Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

21 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 81-86

Hồi 81: Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt

Hoàng hậu Phú Sát đi thẳng vào ngự sàng, chẳng báo hiệu để ai đó đánh thức Càn Long hoàng đế. Bỗng bà quỳ xuống đất, rút phắt chiếc trâm cài đầu, để cho mái tóc mây xoã buông rơi tận đất. Bà rút trong bọc ra bản "Tổ huấn" đọc vang lên giữa lúc hoàng đế đang ôm hai gái lầu xanh ngủ miết. Hai ả này không dám nhắm mắt từ khi đi nằm, bỗng thấy một bà có vẻ quý phái bước vào, biết rằng bà này hẳn chẳng phải bọn phi tần tầm thường nên khẽ lay lay hoàng đế.
Càn Long hoàng đế giật mình tỉnh dậy, nghe có người đọc lời "Tổ huấn" đành nhảy ra khỏi đống chăn, vội mặc áo, quỳ ngay trên đống chăn, cung kính nghe. Đợi khi lời Tổ huấn đã đọc xong, ngài bước xuống giường hầm hầm nổi giận, hết hàm ngó thẳng mặt hoàng hậu gắt hỏi:

- Hậu xuất kinh hồi nào?

Hoàng hậu cúi đầu đáp:

- Không tâu rõ cho hoàng thượng hay, thần thiếp thật đáng tội muôn thác, thần thiếp xuất cung cùng lúc với hoàng thượng. Rồi từ đó, thần thiếp ở hầu hạ Thái hậu nên chưa tới thỉnh an hoàng thượng được.

Nghe nói câu này, Càn Long hoàng đế lại càng giận tức thêm. Ngài cười nhạt nói:

- Rõ khéo cho một bà hoàng hậu chẳng biết thể thống là gì! Hậu lẻn theo gót trẫm phải chăng để giám sát hành động của trẫm?

Câu hỏi này đánh trúng ngay tim bà Phú Sát nên bà không trả lời được. Càn Long hoàng đế lại hỏi tiếp:

- Hậu lẻn theo gót trẫm để giám sát hành động của trẫm cũng được đi. Nhưng giữa lúc đêm khuya, hậu xông vào phòng ngủ của trẫm có phải để mưu sát trẫm không?

Câu này quả hết sức nặng nề! Hoàng hậu uất giận đến biến hẳn sắc mặt. Bà ứa đôi hàng lệ nói:

- Hoàng thượng vu vạ thế, bảo tiện thiếp làm, sao chịu nổi. Tiện thiếp đã giữ ngôi trung cung tỷ, đương nhiên thánh giá có bề gì đó là bổn phận của tiện thiếp phải hầu hạ lo toan. Nay nghe nói hoàng thượng có những hành vi quá đáng, tiện thiếp phải liều mình tới khuyên can. Nếu đến ban ngày thiếp e sợ lộ hình tích mất cả thể thống, nên mới nhè lúc đêm khuya mà tới, những mong hoàng thượng suy nghĩ lại. Bọn con gái gió trăng, ai cũng làm chồng được. Hoàng thượng chớ nên gần chúng, nếu có điều gì bất trắc, có phải tiện thiếp tội đáng muôn thác không?

Bị hoàng hậu phá mất giấc mộng đẹp, Càn Long hoàng đế trong lòng đã lấy làm tức giận rồi. Nay lại nghe bà nói như răn dậy, ngài chịu không nổi nữa. Ngài đập mạnh tay vào chiếc chuông nhỏ ở đầu giường, tức thì bốn tên thái giám vội vã bước vào, Ngài chỉ vào hoàng hậu và hất hàm quát bảo:

- Kéo ngay ra cho ta.

Bọn thái giám chẳng dám trễ nải, cung kính bước tới, nâng hoàng hậu đứng dậy. Bà vừa khóc vừa nói:

- Nếu hoàng thượng bất chấp cả danh vị của thần thiếp thì cũng xin nhớ tới tình nghĩa vợ chồng ân ái một thời, sao lại có thể vô tình đến thế được? Hoàng thượng tức giận đến đâu mặc dầu, thần thiếp cũng chỉ xin hoàng thượng xem cho hết bản tấu chương này, lúc đó thần thiếp dù có chết cũng cam lòng, chẳng dám oán hận.

Nói đoạn, bà dâng cao bản tấu chương lên qua đầu. Hoàng đế chẳng còn cách nào khác, đành phải tiếp lấy tờ sớ. Ngài mới xem ước được độ vài dòng, thấy ý kiến trong sớ nào so ngài với Tuỳ Dạng Đế, nào sánh ngài như Chính Đức Đế, bất giác nổi khùng ném toẹt xuống đất, chạy tới, giơ thẳng cánh tát vào má trái, tiếp theo một tát nữa vào má phải, mạnh đến nỗi đôi má của hoàng hậu đỏ rực lên như gấc chín, miệng trào máu ra có giọt. Bọn thái giám vội chạy tới che đỡ cho bà.

Càn Long hoàng đế lúc đó giận hầm hầm, vội lấy chiếc mũ trùm đầu chụp vào, chạy ra khỏi khoang nói:

- Đi gặp Thái hậu!

Phú Sát hậu dùng hai gối lết tới mấy bước, chặn ngang lối ra, ôm cứng lấy chân hoàng đế, liều chết không buông.

Bà nghẹn ngào nói:

- Hôm nay hoàng thượng dù có giết ngay thần thiếp cũng xin xem hết bản tấu chương của thần thiếp đã, rồi hãy đi cũng chưa muộn.

Càn Long hoàng đế bị hoàng hậu ôm chặt lấy chân, chẳng còn cách gì thoát được, nên máu giận càng bừng bừng, ngài co căng lên, lấy hết sức đạp bà. Thương thay cho hoàng hậu bị cái đạp mạnh, đau quá ngất luôn.

Càn Long hoàng đế chẳng thèm quay đầu nhìn lại, xông thẳng ra mũi thuyền, nhảy lên bờ, có thị vệ kèm bên, chạy thẳng tới thuyền của Thái hậu. Lúc này trời đã sáng, thái hậu đang trang điểm. Bọn thị nữ vào tâu:

- Có đức vạn tuế giá tới!

Thái hậu bất giác giật mình. Bà vội nhìn ra thì thấy hoàng đế ăn vận hết sức lôi thôi, mặt hầm hầm, bước vội vào khoang. Ngài chỉ kịp vấn an Thái hậu, xong là kể ngay ra tội của hoàng hậu; nào kiếm chuyện gây gổ, nào làm mất thể thống triều đình. Ngài còn thêm:

- Đã xông vào lúc đêm khuya là có lòng bất trắc, xin thái hậu hạ chiếu "tứ tử" (cho lệnh để tự vận mà chết).



Hoàng thái hậu nghe lấy làm lạ bèn nói:

- Ta vừa nghe tâu hoàng hậu vẫn đang ở khoang sau vậy còn có hậu nào tới ngự chu nữa?

Nói đoạn, bà cho gọi ngay bọn thái giám và cung nữ hầu hạ hoàng hậu tới, truyền lệnh lôi viên thái giám tổng, quản ra ngoài dùng côn đập chết, một mặt sai thái giám cầm cờ tiết của thái hậu sang ngự chu triệu hoàng hậu về.



Một lát sau, hoàng hậu về tới. Hoàng thái hậu nhìn cô con dâu đầu bù tóc rối, máu lệ đầy mặt, thở dài nói:

- Đến thế này thì thể thống hoàng hậu còn gì nữa chứ?

Hoàng hậu Phú Sát chỉ khóc mùi, chẳng nói được câu nào.

Càn Long hoàng đế ngồi bên cứ một mực giục thái hậu hạ chiếu "tứ tử" hoàng hậu. Thấy hoàng đế không còn lấy một chút tình nghĩa lửa hương nào nữa, trong lòng hoàng hậu bất giác nguội lạnh như tro tàn. Bà thừa lúc mọi người chung quanh sơ hở, bèn chạy ra mũi thuyền, nhảy đại xuống dòng sông.

Đáng thương thay một đời mẫu hậu trong chốc lát đã theo ngọn sóng trôi xuôi mất tung biệt tích. Đứng trước hành động ấy của người vợ đau khổ như thế mà Càn Long hoàng đế vẫn thản nhiên, coi như một kẻ xa lạ không liên hệ gì với mình. Thật đáng buôn cho nhân tình thế thái!

Đến lúc này thì Thái hậu chợt cảm thấy nỗi lòng hoàng hậu thật đáng thương. Bà vội truyền lệnh tìm kiếm, dù hoàng hậu còn sống hay đã chết. Hai bên bờ, bọn binh sĩ cùng dân chúng, ai nấy hối hả kẻ lao xuống nước, người nhẩy lên thuyền, thượng lưu cũng như hạ lưu khúc sông đầy nghẹt những người là người, mãi khi tới mé dưới cầu Ngọc Long mới thấy. Hoàng hậu lúc này đã uống, no nước, mê man không còn biết gì nữa.

Bọn thái giám ba chân bốn cẳng khiêng hoàng hậu chạy bộ lên thuyền, đặt nằm tại khoang sau. Bà mửa ọe ra không biết bao nhiêu nước, lúc đó mới tỉnh lại. Bà nằm liệt giường luôn ba ngày chẳng dậy được, lòng hết sức đau đớn, chẳng khác gì muôn mũi tên đâm xỉa vào. Qua ngày thứ tư, lòng bà bỗng thấy thư thái lạ thường.

Chủ ý đã định, bà thừa lúc bọn cung nữ không có ở bên cạnh, bèn rút cây dao bằng vàng trong tay áo ra rồi xoẹt một tiếng, đã cắt gọn mớ tóc mây sát tận đến chân. Bà bước lên khoang trước cầu khẩn Thái hậu gia ân cho bà vào chùa quy y cửa Phật.

Hoàng Thái hậu thấy sự việc đã đến nước này, không còn cách gì cứu vãn được nữa, bèn nâng Hoàng hậu dậy rồi nói:

- Khi qua Sơn Đông, ta thấy cạnh hồ Đại Minh có một toà Thanh Tâm am, sơn thuỷ hữu tình, có thể tịnh tâm tu hành được. Nay ta cho người đưa ngươi tới đó ở tạm. Đợi khi nào hoàng thượng hồi loan, ta sẽ đưa người về kinh, người bằng lòng như vậy chứ?

Phú Sát hậu nghe nói, quỳ xuống tạ ơn. Lúc đó Thái hậu mới cho gọi bốn tên tiểu thái giám tới, dặn chúng mướn một chiếc thuyền lớn đưa hết quần áo đồ đạc của hoàng hậu xuống, mời hoàng hậu qua thuyền rồi đưa bà thẳng tới Thanh Tâm am ở phủ Tế Nam.

Bọn văn võ quan viên tỉnh thành Sơn Đông thấy hoàng hậu giá tới, nhất tề chạy đến đón rước. Từng đoàn quyến thuộc của bọn quan viên cung nườm nượp đến hầu hạ, dâng lễ cho bà.

Từ sau hôm vào am, Phú Sát hậu chỉ bầu bạn với một bà ni già. Nhất thiết quan viên phủ huyện lui tới thăm viếng, bà đều tạ tuyệt. Mãi về sau bà được tin hoàng Thái hậu và hoàng đế đã về kinh cả, lại biết tin hoàng thượng hạ chỉ truất phế danh hiệu Hiếu Hiển hoàng hậu của bà. Được tin này, bà khóc ròng ba ngày ba đêm, một hột cơm cũng không ăn. May nhờ được bà ni cô già khuyên can an ủi mãi bà mới bỏ ý định tuyệt thực.

Người đời thường bảo "hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai". Điều này sai ở đâu chứ nhất định đúng đối với hoàng hậu Phú Sát. Từ khi bị Càn Long hoàng đế truất phế thì sự cung dưỡng của bọn quan lại địa phương cũng đoạn tuyệt từ đó bọn quan gia quyến thuộc chẳng thèm lui tới hỏi han, ngay cả ni cô già cũng lạnh nhạt với bà nữa. Bốn tên tiểu thái giám hầu hạ bà lâu nay nghe tin đó cũng bỏ bà mà đi luôn mất ba, chỉ còn lại có một. Tiếp đến đêm hôm rầm tháng tám, bỗng có hơn mười tên cướp băng cửa am nhảy vào, chẳng thèm lấy cái gì khác mà chỉ vét riêng có hòm đựng quần áo và đồ nữ trang của bà. Bà vừa sợ hãi vừa đau khố, đích thân lên cửa quan báo cướp và đòi quan phủ lùng bắt bọn cường đồ. Nhưng viên quan thấy bà đã thất sủng chỉ ầm ừ vâng dạ cho qua. Bọn cường đạo đã biến mất, bà kiểm lại tư trang của bà thì thấy hết sạch chẳng còn sót lại chút gì! Đáng buồn thay cho một bà hoàng cành vàng lá ngọc gặp phải vận xui mà đến nỗi phải nấu cơm làm bếp lấy, duy chỉ còn có một tên tiểu thái giám hầu hạ sớm hôm mà thôi. Sống giữa nơi sơn cùng thuỷ tận, Phú Sát hậu đã có đôi lần muốn thoát nợ trần cho xong nhưng đều nhờ được tên tiểu thái giám cứu sống cả. Từ đó, bà cùng tên tiểu thái giám, hai người cam nghèo chịu khổ, tựa nhau mà sống cho qua ngày đoạn tháng.

Tình cảnh của hoàng hậu thì bi thương như vậy mà Càn Long hoàng đế hình như bịt mắt che tai chẳng ngó ngàng gì tới. Chính giữa lúc bà đang cùng quẫn nhất thì hoàng đế đang say sưa chuốc chén bên gái đẹp. Trong nhóm đại thần tuỳ tùng trong cuộc Nam tuần, có một vị tên gọi Lương Thi Chính, thấy hoàng đế hoang dâm vô độ cũng dâng một tờ sớ khuyên ngài nên gìn giữ mình vàng.

Nhưng Càn Long hoàng đế lúc đó đang lạc vào mê hồn trận thì nào có chịu nghe. Chẳng những thế, ngài còn ra lệnh gọi Chính tới ngự chu cho một bài học nên thân với những câu nói thậm tệ:

- Ngươi được làm Đại học sĩ chỉ là do ý trẫm thấy ngươi làm thơ hay. Nuôi ngươi cũng như nuôi gái lầu xanh, bất quá chi để mua vui mà thôi. Ấy thế mà ngươi lại dám cả gan can thiệp tới công việc của trẫm nữa à?

Bài học nhục nhã này làm cho bá quan văn võ tái xanh mặt mày, từ đó anh nào cũng khoá mồm buộc lưỡi lại, chẳng dám khuyên can nữa.

Càn Long thấy mình ở trong ngự chu có bọn nội giám, thị vệ đông đảo hầu hạ, tai mắt ắt nhiều, không thể nào chơi bời phóng túng được. Bởi vậy, ngài bàn tính với mấy tên thái giám thân tín, đợi tới đêm khuya, vi hành tới hẳn các tổ quỉ cho tự do thoải mái hơn. Nhờ những đêm vi hành này, ngài được biết, qua cửa miệng của bọn chơi, là tại đất Tô Châu, gái làng chơi xinh đẹp nhất phải kể Ngân Hồng. Ngân Hồng còn có một cô em gái tên gọi Tiểu Hồng. Nếu đem sánh với chị, Tiểu Hồng e còn có phần đẹp hơn. Song Tiểu Hồng tính tình lạnh nhạt, ít chịu tiếp khách, bởi vậy nàng vẫn còn là một xử nữ. Dò được tin này, hoàng đế tỏ ra thích lắm. Ngài bèn buộc tên thái giám phải đưa tới nhà Ngân Hồng.

Không ngờ Càn Long hoàng đế đi chuyến này luôn một lèo bảy ngày chẳng thấy về thuyền, hoàng Thái hậu cung quan viên văn võ Tô Châu hoảng sợ bấn loạn cả lên. Phú đài Giang Tô vội phát lạc toàn ban tuần bộ hợp lực cùng bọn khoái huyện Nguyên Hoà bủa đi khắp nơi trong thành ngoài chợ, hang cùng ngõ hèm, phố lớn đường con, tra xét tìm kiếm rầm rộ om sòm…

Mãi đến ngày thứ tám người ta mới biết được tin hoàng đế. Thì ra ngài bị người ta bắt trói trong chuồng ngựa. Nhờ được một tên giữ ngựa chạy tới nha môn phủ đài báo tin, bọn văn võ quan viên mới được biết, bèn hối hả tới đón hoàng đế đưa về thuyền. Thái hậu lúc đó mới yên tâm. Tại sao hoàng đế lại bị nhốt trong chuồng ngựa. Câu chuyện khá ly kỳ xin xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi 82: Ai đã trói càn long trong chuồng ngựa

Ở đất Tô Châu có một kẻ tên gọi Ác Thiếu hoành hành bất pháp. Suốt ngày Thiếu gây tiếng thị phi khắp chốn.

Thiếu lại còn cái bệnh hiếu sắc. Cô gái nào có chút nhan sắc là thế nào cũng bị Thiếu cưỡng chiếm. Khắp làng chơi đố kẻ nào dám ra tay can thiệp. Sở dĩ dám hoành hành bất pháp như vậy là vì Thiếu ỷ thế cậy cha làm Đại đồng tổng binh, cậy trong nhà có tiền, lại còn ỷ vào bọn em út, toàn là những tên to cao lực lưỡng, tới đâu là đòi đâm chém ở đó, khiến ai thấy cũng phải sợ hãi. Do đó người trong vùng mới cho Thiếu cái biệt hiệu là Tiểu Bá Vương.

Người mà Tiểu Bá Vương yêu quý nhất là Ngân Hồng. Nói đến Ngân Hồng, thì toàn thể xóm yên hoa đều phải xin nhường giải nhất. Lần này, Ngân Hồng được hoàng đế triệu hạnh. Nhưng nàng cậy thế lực của Tiểu Bá Vương, nhất định không chịu tiếp giá. Thực ra tâm tình của Ngân Hồng đã dành riêng cho một người tri kỷ khác chứ chẳng phải Tiểu Bá Vương. Người đó là Từ Đại Hoa, con trai của quan Hàn lâm họ Từ. Hoa vốn người niên thiếu phong lưu, mỹ mạo. Chỉ vì Tiểu Bá Vương chiếm cứ mất nhà của Ngân Hồng nên Hoa không thể công nhiên ra vào. Tuy vậy Hồng, Hoa hai người cũng đã qua mắt được Tiểu Bá Vương đôi ba lần để tư ước cùng nhau.

Từ Đại Hoa đem Ngân Hồng chạy trốn, nhưng chẳng có chỗ ẩn nấp đành phải tìm tới nhà Tiểu Hồng. Trong nhà Tiểu Hồng đang có khách xộp dám bỏ ra một lúc hàng muôn lạng để được gần nàng. Ông khách xộp thấy Từ Đại Hoa với Ngân Hồng tình nghĩa mặn nồng, hiện lâm vào cảnh không chốn yên thân, liền đứng ra can thiệp. Ông bảo Từ Đại Hoa:

- Các người cứ việc ở đây, có gì mà phải sợ. Ngày mai, ta sẽ giúp người san phẳng nỗi bất bình và cho tên Tiểu Bá Vương kia một bài học cho xem.

Tiểu Hồng thấy ông khách chịu giúp chị mình thoát nguy, tỏ ý hết sức kính trọng. Đêm đó nàng hầu rượu, chuốc chén cho ông khách, lại tặng ông cái đêm đầu của cuộc đời người con gái nơi phòng the.

Ông khách xộp ở luôn ba hôm tại nhà Tiểu Hồng. Bên ngoài, tình hình càng ngày càng khẩn trương. Tên Tiểu Bá Vương đem theo bọn vô lại đi lùng khắp đường to ngõ cụt khiến Từ Đại Hoa trốn biệt trong nhà, chẳng dám thò cổ ra ngoài.

Nàng Tiểu Hồng bên gối nhỏ to, thôi thúc ông khách nọ.

Qua ngày thứ tư ông khách được tin Tiểu Bá Vương hằng ngày lui tới uống trà tại Phiến Thạnh Sơn phòng, bèn kéo Từ Đại Hoa thẳng tới quán này. Từ Đại Hoa hoảng hồn bạt vía toàn thân run lên bần bật, đến nỗi ông khách phải vỗ vào ngực y mà khích lệ.

Trong quán Phiến Thạch Sơn có một chỗ ngồi đặc biệt, đó là cái giao ỷ bọc gấm. Trước chiếc ghế giao ỷ đặt một cái bàn, trên mặt bàn là một ấm và một chén trà bằng xứ Giang Tây màu trắng đục quý giá. Đây vốn là chỗ ngồi dành riêng cho Tiểu Bá Vương, ấm trà chén trà này cũng chỉ dành riêng cho mình hắn.

Một lát sau, Tiểu Bá Vương mò tới. Từ Đại Hoa nhìn thấy sợ quá, mặt mày xám ngắt lại, hai hàm răng đập vào nhau lập cập. Theo sau Tiểu Bá Vương còn có năm bảy tên đại hán mắt ngang mày xếch, trong tay cầm mấy viên đạn sắt, hè nhau xông tới trước mặt Từ Đại Hoa, hằn học nói:

- Hôm nay mi cũng dám đem thân đến chỗ chết à? Lường gạt phụ nữ, hỏi mi tội gì? Hãy mau nộp xác để khỏi phiền lão gia phải động thủ.

Nói đoạn Tiểu Bá Vương liền kéo ống tay áo của ông khách nọ, ý bảo nhường chiếc ghế giao ỷ lại cho y. Nhưng ông khách xếch ngược đôi mày, nhảy xổm xuống mặt đất, nắm lấy hai chân y xách ngược lên rồi quăng tay một cái. Tức thì người ta chi nghe một tiếng bịch nặng nề giữa đường phế bên ngoài: thì ra ông khách nọ đã cầm hai chân Tiểu Bá Vương quăng qua cửa sổ, rơi bịch xuống đường. Rồi ông cũng nhẩy theo ra.

Bọn em út của Tiểu Bá Vương vội vàng chạy lại cứu. Ông khách nọ liền nhào xuống dùng ngay người Tiểu Bá Vương làm khi giới vung tít tứ phía, hết đập sang đông lại đánh sang tây. Tiểu Bá Vương lấy hai tay ôm đầu kêu gào om sòm, nhưng ông khách nọ mặc kệ, cứ thẳng tay quật lên đánh xuống túi bụi khiến bọn du côn bị một trận tơi bời hoa lá.

Thấy cái sọ của Tiểu Bá Vương đã dập nát, máu ròng ròng, ông khách nọ cười nhạt một tiếng, chửi thề một câu:

- Cút mẹ mày đi nào!

Ông lẳng mạnh tay cho xác hắn lăn lóc dưới đất.

Bọn đại hán thấy thần lực của ông khách nọ, sợ quá vội ôm đầu chuồn lẹ như một lũ chuột. Lão chưởng quản Phiến Thạch Sơn thấy gây án mạng, nhất định không cho ông khách ra đi. Ông đâu có thèm chạy, lại còn bắt gọi chủ quán đích thân quạt nước pha trà để ông cùng Từ Đại Hoa rung đùi thưởng thức.

Chỉ một lát sau người của cha Tiểu Bá Vương tức viên Tổng binh quan, đích thân tới đại bản doanh lấy một ngàn quân rầm rập chạy đến quán trà, bổ vây tứ phía, đến con kiến cũng khó lọt. Ông gân cổ gầm lên:

- Mấy thằng đáng tù đáng chết kia mau xuống đây thọ mạng.

Tiếng gầm của ông rung chuyển cả ngôi quán, khiến Từ Đại Hoa bạt vía hoảng hồn, vội chui ngay xuống gầm bàn, toàn thân run lên bần bật. Ông khách nọ thấy vậy bèn kéo Từ Đại Hoa ra khỏi gầm bàn rồi dắt y cùng bước xuống thang lầu.

Tới giữa chừng, ông hướng về phía bọn quan binh nói lớn:

- Chư vị bất tất phải tức giận. Người đời thường nói "Giết người phải thế mạng". Nay ta đã đánh chết Tiểu Bá Vương bởi vậy việc thế mạng không phải của quan phủ sở tại. Bọn người hãy trói hai người bọn ta lại, đưa nộp cho quan phủ ngay đi.

Viên tổng binh nghe đoạn liền sai người trói ông khách nọ và Từ Đại Hoa lại rồi đưa về nhà mình. Ông khách nọ cũng chẳng chống cự, để mặc cho bọn lính dùng dây thừng vòng bên trái một vòng, vòng bên phải một vòng và cứ thế vòng mãi cho, đến lúc thật chặt, Từ Đại Hoa cũng bị trói gọn lại như ông khách nọ. Trói xong bọn lính dẫn bộ về nhà viên quan tổng binh, chẳng khác gì dẫn dắt mấy con heo, con dê.

Viên quan tổng binh sai đem treo cả hai người lên chuồng ngựa ở vườn sau; đợi đến khi tẩm liệm con trai xong mới đem hai tên tù sát nhân ra để mổ ruột moi gan tế sống.

Ông khách nọ và Từ Đại Hoa bị trói tại chuồng ngựa. Có hai thằng nhỏ giữ ngựa canh gác. Từ Đại Hoa thì cho rằng mạng mình tới đây là đứt rồi, bất giác lệ tuôn ra ròng ròng như suối. Trái lại, ông khách nọ thì lại nói cười tự nhiên, thường gợi chuyện, với hai tên giữ ngựa. Chờ đến lúc một tên chạy ra góc tường đi đái, ông khách nọ liền khẽ gọi tên kia lại gần mìn, nói nhỏ mấy câu. Tên kia nghe, cứ ngây mặt nhìn ông.

Ông khách lại nói tiếp:

- Mi đừng sợ! Nếu mi đưa tin giùm ta, ta sẽ thương cho mi tất cả sản nghiệp cùng vợ con của lão tổng binh.

Thằng nhỏ giữ ngựa nói:

- Cái gì tôi cũng chẳng thích. Tôi chỉ thích có cô ba tiểu thư của ông ta thôi. Cô này đẹp lắm, lại ngoan nữa!

Ông khách nọ gật đầu:

- Ư ừ! Ta sẽ cho mi cưới ngay cô ba tiểu thư ấy.

Tên giữ ngựa nghe xong khoái quá bèn nói:

- Được, tôi tin ông là hoàng đế rồi. Nhưng tôi đi báo tin mà chẳng có giấy tờ gì cả, thì ai tin tôi chứ?

Ông khách nọ bèn gọi thằng nhỏ giữ ngựa lại gần, thò tay vào trong người ông lấy ra một quả ấn nhỏ và bảo nó đem ngay quả ấn tới nha môn quan thì thế nào cũng được tiếp đãi long trọng. Thằng nhỏ giữ ngựa nắm được quả ấn ấy chạy như bay đi.

Giữa lúc đó, ông quan tổng binh đang thu liệm thi thể đứa con. Ông dặn bảo mấy tên đao phủ hễ khi nào thấy thi thể Tiểu Bá Vương được đặt vào quan tài thì lập tức xuống chuồng ngựa kéo hai tên sát nhân lên mổ bụng moi gan tế sống.



Viên tổng binh này vốn ỷ thế cậy công với triều đình, chẳng coi quan lại địa phương ra gì nên thường dùng án tử hình ngay trong nhà mình; tiền trảm hậu tấu. Bọn quan địa phương có biết cũng chẳng dám làm gì. Ông ta đã từng đánh chết một con đầy tớ, một đứa tiểu đồng, lại bức tử một người vợ bé rồi ngang nhiên đem chôn. Những việc động trời như vậy mà chẳng ai dám tố cáo thì thử hỏi lần này ông giết hai tên sát nhân có cả phố làm chứng thì danh chính ngôn thuận biết mấy.

Giữa lúc trong nhà viên tổng binh rối rắm tang ma bỗng có những thanh âm vang rộn ngoài đường. Tên gác cổng vội chạy vào phi báo:

- Toàn thành văn võ quan viên, trên từ tuần phủ, dưới tới huyện lệnh, tất cả đang ùn ùn kéo tới.

Viên tổng binh tưởng các quan viên tới nhà để phúng điếu con mình, vội mặc áo đội mũ, chạy ra tiếp đón. Ông bước tới trước mặc tuần phủ đang định cúi đầu chào thì bỗng nghe tiếng quát "Bắt lấy nó" vang đến điếc cả tai. Tức thì có bốn tên quan trung quân sông tới nắm ngay lấy viên tổng binh.

Ông ta vội lên tiếng hỏi:

- Bản chức phạm tội gì?

Viên quan tuần phủ chẳng thèm trả lời, kéo ông ta chạy ra phía chuồng ngựa ở vườn sau. Bọn quan viên văn võ vừa thấy ông khách nọ liền quỳ cả xuống. Từ Đại Hoa bị trói ở bên cạnh lấy làm lạ, trố mắt nhìn. Viên quan tuần phủ đích thân chạy lại cởi trói cho ông khách và gọi người cởi trói cả cho Từ Đại Hoa. Sau đó, lại thấy viên quan Tuần phủ bò mọp xuống đất, bên cạnh đống cứt ngựa, dập đầu lia lịa nói:

- Thần đáng tội muôn thác.

Đến lúc này viên tống binh mới biết rõ ông khách nọ chính là đương kim hoàng đế. Ông ta kinh hồn táng đởm vội quỳ xuống đất, dập đầu lia lịa, miệng lắp bắp nói:

- Tội thần đáng chết! chỉ xin hoàng thượng cho được toàn thây.

Càn Long hoàng đế cũng chẳng thèm để ý tới ông ta, bước thẳng ra cổng. Bên ngoài Long dư (xe vua đi) đã sửa soạn từ lâu Hoàng đế lên xe trở về ngự chu.

Đã bảy, tám hôm liền Thái hậu không thấy hoàng đế, nay ngài đã trở về, bà cầm lấy tay ngài mãi chẳng muốn buông ra, lại đôi ba lần khuyên bảo:

- Hoàng thượng ngôi cao vạn thặng, tưởng chẳng nên vi hành xuất ngoại. Lỡ có chuyện gì bất trắc, ắt thần dân trong thiên hạ phải mang tội với viên hoàng.

Nhiều vị quan cũng dâng sớ khuyên can. Hoàng đế bị một phen hú vía, từ đó có ý kiêng dè phần nào. Phải cái ngài thắc, thỏm nhớ nhung, không thể quên được Tiểu Hồng. Bởi vậy ngài ngầm sai nội giám đem kiệu hoa lén đưa nàng về ngự chu, sớm hôm sủng hạnh. Từ Đại Hoa cùng Ngân Hồng tuy bị một phen thất điên bát đảo, nhưng lại được hoàng đế phong cho chức Hình bộ thị lang và cho phép đem Ngân Hồng lên kinh nhậm chức.

Càn Long hoàng đế còn hạ luôn một lúc ba đạo thánh chỉ. Đạo thứ nhất đem chính pháp viên tổng binh và vằm thây tên Tiểu Bá Vương. Đạo thứ nhì cách chức một loạt toàn thành văn võ quan viên. Đạo thứ ba tịch biên toàn bộ gia sản và vợ con viên quan tổng binh đem sung công, một phân nửa gia tài cấp phát cho thằng nhỏ giữ ngựa có công báo tin, lại còn thưởng cho y chức Đô Ty và cho lấy cô ba tiểu thư con viên tổng binh làm vợ.

Đến hồi này Càn Long hoàng đế chơi bời xem ra cũng mệt mỏi chán ngán lắm rồi, ngài qua Hàng Châu giải trí đôi chút, rồi hạ chỉ hồi loan, ngự giá về miền Đồn Châu thuộc tỉnh Sơn Đông.

Hồi 83: Vụ án loạn luân

Khi ngự chủ về tới Đồn Châu, Càn Long bảo dừng thuyền. Bọn quan địa phương lũ lượt kéo đến thỉnh an. Sau khi bọn họ ra đi, hoàng đế truyền cho đám phụ lão trong làng lên thuyền. Ngài đích thân hỏi thăm nào phong tục tập quán, nào lúa gạo mùa màng.

Giữa lúc đang hỏi han, ngài bỗng thấy một nhà sư già dắt một đứa bé trai độ năm sáu tuổi lên thuyền, quỳ xứng và dập đầu mãi không thôi. Người trên thuyền thấy vậy, ai cũng lấy làm lạ. Càn Long hoàng đế cho viên thái giám tổng quản bước tới hỏi. Nhà sư già bèn nói:

- Bần tăng tên gọi Viên Châu. Năm đó Tứ hoàng tử Đa La Lý Đoạn quận vương Vĩnh Thành vốn chơi thân với bần tăng. Khi quận vương còn tại thế, bần tăng thường được triệt vào trong phủ đàm kinh thuyết đạo. Nay quận vương đã chết, bần tăng bèn xuất kinh trụ trì tại chùa Minh Thánh thuộc Đồn Châu. Em bé này chính là con đẻ của quận vương và tức cũng là cháu đích tôn của đương kim hoàng đế. Chỉ vì cảnh gia biến nên phải lưu lạc bên ngoài và bần tăng đã thu dưỡng lâu nay. Vừa lúc nghe nói thánh giá tuần du qua đây, bần tăng trộm nghĩ em bé này là quý tử long tôn, không nên bỏ rơi bên ngoài. Bởi vậy bần tăng đem em bé này giao lại để hoàng thượng đưa em về kinh, khỏi phụ niềm giao tình với quận vương năm trước!

Câu chuyện này tới một cách ly kỳ đột ngột, viên thái giám tổng quản nghe nói cậu bé nọ là hoàng tôn, nên chẳng dám chậm trễ vội chạy vào tâu rõ với hoàng thượng. Càn Long hoàng đế nghe xong cũng lấy làm kỳ lạ hết sức. Ngài liền truyền cho cậu bé nọ bước vào trong khoang. Ngài để ý cậu bé thấy mặt to, tai lớn, cử chỉ ung dung, ăn nói đàng hoàng nên nhất thời cũng chẳng phân biệt được thực hay giả. Ngài bèn truyền chỉ đưa cậu bé và cả nhà sư nọ về kinh để xét hỏi.

Khi về tới kinh. Ngài bèn giao việc này cho Hoà Khôn.

Khôn trở về phủ, trước hết đem cậu bé ra hỏi. Cậu bé, với một giọng rõ ràng rành mạch, nói:

- Từ lúc nhỏ tôi được nuôi nấng trong chùa của Hoà thượng Viên Châu, nhận người là cha đẻ. Đến khi lên năm, hoà thượng Viên Châu lúc đó mới nói cho biết rằng tôi vốn là con của quận vương Đa La Lý Đoan. Chỉ vì là con của Trắc phúc tấn (vợ bé của quận vương đời Thanh) nên Đại phúc tấn (bà vợ cả) lúc nào cũng tìm cách giết tôi. Do đó hoà thượng Viên Châu mới đem tôi về nuôi dưỡng tại chùa. Nghe hoà thượng nói như vậy, tôi biết rằng mình chính là hoàng tôn (cháu nội Đương kim hoàng đế) cho nên thường nói với người cho tôi lên kinh để được gặp Hoàng tổ phụ. Nhưng hoà thượng Viên Châu gạt đi và bảo: chôn chín bệ sâu thẳm làm sao mà tới được, cần phải đợi hoàng thượng Nam tuần lần sau, đến Đồn Châu, lúc đó người mới đưa tôi đi được. Nay Hoàng tổ phụ dẫn tôi tới kinh rồi, vậy xin nhờ quý đại thần giúp tôi tâu rõ lên hoàng thượng giùm để cho tôi về nhà.

Hoà Khôn nghe nói một thôi lại nhìn thần sắc của cậu bé, nhất thời không đoán ra thực hay giả. Khôn đành giữ cậu bé lại trong phủ. Đến lượt hoà thượng Viên Châu, Khôn cho gọi vào để hỏi. Nhà sư liền nói:

- Lúc còn sinh thời, quận vương coi bần tăng như một người tri kỷ. Ngài thường truyền cho bần tăng vào phủ đàm đạo tham thiền, đánh cờ, uống rượu. Ngài lại đem những chuyện trong nhà ra nói với bần tăng. Nguyên lai quận vương có hai bà phúc tấn: một là Chính phúc tấn, hai là bà Trắc phúc tấn. Bà Chính vốn con gái Phong bối lặc, mặt mày tuy xinh đẹp nhưng tính tình hết sức tàn ác. Bà Trắc tên gọi Bích Ngọc, con nhà thường dân, hay bị bà Chính ngược đãi. Quận vương thấy thế nhiều lúc khuyên can, nhưng chẳng những chẳng được gì mà còn bị bà Chính nhục mạ ngay vào mặt. Do đó quận vương hết sức bực tức và chỉ biết thở than với bần tăng. Bần tăng chỉ biết khuyên quận vương nên nhẫn nhịn là hơn, trước những việc nơi khuê phòng. Vài năm sau Trắc phúc tấn sinh hạ công tử. Chính phúc tấn biết chuyện, lại càng căm thù ghét. Bà nhè lúc quận vương có việc phải đi xa bèn bảo một con a hoàn lẻn bế cậu bé ra khỏi phủ, ý muốn ném ra ngoài đồng hoang bỏ cho chết đói. May thay lúc đó bần tăng vừa tới cổng phủ thấy thế bèn cầu xin con a hoàn cho đem cậu bé về chùa cạo đầu đi tu làm một chú tiểu. Con a hoàn quay vào nói với bà Chính thì bà ta cũng ưng chịu nên một mặt bảo bần tăng lén bế đem đi rồi báo với Tôn nhân phủ (chuyên coi việc của gia tộc nhà vua) rằng cậu bé đã chết vì lên đậu. Rồi đến Trắc phúc tấn cũng bị bà Chính đuổi đi mất. Đến khi trở về, quận vương chẳng thấy hai mẹ con bà Trắc đâu, liền nổi uất, hộc máu ra chết tươi. Bần tăng nghĩ rằng hậu thân của quận vương chỉ còn cậu bé này, nó lại còn là cháu đích tôn của hoàng thượng, cho nên mới trả về để cho cốt nhục được đoàn viên. Bần tăng vốn giao hảo với quận vương, tuyệt nhiên không cô một ý nghĩ tham lam nào khác, mà chỉ xin đại nhân sớm soi xét minh bạch để bần tăng lại được trở về chùa.

Hoà Khôn được khẩu cung của hai người vội chạy vào cung tâu lại. Càn Long hoàng đế thấy nhà sư thuật lại bản án cũ, trong lòng có đôi phần bối rối, vội chạy vào trong thâm cung bàn tính với Xuân A Phi.



Nguyên Xuân A Phi chính là đại phúc tấn của Đại La Lý Đoan quận vương nay đã được hoàng đế đem về và phong cho làm phi tử để trong thâm cung, hết sức sủng ái. Vào lúc đầu Tôn nhân phủ tấu báo Vĩnh thành quận vương sinh hạ một cậu công tử thì Càn Long hoàng đế mừng lắm. Sau được tin công tử bị lên đậu mà mất thì ngài cũng rất lấy làm buồn, Ngài nghĩ tới cảnh hoàng tự (con nối dài của vua) đơn chiếc, nên cho gọi quận vương vào cung hỏi hoàng tôn bị lên đậu mất như thế nào. Vĩnh Thành quận vương hồi tấu là khi hoàng tôn chết thì vương có việc phải đi xa, sự thực như thế nào vương không được thấy rõ, nên không dám tâu bừa và chỉ có nàng Xuân A mới biết chuyện cặn kẽ. Đến khi Đại phúc tấn của quận vương Vĩnh Thành được truyền vào cung, Càn Long hoàng đế thoạt nhìn thấy đã ngây người ra. Đại phúc tấn mặt hoa da phấn, cử chỉ phong lưu, quả là một trang giai nhân tuyệt thế. Khi nói chuyện, miệng lưỡi nàng vô cùng lanh lẹn, môi cười mắt liếc, càng làm cho vị phong lưu thiên tử thần hồn điên đảo, lạc vào mê hồn trận. Càn Long hoàng đế thấy tiếng nói giọng cười của nàng y hệt như của người đẹp Hương phi thuở nọ, thế là ngài quên luôn cả danh phận nàng dâu bố chồng, tự nhiên đâm ra yêu thương nàng một cách tha thiết.

Đại phúc tấn Xuân A vốn là một người đàn bà thông minh xảo quyệt, thấy hoàng đế có thái độ như vậy liền tung ngay thủ đoạn mê hồn ra. Nàng đưa một đường xảo ngữ hoa ngôn, nhoẻn cười liếc mắt, chỉ trong chốc lát đã nắm gọn hoàng đế trong tay mình.

Càn Long hoàng đế nghe Xuân A nói đoạn bèn bảo với Quận vương:

- Cô nàng dâu này của trẫm nói chuyện quả hay thật. Nàng giống hệt như Anh Kha ở trong cung khiến mọi người quên cả mệt mỏi khi trò chuyện. Ngươi hãy cho nàng vào cung, thái hậu đang thiếu một người bầu bạn chuyện trò cho bà được vui vẻ, tiêu khiển, được thế trẫm cũng tỏ ra là người con hiếu thảo, và ngươi cũng là một đứa cháu ngoan.

Vĩnh Thành quận vương tuy biết rõ hoàng đế không có ý tốt, nhưng chẳng còn nói cách nào, đành để Đại phúc tấn của mình ở lại trong cung, lùi lũi trở về nhà. Thế rồi vương nghĩ tới cảnh con chết vợ xa, trong lòng buồn bã chẳng vui. Chẳng mấy hôm, Vương sinh chứng thổ huyết, hộc máu ra rồi chết.

Sau khi Vĩnh Thành quận vương chết, nàng Xuân A được thăng lên làm phi tử. Hoàng đế ngày ngày tìm vui hưởng lạc bên cô nàng dâu vừa mới chết chồng, tha hồ mà đi mây về mưa.

Giữa lúc hai người đang âu duyên mới thì hoàng tôn xuất hiện. Càn Long hoàng đế trong lòng ít ra còn nghĩ đến thâm tình cất nhục, nên mới chạy tới bàn tính với Xuân A Phi.

Xuân A Phi một lời quyết định:

- Bệ hạ dẹp nó đi! Việc xảy ra đã lâu, sự thể thật giả như thế nào làm sao mà biết được. Ví thử có thật đi chăng nữa, thì rồi đây, một ngày nào đó, quận vương kế tự lớn lên, biết thiếp còn ở trong cung, ắt đem lòng thù hận, vì mẹ báo thù. Lúc đó bên ngoài đồn đại, hoàng thượng thế nào chả có điều phiền nhiễu. Nếu bệ hạ quyết nhận hoàng tôn, thì xin bệ hạ cho thiếp một chết, chẳng còn mặt mũi nào hầu hạ ngài nữa.

Nói đoạn Xuân A Phi che mặt khóc nức nở. Hoàng đế vốn hết sức sủng ái Xuân A Phi nên khi thấy nàng khóc, ngài thấy lòng đau như cắt. Ngài vội kéo nàng vào lòng, vỗ về an ủi.

Qua ngày hôm sau, Càn Long hoàng đế cho gọi Hoà Khôn vào cung. Ngài bỗng thay đổi vẻ mặt, hết sức lạnh lùng nghiêm nghị, dằn mạnh từng tiếng:

- Hoàng tôn của trẫm đã chết cách đây bảy năm. Tôn nhân phủ đã ghi rõ cả và có thể tra xét được. Bỗng ngày nay lại có một tên hoàng tôn xuất hiện, vậy thì chuyện này ắt do gian tăng muốn phỏng theo chuyện cũ Tống Minh để mưu cầu phú quý. Khanh nên truyền tập họp bọn quan viên hình bộ lại, lập ngay toà án đặc biệt thẩm vấn cho rõ ràng, đừng để cho đứa tiểu nhi quê mùa mạo nhận cốt nhục của hoàng gia.

Hoà Khôn nghe xong lời phán đoán, lòng đã rõ ý hoàng đế. Khôn vội ra khỏi cung, tuyên bố ý chỉ của ngài. Qua ngày hôm sau quan Hình bộ ngồi chánh thẩm, cho mời bọn quan viên Đại học sĩ, Đô ngự sử ngồi bên bồi thẩm. Công đường thiết lập tại cửa Kiều Thanh môn. Trong căn nhà trống không, rộng rãi về phía tả, có Hoà Khôn và Lưu Thống Huấn hai vị đại học sĩ ngồi giữa cao chót vót. Còn hai bên thì đủ mặt nhân viên lục bộ. Hình bộ có một vị Kính chương tên gọi Bảo Thành nói năng hoạt bát, tính tình lại giảo hoạt. Hoà Khôn biết Thành là người biến báo nên uỷ cho làm quan chánh thẩm, ngồi trước công án của phiên toà.

Một lát sau người ta thấy đưa vào một nhà sư già và một cậu bé. Bảo Thành chiếu lệ đem thẩm vấn lại tung tích của hai người một lượt rồi đứng dậy quay mặt về phía trên nói:

- Thưa quý vị đại thần, theo nhận xét của ti chức thì vụ này có nhiều nghi vấn. Nếu quý vị đại nhân cho phép thẩm vấn thì ti chức có thể tìm ra manh mối của vụ án này một cách đầy đủ.

Hoà Khôn nghe Bảo Thành nói như vậy bèn sẽ gật đầu đáp ứng. Bảo Thành quay mặt lại quát lớn:

- Quân bay! Bắt tên yêu tăng điệu ra ngoài kia mau!

Hai tên sai dịch hung dữ như báo, tàn ác như cọp, nhảy xông vào túm cổ nhà sư già kéo thốc ra phía ngoài. Lúc đó Bảo Thành mới thong thả bước tới giáng mạnh hai cái bạt tai vào mặt cậu bé khiến nó sợ quá oà lên khóc.

Bọn quan viên khắp phòng thấy thế hoảng kinh thất sắc, chỉ nghe tiếng Bảo Thành lớn tiếng hỏi:

- Mi là thằng bé nhà quê nào nghe lời dối trá của yêu tăng dám cả gan vào chốn triều đình mạo nhận hoàng tôn? Như thế là mi đã vào tội chết. Nếu mi không khai rõ ra đây, ta sẽ chém phứt cái sọ cái của mi.

Nói đoạn Thành giơ cao cây đoản đao, kề ngay cái lười sắc bén vào cổ cậu bé. Cậu bé hoảng quá, một mặt kêu rầm lên, một mặt lắp bắp nói:

- Tôi vốn chẳng biết thế nào là hoàng tôn. Tôi chỉ biết nhà sư là cha tôi. Lúc năm tuổi, tôi chỉ nhớ nhà sư thường chỉ tôi bảo với nhiều người khác rằng tôi họ Lưu. Như vậy tôi vốn con nhà họ Lưu chứ đâu có phải là hoàng tôn. Tôi chẳng biết hoàng tôn là có nghĩa lý gì. Nhà sư có bảo tôi cứ tới nhà hoàng thượng thì sẽ được đọc sách và làm quan, có cơm có rượu, mặc quần áo đẹp, khi ra ngoài có ngựa có xe, có người hầu kẻ hạ. Nay các ông chẳng cho tôi cưỡi ngựa, đi xe, lại muốn cầm đao giết tôi, tôi chẳng thèm làm hoàng tôn nữa. Xin các ông tha cho tôi ra, để tôi cùng nhà sư trở về chùa cho sớm.

Cậu bé nói xong lại hu hu khóc lớn. Nhiều quan viên trên công đường thấy tình cảnh đáng thương, đều muốn giúp cậu ta tỏ nỗi oan khuất nhưng lại sợ uy thế của Hoà Khôn nên không dám nhiều lời. Bảo Thành thấy cậu bé cung khai xong, trong lòng lấy làm đắc ý. Y liền quay đầu, lại hướng mắt về công đường cười nói:

- Quý đại nhân nghe rõ đấy chứ? Hắn đâu có phải là hoàng tôn mà chi là thằng bé nhà họ Lưu. Vậy ti chức thầm vấn đã rõ ràng, xin quý vị đại nhân định án.

Lưu Thống Huấn lúc đó ngồi trên công đường, không nhịn được nữa bèn đứng dậy nói:

- Cái án này thong thả hãy định. Thử hỏi đứa bé vài ba tuổi dưới sự uy hiếp đó thì bảo gì mà nó chả nói. Huống hồ, theo lời nhà sư nói thì đứa bé này mới sinh ra được vài tháng đã bị bế ra khỏi phủ, thì thử hỏi làm sao mà biết mình là hoàng tôn hay không. Đừng nói đứa bé này tự mình không biết chuyện mình, đến ngay cả bọn mình đây sống đã mòn đời mà những chuyện cha mẹ sinh dưỡng ra sao cũng không biết nữa là. Cứ theo ý kiến của bản chức thì vụ án hôm nay nếu không đem nhà sư nọ thẩm vấn thì không được.

Hoà Khôn nghe lời Lưu Thống Huấn nói xong lấy làm e ngại, bèn lạnh lùng nói:

- Quý đại thần nếu không sợ phiền thì cứ xin cho truyền nhà sư nọ vào, có hề chi!

Hồi 84: Vườn Đồng Lạc trong cung cấm

Vừa nghe lời Hoà Khôn nói xong, Bảo Thành ngồi ở phía dưới liền lên tiếng truyền cho nhà sư vào. Bọn sai dịch tức thì đẩy nhà sư lên phía trước công đường. Cậu bé nhìn thấy nhà sư liền giơ tay chỉ, vừa khóc vừa nói:

- Tôi vốn thực họ Lưu tại sao lại bảo tôi mạo nhận con cháu hoàng gia để hại tôi bị chém đầu?

Cậu bé lại kéo chéo áo nhà sư khóc lớn. Mãi lâu, người ta chỉ thấy nhà sư tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên và quái lạ rồi mới cất tiếng nói:

- Ngươi rõ ràng là một hoàng tôn mà? Tại sao hôm nay ngươi lại khai đổi khẩu cung? Trước đây ta bảo với mọi người rằng ngươi thuộc họ Lưu để che mắt thiên hạ, sợ người ta biết chuyện đó thôi.

Bảo Thành nghe xong, không để cho nhà sư nói thêm, giơ cao tay vỗ mạnh xuống công án, quát lớn:

- Yêu tăng đừng nói bậy! Thằng bé kia đã tự ý cung xưng và nhận tội, ngươi còn không chịu khai ra phải không?

Nói đến đây Thành lại quát lên một tiếng thật lớn nữa: "Dùng hình!". Tức thì bọn sai nha túc trực hai bên tả hữu dạ ran rồi tay cầm nào côn sắt, nào roi thép loảng xoảng vang rền tiến sát bên nhà sư. Cậu bé lại một phen hoảng hồn bạt vía, khóc rống lên nói:

- Bọn ta đi thôi! Tôi không muốn làm người nhà của hoàng đế nữa đâu. Người nhà của hoàng đế gì mà chỉ bị doạ giết thế này?

Nhà sư mặt hầm hầm nổi giận, tay chỉ về phía công đường nói lớn:

- Lũ bay là một đám gian thần, trên thì dối vua, dưới thì ngược đãi bách tính. Lũ bay đều ăn bổng lộc của Thanh triều, Vĩnh Thành Quận vương vốn là hoàng tử của đương kim hoàng đế có thù oán gì với lũ bay mà lại muốn diệt hết dòng dõi của người. Ta chết rồi làm quỉ, thế nào cũng cùng với Quận vương bắt hồn lũ bay!

Viên Châu hoà thượng nói đoạn còn nghiến răng ken két chửi rủa bọn gian thần luôn mồm không ngớt, đến nỗi Hoà Khôn nổi máu nóng, quát lên một tiếng lớn:

- Đánh chết thằng giặc trọc đi!

Bọn sai nha đang tính động thủ thì Lưu Tướng quốc đã đứng dậy chạy tới chặn lại rồi nói:

- Hãy khoan! Nay bọn ta đánh phạm bắt cung, khiến thiên hạ chê cười là bất công. Theo thiển ý của bản chức, thì bọn ta nên đi tìm con a đầu bế hoàng tôn ngày trước nhận xem phải hay không phải hoàng tôn, lúc đó mới nên định án.

Lúc đó trời đã về chiều, Hoà Khôn liền hô tạm nghỉ.

Ngay đêm hôm đó, Khôn vào cung, tâu rõ với Càn Long hoàng đế. Hoàng đế bèn truyền chỉ phàm có a đầu già nào trong phủ quận vương đều phải tới công đường làm chứng.

Bọn a đầu già vốn được Xuân A Phi đối xử tất cho nên qua ngày hôm sau khi cậu bé được gọi lên công đường cho bọn này nhìn mặt thì tất cả đều nhất loạt bảo chẳng giống. Chúng còn bẩm hoàng tôn ngày nọ gầy nhỏ mà mặt dài, trên cánh tay có nốt ruồi đỏ chứ đâu như đứa trẻ này. Lại còn có một đứa cung rằng:

- Hoàng tôn chết năm nọ chính do tay tôi thu liệm. Tại sao lại còn có một hoàng tôn xuất hiện nơi đây?

Một đứa khác lại cung:

- Tôi vốn là nhũ mẫu của hoàng tôn. Chính hoàng tôn đã chết ngay trong bọc tôi mà! Điều đó quyết không lầm được.

Bọn a đầu già, mỗi đứa mỗi câu, khiến nhà sư đảnh phải nín lặng không thốt được lời nào nữa. Lưu Tướng quốc ngồi phía trên biết rõ nhà sư oan uổng nhưng nghĩ chả có cách gì cứu được Một lát sau bọn đại thần bàn tính định tội: Viên Châu hoà thượng lập tức đem chém còn cậu bé thì đày đi xứ Y Lê.

Hôm bị đem ra hành hình, Viên Châu hoà thượng chửi bới thậm tệ bọn hôn quân gian thần. Còn cậu bé đày đi xứ Y Lê, dần dần lớn lên, tự biết mình đích thị hoàng tôn của đương kim hoàng đế bèn nói cho Y Lê tướng quân biết. Vị tướng quân này lại giúp cậu bé tâu về triều.

Hoà Khôn thấy bản tấu chương, tới thông báo cho Xuân A Phi biết. Thế là Xuân A Phi lại nũng nịu với Càn Long hoàng đế để ngài cách chức viên Y Lê tướng quân, cho người thân thích của Hoà Khôn là Tùng Quẩn tới thay thế. Nàng cũng muốn Hoàng đế hạ chỉ chém ngay cậu bé nọ tại đất Y Lê. Càn Long hoàng đế mê mệt Xuân A Phi, nhất nhất mọi điều ngài đều nghe nàng hết. Đáng thương thay đường đường một vị hoàng tôn mà kết liễu cuộc đời chỉ vì miệng lưỡi đàn bà!

Trong cung cấm, Càn Long hoàng đế sủng ái Xuân A Phi càng ngày càng đội mãi nàng lên tận trời xanh. Tuy rằng ngài trong cuộc tuần du Giang Nam có đem về hai nàng Quách Giai, và Tưởng Giai nhưng thực chẳng ai vượt khỏi Xuân A Phi. Hai nàng Quách Giai và Tưởng Giai là người Tô Châu, tính tình hoà thuận, ăn nói lanh lẹ, lại đâm ra xu phụng Xuân A Phi. Ngược lại Xuân A Phi cũng đối đãi tử tế với hai nàng.

Xuân A Phi vốn được nuôi dưỡng từ nhỏ tại nơi khuê các, chưa từng được nghe chuyện bên ngoài ra sao; nay nghe hai nàng Quách, Tưởng kể lể chuyện Giang Nam, nào là phố xá đẹp đẽ, nào là phong cảnh xinh tươi, nào là chợ búa náo nhiệt vui vẻ thì lòng cảm thấy như điên lên vì tò mò. Từ đó nàng cứ nói ra nói vào ý muốn cùng hoàng đế du ngoạn Giang Nam một phen. Hoàng đế bảo nàng:

- Trẫm mới vừa ở Giang Nam về. Nay lại đi Giang Nam e bọn quần thuần dị luận chăng!

Về sau, Xuân A Phi nghĩ ra một kế. Nàng mè nheo với Càn Long hoàng đế cho xây cất trong vườn Viên Minh một dãy phố buôn bán sinh hoạt theo kiểu Tô Hàng (hai tỉnh Tô Châu, Hàng Châu miền Giang Nam). Nào là tiệm bán đồ cổ, tiệm cắt may y phục, nào là tửu lầu, trà điếm, tất cả hàng hoá đều bày đặt trong các quán tiệm đầy đủ không thiếu thứ gì. Các chủ tiệm cũng đều đưa từ Tô Hàng tới. Cả đến người bán hoa, người bán trái cây tươi, người bán dưa, cũng bưng giỏ đi dọc phố để rao hàng, y như thật. Bọn thái giám trong cung, anh nào cũng bỏ tiền ra để được làm chủ điếm. Các hoá phẩm đều do quản lý cửa Sùng Văn cất ở các tiệm bên ngoài thành đem vào. Những hàng này đều được ghi rõ giá cả. Hàng nào bán được thì cứ y theo giá biểu mà trả tiền. Hàng nào không bán được thì hoàn lại chủ cũ.

Đến mồng một tháng giêng (Tết Nguyên Đán) mở cửa vườn, hoàng đế hạ dụ cho phép các đại thần Mãn cũng như Hán đều được vào vườn du ngoạn. Bọn quan viên lũ lượt đi xem đường phố, thấy có thực vật, có trái cây tươi, vội giành nhau mua. Có lúc họ mời mọc nhau thành một bọn kéo vào quán trà, tiệm rượu. Mấy anh hầu bàn lăng xăng chạy đi chạy lại kêu gọi món ăn thức uống, chẳng khác gì các hàng quán trong thành. Cũng có lúc hoàng đế mặc thường phục, sau lưng có mấy bà phi tần, vào phạn điếm ăn cơm. Gặp bọn đại thần, hoàng đế cũng chỉ gật đầu, đưa mắt nhìn nhau ra hiệu chẳng khác gì bạn hữu bình thường, đem tiểu nhị qua lại đem đồ ăn, bưng rượu, tính tiền. Trong quán náo nhiệt tưng bừng như có hội. Hoàng đế cùng bọn phi tần nhìn thấy cảnh vui mắt đó, vô cùng hào hứng, bất giác cười vang. Lại cũng có lúc hoàng đế viết thiếp mời một vài người khách. Khách đó bất quá đều là những bậc đại thần tôn thất nhàn rỗi. Họ vào quán Tây Thanh hầu rượu ngài. Cả bọn tha hồ cười nói, múa tay rung đùi chẳng có chút gì là câu thúc bó buộc. Bọn đại thần chè chén đến lúc hứng chí cũng bày trò thách rượu, cũng có lúc hoàng đế một mình ra ngoài du ngoạn. Ngài vào quán rượu gọi đủ thứ, rồi cùng bọn gái thanh lâu cợt nhả bốc hốt. Gặp khi chếnh choáng, hoàng đế bèn ôm bừa lấy mấy đứa dìu vào phòng ngủ, tha hồ đi gió về mưa, thẳng một lèo cho tới sáng, chẳng chịu về cung nữa. Bọn thái giám chẳng biết làm sao, đành phải đánh "vân bản" om lên ngoài cửa phòng (Vân bản là những tấm ván đập vang lên để báo hiệu cuộc thị sát của các quan viên trong triều. Theo qui củ trong cung thì khi nghe đánh vân bản, tức thì ai nấy phải đứng dậy rời đi chỗ khác).

Cũng có lúc hoàng đế mời thái hậu đi du ngoạn xem vườn. Thái hậu cải trang như một người thường, thấy trong vườn nào bọn sơn đông mãi võ bán cao đơn hoàn tán, nào bọn thầy bói trải chiếu gieo quẻ, cũng sà vào đám đông mà xem bói xem diễn. Xa xa bọn thị vệ lảng vảng đó đây để báo vệ bà.

Rồi từ ngày hai mươi ba tháng giêng cho đến ngày mười tám tháng sáu, ngày đó gọi là lễ "Đăng tiết", hoàng đế lại cho lệnh mở cửa vườn. Ngài truyền dụ cho từ các quyến thuộc thần dân Hán cũng như Mãn đến vợ chồng kẻ dân quê đều được vào vườn du ngoạn với ý nghĩa "dân đều vui". Những ngày đó, hoàng đế cũng đi qua dạo lại giữa đám quan quyền, dân chúng, cười đùa với đám gái quê, với bọn phu nhân vợ các quan viên, hết sức vui vẻ thân thiện. Bọn thái giám muốn làm đẹp ý của hoàng đế nên thiết lập các phòng nhỏ, đặt bày các giường nệm để ngài tuỳ ý nằm ngồi.

Cuộc vui đại chúng ấy đang tốt đẹp, thì qua ngày thứ ba bỗng một tên đại hán xông vào trong phòng, tay cầm một con dao nhọn, xớn xác ra vẻ đang tìm kiếm ai đó. Bọn thị vệ thấy thế, xông lên bắt được tên đại hán, giao lại cho nha môn xét hỏi. Tên đại hán hầm hầm hất mặt nói: "Vợ con ta vào vườn du ngoạn, bị tên hôn quân dụ dỗ vào phòng gian dâm rồi! Ta mà tóm được hắn thì nhất quyết chẳng tha!".

Thẩm sát quan thấy tên đại hán miệng nói toàn điều quái gở, chẳng thèm cật vấn nữa, liền tống ngay vào nhà lao, qua hôm sau cho giết luôn. Thế rồi, từ ngày nảy ra cái án quái gở đó, trong vườn cấm không còn bọn đàn ông được vào ra nữa.

Trong vườn Viên Minh, từ khi thiết lập cái phố buôn bán đó thì cứ mỗi đêm vào đầu tháng giêng, việc mở cửa cho dân chúng vào du ngoạn đã trở thành một cái lệ. Hoàng đế cùng bọn phi tần cũng rong chơi trong vườn mãi cho hết ngày Đăng Tiết, sau đó mới thu dọn phố xá đi hết, Càn Long hoàng đế lấy cái ý "với dân cùng vui", nên gọi khu phố thương mại đó là Đồng Lạc viên.

Sau năm thứ nhì Đồng Lạc viên mở cửa, trong vườn lại xảy ra một vụ án phong lưu tuyệt thú. Nguyên là tại kinh có một vị Lễ bộ thị lang họ Trang, tuổi đã tới lục tuần. Chỉ vì bà vợ kết tóc xe tơ chết mất, quan thị lang bèn tới xóm thanh lâu lấy ngay một ả kỹ nữ về làm vợ. Ả tên gọi là Lại Chiêu Quân, mặt mũi xinh đẹp ra sao chẳng cần tả mà làm gì, chỉ cần biết ả năm đó hai mươi bốn tuổi, tính tình ưa hoạt động nên rất thích ra ngoài lang thang du ngoạn. Những nơi náo nhiệt như đền miếu, hội hè chỗ nào chẳng có vết chân Trang thị. Quan thị lang còn có một đứa con gái với người vợ trước. Đứa con gái này cũng đa tình lắm, lại rất ăn ý với người mẹ kế. Mẹ con hai người thay nhau che mắt quan thị lang, suốt ngày lang thang hết phố lớn đến đường con.

Bọn ong ve bướm lượn suốt ngày lẽo đẽo sau gót hai mẹ con nhà này, chê đầu khen cẳng, chọc ghẹo thả cửa. Lại Chiêu Quân tính cực dâm, chi thích cười giỡn với trai, thích được người khen mình đẹp, bởi vậy bọn làm công trong các tiệm buôn, các quán nhậu đều bỡn cợt với ả, miệng ghẹo tay sờ.

Cô gái vốn con nhà đại gia khuê các, lúc đầu thấy bà mẹ kế tính tình đĩ thoã quá, bất giác mắc cỡ xấu hổ lắm, nhưng về sau đâm quen cũng cười cợt thả cửa, chẳng còn kiêng cữ gì nữa. Ả tên gọi Thu Quan, năm đó đúng mười tám tuổi.

Hai mẹ con Lại Chiêu Quân và Thu Quan chơi lang thang kinh thành mãi xem chừng đã chán, bỗng một ý tưởng mới lạ đến với họ, nghe đồn cứ một năm một lần mở hội Đồng Lạc viên ngay tại vườn Viên Minh, cho phép quan, dân, phụ nữ vào trong du ngoạn.

Đợi đến thời "Đăng tiết", hai mẹ con Thu Quan, dồi phấn thoa son cùng theo mọi người vào vườn dạo chơi, hết phố này đến chợ kia, thích lắm.

Bọn thái giám dò la được lai lịch của hai mẹ con nhà này, bèn đánh liều gợi ý gợi tình với Lại Chiêu Quân, cuối cùng cả bọn thị vệ và các bồi bếp cũng gọi nhau tới tán tỉnh. Hai mẹ con nhà này đã chẳng lấy làm phiền mà lại còn đắc ý lắm. Lại Chiêu Quân thích nhất là được nghe chuyện cung cấm. Bọn thái giám và thị vệ đều chạy tới xúm xít quanh ả, khoe mình biết lắm, hiểu nhiều; nhất là chuyện hoàng đế phong lưu, đa tình ra sao.

Thu Quan vốn gái dậy thì, mới mẻ tươi mát, nên anh nào anh nấy đều mê thích, đổ xô lại tán tỉnh. Thu Quan chẳng bao giờ giận, nhiều khi còn cố ý làm vui lòng mọi người là khác.



Có một hôm, Lại Chiêu Quân ngồi chuyện vãn với bọn thái giám trong tửu lâu. Nàng bỗng bảo:

- Nét mặt hoàng thượng bọn tôi chỉ được nhìn phớt qua ngoài phố, chứ chưa bao giờ được rõ ràng. Ví thử được đối diện với hoàng thượng mà nói một câu chuyện hoặc chuốc một chén rượu, thì thật vinh hạnh biết mấy nhỉ!

Thu Quan cũng nói tiếp:

- Hoàng thượng có bộ râu đẹp lắm. Giá tôi được vuốt một cái thì còn gì là vinh hạnh hơn!

Bọn thái giám nghe đoạn liền nói:

- Ồ! Chuyện đó khó gì. Để khi hoàng thượng tới, bọn tôi xin giúp hai người, thông báo tên tuổi cho ngài tâu rằng hai nàng xinh đẹp tuyệt trần, thì thế nào ngài cũng triệu kiến ngay.

Trong bọn thái giám, lại còn có một tên đế vào:

- Tuy nói thế, nhưng hoàng thượng vào vườn chơi có định rõ ngày giờ nào đâu? Hôm thì đôi ba lần, nhưng lại có khi ba, bốn hôm mới tới một lần. Như vậy, nếu hai mẹ con nàng muốn gặp ngài thì nên ở lại trong vườn mà đợi giá. Nhưng có điều phiền là mỗi ngày ở lại trong vườn, tiền phòng tiền cơm tốn kém lắm, làm thế nào được?

Lại Chiêu Quân vốn tính tự ái. Hơn nữa, chồng ả lại có tiền, cứ mỗi khi gặp ai có ý chê bai ả về chuyện tiền nong là ả nổi máu tự ái lên ngay. Lúc này cũng vậy, ả nghe nói bèn thò tay vào trong bọc rút phăng một tập giấy bạc ném toẹt ngay ra giữa bàn, vừa bĩu môi bảo:

- Xài một tập này có đáng là bao. Ngươi cầm chỗ bạc này đi! Bọn tôi ở lại mười hôm trong vườn liệu có đủ không?

Bọn thái giám thấy tập tiền, mặt bỗng tươi hẳn lên, mắc sáng rực. Thế là chúng tung tăng chạy đi sửa soạn nào giường nào chăn nào gối nào rượu nào thịt để cung dưỡng hai mẹ con Lại Chiêu Quân.

Lại Chiêu Quân ở lại trong vườn với bọn thị vệ nô giỡn tối ngày sáng đêm. Riêng Thu Quan vốn còn con gái nên không dám quá phóng đãng. Thấm thoát đã năm ngày qua, hôm đó vào dịp Đặng tiết, ả Chiêu Quân bỗng thấy bọn thái giám hoảng hết chạy tới bảo:

- Vạn tuế gia tới rồi! Mau sửa soạn tiếp giá!

Lại Chiêu Quân vội kéo tay Thu Quan bước ra ngoài, thấy một người đàn ông cao lớn mặt có ba chòm râu, bệ vệ bước vào, phía sau có rất nhiều thị vệ đi theo.

Người đàn ông chậm rãi ngồi xuống, quay đầu ra hiệu, thế là cả bọn thị vệ ùn ùn kéo ra. Bên trong điếm, tiểu nhị đưa rượu thịt lên. Người đàn ông nâng ly, uống được vài tuần, lúc đó mới vẫy tay gọi tới hai mẹ con Lại Chiêu Quân đến ngồi cạnh. Người đàn ông lên tiếng hỏi:

- Hai nàng là người thế nào?

Lại Chiêu Quân đáp:

- Hai chị em tôi bị kẻ gian lừa gạt, chẳng may lạc vào thanh lâu.

Câu nói vừa rồi của Lại Chiêu Quân thật ra là của bọn thái giám mách bảo trước chứ chẳng phải tự ý. Người đàn ông uống ít rượu nữa thì đã ngà ngà say bèn giơ tay ra ôm lấy hai mẹ con Lại Chiêu Quân mà vuốt ve hôn hít. Thế rồi đêm đó, cả hai mẹ con đều bị người đàn ông nọ giữ lại hầu hạ.

Lại Chiêu Quân nghĩ chắc đó là Càn Long hoàng đế, bèn đem hết bản lãnh phòng the ra hầu hạ, mãi tới đêm khuya mới hết những tiếng cười khúc khích trong phòng.

Càn Long hoàng đế cao hứng quá, làm luôn một hơi ba đêm liền, đến đêm thứ tư ngài đưa ra thưởng biết bao nhiêu là vàng ngọc lụa là. Và cũng từ đêm đó không thấy ngài tới nữa.

Hai mẹ con Lại Chiêu Quân cúng thu xếp về nhà, khi nhìn tới số tiền chi phí lên tới hơn cả vạn lạng bạc, ả bất giác giật mình, mặt xảm ngắt lại, vội hỏi bọn thái giám, mới được biết rằng tiên ăn, ở tại đây đắt hơn cả trăm lần bên ngoài. Ả chỉ còn cách đem vàng ngọc châu báu của hoàng đế vừa cho đề bù vào chỗ thiếu. Nào ngờ khi đem vàng ngọc châu báu đó ra trị giá mới biết đều là đồ giả cả.

Về sau khi hai mẹ con Lại Chiêu Quân về tới nhà rồi quan thị lang họ Trang (chồng Lại Chiêu Quân) mới phát giác ra một tờ văn tự nợ trong mình vợ. Ông vội tra hỏi, ả bèn đem tài mồm loa mép giải ra để che đậy, bảo phải mang nợ vì lo chạy chọt cho ông được thăng quan tiến chức. Ả kể lể rằng có nhờ bà Phúc tấn nọ nói giùm với vị vương gia kia để được đưa tới trước Vạn tuế gia. Ả đã vui lòng đáp ứng nên phải vay mượn để tạ lễ vị vương gia đó. Thế rồi cứ mồm mép đó, Lại Chiêu Quân nói trời nói đất, thêu dệt đủ chuyện để lấp liếm cho qua.

Trang thị lang không còn biết cách nào hơn, mặt đành cứ thộn ra mà nghe. Nhưng Trang thị lang lại có người em thứ tư, trong nhà thường gọi là "chú Tư". Chú Tư thấy anh mình lấy đĩ về làm vợ đã có ý không bằng lòng, nay điều tra lại được biết chị dâu với cháu gái mình có bao nhiêu chuyện bỉ ổi trong Đồng Lạc viên liền viết một tờ đơn tố cáo gửi tới nha môn Kinh Triệu Doãn.

Kinh Triệu Doãn thấy đơn tố ngay chính Hoàng đế, hoảng hồn bạt vía, chẳng dám thụ lý. Nhưng việc tố giác đã đồ bể tùm lum ra. Một vị ngự sử họ Giang nghe được chẳng cần xét rõ trắng đen gì, tức thì viết ra một tờ sớ tâu lên Càn Long hoàng đế, kết án bọn thái giám lừa gái cướp vàng, tội chẳng nên tha.

Càn Long hoàng đế xem xong tờ sớ, hết sức giận dữ. Ngài ngầm sai gọi Hoà Khôn vào cung, giao cho Khôn điều tra và xử vụ án.

Hoà Khôn lãnh chỉ lập tức sai bắt bọn thái giám bịp bợm tới, mặt khác cũng cho đòi bắt mẹ con Lại Chiêu Quân vào hầu.

Hôm thẩm vấn, Hoà Khôn cho mời các quan đại thần Mãn cũng như Hán, gọi cả Kinh Triệu Doãn cùng đến công đường hội thẩm nghe cung. Lại Chiêu Quân khai hết mọi việc đã qua. Ả kể rõ nào là hoàng đế gian dâm hai mẹ con ả ra sao, phá hoại đời con gái Thu Quan thế nào và cả vụ vàng ngọc giả kia nữa. Bọn đại thần nghe thấy ả khai ngay đích danh hoàng đế, anh nào anh nấy giật nấy mình, mặt biến sắc. Hoà Khôn vội sai người đưa Lại Chiêu Quân ra ngoài. Song ả vốn gái lầu xanh, mồm loa mép giải đã quen đâu có chịu, bèn bù lu bù loa lên, ngoác mãi mồm ra bảo chính hoàng đế đã gian dâm cả hai mẹ con mệnh phụ. Còn Thu Quan ở bên canh, chỉ cứ khóc ròng.

Bọn đại thần và Hoà Khôn bèn tính bịa ra một cái tội để trừng phạt Lại Thu Quân, bọn thái giám mấy tên thì đem giết đi để bịt miệng còn Trang thị lang thì gán cho cai tội vu khống. Trong khi cả bọn tính như vậy tưởng như xong chuyện, nào ngờ quan đại thần Lưu Thống Huấn không chịu, ông nói:

- Chuyện này thiết tưởng không nên vội vã. Trước hết, bọn ta nên vào tâu để xem ý hoàng thượng ra sao đã. Lúc đó, nêu vụ án có chỗ đã xác đáng, thì nên trả số tiền nọ lại cho Trang thị lang và đem tên thái giám phát vãng sung quân. Còn nếu cái án này không có dính líu gì với hoàng thượng thì trước hết đem chém đầu mấy tên thái giám, rồi sau tịch biên hết sản nghiệp của bọn này mà trả lại cho Trang thị lang, sau nữa mới bắt tội Trang thị lang trị gia bất nghiêm.

Hoà Khôn đã có chủ ý từ trước nên có ý không chịu. Thế là Lưu Thống Huấn tự mình đi thẳng vào cung điện tâu trình.

Càn Long hoàng đế nghe có người tố cáo mình gian dâm cả hai mẹ con mệnh phụ, bèn nói:

- Trẫm tuy rằng bất đức nên mười mấy năm trời nay có nhiều xì xèo này nọ, nhưng thực cũng chưa dám làm điều gì bại hoại gia phong đến thế. Cái án mẹ con Lại thị cần phải xét hỏi cho ra đầu đuôi cớ sự. Vậy trẫm giao cho các vị đại thần Mãn cũng như Hán, lấy lẽ công mà luận án định tội, chớ có e ngại chuyện gì.

Lưu Thống Huấn được thánh chỉ liền đem bọn thái giám ra thẩm vấn. Bọn chúng chịu cực hình không nổi bèn khai ra tất cả. Thì ra thấy mẹ con Lại thị nhiều tiền chúng bèn đem một hoàng đế giả đến để lừa gạt. Khi hỏi tới hoàng đế giả đó là ai, thì bọn thái giám cho biết đó là tên chưởng quỹ ở Tây Đại Nhái phường Lô Mã ngoại thành. Lưu Thống Huấn liền cho đi bắt về thẩm vấn, hắn nhất nhất đều cung khai không dám giấu.

Lưu Thống Huấn định tội, đem tên chưởng quỹ và bọn thái giám ra chém đầu đồng thời hạ định tịch biên gia sản của bọn này để bồi thường lại cho Trang thị lang. Lưu Thống Huấn lại phát lệnh cho hai mẹ con Lại Chiêu Quân vào nhà các công thần làm đầy tớ.

Vụ án này xảy ra xong, từ đó trong Đồng Lạc viên không còn cho phụ nữ dân gian ra vào du ngoạn nữa.

Tháng giêng qua, Càn Long hoàng đế chẳng có việc gì làm, bèn cùng với Xuân A Phi, Quách Giai thị, Tướng Giai thị, ba người nô giỡn hú hí trong thâm cung suốt ngày.

Về sau Quách thị bèn tâu:

- Bệ hạ từ khi ở Giang Nam về, tìm kiếm được bao nhiêu là vàng ngọc châu báu, hơn nữa, lại thường tưởng nhớ tới phong cảnh hữu tình miền Giang Nam, tại sao bệ hạ không y theo thắng cảnh miền này mà kiến trúc ngay tại trong vườn Viên Minh này, cho trưng bày hết những châu báu vàng ngọc đó ở trong vườn, rồi bọn tiện thiếp được hầu hạ bệ hạ, suốt ngày du ngoạn, một là để bệ hạ khuây khoả nỗi tưởng nhớ miền Giang Nam, hai là để bọn tiện thiếp như là đã được trở về quê hương xứ sở vậy.

Càn Long hoàng đế nghe xong cao hứng nổi lên, bèn truyền dụ cho Nội vụ phủ cùng bọn nhân viên cung phụng trong Tây Thành quán, đem những thắng cảnh danh lam miền Giang Nam vẽ lên giấy hết để trình cho ngài xem.




Thánh chỉ vừa ban xuống, tức thì bọn cung phụng nhân viên bắt tay vào việc ngay. Ngày này qua ngày khác, họ vẽ hết bức này qua bức khác gần như tất cả: nào phong cảnh Tây Hồ, nào phong cảnh Kim Sơn, nào phong cảnh Tô Châu.

Cứ mỗi nơi một bức hoạ. Lúc đó hoàng đế cùng với ba vị phi tử lựa chọn mãi, lấy bốn mươi bức giao lại cho Hoà Khôn, bảo y cai quản việc xây dựng và khởi công ngay tức khắc.

Hồi 85: Oan oan tương báo


Hoà Khôn nhận được thánh chỉ, liền cho một số lớn nhân viên vào rừng núi miền Giang Nam để tìm gỗ quý, mặt khác bắt dân phu ở các tỉnh Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây để phu dịch, Khôn lại giả thác thánh chỉ quyên góp tiền bạc rồi cho người tới nhà các vị quan lại và thân sĩ địa phương để yêu sách, nếu có kẻ nào không chịu hoặc cúng tiền không vừa ý, Khôn liền bảo họ trái lệnh vua, bắt trị tội ngay. Cũng nhờ dịp này, Khôn đã trắng trợn cướp được khá nhiều tiền khiến dân chúng oán than khắp.

Trong số người bị Khôn bóc lột kiểu này, có một vị thái thú tỉnh Hồ Bắc tên gọi Khang Vũ Thương chết một cách hết sức khổ sở.

Thương vốn có tiền, nhưng lại chẳng có quan tước gì. Viên tri phủ địa phương thấy vậy bèn vừa khuyến khích vừa lừa gạt khiến Thương nổi máu anh hùng, độc lực quyên giúp việc đắp đê Hải Đường ba vạn đồng. Viên tuần phủ Sơn Đông giúp Thương tâu việc này lên hoàng đế. Thế là một đạo thánh chỉ truyền xuống cho Thương hàm tứ phẩm và cắt cử đi làm võ quan tri phủ tại tỉnh Hồ Bắc.

Bởi đã quyên góp mất ba vạn đồng, nhưng Thương vốn tính tham nhũng cho nên sau khi đến nhậm chức, liền thẳng tay vơ vét của dân. Không đầy một năm, Thương đã gỡ lại đủ số ba vạn đồng, rồi sáu năm sau tại chức thì Thương đã giàu có lớn. Suốt một giải đất Dương Châu, Thương có nhiều rộng muối, và cũng có "qua lại" với bọn lái muối Uông Như Long ở Dương Châu.

Không ngờ việc giàu có bốc trời này đồn đại tới tai Hoà Khôn. Vừa gặp lúc cần tiền xây cất tại vườn Viên Minh, Khôn liền phái người tới tri phủ Hồ Bắc hỏi tiền.

Vừa mới mở mồm đòi, tên tay chân của Khôn đã nói toẹt ra một trăm vạn. Kháng Vũ Thương thoạt nghe đã hoảng hồn bạt vía đến té xỉu. Thực ra Thương cũng khó đào ngay một lúc một số tiền quá lớn như vậy để đáp lại lời Khôn. Bởi thế Thương miễn cưỡng cho người tải ba vạn lạng bạc lên kinh.

Khôn thấy Thương còn kè vậy bèn sinh một kế. Hồi đó tỉnh Sơn Đông có bắt được một bọn giặc biển, Khôn cho người tới ngầm bảo tên tướng cướp cung xưng là đồ đảng của Thương để vu khống cho Thương. Lời cung được tâu gấp lên triều.

Hoàng thượng vô cùng tức giận, lập tức hạ lệnh cách chức Thương đồng thời chém hết toàn gia. Thương có đứa con trai mới năm tháng cũng không khỏi tội chết.

Hoà Khôn giải quyết vụ án này thật là chóng vánh. Gia sản của Thương, Khôn chẳng chê bai gì, nuốt trôi hết sạch.

Không ngờ trong nhà Thương, Khôn vẫn còn để sót lại một cái góc mầm hoạ, đó là Dư Đại Hải.

Hải vốn là con trai một người bạn của Thương. Người bạn này đối với Thương có cái nghĩa tám lạy với nhau, cho nên lúc lâm chung bèn đem con ký thác cho Thương. Thương giữ Lư Đại Hải ở trong nhà và cho học hành thành người. Thương còn cưới vợ cho Hải nữa.

Dư Đại Hải có một thần lực ghê gớm, ai cũng phải sợ. Thanh sắt nặng ngàn cân, Hải chỉ cần một tay cũng đủ bốc nổi lên như ta cầm một cây gậy gỗ. Khi gia sản bị tịch biên, Kháng Vũ Thương cho Hải một vạn lạng bạc và ngầm bảo Hải trốn đi. Lúc này vợ Hải vừa mới mất chỉ còn có một đứa con gái không tiện mang theo. Hải bèn tới nhờ Uông Như Long.

Dư Đại Hải từ nhỏ được Kháng Vũ Thương nuôi nấng dạy dỗ hết sức tử tế cho nên trong lòng không quên vì họ Kháng mà báo thù. Uông Như Long không biết rõ bầu tâm sự này của Hải, chỉ thấy Hải có sức mạnh như thần bèn mời ở lại trong nhà làm một vị tiêu sư.

Về sau, khi Càn Long hoàng đế du Giang Nam lần thứ ba bị viên quan Tổng binh chơi cho vố nhốt chuồng ngựa hoảng hồn, bèn ngầm sai người tìm kiếm những tên mạnh tợn sung vào đội quân Thần Cơ doanh để bảo vệ thánh giá, Uông Như Long liền tiến cử ngay Dư Đại Hải.

Càn Long hoàng đế sai Hải thử tài ngay trước mặt mình, quả nhiên thấy Hải sức khỏe hơn người, liền trọng dụng Hải rồi khi hồi loan bèn mang theo Hải về kinh.

Lúc lên đường, Hải bèn đem đứa con gái của mình phó thác cho Uông Như Long. Nó tên gọi Tiểu Mai, hết sức xinh đẹp, duyên dáng. Long vốn tên hiếu sắc, trong lòng lấy làm vừa ý lắm. Thế rồi đợi khi Hải lên kinh, Long bèn cậy tiền của và thế lực, bức dâm Tiểu Mai và ép nàng làm nàng hầu.

Tiểu Mai vì thể diện của cha, đành nuốt giận nhẫn nhục đợi chờ. Dư Đại Hải trong cung, chỉ vì muốn báo thù cho gia đình họ Kháng nên tìm mọi cách để làm thân với Hoà Khôn. Hải thường đem dâng lễ vật này nọ luôn, lại khi nghe được chuyện chi cơ mật trong cung là lén tới báo cho Khôn hay.

Ngược lại, Khôn cũng nhiều lần nói tốt cho Hải trước mặt hoàng đế. Nghe Khôn ca tụng Hải, hoàng đế bèn cất nhắc Hải lên chức Thần Cơ doanh trưởng suốt ngày ở trong cung để hộ giá.

Lúc đầu, Dư Đại Hải lên kinh chỉ có một mục đích là giết chết Hoà Khôn để báo thù cho gia đình họ Kháng, nhưng về sau, ngày ngày gần gũi hoàng đế thấy ngài hoang dâm vô đạo, Hải tự nghĩ trăm họ chỉ vì một người mà phải chịu trăm cơ ngàn cực, nên quyết định giết luôn cả hoàng đế nữa để rửa hận cho bao nhiêu triệu đồng bào mình. Hải nghĩ ra một kế "nhất cử lưỡng tiện".

Số là theo qui củ trong cung thì bất luận Vương công, bối lặc thân tín đến đâu đi nữa, khi vào cung cũng không được phép mang vũ khí theo. Ngay cả bọn Thần Cơ doanh thị vệ cũng chỉ được phép đeo trường đao chứ cấm không được dùng đoản đao. Sở dĩ có điều cấm kỵ này bất quá vì sợ hoàng đế bị hành thích mà ra. Đeo đoản đao thì khó kiểm soát, còn đeo trường đao thì dễ thấy. Nhưng đặc biệt chỉ có Hoà Khôn là được mang theo cây đoản đao bằng vàng, trên có khắc hai chữ Hoà Khôn, là vật tặng của hoàng đế. Cây đoản này lúc nào Hoà Khôn cũng đeo ở trong mình thế mà không hiểu tại sao lần này lại bỗng rơi vào tay Dư Đại Hải.

Đêm hôm đó, Càn Long hoàng đế ôm Xuân A Phi trong lòng, thiu thỉu sắp ngủ thì bỗng một người cao lớn nhảy vụt vào phòng. Ngài vội tri hô lên, chưa dứt thì lưỡi đoản đao đã bay vụt tới trước mặt ngài. May được Xuân A Phi lẹ tay cầm cái phất trần vung bừa lại trúng phải khiến nó văng xuống đất Hoàng đế nhặt cây đoản đao lên xem thấy trên cán có khắc hai chữ Hoà Khôn rõ ràng. Lúc đó tên thích khách cũng đã chạy mất dạng không thấy đâu nữa.

Bọn thị vệ nghe tiếng tri hô chạy xô cả vào phòng. Hoàng đế sợ Hoà Khôn bị đình thần chỉ trích nên dấu nhẹm chuyện cây đao mà chỉ nói có tên thích khách nhảy vào ám sát và đã tẩu thoát. Bọn thị vệ nghe xong vội ùn ùn kéo ra ngoài, bủa đi khắp nơi lục soát mãi đến hôm sau cũng chẳng thấy hình bóng hung thủ.

Qua đến ngày thứ hai điểm lại hàng ngũ thị vệ thì thấy mất Thần Cơ doanh trưởng Dư Đại Hải. Thế là lệnh xuống lập tức đóng tất cả các cửa thành lại để bố ráp lùng bắt. Song Hải cũng đã mất tăm.

Hôm đó khắp triều Văn Võ đến tập hợp tại điện Võ Anh để cùng khấu thánh an. Tất cả đều lên tiếng tâu:

- Tên Dư Đại Hải vốn là người do Uông Như Long tiến cử. Bọn thần thiết nghĩ nên phái người tới áp giải ngay tên Long tới kinh, nghiêm hình thẩm vấn cho ra manh mối.

Lời tâu này làm cho Càn Long hoàng đế tỉnh ngộ. Ngài lập tức hạ dụ cho Lưỡng Giang Tổng đốc bắt giải Uông Như Long lên kinh.

Uông Như Long có một gia tư cư vạn. Ngày thường Long vẫn đem lại vật biếu kính Hoà Khôn. Bởi vậy, nay thấy có chỉ bắt Long, Hoà Khôn bèn một mặt giữ thánh chỉ lại, một mặt chạy vào cung xin tha cho y. Khôn tâu:

- Tâu Bệ hạ! Xin cứ giao cho thần vụ án này. Thần sẽ bắt Uông Như Long chịu trách nhiệm hoàn toàn về tên Dư Đại Hải, bắt y phải giao ngay tên hung phạm để cho thần thẩm vấn. Mối nghi ngờ của mọi người đối với thần ắt nhờ đó mà được giải, và Uông Như Long cũng sẽ nhờ đó mà thoát tội.

Càn Long hoàng đế bèn giao luôn vụ đại án này cho Hoà Khôn xét xử. Khôn được chỉ ý ngầm sai một người thân tín chạy về hẹn với Diêm Đại Sứ tỉnh Dương Châu đi gặp Uông Như Long.

Lại nói Dư Đại Hải phóng một dao không trúng Càn Long hoàng đế lập tức trốn ra khỏi kinh, chạy suốt ngày đêm về nhà Uông Như Long trốn tránh. Theo dự ý của Hải thì tuy không đâm chết được hoàng đế nhưng với cây đoản đao có khắc tên Hoà Khôn ấy, tính mạng của Khôn thế nào cũng khó toàn, không ngờ hoàng đế chẳng những không bắt tội Khôn mà còn giao cho y xử tội Hải nữa.

Dư Đại Hải trốn trong nhà Uông Như Long được nhiều tin tức càng ngày càng ghê khiếp. Hải tự biết tính mạng mình nguy rồi nên bảo với Long sẽ bỏ đi nơi khác. Lúc này Long đã được tin từ Bắc Kinh đời nào lại để cho Hải trốn đi.

Uông Như Long có một ngôi nhà lớn xây cất trên một gò nhỏ giữa sông, chung quanh bao bọc toàn nước. Long giấu Hải tại đây, rồi lén tới cáo quan. Viên tri phủ Dương Châu cùng với quan thủ bị đem năm trăm người ngựa lặng lẽ tới bao vây ngôi nhà, bắt Dư Đại Hải y như bắt một con cá trong giỏ rồi giải thẳng về kinh.

Dư Đại Hải vừa tới kinh, cũng chẳng được thẩm vấn khấu cung gì, bị đưa tuốt ra pháp trương chém đầu ngay để thị chúng.

Con gái Dư Đại Hải là Tiểu Mai, nghe được tin này khóc lóc thảm thiết, oán trách Uông Như Long thấy cha nàng chết mà chẳng cứu. Long liền đem hết tài bịp bợm khoác lác một hồi, che giấu luôn cả tội lỗi của mình, khiển Tiểu Mai nửa tin nửa ngờ chẳng biết đường nào mà lần.

Không ngờ sau khi giết Dư Đại Hải, Hoà Khôn lại tiến cử Uông Như Long có công bắt thích khách trước mặt hoàng đế. Một đạo thánh chỉ ban xuống truyền ân thưởng cho Long.

Uông Như Long đã bán đứng Dư Đại Hải, cưỡng chiếm Tiểu Mai lại còn được cả công danh, Long thường giắt cặp lông công lên mũ đội đầu, tới nhà bạn bè và thân thích ăn nhậu, nói khoác mình được Hoà Khôn quý trọng như thế nào, mình dùng kế bắt Đại Hải ra sao và được hoàng đế ban ơn như thế nào, với bộ mặt dương dương tự đắc lắm.

Những lời khoác lác này Long vừa nói ra thì đã bị một tên thủ hạ mách tới Tiểu Mai. Lúc đó Tiểu Mai mới biết rõ Uông Như Long không những cưỡng dâm mình mà còn bán đứng cả cha mình. Nàng căm giận Long, coi Long là kẻ thù chẳng đội trời chung. Nàng bèn bắt tình ngay với tên thủ hạ này để tìm cách điều tra những hành động của Uông Như Long. Từ đó Long làm gì, nói gì ở bên ngoài Tiểu Mai đều biết cả.

Hồi đó nhân muốn xây cất Giang Nam tứ thập cảnh tại vườn Viên Minh, Càn Long hoàng đế lại hạ chỉ Nam tuần để tới miền Giang Nam ngoạn cảnh. Quan viên thân sĩ các tỉnh dọc hai bên đường lại được một dịp chạy có cờ. Tại Dương Châu, viên tuần phủ lần này cũng làm theo các lần trước, nhờ vào bọn thân sĩ giàu có như Uông Như Long và Giang Hạc Đình lo chuyện đón giá.

Trước khi thánh giá tới Dương Châu, Uông Như Long lo lắng chạy vạy, đến nỗi ngày bỏ cả ăn, đêm quên cả ngủ. Do đó Long ít khi tới được phòng của Tiểu Mai.

Nhờ lúc vắng vẻ đó, nàng Tiểu Mai gọi tên thủ hạ vào phòng mình mật bàn việc đại sự. Tên thủ hạ này xưa kia vốn là một tên thân tín nhất của Uông Như Long. Bất cứ đi đâu Long cũng đều đem theo hầu hạ bên cạnh, một bước chẳng rời. Nay sau vụ Dư Đại Hải, Long đã tìm được tên khác thay thế, khiến hắn đem lòng oán giận.

Lần này Long cũng tính tiếp giá ngay trong vườn Hòe nên y cho sửa sang lại cẩn thận và trang hoàng hết sức lộng lẫy và đầy đủ, chẳng thiếu một thứ gì.

Chẳng mấy ngày, quả nhiên Càn Long hoàng đế đã tới. Vừa bước chân vào vườn ngài sực nhớ tới ngay những chuyện phong lưu lạc dật hồi nọ, bèn truyền Uông Như Long vào bệ kiến, hỏi chuyện Long về bọn gái yên hoa thuở trước, Long cứ nhất nhất tâu bầy, rằng Dương Châu hiện có "thập nhị kỹ nữ", được coi là mười hai cành kim thoa, tài sắc vẹn toàn.

Càn Long nghe xong lấy làm vui lắm, bèn bảo Long cho đưa ngay vào hầu. Việc này Long đã lo liệu sẵn rồi, bèn đáp ứng ngay. Trong số mười hai ả này ta thấy có vài ả quả là tuyệt thế giai nhân, có thể liệt vào loại khôi nguyên son phấn, một gọi là Thanh Hà tuổi mới mười tám, còn một con gọi là Giang Hà tuổi đúng mười bảy - Thanh Hà, Giang Hà vốn là đôi chị em ruột.

Càn Long hoàng đế vừa thấy hai chị em nhà này lòng đã mê như điếu đổ. Ban ngày, ngài cho gọi đủ mười hai danh kỹ ca vũ dâng rượu. Ban đêm chỉ cần có hai chị em Hà vào giường để thị tẩu mà thôi.

Bên trong thì Hoàng đế uống rượu chơi gái, bên ngoài thì Uông Như Long chạy vạy lo liệu đủ thứ đến phờ cả người.

Qua ngày thứ tư, trời đã về chiều, giữa lúc trong vườn Hòe mọi người đang bận rộn lo liệu, Uông Như Long bỗng thấy buồn tiểu bèn vội chạy ra góc tường, chỗ hẻo lánh nhất để xả. Long vừa bước tới chỗ đó thì cũng vừa thấy tên thủ hạ chạy theo ra. Hắn vốn từng là kẻ tâm phúc nên Long chẳng nghi ngờ gì mà phải đề phòng. Không ngờ vừa chạy đến bên cạnh Long, hắn vụt giơ cao con dao nhọn hoắt, nhè thẳng vào cổ họng của Long mà đâm một dao lút cán. Long chỉ la "ối" lên được có một tiếng rồi té ngửa ra chết tết. Tên thủ hạ hạ sát xong chủ mình tính tìm đường thoát. Nhưng tiếng la của Long đã khiến bọn thị vệ trong vườn nghe được. Chúng đổ xô lại vây lấy tên sát nhân.



Hồi 86: Vụ án văn tự , chết cả họ chỉ vì thơ

Tên thủ hạ của Uông Như Long bị bọn thị vệ vây bắt tự thấy khó thoát, bỗng quay ngược mũi dao nhè thẳng tim mình mà đâm vào, miệng chỉ kêu được một tiếng "chao ôi!" rồi ngã quay ra đất, mắt, trợn ngược lên, chết luôn tại chỗ.

Bọn thị vệ vội chạy lại gỡ con dao ra, cởi chiếc áo ngoài của hung thủ, bỗng thấy lộ ra một bộ ngực trắng mịn với cặp vú cao vòi vọi có đôi núm danh dảnh. Cả bọn lấy làm lạ. Lột thêm cái mũ, họ lại thấy một bộ tóc mây dài đen óng như tơ. Cuối cùng lột đến đôi giày ra, họ còn thấy một đôi chân nho nhỏ xinh xinh. Thì ra một thiếu nữ tuyệt sắc chứ chẳng phải là tên thủ hạ nào của Uông Như Long.

Bọn thị vệ không dám xem thường, một mặt chạy về báo cho thị vệ trưởng biết, một mặt chạy báo cho gia đình Uông Như Long hay. Vợ Long hối hả chạy tới nhìn xem mới biết tên thích khách giết họ Uổng chẳng ai xa lạ mà chính là Tiểu Mai. Bộ quần áo nam trang nàng mặc đó chính là bộ quần áo của tên thủ hạ thân tín nhất của Uổng. Hỏi ra mới biết tên thủ hạ này đã cao bay xa chạy từ hồi nào không rõ! Người ta lại lục trong túi áo tìm ra được lá đơn kêu oan. Trong lá đơn này có kể nào Hoà Khôn vu khống gia đình họ Kháng, nào cha nàng là Dư Đại Hải muốn thay họ Kháng để báo thù, nào Uông Như Long cưỡng dâm nàng, lại còn bán đứng cha nàng ra sao, và sở dĩ nàng hạ sát Long là bởi vì: một để báo thù cho cha, hai để rửa hận cho mình. Lá đơn nói thêm Hoà Khôn là một gian thần hại nước, mong cầu hoàng thượng lập tức bắt hắn trị tội.

Bọn thị vệ đều là những tay tâm phúc của Hoà Khôn, vội đem huỷ đơn đi ngay cho chủ, rồi tâu láo với Càn Long hoàng đế rằng tên thích khách nọ tay cầm con dao nhọn xông tới phía dưới ngự lâu, ngó trước nhìn sau có ý hành thích hoàng thượng song bị Uông Như Long trông thấy chặn hắn, do đó hắn mới giết chết Uông Như Long.

Càn Long hoàng đế nghe bọn thị vệ tâu láo mà vẫn tin là thật. Bởi vậy ngài hạ chỉ truy tặng cho Long đệ nhất phẩm triều đình, còn sai Lương Thi Chính thay mặt mình tới nhà Long làm lễ "ngự tế", đồng thời cấp cho vạn lạng bạc dùng cho đám tang.

Từ khi xảy ra vụ Uông Như Long bị giết, Càn Long hoàng đế hễ đi tới đâu cũng nơm nớp đề phòng. Ngài nghĩ rằng Thanh Hà, Giang Hà cùng cả bọn mười con danh kỹ kia đều không có ý tốt cho nên ngay đêm đó đuổi ra vườn hết. Mặt khác ngài hạ lệnh cho tập hợp người ngựa rồi điều động tuần thám ngày đêm bên ngoài vườn.

Hai chị em Thanh Hà và Giang Hà đang được hoàng đế sủng ái, bỗng thấy bị đuổi ra chẳng hiểu ý tứ của ngài ra sao, nên hai nàng nũng nịu làm bộ như quyến luyến lắm không muốn đi. Ngài mới nói dối là khi nào hồi loan sẽ đem cả hai về kinh, lại vờ hỏi hai nàng sống nơi đâu thì Thanh Hà hồi tấu:

- Khuê phòng của bọn thiếp ở ngay trên bờ sông, phía dưới lều có trồng một cây liễu lớn.

Càn Long hoàng đế lại bảo:

- Bọn ngươi chờ tin ta hồi loan, khi tới Dương Châu thì treo ngay một chiếc lồng đèn đỏ lên trên lầu. Ta sẽ sai người tới đón bọn ngươi về kinh.

Hai chị em Thanh Hà thấy Càn Long hoàng đế nói vậy, mừng rỡ khôn xiết, và sau đó về ngay căn phố lầu bên sông ngày ngày chờ đợi.

Trên đường du ngoạn, Càn Long hoàng đế thường gặp phải thích khách, cho nên ngài nghi rằng lòng dân vẫn còn nhiều kỳ thị Mãn - Hán, chỉ muốn giết hoàng đế nhà Mãn Thanh để báo thù cho dân tộc Hán. Ngài lại tự nhủ cái tư tưởng báo thù rửa hận đó phần nhiều là do bọn đọc sách, tức bọn trí thức xách động mà nên. Bởi vậy muốn tra xét xem dân tâm ngay dối, yêu ghét ra sao, trước hết cần phải theo sát mấy anh chàng đọc sách đó đã.

Nghĩ vậy Càn Long hoàng đế bèn hạ chiếu cho những vùng ngài đi ngang qua, bọn sĩ tử được phép dâng thơ văn sáng tác lên để đích thân ngài xem, nếu hay sẽ thưởng tiền nếu hay tuyệt sẽ thưởng quan hàm chức tước. Chiếu chỉ vừa ban xuống thì bọn sĩ tử vọng tưởng danh lợi ùn ùn kéo tới dâng thơ, hiến văn. Hoàng đế nhận thơ và giao cho mấy vị đại thần thị tòng giỏi văn thơ duyệt xét. Tuy không có áng văn chương nào gọi là kiệt tác nhưng cũng không có câu nào tỏ ý chống đối cả

Hồi đó có một vị danh sĩ già họ Giao người Giang Âm, nhân vì công danh chẳng vừa ý bèn sáng tác một bộ tiểu thuyết tên là "Dã tấu bộc ngôn" (lời nói thẳng của ông lão nhà quê).

Họ Giao ỷ vào tài học của mình cho nên trong sách nói đủ thứ: nào là thiên văn, địa lý, nào là quân sự, nào là lễ nhạc, lịch số, nào là âm nhạc văn thơ… chẳng có thứ nào là chẳng nói tới. Nhân vật chính trong chuyện chẳng phải ai khác mà chính là ông ta đội cái tên khác đó thôi. Khì kể đoạn "Tây Hồ giết rồng" thì lời lẽ khí khái quả chẳng tầm thường, nhưng khi kể tới nàng Lý Xuân Nương nào đó thì giọng văn lại dâm đãng nhơ nhớp lạ thường.

Ông lão có một cô gái tên gọi Hàng Nương, thông hiểu chữ nghĩa lại rất thông minh. Cô Hàng thấy cha mình viết sách có nhiều chỗ phạm kỵ lại mô tả quá dâm ô thì thế nào cũng bị huỷ hoặc cấm, nên thường hay khuyên cha sửa chữa lại. Nhưng phải cái ông lão Giao, tính ngông nghênh hết sức chướng, chẳng thèm nghe con! Đã thế ông lại còn bắt Hàng Nương chép lại bộ sách của ông bằng chữ chân phương hết sức cẩn thận, và đóng thành một trăm bản, chứa trong một cái tráp. Ông chứa tại đây là để chờ khi Càn Long hoàng đế ngự giá ngang qua là sẽ đem dâng. Ngày thường có vị thân hữu nào đến nhà là y như ông đem sách ra cho họ xem, để khoe cái học rộng của mình. Trong số thân hữu đó có một vị tên gọi Kim Lang Phủ, vốn là một tay thiếu niên đọc sách, lại giàu có. Phủ thấy Hàng Nương xinh đẹp nên đã nhờ mối lái tơ ướm đôi ba lần nhưng lão Giao chê Phủ là người khinh bạc, từ chối. Phủ im lặng từ đó nhưng luôn căm giận trong lòng.

Chú ruột của Phủ tên gọi là Kim Ngẫu Phương cũng có chuyện kiện tụng lôi thôi tới cửa quan về chuyện ruộng đất với gia đình họ Giao, do đó đôi bên lại cũng có điều không thuận nhau.

Kim Lang Phủ được biết ông lão họ Giao viết bộ sách trong đó rất nhiều điều kỵ huý. Bộ sách này chính Phủ đã được đọc. Tin chắc được dịp tốt để rửa hận, Phủ liền lên nha môn của quan tri phủ Giang Âm để mật cáo. Viên tri phủ này vốn đã được mật chỉ của triều đình về việc sưu tra những trước tác phản nghịch, nay được Kim Lang Phủ cáo mật tỏ ý mừng lắm.



Thế là viên tri phủ Giang Âm đích thân tới nhà lão Giao để thăm viếng. Ông lão họ Giao có biết đâu là kế, lại còn vác cả bộ sách "Dã tẩu bộc ngôn" của ông ra để khoe nữa. Viên tri phủ thấy trên đầu sách có rất nhiều những lời khoa trương khoác lác, nhất là đoạn kể việc "giết rồng" thì rõ ràng ngụ ý giết vua rồi, bèn ngỏ lời tán tụng mấy câu lấy lệ, và quyết rằng một khi dâng sách lên hoàng đế thì thế nào cũng được thưởng. Ông lão họ Giao nghe nói lấy làm đắc ý lắm!

Hôm đó, Càn Long hoàng đế tới Giang Âm. Ông lão họ Giao mặc áo thụng dài trịnh trọng nâng cái tráp, cung kính quỳ lạy ngay bên bờ sông để dâng sách. Viên tri phủ Giang Âm đã chờ đợi trước, chỉ còn chờ trên ngự chu hô tiếng "bắt" là y hạ thủ ngay. Không ngờ khi dâng lên ngự chu, đem mở tráp ra thì tuy có một bộ sách thật nhưng bên trong chẳng có chữ nào, toàn là giấy trắng mà thôi.

Càn Long hoàng đế lấy làm lạ, truyền chỉ ra ngoài hỏi như thế nghĩa lý gì. Ông lão họ Giao lúc đó mới biết sách của mình chi toàn có giấy trắng bèn hoảng hồn bạt vía, chẳng hiểu ra sao cả, miệng méo xệch đi không còn nói được một câu nào nữa.

Càn Long hoàng đế thấy bộ tịch ông lão như vậy, cho rằng chỉ là một lão khùng bèn truyền chỉ ra ngoài quở trách vài ba câu rồi cho về. Thế là Kim Lang Phủ với viên tri phủ Giang Âm hoài công bao ngày đồ mưu lập kế hại người, rút cục suýt hại chính cả mình.

Riêng đối với ông lão họ Giao bộ sách "Dã tẩu bộc ngôn" là cả một bầu tâm huyết từ lúc còn trẻ đến lúc đời đã hầu tàn. Ấy thế mà nay một chữ cũng chẳng thấy, thử hỏi làm sao ông chẳng thương tâm. Ông ở trong nhà thở ngắn than dài, hết ngày này qua ngày khác.

Ông có ngờ đâu rằng bộ sách quý của ông đã bị chính con gái cưng của ông đánh cắp đem chứa vào trong một cái chum nhỏ, chôn kỹ trong vườn sau. Mặt khác nàng mua giấy về đóng một trăm quyển khác giống in như những quyền cũ, bỏ vào trong tráp khoá lại cẩn thận. Ấy chính nhờ cô con gái biết lo xa cô hành động khôn ngoan này mà ông đã thoát tội.

Mãi về sau, khi cha đã mất và mình đã có chồng rồi, Hàng Nương đến đào chum sách lên cất kín trong nhà nên mới còn truyền đến ngày nay, đó là việc sau xin kể vào dịp khác.

Lại nói Càn Long hoàng đế phòng người Hán phản bội, nên đã gây ra những vụ "án văn tự". Bởi thế hồi đó, ngài đã tìm ra được hai vụ - một vụ là "Hắc mẫu đơn thi" (thơ vịnh hoa mẫu đơn mầu đen), còn một vụ nữa là "Trụ lâu thi cảo". Bài thơ vịnh hoa mẫu đơn đen vốn là sáng tác phẩm của Đại học sĩ Thẩm Đức Tiềm. Tiềm tên tự là Qui Ngu, vốn một tay thơ cự phách. Càn Long hoàng đế tuy vốn liếng văn chương chẳng mấy gì, nhưng lại thích khoe mình là người văn học thường xướng hoạ thi ca với bọn đình thần. Nhưng ngài chỉ sợ mình có phen lộ tẩy, lòi cái dốt nát ra khiến bọn bày tôi cười vào mũi cho, bởi thế ngài mời hai vị đại thần luôn luôn ở cạnh để làm bài "gà" cho mình. Một người tên gọi Kỷ Hiều Phong chuyên làm văn thay cho ngài. Còn một người nữa chính là Thẩm Đức Tiềm, chuyên làm thơ. Về sau Tiềm chết đi. Lương Thi Chính thế vào chân đó. Thẩm Đức Tiềm thấy Càn Long hoàng đế coi trọng mình nên thường có vẻ kiêu ngạo, ngay cả trước mặt ngài. Cũng vì mọi việc thơ phú đểu phải nhờ Tiềm, Càn Long hoàng đế cũng bỏ qua đi, không muốn nói đến những tiểu tiết đó trái lại còn đặc biệt kính trọng là khác. Lúc sáu mươi tuổi, Tiềm vốn là một tú tài. Nhưng đến bảy mươi tuổi thì Tiềm vọt lên cái chức Tể tướng. Và đến tám mươi tuổi, Tiềm từ quan về vườn. Thế mà Hoàng đế vẫn thường còn sai người tới nhà riêng vấn an, thật là cả một điều vinh dự lớn lao cho Tiềm.

Càn Long hoàng đế có làm mười hai "Ngự chế thi tập", bèn sai đưa tới nhà Thẩm Qui Ngu để nhờ duyệt lại, và nếu cần thì sửa sang cho thơ được thập phần hoàn hảo. Thẩm Qui Ngu nhận sách, đem duyệt, chẳng thèm nể nang gì nhà vua, cứ thực mà khen chê, khiến trong tập thơ có nhiều chỗ bị phê bình quá gắt gao, với những lời lẽ rất tệ nữa, đó là chưa kể còn rất nhiều đoạn thơ bị vứt bỏ đi là khác. Khi bộ "Ngự chế thi tập" gởi trở về kinh, Càn Long hoàng đế xem lại, trong lòng thực không vui tí nào, nhưng vì nể mặt lão thần, ngài đảnh làm thinh, không nói gì cả.

Cách một năm sau, Thẩm Qui Ngu chết. Năm này cũng là năm mà Càn Long hoàng đế tuần du phương Nam, đi về ngả Tô Châu. Qua địa phương này, ngài bỗng nhớ lại họ Thẩm, bèn truyền chỉ xa giá tới phần mộ của Thẩm để tế viếng. Cũng trong dịp này, ngài xuống chỉ gọi hết con cháu của họ Thẩm đến. Ngài nghĩ bụng Thẩm Đức Tiềm tức Qui Ngu vốn là thi nhân một thời thì trong nhà tất nhiên phải có trước tác, thế là ngài liền hỏi thử xem. Đám con cháu của Tiềm thừa hưởng sự nghiệp của ông cha, quá sung sướng rồi, ngày đêm chỉ rủ nhau cờ bạc rong chơi, chẳng học hành gì cả, cho nên có biết chữ nghĩa gì nhiều đâu. Bởi thế, khi Càn Long hoàng đế hỏi tới, chúng đâu có biết gì là phạm huý hoặc không phạm huý, vội vào nhà lễ mễ đem hết mọi di cảo của ông cha ra và dâng lên.

Càn Long hoàng đế mở ra xem, thấy còn có rất nhiều bài thơ chưa được ghi vào trong thi tập, hơn nữa rất nhiều bài thơ làm thay cho hoàng đế cũng được chép vào trong, phía dưới chú thêm ba chữ "ĐẠI ĐẾ TÁC" (làm thay vua). Hoàng đế xem xong, bất giác thẹn quá hoá giận. Ngài tự nhủ: lão già này biết thơ của trẫm đã in và phát ra ngoài rồi, ấy thế mà lão vẫn còn đề chữ "làm thay" trong thi cảo này, há chẳng phải là có dụng ý phỉ báng trẫm? Lòng lúc này quả không được vui tí nào, song ngài vẫn chưa tìm ra cách để xử trí.

Nhưng đến lúc xem tới cuối sách, ngài thấy một bài thơ nhan đề là, "HẮC MẪU ĐƠN THI" (*) ngay vào bài đã hạ hai câu: "Đoạt Chu phi chính sắc. Dị chủng diệc xưng vương", thì ngài không còn giữ được bình tĩnh nữa, cả giận quát lớn:

- Chà! Tên đại nghịch bất đạo Thẩm Qui Ngu giỏi thật! Rõ ràng hắn nói trẫm đã cướp ngôi thiên tử của họ Chu, lại còn chửi trẫm là dị chủng nữa. Như thế thì làm sao trẫm nhịn được?

Thế là ngài lập tức hạ chỉ:

"Thẩm Đức Tiềm lúc sinh thời được hậu ơn của triều đình. Nay xem tới di trước, trẫm mới biết y có ý phỉ báng triều, có lòng phản loạn chống đối. Vậy trẫm hạ chỉ: quật mồ phá bia của hắn, kéo thây ma hắn trong quan ra, chém đầu răn chúng. Còn con cháu họ Thẩm nhất luận đày tới Hắc Long Giang để sung quân. Chỉ giữ lại cháu nội năm tuổi, truất làm thường dân, để nối dõi tông đường mà thôi"
.

Vụ án văn tự này kết liễu thì cả một bọn văn nhân anh nào anh nấy hoảng quá, suốt ngày chỉ cúi đầu rụt cổ ngồi trong xó bếp, chẳng dám bò ra tới cổng nữa. Và cũng từ đó, chẳng anh nào đám ho he thơ phú để đem dâng ngự lãm.

Chú thích:


HẮC MẪU ĐƠN THÍ (Thơ hoa mẫu đơn đen)

Đoạt chu phi chính sắc.

Dị chủng diệc xưng vương

Có nghĩa là:

"Cướp màu đỏ thì chẳng phải là màu sắc chính

Giống quái lạ cũng xưng vương"

Trong câu thơ thứ nhất: Chu có nghĩa là màu đỏ. Hoa mẫu đơn được gọi là vua các loài hoa - mẫu đơn màu đen tức là đã bị mất đi màu đỏ. Chu còn là họ của vua nhà Minh vì thuỷ tổ triều. Minh là Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ). Câu thơ trên có ý ám chỉ nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh thì chằng phải là chính thống. Câu thứ nhì có nghĩa "giống quái lạ cũng xưng vua". Ý mỉa mai khinh ghét nhà Màn Thanh: "dị chủng" (giống quái lạ) ám chỉ nhà Mãn Thanh thuỷ giống Man rợ ở phía bắc, chứ không phải giống Hán.

Càn Long nghĩ vậy nên tức giận quá mà trừng phạt Thẩm Đức Tiềm.



Nguồn: http://vnthuquan.org/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved