thượng hoàng về, chẳng nên chờ lâu hơn nữa.
Liền không nghe theo kế của Lý Bí, cho binh mã tiến về Tây Kinh.
Quân đội kéo đến phía tây thành Trường An, bày trận ở phía đông Lễ Thủy. Lý Tự Nghiệp dẫn tiền quân, Quảng Bình Vương, Quách Tử Nghi, Lý Bí dẫn trung quân, Vương Nguyên Lễ dẫn hậu quân. Quân giặc mấy vạn, bày trận ở phía Bắc Lễ Thủy. Tướng giặc là Lý Quy Nhân cưỡi ngựa khiêu chiến, Quách Tử Nghi dẫn tiền quân đối địch. Quân giặc ùa cả ra, quân triều đình ít hơn, Lý Tự Nghiệp cởi trần vác giáo, xông lên trước hàng quân, miệng gào lớn kêu gọi, giết ngay được mấy chục tên giặc. Quan quân vì vậy phấn chấn hẳn lên, đều cắp trường thương, như bức thành mà xông lên, quân giặc đương không nổi. Có Đô tri binh mã là Vương Nam Đắc, bị quân giặc bắn trúng mí mắt, thịt lòi hắn ra, che kín cả mắt lại. Nam Đắc tự mình rút ngay mũi tên, dứt cả miếng thịt, máu chảy đầy mặt mà vẫn xông lên không chịu lùi.
Quân giặc phục sẵn đội kỵ mã tinh nhuệ ở phía Đông trận địa, hòng để tập kích vào quân sĩ triều đình lúc bất ngờ sau này, Quách Tử Nghi dò biết được, liền sai ngay Sóc Phương tả sương binh mã sứ Bộc Cô Hoài dẫn quân Hồi Hột, đột ngột kéo đến chận ra mà đánh, chém giết gần hết, Lý Tự Nghiệp lại dẫn binh Hồi Hột, vòng ra phía sau quân giặc, cùng công kích với toàn quân. Vương Nguyên Lễ cũng dẫn hậu quân ập tới, ra sức chém giết. Từ giờ ngọ cho tới giờ dậu (1), chém cả thảy được hơn sáu vạn thủ cấp. Quân giặc thua to, tàn quân chạy trốn vào trong thành, suốt cả đêm chiến trận vẫn nghe vang dội khắp vùng.
1 Giờ ngọ: từ 11 giờ đến 1 giờ. Giờ dậu: từ 17 giờ đến 19 giờ. Như vậy chiến trận kéo dài bảy giờ liền.
Cho tới sáng hôm sau, quân thám mã về báo, tướng giặc Lý Quy Nhân, An Thủ Trung, Điền Cần Chân, Trương Thông Như đều đã bỏ chạy. Quảng Bình Vương liền dẫn quân sĩ vào Tây Kinh. Trăm họ già trẻ ra đầy đường mà đón rước. Diệp Hoạch đòi theo như lời hẹn, cứ thế mà cướp vàng lụa, con gái.
Quảng Bình Vương xuống ngựa, lạy trước ngựa của Diệp Hoạch mà rằng:
- Nay vừa mới thu được Tây Kinh, nếu mà cứ kiểu cướp bóc thế này, thì dân chúng Đông Kinh tất theo giặc mà cố thủ, khó mà lấy được. Xin hãy chờ khi lấy được Đông Kinh rồi, sẽ theo lời ước hẹn vậy.
Diệp Hoạch cũng hoảng hết xuống ngựa, nâng Quảng Bình Vương dậy mà ôm lấy chân thưa rằng:
- Vậy xin theo điện hạ tới Đông Kinh.
Liền cùng Bộc Cố Hoài dẫn quân bản bộ cùng binh mã Tây Vực, qua cửa nam của Trường An, không hề dừng lại, kéo về Đông Kinh.
Dân chúng thấy Quảng Bình Vương vì trăm họ mà phải xuống ngựa lạy đều rơi nước mắt thán phục.
Vì dân mà chịu khuất thân
Người người thán phục mà dân được nhờ
Lính Phiên cảm nghĩa nhà vương
Buông tay cướp của, bớt lòng dục dâm!
Quảng Bình Vương ở Trường An ba ngày, rồi kéo đại binh đi Đông Kinh, dâng thư về hành tại báo tin đại thắng, trăm quan đều tới chúc mừng. Túc Tông ngay hôm sau dâng biểu, sai sứ Đạm Đình Giao, vào Thục tâu lên thượng hoàng, mời xa giá về Tây Kinh trở lại ngôi báu. Lại sai thân vương về ngay Tây Kinh, tế cáo tôn miếu, phủ dụ bách tính, mặt khác lại sai người phi ngựa như bay đến quân doanh, triệu ngay Lý Bí về. Lý Bí ngày đêm về Phượng Tường ra mắt Túc Tông, hỏi nguyên cớ triệu về. Túc Tông đáp:
- Trẫm nghe Tây Kinh báo tin đại thắng, đã lập tức dâng biểu lên thượng hoàng, mời xa giá về Tây Kinh trở lại ngôi báu, trẫm nguyện quay về phủ Đông cung, để trọn đạo làm con. Chưa rõ ý khanh nghĩ ra sao, nên muốn gặp mặt hỏi ngay.
Lý Bí ngạc nhiên hỏi:
- Thế biểu bệ hạ đã gửi đi chưa?
Túc Tông đáp:
- Gửi rồi?
Lý Bí tiếp:
- Có thể lấy lại được chăng?
Túc Tông đáp:
- Đã đi xa lắm rồi. Nhưng sao lại phải lấy lại?
Lý Bí xuýt xoa mà thưa:
- Thượng hoàng chẳng chịu về đâu!
Túc Tông kinh ngạc hỏi tại sao. Lý Bí thưa:
- Bệ hạ đã lên ngôi, đổi niên hiệu đã được hai năm, nay bỗng dâng biểu như vậy, trong lòng thượng hoàng nghi hoặc, không chút yên lòng, thì làm sao lại bằng lòng về cho được!
Túc Tông chợt nhận ra, dậm chân mà than:
- Trẫm xin lui về giữ ngôi thái tử vốn là thành tâm, nay như lời khanh nói, thì thật là làm lỡ việc mất rồi. Biểu đã dâng lên, làm thế nào bây giờ?
Lý Bí bèn thưa:
- Nay bệ hạ hãy làm ngay một tờ biểu khác do trăm quan đứng ra mừng đại thắng, nói rõ từ khi bệ hạ được giữ lại ở trạm Mã Ngôi, lên ngôi vua ở Linh Vũ, nay hai kinh đã sắp thu về, lúc nàolòng những mong được sớm hôm chăm nom thượng hoàng, nên xin mời về cung, để tròn chữ hiếu thuận. Như thế thì thượng hoàng sẽ yên lòng mà vừa ý quay về chăng!
Túc Tông lia lịa khen phải, lệnh cho Lý Bí thảo ngay biểu, rồi lập tức sai trung sứ Thôi Hoắc Quang vào Thục dâng lên.
Chẳng cần phải nói cũng biết ngay là Đạm Đình Giao từ Thục quay về, truyền lời phán của thượng hoàng rằng:
- Hãy để cho ta riêng một quận Kiếm Nam, ta tự cung phụng lấy. Ta không về đâu!
Túc Tông bàng hoàng không biết xử trí ra sao. Chờ mấy ngày sau, Thôi Hoặc Quang quay về thưa tiếp:
- Thượng hoàng lúc đầu nghe bệ hạ dâng biểu xin lui gót ngôi thái tử, băn khoăn bỏ cả ăn ngủ, nhất định không chịu về đông. Mãi đến khi có biểu mừng của trăm quan tới, mới chịu ăn cơm, uống thuốc, hạ tờ cáo định ngày quay về Trường An.
Túc Tông nghe ra, cả mừng, gọi Lý Bí vào cung kể rõ cho nghe, rồi phán:
- Tất cả đều do công của khanh đấy!
Nhân đó mời bày tiệc cùng ngồi. Đêm ấy giữ lại cùng ngủ một giường ở trong cung.
Chính là:
Ghế chúa chuyện trò Vương Trọng phụ
Giường vua thức ngủ Hán Nghiêm Lăng. (1)
1 Vương Đạo: giúp ba đời vua nhà Tấn, được tôn xưng là trọng phụ. Nghiêm tăng: bạn thân của Hán Quang Vũ. Nghiêm tăng không chịu làm quan. Quang Vũ mời đến chơi, giữ lại đêm, ngủ chung giường. Nghiêm Lăng gát chân lên bụng. Quang Vũ vẫn cười không nói gì (Tẩm nguyên từ điển).
Lý Bí vốn không ham gì chuyện quan chức, từ lâu đã có ý bỏ quan mà về. Nhân lúc này mới đưa lời tâu:
- Thần đã ít nhiều báo được ơn thánh đế, nay xin hãy theo lời hứa cũ mà tha cho thần về nghỉ ngơi.
Túc Tông đáp:
- Khanh từ lâu đã cùng trẫm lo lắng trong cơn hoạn nạn, nay trẫm đang định cùng khanh hưởng chuyện yên vui. Sao khanh đã vội tính chuyện bỏ đi cho đành?
Lý Bí thưa:
- Thần có năm điều không thể ở: Thần gặp bệ hạ sớm quá, thần được bệ hạ yêu quá, thần được bệ hạ tin cậy quá, công thần lớn quá, hành tung của thần cũng khác người quá: Vì năm điều đó nên dù thế nào cũng không ở lại vậy!
Túc Tông cười đáp:
- Thôi hãy ngủ ôi! Ngày khác sẽ bàn?
Lý Bí vẫn chưa chịu:
- Bệ hạ nay với thần chung giường cùng ngủ, còn chẳng nghe lời xin của thần, huống chi ngày khác ngay trước án rồng. Bệ hạ ngồi trên chín tầng điện cao, không cho thần về quê cũ thì thật là giết thần vậy!
Túc Tông kinh ngạc hỏi:
- Sao khanh lại nghi ngờ trẫm đến thế? Trẫm có khi nào định giết khanh đâu?
Lý Bí thưa:
- Giết thần không phải bệ hạ, mà chính là năm điều đã nói. Bệ hạ lâu nay đãi thần hậu đến thế, thần không thể nào nói hết mọi điều để thờ bệ hạ. Huống chi mai kia thiên hạ thái bình rồi, thần còn mong gì được thánh thượng mời đón, nói gì đến chuyện khác nữa.
Túc Tông phán:
- Những lời của khanh có phải vì vừa rồi trẫm không nghe theo lời khanh đánh Phạm Dương chăng?
Lý Bí thưa:
- Thần đâu có nhân việc đó. Thần suytừ việc Kiến Ninh Vương mà thấy vậy!
Túc Tông nói:
- Kiến Ninh định giết anh, trẫm bất đắc dĩ phải trừ đi vậy!
Lý Bí thưa:
- Kiến Ninh Vương nếu có lòng như thế, thì Quảng Bình Vương đã vô cùng căm giận rồi. Nay mỗi lần nói chuyện với thần, Quảng Bình Vương đều nhận là oan uổng, thường sa nước mắt. Huống chi bệ hạ lúc ấy còn muốn dùng Kiến Ninh Vương làm nguyên soái, thần xin dùng Quảng Bình Vương. Nếu như Kiến Ninh Vương có ý giết anh, thì phải rất ghét thần mới đúng, nhưng ngay hôm đó, lại khen thần tận trung, ngày càng thân thiết. Cứ như thế cũng đủ thấy tấm lòng Kiến Ninh Vương ra sao.
Túc Tông nghe nói, bất giác rơi nước mắt mà rằng:
- Khanh nói như thế, trẫm thấy mình sai rồi. Những chuyện đã qua, biết chữa như thế nào được!
Lý Bí thưa:
- Thần không phải để ý gì đến lỗi lầm đã qua, mà chính là để nhắc bệ hạ hãy thận trọng những việc sắp tới. Nhớ thuở xưa, Thiên Hậu (1) đánh thuốc độc giết chết thái tử Hoàng, để đến nỗi người con thứ là Hiền lo lắng, mà làm bài từ "Hoàng đài qua", quả dưa ở dưới suối vàng, có hai câu rằng:
Lan đầu hái một quả dưa
Lần sau quả nữa, dễ chưa vừa lòng?
1 Tức Vũ Tắc Thiên.
Nay bệ hạ cũng đã hái một quả, xin hãy đừng hái thêm nữa.
Lý Bí biết Trương Hoàng hậu rất gờm công lao của Quảng Bình Vương, thường ngày vẫn không ngớt dèm pha, chỉ sợ lúc nào đó Túc Tông lại nghe theo, nên cố tình nói thế. Lúc này Túc Tông nghe xong, bèn thổn thức mà phán rằng:
- Làm sao lại có chuyện thế được. Nhưng những lời dặn chân thành của khanh, trẫm xin luôn đeo ở bên mình một cách cẩn thận vậy!
Lý Bí lại nói việc xin về nghỉ. Túc Tông đáp:
- Hãy chờ Đông Kinh báo tin thắng trận, trẫm vào Tây Kinh đã rồi sẽ bàn.
Mấy ngày sau, tin mừng ở Đông Kinh đưa tới, nói rõ rằng, quân giặc sau khi thua to ở Tây Kinh thu thập tàn binh về giữ Thiểm Thành. An Khánh Tự sai Trang Nghiêm đem binh cứu viện. Quách Tử Nghi đón giặc ở Tân Điếm, Diệp Hoạch dẫn binh bản bộ truy kích, trước sau cùng ập đánh giặc thua to thây chất đầy đồng, phải bỏ Thiểm Thành mà chạy. Tử Nghi liền chia quân làm nhiều đường đuổi theo. Trang Nghiêm quay về Đông Kinh, khuyên An Khánh Tự bỏ Đông Kinh, dẫn quân sĩ chạy về Hà Bắc, sắp bỏ thành, còn kịp giết hơn ba mươi tướng nhà Đường bị bắt, trong đó có Kha Thư Hãn. Chỉ riêng có Hứa Viễn thì đâm cổ mà tự tử.
Quách Tử Nghi đưa Quảng Bình Vương vào thành Đông Kinh, lấy tất cả của kho giao cho Diệp Hoạch. Lại lệnh cho dân gian thu nạp hơn một vạn tấm lụa gấm đưa cho Diệp Hoạch, để xin đừng giở chuyện cướp bóc. Trăm họ đều hoan hỉ mà theo.
Chính là:
Tướng giỏi dùng lính Phiên
Vua sáng cậy tới hiền
Thu phục lại đất nước
Vua tôi cùng đáng khen.
Túc Tông nghe tin mừng lắm, liền sai ngay Vi Kiến Tố đem biểu vào Thục dâng tin thắng trận. Theo đó phái Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh cũng đi ngay Thành Đô để đón hoàng thượng. Chọn ngày tốt, Túc Tông lên xe rồng đi Tây Kinh, chờ ngày hoàng thượng hồi loan.
Lý Bí cũng dâng biểu, xin được như lời ước, cho về núi cũ. Túc Tông biết chí Lý Bí đã quyết, liền ban lời an ủi, rồi tạm cho về nghỉ. Ngay ngày hôm sau, Lý Bí tạ ơn lui tới sân rồng, tìm đến ẩn cư ở dãy Hành Sơn. Sau này khi Quảng Bình Vương lên ngôi, lại có mời Lý Bí ra một lần nữa, thế là thờ vua qua hai triều, chính tích có nhiều lời hay việc tốt. Chuyện không nói nữa.
Đáng tiếc Túc Tông chẳng nghe theo kế sách đánh ngay vào Phạm Dương, để đến nỗi tuy đã thu phục hai kinh, nhưng giặc vẫn chẳng trừ hết, sau loạn của cha con họ An, lại kể đến sự phản nghịch của cha con họ Sử, khổ quân hại dân, mãi về sau vẫn chưa yên. Cũng may cuối cùng, Lộc Sơn bị con là Khánh Tự giết, rồi Khánh Tự lại bị bề tôi là Sử Tử Minh đâm chết, thần phản loạn, con nghịch tử, dằng dai báo ứng. Nhưng đó là những chuyện sau này cả, nay hãy theo gót thượng hoàng về Kinh Đô xem sao.
Chính là:
Ngày nào đường Thục gian nan
Nay mừng đất cũ hồi loan thái hòa.
Đời Khai Nguyên thời Huyền Tông, có lần hạ chiếu triệu về kinh những người già cả, hiểu biết dạo Phật, đạo Lão, để cùng nhau đàm đạo. Có một tiểu đồng họ Viên, tên Thục, tuổi vừa mới lên mười, cùng mọi người tranh luận mãi mà vẫn không thua kém. Huyền Tông vô cùng khâm phục, nhân đó mới hỏi Viên Thục:
- Ở ngoài cung cấm còn có trẻ nhỏ nào thông minh như khanh không?
Nguyên Viên Thục vốn là con của cô ruột Lý Bí, với Lý Bí chính là anh em con cô con cậu, cúi lạy mà tâu:
- Con của người cậu thân, tên gọi Lý Bí, kém thần ba tuổi, thế nhưng thông tuệ gấp mười lần!
Huyền Tông liền sai sứ đi triệu, Lý Bí vâng mệnh có mặt, từ cử chỉ bái lạy, đến lời thưa bẩm, đều rất đoan chính. Gặp giữa lúc Huyền Tông đang đánh cờ dịch với Yên Quốc Công Trương Duyệt, bèn sai Trương Duyệt ra đề thử tài. Trương Duyệt bảo làm một bài thơ về chuyện: "Vuông tròn, động tĩnh". Lý Bí tâu rằng ý quá đại lược, từ chối không làm. Trương Duyệt phải chỉ bàn cờ trên án mà giải thích thêm rằng:
Vuông như bàn cờ
Tròn như con cờ
Động như cờ sống
Tĩnh như cờ chết.
Đọc xong, Trương Duyệt còn nói sợ Lý Bí bằng ấy tuổi, chắc gì đã hiểu, liền nói luôn:
- Đây chính là ta mượn chuyện đánh cờ mà bàn chuyện vuông tròn, động tĩnh, túc hạ hãy nói rõ ý đó, không cần phải tả chuyện đánh cờ vậy.
Lý Bí thưa:
- Tiểu sinh hiểu rồi!
Liền ứng khẩu đọc ngay:
Vuông như làm việc nghĩa
Tròn như rèn luyện chí
Động như trổ đại tài
Tĩnh như vừa đắc ý.
Trương Duyệt nghe xong, vô cùng kinh ngạc mà thưa với Huyền Tông:
- Người này thực là người bạn ít tuổi của thần vậy.
Nhân đó lạy mừng triều đình được bậc thần đồng.
Chính là:
Bậc lão thần nhận làm bạn nhỏ
Mừng thánh chúa nay có thần đồng.
Huyền Tông thưởng cho rất hậu, lại cho phép Lý Bí được vào Hàn lâm viện đọc sách, đợi đến lúc tuổi trường thành, sẽ ban quan chức. Lý Bí ba bốn lần từ tạ. Cho làm bạn áo vải với thái tử, được thái tử rất yêu kính. Lúc bấy giờ Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung đều ghét, Lý Bí vì vậy xin cáo về ở ẩn vùng Dĩnh Dương.
Mãi đến nay, Túc Tông nhớ đến bạn thuở xưa, sai sứ mời về hành tại, lấy lễ chủ khách mà đãi, đi ra thì cùng sóng ngựa đôi, ngủ thì cùng chung giường, từ chuyện lớn đến việc nhỏ đều cùng bàn bạc, muốn phong làm tả thừa tướng, nhưng Lý Bí cương quyết từ chối, chỉ xin mặc áo trắng theo bên ngự giá.
Một hôm Túc Tông cùng Lý Bí sóng ngựa ra khỏi cung, đi một vòng trong doanh, quân lính chỉ trộm mà nói rằng:
- Ngài mặc áo vàng là bậc thánh nhân, còn người mặc áo trắng là người trong núi đấy!
Túc Tông nghe được, nhân nói với Lý Bí:
- Trong lúc giặc giã như thế này, quả không dám lấy chức tước để khuất phục. Nhưng cũng nên mặc áo tía để tuyệt hẳn những lời dị nghị, nghi ngờ của mọi người.
Liền ra lệnh lấy áo bào tía ban cho, LýBí đành phải bái tạ mà nhận. Túc Tông liền sai tả hữu hầu hạ Lý Bí thay áo mũ. Thay xong, Lý Bí đang định tạ ơn, Túc Tông cười mà phán rằng:
- Khoan đã, khoan đã, ăn mặc như thế thì cũng phải xưng hô như thế nào cho xứng chứ?
Liền lấy ngay trong tay áo một đạo sắc thư, phong cho Lý Bí làm Tham mưu quân quốc nguyên soái phủ hành quan trưởng sử. Lý Bí cố từ, Túc Tông khuyên:
- Không phải trẫm định ràng buộc gì khanh đâu, nay đang lúc gian nan, đợi lúc nào thiên hạ thái bình, thì xin tùy theo chí của khanh vậy!
Lý Bí tạ ơn mà nhận. Túc Tông muốn phong Kiến Ninh Vương Lý Dạm làm Đại nguyên soái. Lý Bí thưa:
- Kiến Ninh Vương quả có thể làm nổi chức nguyên soái, nhưng hiện Quảng Bình Vương là con cả, mai kia Kiến Ninh Vương công thành danh lớn, sẽ xử với Quảng Bình Vương ra sao.
Túc Tông đáp:
- Quảng Bình Vương vốn đã có chức phận nối ngôi xã tắc, thì chức nguyên soái liệu có đáng gì?
Lý Bí thưa:
- Quảng Bình Vương thì chưa chính vị làm Đông cung, nay đang lúc khói lửa, lòng người hướng về nguyên soái. Nếu khiến Ninh Vương thành công nghiệp, bệ hạ lại không lấy làm Đông cung, thì với công tích lớn như vậy, liệu có chịu yên. Chuyện mới rồi từ Thái Tông, đến thượng hoàng đều thế cả đó sao?
Túc Tông gật đầu:
- Khanh nói phải lắm! Để trẫm nghĩ thêm nữa!
Lý Bí lui ra. Kiến Ninh Vương đón gặp, tạ ơn rằng:
- Vừa rồi được nghe những lời tâu của ngài, chính là rất hợp với ý ta. Ta thật biết ơn vậy!
Lý Bí thưa:
- Điện hạ. đã hiếu hạnh như thế, thật là phúc cho quốc gia vậy!
Vì vậy Túc Tông bèn phong cho Quảng Bình Vương Lý Thục làm thiên hạ binh mã Đại nguyên soái. Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng quân đội của họ đều thuộc quyền thống lãnh của nguyên soái.
Lúc này Lý Quang Bật đóng giữ ở Thái Nguyên, bao nhiêu quân sĩ phần lớn đều đã đi canh giữ ở phương bắc, ở Thái Nguyên chỉ còn khoảng một vạn người. Tướng giặc là Sử Tử Minh dẫn hơn mười vạn lính đến đánh thành Thái Nguyên.
Các tướng đều xin tu sửa thành trì để đợi giặc. Quang Bật nói:
- Thành Thái Nguyên này chu vi có tới bốn mươi dặm, tu sửa không phải dễ, quân giặc sắp tới mới lo chữa chạy, thì chưa trông thấy giặc đã mệt mỏi rồi!
Liền lệnh cho quân sĩ đào hầm hố, đào rãnh sâu dài hàng mấy nghìn thước. Đến khi quân giặc đánh ngoài thành, Quang Bật liền lệnh cho lấy ngay bùn đất ở các lũy mới đắp thêm vào bên trong thành, để chống giữ lâu dài. Quân giặc đánh phá hơn một tháng, chẳng có chỗ nào sụt lở. Quang Bật lại tìm được ở xưởng đúc tiền, ba anh em thợ đúc rất giỏi việc đào khoét địa đạo, liền gọi đến thưởng cho rất hậu, rồi sai dẫn thêm nhiều người, đào thật nhiều địa đạo để chờ giặc. Có một tên giặc đang ngửa mặt lên thành mà chửi, Quang Bật sai người từ địa đạo giơ tay kéo chân tên này xuống, giải lên mặt thành mà chém đầu. Từ đó quân giặc làm gì cũng cứ chằm chằm nhìn xuống chân mình.
Quang Bật làm pháo lớn, bắn đá to, mỗi một phát bắn ra là chết hàng chục tên giặc, nên Sử Tử Minh phải lui trại quân ra phía ngoài thành hàng mấy chục bộ nữa. Quang Bật lại sai người sang trại giặc nói dối là lương thực trong thành đã cạn, hẹn với quân giặc ngày giờ ra hàng. Tử Minh tin lời, nên không phòng bị gì nữa. Quang Bật ngầm sai người đi trong địa đạo, đến doanh trại quân giặc, đem theo những tấm gỗ che chống. Đến hẹn rồi, sai hơn hai nghìn người, cưỡi ngựa ra khỏi thành, giả dạng như kiểu ra hàng. Quân giặc trông thấy từ xa, hoa chân múa tay đón, thình lình đất dưới chân sụt xuống sâu, chận chết vô số, lũ giặc kinh hoàng. Quan quân cứ trống dong cờ mở mà xông hết ra khỏi thành, chém quân giặc kể có hàng vạn. Tử Minh đành phải dẫn quân sĩ bỏ chạy.
Quang Bật dâng biểu báo tin thắng trận. Quảng Bình Vương thấy Thái Nguyên vốn là yếu địa, nay bị vây hãm, định sai tướng đến giải vây nhân nghe thắng trận mới thôi. Quách Tử Nghi thấy Hà Đông nằm giữa hai kinh, chỉ cần lấy được Hà Đông thì có thể thu lại. Lúc này tướng giặc là Thôi Càn Hựu đang đóng giữ Hà Đông. Tử Nghi mật sai người lẻn vào Hà Đông, tìm đến các tướng sĩ quan lại nhà Đường bị giặc bắt theo, hẹn ước làm nội ứng để trong ngoài cùng đánh. Thôi Càn Hựu vì vậy không chống đỡ được, phải bỏ thành mà chạy. Tử Nghi dẫn quân đuổi theo, chém đầu rất nhiều. Càn Hựu may mà chạy thoát, Hà Đông về với triều đình.
Chính là:
Tướng tài Quách Lý hai người
Tiên công phòng thủ trong ngoài thắng to.
Túc Tông liền lấy Tử Nghi làm Thiên hạ binh mã phó nguyên soái giao cho lo khôi phục hai kinh. Bỗng nghe tin Vĩnh Vương Lý Lân ở Giang Lăng tiếm nghịch xưng hoàng đế. Nguyên là Lý Lân đã ra trấn giữ Giang Lăng từ trước, cậy mình giầu có, nhiều người ngựa, khí giới, kiêu ngạo không phục ai, nghe tin Túc Tông lên ngôi ở Linh Vũ bèn cùng bộ tướng, liêu thuộc bàn bạc, rằng thái tử có thể tự xưng ngôi báu, thì ta có cả một vùng Giang Lăng, sao lại không thể làm chúa một vùng, để tính chuyện khởi nghiệp riêng.
Túc Tông sợ chuyện tranh giành, mới xuống chiếu sai sứ bãi chức bắt ngay về Thục, Lý Lân không chịu, quyết chí phản nghịch, tự xưng hoàng đế, ý muốn chiêu nạp các hiền tài, để cho dân chúng trông vào. Nghe tin Lý Bạch lui về ẩn ở Lưu Sơn, cách Giang Lăng không xa, sai sứ mời đến. Lý Bạch chối từ không đến. Lý Lân bèn sai người rình sẵn, chờ Lý Bạch ra khỏi nhà, bắt đưa về Giang Lăng, buộc nhận quan chức, Lý Bạch cố từ không chịu, Lý Lân không thể nào thay đổi ý của Lý Bạch, chỉ đành như giam lỏng, không cho Lý Bạch trở về.
Túc Tông nghe tin Lý Lân làm phản, một mặt làm biểu dâng lên thượng hoàng rõ, một mặt sai Hoài Nam Tiết độ sứ Cao Thích, cùng phó sứ Lý Thành Vũ dẫn quân hỏi tội.
Lúc này nội giám Lý Phụ Quốc luồn lách trong cung, cùng với Trương Hoàng hậu chuyên quyền. Lại thêm nội giám Biên Lệnh Thành, nhân bị giặc ghét bỏ, bèn từ phía giặc chạy trốn về hành tại, nhờ cậy Lý Quốc Phụ để được dùng. Lý Bí bèn tâu rằng:
- Lệnh Thành là hoạn quan, may được chúa thượng giao cho việc lớn, ngoài thì cầm binh quyền, trong thì quản cung cấm, mà giặc tới hàng, đem tất cả chìa khóa cung cấm giao cho giặc, rõ ràng là phản nghịch. Tội thật đáng giết.
Túc Tông liền sai giải Lệnh Thành ra chém đầu, để làm gương cho những kẻ theo giặc. Lúc này Lý Quốc Phụ cũng tâu rằng:
- Hàn lâm học sĩ Lý Bạch hiện đang là kẻ bày mưu tính kế cho phản nghịch Lý Lân. Lẽ nên sai binh quan ghi vào sổ những kẻ theo giặc, đợi đến khi thái bình, án theo quốc pháp mà trị tội.
Tại sao Phụ Quốc lại bỗng nói tới chuyện này? Chỉ vì lúc Lý Bạch còn ở triều, làm thơ uống rượu rất ngang tàng, phẩm hạnh cao thượng, không thèm để ý đến bọn hoạn quan, nên bọn này đều ghét Lý Bạch. Nay Phụ Quốc tâu thế, một phần cũng hợp ý triều đình đang tìm những kẻ theo giặc để trừng phạt, phần nữa là bực tức chuyện Lý Bí tâu xin nhà vua giết mất Lệnh Thành. Nay y kể tội Lý Bạch để mọi người thấy rằng, hạng văn nhân danh tiếng, được hoàng thượng thương yêu đến thế, cũng vẫn theo giặc như thường, nào dâu chỉ kẻ hoạn quan mới xấu thôi đâu!
Túc Tông làm theo lời tâu, truyền ngay lệnh xuống pháp ty. Việc này làm kinh động Quách Tử Nghi, Tử Nghi nghĩ ngợi: "Năm trước Lý Bạch cứu tính mạng ta, ơn lớn chưa đền, nay há có thể ngồi nhìn hay sao?". Liền ngay trong đêm viết biểu, sáng hôm sau phủ phục trước sân rồng dâng lên.
Tờ biểu đại lược như sau:
“Hạ thần trộm xét thấy Lý Bạch xưa là bề tôi hầu việc thơ văn được thượng hoàng gia ơn, đặc cách bổ dụng, nhưng cố ý xin về nghỉ, nằm không ở Lư Sơn. Coi đó cũng đủ biết tư cách làm người của họ ra sao. Nay không may bị nghịch tặc ở cõi xa ức hiếp. Hạ thần nghe rằng lúc đầu Lý Bạch cố ý chối từ, kế đó bị thúc bách nhiều, bắt buộc phải nhận quan chức của giặc mà vẫn không đổi.
Thế mà các quan xét cho Lý Bạch là phản nghịch, thần e rằng quá nặng. Hạ thần xin đem tính mạng cả gia quyến, hơn một trăm người bảo lãnh cho họ Lý. Hạ thần đã từng chịu ơn sâu của họ Lý ngày trước, nhưng thật không dám vì ơn riêng mà dâng lời bênh vực cuồng xiên. Sau này mọi sự yên ổn, sẽ có trăm tai nghìn mắt dân chúng làm chứng điều phải trái. Nếu thần nói sai, gia quyến một trăm mạng cam chịu phép nước.
Cẩn tấu!”
Túc Tông xem biểu, lệnh cho pháp ty hãy để án này lại đó, đợi ngày yên hàn rồi sẽ quyết. Về sau Vĩnh Vương Lân đại bại phải tử, quan lại sở tại bắt giải lũ người theo Lý Lân về chờ ngày xử quyết. Lý Bạch vì thế cũng bị giam trong nhà ngục ở Tầm Dương. Triều đình nhân có Quách Tử Nghi đã viết biểu tâu, đặc sai quan đến tra xét. Quan trở về tâu rằng: Lý Bạch quả có bị Lý Lân ức hiếp, không như những kẻ theo giặc khác, tội đáng được giảm. Vì vậy có thánh chỉ truyền Lý Bạch đi đày dài hạn ở Dạ Lang (1), còn lại lũ theo giặc kia, tất cả đều phải tội chết.
Năm Càn Nguyên, ban chiếu đại xá thiên hạ, Lý Bạch mới được tha trở về, đến địa giới huyện Đương Đồ, ngồi trên thuyền vừa ngắm trăng vừa uống rượu say sưa, muốn vớt ánh trăng dưới đáy nước nên đâm dầu xuống sông rồi chết. Người hai bên bờ, lúc này bỗng thấy Lý Bạch cưỡi cá chép lớn, bay lên trời mà đi mất. (2) Đó là chuyện sau này.
1 Dạ Lang: nay thuộc huyện Đồng Tử, tỉnh Quý Châu.
2 Tất nhiên đây chỉ là huyền thoại. Theo "Lịch sử văn học Trung Quốc", Quyển 2, của Viện khoa học Trung Quốc, thì Lý Bạch chết bệnh ở nhà ông chú họ là Lý Dương Bằng, làm huyện lệnh Đương Đồ, thọ 62 tuổi, vào năm 762.
Chính là:
Mang ơn lắm báo tay hào kiệt
Vô lội đi đày, khổ Trích Tiên
Anh hùng đem nhà đền nghĩa cũ
Trích Tiên chán sống bỏ thăng thiên.
Hãy nói chuyện khác, Túc Tông lấy Quảng Bình Vương làm nguyên soái, ý muốn lập luôn làm thái tử. Lý Bí tâu:
- Bệ hạ tức vị ở Linh Vũ, chính là do việc quân bức bách, phải gấp rút có chính danh phân xử mọi việc. Nhưng nay muốn lập thái tử thì lại nên thỉnh mệnh thái thượng hoàng. Nếu không hậu thế sẽ không hiểu hết cái thế bất đắc dĩ của bệ hạ vậy.
Quảng Bình Vương cùng từ chối mà thưa:
- Hiện nay bệ hạ cũng chưa được sớm hôm chăm sóc thượng hoàng, thần đâu dám lĩnh ngôi Đông cung.
Túc Tông vì vậy tạm để ngôi thái tử chưa định vội. Kiến Ninh Vương nói riêng với Lý Bí rằng:
- Anh em ta đều bị bọn Lý Phụ Quốc, Trương Hoàng hậu ghen ghét. Hai người này chuyên tâu những lời bài xích. Ta phải sớm trừ cái họa này mới xong.
Lý Bí đáp:
- Điều này thì thần chưa nghe thấy. Xin hãy cẩn thận, đừng bàn luận rộng rãi vội!
Kiến Ninh Vương không nghe, nhiều lần trước mặt Túc Tông, kể tội họ Lý, họ Trương. Hai người này cùng bàn cách xiểm nịnh, vu cho Kiến Ninh tìm cách hãm hại Quảng Bình Vương, để mưa đoạt ngôi thái tử. Túc Tông vội vàng tức giận, truyền chỉ giết chết Kiến Ninh Vương. Lý Bí muốn can thì việc đã rồi. Khá tiếc một người hiền như thế, chỉ vì những lời bịa đặt, đến nỗi bỏ đời. Nhớ lúc Túc Tông còn ở ngôi Đông Cung, bị Lý Lâm Phủ ghen ghét, chịu bao nhiêu kinh hoàng, mà vẫn không lấy đó làm răn. Nay giặc lớn chưa diệt, mà đã giết mất con hiền, sao lại nhẫn tâm đến thế. Người đời sau có thơ than:
Giá con vì nghe gièm
Thượng hoàng đầu têu đó
Túc Tông thật nhẫn tâm
Kiến Ninh chết xấu số
Nhớ chăng thuở Đông cung
Nơm nớp sợ tai ương
Nay sao theo vết cũ
Để miệng chúng vào ra
Vua cha không sáng suốt
Tôi con chịu oan gia
Lũ đàn bà ghen tuông
Cùng hoạn quan nịnh nọt
Tội băm vằm không tha.
Năm thứ hai đời Chí Đức, Túc Tông ngự giá tới Phượng Tường, lệnh cho Quảng Bình Vương cùng Quách Tử Nghi hưng binh khôi phục hai kinh.
Quách Tử Nghi xin được nhờ kỵ binh rất tinh nhuệ của Hồi Hột giúp thêm cho. Khả Hãn Hồi Hột liền cho con trai là Diệp Hoạch, kéo một vạn quân đi trước tiếp ứng. Túc Tông hứa sẽ trọng thưởng. Diệp Hoạch xin là khi nào chiếm được thành, đất đai, sĩ dân thì thuộc về triều đình, vàng lụa cùng đàn bà con gái thì thuộc về Hồi Hột. Túc Tông trong lúc muốn mau thắng trận nên đành phải nghe theo. Lại tập hợp thêm các lính cưỡi ngựa phương bắc, cùng Tây Vực, cộng tất cả được mười lăm vạn người.
Lý Bí hiến kế, trước nên đánh vào Phạm Dương, lật nhào sào huyệt của giặc.
Túc Tông phán:
- Đại quân đã tập hợp, lẽ nên đánh thẳng vào Trường An, chẳng nên làm khổ binh lính, lại phải đánh vào Phạm Dương trước.
Lý Bí thưa:
- Nay phần lớn binh sĩ đều người phương Bắc quen với rét buốt mà ngại nóng bức. Hãy thừa lúc họ vừa mới đến còn đang hăng hái, đánh vào nơi đã suy yếu, thì hai kinh cũng thu về. Nay nếu đánh hai kinh trước, giặc sẽ chạy về sào huyệt, quen thuộc vùng Quan Đông, mùa xuân kịp về, quan quân tất nhớ nhà, giặc lại có thời gian dưỡng nuôi người ngựa để chờ quân triều đình kéo lên, hoặc lại tự ý kéo xuống, thì chiến trận chẳng biết đến bao giờ mới xong. Chi bằng kéo ngay lên phương Bắc, khử trừ sào huyệt, giặc chẳng còn nơi quay về. Sau đó nhóm toàn quân mà vây giặc, thì gì mà chẳng tóm gọn.
Túc Tông phán:
- Lời bàn của khanh hay lắm, nhưng trẫm lâu nay chẳng được thăm hỏi thượng hoàng, ý cũng muốn khôi phục ngay hai kinh, để đón thượng hoàng về, chẳng nên chờ lâu hơn nữa.
Liền không nghe theo kế của Lý Bí, cho binh mã tiến về Tây Kinh.
Quân đội kéo đến phía tây thành Trường An, bày trận ở phía đông Lễ Thủy. Lý Tự Nghiệp dẫn tiền quân, Quảng Bình Vương, Quách Tử Nghi, Lý Bí dẫn trung quân, Vương Nguyên Lễ dẫn hậu quân. Quân giặc mấy vạn, bày trận ở phía Bắc Lễ Thủy. Tướng giặc là Lý Quy Nhân cưỡi ngựa khiêu chiến, Quách Tử Nghi dẫn tiền quân đối địch. Quân giặc ùa cả ra, quân triều đình ít hơn, Lý Tự Nghiệp cởi trần vác giáo, xông lên trước hàng quân, miệng gào lớn kêu gọi, giết ngay được mấy chục tên giặc. Quan quân vì vậy phấn chấn hẳn lên, đều cắp trường thương, như bức thành mà xông lên, quân giặc đương không nổi. Có Đô tri binh mã là Vương Nam Đắc, bị quân giặc bắn trúng mí mắt, thịt lòi hắn ra, che kín cả mắt lại. Nam Đắc tự mình rút ngay mũi tên, dứt cả miếng thịt, máu chảy đầy mặt mà vẫn xông lên không chịu lùi.
Quân giặc phục sẵn đội kỵ mã tinh nhuệ ở phía Đông trận địa, hòng để tập kích vào quân sĩ triều đình lúc bất ngờ sau này, Quách Tử Nghi dò biết được, liền sai ngay Sóc Phương tả sương binh mã sứ Bộc Cô Hoài dẫn quân Hồi Hột, đột ngột kéo đến chận ra mà đánh, chém giết gần hết, Lý Tự Nghiệp lại dẫn binh Hồi Hột, vòng ra phía sau quân giặc, cùng công kích với toàn quân. Vương Nguyên Lễ cũng dẫn hậu quân ập tới, ra sức chém giết. Từ giờ ngọ cho tới giờ dậu (1), chém cả thảy được hơn sáu vạn thủ cấp. Quân giặc thua to, tàn quân chạy trốn vào trong thành, suốt cả đêm chiến trận vẫn nghe vang dội khắp vùng.
1 Giờ ngọ: từ 11 giờ đến 1 giờ. Giờ dậu: từ 17 giờ đến 19 giờ. Như vậy chiến trận kéo dài bảy giờ liền.
Cho tới sáng hôm sau, quân thám mã về báo, tướng giặc Lý Quy Nhân, An Thủ Trung, Điền Cần Chân, Trương Thông Như đều đã bỏ chạy. Quảng Bình Vương liền dẫn quân sĩ vào Tây Kinh. Trăm họ già trẻ ra đầy đường mà đón rước. Diệp Hoạch đòi theo như lời hẹn, cứ thế mà cướp vàng lụa, con gái.
Quảng Bình Vương xuống ngựa, lạy trước ngựa của Diệp Hoạch mà rằng:
- Nay vừa mới thu được Tây Kinh, nếu mà cứ kiểu cướp bóc thế này, thì dân chúng Đông Kinh tất theo giặc mà cố thủ, khó mà lấy được. Xin hãy chờ khi lấy được Đông Kinh rồi, sẽ theo lời ước hẹn vậy.
Diệp Hoạch cũng hoảng hết xuống ngựa, nâng Quảng Bình Vương dậy mà ôm lấy chân thưa rằng:
- Vậy xin theo điện hạ tới Đông Kinh.
Liền cùng Bộc Cố Hoài dẫn quân bản bộ cùng binh mã Tây Vực, qua cửa nam của Trường An, không hề dừng lại, kéo về Đông Kinh.
Dân chúng thấy Quảng Bình Vương vì trăm họ mà phải xuống ngựa lạy đều rơi nước mắt thán phục.
Vì dân mà chịu khuất thân
Người người thán phục mà dân được nhờ
Lính Phiên cảm nghĩa nhà vương
Buông tay cướp của, bớt lòng dục dâm!
Quảng Bình Vương ở Trường An ba ngày, rồi kéo đại binh đi Đông Kinh, dâng thư về hành tại báo tin đại thắng, trăm quan đều tới chúc mừng. Túc Tông ngay hôm sau dâng biểu, sai sứ Đạm Đình Giao, vào Thục tâu lên thượng hoàng, mời xa giá về Tây Kinh trở lại ngôi báu. Lại sai thân vương về ngay Tây Kinh, tế cáo tôn miếu, phủ dụ bách tính, mặt khác lại sai người phi ngựa như bay đến quân doanh, triệu ngay Lý Bí về. Lý Bí ngày đêm về Phượng Tường ra mắt Túc Tông, hỏi nguyên cớ triệu về. Túc Tông đáp:
- Trẫm nghe Tây Kinh báo tin đại thắng, đã lập tức dâng biểu lên thượng hoàng, mời xa giá về Tây Kinh trở lại ngôi báu, trẫm nguyện quay về phủ Đông cung, để trọn đạo làm con. Chưa rõ ý khanh nghĩ ra sao, nên muốn gặp mặt hỏi ngay.
Lý Bí ngạc nhiên hỏi:
- Thế biểu bệ hạ đã gửi đi chưa?
Túc Tông đáp:
- Gửi rồi?
Lý Bí tiếp:
- Có thể lấy lại được chăng?
Túc Tông đáp:
- Đã đi xa lắm rồi. Nhưng sao lại phải lấy lại?
Lý Bí xuýt xoa mà thưa:
- Thượng hoàng chẳng chịu về đâu!
Túc Tông kinh ngạc hỏi tại sao. Lý Bí thưa:
- Bệ hạ đã lên ngôi, đổi niên hiệu đã được hai năm, nay bỗng dâng biểu như vậy, trong lòng thượng hoàng nghi hoặc, không chút yên lòng, thì làm sao lại bằng lòng về cho được!
Túc Tông chợt nhận ra, dậm chân mà than:
- Trẫm xin lui về giữ ngôi thái tử vốn là thành tâm, nay như lời khanh nói, thì thật là làm lỡ việc mất rồi. Biểu đã dâng lên, làm thế nào bây giờ?
Lý Bí bèn thưa:
- Nay bệ hạ hãy làm ngay một tờ biểu khác do trăm quan đứng ra mừng đại thắng, nói rõ từ khi bệ hạ được giữ lại ở trạm Mã Ngôi, lên ngôi vua ở Linh Vũ, nay hai kinh đã sắp thu về, lúc nàolòng những mong được sớm hôm chăm nom thượng hoàng, nên xin mời về cung, để tròn chữ hiếu thuận. Như thế thì thượng hoàng sẽ yên lòng mà vừa ý quay về chăng!
Túc Tông lia lịa khen phải, lệnh cho Lý Bí thảo ngay biểu, rồi lập tức sai trung sứ Thôi Hoắc Quang vào Thục dâng lên.
Chẳng cần phải nói cũng biết ngay là Đạm Đình Giao từ Thục quay về, truyền lời phán của thượng hoàng rằng:
- Hãy để cho ta riêng một quận Kiếm Nam, ta tự cung phụng lấy. Ta không về đâu!
Túc Tông bàng hoàng không biết xử trí ra sao. Chờ mấy ngày sau, Thôi Hoặc Quang quay về thưa tiếp:
- Thượng hoàng lúc đầu nghe bệ hạ dâng biểu xin lui gót ngôi thái tử, băn khoăn bỏ cả ăn ngủ, nhất định không chịu về đông. Mãi đến khi có biểu mừng của trăm quan tới, mới chịu ăn cơm, uống thuốc, hạ tờ cáo định ngày quay về Trường An.
Túc Tông nghe ra, cả mừng, gọi Lý Bí vào cung kể rõ cho nghe, rồi phán:
- Tất cả đều do công của khanh đấy!
Nhân đó mời bày tiệc cùng ngồi. Đêm ấy giữ lại cùng ngủ một giường ở trong cung.
Chính là:
Ghế chúa chuyện trò Vương Trọng phụ
Giường vua thức ngủ Hán Nghiêm Lăng. (1)
1 Vương Đạo: giúp ba đời vua nhà Tấn, được tôn xưng là trọng phụ. Nghiêm tăng: bạn thân của Hán Quang Vũ. Nghiêm tăng không chịu làm quan. Quang Vũ mời đến chơi, giữ lại đêm, ngủ chung giường. Nghiêm Lăng gát chân lên bụng. Quang Vũ vẫn cười không nói gì (Tẩm nguyên từ điển).
Lý Bí vốn không ham gì chuyện quan chức, từ lâu đã có ý bỏ quan mà về. Nhân lúc này mới đưa lời tâu:
- Thần đã ít nhiều báo được ơn thánh đế, nay xin hãy theo lời hứa cũ mà tha cho thần về nghỉ ngơi.
Túc Tông đáp:
- Khanh từ lâu đã cùng trẫm lo lắng trong cơn hoạn nạn, nay trẫm đang định cùng khanh hưởng chuyện yên vui. Sao khanh đã vội tính chuyện bỏ đi cho đành?
Lý Bí thưa:
- Thần có năm điều không thể ở: Thần gặp bệ hạ sớm quá, thần được bệ hạ yêu quá, thần được bệ hạ tin cậy quá, công thần lớn quá, hành tung của thần cũng khác người quá: Vì năm điều đó nên dù thế nào cũng không ở lại vậy!
Túc Tông cười đáp:
- Thôi hãy ngủ ôi! Ngày khác sẽ bàn?
Lý Bí vẫn chưa chịu:
- Bệ hạ nay với thần chung giường cùng ngủ, còn chẳng nghe lời xin của thần, huống chi ngày khác ngay trước án rồng. Bệ hạ ngồi trên chín tầng điện cao, không cho thần về quê cũ thì thật là giết thần vậy!
Túc Tông kinh ngạc hỏi:
- Sao khanh lại nghi ngờ trẫm đến thế? Trẫm có khi nào định giết khanh đâu?
Lý Bí thưa:
- Giết thần không phải bệ hạ, mà chính là năm điều đã nói. Bệ hạ lâu nay đãi thần hậu đến thế, thần không thể nào nói hết mọi điều để thờ bệ hạ. Huống chi mai kia thiên hạ thái bình rồi, thần còn mong gì được thánh thượng mời đón, nói gì đến chuyện khác nữa.
Túc Tông phán:
- Những lời của khanh có phải vì vừa rồi trẫm không nghe theo lời khanh đánh Phạm Dương chăng?
Lý Bí thưa:
- Thần đâu có nhân việc đó. Thần suytừ việc Kiến Ninh Vương mà thấy vậy!
Túc Tông nói:
- Kiến Ninh định giết anh, trẫm bất đắc dĩ phải trừ đi vậy!
Lý Bí thưa:
- Kiến Ninh Vương nếu có lòng như thế, thì Quảng Bình Vương đã vô cùng căm giận rồi. Nay mỗi lần nói chuyện với thần, Quảng Bình Vương đều nhận là oan uổng, thường sa nước mắt. Huống chi bệ hạ lúc ấy còn muốn dùng Kiến Ninh Vương làm nguyên soái, thần xin dùng Quảng Bình Vương. Nếu như Kiến Ninh Vương có ý giết anh, thì phải rất ghét thần mới đúng, nhưng ngay hôm đó, lại khen thần tận trung, ngày càng thân thiết. Cứ như thế cũng đủ thấy tấm lòng Kiến Ninh Vương ra sao.
Túc Tông nghe nói, bất giác rơi nước mắt mà rằng:
- Khanh nói như thế, trẫm thấy mình sai rồi. Những chuyện đã qua, biết chữa như thế nào được!
Lý Bí thưa:
- Thần không phải để ý gì đến lỗi lầm đã qua, mà chính là để nhắc bệ hạ hãy thận trọng những việc sắp tới. Nhớ thuở xưa, Thiên Hậu (1) đánh thuốc độc giết chết thái tử Hoàng, để đến nỗi người con thứ là Hiền lo lắng, mà làm bài từ "Hoàng đài qua", quả dưa ở dưới suối vàng, có hai câu rằng:
Lan đầu hái một quả dưa
Lần sau quả nữa, dễ chưa vừa lòng?
1 Tức Vũ Tắc Thiên.
Nay bệ hạ cũng đã hái một quả, xin hãy đừng hái thêm nữa.
Lý Bí biết Trương Hoàng hậu rất gờm công lao của Quảng Bình Vương, thường ngày vẫn không ngớt dèm pha, chỉ sợ lúc nào đó Túc Tông lại nghe theo, nên cố tình nói thế. Lúc này Túc Tông nghe xong, bèn thổn thức mà phán rằng:
- Làm sao lại có chuyện thế được. Nhưng những lời dặn chân thành của khanh, trẫm xin luôn đeo ở bên mình một cách cẩn thận vậy!
Lý Bí lại nói việc xin về nghỉ. Túc Tông đáp:
- Hãy chờ Đông Kinh báo tin thắng trận, trẫm vào Tây Kinh đã rồi sẽ bàn.
Mấy ngày sau, tin mừng ở Đông Kinh đưa tới, nói rõ rằng, quân giặc sau khi thua to ở Tây Kinh thu thập tàn binh về giữ Thiểm Thành. An Khánh Tự sai Trang Nghiêm đem binh cứu viện. Quách Tử Nghi đón giặc ở Tân Điếm, Diệp Hoạch dẫn binh bản bộ truy kích, trước sau cùng ập đánh giặc thua to thây chất đầy đồng, phải bỏ Thiểm Thành mà chạy. Tử Nghi liền chia quân làm nhiều đường đuổi theo. Trang Nghiêm quay về Đông Kinh, khuyên An Khánh Tự bỏ Đông Kinh, dẫn quân sĩ chạy về Hà Bắc, sắp bỏ thành, còn kịp giết hơn ba mươi tướng nhà Đường bị bắt, trong đó có Kha Thư Hãn. Chỉ riêng có Hứa Viễn thì đâm cổ mà tự tử.
Quách Tử Nghi đưa Quảng Bình Vương vào thành Đông Kinh, lấy tất cả của kho giao cho Diệp Hoạch. Lại lệnh cho dân gian thu nạp hơn một vạn tấm lụa gấm đưa cho Diệp Hoạch, để xin đừng giở chuyện cướp bóc. Trăm họ đều hoan hỉ mà theo.
Chính là:
Tướng giỏi dùng lính Phiên
Vua sáng cậy tới hiền
Thu phục lại đất nước
Vua tôi cùng đáng khen.
Túc Tông nghe tin mừng lắm, liền sai ngay Vi Kiến Tố đem biểu vào Thục dâng tin thắng trận. Theo đó phái Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh cũng đi ngay Thành Đô để đón hoàng thượng. Chọn ngày tốt, Túc Tông lên xe rồng đi Tây Kinh, chờ ngày hoàng thượng hồi loan.
Lý Bí cũng dâng biểu, xin được như lời ước, cho về núi cũ. Túc Tông biết chí Lý Bí đã quyết, liền ban lời an ủi, rồi tạm cho về nghỉ. Ngay ngày hôm sau, Lý Bí tạ ơn lui tới sân rồng, tìm đến ẩn cư ở dãy Hành Sơn. Sau này khi Quảng Bình Vương lên ngôi, lại có mời Lý Bí ra một lần nữa, thế là thờ vua qua hai triều, chính tích có nhiều lời hay việc tốt. Chuyện không nói nữa.
Đáng tiếc Túc Tông chẳng nghe theo kế sách đánh ngay vào Phạm Dương, để đến nỗi tuy đã thu phục hai kinh, nhưng giặc vẫn chẳng trừ hết, sau loạn của cha con họ An, lại kể đến sự phản nghịch của cha con họ Sử, khổ quân hại dân, mãi về sau vẫn chưa yên. Cũng may cuối cùng, Lộc Sơn bị con là Khánh Tự giết, rồi Khánh Tự lại bị bề tôi là Sử Tử Minh đâm chết, thần phản loạn, con nghịch tử, dằng dai báo ứng. Nhưng đó là những chuyện sau này cả, nay hãy theo gót thượng hoàng về Kinh Đô xem sao.
Chính là:
Ngày nào đường Thục gian nan
Nay mừng đất cũ hồi loan thái hòa.
Nguồn truyenviet.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét