Hồi 136: Quân Thanh thảm bại tại Giang Nam
Quân tóc dài thấy tướng Thanh
oai dũng liền lui vào trong thành cố thủ. Hoà Xuân lại định ra một kế: sai quân
sĩ đào hào đắp tường vây kín thành Giang Ninh xa rộng đến hơn trăm dặm, sau đó
còn bố trí chung quanh đến tám vạn quân để chuẩn bị xung sát. Phía ngoài sông,
Xuân cho thuỷ sư dùng ván ghép lại thành những thuỷ doanh liên lạc luôn luôn
với bộ doanh khiến thuỷ lục hải quân đều có cái thế ỷ đốc, vây chặt tứ bề thành
Giang Ninh.
Hồi 137: Lan Quý Nhân sinh
hoàng nam
Lại nói trong cung cấm
tại Bắc Kinh, Hàm Phong hoàng đế được tin Lan quý nhân có thai, ngày đêm chỉ
mong, nàng sinh cho mình một hoàng nam. Ngài không ngờ ông xanh kia thực đã hết
lòng chiều mình: Lan quý nhân quả nhiên sinh, con trai như ngài mong ước.
Cái tin vui này loan truyền ra
ngoài nhanh như chớp. Không những hoàng đế, hoàng hậu vui mừng mà đến cả văn võ
bá quan trong triều đình, muôn dân trăm họ ngoài thôn dã, ai cũng đều múa nhảy
hát ca. Trong các nha môn đinh thự, ngoài các phố phường làng mạc, đâu đâu cũng
treo đèn kết hoa ăn mừng.
Sung sướng vì có được hoàng
nam, Hàm Phong hoàng đế thăng Lan quý nhân lên chức Lan quý phi. Hoàng tử vừa
sinh, ngài đặt tên là Đái Thuần.
Lan quý phi nhờ sinh hoàng tử,
càng kiêu ngạo hết chỗ nói. Chẳng những nàng không thèm để ý tơi bọn phi tần
trong cung cấm, mà ngay cả đến Hiếu Trinh hoàng hậu, nàng cũng coi chẳng vào
đâu. Mặt khác, chính hoàng hậu cũng có đôi phần nể nang. Thực ra chú bé gọi
hoàng nam nọ, đâu có phải là con trai của Lan quý phi? Chú bé tốt phước này
chính là con trai của một cô gái Hán trong vườn Viên Minh tên gọi Sở Anh.
Sở Anh họ Sở mà tên Anh, vốn là
một tiểu thư trong một gia đình có đọc sách. Cha nàng người Hồ Nam có giữ chức:
tiểu kinh quan tại Kinh vài năm, kiếm ăn cũng khá. Sở Anh lớn lên, trông xinh
đẹp lả lướt, phong vận lắm. Đám quan trường nghe tiếng nàng, nhiều anh nhờ mai
mối, nhưng cha nàng tính thanh cao khảng khái, thường bảo bọn này dơ dáy bẩn
thỉu, đâu có xứng với tài sắc của con gái ông, thành thử anh nào cũng cụt vòi
co lưỡi lại hết và lặng lẽ rút êm.
Không ngờ, Sở Anh vừa bước sang
tuổi mười sáu, thì cha nàng bỗng nhuốm bệnh, lăn ra chết. Thế là nhà cửa tiêu
điều, gia đình chỉ còn lại mấy bàn tay trắng. Nghe tin trong cung cấm mướn gái
Hán phục dịch, bà mẹ của Sở Anh tham số bổng lộc khá lớn bèn đưa nàng vào cung.
Khi bước chân vào cung, Sở Anh
tâm niệm rằng từ đây chỉ là kiếp con sen quét tước lau chùi nhà cửa, trông coi
giữ gìn cung vàng điện ngọc mà thôi chứ chẳng còn có một cái gì gọi là mở mặt
với đời nữa.
Nhưng Sở Anh không ngờ rằng
trong cung Thanh lại có một ông vua Thanh đa tình, lẳng lơ, chỉ thích gái Hán,
khoái hơn nữa là gái Hán chân nhỏ mà ông ta vẫn gọi là "Tam thốn kim liên" (ba tấc sen vàng). Ông đó chính là Hàm
Phong hoàng đế.
Sở Anh vốn là gái Hán có những
đường nét gợi tình đáng yêu, lại vừa có cặp "Tam
thốn kim liên" thì Hàm
Phong hoàng đế làm sao lại có thể bỏ nàng nằm lạnh lùng trong cung cấm của ngài
được.
Thế rồi một hôm, nàng đang dạo
quanh bụi mẫu đơn để ngắm nghía mấy bông hoa vừa mới nở thì Hàm Phong hoàng đế
tản bộ dưới dãy hành lang. Chợt nhìn thấy cặp "Tam
thốn kim liên" của nàng
đặt nhẹ trên thám cỏ xanh, ngài như bị nó gắn chặt lấy. Đôi mắt ngài nhìn chăm
chăm tự nhủ sao Trời Phật tự nhiên lại đem cho ngài một vưu vật mà không thèm
báo trước như vậy.
Ngài tươi hẳn mặt lên, vội vẫy
bọn thị vệ theo hầu. Bọn này hầu hạ ngài, đã quen với cái vẫy tay ấy quá rồi,
nên biết ngài sắp gây ra một vụ ngoạn mục gì đây, vội hè nhau lỉnh sang góc
vườn khác, hoặc chui vào bụi cây, giấu kín thân hình nhưng không quên dành cho
đôi mắt được rảnh rang qua kẽ lá để thưởng thức một màn tuồng vô cùng hấp dẫn.
Hàm Phong hoàng đế đương nhiên
là bước tới gần người đẹp, gọi hầu hạ theo cái điệu của mình. Trời thì trăng
gió thì mát, thảm cỏ thì xanh lại êm: thử hỏi còn có giường chõng nào, chăn nệm
nào, êm ấm sướng khoái bằng nơi này nữa không?
Hôm ấy là hôm đầu tiên được nếm
của chua trong đời Sở Anh. Chẳng biết nàng có thấy gì lạ lùng không, nhưng đối
với tay phong lưu mã thượng như hoàng đế Hàm Phong thì ít ra cũng có một vài âm
hưởng dội vào lòng, khiến ngài thấy được một vài cái lạ, cái khác ở trên thân
thể ngọc ngà của nàng. Quả thế? Bởi lâm hạnh một lần chưa đủ, ngài làm luôn một
hơi đến mấy lần. Và hình như vẫn còn thèm thuồng lắm!
Ít hôm sau ông vua phong lưu mã
thượng tất nhiên cần tìm cái mới khác, bỏi vì dù sao cái của Sở Anh cũng đã cũ,
ngài chẳng khám phá được gì thêm. Thế là ngài quất ngựa truy phong, khiến người
con gái Hán "Tam thốn kim
liên" mỏi mắt trông chờ
mà chẳng bao giờ được gặp lại.
Hàm Phong hoàng đế có ngờ đâu
chỉ vài lần gặp gỡ đó thôi cũng đủ để bao nhiêu chuyện động trời tiếp diễn mãi
về sau. Số là Sở Anh sau mấy lần chịu ơn mưa móc đã cảm thấy mình thay đổi dần.
Đôi má từ hồng đã đối dần sang xanh, tím, ham của ngọt đã biến sang thèm của
chua, và nhất là cái bụng vốn thon thon bỗng chuyển sang hình cái bầu có nắp…
Cái bầu ấy lớn dần theo ngày
tháng, Sở Anh tất nhiên mừng nhưng cũng có lúc lo vì ai biết trước được ngày
mai.
Ông vua đa tình nọ thì còn đuổi
theo mảnh tình khác, đâu có để ý gì tới nàng mà biết tới cái bầu nọ, nhất là
ngài lại đang mê say một trang sắc nước hương trời là Lan quý nhân.
Thực thế! Lan quý nhân lúc này
được sủng ái quá cỡ, do đó nàng cũng lên mặt quá cỡ. Trong vườn Viên Minh, nàng
đã qua mặt Hàm Phong hoàng đế, che mắt bịt tai ngài để tha hồ làm theo tiếng
gọi hận thù của mình. Không biết bao nhiêu gái Hán đã bị nàng ngầm sai thủ hạ
đánh chết hoặc ném xuống hồ cho chìm mất xác.
Bỗng một hôm có kẻ đến ton hót
với nàng chuyện Sở Anh đã từng chịu lâm hạnh đôi lần với hoàng đế. Thế là nàng
bảo thái giám cho gọi Sở Anh tới. Lúc đầu, nàng chỉ có mỗi một ý nghĩ là đập
chết vứt xác cho quạ chuột rúc rỉa bụi rậm nơi bìa vườn, có thế thôi. Nhưng
không ngờ khi nhìn tới cái bụng của Sở Anh nàng bỗng thay đổi chủ kiến ngay.
Cái bầu của Sở Anh lúc đó đã
khá lớn cho nên bất cứ ai nhìn vào cũng có thể nhận ra. Lan Nhi dò hỏi đủ điều
từ chuyện ăn nằm ngủ nghỉ của đức vua đến chuyện hầu hạ nâng giấc của Sở Anh và
quyết chắc đó đích thị là "long chủng" rồi. Chủ tâm giết Sở Anh của
nàng bỗng đổi hướng cấp kỳ. Nàng không giết đã đành, trái lại còn sai đem Sở
Anh về nuôi dưỡng cẩn thận ở nhà sau.
Sau khi giấu kín được Sở Anh,
Lan quý nhân tìm cách độn bụng, giả bộ có thai để đánh lừa ông hoàng đế đa tình
ham con. Nàng thỏ thẻ với ngài là đã có thai, có thai đã mấy tháng. Nàng sợ tai
mắt dòm ngó trong vườn quá nhiều, bại lộ mật kế của mình, bèn bắt Sở Anh độn
vải cho chân to ra, không còn là cái cặp giò "Tam
thốn kim liên" nữa. Chưa
hết, nàng còn bắt Sở Anh ăn mặc theo Kỳ trang (kiểu Mãn Châu), nhập bọn vào đám
cung nữ, rồi đưa về cung, giấu trong một căn mật thất.
Chín tháng mười ngày mang thai
lao khổ, Sở Anh sinh hạ một chú bé trai trông thật kháu khỉnh. Giữa lúc Sở Anh
mệt lả nằm trên giường đẻ, Lan quý nhân đích thân rót một chén thuốc đổ vào
miệng nàng. Chỉ trong nháy mắt Sở Anh hộc ra từng ngụm máu tím bầm, mặt tái mét
đi, chết luôn.
Thi hành xong một giai đoạn của
cái mật kế, Lan quý nhân hẳn nhiên coi như đắc sách, và tiếp tục giai đoạn hai.
Nàng cho người ra ngoài ngầm thuê nhũ mẫu đưa vào cung nuôi nấng bú mớm trong
mật thất. Ít hôm sau, Lan quý phi vác cái bụng độn vải như cái thúng của mình
xun xoe ra trước mắt mọi người, đột nhiên nàng kêu đau bụng, rồi cũng làm cái
bộ mặt nhợt nhạt, cái điệu đau đớn yếu ớt, nàng lên giường sinh và cuối cùng,
sau một hồi rặn đẻ như hết hơi, nàng sinh hạ một hoàng nam.
Một bà đỡ sồn sồn từ trong
phòng đẻ bước ra vừa reo vừa khoe cho mọi người thấy một hoàng nam máu me còn
đỏ hỏn khắp mình. Tất nhiên ai cũng cho rằng đó chinh là cục máu cưng của nàng,
chứ đâu có dám nghi ngờ gì khác.
Hoàng đế và hoàng hậu thấy
hoàng nam khôi ngô kháu khỉnh vui mừng khôn xiết, trong khi đó, Lan quý nhân
cười thầm trong dạ và tự nhủ kế mình đã đạt, việc lớn của mình đã thành. Yên
chí như vậy, bất giác nàng đâm kiêu hãnh ngang ngược, bất chấp hết mọi người.
Thấy ở trong cung còn có Chính
cung nương nương không thể tự do hành động được, Lan quý phi nỉ non to nhỏ với
hoàng đế cho nàng sang ở bên vườn Viên Minh. Tháng ba lại vừa mới dứt, xuân hết
hè đã sang. Chiếu lệ thì đây là lúc có thể chuyển qua bên vườn Viên Minh được.
Do đó, Hàm Phong hoàng đế liền chuẩn y lời xin của Lan quý phi.
Dọn sang vườn Viên Minh, Lan
quý phi lại cũng ở tại Thiên Địa Nhất Gia Xuân như cũ. Đã lâu, Hàm Phong hoàng
đế không tới vườn này, nay lại được trở về, ngắm nhìn cảnh xưa hoa cũ mà lấy
làm thích, lại cảm thấy nhẹ nhõm khác hẳn những ngày khi còn phải nghe nào
chiếu chỉ, nào biểu chương. Trời xuân lại vừa dứt thời tiết thêm ấm áp, cảnh
vật trong vườn càng tươi tất xanh thắm. Cảnh đã đẹp, mà Lan quý phi của ngài
lại càng đẹp, Hàm Phong hoàng đế vừa mê về sắc lại vừa say về hương, thế là
ngài ném tuốt luốt mọi việc đại sự của triều đình ra sau ót.
Những lúc ngồi xem hoa, chờ
trăng, ngài chỉ còn thấy có cái gấu váy của Lan quý phi là có nghĩa hoặc cái
giải yếm của nàng là còn có sinh thú của cuộc đời.
Suốt ngày Hàm Phong hoàng đế
đưa người đẹp đi du ngoạn khắp nơi. Hơn nữa sau cơn đau kịch liệt vừa qua mất
đến gần mấy tháng, thân thể suy nhược, ngài cần phải có thì giờ tĩnh dưỡng, có
người nâng giấc có dịp vui chơi bên hoa cạnh nước, để lấy lại sức của tuổi xuân
trai mười tám. Ngài thường ngồi trên chiếc kiệu sơn màu vàng hoặc ngồi ngất
ngưởng trên chiếc thuyền rồng để đỡ phải cất giò đi lại phí sức tốn mồ hôi.
Điểm đặc biệt nhất là trong vườn có nuôi một đàn hươu.
Mỗi ngày ngài phải uống một
chén máu hươu để cho da đẻ mau hồng, thịt gân được cứng chắc, khiến Lan quý phi
hầu hạ được chu đáo hơn. Đàn hươu sao tính có đến vài trăm con, hằng ngày thả
gậm cỏ trên khu đất rộng bát ngát hai bên cầu Bích Lộc chẳng bao lâu đã thấy
thưa dần, hươu càng thưa, hoàng đế càng mạnh, Lan quý phi càng thả sức chiều
hoàng đế nhất là trong những đêm mưa gió sụt sùi… Lan quý phi tự tay mình lấy
máu hươu để cung phụng cho hoàng đế. Bỏi thế cứ mỗi ngày nàng lại đem vài tên
cung nữ tới vườn hươu săn bắn.
Hàm Phong hoàng đế thấy Lan quý
phi cưỡi ngựa bắn cung tuyệt hay, bèn đem nàng đi xa săn bắn muông thú. Ngài hạ
lệnh cho ba ngàn ngự lâm quân bảo vệ đoàn săn bắn tới chân núi Vạn Thọ săn bắn
suốt một ngày, bắn được vô số chim, nào chim sẻ nào chim cút. Trời đã về chiều.
Bọn quần thần văn võ trong vườn
Viên Minh biết hoàng đế sắp về liền chỉnh tề áo mão sắp hàng đủ mặt ở cửa vườn
để chờ đợi thánh giá.
Tiếng khánh, tiếng chiêng,
tiếng chuông, tiếng trống vang rền vọng lại từ xa. Ngự giá chẳng mấy phút đã về
tới cửa vườn Văn võ bá quan nhất tề quỳ xuống đất. Lúc này chính là lúc quạ cú
câm bặt, tứ bề phẳng lặng như tờ. Bỗng có tiếng vó ngựa lọc cọc nện đều trên
đường đá. Triều thần ngước nhìn ra thấy đi đầu là một thiếu phụ mặc Kỳ trang
cưỡi ngựa xông tới cửa vườn.
Thấy trăm quan quỳ thành hàng
thẳng tắp đôi bên đường lộ, người thiếu phụ ngồi nghiễm nhiên trên ngựa cười
nói:
- Sao hôm nay thằng lùn đông
quá vậy?
Tiếng nói cười xoen xoét của
người thiếu phụ vừa tắt thì con ngựa cũng đã qua hết dãy người bước vào trong.
Lũ quan lớn nhỏ hoảng hồn bạt vía không dám cất đầu ngước mắt nữa. Họ hỏi lẫn
nhau, lúc đó mới biết người thiếu phụ đó chính là Lan quý phi, cục cưng của
đương kim hoàng đế của họ. Họ lè lưỡi lắc đầu chỉ dám thốt một tiếng nhỏ
"Trời" bên tai nhau, để mong vơi bớt cái sợ hiện còn rất "vĩ
đại" trong lòng họ.
Lan quý phi cưỡi ngựa đi vào
một lát mới thấy thánh giá tới. Suốt cả ngày hôm đó, Hàm Phong hoàng đế quả đã
được khoan khoái phi thường.
Qua ngày hôm sau, ngày sinh
nhật của Lan quý phi, thánh chỉ của hoàng đế hạ xuống cho đặt tiệc trong vườn
Viên Minh uống rượu xem hát tuồng. Ngài hạ lệnh Lan quý phi hôm nay phải cải
trang làm Ý quý phi để hầu ngài, nâng khăn chuốc rượu cho ngài. Ngày thứ nhất,
Ý quý phi hầu rượu tại hiên "Hồ trung Phật nguyệt trượng". Kể
từ hôm đó, mọi người trong cung, nhiều lúc thường gọi Lan quý phi là Ý quý phi,
có lẽ cũng còn để tránh phạm huý.
Rượu đến canh khuya, hoàng đế
ngà say, nàng mới dìu ngài đi ngủ. Nhưng qua ngày hôm sau, có lẽ vì đau bệnh
rượu, bệnh gái, ngài bỗng hộc ra máu. Lan quý phi giật mình kinh ngạc, vội
truyền cho ngự y vào cung tức khắc, một mặt báo tin về cung cho hoàng hậu biết.
Hiếu Trinh hoàng hậu đối với
hoàng đế vốn có tình vợ chồng vô cùng thâm hậu, cho nên khi nghe tin chẳng lành
này, bà vội vàng chạy vào trong vườn thăm. May mà máu hoàng đế thổ ra chỉ là do
cấp khí công phế, mửa ra máu phổi chứ không có gì nguy hiểm. Bởi thế, ngự y lo
thuốc thang điều trị, chỉ có năm, ba hôm, ngài đã dần dần bình phục lại được.
Ngài an dưỡng trong vườn thêm nửa tháng nữa, lúc đó bệnh coi như đã hết hoàn
toàn và ngài lại đã đi lại được như thường.
Khi còn nằm trên giường bệnh
ngài thường có Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi cạnh săn sóc an ủi và khuyên giải. Bà
có lúc tâm tình khuyên ngài nên bảo dưỡng thân thể, chớ nên sủng ái Lan quý phi
quá độ. Cũng có lúc bà nói thẳng với ngài rằng Ý quý phi không phải là người
sủng ái được đâu, chỉ tại vì nàng thường có ý can dự việc triều chính. Nói đoạn
bà còn cả quyết rằng triều chính không phải là việc của bọn đàn bà, ngay cả
chính bà nữa.
Thực thì từ khi sinh hoàng tử,
Lan quý phi có những cử chỉ ngôn ngữ bộc lộ tính kiêu hãnh quá độ ngay đối với
cả hoàng đế nữa. Hàm Phong hoàng đế cũng thấy rõ điều đó, nhưng chỉ tại quá yêu
quá cưng nàng mất rồi, cho nên không muốn chỉ trích hạch hỏi gì. Nay nghe lời
hoàng hậu khuyên bảo, ngài biết bà nói vậy là có ý tốt đó thôi. Ngài cũng biết
Lan quý phi là một người đàn bà vô cùng thâm hiểm và chỉ muốn nhân lúc bệnh
hoạn chẳng thèm gặp mặt nàng nữa. Nhưng phải cái hoàng hậu vốn là một bậc quốc
mẫu, không thể hầu hạ ngài mãi trong thâm cung được. Lúc đó là lúc ngài thấy
lòng trống trải cần một người đàn bà, một đôi tay ngà ngọc nâng giấc hầu hạ.
Hồi 138: Kế hoạch bao vây Hoàng Đế
Ngài
đang băn khoăn về nỗi niềm này, bỗng hình ảnh của Tứ Xuân (bốn nàng Xuân) từ
đâu vụt hiện ra trước mắt.
Ừ
đúng! Ngài còn có bốn cây danh hoa khuynh quốc mà chỉ vì say mê Lan quý phi,
ngài đã ném ra sau ót. Hình ảnh của bốn đoá hoa sắc nước hương trời này càng
hiện rõ như in trong trí nhớ. Bao nhiêu duyên tình êm đẹp, bao nhiêu kỷ niệm mê
ly thuở nọ, tất cả đều kéo về với ngài, và chỉ trong giây lát, ngài quên phứt
hết cái giọng ca êm ái, cái điệu tình lẳng lơ của Lan Nhi buổi gặp gỡ đầu tiên.
Thế là Hàm Phong hoàng đế
truyền gọi Mẫu Đơn Xuân và Hạnh Hoa Xuân tới hầu ngài. Ngài ngắm kỹ cặp người
ngọc này mà ái ngại. Ái ngại bởi vì những cây danh hoa này của ngài hồi này gầy
đi nhiều, kém sắc đi nhiều, và tất nhiên cũng kém duyên đi nhiều, đâu có còn
được cái xinh cái giòn của người con gái đương tơ thuở nọ.
Ngài ái ngại, rồi ngài ngậm
ngùi. Ngài lên tiếng hỏi tại sao hai nàng tiều tuỵ dung nhan. Chỉ thấy Hạnh Hoa
Xuân của ngài oà lên khóc nức nở, những giọt lẹ nóng hổi ướt đẫm cả vạt áo long
bào của ngài. Ba cái đầu nặng trĩu trong suy tư. Mãi về sau Mẫu Đơn Xuân mới
thỏ thẻ tố cáo cho ngài nghe, nào là Ý quý phi ngược đãi bọn nàng ra sao, nào
là bọn thái giám, cung nữ sợ thế lực của Ý quý phi không dám cho bọn nàng ăn no
mặc đẹp ra sao, nào là tình cảnh hết sức khó sống ở trong vườn Viên Minh ra
sao. Hai nàng Xuân kể ra không biết bao nhiêu những nỗi khổ cực chua chát.
Mẫu Đơn Xuân vừa kể xong, Hạnh
Hoa Xuân lại tâu tiếp cho ngài nghe việc Ý quý phi chuyên kiếm chuyện với gái
Hán qua mắt ngài, và đối đãi vô cùng tản ác. Nàng tố cáo để ngài biết là không
biết bao nhiêu gái Hán đã bị Ý quý phi bắt đem đập chết trong các căn nhà hoang
vắng bí mật, hoặc đem dìm chết dưới hồ Thái Dịch.
Hàm Phong hoàng đế nghe xong
bỗng nổi cơn thịnh nộ, ngài gầm lên mấy tiếng như hổ gầm, xô đổ cái án thư
trước mặt, răng nghiến lại ken két. Thế là qua ngày hôm sau, ngài truyền chỉ triệu
Ý quý phi tới.
Vốn người khôn ngoan thâm hiểm,
Ý quý phi chỗ nào chả đặt tai mắt để nghe ngóng. Hoàng đế nổi cơn thịnh nộ như
thế nào, tên tổng quản An Đắc Hải đã biết, tức tốc thông tin cho Ý quý phi biết
ngay. Nàng biết hoàng đế thịnh nộ, liền xoã hết đầu tóc, bế hoàng tử trong
lòng, lẹ làng bước vào cung, quỳ trước mặt ngài, dập đầu lìa lịa, xin tha tội,
mặt mày làm ra bộ thiểu não đáng thương hết sức.
Thật là một chuyện quái đản:
khi không thấy Ý quý phi thì hoàng đế nổi giận lôi đình, nhưng khi thấy nàng
thỉ ngài lại thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Nhìn thấy mặt Ý quý phi
ngài nhớ tới bao đêm ân ái mê ly. Ngắm nghía khuôn mặt nàng, ngài lại cảm thấy
lòng mình như say như mê. Chỉ chừng ấy cũng đủ để cho ngài dẹp hết cơn thịnh nộ
khủng khiếp hôm qua. Đã thế ngài còn thấy mềm lòng hẳn khi Y quy phi khóc lóc
thảm thiết, rồi vừa khóc vừa xin, trong khi đó hoàng tử đang ọ ọe trong lòng
nàng như cô ý xin cha tha tội cho mẹ.
Thử hỏi tình cảnh đó người có
tình cảm, ai lại không xúc động mà lòng chẳng se lại. Hàm Phong hoàng đế quả đã
để cho lòng se lại khiến trên mặt trận cân não, ngài đã chịu hạ phong để cho Ý
quý phi toàn thắng.
Ý quý phi còn khôn ngoan hơn
nhận thấy hoàng đế lại đã mắc vào bẫy tình cảm của mình, bèn tỉ tê kể lể gán đủ
chuyện xấu xa cho Mẫu Đơn Xuân và Hạnh Hoa Xuân. Đáng lý Hàm Phong hoàng đế
không nên nghe, không nên tin lời nàng nói lúc này mới phải. Trái lại còn nghe
và đem bao lời khuyên an ủi nàng là khác.
Thế rồi suốt một đêm ban ơn mưa
móc, ngài quên hết mọi chuyện. Đường đường một vị hoàng đế vạn tuế gia rút cục
lại bị cái đũng quần hồng của Ý quý phi làm mê tít tự lúc nào! Thấy cá đã mắc
câu Ý quý phi dại gì để cá chạy mất.
Nàng sửa soạn cấp kỳ đưa ngay
thánh giá về Thiên Địa Nhất Gia Xuân, tự mình nấu nướng sơn hào hải vị, hầu hạ
lo liệu ăn uống chu tất để cho ngài an lòng điều dưỡng bệnh hoạn. Ý quý phi
ngầm bảo An Đắc Hải ở bên ngoài bất cứ có chuyện gì cũng không được thông báo
vào trong.
Ấy cũng vì vậy nên Hạnh Hoa
Xuân, Mẫu Đơn Xuân chỉ gặp hoàng đế được cỏ một hôm rồi từ đó cách tuyệt không
còn được gặp lại nữa.
Mãi đến tháng năm, hoàng đế mới
bình phục hẳn và thân thể mới thấy khỏe mạnh trở lại. Ngài thường tản bộ hóng
mát hết vườn nọ tới vườn kia, nhớ lại thuở nào phi này tẩn nọ.
Ngài cao hứng liền truyền cho
triệu hết lại, rồi xuống chỉ mở yến tại nhà Thanh Thuỷ Trạc Anh thất.
Bọn phi tần đã từ lâu không
được gặp hoàng đế, tự nhiên cảm tình đâm nhạt không dám nói năng gì nhiều. Duy
chỉ có mỗi một mình Ý quý phi cậy mình dược hoàng đế sủng ái, lúc nào cung xun
xoe nũng nịu trước mặt ngài, khi cười lúc nói chẳng còn để cho ai chen chân vào
nữa. Mọi việc, mọi chuyện của hoàng đế, nàng giành lấy mà làm hết. Nàng cũng
cậy mình sinh hoàng tử không thèm chơi với nàng phi cô tần nào nữa, họ đối với
nàng có còn giá trị gì nữa đâu. Phía ngoài có vị đại thần quân cơ nào dâng sớ
vào cho hoàng đế xem, nàng qua mặt hết chẳng cho hoàng đế biết tí gì. Nàng bảo
họ:
- Ấy chớ! Hoàng thượng đang
uống rượu mua vui. Chớ có đưa vào, làm rộn ngài, phải tội chết!
Thế là anh đại thần, tiểu thần
nào cũng co vòi hết, bố bảo cũng chẳng dám nói thêm, chỉ còn nước ném tập sớ
lại ra về, lòng phân vân chẳng biết giải quyết quân quốc trọng sự ra sao!
Ý quý phi lại còn âm mưu với
tên thái giám tổng quản An Đức Hải giả mạo ý chỉ của hoàng đế phê toẹt vào tập
sơ rồi trả lẹ ra ngoài.
Cách ít hôm hoàng đế toạ trào.
Ý quý phi lúc đó mới đem việc phê vào tờ sớ tâu lên. Ngài tuy lòng không vui
mừng chỉ vì quá yêu nên chẳng tiện nói ra. Thấy hoàng đế chẳng nói gì mình
trong những trường hợp như vậy, nàng tiến thêm một bước, cứ mỗi khi thấy bọn
đại thần vào bàn việc triều chính với hoàng đế, nàng cũng cố mon men tới ngồi
lỳ một bên nghe ngóng, nhiều khi đưa đại ý kiến của mình ra. Đã thế hoàng đế
tính lại lười, chẳng muốn để ý tới nhiều chuyện, do đó có nhiều bản sớ tâu lên,
ngài đều bảo Ý quý phi xem xét rồi phê giùm trả về. Thế là từ đó Ý quý phi đã
có thể để can dự vào triều, chính và nghe ngóng được mọi chuyện xảy ra bên
ngoài rồi.
Đã có năm ba tên tay chân giảo
hoạt lẹ làng chạy vạy xoay tiền nhờ thế lực của Y quỷ phi. Chúng đi đúng đường
do An Đắc Hải vạch ra để đưa tiền về hiếu kính Ý quý phi.
Một mặt nàng lượm tiền bạc của
ngoại nhân đưa vào, một mặt bao biện hết mọi việc trước mặt hoàng đế.
Hàm Phong hoàng đế về sau cũng
biết sự tệ hại đó của Ý quý phi, nhưng phải cái ngài ốm quá, yếu quá chẳng còn
chút hơi sức nào để gắng gượng xem sớ nữa. Do đó cứ môi lần có chuyện đại sự
cần giải quyết ngài lại cho mời Hiếu Trinh hoàng hậu và cho gọi viên đại thần
vào tâu rõ, để bà ngồi trong rèm hỏi han tự sự. Cũng có khi Hậu bận việc không
tới được thì ngài lại cho Ý quý phi ngồi cạnh đọc tờ sớ cho mình nghe để giải
quyết. Chưa hết, ngài còn tìm hai vị: Thuần thân vương và Cung thân vương vào
trong vườn Viên Minh để giúp ngài giải quyết mọi việc quốc sự.
Đã có lúc hoàng đế ngồi nhàn
đàm với vị thân vương Thuần Cung, Ý quý phi bất chấp cả tỵ hiềm, kiêng kỵ, ngồi
chễm chệ một bên để góp chuyện.
Thấy Thuần thân vương mặt mày
bảnh bao, tuổi lại còn trẻ mà goá vợ, nàng bèn thỏ thẻ với hoàng đế làm mai,
đem cô em gái mình là Dung Nhi gả cho vương.
Thuần thân vương thấy đó là
lệnh của hoàng đế, đâu dám không theo. Thế là từ đó trong thì có mình, ngoài
thì có em, Ý quý phi cùng Dung Nhi chẳng khác chi con giăng con mồi liên lạc
chặt chẽ với nhau, để xoay trở ngoài tài lợi, còn cả đến quyền hành triều chính
nữa là đằng khác.
Ý quý phi tuy khôn khéo kết bè
lập cánh rộng rãi khắp nơi, thế mà vẫn không kéo được hai vị đại thần quan
trọng là Cung thân vương và Túc Thuận. Hai vị này tuyệt nhiên không quan hệ với
Ý quý phi, trái lại còn khuyên can Hàm Phong hoàng đế chớ để cho nàng can dự
vào triều chính.
Hàm Phong hoàng đế đã biết Ý
quý phi gian hoạt bất trắc lắm, nhưng phải cái yêu quá hoá mê, thành thử không
thể cấm đoán nàng một cách dễ dàng. Hơn nữa nàng dự chính từ lâu đã quen rồi,
ngựa quen lối cũ khó có thể sửa đổi được tính nết. Hàm Phong hoàng đế muốn
tránh nàng, nhiều lần nhờ Hiếu Trinh hoàng hậu giúp mình, nhưng hậu lại quá
kém, ăn nói lúng túng chẳng ra sao mỗi khi có việc do đại thần tâu lên. Trái
lại nếu nàng bên cạnh thì mọi việc được giải quyết mau lẹ, rành mạch, không
việc gì là không xong xuôi trôi chảy. Ngoài ra nàng hình như còn có một cái oai
lạ lùng, khiến bọn đại tuần đều tự cảm thấy e ngại sợ hãi.
Lâu dần về sau Ý quý phi cậy
mình có tài, càng ngày càng kiêu hãnh ngang ngược. Hiếu Trinh hoàng hậu cũng
muốn sửa tính đổi nết cho nàng, nhưng lại phải cái mặc cảm kém tài, nên nhiều
lúc đành im lặng ngồi nhìn.
Mùa xuân năm đó, trong cung
chiếu lệ tổ chức đưa rước thuyền rồng. Hàm Phong hoàng đế đưa bọn mỹ nữ cung
tần, quý phi, hoàng hậu lên ngồi trên thuyền dự yến xem rước.
Thực ra hồi này, vì vẫn chưa
được mạnh hoàn toàn nên ngài chỉ đem một mình Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi riêng
trên một chiếc thuyền nhỏ từ từ bơi lượn. Trên bờ, thấy thuyền rồng lững lờ
trong hồ, mọi người đồng thanh hô lớn ba tiếng "An lạc độ" (trẩy yên vui: đây là tiếng hô cầu
chúc nhà vua đi thuyền được yên ổn vui vẻ). Nguyên lai, trong cung Thanh có cái
lệ là hễ hoàng đế đi thuyền, khi ra khỏi bến thì bọn cung nữ đứng trên bờ đều
phải đồng thanh hô lớn ba tiếng "An
lạc độ" mãi đến khi cặp
bến bờ kia mới ngừng hẳn tiếng hô. Tục lệ có tính mê tín dị đoan khiến kẻ thức
giả chẳng thèm để ý tới làm chi, nhưng hai bên bờ có đến mấy ngàn cung tần, mỹ
nữ đồng thời cất tiếng oanh giọng én, thử hỏi làm sao lại chẳng gây được hào
hứng cho mọi người.
Chính thế! Hoàng tử Đái Thuần,
tuổi còn nhỏ, ham vui, càng lấy làm khoái khi nghe thấy hô, cũng nhảy nhót hô
theo.
Ý quý phi dắt tay Thuần tới làm
quen với đám phi tần cung nữ, rồi cùng ngồi trên một chiếc thuyền riêng du
ngoạn. Nàng được tin hoàng đế mở tiệc tại Ánh Thuỷ Lan Hương liền kéo cả đám
tới nơi đây chờ đợi.
Ánh Thuỷ Lan Hương là một khu
đất sát ngay cạnh hồ, phía trước cột ba chiếc thuyền rồng còn có rất nhiều
thuyền nhỏ đậu sát ngay hông. Ý quý phi hồi nhỏ vốn ở miền Hoa Nam, học được
cách chèo thuyền rất thạo.
Yến tiệc đã xong. Ý quý phi
thấy chiếc thuyền nhỏ xinh xinh đậu sát bên bờ, nàng bỗng động lòng nhớ tới
nghề mọn thuở xưa, liền nhảy lên cầm chèo. Hàm Phong hoàng đế vụt nhìn xuống hồ
thấy nàng, miệng ngài nói: "Tuyệt lắm" rồi ngài gọi: "Để cho
trẫm cùng đi với". Ý quý phi thấy hoàng đế cũng hứng chí muốn đi, vội lái
lẹ thuyền quay vào bờ đón ngài bước xuống.
Không ngờ Hàm Phong hoàng đế
vừa bước xuống thuyền, chân chưa đứng vững thì thuyền đã xô ra. Vốn yếu đuối
lại vừa khỏi bệnh, người chưa khỏe hẳn, chân chưa vững mạnh, thuyền tròng
trành, ngài bỗng nghiêng đi, rồi bắn tung ra mạn thuyền, rơi tõm xuống nước.
Những tiếng hô "cứu"
thốt từ trên bờ đến lạc cả giọng. Bọn thái giám, cung nữ xôn xao cuống cuồng.
Họ chạy lên rồi lại chạy xuống, chạy xuống rồi lại chạy lên, ra sức gào
"cứu". Trên bờ, dưới hồ, khắp tứ phía chưa đầy chớp mắt đã biến thành
y như một cái chợ cháy vô cùng hỗn loạn.
Hiếu Trinh hoàng hậu đang ở
trong nhà, được tin cấp báo, vội vàng chạy ra xem, lòng hoảng sợ đến cực điểm…
May được cái nước sát bờ, phía dưới lại có bậc đá xây thành kè dài.
Ấy chính nhờ cái kè này, mà khi
rớt xuống nước, hoàng đế đã bám cứng được một cục đá, vẫn thò được cái đầu và
đôi vai lên, chi có phần dưới mình từ ngực trở xuống chìm hẳn trong nước mà
thôi.
Bảy, tám tên thái giám nhất tề
nhảy ùm xuống hồ như một lũ nhái luống cuống ghé vai công kênh hoàng đế lên bờ,
mình ướt như chuột lột. Hoàng hậu bước quýnh quýnh trên bờ tay bắt chuồn chuồn,
miệng há hốc, mặt xám ngoét lại, chẳng biết xám vì sợ hay vì giận.
Hàm Phong hoàng đế vừa được đưa
lên bờ thì hoàng hậu đã hò hét ầm lên, bắt bọn thái giám khiêng ngay ngài vào
một căn phòng xông hương thơm ngát gần đó để thay đổi áo quần, một mặt quát bảo
mấy tên thái giám khác bắt ngay Ý quý phi tống vào Vĩnh Hạng nhót lại để chịu
tội.
Hàm Phong hoàng đế vốn ốm yếu
lâu ngày, chưa được bình phục hẳn, nay lại bị một cơn hoảng, nào ướt nào lạnh,
bất giác bệnh cũ phát lại dữ dội. Hiếu Trinh hoàng hậu suốt ngày đêm thuốc
thang hầu hạ bên cạnh, chẳng được lúc nào thư thái tâm thần. Ôm một lèo mãi tới
lúc sang thu, hoàng đế mới dần dần khỏe lại.
Vua và hậu thì như thế, Ý quý
phi càng thiểu não hơn. Bình nhật nàng hống hách vênh váo biết bao, thế mà nay
đành khoanh tay ngồi nhà đá đã bốn, năm tháng trường, thử hỏi còn mong chì tìm
lại được thời và thế của ngày nào? Lũ hoạt đầu cầu danh móc lợi đã từng khúm
núm hầu hạ nàng bấy lâu nay, thấy nàng sa chân lỡ bước thất thế kẹt vận, đã
chẳng những không chút động lòng từ tâm, trái lại còn nhờ gió bẻ măng, chết
đuối đạp thêm.
Túc Thuận chống đối Ý quý phi
từ lâu, Thuận ngầm thông với bọn cung nữ hầu hạ nàng, cố ý tới cáo mật với Hiếu
Trinh hoàng hậu nói nàng ở Vĩnh Hạng suốt ngày oán giận hoàng thượng. Ghê gớm
hơn nữa nàng còn dám dùng bùa chú Mãn Châu để thư ếm hoàng thượng nữa.
Hiếu Trinh hoàng hậu nghe xong
vội tới Vĩnh Hạng gặp ý phi, hậu nói:
- Nàng hãy tạm thời yên tâm chờ
đợi. Đợi ít hôm nữa hoàng thượng vui vẻ, ta sẽ giúp nàng cầu xin ân điển của
ngài tha cho nàng ra.
Hậu chỉ nói ra có thế, vậy mà
không hiểu tại sao cái chuyện trù ếm hoàng đế của Y phi lọt đến tai Hàm Phong
hoàng đế.
Ngài bất giác nổi cơn thịnh nộ.
Khéo thay Túc Thuận lúc đó đứng cạnh. Ngài hỏi Túc Thuận:
- Ý trẫm muốn truất phế Lan quý
phi cho nàng tự tận, khanh nghĩ thế nào?
Thuận giật mình đánh thót một
cái, vội quỳ xuống đất đập đầu tân:
- Nô tài chẳng dám can dự vào
việc trong cung cấm!
Câu chuyện này truyền tới tai
Hiếu Trinh hoàng hậu. Hậu vội vàng chạy tới gặp hoàng đế, đem hết tâm lực biện
hộ cho Ý quý phi. Hậu nói:
- Những chuyện đó bất quá chỉ
là do bọn người ganh ghét nàng đặt điều phao nhảm đó thôi. Thần thiếp cũng
thường khi tới gặp nàng thấy nàng tỏ ý hết sức cung thuận, tự biết lỗi mình và
hối lôi nhiều lắm, thần thiếp dám xin thay nâng cầu xin hoàng thượng ban cho ân
điển tha tội cho nàng. Bị giam trong lãnh cung lúc nào cũng tưởng nhớ tới hoàng
thượng. Nàng khóc lóc ngày đêm, tình cảnh thật là đáng thương hết sức.
Hàm Phong hoàng đế vừa nghe lời
Hiếu Trinh hoàng hậu cầu xin ân điển, vừa nghĩ tới việc ý quý phi sinh cho mình
một mụn hoàng nam, nhất thời không thể bỏ danh hiệu Phi tử của nàng. Thế là cơn
thịnh nộ của ngài dần dần tiêu đi lúc nào không biết. Hiếu Trinh hoàng hậu lại
cứ ở bên cạnh cầu xin ân điển. Cuối cùng ngài nể mặt hoàng hậu đại xá cho Ý quý
phi và truyền lệnh phóng thích nàng ra khỏi lãnh cung.
Hồi 139: Vua sợ chạy đi Nhiệt Hà
Lại
nói Diệp Danh Thám gây chuyện rối rắm tại Quảng Đông, khiến các nước Tây phương
liên quân đã đánh phá thành Quảng Châu lại còn điều động hải quân tiến bức
Kinh, Tân (Bắc Kinh và Thiên Tân). Thanh triều phải phái hai đại thần Quế, Hoa
tới giảng hoà, bồi thường cho họ đến bảy, tám trăm vạn lạng bạc mới hy vọng
cuộc chiến tranh nguội đi được.
Trong
hiệp ước giảng hoà có khoản nói rõ là sau khi thanh toán khoản tiền bồi thường
thì Liên quân phải trả thành Quảng Châu lại cho Trung Quốc. Thế nhưng liên quân
chiếm đóng Quảng Châu luôn tới nay đã hai trăm năm rưỡi mà vẫn ở lỳ, tuyệt
nhiên chẳng có ý gì trao trả.
Sự kiện này làm cho một tay anh
hùng yêu nước rất lấy làm giận, bấy lâu hậm hực trong lòng không lúc nào nguôi.
Tay anh hùng đó là viên đầu mục Đoàn luyện binh ở trấn Phật Sơn. Viên đầu mục nọ cho
rằng chuyện tai vạ mất Quảng Châu đều là do tên lãnh sự nước Anh là Ba Hạ Lễ mà
ra, khiến nỗi Trung Quốc phải chịu nhục quốc thể cắt đất bồi thường. Y bèn ra
một cáo thị trong quảng đại quần chúng xin đem một ngàn lạng bạc tiền thưởng
cho bất cứ ai chặt được cái đầu lâu của tên Ba Hạ Lễ.
Ba Hạ Lễ nghe được tin này giật
nảy mình đánh thót một cái, mặt mày xám ngoét lại. Hồi đó công sứ nước Anh còn
ở Thượng Hải. Lễ vội vàng đánh một điện tối khẩn lên Thượng Hải bẩm cáo việc
này cho tên công sứ. Nhận được tin, tên công sứ Anh quốc nổi cơn thịnh nộ liền
gởi văn thư cho Quế Lương yêu cầu tâu về triều cách chức tổng đốc Lưỡng Quảng
là Hoàng Tôn Hán, mặt khác buộc Lương phải giải tán ngay tổ chức Đoàn luyện.
Quế Lương chẳng biết làm cách
nào chỉ đành một mặt trả lời tên công sứ Anh quốc, một mặt kiểm điểm lại điều
ước tạm thời không thay đổi. Bọn ngoại quốc thấy Lương không chịu thay đổi điều
ước, cho rằng Lương không có chút nào thành ý giảng hoà; thế là tàu binh nước
Anh có dịp kéo nhau vào Tràng Giang diễu võ dương oai, suốt một dọc từ Thượng
Hải tới mãi Hán Khẩu. Bọn Pháp bắt chước tụi Anh cũng cho quân đi khắp nơi xông
xáo khiêu khích. Đã phá phách quấy rối, cướp bóc hiếp đáp, tụi Pháp lại còn
ngang nhiên cho bọn cố đạo đi khắp nơi xây cất nhà thờ đạo Thiên chúa. Bọn quan
địa phương sợ quá, đâu có dám sờ đến lông chân mấy ông cố đạo, chứ đừng nói tới
đem lý luật ra mà ngăn cản.
Nhưng giữa cái đám quan hèn ấy
bỗng xuất hiện một vị Mã thân vương tên gọi Tăng Cách Lâm Bật không chịu hèn.
Ông thấy bọn ngoại quốc láo
xược, ngang ngược, chẳng coi ai ra gì, chịu không nổi, bèn nổi cơn thịnh nộ,
viết ngay một tờ sớ tâu lên đàn hặc viên tổng đốc Trực Lệ là Đàm Đình Tương,
kết tội Tương không lưu ý gì tới việc tuần phòng sông bể, đồng thời đích thân
sai người tới cửa bể Đại Cô, xây đắp pháo đài và chôn một hàng cọc gỗ rào hẳn
cửa bể lại. Chưa hết, muốn cho cẩn thận hơn, ông còn cho rèn những cái khoá sắt
để khoá trái cả cửa sông lại.
Đến ngày hội nghị để thay đổi
hiệp ước, binh thuyền các nước đều rầm rập kéo tới Thiên Tân. Bọn quan binh
Trung Quốc đưa thư tới, buộc tất cả các binh thuyền ngoại quốc phải đổi hướng
tới cửa Bắc Đường bỏ neo, chứ không được qua lại cửa Đại Cô.
Nhưng người Anh đâu có chịu,
nhất định cho tàu chiến cứ việc xông vào cửa Đại Cô. Cửa Đại Cô đã bị xích sắt
chăng kín lại khoá chặt.
Thế là người Anh khai hoả. Súng
đại bác nổ ầm ầm, khoá xúc xích đứt tung, mười ba chiếc tiểu đĩnh chở nghẹt
lính liên tiếp xông vào, trên mũi cắm cờ hồng, khiêu chiến với pháo đài, chĩa
họng súng bắn xối xả vào pháo đài, vào các trại bộ binh trên bờ.
Vừa xáp lại gần bờ, bọn lính
Anh nhảy lên bờ xông tới cướp pháo đài; súng trên pháo đài lúc này buộc phải
bắn trả. Mấy chiếc tiểu đĩnh trúng đạn chìm nghỉm; mặt khác bọn lính Anh xung
kích trên bờ cũng bị quân nhà Thanh giết chết đến mấy trăm tên, ngoài ra còn
bắt sống thêm một viên tướng Anh chỉ huy.
Cuộc ác chiến kéo dài thêm một
lúc nữa. Quân Anh bị thảm bại, chỉ còn lại có mỗi chiếc tiểu đĩnh, hoảng hốt
chạy như bay ra mãi ngoài khơi. Những chiếc chiến thuyền lớn của Anh quốc, thấy
quân mình đại bại, liền rút lui khỏi cửa Đại Cô kéo tới Lữ Thuận rồi Hải Sâm,
quan sát địa hình địa vận rồi từ từ rút về hướng nam đi mất.
Nhân dân tỉnh Quảng Đông nghe
nói người Anh đại bại, bèn vội vàng đóng tàu sửa thuyền, e rằng bọn "quy
trắng" kéo lại báo thù, trong khi đó, bọn phú thương lại đi quyên tiền ba
trăm vạn lạng, ngầm đưa tới cho người Anh, xin đừng gây chiến nữa.
Bọn công sứ Anh và Pháp chiếu
hội với thông thương đại thần là Hà Chiết Thanh, tình nguyện giữ đúng điều ước
tám năm. Thanh chỉ mong hai chữ "bình an", nhưng phải cái Hàm Phong
hoàng đế tín nhiệm Tăng vương, nghe lời vương nên chẳng thèm trả lời bọn ngoại
quốc về việc này, trái lại chỉ bảo Thanh cứ chiếu theo hoà ước thời Đạo Quang
hoàng đế, còn truyền chỉ cho Thanh vẫn ở lại Thượng Hải để lo liệu việc nghị
hoà, không được quay về bắc, ví thử có tàu binh bọn "quỷ trắng" chạy
vào trọng sông thì thẳng tay tiêu diệt.
Mặt khác Tăng Cách Lâm bật huy
động hơn một trăm vạn nhân công sửa sang lại cửa Bắc Đường. Về sau quả nhiên có
kẻ chủ trương đưa quân địch vào cửa Bắc Đường, và leo lên bờ tại nơi đây. Hàm
Phong hoàng đế lại hạ chỉ triệt thoái hết quân đội tại Bắc Đường, hàn lâm viện
biên tu là Quách Tung Đào vội dâng sớ khuyên can nhà vua. Thân sĩ Bắc Đường là
ngự sử Trần Hồng Dực cũng tâu xin chớ có rút quân tại Bắc Đường. Nhưng Hàm
Phong hoàng đế không nghe.
Chẳng mấy hôm, một đoàn tàu nhỏ
chở đầy lính Anh và lính Pháp kéo tới cửa Bắc Đường, nhổ hết nhưng cái cọc gỗ
để lấy đường sửa soạn tấn công. Tên tướng Anh Ngạch Nhĩ Kim, tên tướng Pháp Át
La đem hơn một trăm chiếc tàu binh đánh thốc lên bờ. Lên được bờ rồi, chúng kéo
đại bác lên bắt đầu khai hoả, tiếng nổ ầm ầm. Quân Tàu hoảng hốt chẳng dám ló
mặt ra, chỉ cho người tới trại quân ngoại quốc báo tới Bắc Kinh trao đổi điều
ước nghị hoà.
Bọn ngoại quốc đến lúc này lâm
vào tình trạng cưỡi hổ khó xuống, đời nào chiều theo. Chúng bất chấp lời đề
nghị của bọn Thanh, tức tốc huy động một vạn tám ngàn Liên quân từ Bắc Đường
đánh thốc vào nội địa. Vô phúc cho Liên quân gặp đúng lúc nước thuỷ triều rút
xuống, khiến các chiến thuyền nằm phơi vườn trên bãi sình. Chúng sợ quân Thanh
giáp công từ hai bên bờ liền treo cờ trắng bay phất phới giả bộ cầu hoà. Quả
nhiên quân Thanh thấy cờ trắng không dám tấn công thực.
Nước thuỷ triều lại dâng lên ồ
ạt. Những chiếc tàu Liên quân này xuất kỳ bất ý xông vào bờ đổ bộ; tiếng súng
nổ ầm ầm không ngớt. Quân Thanh bị đột kích, hốt hoảng bỏ chạy tán loạn. Một
vạn tám ngàn Liên quân kéo thẳng tới vùng Tân Hà.
Tăng vương chỉ huy ba ngàn quân
tinh nhuệ kéo tới để chống cự. Nhưng đại bác của quân ngoại quốc quả lợi hại
thật. Tiếng nổ ì ầm, đạn bay vun vút… Một trận xung kích vô cùng ác liệt xảy
ra. Đáng thương thay cho ba ngàn quân tinh nhuệ của Tăng vương chết sạch, chi
còn sống sót có bảy mống.
Tân Hà bị chiếm, Đại Cô trở nên
nguy ngập. Hàm Phong hoàng đế vội sai đại học sĩ Thuỵ Lân đem quân Bát Kỳ từ
kinh đô ra Thông Châu phòng thủ.
Quả nhiên Liên quân sau khi đại
thắng kéo tới bức Đại Cô nhè trúng pháo đài ở ngạn bắn trước. Đạn đại bác bay
lên bờ vô phúc trúng ngay vào kho thuốc súng của quân Thanh.
Một tiếng nổ long trời lở đất,
xé tan cả một bầu trời đầy mây hôm đó. Rồi trong nháy mắt, ngọn lửa bốc lên cao
muôn trượng.
Khói đen toả ra khắp bốn phía,
cả một toà pháo đài rộng lớn bị thần hoả ngấu nghiến chẳng đầy một buổi, chỉ
còn trơ lại mấy bức tường đất lộn gạch cháy xém chênh vênh. Quân lính chết
chẳng biết bao nhiêu, chỉ cần biết hôm đó, đề đốc Lạc Thiện đã bị cháy còng
queo trong đống thuốc pháo như con bò thui.
Tăng vương lúc đó đóng quân tại
nam ngạn thấy cơ nguy khủng khiếp như vậy vội lui quân về Thông Châu, cắm tại
vịnh Trương Gia. Vương thấy Thiên Tân xem chừng khó giữ, vội cho chạy văn thư
cáo cấp về kinh như bươm bướm.
Hàm Phong hoàng đế xem sớ giật
mình thon thót, lòng nóng như lửa đốt, bất giác bệnh cũ lại tái phát. Ngài chỉ
còn có một cách sai Quế Lương tới Thiên Tân đề nghị hoà.
Quế Lương tống đạt dấy chiếu
hội tới dinh công sứ Anh. Viên công sứ Anh hồi thư cho Lương biết, phải tăng
thêm khoản bồi thường mở cửa Thiên Tân cho người ngoại quốc vào buôn bán. Còn,
một điều nữa là phải để cho quân ngoại quốc kéo tới Bắc Kinh để trao đổi điều
ước.
Hàm Phong hoàng đế trong lúc
bệnh hoạn tính tình hết sức khó chịu. Ngài nghe nói bọn quỷ trắng muốn kéo binh
vào kinh, hơn nữa tên sứ thần nghị hoà lại là tên Ba Hạ Lễ ngày nọ, thì tức bực
khôn tả liền hạ chỉ cự tuyệt thẳng tay.
Hàm Phong hoàng đế nghe lời
Hiếu Trinh hoàng hậu cho người cấp tốc về Hà Nam triệu hồi ngay Bảo Thắng về
kinh và hạ lệnh đem một vạn cấm binh tới Thông Châu giao chiến với quân giặc,
mặt khác, truyền cho Di thân vương Tải Viên mở một bữa tiệc cho mời bọn công sứ
Anh Pháp tới dự.
Rượu được mấy tuần, Viên đưa ra
việc nghị hoà. Ba Hạ Lễ lớn tiếng đáp:
- Nếu muốn nghị hoà mà không
cho gặp mặt hoàng đế Trung Quốc thì nhất định không được. Ngoài ra, Thanh triều
phải để cho mỗi nước đem hai ngàn quân kéo vào Bắc Kinh, lúc đó mới khai hội.
Điều kiện gay cấn như vậy thử
hỏi Tải Viên làm sao mà chấp nhận được, đành phải trả lời là hỏi ý kiến triều
đình lại rồi mới trả lời dứt khoát được.
Ba Hạ Lễ thấy Di thân vương
không tự quyết được vấn đề, từ đó không thèm nói năng gì nữa, mặc cho vương
cười nói lấy lòng chi cũng mặc kệ, nhắm mắt giả ngáy khò khò trên giường. Tải
Viên cụt hứng, chẳng còn cách gì hơn, đành lủi thủi ra về như chó cụt đuôi.
Qua ngày hôm sau, quân tình phi
báo về. Kinh càng vô cùng nguy ngập: quân của Bảo Thắng ở Thông Châu đại bại,
quân của Tăng Thuỵ cũng thua lớn. Tướng Anh Ngạch Nhĩ Kim chỉ huy quân quỷ
trắng đang ùn ùn kéo vào kinh thành.
Toàn thể thành Bắc Kinh được
tin động trời này chỉ trong nháy mắt đã biến thành nồi nước sôi. Đại học sĩ
Đoàn Hoa cùng thượng thư Túc Thuận thấy tình thế quá nguy quá gấp, đang đêm vội
chạy vào vườn Viên Minh xin bệ kiến hoàng đế.
Hàm Phong hoàng đế lúc này bệnh
tình đã nặng lắm. Bên cạnh ngài có Hiếu Trinh hoàng hậu lo lắng nâng giấc.
Trong phòng bên có Ý quý phi lo liệu thuốc thang.
Bỗng có tin Đoan Hoa và Túc
Thuận xin vào bệ kiến. Hoàng đế nằm trên giường bệnh liệu rằng việc lớn bên
ngoài có phần chẳng lành, mặt bỗng trắng bệch ra như tuyết, tay chân run lên
bần bật.
Hiếu Trinh hoàng hậu một mặt
truyền gọi ngự y vào xem mạch hốt thuốc, một mặt cho hai vị đại thần vào gấp
long sàng hỏi chuyện.
Túc Thuận liền đem hết tình
hình chiến sự bên ngoài kể lại đầy đủ và tâu tiếp:
- Hiện nay thế giặc quá mạnh:
hoàng thượng vốn thân vạn thắng, nên sớm liệu xuất thủ, tới một chỗ an toàn
nhất mới nên.
Hàm Phong hoàng đế, cất tiếng
run run bảo:
- Hiện nay trời còn tối, Trẫm
lại bệnh, thân thể hết sức mỏi mệt, chạy tới đâu bây giờ được?
Thế là cả bọn quay lại bàn tính
một hồi. Cuối cùng Hiếu Trinh hoàng hậu quyết đoán việc này lên tiếng:
- Chi bằng bọn ta kéo đi Nhiệt
Hà!
Hàm Phong hoàng đế nghe xong
cũng gật đầu cho là phải.
Bọn ngư y lúc này cũng còn ngồi
nơi đây, liền chạy lại tâu xin hoàng thượng uống máu hươu để tinh thần thêm
sảng khoái hơn, khí lực mạnh mẽ hơn.
Thế là mấy tên thái giám vội
chạy ra ngoài đi tìm hai con hươu chọc huyết lấy máu đem tới, hơi nóng còn bốc
lên nghi ngút.
Hồi 140: Đốt cháy vườn Viên Minh
Hàm Phong hoàng đế tiếp
chén huyết uống một hơi cạn, quả nhiên thấy trong mình lập tức khỏe mạnh hẳn
lên, tinh thần cũng hăng hái hơn. Ngài bèn truyền dụ cho Cung thân vương ở lại
giữ kinh sư, mặt khác sai Túc Thuận thống lãnh quân ngự lâm bảo vệ Hoàng gia
lên hành cung Nhiệt Hà, còn Đoan Hoa thì lo liệu mọi việc ở trong vườn Viên
Minh.
Tin này vừa quyết xong thì
truyền vội ra ngoài. Vườn Viên Minh đang yên tĩnh bỗng trở thành sôi động chưa
từng thấy. Nào ngựa hí nào lừa chạy, nào oanh la nào én kêu, tất cả vùng lên
như một tổ ong vỡ.
Hàm Phong hoàng đế đến lúc này
cũng chẳng còn lo được gì nhiều. Ngài chỉ còn biết gượng bước ra sân, lật đật
mãi mới lên được cái xe che lọng vàng đậu trong vườn.
Túc Thuận vội chạy ra mở cửa
vườn cho xe ra. Bốn chiếc xe đã chuẩn bị sẵn sàng, trong trải một chiếc chiếu
lác. Chiếc xe đầu do Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi, tay bế hoàng tử Đái Thuần. Còn
ba chiếc xe kia thì bọn phi tần tranh nhau leo lên, ngồi chen chúc như nêm cối,
đến nỗi mỗi cái phải chứa đến năm, sáu cô, vẫn chưa hết, khiến cô nào cô nấy
bại cả đít, tê cả vai mà cứ phải chịu đựng. Nhưng kẻ đáng thương nhất có lẽ là
Ý quý phi. Bình nhặt trong cung cấm vàng son lộng lẫy, nàng được sung sướng như
thế nào, mền ấm nệm êm như thế nào, vậy mà nay đêm khuya khoắt phải bỏ vườn
trốn chạy, chịu đựng hết mọi gian lao khổ cực. Người ta đã thấy nàng rên rỉ âm
thầm, giọt lệ tầm tã trong chéo khăn.
Bọn được ngồi xe quả đã là phúc
lắm, còn một đám đông phi tần không có xe, đành phải lê bước theo, kẻ khóc
người mếu, lẽo đẽo thành một cái đuôi dài mờ dần trong đêm tối. Trong số này,
cũng có năm ba cô, lâu nay đối tốt với bọn thái giám, đến lúc không đi được,
nhờ chúng cõng cho từng chặng đường. Rồi đi dọc đường may thay mướn được mấy
cái xe bò, cho cả bọn leo lên đầy, nghe cút kít, ục ịch cùng cả đường.
Ý quý phi trải qua một đêm hãi
hùng ngoài sương gió trong chiếc xe bánh lăn lọc cọc trên con đường gồ ghề khi
hất lên, lúc nhồi xuống, khiến tóc tai nàng đã bù lại bù thêm, trán đã dơ dáy
còn bị chạm vào thùng xe sưng húp. Nàng xúc động can tràng; thương tâm quá, bất
giác nàng khóc lên hu hu. Tình cảm đã thê lương, tiếng khóc của nàng chen lẫn
những tiếng nức nở rền rĩ của bọn phi tần bên cạnh còn làm tăng thêm nỗi niềm
sầu thầm cho một ông vua mắc bệnh nặng chạy loạn.
Trời bắt đầu sáng, Ý quý phi
thấy Túc Thuận đuổi tới một đàn lừa ngựa, và đã đến sát bên cạnh xe. Đến lúc
này, nàng chẳng còn e dè gì nữa, vội tháo bức rèm xe, lớn tiếng gọi:
- Lục gia! Lục gia! Xe tôi hỏng
rồi. Nhờ Lục gia thay giúp cho tôi một cỗ xe khác được không?
Lời nói còn chưa dứt, mắt nàng
đã thấy rưng đôi dòng lệ. Thuận giữa lúc xua vội đàn lừa ngựa tiến gấp lên
trước đuổi kịp hoàng đế, bỗng nghe Ý quý phi gọi, liền quay lại đáp:
- Giữa đường giữa sá, còn tìm
đâu ra xe tốt nữa chứ? Ta cố đi tới phía trước, nghỉ một lát đỡ mệt rồi hãy
hay!
Vừa nói xong, Thuận đã ra roi
cho ngựa vọt lên. Quả nhiên có một thị trấn thật! Đoàn người ngựa dừng lại nghỉ
mệt.
Ý quý phi nhìn quanh bốn phía,
không thấy Túc Thuận liền hỏi tên thái giám ngồi cạnh, mới biết Thuận đang tâu
trình mọi việc trước mặt hoàng đế. Đợi cho Thuận tâu xong, nàng lết tới bảo
Thuận cố tìm cho mình một cỗ xe. Nhưng Thuận nghe xong lắc đầu quầy quậy bảo:
- Bà có biết lúc này là lúc nào
không? Tôi làm gì còn thì giờ để làm những việc đó cho bà nữa chứ!
Qua ngày hôm sau, Ý quý phi lại
gặp Túc Thuận. Nàng không còn đủ sức để chống nổi cảnh vất vả khổ cực trên
chiếc xe ọp ẹp long bánh mất đinh này được nữa. Miệng vừa khóc vừa xin Thuận
thay cho chiếc xe. Thuận nghe xong, mặt bỗng sa sầm, nghiêm giọng nói:
- Lúc này là lúc anh em chạy
loạn, chứ đâu phải ngày thường. Giữa lúc thâm sơn cùng cốc này, mướn xe tốt đâu
được mà mong. Xin quý phi an phận mình là hơn. Còn được ngồi trong một cỗ xe
hỏng lúc này, kể cũng là may lắm rồi đó! Quý phi không thấy bên cạnh đường còn
thiếu gì quý nhân, cung nữ bỏ chạy theo xe, miệng mếu lệ rơi đó sao? Trong
chiếc xe hỏng, quý phi đã thấy các phi tần đều chịu một tình cảnh đó sao? Không
một ai đòi xe mới cả, chỉ duy mình quý phi là hạng người gì mà dám đòi sướng
hơn hết cả mọi người?
Mai mỉa mấy câu xong, Túc Thuận
lại quất ngựa đánh trót một cái, cho ngựa nhảy vọt lên trước. Ý quý phi chẳng
biết cách nào hơn, chỉ còn nước nghiên răng trợn mắt chửi thầm:
- Tên gian tặc cả gan thật! Chỉ
vài hôm nữa mi sẽ biết tay ta.
Ít hôm sau đoàn người nào hoàng
đế, hoàng hậu nào phi tần hoàng tử, cung nhân đã tới được Nhiệt Hà vào trú tại
hành cung. Hàm Phong hoàng đế một mặt truyền dụ cho Cung thân vương mở cuộc
nghị hoà với bọn tướng soái Liên quân càng sớm càng tốt, mặt khác vẫn hạ lệnh
cho hai lộ quân của Tăng và Thuỵ cố thủ các nơi hải khẩu.
Đối với tên tướng giặc Ba Hạ
Lễ, không còn có ai có thể ghét hơn Tăng vương. Bởi vậy Tăng vương nghĩ mãi mới
ra một kế sách hòng diệt tên quỷ trắng này. Vương cho đặt một bữa tiệc mời Lễ
tới dinh, rồi hô phục binh bắt Lễ giam vào tu xa, đưa tắp về kinh nhốt kỹ.
Viên công sứ Anh thấy mất Ba Hạ
Lễ, lòng vô cùng tức giận, buộc Cung thân vương phải trả gấp. Mặt khác, Bảo
Thăng cũng truyền hịch khắp miền Giang Nam gọi quân binh chiến đấu cần vương.
Chỉ ít hôm sau tướng bộ hạ của
Tăng vương là Bào Siêu, tướng bộ hạ của Viên tướng quân là Trương Thăng đồng
thời cả Đoàn luyện tỉnh An Huy là Miêu Bái Lâm đều rầm rập kéo binh về kinh để
ứng phó với tình thế.
Bọn ngoại quốc thấy quân Thanh
kéo về quá nhiều, cũng lấy làm ngại, đành chịu chiếu hội với Cung vương, yêu
cầu vương trao trả Ba Hạ Lễ trong ba ngày. Nhưng vương không chịu, vương buộc
quân Anh Pháp phải lui quân về Thiên Tân trước đã, rồi sau đó mới mở cuộc hoà
hội.
Viên công sứ Anh không trả lời
yêu sách này. Cung vương chẳng biết cách nào hơn, bèn cho người lên hành cung
tại Nhiệt Hà, tâu với Hàm Phong hoàng đế, nói rằng ngoại nhân hết sức cường
mạnh ngoan cố.
Hàm Phong hoàng đế thân thể vốn
bệnh hoạn lâu ngày, lại thêm cảnh chạy loạn, ngày đêm trúng phải phong hàn, bởi
thế khi tới Nhiệt Hà bệnh tình của ngài càng thêm trầm trọng.
Muốn bảo toàn sức khỏe cho
hoàng đế, Hiếu Trinh hoàng hậu gác hết mọi chuyện bên ngoài, nào chuyện loạn
tóc dài, chuyện bọn cướp bể thổ phỉ, nào chuyện Liên quân đang bức bách kinh
thành. Mọi việc đại sự đều do Cung thân vương tiện nghi hành sự tại kinh đô,
còn những việc nhỏ thì đích thân bà phải tự coi lấy các bản sớ hằng ngày để
giải quyết, cùng với hai vị đại thần là Đoan Hoa và Túc Thuận. Nhân Ý quý phi
giải quyết công việc có vẻ lẹ làng sáng suốt, khẩu tài, chữ viết lại lẹ và tốt,
hoàng hậu bèn cùng gọi nàng tới, giúp một tay để lo việc triều chính. Nhiều khi
gặp những chuyện khó khăn nghi ngại, Ý quý phi một lời quyết đoán. Nhờ thế mà
Hàm Phong hoàng đế mới được tiêu diêu tự tại, tĩnh tâm điều dưỡng.
Bọn ngự y cũng theo hoàng đế
tới đây, hằng ngày chẩn mạch hốt thuốc. Mấy trăm con hươu nuôi trong vườn Viên
Minh trước đây nay cũng cho đưa lên đây hết.
Hằng ngày Hàm Phong hoàng đế
đều có uống máu hươu, nhờ đó thân thể ngài ngày một khang kiện, mặt mũi sáng
sủa tươi tắn hơn xưa nhiều. Bên cạnh ngài có viên thái giám An Đắc Hải phục thị
hằng ngày không rời bước. Nhiều hôm Hải còn đưa hoàng đế đi khắp đó đây trong
hành cung du ngoạn nữa.
Hành cung Nhiệt Hà tuy toạ lạc
miền Bắc xa xôi hoang lương cô tịch nhưng từ đời Càn Long, Gia Khánh đã được
sửa sang xây cất lại, cũng có đủ nào đào liễu cỏ hoa, nào yến oanh đua hót líu
lo. Hàm Phong hoàng đế thấy phong cảnh cũng nhiều chỗ nên thơ, bỗng sinh lòng
cảm khái, ngài nhớ lại cái cảnh huy hoắc tại vườn Viên Minh, biết bao phong lưu
khoái lạc. Thế mà nay chỉ côn thấy có một khu vườn trống hoang lương, tuy còn
có liễu xanh đào thắm, nhưng hương phấn ba cung sáu viện nay còn đâu. Cảnh xuân
càng tươi mát, lòng tưởng nhớ của ngài càng mênh mang vô tận…
Hiếu Trinh hoàng hậu đã có chủ
ý, nhất thiết việc triều đình đều không được cho hoàng đế hay biết, trong khi
đó, sai bọn thái giám An Đắc Hải đem hết sức hầu hạ để ngài được rỗi rảnh tâm
tư chóng khỏi bệnh. Ngay đến bà cũng vậy, bà thường tránh mặt hoàng đế không để
cho ngài thấy mặt, sợ ngài khích động tình dục, có hại đến thân thể. Bà còn hạ
lệnh cấm cả Ý quý phi và bọn phi tần không được tới gần ngài, e rằng ngài nhìn
thấy bọn này, lại nhớ tới cảnh xưa khi ở trong vườn Viên Minh mà động lòng bi
thương buồn bã, rồi có thể lại triệu hạnh một đôi cô, gây tai hại cho sức khỏe
của ngài.
Nhưng hoàng đế sống tại hành
cung càng ngày càng mạnh, dưỡng bệnh lâu ngày chẳng cỏ việc gì làm, nên buồn,
nhiều lúc vào ra mà thở vắn than dài. An Đắc Hải biết rõ tâm tư của ngài hơn ai
hết, bèn chạy ra ngoài hành cung, lẻn gọi vài con mặt phấn môi son vào hầu hạ
đấm bóp.
Quả thật thần diệu! Bởi vì từ
hôm đó hoàng đế không còn buồn nữa, ngài vui ngay lên được. Trong đời hoàng đế,
ngài có bao giờ ngủ với gái mà phải lén lút đâu, ấy thế mà nay ngài phải giấu
giếm thậm thụt mới dám chơi. Ở đời có cái kỳ là cái chơi càng vụng trộm lén lút
thì bọn làng chơi lại cảm thấy thú vị. Trường hợp này cũng chính là trường hợp
hi hữu tại Nhiệt Hà của Hàm Phong.
Chơi đã đến lúc quen mùi, ngài
cảm thấy trong hành cung chơi không đã, thế là ngài nổi hứng bảo An Đắc Hải lén
đưa từ ngoài vào mấy đứa nhà thổ lậu cho ngài nếm của lạ.
Nhiệt Hà vốn là nơi tứ chiếng
lớn rộng xài sang, thiếu gì bọn khách thương từ quan ngoại qua lại, do đó làm
sao tránh khỏi rải rác đó đây năm ba cái tổ quỷ của đám chị em ta. Thế rồi từ
lúc hoàng đế xuất hạnh, văn võ bá quan cũng theo ra. Nhiệt Hà bỗng trở thành
một nơi thị tứ phồn hoa vô cùng náo nhiệt.
Bọn quan lại văn võ chạy theo
vua phò giá nhất thời, đâu có mang theo được bà xã bởi thế nhiều ông đã hỏi
thăm nhau tới đó, mấy mụ dầu lúc này xem ra lên chân ra phết. Hèn cho bọn hèn,
sang cho bọn sang, đó là quy luật của làng chơi.
Do đó trong đám chị em bình
dân, người ta đã thấy xuất hiện gần đây một loại đĩ thượng hạng đang tung câu
giật mấy ông lớn xa bà xã. Đây chính là đám chị em đánh hơi tiền từ Thiên Tân,
Bắc Kinh chạy lên.
Chính ở mấy cái tổ quỷ hạng
sang này, Hàm Phong hoàng đế thường lui tới biểu diễn cái trò phong lưu mã
thượng vốn có từ nhỏ trong cung cấm! Hàm Phong hoàng đế ốm yếu đã từ lâu, thân
thể tuy nói là bình phục chứ thực chưa phải khỏe mạnh hoàn toàn. Ấy thế mà nay
ngài thả cửa ngày đêm ăn chơi trác táng cho nên chẳng bao lâu thân thể ngài lại
bắt đầu còm cõi, đôi vai ngài xọp lại, xương sống ngài gồ lên, hình như hơi sức
ngài đã xuất hết tự bao giờ.
Mùa thu sang, heo may đã bắt
đầu len đến. Hàm Phong hoàng đế bỗng thổ huyết ra đầy nhà. Hiếu Trinh hoàng hậu
cũng như văn võ bá quan khắp triều hoảng hồn bạt vía, chẳng biết đường nào mà
lần, chỉ còn cách gọi ngự y vào bắt mạch hốt thuốc, lo lắng điều trị mà thôi.
Nhờ thuốc tốt, chứng thổ huyết
ở ngài đã hết nhưng thân thể ngài gầy còm ngày một trông thấy. Chính Hàm Phong
hoàng đế cũng tự biết mình vô dụng rồi, cho nên ngài cho truyền Hiếu Trinh
hoàng hậu và Quý phi tới bên giường ngày đêm hầu hạ bầu bạn. Ngài cũng hỏi tình
hình chiến sự của Liên quân Anh Pháp ra sao. Hiếu Trinh hoàng hậu lúc đầu
khuyên ngài bất tất nhọc lòng tìm hiểu mà chỉ cần ngày đêm lo dưỡng bệnh, nhưng
phiền nỗi ngài cứ khăng khăng một mực muốn biết, bắt đem các bản sớ tấu về cho
xem.
Hiếu Trinh hoàng hậu không còn
cách gì cản ngăn được nữa, bèn đưa cho ngài xem cả một tập sớ dày cộm về vụ
này. Ý quý phi có nhiệm vụ ngồi ngay trước giường bệnh lớn tiếng đọc lên cho
ngài nghe. Lúc đó ngài mới cược biết Cung thân vương đã hội thương với sứ thần
các nước, đổi nơi hội nghị sang Thông Châu, nhưng bọn quỷ trắng ngoại quốc
không thèm trả lời.
Hàm Phong hoàng đế liền hạ
nghiêm dụ xuống dặn Cung thân vương không được làm gì mất thể diện triều đình.
Do đó Cung thân vương không dám liều lĩnh nghị hoà. Thế là hai bên giằng co mãi
không đi tới quyết định nào. Liên quân Anh Pháp nổi khùng lên, lập tức xông vào
tấn công Hải Định.
Cấm vệ quân canh gác hai bên tả
hữu hoàng cung thấy bọn lính ngoại quốc xông vào, hoảng hồn bạt vía vội vàng bỏ
chạy tán loạn. Cung thân vương thấy lính chạy hết ráo, chỉ còn trơ lại có mỗi
một mình, không còn có cách gì đứng vững được, vội chạy ra ngoài cửa Quảng
Ninh, rồi chui tọt vào điếm Tràng Tân trốn biệt.
Thuỵ Lân lúc đó bí quá đành
phải xuất đầu lộ diện. Lân cho gọi bộ quân tổng thống là Văn Tường thảo luật,
cuối cùng quyết định đem thả tên sứ Anh Ba Hạ Lễ ra. Lân và Tường không ngờ sự
thả tên Lễ này ra gây lại hậu quả vô cùng tai hại.
Số là Lễ bị nhà Thanh giam giữ
trong lao, nay được ra lấy làm tức, lại xấu hổ nữa, nên chạy lẻn tới vườn Viên
Minh đốt một mồi lửa, lửa lan rộng nhà cháy cửa xém, mù mịt cả một góc trời.
Ngự lâm quân lúc này đã bỏ trốn
hết chẳng còn lấy một tên. Trong vườn bọn thái giám thấy hoàng đế đã chạy cũng
tan đi hết, kẻ thì về nhà, kẻ thì bỏ đi biệt tích, chỉ còn lại có mấy bà già
ốm, không lết đi được mới ở lại. Như vậy thì thử hỏi còn có ai để mà ngăn được
ngọn lửa này nữa.
Hôm đó gió tây lại thổi mạnh.
Trong vườn lâu đài xây cất hết tầng nọ đến tầng kia, chỉ trong nháy mắt đã bắt
lửa cháy lên ngùn ngụt. Đứng từ xa kinh thành, người ta cũng thấy được ngọn lửa
cột khói. Một đám khói rộng lớn như một đám mây hồng càng ngày càng lan mãi ra
tận chân trời.
Thật đáng tiếc cho một khu vườn
rộng bao la bát ngát, nào cung điện, lâu đài, nhà cửa, vườn hoa, vàng ngọc,
châu báu, tất cả lúc này chỉ còn là những miếng mồi ngon của thần lửa. Vườn
Viên Minh cháy suốt ba ngày ba đêm, cháy luôn một hơi, cháy tàn hoại sạch, chỉ
còn lại có mấy bức tường trơ trọi đen thui.
Vườn Viên Minh bị cháy đáng
tiếc thật, nhưng đối với độc giả có lẽ của quý đáng tiếc và cần biết phải là Tứ
Xuân đã từng tô điểm cho vườn này thêm đẹp chuỗi ngày qua.
Ta hãy kể trước hết Mẫu Đơn
Xuân. Nàng nghe nói gái Hán trong cung cấm bị Lan quý phi bắt trói đập chết khá
nhiều, liền tìm cách trốn ra khỏi vườn.
Nàng vốn biết gái Hán với kỳ nữ
(tức gái Mãn) ăn mặc có khác, rất dễ nhận, cho nên bắt chước ăn mặc theo lối kỳ
nữ, để lỡ khi cần dùng đến. Dự phòng như vậy, nàng theo bọn Kỳ nữ bắt chước từ
cách chải đầu búi tóc cho đến các cách thức chào hỏi lễ nghi. Nàng mình mặc
quần áo Kỳ nữ chân đi giày đế phấn, má trát phấn dầy, môi thoa son đỏ chót,
trông chẳng khác một Kỳ nữ chút nào.
Nàng đối với bọn thái giám và
cung nữ rất tốt. Bởi thế hôm hoàng đế hối hả bỏ vườn chạy ra ngoài, bọn thái
giám đã vội phi báo cho nàng hay. Thế là Mẫu Đơn Xuân vội cải trang thành Kỳ
nữ. Đã từ lâu nàng dành dụm được ít tiền nên có chút vốn. Nàng liền lẻn tới
Thiên Tân, mua vé tàu thuỷ thẳng đến Tô Châu, về nhà.
Mẹ nàng vẫn còn sống tại quê
nhà. Ít lâu sau mẹ nàng đứng lên làm mối cho con gái lấy một anh chàng thư sình
đọc sách. Từ đó hai vợ chồng Mẫu Đơn Xuân tự do tự tại an hưởng cái cảnh gia
đình tới mãi già!
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét