Hồi 65: Nữ hiệp Lữ Tứ Nương
Tăng Tính cùng bọn
Trương Hy lên đường đi Tứ Xuyên gặp Nhạc Chung Kỳ. Tính thuyết Kỳ:
- Ngài vốn là con cháu của
Nguyên soái Tống triều Nhạc Phi thuở nào. Còn đương kim hoàng đế Mãn Thanh lại
chính là con cháu Kim Ngột Truật lúc trước. Hiện ngài làm tổng đốc thống lĩnh
đại binh, đứng trước thù nhà nợ nước, lẽ nào ngài không báo đền?
Mới đầu, Kỳ nghe lời Tính nói,
lòng cũng có vẻ cảm động. Nhưng khi nhớ tới cái chết của Miên Canh Nghiêu, Kỳ
bất giác giật mình, lòng lạnh hẳn đi.
Sau một hồi đàm luận, Kỳ biết rõ rằng
Tính chỉ là một anh tú tài làm phản, chẳng có chút thực lực nào. Kỳ lập tức
biến kế, một mặt giả đò lập thệ kết minh với bọn Tính, một mặt ngầm tống đạt
công văn cho tuần phủ Hồ Nam
dặn y canh chừng bọn Lã Nghi Trung. Rồi đích thân Kỳ gửi một tập hồ sơ mật lên
kinh.
Mấy hôm sau, người ta thấy hai
vị quan lớn do Ung Chính hoàng đế phái tới Tứ Xuyên, bắt tất cả bọn Tăng Tính,
Trương Hy. Khi bị đem thẩm vấn, Tăng Tính chẳng thèm giấu giếm, công khai bộc
lộ tâm trạng của mình. Hai vị Khâm sai liền áp giải cả bọn can phạm tới Hồ Nam. Trong khi
đó, tuần phủ Hồ Nam
cung đã bắt Lã Nghi Trung cùng bọn gia nhân và môn sinh như Thầm Tại Khoan,
Nghiêm Hồng Lực.
Bọn Khâm sai cứ tình vậy vào
tâu. Thánh chỉ của hoàng đế truyền xuống nói bọn Tính và Hy bị Lã Văn Thôn dùng
tà thuyết cám dỗ, chi là tòng phạm được gia ơn phóng thích, chỉ có Lã Nghi
Trung mới là tên đại nghịch bất đạo, tức thì trảm quyết chết thảy toàn gia. Lã
Văn Thôn còn bị quật mồ, thây đem băm nát. Bọn môn sinh Thẩm, Nghiêm đều nhất
luật xử trảm. Cái án tày trời này giết chết một trăm hai mươi ba người, đến nỗi
bách tính kẻ nào kẻ nấy hoảng hồn bạt vía, oán giận khôn nguôi.
Gia đình họ Lã bị giết gần như
chẳng sót một ai. Giữa lúc hỗn loạn, may chỉ còn lại một đứa con gái nhỏ của Lã
Nghi Trung mà thôi. Đứa bé gái nhà họ Lã này tên gọi Lã Tứ Nương, là con gái
thứ tư của Lã Nghi Trung, gọi Lã Văn Thôn là ông nội. Năm đó nàng mới mười bốn
tuổi. Lúc tuần phủ Hồ Nam
phái binh tới bắt toàn gia thì nàng đang ngồi chơi bên hàng xóm, mãi sau mới
biết, vừa khóc vừa tính chạy tới nha môn thăm hỏi cha mẹ. Người con gái hàng
xóm vốn đa mưu vội can ngăn và ngầm đem nàng gửi vào gia đình họ Chu ở trước cổng nhà Lã Văn Thôn. Chu
ông, nhà có vườn rộng, thường nuôi tới hơn trăm tráng đinh. Mỗi khi rỗi rảnh.
hết việc đồng áng, bọn này thường mời thầy về dạy võ nghệ cho họ. Ngay cả Chu ông cũng nhân đó học năm ba miếng võ chơi. Ông thầy
võ hồi đó đã hơn sáu chục tuổi, thân hình cao lớn, hai bên cằm mọc hai chòm râu
dài, phất phơ trước gió.Ông đi quyến, múa kiếm vẫn còn vững chãi, nhanh nhẹn
lắm.
Lã Tứ Nương ở trong nhà Chu công, thường núp sau bức bình phong xem trộm cảnh tập
võ. Tuy chỉ là một đứa con gái mười bốn tuổi nhưng nàng lúc nào cũng nhớ tới
mối thù cha mẹ. Nàng giận mình là đàn bà con gái yếu ớt, thường thắc thỏm không
biết cách nào để trả mối huyết hải oan cừu này. Thấy có thầy tới dạy võ, nàng
lấy làm mừng, cho là dịp may đã đến với mình.
Một hôm, Chu
công đang cùng ông thầy võ già ngồi uống rượu ở nhà trước, bỗng một cô gái chạy
từ sau tấm bình phong vụt ra, quỳ xuống trước mặt ông thầy, miệng nói:
- Xin người thu con làm đệ tử?
Người con gái đó chính là Lã Tứ
Nương. Lúc đầu, ông thầy già không muốn nhận nhưng nàng cứ quỳ mà khẩn khoản
mãi, lệ nhỏ ròng ròng. Chu công thấy nàng
thành tâm đồng thời sợ nàng lỡ lời lộ ra là con gái Lã Nghi Trung bèn vội nhận
nàng là em gái mình và cùng xin hộ với nàng. Ông thầy võ tưởng thật mới chịu
thu nhận.
Từ đó, Lã Tứ Nương theo bọn
tráng đinh luyện tập võ nghệ. Nàng sẵn mối căm thù hun đúc, hơn nữa có trí
thông minh, thân thể lại mềm dẻo nên chăng mấy lúc tài nghệ đã vượt hẳn bọn con
trai. Ông thầy võ rất lấy làm mừng, rồi từ đó ông đặc biệt chú ý tới nàng, đem
hết bản lĩnh của mình truyền dạy cho.
Ba năm qua, Lã Tứ Nương võ nghệ
đã tới chỗ cao cường. Đánh quyền, múa kiếm, kinh công… thảy đều thông thạo. Ông
thầy lại dạy cả nàng phép "luyện khí" và phi kiếm, thường chỉ
đệ tử chân truyền của chùa Thiếu Lâm mới được truyền thụ.
Ba năm sau, Lã Tứ Nương không
còn có môn võ gì mà nàng không biết, không hay, không tinh. Nàng có thể vận nội
lực gắn chặt lưng mình vào vách tường mà lên xuống tuỳ ý. Nàng cũng có thể giấu
phi kiếm dưới cườm tay, phóng ra xa, lấy đầu người một cách lẹ làng, thần diệu.
Bản lĩnh này trong phái Thiếu Lâm chỉ ba người có được: người thứ nhất là Thiếu
Lâm Tăng, người thứ nhì là Ung Chính hoàng đế và người thứ ba là Cầu Nhiêm
Công. Ông thầy võ truyền thụ võ nghệ cho Lã Tứ Nương chính là Cầu Nhiêm Công
đó.
Cầu Nhiêm Công vốn cũng giận
Ung Chính hoàng đế quá độc ác, giết chết bao bạn hữu và đồ đệ của mình, nên ông
đã kết thân với bọn hảo hán trên giới giang hồ, ngầm mưu việc chống lại nhà
Thanh. Nay được một nữ đệ tử xứng đáng, lòng ông sung sướng quá, bèn đặt cho Tứ
Nương một cái tên là Hiệp Nương. Ông khuyên nàng nên lấy điều nghĩa hiệp làm
trọng. Ông bảo nàng:
- Bản lĩnh của con ngày nay,
trừ Thiếu Lâm Tăng ra, có thể coi như số một rồi đó.
Lã Tứ Nương học được một bản
lĩnh tuyệt luân như vậy đáng lý phải mừng mới đúng, đằng này nàng vẫn đau khổ
ngấm ngầm, trong lòng lúc nào cũng nhớ tới cái chết thảm khốc của cha mẹ. Nàng
có cả một bầu tâm sự não nề, nhưng chẳng biết thổ lộ cùng ai. Nhất là lúc đó
nàng đã trưởng thành, nỗi niềm thầm kín của người con gái mười tám, đôi mươi
quả đã có những phút xốn xang, hồi hộp, khó nói nên lời. Lòng nàng hoạ chỉ có
Chung Dung Kính, con trai của Chu công, mới
hiểu được. Và cũng vì vậy, Kính hết dạ chiếu cố tới nàng.
Chu Dung Kính thua Lã Tứ Nương
hai tuổi. Tuy vậy, chàng luôn tỏ ra người lớn trước nàng. Kính để ý tới Tứ
Nương kể từ lúc nàng đặt chân tới nhà chàng. Nào khi ăn khi uống, nào những
chuyện ấm lạnh mà bọn gia nhân không kịp xét tới, chàng đã ngầm thu xếp cho
nàng hết sức đầy đủ và cẩn thận. Gặp những mùa có trái ngon, hoa đẹp, chàng đều
mua, đưa vào phòng cho nàng. Tuy tình nặng như thế nhưng Kính chẳng bao giờ đám
chọc ghẹo, cười cợt nàng. Có điều lạ là nàng tuy đẹp như hoa mai trước gió, như
bông hạnh nở bên tường nhưng tính tình lại lạnh như băng. Nàng vẫn biết Kính
hết dạ chung tình với mình, bao bọc mình nhưng nàng phải cố tâm thoát khỏi lưới
tình chỉ vì nàng còn chất chứa trong lòng một mối huyết hải thâm thù.
Trong lòng nàng cũng vấn vương
xao động, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra nghiêm nghị, lạnh lùng. Có lúc nàng quá
thương tâm, chỉ còn biết khóc, khóc đến không còn nước mắt. Thật đáng thương
cho một người con gái chưa đến tuổi thành niên đã chẳng may gặp cơn gia biến,
bơ vơ giữa cõi đời. Nhiều đêm, vào lúc canh khuya vắng lặng, nàng thức giấc
nghĩ tới mối chung tình của Dung Kính rồi miên man nghĩ đến số kiếp khổ sở của
mình mà buồn bã ê chề. Nàng úp mình trên gối ấm ức khóc mãi không thôi.
Cứ mỗi đêm nàng khóc và qua
ngày hôm sau, đôi mắt nàng đỏ ngầu, thì Dung Kính lại lén ra mua một chiếc khăn
tay mới, đặt trên gối của nàng.
Ít lâu sau, chàng và nàng đã
đến lúc nín nhịn không nổi nữa liền thổ lộ chân tình cho nhau. Thế rồi cứ mỗi
lần gặp Tứ Nương, Dung Kính lại khuyên nàng nên cẩn trọng thân thể. Nàng thấy
chàng vừa nói đến chuyện đó thì liền lấy tay áo che mặt, quay gót chạy đi.
Có một hôm, trời hết sức nóng
nực. Chàng và nàng bất ngờ gặp nhau dưới hiên nhà. Chàng nhìn vào mặt nàng và
hỏi:
- Tối qua chị lại khóc phải
không? Chị nên bỏ qua mọi việc. Cha mẹ chị đã mất cả. Tôi lại vì điều trai gái
tỵ hiềm mà không thể an ủi chị được. Chẳng may chị khóc đến sinh bệnh thì tôi
còn biết làm sao đây?
Lúc đầu thoạt nghe, nàng bất
giác mặt đỏ tía tai, xấu hổ không biết để vào đâu, nhưng về sau bỗng đôi hàng
lệ của nàng cứ lã chã như những hạt châu rơi xuống. Nàng vội quay mặt đi, chạy
một mạch về phòng đau đớn oà lên khóc Nàng nghĩ tới mối tình tha thiết của
Kính. Nhưng nàng không thể vì tình yêu của chàng mà quên đi việc lớn của mình!
Bởi vậy nàng nghĩ tốt hơn hết là nên sớm ly khai với chàng. Nghĩ tới đây, nàng
liền quyết định là ngay tối hôm đó, nàng sẽ ra đi.
Trời tối, trăng trong gió mát
như gợi lòng khách giang hồ, Lã Tứ nương nai nịt gọn gàng phi thân nhảy qua bờ
tường rồi loáng một cái đã mất hút. Đây là lần đầu tiên nàng được nếm mùi vị
chốn gió sương. Nàng đi đã xa, đưa tay sờ vào túi, mới biết khi ra đi chẳng đem
theo chút tiền bạc nào. Làm sao bây giờ? Nàng đành lột vàng, tháo xuyến ra bán
lấy tiền lộ phí. Nàng nghĩ ra được một cách kiếm tiền. Nàng thuê hai người giúp
việc, rồi với một chiếc thanh la, kiếm chỗ mãi võ.
Một cô gái vừa trẻ vừa tuyệt
sắc thì ai mà bỏ qua được. Thế là cả phố cả phường đổ xô lại để xem người đẹp
hơn là xem võ nghệ. Rồi thì anh nào anh nấy đua nhau ném tiền tặng thưởng cho
nàng đến dốc cạn cả hầu bao. Nàng lại đi tìm chỗ khác để đánh thanh la chiêu
khách. Cứ thế nàng độ nhật sinh nhai trên đường, bất giác đã hơn một tháng.
Hôm đó, nàng tới địa phận Thái
Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Phủ Thái Nguyên vốn là một nơi thị tứ náo nhiệt, khách
thương qua lại rất nhiều. Những chàng công tử thấy Tứ Nương một mình mãi võ,
đều cho là nàng mượn cớ kén chồng. Nhìn vào khuôn mặt xinh đẹp, thân hình óng
chuốt của nàng, chàng nào cũng lắc lém, tít mắt khen tuyệt. Tức cười nhất là có
mấy cậu dại gái võ vẽ đôi chút quyền cước, cả gan nhảy lên đài tỉ võ với nàng
để được mong động chạm đôi chút cho hả nỗi thèm thuồng.
Tứ Nương đọc rõ tâm địa bụng
chúng, liền đặt ngay điều kiện như sau: hai bên tỉ võ đều phải bỏ tiền đặt cuộc
năm chục lạng bạc, ai thắng sẽ lấy cả. Tiền thì chúng có thừa, bèn nhận lời
ngay. Nàng còn giả bộ kém cỏi, vờn đối thủ mãi rồi mới kín đáo, bằng thế võ
hiểm, quật ngã. Những tên khác hí hửng đua nhàu vào đấu như thiêu thân lao vào
lửa. Thực ra chúng chỉ mong được chút hương thơm của nàng rồi thì đù đau, dù
mất tiền cũng vui lòng. Nàng chỉ việc bỏ tiền vào túi sau mỗi chiêu thức nhẹ
nhàng và kín đáo. Chỉ một buổi nàng đã được tới năm trăm lạng bạc. Nàng sợ quan
phủ sở tại đem lòng ngờ vực, bèn rời Thái Nguyên qua Sơn Đông.
Dọc đường, còn thiếu gì kẻ mắc
vào cái lưới nhan sắc mà hiểu kính tiền lộ phí cho nàng.
Một hôm nàng tới Thiên Tân,
theo lệ thì nàng thường kiếm chỗ sau khu Chiêu khách tỉ võ, nhưng khi vừa tới,
nàng bỗng thấy một vị hoà thượng vừa lớn, vừa mập mạp, tay bưng hai trăm lạng
bạc lớn tiếng nói:
- Này nàng! Ta đem hai trăm
lạng bạc này đánh cuộc đây! Nếu nàng thắng ta thì khỏi nói, hai trăm lạng bạc
này tất nhiên về tay nàng rồi. Nhưng nếu ta thắng thì chỉ cần từ nay nàng bỏ
nghề mãi võ, theo ta về chùa làm một mụ hoà thượng bà bà là xong.
Lã Tứ Nương vừa xấu hổ vừa
giận, lập tức đem tuyệt chiêu Kim cương quyền của sư phụ truyền thụ ra đối phó.
Không ngờ nhà sư giao thủ với nàng được có môi một chiêu bỗng quát lên một
tiếng "Ngừng tay!" rồi bảo:
- Đúng là sư muội của ta rồi!
Khỏi cần giao đấu nữa, hai trăm lạng bạc này ta giúp sư muội đem theo lành lộ
phí. Sư muội miễn thứ cái tội lỗ mãng cho ta nhé.
Nói đoạn nhà sư vòng tay từ
biệt, quay gót đi luôn. Lã Tứ Nương được hai trăm lạng bạc của nhà sư, cũng bỏ
nghề mãi võ luôn. Nàng lẻn vào thành Bắc Kinh, mướn một căn nhà trọ và một đứa
tớ gái giúp việc trong nhà. Hồi ấy, khắp kinh thành Bắc Kinh chỗ nào cũng đầy
rẫy bọn trinh thám của hoàng đế dò xét tình hình dân chúng. Thấy nàng có hành
tung bất minh, chúng đã tới tra hỏi đôi ba lần. Nàng coi bộ tình hình có vẻ
không ổn, bèn tới ở trong một toà cổ miếu, tường xiêu mái sụp, ngày đêm làm mồi
cho mưa nắng. Giữa lúc cô tịch âm thầm dó, nàng bỗng thấy một bóng người cao
lớn nhảy vút qua đầu tường, để rơì tấm thân nặng ước trăm cân xuống đất nhẹ
nhàng như một chiếc lá rụng. Nàng vội búng ra một kiếm. Không ngờ lưỡi kiếm vừa
phóng ra đã bị đại hán nọ tiếp gọn trong lòng bàn tay mình.
Dưới bóng trăng mờ, nàng định
thần nhìn kỹ thì chẳng phải ai xa lạ, mà chính là sư phụ nàng. Cầu Nhiêm Công,
với bộ râu dài trắng như cước đang phất phơ trước gió, khà khà cười lớn, rồi
bảo nàng:
- Thật là đi rách cả đôi giầy
sắt mà chẳng thấy. Nay gặp được con quả chẳng phí công tí nào!
Nói đoạn, Cầu Nhiêm Công nắm
lấy tay nàng chạy ra khỏi miếu thì đã thấy có một người con gái khác đang đứng
chờ.
Lại nói Lã Tứ Nương lén bỏ Chu
gia ra đi, đối với kẻ nào khác chẳng nói làm chi nhưng đối với Chu Dung Kính
thì quả là nỗi đau khổ lớn nhất rồi. Suốt ngày Kính bỏ ăn, bỏ ngủ như cuồng như
điên. Phụ thân của Kính thấy vậy, bất nhẫn lắm. Ông nghĩ Tứ Nương đi phen này
hẳn chỉ là tới Bắc Kinh để báo thù. Bởi vậy, ông nói sự thể cho Cầu Nhiêm Công
biết và muốn Công đi Bắc Kinh trợ giúp nàng.
Chu Dung Kính nằng nặc đòi đi
theo. Cầu Nhiêm Công còn có một nữ đồ đệ tên Ngư Nhương, cũng kéo đi luôn. Thế
là ba người thu xếp hành lý lên đường. Đi tới đâu, Cầu Nhiêm Công dò la tin tức
tới đó và nghe được khách bộ hành đồn đại có một cô gái tuyệt đẹp, bản lĩnh cao
cường đi mãi võ khắp nơi. Công nghĩ người con gái đó phải là Lã Tứ Nương chứ
không còn ai. Nhưng khi tới Bắc Kinh thì Công lại bặt tin nàng. Công suy nghĩ
cẩn thận, cho rằng Tứ Nương rắp tâm mưu đồ đại sự thì tất nhiên là phải tìm nơi
hoang vắng mà ẩn náu cho nên bặt tin nàng là vậy. Công liền đi kiếm một khách
điếm vào trọ. Thế rồi đêm, vào lúc canh khuya tứ bề vắng lặng. Cầu Nhiêm Công
đem theo Ngư Nhương, phi thân nhảy lên nóc nhà, đi tìm Tứ Nương. Hôm đó Công
nhảy vào toà cổ miếu và đã tìm được nàng, dắt ra giới thiệu với Ngư Nương đứng
đợi ngoài cổng. Tứ Nương thấy Ngư Nương tuổi suýt soát với mình, và dung nhan cũng
chẳng thua mình, tự nhiên thân với nhau ngay. Nàng hỏi Ngư Nương lên kinh làm
gì thì Ngư Nương kể cho nàng chuyện cha mình là Ngu Xác bị hoàng đế bắt tội
chết, nàng lên kinh tìm cách báo thù.
Hai người cùng một chí lại càng
thân nhau hơn. Nhưng người sung sướng nhất đời lúc này phải kể Chu Dung Kính.
Chàng nắm lấy tay áo nàng, khẩn khoản khuyên nàng chớ lên mạo hiểm, e nguy đến
tính mạng. Nàng nào có nghe Kính song cũng tự nhủ:
- Dung Kính đối với ta quả thật
chung tình. Ta e rằng trên thế gian này khó có thể tìm ra một người thứ hai như
vậy. Phen này, nếu lo xong việc lơn ta sẽ cùng chàng tính chuyện trăm năm.
Hồi này, nàng đã có sự lịch
duyệt trên chốn giang hồ không còn e lệ rụt rè như xưa, nên bèn thành thực bày
tỏ nôi niềm tâm sự cho Kính nghe:
- Tấm thân này vốn dĩ là đã là
của chàng rồi. Song hiện thiếp còn muốn mượn chàng để dùng vào việc lớn đã. Sau
khi trả thù xong, chàng muốn thế nào thiếp sẽ theo như thế! Còn lúc này quả
thiếp không thể nào tuân theo lời chàng được.
Mấy lời khiến Chu Dung Kính
nghe xong vừa mừng vừa lo, chẳng biết khuyên nhủ ra sao nữa.
Cầu Nhiêm Công mướn một căn nhà
ngoài cửa Tây Tiên môn cho cả bốn thầy trò làm chỗ cư ngụ lâu dài. Công nói
thác đây là một gia đình có cha, có con trai, con dâu đầy đủ. Nhờ đó không có
một ai nghi ngờ gì cả.
Hồi này, Ung Chính hoàng đế
cũng đã được bọn thám tử cho biết là trong kinh thành có một số đông thích
khách đang tìm cách hành thích ngài. Hoàng đế vội hạ mật lệnh phòng bị khắp
nơi, canh chừng đủ chốn, một mặt ngầm dặn bộ binh nha môn tra xét kẻ ra ngườì
vào nghiêm mật.
Lễ Tế trời đã tới. Khâm thiên
giám chọn được ngày tốt, mời hoàng đế xuất thành đi làm lễ. Ung Chính nghe
phong thanh bên ngoài nhiều chuyện đáng ngại, đã có ý không đi.
Nhưng ngài nghĩ lại, cho rằng
nếu nằm mọp trong cung không dám thò cổ ra ngoài thì cũng làm sao khiến chúng
lộ mặt ra mà bắt. Hơn nữa bách tính thấy ngài bỏ cả tế lễ sẽ bàn tán cười chê
thêm phiền. Ngài đành liều mạng một keo, tức thì truyền chỉ bày giá tế trời,
một mặt điều động thị vệ để hộ giá xuất cung.
Hôm đó các đường phố đều có bộ
quân canh gác, Cửu môn đề đốc cho người ngựa phòng bị tra xét suốt dọc đường.
Từng đội tay cầm đao thương sáng quắc, đứng dọc theo con lộ, nước chảy cũng khó
thông. Hai bên đường, dựng lên nhũng tấm thiên mạn trướng năm sắc rực rỡ, chạy
mãi tới trước mặt Thiên
đàn (đàn cao để tế trời).
Từ trong hoàng thành đi ra,
từng cặp loan nghi từ từ tới trước đàn, rồi tiến lên phía trên. Các quan lớn
văn võ khắp triều chia hai hàng đứng thăng tắp hai bên. Ung Chính hoàng đế bước
từ trên xe loan dư xuống. Đội lính thị vệ vây kín lấy ngài, rầm rộ đưa ngài lên
đàn cao. Trên mặt đài có đầy đủ đồ tế lễ.
Ung Chính hoàng đế tính quay
mình trở xuống. Bỗng ngài nghe có tiếng động phát ra từ tấm màn Thiên mạn, ngài
vội búng ngón tay một cái, tức thì một đạo bạch quang bay vụt tới đó. Và chỉ
vài giây sau đó, một cái đầu con hồ ly từ trên cao rớt phịch xuống đất. Hoàng
đế nhìn thấy rõ rồi, lòng hết lo ngại. Bọn thị vệ tả hữu đều đồng thanh hô vạn
tuế…
Đứng sau Ung Chính hoàng đế lúc
bấy giờ có Ngạc Nhĩ Thái. Hoàng đế quay lại cười bảo Thái:
- Trẫm nghe nói có một bọn
thích khách đang tính mưu sát trẫm. Hôm nay, trẫm thử một chút thủ đoạn để cho
bọn chúng biết mà liệu, chớ dại mà nhảy vào lưới, chui vào rọ.
Nói xong, ngài cười nhạt một
tiếng, càng khiến Ngạc Nhĩ Thái mắt đổ hào quang, toàn thân toát mồ hôi lạnh,
miệng chỉ còn biết dạ liên hồi.
Ung Chính hoàng đế về tới cung,
dù sao lòng cũng buồn bã chẳng vui. Ngài nhớ lại thuở trước, khi còn học võ tại
chùa Thiếu Lâm, có một vị hoà thượng mặc áo vải sắt, bản lĩnh coi như đứng bậc
nhất trong môn phái. Y cũng có tài búng kiếm đầu tay. Nếu y còn sống, lại ngả
theo kẻ thù của ta xúi giục, không nguy hại cho ta lắm sao? Ta không đề phòng
không được.
Nghĩ như vậy, Ung Chính hoàng
đế liền cho gọi Ngạc Nhĩ Thái vào cung cùng nhau thương nghị. Thái nói:
- Thần nghe đồn tên trọc ấy
hiện đang ở Giang Nam, hoành hành bất chấp, chắc chẳng có kẻ nào xúi bảo nổi
hắn ta. Đúng ra, ta phải bắt hắn mà giết đi để trị hại cho dân ấy chứ!
Ung Chính hoàng đế nói:
- Bọn hảo hán trước kia hiện
chẳng còn ai. Biết sai ai đi làm cái việc này cho được.
Thái cố moi tìm trong óc, bỗng
sực nghĩ ra tướng quân Nhạc Chung Kỳ năm nọ có nói tới một vị sư tên gọi Đại
Nham hoà thượng, hiện đang trụ trì tại chùa Thiên Ninh. Thái bèn tâu với Ung
Chính, xin hoàng đế hạ một mật chỉ xuống cho Tô Châu phủ đài, bảo đi mời Đại
Nham diệt trừ nhà sư mặc áo vải sắt. Ung Chính nghe tâu, lấy làm đắc ý lắm,
khen phải luôn mồm. Thái lui ra khỏi cung, vội thực hiện kế hoạch đã định.
Hồi đó, Thiết bố sam hoà thượng
(nhà sư mặc áo vải sắt) đang trụ trì tại một ngôi chùa lớn trên núi Nga
Mi, tỉnh Tứ Xuyên. Tên trọc này thường phái bọn đệ tử xuống núi chặt lấy đầu
người để cung cấp cho y mỗi ngày ba bộ óc. Đám dân quanh vùng liên tục thấy mất
đầu người trong đêm khuya, kẻ nào kẻ nấy kinh hồn táng đởm, trốn chạy sạch, đến
nỗi thôn xóm vắng tanh, chẳng còn lấy một bóng người.
Về sau, tên trọc mặc áo vải sắt
này bỗng lại trở chứng, đòi ăn thai nhi còn trong bụng mẹ. Y lại phái đệ tử
xuống núi, mò vào nhà người, nếu thấy có đàn bà chửa tức thì hãm hiếp rồi mổ
bụng lấy cái thai nhi đem về. Bọn đồ đệ của y tên nào cũng thuộc loại dâm ác
kinh người, không ai dám ngăn trở chúng cả.
Hồi đó Bạch Thái Quan ở nhà rỗi
rảnh, nghe nói phong cảnh núi Nga Mi tỉnh Tứ Xuyên hữu tình xinh đẹp, liền tới
du lãm. Vốn tay giang hồ lịch duyệt nên khi tái xuất, Quan thường chỉ thích đi
đêm. Quan hôm đó ngẫu nhiên tới một thôn phường. Trời đã vào khuya. Quan đi qua
một căn nhà thấp lè tè, có mái che sát xuống phía trước. Bên trong ngọn đèn
vàng nhạt còn leo lét cháy, phóng ánh sáng lờ mờ qua chiếc cửa sổ lọt ra ngoài.
Bỗng Quan thấy một bóng người lượt qua, mà bóng ấy dường như có cái đầu trọc.
Bạch Thái Quan trong lòng lấy làm nghi hoặc: tên trọc này đang đêm lẻn vào nhà
người thì ắt hẳn "phi đạo tắc dâm" chứ không thể là người
lương thiện được. Nghĩ vậy Quan liền dừng bước nghe ngóng, thì bỗng phía trong
có tiếng đàn bà khóc rồi tiếng van nài cầu khẩn:
- Thầy tha cho tôi đi! Đau đến
chết mất!
Bạch Thái Quan lại càng nghi,
bèn giở tài nghệ, cậy mở cửa phòng rồi lẻn vào, thấy một người đàn bà còn trẻ,
nằm trần truồng trên giường, và tên trọc đầu đang dùng tay làm gì đó nơi bụng
dưới của người đàn bà. Bạch Thái Quan đùng đùng nổi giận, tóm ngay lấy cổ áo
tên trọc xách bổng lên như một con gà rồi ném huỵch xuống đất. Tên trọc ngã
quay đơ, không thể ngồi dậy nổi. Quan tức thì giơ cao nắm đấm to bằng cả cái tô
canh, cứ mặt tên trọc mà nện xuống. Lúc này đã có nhiều người nghe động mà chạy
tới. Họ can Bạch Thái Quan ngừng tay, và quát hỏi tên trọc kia. Hắn vội khai
việc này thật chẳng do tại tôi. Sư phụ tôi buộc phải đi lấy cho bằng được cái
thai nhi nên mới xảy ra nông nỗi.
Bạch Thái Quan hỏi:
- Sư phụ mi là ai?
Tên sư đáp:
- Là Thiết bố sam hoà thượng.
Trên giới giang hồ, Quán đã
được nghe đồn về Thiết bố sam, nên bảo:
- Thật là một tên dâm ác. Để ta
hỏi tội hắn!
Trời cũng vừa sáng. Quan ăn no
rồi áp giải tên sư trọc ra đi, bảo một người trong xóm dẫn đường.
Bọn Quan đi mãi tới lúc mặt
trời lặn mới tới chân núi Nga Mi. Quan thấy trước mặt có một nhà sư đang ngồi
hóng mát dưới gốc cây đại thụ bèn cho rằng cũng một hạng như tên trọc bị bắt,
liền quát lớn:
- Thằng trọc kia! Đừng hòng
chạy!
Quát vừa xong, Quan nhảy vọt
tới. Hai tay kình địch đấu đã hai mươi hiệp mà vẫn chưa thấy bên nào thua sút,
trái lại càng đánh càng hăng. Giao đấu đã đến lúc một mất một còn, nhà sư bỗng
nhảy ra ngoài vòng chiến, hỏi Quan:
- Mi có phải môn đồ của tên sư
mặc áo vải sắt đó chăng?
Quan đáp:
- Ta tới để bắt thằng trọc đó
đây! Có phải mi là đồ đệ của hắn không?
Nhà sư kia cũng nói;
- Ấy chính ta cũng tới để bắt
thằng trọc đó.
Quan bụng bảo dạ, đánh nhau mãi
té ra mới biết tay phải đánh tay trái, bèn hỏi:
- Hảo hán vâng lệnh ai tới đây
vậy?
Nhà sư kia, tức Đại Nham hoà
thượng, nghe hỏi bèn lấy tay vỗ đánh phạch một cái vào ngực, rồi vừa chìa ngón
tay ra vừa bảo Quan:
- Ta vâng lệnh của phủ đài
Giang Tô, dám hỏi hảo hán vâng lệnh ai mà tới?
Bạch Thái Quan bèn đem chuyện
gặp tên trọc đang hành sự ở trong xóm kể một lượt cho Đại Nham nghe.
Đại Nham nghe xong, nổi nóng,
chửi um lên:
- Thằng trọc khốn kiếp! Mi đã
làm bại hoại cả qui củ của nhà Phật ta!
Quát xong, sư Đại Nham tuốt cây
yêu đao đến soạt một tiếng và người ta chỉ thấy ánh kiếm loáng tròn một vòng,
tức thì đầu tên trọc kia đã lăn lông lốc trên mặt đất. Đại Nham hành động mau
lẹ lạ lùng, đoạn quay ngoắt lại, giơ tay vẫy vào đám rừng một cái, tức khắc
nhảy ra đến mười lăm, mười sáu đại hán. Đại Nham đem bọn đại hán chạy lên trên
núi.
Lên tới cửa sơn môn, Đại Nham
cùng Bạch Thái Quan chia làm hai đường đánh thốc vào trong. Quan muốn chiếm
thượng phong, tung người bay lên nóc nhà trước. Sư Đại Nham cắt cử bọn đại hán
tuỳ tùng xong, đích thân tới mở cửa sơn môn, tiến vào hỏi Thiết bố sam. Tên
tăng giữ cửa thấy Đại Nham cũng là một nhà sư nên không nghi ngờ gì, liền đưa
vào nội viên, mời ngồi tạm trong phòng khách rồi bước vào trong trình chủ.
Sư Đại Nham ở phòng khách ra
hiệu cho bọn đại hán theo vào rồi theo gót tên tăng lần bước mãi vào trong, cả
hai loanh quanh bước qua mấy căn phòng rộng thì tới một gian, ngay chính giữa
có đặt một chiếc giường tre, trên có một tên trọc to lớn, mình trần trùng trục
đang ngồi cạnh một cô gái má trát đầy phấn, đang gãi lưng cho y. Lại còn một cô
gái nữa đang bưng một chén trà dâng tới. Cô gái này thấy tên tăng giữ cửa bước
vào liền dừng lại, nói to lên:
- Sư phụ! Có người tới đó!
Lão mập trọc nghe gọi liền quay
lại, thấy đằng sau tên tăng giữ cửa còn có một nhà sư, liền chỉ tay hỏi:
- Lão kia là ai vậy?
Sư Đại Nham không để cho lão
trở tay kịp, bước lẹ tới xuất thủ, túm ngay một chân y và giữ chặt lấy. Thiết
bố sam vốn bản lĩnh cao cường, vội phóng đôi cước uyên ương tung vào mặt Đại
Nham vừa để tháo gỡ ngón cầm ná thủ, vừa tấn công đối phương. Sư Đại Nham thấy
lão trọc bị bắt chân trái tức thì hắn phóng chân phải đá ngược lên, biết đó là
môn đệ phái Thiếu Lâm nên vội buông tay ra.
Thiết bố sam liền đứng bật dậy,
đưa tay lên đầu giường kéo ra một chiếc áo vải, đánh vụt tới. Thật là kỳ quái,
khi chiếc áo vải đã nằm trong tay lão trọc liền, biến thành một cây gậy sắt khi
vung lên nghe vù vù rợn cả tóc gáy. Chính nhờ chiếc áo vải này mà thiên hạ
phong cho y cái danh hiệu "Thiết bố sam".
Bọn đại hán thấy cuộc đấu đã mở
màn, vội vàng tham chiến. Họ xông cả vào, vây lấy Thiết bố sam.
Lão trọc vung chiếc áo vải sắt
chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, tung hoành khắp bốn mặt. Hai bên ác đấu
đến hàng giờ rồi mà bọn Nham vẫn không tới gần được y. Tuy nhiên, cậy đông
người, bọn Nham vây chặt vòng này tới vòng khác khiển Thiết bố sam cũng khó
lòng thoát thân. Y đang định phi thân lên nóc nhà để thoát đi, không ngờ có một
tiếng gầm vang rồi từ trên nóc, một bóng người nhảy vút xuống như một con đại
bàng, thẳng cánh giáng một đao xuống đỉnh đầu Thiết bố sam. Chiếc đầu trọc của
y chẳng khác gì một trái dưa bị chẻ làm đôi, lưỡi dao còn đi ngọt xuống tới mãi
cổ mới chịu ngừng. Thế là Thiết bố sam chỉ trong nháy mắt đã lìa đời. Dân chúng
khắp các thôn phường chung quanh được tin Thiết bố sam đã chết, kẻ nào kẻ nấy
mừng rơn như chính mình vừa được cứu sống, bèn đem thây y chặt thành trăm
miếng, mang về nhà rán mỡ đất đèn.
Bạch Thái Quan chẳng thèm từ
biệt Đại Nham hoà thượng, nhảy vút lên mái nhà bỏ đi mất dạng. Tổng đốc Tứ
Xuyên Nhạc Chung Kỳ vội đưa sư Đại Nham về nha môn, mời ở trong một tịnh xá để
cung dưỡng. Mấy hôm sau, thánh chỉ từ Bắc Kinh đưa tới, thưởng Đại Nham hoà
thượng một vạn lạng bạc, Nhạc đại tướng quân còn phái tài quan hộ tống nhà sư
về nam, đồng thời gửi mấy chục đạo trát lệnh cho các quan địa phương dọc đường
phải chuẩn bị xe thuyền để đón đưa cẩn thận, không được sơ sót.
Đại Nham hoà thượng về tới
Dương Châu, bèn mua gạch mua gỗ, xây cất thánh điện, cạnh điện làm một toà Ngô
viên (Vườn ngô), trong vườn kiến thiết một toà Hoa nghiêm đường hết sức tráng
lệ. Tất cả những sở phí xây cất đều do các thân hào địa phương quyên giúp. Từ
đó sư Đại Nham ngày ngày thường hội khách tại Hoa nghiêm đường uống rượu, luận
bàn kinh sử.
Hồi 66: Hai đạo bạch quang trong cung cấm
Tại Dương Châu hồi đó
có ba tay anh chị cậy mình có sức khỏe hơn người, chuyên doạ nạt dân chúng. Một
tên gọi Nguỵ Ngũ, giỏi cưõi ngựa lại hiểu được tiếng ngựa. Mấy năm trước, có
một vị Long Sơn tổng binh tới Dương Châu duyệt binh, bỗng đàn ngựa trong tàu
thảy đều hí vang lên. Nguỵ Ngũ nghe đoạn bảo mọi người:
- Quan tổng binh này ba tháng
nữa thì chết.
Vị quan tổng binh này về nhà
bỗng nhiên ba tháng sau chết thật.
Tên thứ hai gọi Trương Âm
Nguyên, rất giỏi múa song đạo Khi Nguyên đã múa lên rồi thì dù có nước tạt cũng
không lọt tới người y giọt nào tới mấy chục người cũng chẳng thề gần y được.
Tên thứ ba gọi Tiết Tam, thường sử dụng một cây cung cứng nặng tới năm mươi
thạch. Hồi đó người Dương Châu thường gọi bọn này là Nguỵ Mã, Trương Đao, Tiết
Ngạch Cung.
Từ khi Đại Nham hoà thượng tới
Dương Châu, ba tên này thường tỏ vẻ không phục, thỉnh thoảng lại tới kiếm
chuyện song đều bị Đại Nham đánh cho liểng xiểng. Chúng không còn mặt mũi nào ở
lại nữa, bèn kéo nhau đi mất dạng.
Một hôm Đại Nham hoà thượng tiễn
khách từ phương trượng đi ra, vừa tới chỗ bực thềm, bỗng một chiếc ly hương
bằng đồng bay vụt tới. Đại Nham mắt lẹ tay nhanh đón bắt ngay được Thì ra Tiết
Tam tới báo thù. Không ngờ, Tiết Tam khi ném cái lư hương, dùng sức quá nhiều
nên miệng hộc máu ra lênh láng, hối hả chạy về nhà, hộc máu tiếp mấy keo nữa
thì chết.
Trương Âm Nguyên giận lắm, xách
song đao tới Hoa Nghiêm đường quyết đấu với Đại Nham hoà thượng. Mới được có
vài hiệp. Trương đã bị Đại Nham chặt mất một cánh tay. Còn lại có mình Nguỵ Ngũ.
Ngũ biết nếu đem tài sức mà
đánh thì không thể thủ thắng, bèn rắp tâm dùng mưu. Y dò biết Đại Nham bị hắc
lào cùng mình nên mỗi buổi sáng khi thức dậy thường lấy nước nóng tắm rửa, liền
nhè đúng lúc đó cùng bọn lâu la tông cửa nhảy vào khoa kiếm chém tới. Đại Nham
hoà thượng tay không, toàn thân lại trần như nhộng, thử hỏi làm sao mà địch
nổi.
Tuy có giết được nhiều tên,
nhưng cuối cùng Đại Nham vẫn bị Ngu chặt mất một chân, chết ngay trong phòng
tắm.
Tin Đại Nham hoà thượng chết
báo tới kinh đô, Ung Chính hoàng đế tuy ngoài mặt tỏ vẻ thương tiếc, nhưng bên
trong lại mừng thầm, cho rằng hạng người có bản lĩnh như vậy còn sống trên đời
chỉ là một mối lo cho ngài. Những tay võ nghệ cao cường như Đại Nham mà giá như
đều chết cả, chỉ còn lại bọn giá áo túi cơm thì có còn gì để cho ngài phải sợ
nữa.
Từ đó, Ung Chính hoàng đế lại
mải vui như cũ, chẳng thèm đề phòng gì nữa.
Lại nói Lã Tứ Nương ngụ trong
kinh thành ngày ngày dò la tin tức, song chưa tìm được một cơ hội nào để hạ
thủ, thành thử trong lòng bực dọc hết sức. Chu Dung Kính và Cầu Nhiêm Công
khuyên nàng hãy nên nhẫn nại đợi thời cơ. Hồi đó, khắp kinh thành đồn rầm lên
rằng Bảo Thân vương sắp làm lễ Đại hôn. Bảo thân vương chính là cậu bé mà hoàng
hậu Nữu Cô Lộc sai mụ quán gia đánh tráo ở nhà Trần Thế Quan hồi trước, đặt tên
là Hoàng Lịch, càng lớn càng tỏ ra khôi ngô tuấn tú, tính tình lại ôn hoà, nói
năng linh lợi. Trong bọn hoàng tử anh em chẳng một ai được cả người lẫn nết như
Lịch. Ung Chính hoàng đế tất nhiên không biết vụ trao đổi kia, cho nên yêu quý
Lịch hết sức đặc biệt.
Hoàng hậu Nữu Cô Lộc được biết
Hồ Bắc tướng quân Thường Minh có một cô con gái xinh đẹp tuyệt trần. Vợ Thường
Minh là Quách Nhĩ Ngạch vốn ở cạnh nhà hoàng hậu. Lúc nhỏ tuổi, hai bên rất
thân nhau. Về sau, bà Quách thường được hoàng hậu tuyên triệu vào cung chơi và
cũng rất yêu quý cô con gái của bà, vẫn thường cho nào là khăn tay, nào là đồ
trang sức, nào những món cần dùng linh tinh không biết bao nhiêu mà kể! Khi
Thường Minh đem gia đình đi Hồ Bắc để nhận chức tướng quân thì hoàng hậu vẫn
nhớ tới bà Quách và cô con gái cưng của bà, nên thường nhắc tới gia đình nhà họ
Thường trước mặt Ung Chính hoàng đế. Nhân vui câu chuyện, Ung Chính bảo:
- Hậu đã yêu quý cô con gái nhà
này thì chi bằng cưới cho thằng Hoàng Lịch, có phải lúc nào cũng được gặp mặt
không?
Lời nói đó khiến bà Nữu Cô Lộc
tỉnh ngộ. Thế rồi, chờ đến năm đúng tuổi làm lễ Đại hôn cho Bảo Thân vương, bà
giục Ung Chính hoàng đế hạ thánh chỉ định việc hôn lễ, phong con gái Hồ Bắc
tướng quân Thường Minh làm Phú Sát phúc tấn. Một mặt, điều động Thường Minh về
kinh làm quân sư đại thần, mặt khác giao hai vị đại thần thân tín là Ngạc Nhĩ
Thái và Sử Dĩ Trực làm ông mối. Ung Chính đem khu vườn Viên Minh mà Thánh Tổ đã
thưởng cho ngài, thưởng lại cho Bảo Thân vương để đôi tân hôn hưởng tuần trăng
mật.
Hôm đó khắp vườn treo đèn kết
hoa rực rỡ, tiếng đàn sáo vang lừng. Người ta rước cô dâu Phú Sát vào vườn Viên
Minh làm lễ giao bái. Bảo Thân vương thấy bà phúc tấn Phú Sát xinh đẹp tuyệt
trần thì không còn muốn rời xa nửa bước. Hoàng hậu Nữu Cô Lộc thấy con và dâu
thương yêu nhau như vậy cũng lấy làm sung sướng trong lòng.
Không ngờ vui lắm lại buồn
nhiều, ở đời có chuyện gì là hoàn toàn cả đâu! Số là từ khi Bảo Thân vương cưới
vợ, Ung Chính hoàng đế thấy trong người không được mạnh như xưa.
Bệnh căn chỉ là do ngài đam mê
sắc dục quá độ mà ra. Thường mỗi ngày ít ra cũng phải có hai nàng phi luân
phiên hầu hạ thì ngài mới yên giấc được. Lúc đầu, ngài còn nhờ thuốc hoàn A Tô
Cơ của nhà sư Lạt ma để miễn cưỡng chống đỡ, nhưng về sau thuốc này xem chừng
cũng trở thành vô dụng. Thì ra ngài đã đến lúc liệt bại hoàn toàn rồi. Bọn phi
tần được sủng ái đêm nào cũng tìm đủ kiểu để kích thích ngài nhưng ngài chẳng
động cựa gì được nữa.
Hoàng hậu Nữu Cô Lộc liền đuổi
hết bọn phi tần, đích thân mình ở bên cạnh hầu hạ thuốc men cho hoàng đế. Bên
cạnh ngài còn có hai viên ngự y, một người họ Thái, một người họ Phương, luân
phiên túc trực ngày đêm trong cung để xem mạch hốt thuốc. Nhờ đó bệnh tình của
Ung Chính ngày một, thuyên giảm. Đột nhiên bọn thái giám trong cung nội một hôm
la hoảng và đồn rầm lên rằng, suốt dãy cung Trường Xuân, cung Chung Tuý đêm nào
cũng nghe tiếng chân chạy nhảy trên mái ngói, rồi lại có tiếng mở đóng cửa,
tiếp đó, bọn thái giám thị vệ ở các cung Dực Khôn, cung Vĩnh Hoà cũng đồn rằng
cứ mỗi đêm trên nóc nhà thường thấy có hai đạo bạch quang bay đi bay lại và đã
có vài cung nữ bị giết tại Thiên Cung. Chẳng mấy chốc những tin quái đản này
đồn dậy khắp trong ngoài, khiến cả một toà hoàng thành rộng bát ngát, người
đông như kiến mà kẻ nào cũng hoảng hồn bạt vía.
Hoàng hậu Nữu Cô Lộc vội sai
bọn thị vệ bốn mặt truy tầm nhưng tuyệt vô tung tích. Thế mà tin đồn vẫn càng
ngày càng dữ. Thậm chí, bọn thái giám và cung nữ ở các cung Diên Hy, cung Thừa
Kiền, cung Cảnh Dương, cung Cảnh Nhân, Cung Hàm Phúc, cung Vĩnh Thọ, cung Khải
Tường, cung Sử Tú còn thấy hai đạo bạch quang kia không chỉ bay đi bay lại trên
nóc nhà nữa mà ngay ở cả trong nhà, mỗi khi họ chợt tỉnh giấc trong đêm trường
thanh vắng.
Ung Chính hoàng đế lâm trọng
bệnh nằm trên giường, được những tin đó, biết rằng có duyên cớ, nhưng chẳng
tiện nói ra. Hồi đó, Sử Dĩ Trực thống lĩnh quân Dũng Kiện, vốn là người thân
tín hoàng đế. Đoàn quân Dũng Kiện do các tướng quân ở các tỉnh tiến cử về Kinh,
toàn là những tay hảo hán có đủ kỳ tài dị năng, luyện tập thành thục cả. Đoàn
quân này gồm có bốn ngàn người. Ung Chính hoàng đế thấy cung nội mất an ninh,
bèn truyền Sử Dĩ Trực vào cung, bảo đem toàn bộ quân Dũng Kiện vào, túc trực
khắp các nơi mọi chốn.
Thành thử cung cấm thình lình
đầy nhóc thêm bốn ngàn quân nữa. Lạ thay, đạo bạch quang cũng chẳng thấy, mà
tiếng động, tiếng vang gì cũng tắt lịm luôn. Sức khỏe của Ung Chính hoàng đế
càng ngày càng khá hơn, cuối cùng ngài đã nhờ Hoàng hậu dìu ngồi đậy, và đi lại
được như thường. Thấy ngài mạnh rồi, bà Nữu Cô Lộc mới trở về cung riêng. Tính
ra Ung Chính hoàng đế bệnh mất mấy tháng mới khỏi.
Trong lúc ngài nằm liệt giường,
Bảo Thân vương cũng đem cả phúc tấn hằng ngày vào cung thăm hỏi bệnh tình. Đến
khi khỏi bệnh, ngài nhớ tới con và dâu, cặp vợ chồng trẻ đang tuần trăng mật
yêu thương nhau, nên nói thác ra là đi dưỡng bệnh để tới vườn Viên Minh với
con. Bọn phi tần sủng ái cũng được đem theo để hầu hạ. Cô dâu Phú Sát đã đẹp đã
xinh lại khéo chiều chồng nên Ung Chính hoàng đế càng lấy làm mừng. Ngài ngâm
viết tên Bảo Thân vương vào di chiếu.
Vườn Viên Minh quả là vĩ đại.
Chu vi xấp xỉ bốn mươi dặm, bên trong đầy những ao, hồ lớn, câ những khu vườn
cây rất rộng, rất âm u. Ngoài ra, còn có nhiều trái núi nhỏ, nhiều ngôi tháp
cao có đủ hoa cỏ bốn mùa, có nhiều cây trái quanh năm.
Bảo Thân vương cùng vợ là Phú
Sát, suốt ngày bắt bướm tìm hoa, đùa giỡn với nhau. Lúc đầu, cặp vợ chồng trẻ
này còn trong tuần trăng mật, gắn vào nhau như keo sơn, như nhựa dính, chuyên
tìm những nơi vắng vẻ có hồ, có núi u tĩnh để tìm vui, đuổi hết bọn cung nữ và
thái giám hầu hạ cho khỏi vướng mắt. Nhưng về sau, hai người chơi mãi rồi chán,
cảm thấy cũng có lúc buồn. Bảo Thân vương tuy có cả một bọn phi tần, thị nữ,
nhưng đối với vương, chẳng ai đẹp bằng Phú Sát, cho nên vương chẳng thèm để ý
tới ai. Vương thường tự nhủ: một khu vườn nổi tiếng như Viên Minh mà không có
người đẹp để làm bạn thì uổng quá. Phúc tấn thì đẹp đấy, nhưng nàng không có
bạn, thành thử cũng thấy thiêu thiếu cái gì đó. Từ đó, vương để tâm đi tìm một
người đẹp đem về để làm bạn với vợ mình.
Có mấy tên thái giám tinh ý,
biết được nỗi lòng của Bảo Thân vương, nên thường lẻn đưa vương ra khỏi vườn
Viên Minh đi tìm gái. Suốt một giải Nam Trì Tử đầy rẫy thanh lâu, Vương lui tới
đây tìm khoái lạc, thích thú lắm. Hằng ngày vương nói thác là đi đọc sách tại
nhà Hàm Đức thư ốc nhưng toàn là đi tìm gái. Vương rất lấy làm khó chịu bởi vì
phụ hoàng hiện ở trong vườn Viên Minh, cứ mỗi buổi sáng phải mang thân tới
thỉnh an. Do đó, vương nảy ra ý kiến là kiếm mấy kỹ nữ đưa vào Viên Minh. Thực
ra, trong bọn này, có khá nhiều cô đẹp và duyên dáng. Điều kỳ lạ là chẳng có cô
nào chịu vào với vương cả. Vương đành chỉ còn có cách thỉnh thoảng lẻn ra mua
vui, chỉ cần qua mắt được hai người là bà Phú Sát và phụ hoàng là yên chí.
Bao nhiêu chuyện phong lưu
khoái lạc đó, vương đã giấu được khá lâu rồi. Một hôm vương chui từ cái ổ yên
vui ra thì trời vần còn sớm. Hơi men chếnh choáng, vương lẻn vào phòng ngủ của
bà Phú Sát. Trong phòng im lặng như tờ. Hai con thị nữ nằm ở bên ngoài đang
ngáy khò khò. Vương mặc kệ chúng không thèm đánh thức, lê bước vào phòng, có ý
muốn xem người đẹp của mình lúc nằm ngủ đẹp đến thế nào. Vương bỏ giầy ra, nhón
chân bước đến bên giường. Vương lấy làm lạ là hôm nay dưới chân giường lại có
hai đôi giầy gấm thêu hoa thò ra ngoài màn, rõ ra rằng trên giường hiện có hai
người đàn bà nằm ngủ. Vương thấy Phú Sát, phúc tấn của vương, còn người kia
vương không nhận ra được là ai, thuộc gia tộc nào. Hai người đẹp đó đang mơ
màng giấc điệp, tay ôm lấy lưng nhau, mặt kề sát mặt nhau, hơi thở đều đều. Bảo
Thân vương ghé mặt sát xuống giường nhìn kỹ, bất giác thần hồn bay bổng mãi tận
trời xanh. Thì ra người đàn bà nằm cạnh vợ vương có một sắc đẹp tuyệt trần
khiến vương say như vừa nốc cả chục vò rượu quý. Mặt nàng trái xoan, đôi mày
cong vút như lá liễu, cái mũi dọc dừa thon thả, đôi má ửng hồng như trái đào
chín, đôi môi đỏ thắm mọng, khẽ hé ra như đang nở một nụ cười hàm tiếu. Nhưng
chỗ hấp dẫn nhất đối với vương phải là cái cổ trắng như ngọc như ngà, buông loã
xoã mớ tóc mây đen óng ánh. Mỹ nhân lại còn khéo cài một bông cúc đỏ lớn vào
lọn tóc khiến màu trắng của nước da nơi cổ càng đẹp thêm. Tay nàng thon thon,
mũm mĩm như búp măng, còn đang cầm chiếc khăn tay màu hồng nhạt. Thật là vô
cùng quyến rũ, nhất là cái thế nằm duyên dáng và khêu gợi trên chiếc giường
thất bảo vây màn bát tiên.
Bảo Thân vương ngắm nhìn người
đẹp một lúc lâu, bất giác lòng xao xuyến. Vương liền khẽ kéo cái khăn trong bàn
tay người đẹp, đưa lên mũi hít một hơi dài. Hương thơm phưng phức bay thốc vào
mũi, vương bất giác cảm thấy tim mình đập mạnh, máu trong huyết quản như sôi
lên. Vương không chịu nổi nữa, cất vội chiếc khăn hồng vào bọc, rồi cúi thấp
hẳn xuống, đặt ngay cái mũi sát vào làn da trắng như ngọc của người đẹp, vừa
hôn vừa hít một hơi thật mạnh, rồi vội chạy ra sau giường nấp trốn.
Người đàn bà bị vương hôn, giật
mình tỉnh dậy khẽ lên tiếng gọi bà Phú Sát:
- Này em! Này em!
Bà Phú Sát nghe gọi, giật mình
tỉnh giấc, bèn cười nói:
- Bọn mình nói chuyện rồi ngủ
lúc nào không hay biết chị nhỉ?
Người đàn bà nọ nói:
- Này em? Trong nhà này có mèo
hoang thì phải. Chị đang nằm ngủ, bỗng nghe một con mèo nhảy chồm lên giường
hít một cái mạnh vào má chị. Chị giật mình tỉnh dậy thì nó đã nhảy đi.
Giọng nói của người đẹp nghe
thật êm ái và lôi cuốn, khiến Bảo Thân vương nấp ở phía sau như phát cuồng lên.
Vương đánh liều vọt ra, cười nói:
- Thật đúng quá! Chú mèo hoang
chính là ta đây!
Nói đoạn vương liền chắp tay
lạy người đẹp luôn mấy cái khiến người đàn bà nọ phải vội vàng hoàn lễ. Vương
quay mặt về phía bà Phú Sát bảo:
- Lúc đó, ta tưởng vị thái thái
này là mình cơ, nên định ghé sát vào tai mình để gọi dậy. Nhưng khi nhìn kỹ lại
mới biết lầm, ta vội chạy trốn ra sau giường. Không ngờ vị thái thái này ăn nói
quả lợi hại, chửi ngay ta là mèo hoang. Chửi là mèo hoang ta xin chịu, nhưng
đáng phục nhất là ông trời già kia. Mình đã là người đẹp, thế mà vị thái thái
này còn đẹp hơn, có lẽ chẳng phải người trần mà chính là người tiên, có phải
không mình?
Được Bảo Thân vương tâng bốc
lên tận mây xanh, người đàn bà nọ làm sao mà chẳng sung sướng, đôi má ửng hồng
lên, chỉ cúi đầu ngồi mân mê tà áo, chẳng nói được câu nào.
Bà Phú Sát nghe chồng nói vậy,
liền chẩu môi cười nói:
- Này ông vương gia của tôi ơi!
Ông đã có lần nào thấy mèo hoang đâu mà khi nghe chị tôi chửi đã vội vơ vào
mình. Đây là chị tôi. Ngày trước, khi còn ở nhà, hai chị em chơi đùa vui vẻ
biết bao nhiêu. Nhưng từ lúc ông xách tôi vào cái vườn này thì chị em tôi đành
chịu cảnh phân ly. Nhớ tôi quá chị tôi mới lẻn vào thăm, không ngờ lại chạm
trán ông. Ông đã bảo nàng là tiên trên trời, thì hãy mau tới bái kiến đi. Bái
kiến xong rồi thì phải bước đi ngay đấy nhé!
Bảo Thân vương không ngờ được
bà Phú Sát nói cho nghe bấy nhiêu lời, vội bước tới hành lễ, miệng nói:
- Thưa chị! - rồi hỏi thêm -
Thưa chị, chị tên gì nhỉ?
Người đàn bà nọ, đứng hẳn người
lên, hai tay vẫn còn mân mê mớ tóc mây buông xoã xuống đôi vai, miệng cười chúm
chím, đáp:
- Tôi là Đổng Ngạch. Chồng tôi
tên Phó Hằng!
Bảo Thân vương vỗ tay cười lớn
nói:
- Anh Phó Hằng tôi tu đã đến
mấy kiếp mà lấy được một người đẹp như tiên nga giáng thế như vậy nhỉ?
Lời tán tụng đó lại càng làm bà
Đổng Ngạch thẹn thùng, đỏ mặt đến mang tai. Sợ chị mình quá xấu hổ, bà Phú Sát
vội đẩy chồng ra ngoài phòng, đóng ập cửa lại. Người ta chỉ còn nghe thấy một
tràng cười ầm ĩ đầy thích thú của vị vương gia có cái máu đa tình. Đổng Ngạch
cũng cáo từ Phú Sát, ra khỏi vườn Viên Minh về nhà.
Bảo Thân vương từ khi gặp Đổng
Ngạch, lúc nào miệng cũng nhắc tới tên người đẹp đã được dịp tặng lén một cái
hôn.
Rồi cũng từ đó, vương chẳng
thèm ra phố, tới các chốn thanh lâu nữa. Hết ngày này đến ngày khác vương chỉ
ngồi lì, mơ tưởng đến hình dáng yêu kiều của người đẹp, cơm lắm bữa chẳng muốn
ăn, ngủ lắm đêm chẳng thành giấc…
Hồi 67: Ung Chính Hoàng đế bị chặt đầu
Từ ngày gặp người đẹp
Đổng Ngạch, Bảo Thân vương không lúc nào là không nhớ tới cái khuôn mặt xinh
xắn duyên dáng ấy. Mũi vương hình như lúc nào cũng còn ngửi thấy mùi hương kỳ
lạ của phấn hoa phảng phất trên chiếc má trắng nõn nà như tuyết của người đẹp.
Đối với vương, chi có phấn ấy, hương ấy mới thật là hương là phấn. Vương thường
bảo phúc tấn của mình cho người đi mời bà chị vào vườn Viên Minh chơi, để lòng
vơi được niềm mong nhớ.
Nàng Đổng Ngạch vốn người tinh
ranh. Hễ thấy Bảo Thân vương bén mảng vào cung thì vội lánh mặt ngay, khiến
vương càng muốn gặp hơn, càng mơ tưởng nhiều hơn. Đáng tiếc cho vương là đã bao
ngày tháng rồi mà vẫn chưa có cơ hội tốt nào để "liều mình" một
chuyến cho thoả nguyện. Bà Phú Sát cũng hiểu lòng vương nên mỗi khi Đổng Ngạch
tới thăm đều cho đưa vào phòng kín để trò chuyện với nhau, không cho vương được
gặp mặt.
Bảo Thân vướng đã lâu không
được gặp mặt nàng Đổng Ngạch, trong lòng nóng nẩy chẳng khác gì kiến bò trên
chảo rang. Vương có một thái giám còn nhỏ tuổi tên gọi Tiểu Phú Tử, rất lanh
lẹ. Thấy vương gia có bầu tâm sự não nề, Phú Tử thì thầm hiến kế, như vậy, như
vậy… quyết rằng vương gia sẽ được như nguyện. Bảo Thân vương nghe kế sách của
Phú Tử, luôn miệng khen rồi giục Phú Tử mau thực hiện diệu kế.
Tiểu Phú Tử vâng lệnh Bảo Thân
vương, trước hết tới quán Thanh Hương trong rừng trúc ở giữa vườn Viên Minh đặt
giường bày kinh rồi cho hai tên tiểu thái giám cùng hai thị nữ kéo một cỗ xe
tới nhà Thương Minh mời nàng Đổng Ngạch. Nàng Đổng Ngạch thấy bà Phú Sát thường
cho thí nữ lại đón, nên không nghi ngờ gì cả, bèn chải qua mái tóc, trang điểm
lại chút ít rồi lên xe cho chúng đưa đi.
Đúng lệ thì xe phải dừng lại
ngoài cổng Tảo Viên, để cho tám tên tiểu thái giám khác khiêng kiệu đưa vào
vườn. Đằng này cỗ xe loanh quanh hết ngả này tới ngả khác, đi đã khá nhiều
đường đất. Gặp mùa hạ, trời nóng bức oi ả, ai nấy đều mồ hôi nhễ nhại.
Xe chở nàng Đổng Ngạch vào sâu
trong vườn, ngang chỗ có cây cối xum xuê, gió mát vi vu thổi. Nàng cảm thấy
khoan khoái dễ chịu, ngồi trên xe mắt ham ngắm cảnh đẹp, bất giác tới một nơi
hết sức mới mẻ lúc nào không biết. Cỗ xe đứng lại. Hai thị nữ đỡ Đổng Ngạch
bước xuống. Nàng đưa mắt nhìn quanh, thấy bốn bề toàn là rừng trúc vây quanh
một toà trang viện nhỏ. Tai nàng nghe tiếng gió thổi vào khóm trúc ngân nga như
một điệu nhạc nhẹ nhàng thanh thoát.
Cả bọn tiến vào trang viện. Một
phòng khách nằm ngay ở phía trước, trên treo tấm biển đề năm chữ "Trúc lâm Thanh Hương
quán". Bước vào phòng, nàng Đổng Ngạch thấy trên bốn mặt tường đều
treo những bức tự hoạ (bức vẽ
bằng chữ) còn bàn ghế toàn
bằng tre trúc màu ngà. Căn phòng trang hoàng hết sức thanh nhã.
Hai thị nữ đưa Đổng Ngạch vào
phòng bên. Nàng thấy nơi đây nào là rèm châu, giường ngà, nào là trướng gấm,
bình ngọc. Trên giá gương bày đủ bộ trang điểm. Một chiếc bàn cạnh đấy, bên
trên có chiếc đĩa lớn chất đầy các thứ trái cây ngon lành. Một cái chậu bằng
thuỷ tinh nuôi cá vàng đặt trên chiếc án thư ngay trước cửa sổ. Bên ngoài cửa
sổ, trồng một loại trúc lá xanh biếc, quần áo của mọi người đứng bên trong cũng
mang một màu xanh phơn phớt.
Nàng Đổng Ngạch quan sát một
lượt, bất giác thốt ra lời khen, trong khi hai thị nữ đứng phía sau quạt lấy
quạt để cho nàng. Rồi một đứa thị nữ khác dâng trà lên. Nàng Đổng Ngạch bèn
hỏi:
- Sao chưa thấy phúc tấn của
bọn mày?
Một đứa đáp:
- Phúc tấn đang tắm rửa tại Hà
Tĩnh Tiên, có dặn mời Cửu thái thái ngồi chơi một lát.
Nàng Đổng Ngạch nghe đoạn,
chẳng hỏi thêm. Một lát sau, hai thị nữ khá lớn tuổi, bưng một khay lớn đủ đồ
trang sức, và nói:
- Xin mời Cửu thái thái cũng
hãy tắm gội đi.
Nàng Đổng Ngạch vốn tính sợ
nóng, ở nhà thường tắm gội luôn, nên nghe nói vậy thì mừng lắm. Thế là bọn thị
nữ vội cởi áo, cất đồ trang sức cho nàng, rồi đưa nàng vào một căn phòng kín để
tắm gội. Tắm xong trở ra, nàng được bọn thị nữ giúp trang điểm lại. Rồi một bàn
tay cài cho nàng đoá hoa lan vào mái tóc. Nàng Đổng Ngạch nhìn vào kính, thấy
người giắt hoa vào tóc mình chẳng phải thị nữ nào mà chính là Bảo Thân vương,
giật mình mắc cỡ đến nỗi đôi má ửng hồng tới tận mang tai, chỉ còn biết ngồi
cúi đầu lặng thinh trước đài gương. Tuy nhiên, đôi mắt nàng vẫn lấm lét quan
sát cử chỉ của Bảo Thân vương. Nàng thấy vương quỳ gối trên nền nhà, luôn miệng
gọi:
- Nàng tiên xinh đẹp của tôi
ơi! Sau khi được gặp chị rồi xa chị, tôi thấy như mình phải sống một cuộc đời
vô nghĩa. Hôm đó, tôi mê đắm quá, đành hôn trộm một cái vào má chị, mùi hương
ngào ngạt như vẫn còn vương vấn tới nay. Thật tội nghiệp cho tôi, ngày quên ăn,
đêm quên ngủ. Lúc nào tôi cũng chỉ nhớ tới chị. Bao nhiêu đàn bà con gái dưới
cõi thế này, tôi chẳng thèm để ý tới ai nữa. Cầu xin chị đoái thương tôi. Chị
có thấy không? Gần đây thân hình tôi gầy ốm tiều tuỵ cũng chỉ vì tưởng nhớ tới
chị. Nếu chị không thương tình mà cứu giúp thì tính mạng này chắc không còn bảo
toàn được nữa.
Nói đoạn, Bảo Thân vương khóe
thút thít như trẻ con, vừa khóc vừa lấy khăn chấm nước mắt. Nàng Đổng Ngạch
nhận ra đó chính là khăn của mình. Vương nói tiếp:
- Chị cứ yên tâm! Mọi việc hôm
nay tôi đã xếp đặt chu đáo Khu vườn này ở phía cực tây, rất xa nơi phúc tấn em
gái chị. Bọn thị nữ và thái giám hầu hạ nơi đây đều là người tâm phúc của tôi.
Nếu chị thuận tình, tôi quyết rằng bên ngoài không một ai có thể biết được.
Nhưng nếu chị không bằng lòng, kêu la rầm lên, lúc đó mặt chị cũng như mặt tôi
từ nay coi như bỏ rồi. Hơn nữa, nếu chị có kêu la rầm lên, thì nơi đây hoang
vắng, chẳng có ai nghe thấy đâu, rốt cuộc chỉ làm cho mối giao tình tốt đẹp
giữa đôi ta trở nên bẽ bàng mà thôi. Chị cứ vui lòng cho tôi đi, tôi sẽ không
bao giờ quên ơn đức của chị, cho tới lúc già, lúc chết. Còn nếu chị không vui
lòng cho tôi thì tôi chi xin một cái chết, chết ngay trước mặt chị để làm một
tên quỉ phong lưu dưới suối vàng cũng mãn nguyện rồi.
Vừa nói, Bảo Thân vương vừa rút
trong bọc ra cây bảo kiếm nhỏ rồi nhè cổ mình đâm tới. Biết Bảo Thân vương vốn
là người anh hùng, tương lai còn là vị vua kế nghiệp nữa, Đổng Ngạch bỗng nảy ý
cảm mến. Bảo Thân vương lại khéo miệng, một điều chị tốt, hai điều chị đẹp,
khiến tính tự ái đàn bà của nàng được thoả mãn. Rồi đến lúc vương rút dao đòi
tự tử, thì lòng nàng đã nhiều phần thương yêu rồi. Còn một việc bất khả kháng
cho nàng nữa, khi ra khỏi phòng tắm, nàng chỉ khoác có mỗi tấm áo lụa mỏng
tanh, thân hình ngà ngọc của nàng trông rõ mồn một qua làn lụa mỏng. Khi đưa
nàng vào tắm, bọn thị nữ lại để xiêm áo trên chiếc giường mà Bảo Thân vương
đang ngồi, chẳng dễ đàng mà lấy được. Mà có lấy được đi nữa, thì trước mặt
vương, nàng cũng chẳng thể mặc vào. Đổng Ngạch thấy khó xử quá, bất giác thở
dài như tỏ ý phó mặc, rồi quay ngoắt lại, cướp vội cây bảo kiếm trong tay
vương, chĩa ngón tay chỏ ấn vào trán vương mà bảo:
- Ông thật là oan gia kiếp
trước của tôi rồi!
Bản Thân Vương nhân cơ hội liền
ôm lấy Đổng Ngạch.
Thế rồi kẻ vờ đẩy ra, người cố
kéo vào, hai bên giằng co một hồi, cuối cùng thì vương cũng toại nguyện.
Việc xong xuôi, Bảo Thân vương
tự tay mình lấy quần áo mặc cho Đổng Ngạch, hai người quyến luyến chẳng nỡ rời
nhau, hệt như một cặp vợ chồng trong tuần trăng mật.
Thời gian sao chóng quá! Chẳng
mấy chốc trời đã đổ tối, Bảo Thân vương đưa người đẹp ra khỏi phòng. Lúc lâm
biệt, Đổng Ngạch đưa làn thu ba lóng lánh lườm Bảo Thân vương một cái, rồi mắng
yêu vương một tiếng: "Đồ quỉ" rồi mới chịu lên xe.
Bảo Thân vương trong lòng vui
sướng như điên. Thế rồi từ đó hai người hễ có gặp dịp lại lẻn ra khu rừng trúc
thanh vắng u nhã này để tìm vui hưởng thú.
Trời đã sang thu, bắt đầu lạnh.
Hôm đó Bảo Thân vương cùng nàng Đổng Ngạch phải kéo nhau vào một căn phòng kín
trong Lộ Hương trai để thủ thỉ với nhau. Giữa lúc cặp nhân tình đang hú hí,
bỗng từ phía thư viện Bích Đồng bên kìa tường dội ra một tiếng gầm vang dậy,
tiếp đó là tiếng người la hét ầm ĩ…
Bảo Thân vương vội rời nàng
Đổng Ngạch, chạy qua phía thư viện. Vương vừa bước được một chân vào trang viên
thì đã thấy bọn thái giám lớn nhỏ hất hoảng xô ra, miệng lắp bắp bảo vương:
- Đầu của Hoàng thượng chẳng
thấy đâu cả!
Toà thư viện Bích Đổng vốn là
nơi Ung Chính hoàng đế hằng ngày duyệt xét mọi văn bản, tấu chương của triều đình.
Hoàng đế ở trong cung bị câu thúc nhiều điều, lại thường muốn gặp Bảo Thân
vương, cho nên mới tới đây tạm ở ít lâu. Từ lúc tới ngài cho thiết lập Tôn nhân
phủ như cũ ngay tại sau cửa Đại cung, với đủ các cơ quan như một triều đình thu
nhỏ: Lại bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Đô sát viện, Lý phiên viện, Hàn lâm viện, Chiêm sự
phủ, Quốc tử giám, Loan nghi vệ và các nha môn Đông Tứ Kỳ. Về phía tây Đại
cung, ngài cho thiết lập Hộ bộ, Hình bộ, Công bộ, Khâm thiên giám, Nội vụ phu,
Quan lộc tứ, Thông chính ty, Đại lý tụ, Hồng lộ tự, Thái thường tự, Thái lộc
tự, Ngự thư xứ, Thượng tứ viện, Võ bị viện và các nha môn Tây Tứ Kỳ.
Hằng ngày, Ung Chính hoàng đế
toạ triều tại điện Chính Đại Quang Minh. Đã một năm qua, mọi việc đều vẫn yên
ổn, trôi chảy.
Không ngờ hôm đó bỗng xảy ra
việc động trời là hoàng đế bị mất đầu. Mỗi khi tới mùa thu, Ung Chính hoàng đế
đều ở trong Bích Đồng thư viện phê duyệt tấu chương. Trước án thư của ngài cũng
như chung quanh viện đều có thị nữ và thái giám đứng hầu kín cả. Quân cấm vệ
vẫn chiếu lệ cũ canh phòng khắp nơi. Trời tối, bọn thái giám đốt đèn lên. Hoàng
đế giở xem tấu chương dưới ánh đèn, bỗng từ trong chòm lá rậm khóm ngõ đồng,
hai đạo bạch quang bay vèo tới trước viện, tọt vào trong, rồi quanh đi quanh
lại một hồi, rút cuộc chẳng thấy đâu nữa.
Bọn thái giám và cung nữ vừa
thấy hai đạo bạch quang bay vụt tới, không kịp mở miệng kêu la đã bị mê mụ đi
luôn.
Đến khi tỉnh lại, chúng đã thấy
thân hình hoàng đế vật ra trên nền nhà. Chúng vội chạy tới nâng dậy, nhưng
chẳng còn thấy đầu hoàng đế đâu nữa. Chúng hoảng quá, rồi không đưa nào bảo đứa
nào, tất cả bỗng đều rú lên những tiếng ghê khiếp, vang động cả thâm cung. Bọn
thị vệ đại thần nhất tề chạy ồ tới. Thấy cảnh ấy, anh nào anh nấy mặt xám lại
như tàu lá, đôi chân run lên như muốn khuỵu, chẳng còn có chủ ý gì nữa.
Một lát sau, Bảo Thân vương
cùng bọn phi tần hối hả kéo tới. Chui từ trong đám đông ra, Vương ôm lấy xác
phụ hoàng mà khóc ầm lên. Nhưng chỉ giây lát sau, Bảo Thân vương đã bình tĩnh
trở lại, cho nội giám đi mời cấp kỳ hai vị đại thần là Ngạc Nhĩ Thái và Sử Dĩ
Trực tới thương nghị đại sự Bọn nội giám chạy ra khỏi vườn Viên Minh, nhảy tót
lên ngựa chia nhau đi hai ngả. Ngạc Nhĩ Thái lúc đó đã sắp ngủ, bỗng nghe tiếng
đập thình thình ngoài cổng lớn. Gia bộc vừa mở cổng thì tên nội giám đã chạy
xộc vào, mồ hôi nhễ nhại đầy mặt, miệng thở hổn hển, nói không thành tiếng:
- Mau…mau nói, nói… với đại
nhân là hoàng thượng mất… mất đầu rồi!
Câu nói đó vọng cả tới tai Ngạc
Nhĩ Thái. Thái hoảng hồn bạt vía, chẳng hiểu ra sao, vội nhảy từ trên giường
xuống, cuống quýt bổ nhào ra, chẳng kịp cho thắng ngựa của mình nữa, nhảy đại
lên lưng ngựa của tên thái giám, giật cương phóng như điên vào ngả vườn Viên
Minh. Tới cổng vườn, Thái nhảy xuống ngựa, chạy vội vào thì đã thấy Sử Dĩ Trực
tới trước rồi. Nhưng lúc này có phải lúc hỏi han nhau nữa đâu. Họ chỉ biết hè
nhau đi tìm đầu của hoàng thượng. Đó là điều tối hệ trọng và tối cần thiết! Cả
bọn chong đèn đốt đuốc, tìm kiếm khắp chốn cùng nơi, cuối cùng lại là nàng Huệ
phi thấy cái đầu bị nhét vào trong quần lót của hoàng đế. Huệ phi ôm cái đầu
máu me đã bầm đen lại, trông ghê khiếp hết chỗ nói, mà nức nở khóc. Cảnh tượng
thật hết sức thảm thê.
Nàng Huệ phi vốn là vợ của
Hoằng Triết, con dâu của hoàng tử Dân Nhung và cũng là cháu dâu của Ung Chính
hoàng đế. Nàng bị Ung Chính cưỡng bức vào cung nhưng được đối đãi ân tình và
được phong làm Huệ phi. Rồi nàng đã quên hẳn chồng cũ. Thấy Ung Chính hoàng đế
chết một cách thê thảm, nàng không dấu nổi bi thương, khóc lóc thảm thiết.
Ngạc Nhĩ Thái lắp cái đầu vào
thây Ung Chính hoàng đế rồi sai bọn cung nhân tắm rửa và mặc quần áo vào cho
ngài.
Sau đó, Thái cùng với Sử Dĩ
Trực hè nhau chạy tới điện Chính Đại Quang Minh, lấy đằng sau tấm biển ra một
cái hộp vàng.
Họ mở nắp hộp kéo ra tờ di
chiếu, khi đọc lên mới biết di chiếu đã ghi rõ hoàng tử thứ tư là Hoàng Lịch
được kế vị hoàng đế.
Thái và Trực lập tức quay lại
bệ kiến Bảo Thân vương, đem theo năm trăm quân Dũng Kiện tiến vào kinh thành,
đến Thái Hoà điện, đánh trống gióng chuông vang dậy. Khắp triều văn võ được
lệnh triệu, vội tụ tập tại triều phòng. Ngạc Nhĩ Thái, mắt đầy lệ, bố cáo cho
mọi người biết việc hoàng thượng bị giết ra sao. Bọn đại thần vây quanh Thái và
Trực, im lặng nghe. Tới chỗ thương tâm nhất, bỗng một tên nội giám chỉ Ngạc Nhĩ
Thái bảo:
- Ngạc Trung đường! Ông còn mặc
cái áo cộc kia thì làm sao mà thượng trào?
Câu nói của tên nội giám làm
cho Thái giật mình, sực nhớ ra rằng lúc ra đi quá vội, quên cả áo ngoài. Lập
tức, Thái sai người về nhà lấy đủ mũ áo tiến phục cho mình. Giữa lúc đó, Sử Dĩ
Trực bỗng nhớ ra một chuyện, quay lại bảo bọn đại thần:
- Hoàng thượng bị cắt mất đầu,
nói ra chẳng đẹp gì. Huống hồ việc này xảy ra, bọn thần tử chúng ta đều có tội
cả. Nếu ta cho đóng cửa thành lại, một mặt lục soát trong thành, một mặt gửi
văn thư đi các tỉnh, cho các nha môn văn võ lùng bắt hung thủ, tất nhiên tiếng
tăm đồn đại khiến dân chúng đồn đại xuyên tạc, như vậy há chẳng phải làm trò
cười cho thiên hạ? Theo ý kiến của hạ quan thì chi bằng ta dấu quách chuyện này
đi, một là để giữ thể diện cho tiên đế, hai là để có thể tránh được không nhiều
thì ít những chuyện lộn xộn về sau. Bọn ta nên sửa đổi lời di chiếu sao cho mọi
người tin rằng Tiên đế bị cấp bệnh mà mất thì mới ổn được.
Ngạc Nhĩ Thái đứng cạnh cho là
phải, luôn mồm khen đúng.
Thế là Thái cầm bút sửa đổi
ngay lời chiếu, Văn quan thì có Thái cầm đầu; võ quan thì có Sử Dĩ Trực điều
khiển, tất cả tiến vào Thái Hoà Điện.
Cả một đám đông, nào thân
vương, bối lặc, bối tử, nào lục bộ cửu khanh, văn võ quan viên nhất loạt quỳ
xuống. Ngạc Nhĩ Thái bước lên điện, tuyên đọc di chiếu.
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét