Hồi 57: Sửa di chiếu Ung Vương cướp ngai vàng
Tin Khang Hi hoàng đế
dưỡng bệnh ở Sướng Xuân Viên bay tới tai Ung quận vương Dân Trinh, tức thì
vương chạy đến thỉnh an. Không ngờ bệnh tình của hoàng đế đã quá trầm trọng,
trong lòng lại phiền bực trăm phần nên ngài không muốn gặp mặt họ hàng thân
thích.
Dân Trinh đành phải lui ra
ngoài, bí mật dò la tin tức.
Hồi 58: Đoạt ngai vàng, Ung Chính trả thù
Hồi 59: Trừ đối thủ Ung Chính dùng kế độc
Đêm càng khuya canh
càng vắng. Người con gái lấy tay kéo vạt áo Nga đứng dậy bước đi. Không hiểu
tại sao, Nga đứng dậy ngoan ngoãn bước theo. Hai người một trước một sau, bước
vào gian phòng có màn lụa trướng thêu, có kính quý lược ngà, có gối êm nệm ấm,
khiến kẻ gan lim dạ sắt cũng phải lạc phách tiêu hồn.
Người con gái tỏ ra vô cùng
tình tứ. Nàng giúp Nga cởi bỏ áo ngoài rồi đưa chàng lên giường nằm nghỉ. Nàng
cũng tự thay bộ quần áo ngủ mỏng tanh, chui vào chăn, kề đầu mặt má bên cạnh
chàng, để mùi thơm phưng phức xông vào mũi chàng. Không còn cầm lòng được nữa,
Nga quay mình ôm ghì người con gái vào lòng…
Giữa lúc chàng đang mê đắm tận
hưởng khoái lạc, bỗng có một tiếng xẹt ngoài cửa sổ rồi một đại hán nhảy vụt
vào phòng. Hắn trước hết giơ tay cướp lẹ chiếc áo dài có đeo đạo kim phù của
Dân Nga rồi mới quay mình lại, tay cầm cây cường đao sáng quắc đâm thẳng về
phía hai người. Nga vội đẩy mạnh người con gái đang ôm trong lòng bật văng ra
xa, quát lên một tiếng: "Mau!". Bỗng từ trong miệng chàng, không biết
bao nhiêu là "kim xà"(1) bay vun vút về phía tên đại hán.
Từ ngoài cửa sổ, bốn, năm tên
đại hán khác, tay đều cầm bảo kiếm, nhảy vào vây lấy chiếc giường buồng màn
gấm, tấn công ráo riết. Chẳng ngờ kim xà bắn ra hết sức lợi hại, khiến đao kiếm
của bọn đại hán gần như trở thành vô dụng. Bọn sát thủ thấy đánh mãi khó bề
thắng nổi bèn phát lên một tiếng "Rút!", tức thì cả bọn nhảy vù ra,
chạy trốn mất dạng.
Bọn chúng về cung tâu Ung Chính
hoàng đế. Ung nghe nói lấy làm lạ vội hỏi vị quốc sư, quốc sư nói:
- Đó là Linh Xà trận của Bà La
Môn giáo. Bệ hạ yên tâm. Phàm học môn Linh Xà trận này, phải thề với đất trời
là không được tham phú quý cõi nhân gian. Xét ra Dân Nga quyết không có ý phản
nghịch đâu mà ngài lo.
Ung Chính nghe lời vị quốc sư
nửa tin nửa ngờ. Mãi về sau, nhân lúc Nga bị bạo bệnh, mất hết nội lực, ngài
cho đi bắt về giam trong lao, dùng độc kiếm hạ thủ. Trước khi chết Nga còn đấu
với bọn lực sĩ ba ngày liền, giết luôn một hồi ba tay kiếm khách của Ung Chính.
Nhổ được cái đinh trong mắt rồi,
từ đó Ung Chính mới thấy lòng khoan khoái. Chẳng ngờ chưa được mấy hôm ngài lại
được tin cấp báo từ biên cảnh về, nói La Bốc Tàng Đan Luật miền Thanh Hải dẫn
dụ Đại Lạt ma Sát Hãn Nặc Môn, nhè giữa lúc thế tôn mới đăng vị, nơi cung đình
có nhiều biến cố, thừa cơ tạo phản. Trước hết La Bốc sai người tới khuyên Quận
vương Nhan Nhĩ Đức Ni và Thân vương Sát Hãn Đan Luật, để hai người cùng cất
binh đánh thốc vào quan nội nhưng hai vị vương này không nghe. La Bốc nổi đoá,
liền điều động binh mã tới cưỡng ép hai vị vương phải xua quân đánh Thanh
triều. Thấy tiến thoái vô lộ, hai vị vương chỉ còn cách viết văn thư cáo cấp về
Bắc Kinh.
Ung Chính hoàng đế xem văn thư,
lòng do dự chưa quyết, bỗng viên nội thị chạy tới báo có quốc cữu Long Khoa Đa
xin vào bệ kiến. Hoàng đế nói luôn mấy tiếng.
- Xin mời vào.
Khi hai người gặp nhau, Ung
Chính nói:
- Quốc cữu tới thật đúng lúc
quá!
Nói đoạn, ngài bèn cầm tờ văn
thơ cáo cấp nơi quan ngoại đưa cho Đa. Đa xem xong liền nói:
- Thần cũng vì việc này mà tới.
Bệ hạ há chẳng thường nói đến công lao phò trợ của Miên Canh Nghiêu mà chưa
từng báo lại, chẳng thường bảo Dân Đê chinh chiến bao lâu, rất được ai nấy quan
tâm, đáng nên lo ngại đó sao? Hơn nữa, khi còn làm quận vương, bệ hạ chiêu nạp
rất nhiều hảo hán, nuôi họ trong phủ, nay việc lớn đã thành, bọn họ cậy mình có
công thường hoành hành bất pháp chốn kinh thành, chẳng ra thể thống gì cả. Nhân
dịp biên quan có biến, chi bằng hệ hạ xuống một đạo chỉ dụ phong Dân Đê làm Phủ
viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, còn bọn anh hùng hảo
hán chiêu nạp trước đây, cũng đều phong cho họ làm quan võ rồi giao cho Miên
Canh Nghiêu đem theo ra Thanh Hải, như thế tất tránh được chuyện gây rối làm
bậy nơi kinh kỳ.
Ung Chính hoàng đế nghe xong,
bèn nói:
- Kế tuy hay đấy nhưng hiềm nỗi
lão Miên kia đã từng gian khổ bao năm mà chỉ cho y làm phó tướng, e rằng bẽ mặt
y quá Lại nữa, cho Dân Đê làm đại tướng quân, sợ rằng thế lực hắn thêm lớn, khó
có thể chế phục được sau này. Còn bọn anh hùng hảo hán cũng chẳng chắc gì giữ
nổi họ được mãi nơi Thanh Hải, rồi đến một ngày nào đó trở về họ vẫn tính nào
tật ấy, tình trạng đâu có hơn gì ngày trước.
Long Khoa Đa nghe xong, cười
nói:
- Bệ hạ khỏi lo. Thần đã có
dụng ý ở chỗ này…
Sau đó, Đa ghé sát tai Ung
Chính thì thầm nói về dụng ý của mình. Ung Chính bất giác vỗ tay đánh đét khen
hay và gật đầu lia lịa tỏ ý phục Đa.
Qua ngày sau, Ung Chính hoàng
đế toạ trào, phong Dân Đê làm Phủ viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó
tướng quân, đi chinh tiễu quan ngoại. Mặt khác ngài cho gọi Ngạc Nhĩ Thái cất
mật dụ trong tay áo, tới gặp Miên Canh Nghiêu dặn Nghiêu y kế thi hành như vậy…
như vậy…
Miêu Canh Nghiêu nhận mật dụ,
suốt mấy ngày liền tập hợp bọn giang hồ hảo hán, cắt cử họ, kẻ thì làm phó
tướng, kẻ thì làm tham tán, kẻ thì đô thống, đô đồng, thiên tổng, bá tổng, đủ
cấp quan lớn quan nhỏ trong quân ngũ.
Bọn hảo hán được làm quan, anh
nào anh nấy khoái trí lắm, diễu võ dương oai, vác kiếm vác đao đi. Khi tám vạn
đại binh đã đủ số, Ung Chinh hoàng đế truyền lệnh cho phó tướng đem quân mã đi
trước. Đến hôm xuất quân, nhổ lều trại lên đường, đấng thiên tử đích thân ra
khỏi thành tiễn đưa. Thế rồi ba tháng hành quân liên miên không ngừng, đại binh
đã tới biên cảnh Tứ Xuyên, hợp nhất với bốn vạn quân nữa của phó tướng Nhạc
Chung Kỳ, rồi mới ùn ùn kéo thẳng ra Thanh Hải cự địch.
Hai tháng sau, khi tướng Nghiêu
đã vạn dặm nơi sa trường rồi, Ung Chính hoàng đế mới cho Dân Đê xuất binh, mang
ấn tướng đại soái, đem theo một trăm thân binh, mặc áo thường, bỏ bớt đồ nhu
tòng, gấp rút lên đường. Đê tới Tứ Xuyên, được tin Nghiêu đã xua quân ra quan
ngoại, trong lòng rất lấy làm nghi hoặc, tự nghĩ sao phó tướng không đợi quân
lệnh của đại tướng mà lại tự ý xuất binh. Giữa lúc phân vân buồn bã, Đê bỗng
được báo có thánh chỉ tới. Đê vội bày hương án đón nhận.
Một thái giám tuyên đọc.
"Phủ viễn đại tướng quân,
lập tức miễn chức, Ấn thụ đại tướng giao lại cho Miên Canh Nghiêu, được phong
làm Phủ viễn đại tướng quân, Nhạc Chung Kỳ làm tham tán" .
Dân Đê nghe thánh chỉ xong,
quay đầu lại sau, thì đã thấy ông tướng Miêu Canh Nghiêu quỳ cạnh mình từ lúc
nào để tiếp chỉ. Đến lúc đó, Đê mới rõ hoàng đế đã dùng kế điệu hổ ly sơn để
diệt trừ đối thủ. Quân đội hiện không còn ở bên mình, binh quyền lại đã mất vào
tay kẻ khác, thử hỏi Đê còn biết làm cách nào hơn mà không, trao trả ấn tín,
phất tay áo ra đi? Đê đã trở thành người không quyền không thế, do đó hành tung
của Đê chẳng ai thèm để ý tra hỏi tới nữa.
Sau chuyện này ít lâu, người ta
thấy ở thành Quảng Đông tại chợ Châu có một ngôi hàng buôn bán của chủ nhân
người họ Lương lâu nay buôn thua bán lỗ, vốn liếng gần tới chỗ khánh kiệt. Từ
ông chủ tiệm cho tới bọn làm công, cả nhà đều buồn rười rượi, ngồi so ro suốt
ngày trong tiệm, chẳng biết làm cách nào hơn. Năm hết tết đến chủ nợ kéo tới
đòi tiền gây gổ om sòm. Ông chủ họ Lương suốt ngày thở vắn than dài, Buồn quá,
ông bèn bảo tên gia nhân ra bờ sông chiêu thần tài cầu may.
Nguyên lai, theo tục lệ của bọn
con buôn tỉnh Quảng Đông thì mỗi khi buôn bán thua lỗ, họ ra bờ sông trồng một
cây cờ phan, trên ngọn treo một chiếc đèn đỏ gọi chiêu thần tài.
Gia nhân nhà họ Lương vừa mới
trồng cây cờ phan ngoài bờ sông và chưa treo xong chiếc đèn đỏ thì đã thấy một
chiếc thuyền hàng lớn ghé vào đỗ lại. Từ trên mũi thuyền, một người ăn mặc kiểu
nô bộc, mũi lớn như mũi trâu, nói tiếng Bắc Kinh, bước xuống tìm hỏi ông chủ
quán có nhà không. Ông chủ họ Lương vội vàng chạy ra, kế đó lếch thếch theo lên
chiếc thuyền hàng vừa mới đô bến. Ông chủ họ Lương thấy một người đàn ông vào
trạc trung niên, mặt mũi khôi ngô, cử chỉ đàng hoàng, tự xưng là họ Kim, cất
tiếng nói:
- Chuyến này tôi có đem theo
rất nhiều trà, quả, hàng hoá từ Bắc Kinh tới Quảng Đông để bán nhưng tìm mãi mà
chẳng ra nhà quen. Nay thấy cửa hàng ông treo đèn đỏ cầu thần tài nên tôi vội
tới để nhờ ông giúp cho một việc.
Ông chủ họ Lương thấy thuyền
của vị khách thương họ Kim chất hàng cao như núi, trị giá ra cũng bốn năm chục
vạn lạng bạc thì đâu có dám tính đến chuyện mua bán. Thành Quảng Đông hồi đó
thiếu nhiều hàng miền bắc cho nên ông ta nghì nếu mua được thuyền hàng này thì
nhất định đại phát tài.
Nhưng ông tự nghĩ minh làm gì
có tiền mà mơ ước. Nỗi băn khoăn tiếc nuối hiện rõ trên nét mặt ông. Người
khách thương họ Kim đoán biết niềm tâm sự của ông bèn nói:
- Tôn ông không có vốn, chuyện
đó cần gì. Trong thuyên tôi hiện có tới bốn mươi vạn lạng bạc hàng. Tôi tạm gửi
ông, để nhờ ông bán dần cho. Tôi không cần ông trả nửa đồng kẽm nào bây giờ
đâu. Tôi đợi tới ngày này năm sau sẽ kết sổ tiền hàng cũng chẳng muộn!
Lương chủ nhân nghe ông khách
nói vậy, sung sướng đến phát điên lên. Ông chắp tay vái dài, miệng cảm tạ rối
rít, cho dọn một bữa rượu thịnh soạn để khoản đãi khách quý, đồng thời thuê phu
bốc hàng về nhà. Ông khách họ Kim ăn xong nói gọn một câu: "Chẳng dám
phiền", rồi bước lên thuyền đi luôn.
Thế là từ đó, ông chủ tiệm họ
Lương trở thành người bán giùm hàng cho vị khách thương phương bắc. Không đầy
nửa năm, tất cả hàng hoá đều bán hết sạch, lời lãi lên tới mười vạn lạng bạc.
Ông đem một ít lời ra làm vốn mở phố sinh lợi, còn bao nhiêu thì đợi ông khách
quý trở lại thanh toán. Ngày tháng qua mau năm lại sắp hết. Ông chủ tiệm họ
Lương cho quét dọn nhà trên nhà dưới, sửa soạn tiệc rượu. Hôm đó ông khăn đóng
áo dài, đợi khách.
Đêm hôm đó, quả nhiên ông khách
quý tới nơi, mười chiến thuyền lớn đậu thành hàng ngoài bến trước tiệm, thuyền
nào thuyền nấy đầy ắp đủ thứ hàng nam, hàng bắc, lại còn cả sâm, quế, nhung,
yến, không thiếu vị nào. Người khách bước lên bờ, vừa trông thấy ông Lương là
tay bắt mặt mừng, tươi cười vồn vã, cất giọng nói:
- Lần này, tôn ông nhất định
phải bận lắm rồi đấy. Thuyền của bọn tôi hiện có đến bốn trăm vạn lạng bạc
hàng. Tôn ông phải nghĩ cách bốc ngay hàng về kho đi.
Lương chủ nhân một mặt đon đả
mời ông khách quý đánh chén, một mặt triệu tập hết bọn thương gia toàn thành
lại để bàn tính việc bốc và chứa hàng. Thế rồi trong chốc lát, năm bảy trăm phu
khuân vác đã tề tựu đông đủ. Tiếng "dô ta", tiếng hò hát vang động
khắp mấy khu phố.
Ông Lương ngồi hầu rượu khách
quý, đến lúc cơm no rượu say rồi mới khệnh khạng bưng một chồng sổ sách ra để
mời khách kết toán. Ông khách đẩy chồng sổ sách sang bên, bảo Lương:
- Thôi, tôn ông tính đúng rồi,
hà tất phải xem lại, hãy để đó bán sau.
Nói đoạn, ông khách đứng dậy,
cáo từ rồi đi luôn. Lúc từ biệt, ông khách còn dặn thêm:
- Chuyến này, xin hẹn ba năm
sau, tôi sẽ lại tính toán sổ sách tiền nong với tôn ông. Bây giờ chẳng gấp gì!
Nói vừa dứt, ông khách nhẩy lên
thuyền, nhổ neo giong buồm, thuận gió như bay, chẳng bao lâu đã mất dạng.
Ông chủ tiệm họ Lương sau khi
tiễn đưa ông khách kỳ lạ lên đường rồi, đem hết tài ba ra kinh doanh. Tiệm ông
càng ngày càng phát đạt. Không đầy ba năm, mười chiếc thuyền hàng lại đã bán
xong, ông lại khăn đóng áo dài ngồi đợi khách.
Rồi một hôm, vào đêm trừ tịch,
ông khách kỳ lạ kia lại tới. Vừa thấy chủ nhân, ông khách đã tươi cười chào
hỏi. Ông Lương cho dọn rượu và trình bày với khách việc mình buôn bán hàng hoá
thế nào.
- Số hàng của tôn ông đã bán
xong, hiện được lời trên sáu trăm vạn lạng bạc. Số tiền đó hiện gửi tại các
ngân hàng tỉnh Quảng Châu. Vậy xin tôn ông cho biết tôn kiến ra sao.
Người khách nghe xong, liền
nói:
- Hãy đem số tiền chia đôi: một
nửa gửi vào ngân hàng Đức Dụ tại Hán Khẩu, còn một nửa vẫn để lại Quảng Châu,
sau này sẽ tính.
Lương chủ nhân được lệnh của
ông khách lập tức tới các ngân hàng để lo liệu mọi việc cho xong.
Chẳng mấy ngày lại đã mồng năm
tháng giêng. Ông khách lần này ở lại tiệm ông Lương, bên cạnh chỉ có một tên
gia nhân. Tuy ngày nào cũng như ngày nấy khách được chủ nhận cung phụng nào cơm
ngon canh ngọt, nào rượu nồng dê béo, nào cao lương mỹ vị nhưng khách vẫn cảm
thấy nỗi cô đơn lạnh lẽo trong những đêm trường vắng lặng nơi đất khách quê
người.
Chú thích:
(1) Tên gọi một loại vũ khí rất
nhọn và cực độc.
Hồi 60: Ra đi chẳng hẹn ngày về
Chủ nhân họ Lương thấy
ông khách quý của mình một thân cô quạnh buồn bã, bèn vắt óc nghĩ cách giải
buồn cho khách. Số là ở Quảng Châu vào đầu tháng giêng thường có những thuyền
hoa nhởn nhơ trên sông Châu Giang, vui nhộn hết chỗ nói. Trai thanh gái lịch phô
quần diện áo, khoe phấn đua hương, nườm nượp suốt ngày đêm. Tiếng tơ đồng nỉ
non thánh thót, tiếng sáo thổi vi vu như đưa hồi vào cõi mộng, không lúc nào
ngừng. Trong đám nhà trò con hát cũng có nhiều ả xinh, Lương bèn gọi tới hầu hạ
ông khách quý trong chiếc ghe tứ động.
Chiếc ghe tứ động được trang
trí hết sức lịch sự, trang nhã có khoang trong kết hoa tươi thắm, cửa sổ treo
đèn đỏ rực. Ông khách chễm chệ ngồi bên trong. Lương gọi dọn tiệc, rồi viết bức
hồng tiên, tuyên triệu hết những danh hoa trong xóm chị em tới. Ông khách quý
được suy tôn lên ghế nhất cầm trịch, năm bẩy chục em út quây chung quanh để bồi
tiếp, mua vui.
Thôi thì phấn hương, thôi thì
oanh yến - chiếc ghe bỗng biến thành một nơi khoe sắc phô thanh xưa nay ít
thấy. Ông khách tuy tay hữu ôm, tay tả bế nhưng thực ra chẳng có một cô gái nào
được ông để lại mắt xanh. Một lát sau, ông lấy cớ ra ngoài, rồi nhân đó biến
luôn vào khoang sau mất dạng.
Không ngờ, nhờ đó, ông mới được
nghe tiếng nỉ non than khóc hình như của một người con gái. Ông theo tiếng khóc
lần tới, thì ra ở khoang chót tận sau lái có một cô gái đang bị mụ đầu lột
truồng như nhộng, đánh tới tấp, nằm lăn trên sàn ván. Chiếc roi trong tay mụ
đầu càng vụt càng nhanh, chẳng tiếc thương gì làn da non mịn trên tấm thân như
ngọc như ngà, chỉ vài phút sau đã thấy máu bật ra từng vết dài khắp mình. Ông
khách nhìn cảnh tượng, động lòng bất nhẫn, thốt lên một tiếng "đáng
thương" rồi bước lẹ tới giật lấy chiếc roi của mụ dầu, bế xốc nàng lên,
đưa ra khoang trước.
Khoang trước lúc đó đã đầy
nghẹt các cô. Ông khách bất chấp, thản nhiên lùa tay vào trong túi lấy khăn tay
ra, vừa lau nước mắt cho nàng, vừa hỏi tên họ. Người con gái nằm trong lòng ông
vừa thút thít vừa trả lời:
- Tên em là Tiểu Yến. Từ khi
cha mẹ bán em vào chiếc thuyền hoa này, thường bị mụ đầu đánh mắng, bảo em lạnh
nhạt với khách khiến không đắt hàng.
Ông khách nghe nàng nói, nhìn
kỹ gương mặt của nàng, dù đầu bù tóc rối, mặt mũi lọ lem nhưng vẫn xinh đẹp
tuyệt trần. Ông liền mở chiếc áo tràng bào đang quàng lấy người nàng ra thì,
trời ơi, cả một tấm thân tuyệt đẹp lồ lộ hiện Ta trước mắt khiến ông cầm lòng
không được, bèn đưa tay vuốt ve làn da mịn màng, nõn nà còn hằn những vệt roi
rớm máu.
Tiểu Yến xấu hổ, vội kéo vạt áo
che kín thân mình đôi má hồng lên, nguýt ông khách, thì thào bên tai ông:
- Đừng làm thế, người ta cười
chết.
Nhưng, khì nàng quay đầu nhìn
một lượt thì chủ nhân họ Lương, và năm bảy chục cô đào kia đã rút lui từ lúc
nào, bỏ lại họ một mình, tha hồ trò chuyện.
Thế rồi từ đó, ông khách đâm mê
luyến Tiểu Yến, đi cũng có đôi, nằm cũng có đôi, luôn một lèo hơn tháng trời,
chẳng thèm ra khỏi cửa khoang ghe nữa.
Lúc này, Tiểu Yến đâu có còn là
Tiểu Yến ngày nọ. Nàng tô điểm lộng lẫy, vàng ngọc đầy mình, suốt ngày quấn
quýt bên ông khách vô danh, có hành tung, kỳ dị. Đôi trai tài gái sắc ân ái
muôn phần đằm thắm. Thường chỉ có ông Lương đến gặp đôi phút, nói đôi ba lời
rồi lại đi, chứ tuyệt nhiên chẳng có kẻ nào dám tới quấy phiền họ.
Ngày tháng thoi đưa, chớp mắt
đã xuân đi hạ tới. Ông khách quý bỗng bảo muốn trở về Bắc. Hỏi ông về Bắc là về
đâu, ông chẳng chịu nói. Ông chỉ dặn dò chủ nhân họ Lương đem ba vạn lạng bạc
chia làm ba: một vạn lạng thì tậu một biệt thự rộng rãi đồ sộ bên dòng Châu
Giang, trồng cây, ươm hoa thật trang nhã một vạn lạng thì cấp cho người đẹp
Tiểu Yến để giúp nàng hoàn lương và lấy tiền chi dụng hằng ngày, còn một vạn
lạng thì cấp cho chính ông Lương.
Lúc lâm biệt, chú nhân họ Lương
hỏi ngày nào trở lại, ông khách đôi mắt bỗng đỏ hoe và nói bằng một giọng hết
sức cảm động.
- Ta đi lần này hành tung vô
định. Nếu việc ta làm thành công thì bằng rày sang năm ta trở lại. Quá hạn đó,
ta e kiếp này không có dịp gặp bọn ngươi nữa.
Ông nói đoạn quay sang thì thầm
với Tiểu Yến:
- Ta với nàng yêu thương nhau
đã bao ngày tháng thế mà họ tên ta nàng cũng chưa được biết. Thôi để ta: nói
cho nàng nghe. Tên ta là Dân Đê, nếu nàng có nhớ đến ta, thì lúc vắng người,
nàng cứ gọi đến tên ta tức là ta đã biết rồi đó.
Tiểu Yến nghe xong, khóc lóc
thảm thiết, nhiều lần đến ngất đi. Thế rồi giữa lúc nàng đau khố tới cùng cực,
Dân Đê dứt áo ra đi.
Người đẹp Tiểu Yến ở trong biệt
thự nhớ nhung chờ đợi đã ba năm mà Dân Đê vẫn mất tăm chẳng thấy trở về. Mãi
sau nàng mới đem tên họ của người khách nói cho chủ nhân họ Lương hay, lúc đó
mới biết Dân Đê chính là anh em với đương kim hoàng đế. Lương giật mình hoảng
sợ, từ đó không bao giờ dám nhắc tới chuyện này nữa.
Về sau Dân Đê, Dân Dĩ, tuy
không biết rõ tung tích nơi đâu nhưng vẫn còn đôi ba tin tức có thể truy tìm.
Tin tức này phát xuất từ một vị tú tài thanh bạch người phủ Cương Đức tỉnh Hà
Nam, họ Trang tên Tuân. Trang Tuân đã có mấy đời tổ phụ giữ trọng nhiệm về giáo
dục. Thân phụ là Trang Sĩ Hiếu đậu cử nhân từ lúc còn rất trẻ, chính Trang Tuân
cũng đã đỗ tú tài Tuân sớm tối mong mỏi công danh phú quý, một ngày mai bay
bổng với đời. Ngờ đâu Tuân chỉ đỗ có một lần tú tài đó rồi thôi. Khi Tuân hai
mươi tuổi, cha mẹ lần lượt qui tiên. Tuân vốn là người không biết lo liệu gánh
vác gia đình, thành thử miệng ăn núi lở, phong bao lâu cả một sản nghiệp của cha
ông để lại đã thấy có bề khó giữ. Tuân quyết tâm lập chí, cố theo đuổi sự
nghiệp văn chương, nên tinh thực hiện kế sách "dìm thuyền đập nồi",
bán cho kỳ hết mấy mẫu bạc điền, xách gói ra đi. Tuân lên kinh đô, bỏ một số
tiền quyên lấy đanh nghĩa giám sinh để vào trường thi múa bút so văn, ai ngờ
Tuân thi luôn ba khoa, rớt vẫn hoàn rớt, vẫn lại ông tú xác xơ như xưa. Từ đó,
buồn chán nghiệp văn lại thêm túng đói Tuân lưu lạc đến nơi kinh thành, ngày
ngày thổi sáo giải buồn ngoài chợ Ngô. May cho Tuân là có ông chủ quán của một
khách điếm nọ giúp cho một chỗ ngồi trước cống điếm để bói toán kiếm ăn độ
nhật.
Ngoài cửa Địa An môn, khách
khứa đi lại đông đảo, quang cảnh vô cùng náo nhiệt. Đây cũng là nơi bọn thái
giám trong cung nội lai vãng hằng ngày. Bọn này vốn có tính mê tín. Bởi thế cứ
mỗi khi có chuyện gì khó xử, lo lắng là lại tới hỏi Trang Tuân. Điểm đặc biệt
là trong đám thái giám, người phủ Chương Đức tỉnh Hà Nam chiếm một phần lớn. Do
đó, Tuân chơi thân với bọn này, hằng ngày nhắc lại những điều xa xưa nơi quê
hương bản quán. Thế rồi không biết từ đâu, một truyền mười, mười truyền trăm,
tới tai tên trùm thượng y giám là thái giám Lưu Vĩnh Trung. Trung với Tuân vừa
là đồng hương lại vừa là bà con thân thuộc của nhau. Trung nghe bọn đàn em
thường nói tới Tuân, bèn nhân lúc rỗi rảnh chạy ra cửa Địa An môn tìm. Từ xa,
Trung đã thấy Tuân với chiếc bàn con dùng làm nới bói toán, kê cạnh cổng khách
điếm.
Trung bước nhanh tới, gọi lớn:
- Tuân đại ca!
Tuân nghe có người gọi mình vội
ngước đầu lên nhìn, thấy Trung hơi quen quen nhưng vì lâu năm không gặp nên
nhất thời không nhận nổi. Tuân ngờ ngợ một lát rồi mới sực nhớ, vội cười nói:
- Túc hạ có phải Lưu nhị ca của
Lưu gia trang ta không?
Lưu thái giám gật đầu, cười khà
khà, ra chiều mừng rỡ.
Trang Tuân vội dọn dẹp đồ lề
rồi dắt tay Trung kéo vào quán hàn huyên. Trung khoe với Tuân mình được làm
tồng quản thượng y giám, ngày ngày được gặp mặt thái tử và được thái tử tin
dùng. Trung còn khoe trong cung hoa lệ ra sao, đồng bọn đông đảo như thế nào,
xoay tiền kiếm lợi đủ cách ra sao, khiến Tuân nghe mà đầy thèm khát.
Qua ngày hôm sau, tổng quản
thái giám Lưu Vĩnh Trung lại mời thầy bói Trang Tuân tới gặp tài Đại bằng lan
tửu lẩu.
Nhậu được một lát Tuân hỏi
Trung:
- Đồng bọn của nhị ca ở trong
cung có bao nhiêu người?
Trung tổng quản bóp trán suy
nghĩ một chập rồi nói:
- Ước tính có tới hơn hai ngàn.
Rồi Trung vừa bấm đốt ngón tay,
vừa tính vừa kể:
- Tại Càn Thanh cung, có hai
viên tổng quản, bốn viên thử lãnh với hai mươi bốn tên thái giám; ba viên thủ
lĩnh quét dọn với tám mươi sáu tên quét dọn. Lại Chiêu Nhân điện có hai viên
thủ lĩnh với mười tám tên thái giám. Tại Hoàng Đức điện có hai viên thủ lĩnh
với mười hai tên thái giám. Tại Mậu Cần điện có một viên thủ lĩnh với chín tên
thái giám. Dưới sáu gác chuông đánh hiệu có mười bốn tên thái giám, sáu viên
thủ lĩnh chấp sự với sáu mươi sáu tên thái giám. Tại phòng ngự trà có hai viên
thủ lĩnh với năm mươi hai tên thái giám; hai viên thủ lĩnh đưa rước vua lên
kiệu xuống kiệu với ba mươi bảy tên thái giám. Tại Khôn Minh cung có hai viên
thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám. Tại Đông Noãn điện có hai viên thủ lĩnh
với tám tên thái giám. Tại Tây Noãn điện có hai tên thủ lĩnh với chín tên thái
giám: Tại Giao Thái điện có hai tên thủ lĩnh với năm tên thái giám. Tại Duyến
Chi cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Trường Xuân cung
có hai tên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại Vĩnh Thọ cung có hai viên
thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Đức Khôn cung có hai viên thủ lĩnh với
mười sáu tên thái giám. Tại Vĩnh Hoà cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên
thái giám. Tại Khải Trường cung có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái
giám. Tại Thừa Kiến cung có hai viên thủ lĩnh với mười lăm tên thái giám. Tại
Hàm Phúc cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Sư Tú cung
có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Canh Long cung có hai viên
thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Cảnh Nhân cung có hai viên thủ lĩnh
với mười hai tên thái giám. Tại gần cứa Quang Tả môn có sáu tên thái giám. Tại
Ngự thư phòng, có hai viên thù lĩnh với mười tên thái giám. Tại Cổ đông phòng
có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Nam thư phòng có hai viên thủ
lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại thư phòng của các hoàng tử có mười lăm tên
thái giám. Tại Tây thư phòng có năm tên thái giám. Tại Phiên thư phòng có bốn
tên thái giám, tại Kinh sự phòng có một viên thủ lĩnh với hai mươi sáu tên thái
giám, sáu tên ngự tiền thái giám, mười hai tên đợc thanh thư thai giám. Tại Càn
Thanh cung có hai viên thủ lình với tám tên thái giám. Tại Nhật Tinh môn có hai
viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Nguyệt Hoa môn có hai viên thủ lĩnh
với tám tên thái giám. Tại Nội Tả môn có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên
thái giám. Tại Nội Hữu môn có hai viên thủ lĩnh với hai tên thái giám. Tại Cảnh
Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Long Phúc môn có hai
viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Cơ Hoá môn có hai viên thủ lĩnh với
mười hai tên thái giám. Tại Đoan Tắc môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên
thái giám. Tại Cần Quang tả môn có bảy tên thái giám. Tại Dưỡng Tâm điện có hai
viên thủ lĩnh với hai chục tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo (coi việc
quét dọn) với mười hai tên thái giám đã tảo năm tên thái giám tiễn tượng (thợ
làm tên) năm tên thái giám án ma, hai thái giám thiết tượng (thợ sắt), hai tên
thái giám học thuốc tây, một tên thái giám hoa tượng (thợ vẽ) mười tên thái
giám điểu thương. Tại Dưỡng Tâm lộ phòng có ba tên thái giám. Tại phòng khăn áo
có một viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại đại điện nuôi chim ưng có hai
viên thủ lĩnh với hai mươi bốn tên thái giám. Tại phòng nuôi chó lớn, chó bé có
hai viên thủ lĩnh với ba mươi tám tên thái giám. Tại phòng nuôi bổ câu có năm
tên thái giám. Tại ngự hoa viên có ba viên thủ lĩnh với năm chục tên thái giám.
Tại Bắc Tiêu hoa viên có hai tên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Đại Khung
điện có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Trung Chính điện có mười
bốn tên thái giám. Tại Khâm An điện có hai viên thu lĩnh với ba mươi bốn tên
thái giám. Tại phòng bếp nước có một viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám.
Tại phòng củi đuốc có một viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại phòng
lò sưởi có hai viên thủ lĩnh với mười bảy tên thái giám. Tại sở Triệu Tường có
hai viên thu lĩnh với mười bốn thái giám. Tại thư phòng có sáu tên thái giám.
Tại Ngộ Hỉ sơ có hai viên thủ lĩnh với mười ba tên thái giám Tại sở nội có một
viên tổng quản chín viên thu lĩnh với năm mươi ba tên thái giám. Tại Vĩnh An
đình, có ba viên thủ lĩnh với hai mươi lăm tên thái giám. Tại Nam phủ tây lộ,
có ba viên thú lĩnh với ba mươi tám tên thái giám. Tại Nam phủ trung lộ, có ba
viên thu lĩnh với mười lăm tên thái giám. Tại Nam Huân điện có một viên thủ
lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám. Tại Ham An cung có hai viên thủ lĩnh với
bốn mươi tên thái giám. Tại Phật đường ở Từ Ninh cung có hai viên thủ lãnh với
tám tên thái giám; còn có hai viên thủ lĩnh Lạt ma với ba mươi tên thái giám,
hai viên thủ lĩnh tụng kinh với mười sáu tên thái giám, hai viên thủ lĩnh giữ
cửa với mười hai tên thái giám, hai viên thủ lĩnh hoa viên với bốn tên thái
giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo với mười hai thái giám đã tảo. Tại Ninh Thọ cung
có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Dục Khánh cung có bốn viên
Diện thượng thủ lĩnh với sáu mươi tên thái giám; còn có một viên thủ lĩnh coi
chim ưng với mười lăm tên thái giám; một viên thủ lĩnh gác cổng với mười một
tên thái giám; một viên thủ lĩnh phòng chó với ba mươi tên thái giám; hai viên
Chấp sự thủ lĩnh, với mười tám tên thái giám; hai viên thủ lĩnh phòng trà với
hai mươi hai tên thái giám, năm tên thái giám điểu thương; một viên thủ lĩnh đã
tảo với hai mươi tên thái giám, một trăm tên thái giám duệ tiền (trước vua),
một trăm thái giám A Ca hạ, lại một trăm lẻ hai tên thái giám A ca hạ, sáu mươi
tám tên thái giám A ca hạ, lại tám mươi thái giám A ca hạ nữa. Tại kho đông có
sáu thái giám A ca hạ, lại kho tây có bốn tên thái giám A ca hạ…
Lưu tổng quản kể một hơi, thao
thao như nước chảy khiến Trang Tuân nghe đến đầu nặng mắt hoa. Đợi cho Trung
tạm ngưng Tuân mới lên tiếng nhờ vả.
- Trong cung nội đã dùng tới
không biết cơ man nào thái giám như vậy, thì thêm một tiểu đệ có lẽ cũng chẳng
nhiều gì. Tiểu đệ cầu mong nhị ca đưa giúp vào cung làm một tên thái giám, để
khỏi phải đói rét vất vả như nay ở ngoài đời.
Trung nghe Tuân nói xong, không
khỏi vỗ tay xuống bàn đến bốp một cái rồi phá lên cười bảo:
- Cái ông Trang lão gia này quả
thật hồ đồ quá sức! Thiến dái đâu có phải chuyện đùa! Lão gia tuổi tác như thế
kia e rằng chết thì phí đi. Nếu lão gia muốn làm ăn thì tớ giúp cho việc này:
Số là nơi đây, bọn tớ có cái món thầu áo long bào, thường giao dịch thơ từ với
bọn hãng dệt Giang Nam. Nếu không ngại cái chuyện phải vào luồn ra cúi thì lão
gia hãy nhận làm một tên chạy cờ đi đã rồi ta tính.
Trang Tuân nghe xong, sướng đến
mê người, vội ngỏ lời cảm tạ. Từ đó, Tuân trở thành viên thư ký cho Lưu tổng
quản.
Phàm những tin riêng đi lại
giữa Trung và các quan tỉnh phủ đều do tay Tuân viết giùm. Tuân được Trung
chiếu cố nên chẳng bao lâu tình cảnh của Tuân đã mát mặt, khỏi phải lo sinh kế
nữa. Tuy nhiên, Tuân vẫn thèm thuồng vì chưa được biết cung điện thế nào, du
ngoạn thích thú ra sao, bởi thế Tuân thường nói với Trung nhờ y đưa vào cung
chơi một phen cho biết. Lưu tổng quản chẳng khó dễ gì với Tuân, vui lòng ngay,
nhưng bảo chờ khi có cơ hội tốt đã.
Sau đó ít hôm, áo long bào của
xưởng dệt Giang Nam đã đưa tới. Trung bèn đem mười tám thái giám đến gia môn
nội phủ để lĩnh về. Nhờ dịp tốt đó Trung bảo Tuân cải trang thành thái giám,
đeo lính bài, trà trộn vào bọn mười tám tên thái giám kia, cũng vác kiện áo
long bào, lần lượt đi hàng một tiến qua cửa Càn Thanh mà vào cung. Qua khỏi cửa
cung, Tuân thấy tường vách cao nghệu, cung điện nguy nga đồ sộ, sắc ngói vàng
xa tít tắp, nào gác hoạ thêu hoa, nào mái cong, cột chạm, bất cứ cái gì cũng
làm cho Tuân mắt hoa đầu choáng.
Qua khỏi Càn Thanh môn là đến
Càn Thanh cung. Bước vào cung, Tuân thấy về phía đông toà môn lâu treo tấm biển
khắc ba chữ Hoàng Dực điện,
về phía tây cũng một toà môn lâu treo tấm biển Chiêu Nhận điện về phía bắc là một cổng lớn, mặt đông
đề ba chữĐông thư phòng, mặt tây đề ba chữ Tây thư phòng, bên trong thấp
thoáng bóng người mặc triều phục đi lại. Ngoài cổng, bốn, năm tên thái giám
đang đợi chờ.
Khi thấy Lưu tổng quản đi tới
bọn thái giám tiến lên đón rước, cười cười nói nói. Đoàn người đi quanh về ngả
Tây thư phòng. Sau Tây thư phòng có một dãy tịnh thất ở phía bên kia bức tường,
trên cao viết mấy chữ Nam thư
phòng, bên trong có tiếng người nói chuyện. Đoàn người vác những kiện áo
long bào vẫn đi tiếp. Họ rẽ về dãy hành lang phía tây, rồi qua dãy hành lang
phía bắc. Nơi đây cũng có mấy căn nhà trên có tấm biển đề mấy chữ Phiên thư phòng. Lưu thái giám
đưa đoàn người xuyên qua Nguyệt Động môn đến ba căn phố trệt, bảo một tên đỡ
mấy kiện áo trên vai thay cho Tuân rồi dặn Tuân ngồi chờ nơi đây…
Trang Tuân theo lời dặn của Lưu
tổng quản, lẻn vào trong căn phố trệt, tựa cửa sổ ngồi xuống, phóng tầm mắt
nhìn qua song cửa. Tuân chỉ thấy bọn thái giám tụm năm túm ba kéo nhau qua phía
trước cửa sổ, có bọn thì vội vã hấp tấp, có bọn lại đủng đỉnh như không phải lo
bận điều gì, miệng thì thào bàn tán với nhau, cũng có kẻ tay cầm những cái hộp
nhỏ đi qua đi lại. Tuy vậy, bọn nào cũng chỉ thì thào trò chuyện chứ đố ai dám
cười to nói lớn.
Giữa lúc đang nhìn ngắm đến
xuất thần, Tuân cảm thấy như có bàn tay ai vỗ nhẹ vào vai mình. Tuân vội quay
đầu lại thì ra là Lưu tổng quản. Lưu lúc đó tay không. Tuân biết Lưu đã làm
xong mọi việc. Tuân theo Lưu tồng quản ra khỏi cản nhà trệt rồi qua cửa Nguyệt Hoa môn, đối diện Nguyệt
Hoa môn là một một toà đại điện trên đề Mậu
Cần điện phía trong có đủ
ngai vàng trướng gấm hết sức trang nghiêm. Tuân và Lưu tống quản lại quanh Càn
Thanh cung. Đối diện cung cũng có một cung điện lớn, treo màn gấm sặc sỡ trên
cỏ tấm biển đề "Khôn Ninh cung". Về phía hành lang mặt đông có
một toà đại điện gọi Đông Noãn
điện. Về phía hành lang mé tây có một toà đại điện gọi Tây Noãn điện. Thẳng về phía
bắc là toà Khâm An điện.
Đi vòng qua Khâm An điện thì đến Ngự
hoa viênvà cửa Thành Võ.
Trung và Tuân, một thái giám thực, một thái giám giả, hai người không đi vào
cửa này mà lại quanh về phía đông mà ra. Trước hết họ qua Chung Tuý cung, sau
đó xuyên qua Tràng Xuân cung.
Cảnh Nhân cung, Cảnh Dương cung, Thừa Kiến cung, Diên Hỉ cung rồi trở lại Chiêu Nhân điện như cũ.
Nghỉ một lát, Lưu tổng quản lại
đưa Trang Tuân theo Tư Đức điện quanh về ngã Dực Khôn cung, rồi Vĩnh Hoà cung,
Hàm Phúc cung, Vĩnh Thọ cung, Khải Tường cung, Sử Tú cung, xem cho kỳ hết mọi
cung, mọi điện. Thực là nhà cửa san sát, lâu đài rực rỡ, không thể tả xiết cái
cảnh phú quý hoa lệ.
Trang Tuân đi tới đâu, miệng
khen lấy khen để tới đó. Nhưng Trung xua tay bảo Tuân im lặng, bởi vì trời lúc
này đã quá ngọ, vào giấc nghỉ trưa: Dọc đường hai người ít gặp bọn thái giám và
cung nữ.
Khi xem xong khắp nơi trong
cung nội, Trung và Tuân bước qua cửa Thần Vô tới Ngự Hoa viên. Trong vườn,
đình, đài thấp thoáng hoa cỏ tốt tươi, tiếng chim hót líu lo vang lên bên tai
càng làm cho du khách thêm phần thú vị. Nơi đây năm bước một lầu, mười bước một
gác, quả đúng như thế thật!
Giữa lúc hai người đang đi sâu
vào nơi muôn tía nghìn hồng thì bỗng phía sau, một tên tiểu thái giám vừa chạy
theo vừa gọi Lưu tống quản:
- Trương tổng quản có câu
chuyện muốn nói với lão gia đấy?
Lưu tổng quản nghe đoạn vội
dừng bước rồi vừa chỉ tay vừa bảo Trang Tuân:
- Lão gia cứ đi về phía trước,
xuyên qua khóm cây kia, tới một toà đại sảnh quay mặt ra cả bốn phía, ngồi đợi
một lát. Tại hạ đi chắc không lâu sẽ trở lại ngay.
Nói đoạn Trung quay đi. Tuân
thong thả bước ra khỏi những lùm hoa, quả nhiên thấy một toà đại sảnh bốn mặt
đều có cửa, có bao lơn bao quanh và có đặt rất nhiều chậu cảnh, bồn hoa. Bước
vào đại sảnh Tuân thấy trên vách tường bốn mặt đều vẽ phong cảnh rất u nhã,
chen lẫn những bài thơ, chữ viết đẹp như cắt. Tuân vốn người đọc sách, hễ thấy
chữ, thấy thơ là thích, là quý, bèn gắn mũi vào tường, đọc hết bài thơ này đến
bài phú nọ.
Giữa lúc mê mải đọc, Tuân bỗng
nghe có tiếng quát từ xa vọng lại, Tuân giật mình, ngẩng mặt lên nhìn qua ngách
cửa sổ, thấy máy tên nội giám đang khiêng một cỗ noãn kiệu đi tới trong kiệu là
một người đàn ông có vẻ oai võ đáng sợ. Tuân nghi là hoàng thượng giá tới,
hoảng hồn bạt vía, cảm thấy đôi chân bỗng mềm ra như bún, muốn run mà run không
nổi, muốn bước để trốn mà bước không xong. Nhưng rồi thấy giữa sảnh có một
chiếc sập lớn, Tuân gắng hết bình sinh lết vào dưới gầm sập, để tai hướng ra
ngoài nghe ngóng.
Một loạt tiếng giầy lộp cộp
bước từ ngoài vào. Rồi một người leo lên ngồi trên sập. Trong sảnh lặng lẽ như
tờ, ngoài những tiếng sột soạt của bộ quần áo mới chạm va vào nhau. Một phút im
lặng đi qua…
Tuân bỗng nghe người ngồi trên
sập cất tiếng nói:
- Đem bọn chúng lên đây cho ta.
Tiếng nói của người này hết sức
lớn, có một âm hưởng dữ tợn. Tiếp đó, có vài ba người khác xuất hiện. Rồi những
tiếng xích sắt rổn rảng vang trên nền nhà. Ba người vừa mới xuất hiện, bị bắt
quỳ trên nền gạch. Trong đó có một người tỏ vẻ quật cường hết sức, mặc cho bọn
thị vệ tả hữu quát bảo y quỳ xuống mà y vẫn không chịu. Đã thế y lại còn lớn
tiếng quát rầm lên:
- Dân Trinh! Mi là một đứa lòng
lang dạ sói, vô cùng hiểm độc! Ta với mi vốn anh em cốt nhục chứ chẳng xa lạ
gì! Mi cưỡng chiếm ngai vàng làm hoàng đế, việc đó ta chẳng thèm nói tới làm
chi. Vậy mà đến tính mạng bọn ta, mi cũng chẳng chịu dung tha, nhất định mưu
hại cho kỳ được. Ta hỏi mi, chứ hai vị ca ca Dân Dị, Dân Đường tội gì mà mi bắt
gọi là chó là heo? Đã thế mi lại còn giam cầm tù đầy họ, còn ta, tên Dân Đê
này, từ lúc phụ hoàng còn tại thế ta đã từng nắm binh mã nam chinh bắc phạt,
lập biết bao công lao cho triều đình, nay không luận công hành thưởng chăng
nữa, cũng không đến nỗi phải tù đầy giam câm như một tên tử tội. Ta nói để mi
biết cái ngai hoàng đế mi đang ngự chính là của ta chứ đâu phải của mi. Mi mãi
thông với quốc cữu Long Khoa Đa lẻn đến sửa chiếu chỉ, đổi câu: "truyền vị
thập tứ hoàng" ra "truyền vị vu tứ hoàng tử" để cướp ngôi báu
của ta. Mi tưởng những hành động gian lận xảo trá đó dễ không ai biết chăng?
Hừ! Hừ! Dân Trinh! Mi rồi đây chết khó toàn thây đó.
Người, ngồi trên sập bị kẻ kia
chửi bới một phen quá xá, bất giác máu hoả bốc lên, ra lệnh:
- Bất tất nói nhiều! Bay đâu!
Đem hoá chúng thành tro ngay cho ta!
Bọn thị vệ tả hữu dạ ran, vâng
lệnh. Tuân ghé mắt, thấy một vật gì như cái chiếu trải trên mặt đất, được cuộn
lại mở ra mấy lần trong chốc lát rồi chỉ nghe bọn thị vệ báo cáo rằng ba thân
vương đều đã hoá thành tro cả. Người ngồi trên sập cười nhạt mấy tiếng, đứng
dậy. Mấy tiếng quát ồm ồm nổi lên như khi tới, tức thì bọn nội giám lại ghé vai
khiêng chiếc kiệu thoăn thoát bước đi, nhẹ nhàng thanh thản như không có chuyện
gì xảy ra.
Trang Tuân nằm dưới gầm sập,
thấy cái cảnh khủng khiếp quá đến nôi y đâm ra như ngớ ngẩn. Mãi tới khi Lưu
tổng quản quay về nơi đại sảnh, tìm thấy y dưới gầm sập kéo ra, thấy y ngây
ngây ngốc ngốc, miệng cứ lập bập nói mãi câu "Làm tôi sợ đến chết, đến
chết mất" thì chẳng hiểu ra sao cả, Lưu tổng quản vội đưa Tuân về
khách điếm, miệng y vẫn cứ lảm nhảm không thôi: "Làm tôi sợ đến chết
mất".
Từ đó, Tuân đâm ra điên thật,
hễ gặp ai là y nói câu "Làm tôi sợ đến chết mất".
Lưu tổng quản tới thăm Tuân đôi
ba lần, cho mời cả danh sư tới bắt mạch hốt thuốc cho Tuân. Nhưng thuốc đổ vào
miệng Tuân chỉ như nước đố vào lỗ cống, thoáng cái đã tiêu đi đi mất mà bệnh vẫn
hoàn bệnh. Lưu tổng quản đành chịu chẳng biết làm cách nào hơnl, chỉ còn biết
nhờ người đưa y về quê dưỡng bệnh. Thương thay cho Tuân, điên luôn một lèo mười
lăm lăm trời, đến khi Ung Chính hoàng đế đã chết, Tuân mới dám đem câu chuyện
khủng khiếp trên nói ra cho người ngoài biết.
Chỉ vì Khang Hi hoàng đế có dạ
khoan hồng nên Ung Chính mới sinh lòng độc, lại còn hành xử quá đáng đối với
các hoàng tử cùng bà con thân thuộc như vậy. Thủ hạ của Chính đã đông, tai mắt
lại lắm. Chính ngài cũng thường cải trang thành kiếm khách, vi hành ra ngoài
điều tra. Dù cho ai ngồi trong phòng kín đến đâu chỉ cần có nửa câu phỉ báng
hoàng đế, tức thì cái sọ của người đó lập tức bay mất. Từ khi Ung Chính hoàng
đế thu được, cái gọi là Huyền trích tử rồi lại được vị quốc sư truyền thụ Chú
ngũ Lạt Ma thì ngài muốn giết ai là được ngay. Ngài chẳng cần động thủ mà chỉ
cần niệm câu thần chú, tức thì Huyết trích tử đi lấy ngay đầu người ấy đem về
cho ngài.
Cần nói thêm về cái gọi là
Huyết trích tử. Đấy là một trái cầu tròn làm bằng thép luyện, bên trong gài hơn
mười lưỡi dao bén nhọn như hình cánh chim, mỗi khi cơ quan hoạt động tức thì
những lưỡi dao đó xoay tròn như vành bánh xe, xoay tít. Câu thần chú niệm vừa
xong, chiếc thiết cầu đó được ma lực điều động, bay vút lên không, tìm tới chỗ
người sẽ bị giết, ngoạm cái đầu người đó vào giữa rồi bay về nộp chủ. Giết
người không thấy, máu, biến hiện không tung tích quả là một vật hết sức quái
đản, xưa nay chưa từng thấy. Ung Chính hoàng đế nhờ cái vật quái dị đó đã bí
mật giết chết bao nhiêu người không, tính xuể
Nói đến tài, trinh thám của
ngài thì không một ai là không bội phục. Vào năm Ung Chính thứ sáu, đúng ngày
rằm tháng một, các nha môn lớn nhỏ trong kinh thành thảy đều an nhàn vô sự Quan
lại lớn bé ai cũng đều về nhà uống chén rượu đoàn viên với gia đình và vui
hưởng ngày lễ Nguyên tiêu. Nha môn của nội các vốn không có cư xá cho các quan
viên, nên chỉ còn lại có hơn bốn mươi người, cả thầy cả tớ, lo giải quyết công
văn qua lại. Tối hôm đó, ngay cả bọn nhân viên này cũng chuồn đi đâu hết, duy
chỉ có một người họ Lam ở lại để lo liệu việc đèn nhang. Gia đình họ Lam ở xa,
mãi tận miền Phù Dương tỉnh Triết Giang. Lam ngồi một mình buồn, lại thêm trăng
sáng vằng vặc trên không nên đối cảnh sinh tình, động lòng nhớ tới quê hương. Để
giải buồn, ông đi mua ba can rượu Thiệu Hưng, thái một mâm thịt bò để ngay giữa
đại sảnh, vừa ngắm trăng vừa nâng chén. Rượu đã chếnh choáng, nghĩ tới tình
cảnh lìa xa gia đình đã tám năm trời đằng đẵng, công việc trong nha môn nội các
thảy đều lo liệu hết sức cẩn thận, thế mà chẳng được thăng quan tiến chức gì,
ông thở luôn một lúc đến ba tiếng dài lê thê…
Giữa lúc buồn nản đến cực độ
ấy, Lam bỗng thấy một đại hán thân hình cao lớn, vẻ mặt oai nghiêm, mình mặc bộ
đồ đen, chân đi một giày đăng khoái. Lam nhận lầm đại hán vừa tới ra người gác
tại cổng nha, bèn mời cùng ngồi đánh chén với mình cho vui. Đại hán chẳng khách
sáo gì, tiếp lấy ly rượu Lam mời, nốc một hơi cạn sạch. Xong đại hán nọ cất
tiếng hỏi tên, phẩm hàm chức tước của Lam. Ông Lam liền cười bảo:
- Nói làm gì đến quan chức! Đệ
chỉ là một tên cung sư hạng bét nơi đây thôi!
Đại hán nọ lại hỏi giữ việc gì
thì Lam đáp:
- Chuyên thu phát công văn giấy
tờ.
Đại hán nọ lại hỏi bọn đồng sự
có bao nhiêu thì Lam đáp:
- Có bốn mươi sáu người.
Đại hán nọ hỏi thêm cả bọn bỏ
đi đâu hết thì Lam đáp:
- Họ đi xem hội, tìm vui hết
ráo rồi!
Đại hán nọ lại hỏi tại sao
không đi chơi với họ thì Lam nghiêm mặt đáp:
- Đương kim hoàng thượng đối
với công vụ rất nghiêm khẩn. Nếu cả bọn đí cả, vạn nhất có chuyện gì, thử hỏi
ai gánh chịu trách nhiệm?
Đại hán nọ nghe câu nói này
xong thốt lên lời khen, rồi uống tiếp ly rượu nữa, lại hỏi:
- Người ở đay đã bao năm rồi?
Lam đáp;
- Đã tám năm.
Đại hán nọ lại hỏi: "Lương
lậu bao nhiêu?" thì Lam cười buồn:
- Hai trăm lạng mỗi năm.
Đại hán nọ hỏi có muốn làm quan
không, Lam đáp với giọng chán nản:
- Sao lại không muốn? Đệ chỉ
nghĩ mình không có phúc phận nên đành để ngoài tai việc đó đấy thôi?
Đại hán nọ hỏi muốn làm quan gì
thì Lam bỗng vén tay áo, vỗ phịch một cái xuống bàn, nói:
- Quan lớn thì đệ chẳng màng
chi. Đệ chỉ mong được làm chức quan thuế bến sông tinh Quảng Đông.
Đại hán nọ hỏi chức quan thuế
có lợi gì thì Lam giải thích.
- Làm quan thuế, chỉ cần nói
riêng về bổng lộc, mỗi năm đã có tới năm trăm lạng bạc rồi. Bọn thuyền buôn
xuất khẩu kính biếu hằng ngày nữa, lợi ấy cũng không nhỏ đâu.
Đại hán nọ nghe xong biết vậy,
chẳng hỏi gì thêm, đứng dậy từ giã ra đi.
Thế rồi qua ngày hôm sau, một
đạo thánh chỉ hạ xuống điều động Lam Lập Trung, một viên chức nhỏ bé, tới giữ
chức quan thuế tại bến sông tỉnh Quảng Đông. Khắp triều văn võ ai cũng phải
ngạc nhiên về việc điều động một nhân viên hạng chót mà phải hoàng thượng đặc
giáng thánh chỉ như vậy. Thực ra việc này chỉ riêng có Lam Lập Trung là biết
được mà thôi.
Chuyện đáng cười nhất là sau
khi Trung được đi nhận chức mới thì không biết bao nhiều kẻ tới xun xoe lấy
lòng Trung.
Hồi đó, có một vị đại thần tên
gọi Vương Vân Cẩm vốn là tân khoa trạng nguyên. Ung Chính hoàng đế rất trọng
Vương, bởi vậy văn võ khắp triều ai nấy đều lon ton chạy tới xu phụng ông. Cứ
mỗi ngày bài chầu trở về, ông lại thấy xe ngựa đứng nghẹt cả cổng. Vương trạng
nguyên chẳng ham thích gì, duy chỉ khoái có trò đánh bài lá. Những lúc rỗi
rảnh, ông tổ chức ngay tại nhà một vài cuộc đỏ đen với đôi ba người bạn đồng
liêu chẳng phải để ăn thua mà là để giải trí. Có một bận, bài. Ông ù lớn. Ông
bày lên bàn để tính tiền. Bỗng một trận gió ào tới, quét tất cả phần bài của
ông xuống đất. Mọi người vội tụt xuống đất lượm bài lên nhưng khi xét thì thiếu
mất một cây bài. Vương trạng nguyên biết vậy, chẳng cần kiếm, cho người nhà lấy
một cây bài khác thế vào, lại đánh tiếp.
Qua ngày hôm sau, trạng nguyên
Vương Vận Cẩm vào chầu, Ung Chính hoàng đế hỏi ông tối qua ở nhà có thú gì tiêu
khiển không thì Vương trạng nguyên cũng nói thực là chơi bài. Ung Chính nghe
xong cười khà khà nói:
- Vương Vân Cẩm thực chẳng nói
dối trẫm.
Sau đó lại hỏi thêm:
- Trẫm nghe nói nhà ngươi ăn
một ván bài khá lớn nhưng bị gió quét đi mất một cây bài, nhà ngươi hình như
bực mình lắm. Thế hôm nay đã tìm thấy chưa?
Vương Vân Cẩm nghe đoạn sợ quá,
chỉ còn cách dập đầu tâu:
- Tâu thánh thượng Thánh thiên
tử xét rõ muôn dặm. Cây bài bị gió quét đi nay thần vẫn chưa tìm ra.
Ung Chính hoàng đế lúc đó thò
tay cầm lấy cây bài đặt lên long án từ lúc nào, giơ lên nói:
- Vương Vân Cẩm! Nhà ngươi xem
có phải cây bài này không?
Vương nhìn xem thì đúng là cây
bài mất hôm qua, vội đập đầu tâu "phải".
Ung Chính hoàng đế nói tiếp:
- Trẫm đã tìm giùm cho nhà
ngươi rồi. Vậy nên về nhà ngay mà chơi tiếp đi.
Nói đoạn ngài đứng dậy lui
trào.
Từ khi xảy ra chuyện này, văn
võ khắp triều anh nào anh nấy sợ Ung Chính hoàng đế một phép, cho tiền cũng
chẳng giám thì thào bàn tán lấy một nửa lời về triều chính. Và cũng từ đó, Ung
Chính hoàng đế mới được gối cao ngủ kỹ, khỏi lo chuyện âm mưu này nọ. Hằng
ngày, ngài ở miết trong cung vua, nô đùa với bọn cung tần mỹ nữ.
Hồi này ngài đã đưa con gái của
Quý Tả Lãnh lên làm Quý phi. Ngoài ra, ngài còn phong cho bốn cô nữa được ngài
sủng ái lúc bình nhật cũng vào chức đó. Tuy nhiên, trong số mấy quý phi này chỉ
có nàng họ Quý là được ngài sủng ái nhất, cứ mỗi lần bãi chầu lui cung là ngài
lại tìm nàng để trò chuyện vui đùa với nhau. Nàng quý phi họ Quý lại có cái
duyên đặc biệt là hễ nheo mày cười lại khiến cho ai cũng phải mê hồn lạc phách,
tấm thân của nàng lại tròn trĩnh, mũm mĩm mịn mát như tơ, từ làn da đến thớ
thịt, nhất nhất cái gì cũng có thể gây được những khoái cảm mê ly. Thành thử
hoàng đế nhà ta chẳng ngày nào quên được nàng, đến nỗi ngài phải tặng nàng biệt
hiệu "ôn nhu tiên tử".
Vị Đại Lạt ma Tây Tạng nghe nói
nhà vua khoái việc phong lưu chơi bời, liền cho Tiểu Lạt ma mang tới cho ngài
một lọ thuốc hoàn Acotô. Acơtô là một loại thuốc kích dục, uống một
vài viên thì được chứ nếu uống nhiều vào sẽ phát cuồng. Lúc trước Đại A Kha Dân
Nhung sở dĩ phát điên đến chết là chỉ tại uống thuốc này quá nhiều.
Ung Chính hoàng đế từ khi được
thuốc này, quả đã trở thành vô địch về khoản mây mưa. Càng sướng, càng khoái,
ngài càng biết ơn vị Đại Lạt ma. Cũng chính vị này đã có công lớn trong việc
giúp ngài mưu đoạt ngai vàng, bởi vậy ngài tin cậy lắm. Để tạ lại tình tri ngộ,
Đại Lạt ma nhà ta truyền thụ cho hoàng đế khá nhiều "bí thuật". Trước
đấy, hoàng đế đã sai xây cất một toà cung điện trên núi Tây Sơn trong đó có một
ngôi miếu Lạt ma. Nhưng đến nay muốn cho tiện việc qua lại sớm chiều để vấn kế,
ngài truyền lệnh xây cất một toà cung điện khác ở ngày sau hoàng cung.
Phủ Nội vụ phụng mạng hoàng đế
ra lệnh tập hợp hết những tay thợ khéo ở kinh đô, một mặt cho nội giám đi về
vùng Giang Nam kiếm gỗ. Hoàng đế còn đặc phái một vị Lạt ma sung chức Khâm sai
đại thần cùng lo về việc này. Vị Khâm sai này tới Giang Nam, cậy uy thế của
hoàng đế, tham nhũng, nhiễu hại quá tệ tới đâu là bắt người ta phải "biếu
kính" y tới đó, bắt cả quan địa phương phải kiếm gái cho y. Khi tin đồn ra
ngoài, một truyền mười mười truyền trăm, nhiều bà đẹp như mộng, nhiều cô còn
nguyên xi, vội vàng đem mình vàng tới tự dâng hiến. Số phụ nữ tình nguyện quá
đông đến nỗi vị Lạt ma xài không xuể. Y lại nghĩ cách làm tiền, đặt ra cái lệ
là hễ vợ con của các nhà quan mà muốn vào hầu thì phải có lễ đưa vào trước, ít
thì một trăm lạng nhiều thì một ngàn lạng. Cả vùng Giang Nam, đàn bà con gái bị
tên Lạt ma này làm ô uế chẳng biết bao nhiêu mà kể, y lẩn quẩn ở đây ăn tha hồ
chơi, mãi tới năm sau mới về kinh.
Công việc xây cất bắt đầu. Năm
sáu trăm tay thợ khéo làm việc liên miên ba năm, toà cung điện Lạt ma mới hoàn
tất. Ngày khánh thành chính là ngày vị Đại lạt ma kia thu nạp Ung Chính làm đệ
tử và phong cho tước vị "Mạn
thù sư lợi Thái Tông hoàng đế". Sau đó vị Đại Lạt ma đưa hoàng đế đi
xem điện. Trong điện khắp nơi đắp những pho tượng phật, tượng nào tượng nấy kỳ
hình quái trạng đủ kiểu, trông ghê khiếp đến rợn người. Ngay giữa quỉ thần
điện, ở phía trong, có đắp một tượng thần ác ma cao hai trượng, mặt chó, đầu
mọc hai sừng, tay ôm một nữ thần tuyệt đẹp như ôm con kỹ nữ, còn chân thì đạp
lên trên mình một đám gái đẹp, thân thể loã lồ.
Ung Chính hoàng đế thấy vậy,
trong lòng khoái thích lắm. Ngài bèn đặt tên cho toà cung điện này là Ung Hoà
cung, lấy cái ý Ung Chính hoàng đế qui y Lạt ma giáo. Đồng thời, ngài ra sắc
lệnh cho trong cũng như ngoài thành phải xây cất miếu Lạt ma đúng theo kiểu
cách ở cung Ung Hoà.
Từ đó, bọn Lạt ma đắc thế tên
nào cũng làm quan đâm ra hoành hành bất pháp. Trong kinh thành hồi đó có một
câu đồng dao như sau:
Muốn có được chức kinh quan,
Cắt râu, cạo tóc đi làm Lạt ma !
Ung Chính hoàng đế cho rằng
ngài đã báo đáp phần nào công lao của vị Đại Lạt ma đã từng giúp ngài cướp đoạt
ngai vàng. Ngài cũng không quên công lớn của quốc cữu Long Khoa Đa và Ngạc Nhĩ
Thái và cả Trương Đinh Ngọc. Ngài bèn hạ chỉ sai cất một toà lâu đài rộng lớn ở
phía bắc phố chợ cho Ngạc Nhĩ Thái, bên trong trưng bày toàn đổ ban thưởng của
nhà vua. Chỉ nguyên có một toà phủ để ban thưởng đó, hoàng đế cũng tốn mất tới
bốn vạn lạng bạc. Hoàng đế còn phong cho Ngạc Nhĩ Thái làm Văn Đoan công. Mặt
khác, ngài cũng phong cho Trương Đinh Ngọc làm Văn Hoà công, lại còn cho làm tể
tướng nắm tất cả những việc quân quốc đại sự. Trương Đinh Ngọc nói điều gì
hoàng đế không bao giờ không chuẩn y. Khi Ngọc chết, ngài còn đem cả bài vị vào
nhà Thái Miếu cúng kiềng. Ân sủng như thế kể đã đến cực điểm.
Ngoài mấy vị kể trên, còn một
kẻ được hoàng đế kính trọng ghê gớm nữa. Đó là Miên Canh Nghiêu. Qua năm thứ
hai, Nghiêu cùng với Nhạc Chung Kỳ bình định xong Thanh Hải, Tây Tạng, hoàng
thượng xuống chỉ phong cho Nghiêu tước Công đệ nhất đẳng, ngay cả đến thân phụ
Nghiêu năm đó đã lớn tuổi mà cũng được mang tước đó và còn gia hàm thái phó.
Nhạc Chung Kỳ cũng được Phong tước Công đệ tam đẳng. Hoàng đế còn trao chức
Thiểm Cam tổng đốc cho Nghiêu, giục ban sư về trước để đáo nhiệm.
Đại tướng Miên Canh Nghiêu tiếp
được thánh chỉ, lập tức diễu võ dương oai, ban sư về kinh. Bọn quan huyện, quan
châu suốt dọc đường đón rước, ngựa trước ngựa sau, nườm nượp như nước chảy. Đối
với đại tướng họ Miên thì bọn này chỉ như bùn, như đất dưới chân, chẳng có
nghĩa lý gì hết. Quan viên tại các tỉnh, trấn thì từ hàng tuần phủ trở xuống,
võ thì từ tướng quân trở lui, kẻ nào thấy Nghiêu mà chả sợ đến toát mồ hôi.
Chỉ cần một lời nói nhỏ đắc tội
khiến đại tướng quân trừng mắt lên là đủ để cho kẻ kia sợ đến mất mật. Tuy
nhiên, nói sợ thì sợ thật nhưng lòng họ oán hận không nguôi, kẻ nào cũng chỉ chờ
dịp báo thù.
Nghiêu đại tướng có một tên tâm
phúc làm chức trung quân quan tên gọi Lục Hổ Thần. Thần thấy đại tướng của mình
tác oai tác phúc khó tránh được tai hoạ, nhân lúc vắng vẻ bèn vào thực tâm
khuyên can mong Nghiêu dè dặt canh chừng.
Nghiêu lúc đó quá chén, chếnh
choáng say, nghe lời Thần bất giác thẹn quá hoá giận, liền vỗ bàn đập ghế mắng:
- Tao đây đã thế hoàng thượng
đánh lấy cả giang sơn này ngài thấy tao còn phải sợ huống hồ mi. Mi là cái thá
gì mà dám dạy bảo cả tao?
Mắng xong, Nghiêu quát:
"Chém!", tức thì đao phủ thủ cháy tới trói Thần lại, đẩy ra ngoài
viên môn. May số Thần chưa chết nên gặp được Nhạc Chung Kỳ đang bước vào
trướng.
Thần vội hô cứu mạng và nhờ Kỳ
nói giùm Nghiêu. Ngày thường quân lệnh của Nghiêu một khi đã ra là đố kẻ nào
dám cản, ngoại trừ Kỳ, bởi chi có Kỳ là được Nghiêu kính trọng mà thôi.
Cuối cùng vì nể mặt Kỳ, Nghiêu
tha chết cho Thần, quân tiền phong lúc đó đã tới Lư Cầu Kiều, Nghiêu bèn phạt
Thần làm tên lính canh gác dưới cầu.
Miên, Nhạc hai vị tướng quân chỉ
huy đại đội binh mã tiến thẳng về kinh. Tin báo về tới cung. Ung Chính hoàng đế
hạ chỉ cho Miên đại tướng đóng quân lại ngoài thành tạm nghỉ.
Hoàng thượng muốn xuất thành
đích thân tới khao quân.
Hồi đó đang vào tháng sáu, trời
nắng như thiêu như đốt, Ung Chính hoàng đế cỡi loan xa có tiền hô hậu ủng, xuất
thành.
Mặt trời gay gắt trên không.
Hoàng đế ngồi trong loan xa, mồ hôi chảy thành giọt đầy mình. Khi ra khỏi
thành, ngài bỏ xe lên ngựa. Ánh mặt trời lúc này càng nóng dữ. Tả hữu thị vệ,
không một kẻ nào là không toát mồ hôi dầm dề. Chạy một lúc, cả đoàn vào nghỉ
trong một khu rừng cây cao lá rậm. Phía dưới bóng cây có vây màn trướng bằng
vải đoạn vàng. Chính giữa là chiếc ngai vàng của hoàng đế. Ung Chính hoàng đế
xuống ngựa, bước tới toạ ngồi chỉnh chện. Bọn thái giám kẻ cầm quạt thì quạt
lẹ, kẻ cầm khăn thì làu vội, kẻ dâng trà mát thì dâng nhanh.
Một lát sau bỗng mọi người nghe
quân lệnh vang tới. Ai cũng biết đó là dấu hiệu của Miên đại tướng đã tới. Ung
Chính hoàng đế bước ra khỏi trướng, nhảy lên mình ngựa đứng đợi.
Ngài phóng tầm mắt ra xa, chỉ
thấy phía trước mặt cờ quạt thành hàng thẳng tắp, đao kích chĩa lên trời tua
tủa, toàn thể quân đội đứng im phăng phắc dưới mặt trời nóng bỏng, đến nỗi con
ruồi bay cũng nghe tiếng. Quân sĩ mặt đổ mồ hôi tí tách thế mà chẳng kẻ nào dám
lau. Đội quân tiền phong tiến tới trước mặt hoàng đế hành lễ rồi tách ra hai
bên phải trái để lộ ở chính giữa một cây cờ đại, trên mặt thêu một chữ
"Miên" rất lớn.
Rồi, Miên đại tướng quân đầu
đội mũ trụ mình mặc áo giáp, cưỡi ngựa đứng dưới ngọn cờ cao nghệu. Về phía
hoàng đế thì hai bên, văn từ thượng thư, thị lang, võ từ cửu môn đề đốc trở
xuống, đều chiếu theo phẩm trật mặc tiến y mãng bào, kẻ nào kẻ nấy bị nắng
thiêu, mồ hôi chảy ra thấm ướt cả mấy lần áo. Miên đại tướng quân cùng Nhạc
tướng quân vừa thấy hoàng đế ngự giá tới, vội nhảy xuống ngựa, lom khom quỳ làm
đại lễ. Sau đó, nào tổng binh, đề trấn, nào trấn hiệp, đô thống, tất cả, các
quan dưới trướng Nghiêu đều lần lượt tiến lên triều kiến.
Hoàng đế truyền lệnh ban yến.
Miên đại tướng theo, chân hoàng thượng bước vào trướng chia phận vua tôi ngồi
xuống.
Rồi cả bọn vương công đại học
sĩ bối lặc, bối tử đều ngồi cả hai bên bồi yến. Cửu môn đề đốc, binh bộ thượng
thư củng các võ quan tại kinh đô thì bồi tiếp Nhạc Chung Kỳ và bọn quan viên
xuất chinh ở phía ngoài trướng. Ly, tách chạm nhau rổn rảng. Vua tôi vào tiệc,
thật là vui vẻ. Trong bữa tiệc, hoàng đế cũng nói tới chuyện giết Dân Dị, Dân
Đường. Miên Canh Nghiêu nghe xong, bất giác mình ớn da gà, miệng tuy không nói
ra nhưng trong lòng cũng phải ghê khiếp cái tâm địa hiểm độc của nhà vua mà tự
nhủ từ nay về sau cũng phải lưu ý đề phòng đôi phần. Hoàng đế lại hỏi tới bọn
anh hùng hảo hán xuất chinh ra sao thì Miên đại tướng hồi tấu:
- Thần vâng mật chỉ của hoàng
thượng nên khi tới Thanh Hải, Tây Tạng, bắt được vợ con của tướng giặc, thấy
đứa nào cũng đẹp bèn đem thưởng hết cho họ làm vợ. Ngay đến em gái của mẹ La
Bốc, thần cũng gả luôn cho tên giữ Huyết trích tử nữa. Hiện nay cả bọn đều bị
nữ sắc làm mê luyến, tự nguyện ở lại biên ải cho tới già chứ không đòi về kinh
sư nữa.
Ung Chính hoàng đế nghe xong
cười nói:
- Quốc cữ diệu toán, thật ít
người kịp.
Ngài nói tới đây thì tiệc cũng
vừa chấm dứt. Miên Canh Nghiêu đứng dậy cáo từ:
- Vị thần vì quân vụ bận thân,
chẳng đám ở lâu thêm nữa.
Hoàng đế tỏ thái độ ân cần,
đích thân đưa Nghiêu ra ngoài trướng. Ngài ngẩng lên thì thấy toàn thể quân đội
đông hàng ngàn vạn vẫn y nguyên giáp trụ, đứng thẳng tắp, im phăng phắc dưới
mặt trời như thiêu như đất. Ánh nắng chiếu vào mặt kẻ nào kẻ nấy sạm lại, thế
mà chẳng một ai nhúc nhích, cử động. Hoàng đế thấy vậy trong lòng lấy làm bất
nhẫn, bèn quay sang bảo nội giám:
- Người truyền dụ xuống bảo
chúng hãy cởi bỏ áo giáp ra.
Tên nội giám vội chạy ra, lớn
tiếng hô vang:
- Hoàng thượng có chỉ: binh sĩ
các người hãy cởi bỏ áo giáp ra!
Chẳng ngờ tên thái giám hô luôn
một hơi đến ba lần mà cả đoàn quân sĩ hình như điếc cả, vẫn đứng im phăng phắc,
không động cựa. Tên thái giám chẳng biết làm cách nào khác, đành quay về tâu
lại với hoàng đế.
Lúc đó, Miên Canh Nghiêu đang
nói chuyện với hoàng đế nên chẳng để ý tới việc truyền dụ của ngài. Đến lúc
hoàng đế nghe tên thái giám hồi tấu mới biết thánh chỉ của mình chẳng ăn thua
gì, bèn bảo Miên Canh Nghiêu:
- Trời nắng quá! Đại tướng hãy
truyền lệnh cho binh sĩ cởi giáp cho đỡ nóng.
Miên Canh Nghiêu nghe lệnh, vội
rút trong bọc ra một cây cờ hồng nhỏ, rồi chỉ một cái phất, tức thì những tiếng
rổn rảng, rầm rập vang động một phương trời, ba vạn người ngựa đã nhất tề cởi
bỏ hết áo giáp khiến một khu đồng trống rộng rãi bỗng đầy ngộn, nào giáp nào
trụ, cao như một trái núi.
Ung Chính hoàng đế thấy cảnh
tượng đó, bất giác giật mình đánh thót một cái. Ngài nghĩ bụng, ví thử kẻ kia
nhất đán biến tâm thì tính mạng mình hẳn đã nằm trong tay hắn rồi.
Ngài càng nghĩ càng bồn chồn
trong dạ. Miên Canh Nghiêu lúc đó lấy làm đắc ý lắm. y tâu:
- Trong quân chỉ biết có quân
lệnh chứ không biết có hoàng mệnh. Xin bệ hạ xét rõ cho.
Ung Chính nghe xong lời nói này
của Nghiêu lại càng cụt hứng bội phần. Ngài im lặng, chẳng nói chẳng rằng.
Nghiêu nhìn thấy nét mặt nhà vua bỗng trở nên nghiêm nghị, không vui, thì lòng
đã đoán rõ vài phần. Y vội cáo từ hồi dinh.
Từ đó về sau, Ung Chính hoàng
đế đối với Miên Canh Nghiêu bề ngoài tuy tỏ vẻ kính trọng đặc biệt nhưng bề
trong lại theo dõi từng bước. Ngài truyền lệnh cho triều thần thu xếp một toà
phủ đệ cực kỳ rộng lớn hoa mỹ cho Nghiêu ở kinh đô. Đồng thời mật phái rất
nhiều tay chân thám giám sát nội tình trong phủ đại tướng quân…
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét