Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

13 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 5-8

Hồi 5: Mãn Minh đại chiến tại Hỗn Hà

 Vừa nghe xong kế hoạch của quân sư họ Phạm, Anh Minh hoàng đến như mơ ngủ bừng tỉnh, vội truyền lệnh để lại năm trăm quân đối phó địch quân ở mặt nam, một ngàn quân đối phó với giặc ở mặt Khoan Điện, còn tự mình thì kéo sáu vạn đại quân Bát Kỳ ngày đêm tiến gấp về hướng tây.

Chẳng bao lâu quân Mãn đã kéo tới Giới Phàm Sơn, ung dung hạ trại, xây đồn luỹ kiên cố. Lúc đó, tướng Minh là Đô Tùng và phó tướng là Lưu Ngô Tiết đem ba vạn quân đóng tại núi Tát Nhĩ Hử, đối diện với quân Mãn, chỉ cách có con sông Tô Tử.

Vị tướng họ Đỗ này thuộc loại dũng tướng. Tại nơi biên ải, ông đã trải dư trăm trận, không bao giờ tỏ ra sợ hãi, nản nhụt. Ông có cái tính hết sức kỳ quái là cứ mỗi lần giao chiến đều cởi bỏ hết quần áo ngoài, để lộ cả thân hình đen thui như đít chảo. Đao thương nếu có trúng, máu chảy khắp mình, ông cũng chẳng thèm để ý tới. Bởi vậy, toàn thân không có chỗ nào là không có vết sẹo đao, kiếm, thương, kích. Cái khoái nhất đối với ông là rượu. Mỗi khi say ông thường cởi hết y phục rồi chỉ từng vết sẹo trên mình, thuật lại những trường hợp bị thương mà đối với ông, là đáng hãnh diện lắm. Chiến công của ông thì oanh liệt như thế nhưng thực tế thì bao lần chinh chiến ông chỉ theo bên cạnh chủ soái chứ chưa từng được độc quyền chỉ huy bao giờ. Bởi vậy, lần này được đeo ấn tiên phong, đích thân chỉ huy đoàn quân tiên phong, ông cảm thấy sung sướng vô cùng, cho đó là một ân sủng hiếm có xưa nay, bèn đem quân vượt sông nghênh chiến, phó tướng Lưu Ngộ Tiết ngăn thế nào cũng không được.

Giữa lúc Tiết còn đang khuyên can thì quân Minh đã lấy thuyền qua sông đến quá nửa. Đỗ tướng quân có vẻ khinh khi Tiết, dặn bảo cứ việc ở lại giữ vững sơn doanh. Đỗ còn quát một tiếng lớn để giục toàn quân xung phong vượt đò cho lẹ.

Anh Minh hoàng đế ngồi lại trong trướng, được tin quân Minh đã vượt sông bèn để lại Giới Phàm Sơn hai kỳ binh mã, còn toàn quân năm vạn rưỡi người ngựa, hoàng đế đích thân chỉ huy, hạ lệnh lặng lẽ vượt qua mạn thượng lưu sông Tô Tử.

Lưu Ngộ Tiết y theo tướng lệnh, cố thủ sơn trại trên núi Tát Nhĩ Hử. Dọc sông tịch không có một tên quân nào canh giữ, chẳng ngờ Mãn quân sau khi vượt sông, ùn ùn như nước vỡ bờ kéo xuống. Lúc đó đã nửa đêm. Tướng sĩ Minh đang khểnh cẳng ngủ kỹ, chỉ nghe tứ phía một tiếng gầm vang như trời long đất lở, rồi thấy quân Mãn ùn ùn xông lên đỉnh núi. Tướng Tiết giật mình tinh dậy, thấy nguy, vội nhảy lên lưng ngựa, xông ra.

Đêm đó trời tối như mực. Mãn quân đốt đuốc, chia tám lộ xông lên, đứng xa trông chẳng khác gì tám con rồng lửa đang vùng vẫy bay lên trời. Tiết biết thế khó địch, bèn chọn hơn một vạn quân tìm hướng nào không có lửa sáng để xông xuống. Buồn thay cho Tiết tuy là tướng nhưng chưa bao giờ đặt chân tới quan ngoại, còn quân của Tiết lại đều là dân miền Giang Nam, chẳng biết tí địa thế nào ở vùng này. Trái lại Mãn quân thì kẻ nào cũng thuộc đường biết lối, chỉ chọn những đường lớn xông lên tấn công. Bởi vậy, nhiều quân Minh chỉ vì không biết đường nên chạy lạc vào lòng quân địch, bị đánh tơi bời, một manh giáp cũng chẳng còn. Hơn một vạn quân do tướng Tiết chỉ huy cũng chỉ vì không biết đường nên số thì nhào vào bụi rậm, số thì rớt xuống hang hốc, số nữa bị người ngựa đạp lên mà chết. Tướng Tiết xông bên tả, húc bên hữu, chạy cùng bốn phía tìm đường mà chẳng thấy đường! Tiết chạy suốt đêm, chạy đến người ngựa mỏi mệt. Rồi bỗng trong nháy mắt Tiết bị dây thòng lọng trói chặt, bị lôi tuột đến đại doanh của quân Mãn.

Bị điệu vào trước Anh Minh hoàng đế, Tiết thả sức chửi bới. Đại bối lặc cả giận vung đao chém Tiết đứt đôi ngay trước trướng.

Kết quả thật tai hại đối với quân Minh: ba ngàn quân chết, năm ngàn quân trốn biệt, một vạn quân bị bắt sống, quân Mãn bắt được cờ quạt, chiêng trống, ngựa lừa vô kể.

Tin đại bại truyền tới trại Đỗ Tùng. Tướng Đỗ hoảng hồn bạt vía, tay chân giật lên thon thót. Quân Đỗ vượt đò sang sông vẻn vẹn mất đúng một ngày trời. Tối đến, mưa lại đổ xuống như trút, khiến quân sĩ của Đỗ vừa ướt vừa lấm, vừa mỏi mệt lại vừa đói. Từ tướng đến quân, không một ai là không oán hận Đỗ. Mặc kệ, Đỗ vẫn cho quân tiến. Nhưng khi gần đến Giới Phàm, Đỗ thấy trong dinh địch không có ánh đèn đuốc nên đâm nghi, vội truyền lệnh dừng quân, rồi sai thám mã tiến trước thám sát.

Thám mã của Đỗ chưa thấy về, mà phía sau lại cấp báo đoàn quân trên núi Tát Nhĩ Hử bị tiêu diệt không còn lấy một tên. Đỗ vội truyền lệnh lặng lẽ lui binh về hữu ngạn sông Hỗn Hà. Đỗ tính như vậy vì cho rằng hữu ngạn sông Tô Tử thế nào cũng có địch quân ngăn chặn.

Lúc đó, đêm đã sang canh tư. Trên không mây đen che khắp. Trời tối như mực. Chỉ còn bóng nước sông Hỗn Hà là có chút sáng lờ mờ mà thôi. Đỗ vừa chạy vừa nghĩ bụng: May mà quân địch ở Giới Phàm Sơn không biết, chứ nếu biết, chúng đem quân đuổi đánh thì lúc đó, trước có sông lớn, sau có truy binh, mình không chết dưới đao kiếm thì cũng chết chìm dưới dòng nước. Càng nghĩ, Đỗ càng hú vía. Chẳng mấy chốc, toàn quân đã tới bờ sông Hỗn Hà. Đỗ hạ lệnh vượt đò sang sông.

Trời hửng sáng quân của Đỗ mới qua đò được có một nửa. Chính Đỗ cũng đã xuống thuyền ra giữa sông để xem xét. Thuyền bè lúc đó đầy nghẹt người ngựa, qua lại chi chít. Một nửa quân chưa sang kịp còn đứng cả trên bờ chờ đợi.

Bỗng phía sau bụi bay mù trời, tiếng hò hét vang dậy. Thì ra đám quân Mãn đông ước vạn rười đang xông tới như một trận cuồng phong, thấy người là đâm, thấy ngựa là chém. Thương hại thay cho quân Minh, rút chạy suốt đêm, vừa bị mưa gió đói lạnh vừa bị mệt mỏi kiệt quệ, nay lại gặp phải lúc quá nguy ngập, phía trước không có đường chạy, sau có truy binh.

Tướng Đỗ đứng ở giữa sông thấy quân Mãn vô cùng kiêu dũng, chạy nhảy ngang dọc như vào chỗ không người, mà quân mình thì bị tàn sát thê thảm, chỉ còn cách hô những thuyền quân trên sông chèo vội sang bờ bên kia trốn chạy mà thôi.

Lát sau, khi đã qua sông, tướng Đỗ chi thấy một bãi cát phẳng lì, xa tắp. Đỗ lúc đó mới tạm yên lòng. Quay lại nhìn đoàn quân, Đỗ chỉ thấy năm ngàn người ngựa tơi tả, thiểu não; không còn lập nổi hàng ngũ. Tuy mệt, nhưng Đỗ vẫn không dám dừng chân, dẫn quân chạy về phía tây. Chạy ước được mười lăm dặm, đám quân sĩ đã quá mệt vì đói, đứa thì nằm quay ra đường thiếp đi lúc nào không biết, đứa thì ngồi bệt xuống mặt đất rồi không đứng lên được nữa. Bọn tướng lĩnh đến dựng được đứa này thì đứa kia đã đổ xuống, cuối cùng đành khoanh tay vô phương. Tướng Đỗ thấy cảnh thê thảm đó lấy làm đau lòng, đành làm ngơ, mặc kệ chúng muốn sao tuỳ ý.

Nhưng giữa lúc mọi người đang nghỉ ngơi, bỗng một tiếng pháo hiệu nổ vang từ trong khu rừng vọng ra. Thế rồi, quân Mãn ồ ạt kéo tới, cánh tả có Đại bối lặc Đại Thiện, cánh hữu có Tứ bối lặc Hoàng Thái Cực. Chẳng còn kịp hô quân sĩ, tướng Đỗ vội mang theo Vương Tuyên và Triệu Mộng Lân cùng năm trăm thân binh nhảy lên ngựa chạy trốn như một vệt khói dài mất hút.

Hai vị bối lặc thả quân truy lùng lính nhà Minh quanh khu rừng. Quân Mãn mặc sức tung hoành, thẳng tay chém giết.

Tướng Đỗ cưỡi trên mình ngựa, giơ roi quất mạnh, chẳng còn phân biệt là đông, là tây, là nam, là bắc, cứ thấy đường là chạy. Khi tới một eo núi, Đỗ thấy bóng một chi quân mã xông ra. Rồi dưới bóng tán vàng lọng báu, Đô nhìn rõ ràng không phải ai xa lạ mà là Khả hãn Kiến Châu ngồi đường bệ và oai nghiêm trên lưng con bạch mã cao lớn, bên tả có đại tướng Hỗ Nhĩ Hán, bên hữu có quân sư Phạm Văn Trình.

Hỗ Nhĩ Hán thúc ngựa tiến lên bảo Đỗ Tùng:

- Bọn ta đợi ngươi ở đây đã lâu. Ngươi hãy mau dâng cái đầu lên đi!

Tướng Đỗ biết thế nguy, vội quay đầu ngựa chạy ngược lại. Phía sau quân Mãn đuổi theo như gió. Đỗ hoảng quá chẳng còn nghĩ đến việc chọn đường, cứ phóng ngựa như bay vào con đường nhỏ hoang vắng dưới chân núi. Chạy được hai mươi dặm, Đỗ gặp một ngọn núi cao chặn mặt.

Ngọn núi cao chót vót, vách núi lại dốc đứng. Đỗ không còn biết đi đường nào. Đến lúc này, Đỗ biết rằng tính mệnh mình khó toàn. Bởi vậy Đỗ quay vụt đầu ngựa lại, quát lên một tiếng rồi xông tới đối đầu với quân Mãn. Thế là hai tướng ác đấu. Đỗ đem tận lực bình sinh xông tả, chém hữu. Quân Mãn không đầy một giờ mà chết cũng khá bộn. Nhưng Vương Tuyên, Triệu Mộng Lân cũng không thoát chết dưới lưỡi dao của Hỗ Nhĩ Hán. Đỗ nổi giận sôi gan, phóng ngựa lại ác chiến với Hán. Giữa lúc đó, một viên tiểu tướng của Mãn quân phóng lén một mũi tên trúng ngay giữa yết hầu của Đỗ. Chỉ nghe một tiếng "ối chao", rồi cả thân hình to lớn đen đủi của Đỗ đổ xuống như một cây thịt.

Ngọn núi này tên gọi ngọn Chước Cầm. Còn viên tiểu tướng quân vừa bắn chết Đỗ Tùng đó chính là cậu con trai thứ mười ba của Anh Minh hoàng đế nước Kim, tên gọi Lại Mộ Bố. Bố vâng lệnh phụ hoàng đem hai ngàn người ngựa chờ đợi tại Chước Cầm sơn nên mới có chuyện chẳng may cho Đỗ.

Đỗ Tùng đã chết. Hai tướng Mãn chặt lấy thủ cấp, quay về đại doanh dâng công. Anh Minh hoàng đế luận công, thưởng cho đại bối lặc là lớn nhất. Những chiến lợi phẩm thu được đều phát thưởng cho tướng sĩ.

Minh tổng binh Mã Lâm đêm đó được tin toàn quân của tiên phong Đỗ Tùng đã bị tiêu diệt, bèn hành quân tới Thượng Gián Nhai, đào hào đắp luỹ mười phần kiên cố để tử thủ. Đại bối lặc Đại Thiện sau khi uống rượu khánh công, bèn tâu với Anh Minh hoàng đế xin ba trăm kỵ binh ruổi tới Thượng Gián Nhai để diệt Mã Lâm.

Tướng Lâm thấy quân Mãn kéo tới, bèn dàn pháo binh bên ngoài doanh, còn kỵ binh cho ở bên trong. Lâm còn sai Phan Tôn Nhan đem một cánh quân đóng tại núi Nghi Phấn về phía tây cách doanh trại ba dặm để làm thế ỷ dốc.

Đại quân của Anh Minh hoàng đế lục tục kéo tới, hợp với quân của Đại bối lặc. Thám mã phi báo:

- Vùng Ngạc Mạc, có tả dự của quân Minh, trung lộ hậu dinh là Cung Niệm Toại và Lý Hy Bĩ thống lĩnh bộ, kỵ binh một vạn, dùng đẳng bài (khiên mộc bằng mây, song) bày trận che bên ngoài đại quân.

Kim đế được tin, liền dặn Đại bối lặc trông coi đại doanh rồi tự mình cùng Tứ bối lặc đem một ngàn người ngựa đi quan sát cánh quân của Toại. Tứ bối lặc thấy doanh trại của quân Minh vây tròn như một bức tường thành, bèn quát bảo phóng tên lửa. Trong chốc lát, tên lửa phóng ra như mưa, chẳng khác gì nhưng con hoả long bay vọt sang trại của quân Minh.

Trại Minh bắt lửa, chảy đỏ rực trời. Tứ bối lặc gầm lên một tiếng lớn, phóng ngựa lên trước. Quân sĩ ở phía sau cũng lao mình xông lên. Quân Minh vừa bị tấn công kịch liệt, vừa bị đằng bài, hào luỹ cản thân không tìm được lối thoát, chết đến quá nửa dưới đao kiếm của quân Mãn. Lý Hy Bí, Cung Niệm Toái, đem tàn lực chống cự cho đến chết.

Anh Minh hoàng đế đứng trên gò cao nhìn xuống quan sát trận thế, thấy con trai mình xông vào quân địch như vào chỗ không người, trong lòng lấy làm sung sướng cực độ. Bỗng một kỵ mã phi vụt tới đưa tin:

- Đại bối lặc đang cùng với Mã Lâm tử chiến.

Anh Minh hoàng đế được tin, bỏ Tứ lặc đấy, vội quay về đại doanh, chỉ thấy quân đội của Mã Lâm trú đóng tại dưới chân Thượng Gián Nhai. Hoàng đế hạ lệnh cho quân sĩ theo phía núi khuất bóng cây bò tới, còn mình đích thân trèo lên núi phất cờ đỏ chỉ huy quân Mãn xông xuống chân núi. Hai bên ác chiến, nhưng quân Minh xem bề khó địch nổi, đã tính quay lui. Giữa lúc gieo neo đó, Đại bối lặc lại thống xuất một vạn thiết kỵ từ mặt chính diện xông tới. Thành thử quân của Lâm bụng, lưng đều chịu địch, chẳng dám đánh mà tự trốn; quân Kiến Châu của nước Kim đuổi giết một trận khiến quân Minh tan tác tơi bời, gần như không còn một manh giáp. Phó tướng Ma Nham của triều Minh cùng một số tướng sĩ đều bị trận vong, duy chỉ có Mã Lâm là thoát được mà thôi.

Lâm hốt hoảng chạy trốn. Đại bối lặc rượt theo. Quân Minh mỗi lúc một thua, cuối cùng coi như chết sạch. Lúc đó, Tứ bối lặc cũng đã đắc thắng trở về. Hai cánh quân hợp lại làm một, rồi quay về hướng ngả Phi Phấn Sơn để tấn công Phan Tôn Nhan.

Địa thế Phi Phấn Sơn rất hiểm trở. Anh Minh hoàng đế hạ lệnh kỵ binh xuống ngựa, tấn công ngược lên núi. Từ trên núi cao, quân Minh bắn hoả pháo xuống. Quân Mãn chết khá nhiều. Đại bối lặc và Tứ bối lặc đành quay về ngự doanh điều động một đại đội cung nỏ tới ứng chiến. Hai bên giáp chiến, tên bay như cào cào từ dưới lên. Nhưng trận cước quân Minh vẫn vững chứ không xao động. Quân Minh có lợi thế trông thấy.

Tướng Mãn Hỗ Nhĩ Hán thấy dùng sức mạnh tấn công khó bề thủ thắng, bèn đem một ngàn tay đao tinh luyện, theo đường nhỏ phía sau núi đánh bọc hậu trại địch. Khi lên gần tới nơi, Hán cùng với đám quân sĩ gầm lên một tiếng lớn vang động cả sơn cốc rồi xông vào trại Minh chém giết.

Quân Minh đại loạn.

Quân Mãn dưới chân núi thấy địch quân trên núi rối loạn, trận cước đã xao động, lại nhất tề liều chết xông lên. Phan Tôn Nhan vốn là một dũng tướng, bất chấp rối loạn ở mặt sau vẫn quyết liệt cầm cự ở mặt trước. Khi thấy quân Mãn đã tiến tới lưng chừng núi, Nhan hạ lệnh quân sĩ phóng hoả pháo tới tấp xuống, quân Mãn rụng như sung. Chỉ trong chốc lát mà quân Mãn đã tử thương ít ra cũng đến vài ba ngàn. Nhan chiến đấu vô cùng dũng cảm. Mãi tới khi quân Mãn do Hỗ Nhĩ Hán chỉ huy chiếm cứ được đỉnh núi, Nhan vẫn còn đích thân khai pháo oanh kích rầm rầm. Quan Mãn đã kéo tới sau lưng Nhan vẫn khai pháo. Nhưng rồi khẩu đại pháo bị quân Mãn hất tung đi, đồng thời ném cùng cả xác Nhan theo xuống chân núi, lúc đó người ta mới không nghe tiếng nổ ầm ầm nữa.

Toán quân của Mã Lâm coi như hoàn toàn bị tiêu diệt.


Hồi 6: Lui về bảo vệ Kinh đô

 Diệp Hách bối lặc là Kim đài Bố Dương Cổ vốn đã ước định với Minh triều đem ba ngàn quân tiêu diệt quân đội Kiến Châu. Cổ vừa đưa quân tới Trung Cổ thành miền Khai Nguyên thì được tin chiến bại của quân Minh. Cổ hoảng hồn bạt vía, vội cuốn cờ bịt trống lặng lẽ trốn về.

Đến lúc đó coi như Anh Minh hoàng đế đã phá tan được hai lộ quân của Minh triều. Quân sư Phạm Văn Trình bèn tâu:

- Tâu bệ hạ! Xin bệ hạ cấp tốc hành quân về phòng về Hưng Kinh, đó là điều tối khẩn.

Anh Minh hoàng đế nghe lời bèn hạ lệnh thu thập Bát Kỳ binh mã hồi quân tới Cổ Lặc ban mới tạm nghỉ.

Tổng binh quan của nhà Minh lúc đó là Lưu Đĩnh và Lý Như Bá, cùng hai chỉ quân do hai tướng Đổng Ngạc và Hổ Lan tiến binh, không còn xa Hưng Kinh là mấy.

Tin tức báo về đại dinh quân Mãn. Anh Minh hoàng đế liền phong Hỗ Nhĩ Hán làm tiên phong, đem một ngàn người ngựa đi suốt đêm ngày về trước để bảo vệ Hưng Kinh. Quá ngày thứ hai, hoàng đế lại cho Nhị bối lặc đem bản bộ binh mã bà ngàn tên tiếp ứng. Còn chính mình thì cùng với các bối lặc đại thần văn võ bá quan về Giới Phàm Sơn để cùng làm lễ Khai Tuyền, chém tám đầu trâu tế cờ cáo trời.

Đại bối lặc thấy Nhị bối lặc đã đi rồi, sợ em đoạt mất công đầu vội tới tâu phụ hoàng xin đem hai mươi kỵ binh đi trước để do thám tình hình. Anh Minh hoàng đế gật đầu cho đi. Tam bối lặc thấy anh cả được đi cũng có ý muốn theo. Tứ bối lặc lúc đó đang đi săn ở sau núi, được tin hai anh mình sắp ra trận, vội chạy về xin cha cho theo. Hoàng đế thấy vậy, lấy làm vui mừng, bèn kéo Tứ bối lặc vào lòng, mà bảo:

- Con ngoan của cha! Hai anh con đi cả. Con ở lại trong dinh bầu bạn với cha có phải vui không?

Tứ bối lặc lòng vốn nhớ nhà từ lâu, khẩn khoản cha ba, bốn lần để được về Hưng Kinh trước. Thế là cả ba anh em được phép cha cùng lên đường.

Được tin bốn vị bối lặc trở về, các bà phi từ trong cung gọi vào và vây lấy hỏi thăm tin tức nơi quan ải chiến binh.

Bốn vị bối lặc vui mừng cực điểm, khoa chân múa tay, đem tất cả tình hình nơi chiến trường kể lại một lượt. Các bà nghe xong vừa mừng vừa sợ.

Trong số bốn bối lặc có mặt lúc đó, chỉ có Tam bối lặc Mãng Hỗ Nhĩ Thái là còn có mẹ. Bởi vậy khi bà Phú Sát thị ngồi nghe tới lúc xuất thần, bèn kéo con lại gần mình mà bảo:

- Chả trách mà mẹ thấy tim gan hồi hộp, nhiều lúc trống ngực tự dưng cứ thình thịch.

Kẻ đẹp trai nhất phải nói là Tứ bối lặc Hoàng Thái Cực, mẹ chàng là bà Diệp Hách thị tuy đã mất sớm, nhưng chàng có cái sắc tướng tươi trẻ đáng yêu nên ai cũng thích cũng chiều.



Các bà phi trong cung không ai là không quý mến chàng, nhất là bà Ô Lạp thị. Bà này lúc nghe kể chuyện quá hứng thú, cứ cầm lấy tay Hoàng Thái Cực mà xuýt xoa nói:

- Chả trách gì ta cũng thấy tim gan nó hồi hộp ghê gớm mấy bữa nay!



Hoàng tử thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn thấy mẹ yêu quý anh Tư cũng vội chạy tới nằm vào lòng mẹ. Bà Ô Lạp một tay thì cầm tay Đa Nhĩ Cổn, còn một tày thì nắm tay Hoàng Thái Cực. Cả nhà nhướng mắt nhìn bà và hai cậu hoàng tử đẹp trai mà tấm tắc ngợi khen. Đa Nhĩ Cổn tuổi tuy còn nhỏ nhưng xem bề sắc diện còn có phần bảnh trai hơn anh đôi phần.

Đại bối lặc cùng Nhị bối lặc nhìn quang cảnh đó bỗng nhiên nhớ tới mẹ mình, bất giác thấy chua xót trong lòng, đôi mắt rưng rưng ứa lệ. Hai anh em vội quay đầu chạy ra khỏi cung.

Trời hừng sáng. Bỗng tiếng pháo liên châu nổ vang ngoài thành rồi trống, còi vang lên. Mọi người đều biết xa giá hồi kinh. Thế là trong thành, từ lớn chí bé, từ dân đến quan, ai nấy đều vội vã ra khỏi thành đón rước.

Anh Minh hoàng đế về tới cung. Bà Ô Lạp vội bày yến tiệc để hoàng đế đón gió. Lúc đó trong doanh có bắt được mấy trang mỹ nữ của Minh triều. Được lệnh, họ phải vào cung. Các bà phi và các nàng công chúa thấy phía dưới quần họ lộ một đôi chân nhỏ bé xinh xinh, ai cũng đều lấy làm lạ. Các bà, các nàng tò mò, vây quanh họ, cởi bỏ đôi hài của họ, nắm đôi bàn chân xoay đi xoay lại để xem xét khiến họ mắc cỡ đến mặt đỏ tía tai, không cất đầu lên nổi nữa.

Bọn cung nữ được lệnh đưa mấy cô gái đẹp người Hán từ trong phòng tắm ra để trang điểm. Rồi ngay đêm đó họ được đưa vào cung để phục thị hoàng đế. Anh Minh hoàng đế thấy mấy cô này vừa xinh đẹp lại vừa hiền hậu ngoan ngoãn nên rất sủng ái.

A Mẫn vốn hiếu sắc, nên đêm đó cố xoay cho kỳ được hai cô gái Hán đến phòng mình để hầu hạ mua vui.

Sáng hôm sau, cậu tới xin hoàng phụ và được cha phong thưởng cho hai nàng làm thị nữ của Mãn, đồng thời cũng phong cho mấy người đẹp của mình làm thứ phi. Cậu hoàng A Mẫn lúc đó liếc mắt so sánh người đẹp của mình với người đẹp của cha, thấy của mình thua kém xa nên có vẻ chờm bơm, cười nói đưa tình chẳng nể mặt hoàng phụ. Anh Minh hoàng đế thấy vậy làm giận lắm, tức tốc sai cung nữ đuổi Mẫn ra khỏi cung. Từ đó, Đế trong lòng có ý chán ghét cậu hoàng nhi A Mẫn, rất ít khi cho gọi vào gặp mặt.

Ngày hôm sau, Anh Minh hoàng đế lâm triều. Đại tướng Hỗ Nhĩ Hán xuất ban tấu lên:

- Tây lộ của Minh triều hiện đã theo đường Khoan Diện tiến tới Đổng Ngạc. Cư dân quanh vùng đều phải chạy trốn vào những nơi rừng sâu, núi thẳm. Tổng binh Lưu Đĩnh tung quân đốt làng, cướp của, giết chết dân chúng rất nhiều. Ngưu Lộc Ngạch Nhân, Thác Bao Ngạch Nhĩ, Nạp Ngạch Hắc Ất, ba người đã chỉ huy quân trú phòng năm trăm người tiến tới nghênh địch nhưng đều bị quân Minh bao vây khắp mặt, Ngạch Chân và Hắc Ất đã bị loạn quân giết chết, ba trăm binh sĩ cũng bị tàn sát theo. Thác Bảo thoát chết vội đem tàn quân chạy tới Hưng Kinh cầu cứu. Xin bệ hạ truyền lệnh cho đại binh cấp tốc tiến tới nghênh địch.

Vừa nghe rời tâu trình của Hán, Anh Minh hoàng đế vội hạ lệnh cho Đại bối lặc, Tam bối lặc, Tứ bối lặc điều khiển toàn bộ quân mã tới Đổng Ngạc trước để nghinh chiến. Lại sai Hỗ Nhĩ Hán đem một chi quân ẩn trong rừng sâu để ứng sách, chỉ lưu có bốn ngàn quân lại Hưng Kinh, chuẩn bị để địch với lộ quân của bọn Lý Như Bá và Hạ Thế Hiền.

Xuất quân lần này, Đại bối lặc làm đại nguyên soái, Tam bối lặc làm phó nguyên soái, còn Tứ bối lặc làm tiên phong nguyên soái.

Tứ bối lặc thống lĩnh hai ngàn quân mã, nhổ trại đi trước. Khi gần tới địa phận Phú Sát, tiên phong nguyên soái được thám mã phi báo:

- Quân Minh ở phía trước tiến dọc theo Đông Gia Giang, chỉ còn cách có mười sáu dặm.

Tử bối lặc hay tin hạ lệnh đóng trại tại nơi sơn cốc rồi cho gọi hai trăm tên quân Minh ở hậu doanh đều là những tên quê miền Chiết Giang lên trướng, thưởng cho rượu thịt và dùng lời ngon ngọt vồ về:

- Các ngươi hãy mặc binh phục của Minh triều vào rồi vác cờ Minh đi thẳng tới Đông Gia Giang, gặp Lưu Đĩnh nói dối rằng: Đỗ Tùng tướng quân đã đánh chiếm được Hưng Kinh cho nên sai chúng tôi tới đây đón tướng quân vào thành thảo luận quân cơ.

Lại còn bảo thêm:

- Các ngươi cẩn thận đi cho thành việc. Nếu lừa được Lưu Đĩnh tới đây, thì các ngươi được kể như chiếm công đầu. Lúc đó ta sẽ tha hồ cho các ngươi trở về Chiết Giang với vợ con, cha mẹ.

Bọn binh sĩ người Hán này nghe nói được về quê với gia đình, kẻ nào kẻ nấy cảm kích, liền hăng hái ra đi. Thế là cả bọn thay đổi Minh trang, vác cờ hiệu Đỗ nguyên soái, thẳng đường tiến tới Đông Gia Giang gặp Lưu Đĩnh.

Tướng Mãn Hỗ Nhĩ Hán lúc đó cũng đã đem quân tới hợp với quân của bốn bối lặc. Thác Bảo với cánh tàn quân cũng chạy về tới, xin vào yết kiến bốn bối lặc, rồi được giao cho nhiệm vụ trinh sát địch tình, bằng cách phóng quân len lỏi trong các khu rừng cây rậm rạp.

Lại nói tướng Minh Lưu Đĩnh xuất phát từ Thẩm Dương, theo đường Khoan Điện, chật vật lắm mới tới được Đông Gia Giang để tiến đánh Hưng Kinh. Đĩnh sợ Đỗ Tùng chiếm được Hưng Kinh trước, cướp mất công lớn của mình, nên đốc thúc quân sĩ ngày đêm tiến gấp. Đường xá ở đây lại hoàn toàn là đường núi gồ ghề hiểm trở cây cỏ hoang vu, gai góc mọc đầy. Gặp núi thì mở đường, gặp sông thì bắc cầu, quân sĩ chịu muôn phần mệt nhọc lao khổ. Chúng kêu khổ khắp trời. Khi tới Đổng Ngạc không chỉ mong mượn được nhà dân mà nghỉ ngơi đỡ mệt. Ai ngờ dân chúng nơi đây đã trốn chạy sạch, mười nhà thì đã tới chín không còn lại một cái gì! Khỏi nói đến trâu bô, dê gà, chó lợn, ngay cả nhà cửa cũng đã bị phá hoại hết sạch, không còn gì đáng giá. Quân Minh kéo tới, muốn tìm cái ăn, không có, muốn tìm chỗ trú cũng không. Tướng Đĩnh bực mình lắm. Bọn quân sĩ cũng cáu tiết, châm một mồi lửa thiêu rụi tất cả nhưng gì còn sót lại, nào cái nhà bẹp, nào cái giường hư, nào cái cầu tiêu mục nát, nào cái bờ dậu xiêu vẹo…

Lộ quân lại kéo đi. Một con sông lớn chắn ngang, vượt qua phía đông là miền Phú Sát. Đây vốn là nơi hội ước với quân Triều Tiên. Trước đó mười ngày Đĩnh đã sai Hải Cái Đao, Khang Ứng Kiền đem năm trăm bộ tốt đi trước để đón quân Triều.

Thế mà nay vẫn không thấy họ tới, ngay cả Kiền cũng chẳng thấy về, Đĩnh chẳng biết làm cách nào hơn, đành hạ lệnh cho đại quân đóng bên sông chờ khi hợp binh để tấn công.

Không ngờ chờ đã mấy hôm liền mà quân Triều văn biệt vô âm tín. Đĩnh không nhẫn nại được nữa, bèn lệnh cho quân sĩ mai ăn cơm sớm để canh năm vượt đò qua sông.

Giữa lúc quân Minh đang vội vã thu lượm doanh trại, bỗng một tiểu đội người ngựa đi đò từ bên kia sông sang, chiếc đi đầu rõ ràng thêu chữ Đỗ to tướng tung tẩy trước gió, trong ánh chiều vàng rực rỡ. Đĩnh cho gọi vào nhìn qua một lượt, quả nhiên đúng là quân của nhà. Đĩnh hỏi về Đỗ nguyên soái thì bọn quân Minh vừa tới kia báo bẩm:

- Trước đây ba ngày, Đỗ nguyên soái đã đánh chiếm được thành Hưng Kinh. Đô đốc Kiến Châu đã bị loạn quân giết chết. Đỗ nguyên soái hiện ở trong đô đốc phủ. Ông chỉ còn chờ Lưu nguyên soái ngài qua sông để tới phủ bàn tính việc thu phục các bộ lạc ở miền bắc.

Nghe xong, Đĩnh bất giác vừa giận vừa mừng, mừng vì bọn mọi Kiến Châu đã bị diệt, quan dân từ đây gối cao ngủ kỹ khỏi phải lo lắng gì, giận vì quân Triều Tiên chậm trễ để đến nỗi công đánh chiếm Hưng Kinh bị Đỗ Tùng cướp mất, uổng phí cái chức tiên phong nguyên soái. Hơn nữa, phen này xuất quân chẳng lập được chút công nào thì khi về gặp mặt quan kinh lược biết ăn nói làm sao.

Sau đó Đĩnh truyền lệnh sáng mai thong thả hành quân lên đường. Quân Minh tin chắc thắng trận nên vũ khí thảy đều gói lại vác vai giáp trụ cũng cởi bỏ, chỉ mong sớm vào thành an nghỉ ít hôm cho bõ những lúc gian khổ trên con đường gổ ghề hoang vắng của cái vùng quan ngoại khỉ ho cò gáy này.

Hồi 7: Đánh Hưng Kinh , quân Minh thảm hại

Một vạn binh sĩ của Lưu Đĩnh đều là những tay khoẻ mạnh, tinh luyện. Chỉ vì băng rừng xẻ núi mở đường, chịu bao nỗi phong trần gian khổ, mười người thì đã có đến năm bắt đầu phát bệnh. Nay được tin Đỗ tướng quân chiếm được Hưng Kinh, sai quân tới đón vào thành nghỉ ngơi ít hôm, ai nấy nhảy lên vì sung sướng. Nào binh khí nào giáp trụ, họ đều gói lại vác vai, vui ca qua sông. Bọn lính Chiết Giang tới báo tin hôm trước, đi đầu dẫn lộ. Đoàn quân đi vừa được 20 dặm đường, phía sau bỗng có chiêng trống vang rầm. Rồi một chi quân đánh tới. Đây chính là chi quân của Tam bối lặc nước Kim. Đĩnh hoảng hốt lo sợ. Trong chốc lát, đám lính Chiết Giang biến đâu mất, không còn thấy một tên. May thay Đĩnh còn có năm trăm tên thân binh chưa cởi bỏ giáp trụ, bèn hô quay ngay lại, bày thành trận thế. Đĩnh quất ngựa tiến lên. Tam bối lặc tiếp chiến. Quân Kiến Châu kéo tới mỗi lúc mỗi đông. Hậu đội quân Minh lại không kịp mặc áo giáp, tình thế nguy cấp vô cùng!

Lưu Đĩnh biết gần đây có một ngọn đồi tên gọi A Bố Đại Lý, có thể đóng quân được, bèn truyền lệnh cho ba quân tướng sĩ rút vội về đóng tại đỉnh đồi rồi sẽ nghênh địch. Quân sĩ đi trước, Đĩnh đích thân áp hậu, vừa đánh vừa lui. Khi tới đồi A Bố Đạt Lý, quân Minh tiến thẳng lên đỉnh.

Nhưng vừa tới sườn đồi bỗng nghe từ trên đỉnh một tiếng pháo hiệu nổ vang rền. Tứ bối lặc cầm đầu một cánh quân vừa hò hét vừa xông xuống. Quân Minh lúc đó tay chưa lấy kịp vũ khí, mình chỉ mặc có nhuyễn giáp.

Từ trên đinh đồi, tên đạn bắn xuống như mưa. Quân Minh tránh tên, té ngửa ra sau, lăn nhào xuống chân đồi thây lấp kín cả các hố hốc. Tướng sĩ chân tay của Đĩnh chết đã mất quá nửa. Tình cảnh thật vô cùng bi đát. Trước đã không có đường tiến, sau lại có truy binh, Đĩnh đành phải lượm lặt tàn quân chạy vội về hướng tây.

Một dãy núi đằng trước. Hai ngọn chọc trời song song. Quãng giữa là một đường độc đạo ngoằn ngoèo như ruột dê. Đĩnh bèn hô quân xếp thành hàng một từ từ rút qua. Đĩnh đích thân đoạn hậu. Nhưng khi đoàn quân của Đĩnh ra khỏi eo núi được một nửa, địch quân bỗng từ phía tây chia hai cánh giáp công. Bên trái có Đại bối lặc Đại Thiện, bên phải có Hỗ Nhĩ Hán cắt hẳn đoàn quân Minh ra hai đoạn.

Đại bối lặc Đại Thiện vừa thấy Lưu Đĩnh, quất ngựa xông tới nghênh chiến! Đĩnh thấy Thiện, đôi mắt bốc hoả, răng nghiến kèn kẹt, tay múa đại đao chém tới. Hai tướng đại chiến ngay tại eo núi, một qua một lại, chẳng mấy chốc đã năm, sáu chục hiệp không phân thắng bại. Thiện bỗng bỏ Đình giữa lúc đang kịch chiến, chạy ra ngoài eo núi, Đĩnh tức giận đến cực độ, giục ngựa đuổi theo, nhưng quân Kiến Châu đã bốn mặt xô tới vây kín lại.

Đĩnh phóng ngựa xông đông phá tây, chạy qua chạy lại mong thoát trùng vây, nhưng rút cục vô phương. Thủ hạ binh sĩ theo sát Đĩnh thưa dần. Bốn mặt tên vẫn như cào cào phóng tới. Đĩnh múa tít cây đao gạt tên, đồng thời ra sức tìm đường trốn chạy. Bỗng một mũi tên vụt tới trúng ngay vào giữa mắt ngựa Đĩnh. Con ngựa đau quá cất đứng người lên cao, miệng hí lên rầm rầm, quật ngã Đĩnh xuống đất. Quân Kiến Châu xô tới bắt. Đĩnh nhanh tay, rút vội đao tự vẫn.

Đại bối lặc Đại Thiện cắt thủ cấp Đĩnh rồi quay ngựa đem bản bộ binh mã tiến thẳng sang miền Phú Sát. Bởi vì lúc đó Thiện đã được tin Khang Ứng Kiên đem một vạn quân Triều Tiên theo miền Phú Sát nam lộ kéo tới. Quân Triều Tiên mình đều mặc áo giáp giấy, đầu đội mũ dây liễu. Thiện biết vậy, nẩy sinh một kế, đợi tới nửa đêm, đích thân chỉ huy một ngàn kỵ binh, đem theo đồ dẫn hoả xông vào cửa trước trại địch mà khiêu chiến, còn cửa sau thì phóng hoả đất trại. Đêm đó, gió đông nam lại thổi mạnh. Ngọn lửa bốc lên, xông vào doanh trại, chỉ trong nháy mắt đã cháy rực khắp nơi.

Quân Triều Tiên áo giáp đều bắt lửa, chạy không thoát, bị chết cháy quá nửa. Số còn lại đều nám mặt sém mày, vội chạy ra khỏi trại, lại bị phục binh của Thiện bắt hết.

Ba cánh quân khác của Kiến Châu do Tam bối lặc, Tứ bối lặc và Hỗ Nhĩ Hán chỉ huy lúc đó cũng đã kéo tới, thấy vậy, liền bổ vây tứ phía, nhất loạt phóng tên vào.

Cuộc chiến kéo dài từ nửa đêm đến mãi trưa hôm sau, một vạn quận Triều Tiên kẻ chết vì lửa người chết vì tên, chỉ có Khang Ứng Kiên là người duy nhất chạy thoát mà thôi. Trong trận đánh này, quân Kiến Châu bắt được ngựa lừa, vũ khí không thể kể xiết.

Hỗ Nhĩ Hán đem đoàn quân chiến thắng mở đường đi trước, lại gặp một tiểu đội quân mã du kích Kiều Nhất Kỳ của Minh Triều. Hai bên tiếp chiến. Kỳ đại bại, chạy trốn. Hán đuổi theo.

Khi đuổi tới chân núi Cố Lạp Khố, Hỗ thấy trên núi một dãy trại binh có cờ Triều Tiên bay phất phới. Hán nghi ngờ, cho Nhất Kỳ chỉ là một tướng dụ địch. Nên không dám tiến, sai người báo tin cho đại bối lặc cùng tam bối lặc biết. Chẳng bao lâu cả ba bối lặc đều đem quân tới nơi họp binh một chỗ.

Lại nói Đỗ nguyên soái Triều Tiên tên Khương Hoàng Lập được tin quân Minh thảm bại, bèn cất trống giấu cờ, sai thông sự quan tới doanh trại quân Kiến Châu để xin đầu hàng và bày tỏ:

- Việc giúp Minh triều vốn chẳng phải bản ý của quốc vương tôi. Chỉ vì ngày trước quân Nhật Bản xâm lăng tiến vào chiếm cứ thành trì nên quốc vương tôi phải nhờ tới quân Minh để đẩy lui quân Nhật. Nay Minh triều đưa thư tới gọi quân nước tôi tới Khoan Điện, quốc vương tôi vì nghĩa chẳng tiện từ chối. Bởi vậy quốc vương tôi sai một vạn quân đồn trú tại miền Phú Sát thực ra bọn tôi chẳng biết phải đánh nhau với ai, mãi nay mới biết là với quân Kiến Châu của các ngài. Bon tôi đâu dám xúc phạm tới oai hùm của thượng quốc. Huống hồ một vạn quân binh của bọn tôi đã nhờ ơn thượng quốc giết cho bằng hết rồi. Do đó, nguyên soái nước tôi xin lập tức đình chiến để mưu cầu hoà bình cho hai nước.

Đại bối lặc Đại Thiện nghe xong, bèn cùng bọn Hỗ Nhĩ Hán thương nghị. Tứ bối lặc liền có chủ ý, sai thông sự quan đi theo người Triều Tiên trở về núi Cố Lạp Khố, đặt điều kiện với Lập:

- Nếu các ngươi muốn xin hàng, hãy giết hết bọn quân Minh còn lại trong trại, sau đó Đô nguyên soái Khương Hoàng Lập phải đích thân đến trại ta xin hàng. Bọn ta lúc đó sẽ vì đức hiếu sinh của trời đất mà tha cho các ngươi.

Thượng Hoàng Lập nghe thông sự quan nói vậy, không còn cách nào khác, bèn hạ lệnh cho bắt hết quân Minh trong trại rồi lao từng tên một từ đỉnh núi xuống, tay gãy chân què, máu me lênh láng, chết không kịp kêu. Quân sĩ Kiến Châu cắt thủ cấp Kiều Nhất Kỳ rồi đem theo Đô nguyên soái, phó nguyên soái của Triều Tiên về Hưng Kinh.

Về tới thủ đô Kiến Châu, Lập được vào yết kiến Anh Minh hoàng đế, vội bò rạp xuống đất, đập đầu kêu binh binh.

Anh Minh hoàng đế cho người nâng dậy, rồi bày rượu thịt ra ăn uống ở ngay điện bên cạnh. Đồng thời truyền lệnh tiệc để ăn mừng thưởng công. Đế cho mời tất cả các quan viên lớn bé tòng chinh vào ngự hoa viên uống rượu. Trong cung cấm, Đế cũng cho triệu tập các bà phi, các thái tử, công chúa, các phúc tần, mở một tiệc linh đình.

Các phi hôm đó có bà Phú Sát, bà Ô Lạp, bà Giác La, cùng các thứ phi. Bọn con cái thì có thái tử Đại Thiện, tam tử A Bá, tứ tử Thang Cổ Đại, ngũ tử Mãng Cổ Nhĩ Thái, lục tử Tháp Bái, thất tử A Bát Thái, bát tử Hoàng Thái Cực, cửu tử Ba Nhĩ Thái, thập tử Đức Cách Loại, thập nhất tử Ba Bố Hải, thập nhị tử A Tế Cách, thập tam tử Lai Nộ Bố, thập tứ tử Đa Nhĩ Cổn, thập ngũ tử Đa Lạt, thập lục tử Phi Dương Cổ. Tất cả đều ngồi quây quần trong cùng một chiếu rượu.

Anh Minh hoàng đế lúc đó vừa uống rượu vừa nghe ba vị Đại, Tam và Tứ bối lặc kể lại trận đánh, trong lòng rất lấy làm sung sướng. Ông vốn yêu người con thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn nhất. Thấy Cổn mặt mũi khôi ngô, tính tình nhu thuận, đầu óc lại thông minh, bọn các bà phi, các bà phúc tấn ở trong cung ai cũng đều ưa thích. Trong bữa tiệc Cổn chẳng khác gì một con bướm đùa hoa, chạy tung tăng khắp nơi, khi thì ngồi vào lòng bà phi này một lát, khi lại tựa vào gối bà phúc tấn nọ một chập.


Anh Minh hoàng đế uống rượu đến lúc quá hứng, bèn kéo Cổn vào lòng mình, lấy tay vuốt má Cổn mà hỏi:

- Mấy hôm nay con vẫn tập dượt cung tên đấy,chứ?

Cổn bĩu môi, nũng nịu đáp:

- Có chứ! Mấy hôm nay cứ độ canh tư là con trở dậy bắn cung đấy!

Vị sư phó ngồi gần tiếp lời:

- Cậu nhỏ tập chưa được tinh luyện. Còn phải cố gắng thêm nữa mới được.

Anh Minh hoàng đế mỉm cười nói:

- Chẳng cần cố làm gì! Chớ có dùng sức quá độ, e mệt con trẻ.



Giữa lúc hai cha con Đa Nhĩ Cổn trò chuyện với nhau, thì bà phi Ô Lạp lòng sung sướng như mở cờ bởi vì bà thấy con mình được chồng cưng chiều hơn hết. Bà vội rời khỏi ghế ngồi, uốn éo lưng ong, bước lại trước mặt nhà vua rồi vừa cười vừa nói:

- Bệ hạ đừng coi nó là một thằng bé mười tuổi nữa nhé! Nó đã theo sư phó học làm thơ Hán rồi đấy!

Anh Minh hoàng đế nghe đoạn, giơ cao ngón tay cái nhấn mạnh vào không khí để tỏ dấu khen ngợi:

- Thằng bé hay quá!

Thấy cha khen, Đa Nhĩ Cổn muốn trổ tài bèn chạy đi lấy ngay giấy bút, viết bốn chữ: "Tây giao thí tiễn" (Thi bắn ngoài cánh đồng mé tây), rồi sau đó, viết luôn một bài thơ tứ tuyệt như sau:

"Rừng tây cờ gấm phất phơ bay.

Tên thép cung vàng rợp bóng cây.

Một phát bay ngang hơn tia chớp!

Nào ai giỏi bắn dám so tài?
"

Thơ viết xong, Cổn liền dâng cho cha xem. Anh Minh hoàng đế cười khà khà, tỏ vẻ đắc chí, nói:

- Thật là uổng! Cha mày làm đến thiên tử một nước mà chẳng biết lấy một chữ Hán này! Con của cha khá lắm! Mau dịch ra cho cha mày xem coi! Khà! Khà! Khà!

Cổn bèn đem ý tứ trong thơ giảng giải cho cha nghe một cách hoạt bát thông thạo. Cử toạ ngồi khắp điện, ai cũng đều phải vỗ tay khen giỏi!



Giữa lúc bà Ô Lạp hớn hở đắc ý về cậu con cưng của mình thì bà Phú Sát lòng chua như dấm, bực tức đến không thể chịu nổi. Bà đưa mắt nhìn hai cậu con mình. Mãng Cồ Nhĩ Thái được cha phong cho làm Tam bối lặc, trong lòng rất lấy làm cảm kích nên chẳng dám phóng túng bừa bãi. Duy chỉ có Đức Cách Loại không được cha phong cho làm bối lặc, nên có lòng oán hận đã lâu. Nay thấy mẹ biểu đồng tình với mình, nên lại càng vững chí, tính nhân dịp này mà xả bớt tức cho hả lòng phần nào. Nhưng Loại nhìn quanh chăng thấy ai cố võ tự cảm thấy cô độc, lại thôi không dám hé răng. Đúng lúc đó, Loại nghĩ ngay tới Tứ bối lặc là Hoàng Thái Cực vì biết Cực không ưa Cổn. Loại bèn lẻn tới sau lưng Cực kéo tay áo Cực, đưa mắt cho Cực. Cực quay lại thấy vậy cũng đưa mắt cho Loại tỏ vẻ đồng tình.

Hoàng Thái Cực vốn là con trai bà Thái phi. Cực giỏi võ nghệ lại có bộ mặt xinh trai. Tuy vậy Cực vẫn không thể nào đọ được với Cổn vì Cổn bảnh trai nổi tiếng, các bà phi trong cung cấm, ai mà chẳng khoái Cổn, Cực vì đó mà ghen tức.

Nay thấy Cổn vênh váo làm bộ quá đáng, Cực đột nhiên cả giận. Cực cậy mình có chiến công, chắc hẳn phụ hoàng cũng không nỡ rầy bèn nheo mũi khịt một tiếng rồi nhếch mép cười nhạt.

- Đó bất quá chỉ là đồ trẻ nít cợt đùa! Nước đại Kim ta lấy việc tung hoành thiên hạ trên lưng ngựa mà thành nghiệp lớn chứ đâu có cần tới cái đồ trẻ nít đó!

Mấy lời nói của Cực tuy rất quang minh chính đại nhưng đối với Anh Minh hoàng đế, ngài đã thấy rõ được sự ghen tức giữa hai đứa con mình. Đế tự nhủ ghen tức chẳng phải là điều tốt, tính rầy la Cực. Khốn nỗi Cực cũng là cục cưng của ngài, hơn nữa Cực lại chơi thân với khắp văn võ bá quan trong triều, đồng thời lại vừa mới lập được chiến công. Cho nên ngài thấy chẳng tiện thực hiện ý mình. Ai ngờ Cực vừa nói xong thì bên kia, Loại đã lên tiếng. Loại vừa cười nhạt vừa nói giễu:

- Mấy câu thơ đó nghe đã quá quen mà! Sư phó ta cũng đã dậy ta từ lâu. Phải chăng mày đã chép lại trong sách nào đó để đem lừa dối phụ hoàng?

Cổn vốn chỉ là một đứa trẻ nít. Hắn nghe hai anh chém cụt hứng của mình, liền méo xệch mồm, oà lên khóc. Bà Ô Lạp vội vàng chạy lại kéo đi. Anh Minh hoàng đế tức quá, đôi mày dựng ngược lên, quát Loại:

- Hai anh em mày khinh nó trẻ nít phải không. Chỉ một chuyện nhỏ đó mà chúng mày cũng không chịu nhường nhịn, thử hỏi tương lai rồi đây sẽ ra sao?

Câu mắng của ông khiến bọn thất tử ngồi trong điện câm miệng lặng thinh. Ông truyền lệnh chỉ đuổi Loại ra khỏi cung và từ nay, phải có lệnh tuyên triệu mới được vào. Chỉ đó truyền xong, các thái tử mặt người nào người nấy cũng xám ngoét, rồi chả ai bảo ai, lần lượt rút êm ra khỏi cung cấm. Duy có Cực trong lòng bất phục. Bởi vậy, Cực mua chuộc văn võ bá quan, kết bè lập đảng để thủ thế. Đó là chuyện về sau.

Lại nói quan Kinh lược sứ nhà Minh là Dương Cảo ở Thẩm Dương lần lượt được phi báo ba lộ quân mã đều bị tiêu diệt thì hoảng hồn bạt vía, tay chân run lên bần bật. Một mặt ông viết sớ tâu về triều cho Thần Tông hoàng đế rõ sự thể, một mặt truyền lệnh cho Tổng binh Lý Như Bá đóng tại thành Thanh Hà lập tức rút quân về Thẩm Dương để bảo vệ thành trì.

Cuộc chiến tại Tát Nhĩ Hữ sơn này, Minh triều chết mất cả thảy tám vạn tám ngàn năm trăm chín mươi tên quân và hơn ba trăm mười viên tướng. Quân Triều Tiên cũng bị chết cháy theo mất đến hơn một vạn.

Một việc làm cho Cảo băn khoăn mãi chẳng yên, đó là thi hài của người anh em kết nghĩa Lưu Đĩnh. Cảo bèn sai năm mươi tên quân lẻn đến chân đồi A Bố Đạt Lý tìm xác Đĩnh đem về. Cảo lại sai thợ mộc dùng gỗ mộc hương làm một cái đầu người lắp vào cổ cụt của Đĩnh, mua sẵn một cỗ quan tài thượng hạng, khâm liệm rồi đích thân đưa vê Bắc Kinh.

Vợ con Đĩnh trông thấy quan mộc, khóc đến chết đi sống lại nhiều lần. May có Dương phu nhân vốn là chỗ thân tình đem lời lẽ hơn thiệt khuyên giải nên họ cũng nguôi dần. Từ đó, con cái Lưu Đĩnh ở lại trong phủ Dương Cảo. Dương phu nhân đem con gái mình hứa gả cho Lưu công tử. Hai gia đình trở thành sui gia, và Lưu phu nhân cũng có chỗ nương nhờ.

Minh triều từ khi bị một vổ chua cay, chết binh mất tướng một cách tai hại, chỉ còn biết giữ quan ải, không dám can thiệp đến chuyện quan ngoại nữa. Anh Minh hoàng đế bèn lợi dụng cơ hội tết đó chiếm Khai Nguyên thành, phá Thiết Lĩnh thành, đánh bại quân Mông Cổ Khách Nhĩ Khách, bắt sống tù trưởng Tể Trai. Đại tướng Hỗ Nhĩ Háp còn tâu với Kim đế:

- Diệp Hách bộ chủ trước đã chối bỏ cuộc cầu hôn của ta, nay lại giúp Minh triều để đánh bại ta. Cái hận ấy không thể không báo. Xin bệ hạ xưống lệnh chinh phạt.

Anh Minh hoàng đế nói:

- Trẫm đâu có quên cái thù của Diệp Hách. Chỉ vì Diệp Hách bộ chủ vốn có cái tình cậu cháu đối với Tứ bối lặc của ta. Nếu ta đem quân chinh phục, e khó coi về mặt bà con thân thích!

Đại bối lặc Đại Thiện lúc đó ngồi bên cạnh, vội đứng phắt dậy nói:

- Xưa nay thường nói: Vì đại nghĩa mà diệt thân tình. Chúng ta là những người muốn tạo nghiệp lớn há lại quá lo lắng đến điều nhỏ nhặt đó ư?

Anh Minh hoàng đế nghe Thiện nói, gật đầu luôn mấy cái, bèn bảo:

- Ừ, nói thế cũng phải!

Thấy cha tán đồng ý kiến của anh, Tứ bối lặc liền xin cha cho làm tiên phong nguyên soái, đem một vạn người ngựa đi trước. Anh Minh hoàng đế đích thân đem hai vạn quân lên đường theo sau; cái bối lặc đại thần cũng đều có mật trong dinh để nghe lệnh điều động.

Hồi 8 : Liên minh Mông Mãn

Diệp Hách bộ chủ có hai anh em, một là Kim Đài Thạch đóng đô tại Đông Thành, hai là Bố Dương Cổ đóng đô tại Tây thành. Hai anh em nhà này, từ khi thấy quân Minh đại bại bèn vội vã đem quân trốn về bản bộ. Họ đêm ngày lo phòng bị, sợ quân Kiến Châu tới đánh bất thần. Quân Kiến Châu quả tới đánh họ thật.

Anh Minh hoàng đế đích thân công phá Đông Thành, sai bọn bối lặc đánh chiếm Tây Thành. Ông vây đánh đến ngày thứ ba thì phá được ngoại Đông Thành. Lòng ông vẫn còn băn khoăn về tình nghĩa cậu cháu, bèn sai quân sĩ hô lớn:

- Kim Đài Thạch hãy mau mau ra hàng, ta sẽ tha chết cho ngươi.

Thạch đứng trên địch lâu ngang nhiên đáp lại:

- Nỗ Nhĩ Cáp Tề! Mi chớ nói điều đó. Ta đây, mi không thể ví với bọn Minh được. Ta cùng ngươi đều là người Mãn, đều là những bộ chủ anh hùng. Ta há lại khoanh tay chịu nhục. Đầu hàng mi thà tứ chiến còn hơn!

Thạch nói đoạn, tức thì gỗ đá từ trên thành lao xuống như mưa. Quân Kiến Châu bị đả thương, đầu vỡ máu chảy, nằm gục chết dưới chân thành vô số.

Anh Minh hoàng đế cả giận, tự lay mạnh cây lệnh tiễn, quất ngựa nhảy lên trước trận. Quân sĩ ở phía sau ùa vào, quân Diệp Hách liều mạng kháng cự. Thạch một tay kéo vợ, một tay bế đứa con trai nhỏ, ẩn tránh trên đài cao, quân Kiến Châu váy kín toà đài khắp bốn mặt, miệng hô lớn:

- Kim Đài Thạch, hãy mau mau xuống đầu hàng.

Thạch đứng trên đài cao nói vọng xuống:

- Tứ bối lặc của mi vốn là cháu ngoại ta. Nếu muốn ta đầu hàng, bọn mi hãy mời Tứ bối lặc lên cho ta gặp, lúc đó ta sẽ xuống hàng.

Anh Minh hoàng đế nghe lời Thạch nói bèn hạ lệnh cho quân sĩ lùi xa hơn tầm tên, lại sai người tới Tây thành gọi Tứ bối lặc. Tứ bối lặc chạy tới chân đài miệng kêu cửu phụ, Thạch vẫy tay bảo lên đài. Giữa lúc Tứ bối lặc tính leo lên, một tên thị vệ đứng cạnh nhanh mắt nhìn thấy Thạch có vẻ mặt hung ác vội chạy lại rỉ tai bảo: "Bối lặc, đừng! Không nên. Ngài có nhìn thấy sắc mặt của hắn thế nào không? Lòng hắn nhất định chứa ngầm ác ý".

Được nhắc nhở, Tứ bối lặc tỉnh ngộ, vội dừng lại, nói với Thạch:

- Cháu hiện đã có mặt tại đây. Cửu phụ hãy mau xuống đài đi!

Thạch cười nhạt bảo:

- Mày đã không chịu lên đài, tao lại chưa từng biết mặt mày thì làm sao bảo tao tin mày đích thị là cháu ngoại tao. Bới vậy tao đâu có dại gì mà xuống.

Viên đại thần Phí Anh Đông, Ngạch Phò Đạt Nhĩ Cáp lúc đó đứng cạnh thấy vậy, quát lớn:

- Mi hãy thử nhìn xem trong đám người thường có ai là kể ngôi ngô anh tuấn như Tứ bối lặc của bọn ta không. Xuống thì xuống đi, bằng không ta sẽ đốt cháy rụi đài.

Thạch lại nói.

- Con trai ta là Đức Nhĩ Cách Lặc, nghe nói nó bị thương ở nhà. Bọn ngươi hãy gọi hắn tới đây để cho cha con ta gặp nhau, lúc đó hãy tính chuyện mời ta xuống đài.

Một lát sau, Lặc lên đài gặp cha, bèn nói:

- Việc đã đến nước này, có giữ một cái đài cao thực cũng vô ích lắm! Cha con ta nên mau xuống bái kiến Anh Minh hoàng đế, hoặc giả ngài nể tình thân thích mà tha mạng cũng chưa biết chừng.

Thạch thấy con khuyên hàng bất giác nổi giận tuốt ngay cây bội đao chém tới. Bà Phúc Tấn, vợ Thạch, giật mình, vội chạy tới ôm chầm lấy con. Lặc thấy cha nhất định không chịu đầu hàng đành gạt lệ trở xuống. Vợ Thạch biết chồng cố chấp không chịu cũng bế đứa con nhỏ xuống theo, ba mẹ con Lặc chạy đến trước mặt Anh Minh hoàng đế dập đầu khóc lóc thảm thiết. Kim đế lấy lời lẽ ngọt ngào khuyên dỗ, lại thưởng rượu thịt cho ba mẹ con ăn uống. Ngài còn sai Tứ bối lặc ngồi hầu rượu rồi dặn bảo:

- Họ là anh em, là cửu mẫu của con. Từ nay về sau, con phải có biệt nhãn với họ.

Phí Anh Đông thấy Kim Đài Thạch nhất quyết không chịu hàng, bèn quát sai quân sĩ đánh tới. Quân Kiến Châu được lệnh, vác búa chặt cột. Thạch ở trên đài cao phóng hoả đốt đài. Chẳng mấy chốc, ngọn lửa bùng bùng bốc cháy, khắp đài đỏ rực Quân Kiến Châu ngẩng mặt, đứng nhìn chung quanh thành vòng. Đài cao bị cháy quá nửa, liền đổ ụp xuống.

Chân đài gãy đổ tan tành. Quân Kiến Châu nhảy tới bắt Thạch trói lại, rồi dùng dây thắt cổ chết. Anh Minh hoàng đế truyền chỉ dùng quan quách thượng hạng khâm liệm rồi đem chôn cất tử tế. Đông thành thất thủ, trong khi Tây thành bị bao vây cấp bách.

Bố Dương Cổ được tin Đông thành đã bị phá tròng lòng lo sợ đến cùng độ. Cổ bàn tính với em là Bố Nhĩ Hàng Cổ xin hàng, nhưng lại sợ Kim đế không cho. Bà mẹ nghe được nói:

- Để mẹ xuất thành thương thảo thoả đáng với Đại bối lặc trước, rồi các con hãy ra hàng sau.

Nói xong bà mẹ Bố Dượng Cổ ra ngoài thành xin gặp Đại Thiện. Thiện thấy bà ngoại tới vội chạy vội ra đón vào một cách rất cung kính. Bà ngoại tổ của Thiện nói:

- Hai cậu của cháu muốn xin hàng nhưng lại sợ cha cháu không cho. Bởi vậy nhờ bà tới đây hỏi cháu xem sao.

Thiện nghe xong tức khắc nâng chén rượn đầy trên bàn lên uống một nửa, còn một nửa sai đem cho Bố Dương Cổ uống, rồi vỗ ngực nói:

- Thằng cháu ngoại này xin đảm bảo tính mệnh của các cậu được chăng.

Bố Dương Cổ uống cạn chén rượu rồi lại sai quân sĩ mở cửa thành, đón rước Thiện vào bàn tiệc.

Cạn chén được vài tuần, Cổ đem tình bà con thân thuộc ra nói, bất giác lệ trào xuống má như mưa. Thiện giục Cổ nên mau xuất thành đầu hàng. Cổ đứng lên, chạy vào nhà trong cáo biệt vợ con. Vợ Cổ nắm tay chồng khóc nói:

- Thiếp nghe nói Kim Đài Thạch đã bị quân Kiến Châu bức phen này nên khôn ngoan cẩn thận. Nỗ Nhĩ Cáp Tề lòng rất nham hiểm, sợ rằng hắn không có ý tốt thương tình.

Bố Dương Cổ gạt lệ chia tay chạy ra tiền viện. Cổ cùng tới em là Bố Nhĩ Hàng Cổ theo gót Đại Thiện tới đại doanh yết kiến Anh Minh hoàng đế Cổ nhớ tới lời vợ lúc lâm điện lúc nào cũng cẩn thận đề phòng. Cổ ngồi trên mình, ngựa chạy tới sát cửa doanh môn mà chẳng ai ra đón tiếp. Cổ đâm nghi, ghìm cương ngựa mà không dám xuống. Thiện vội chạy tới nắm lấy cương ngựa nói:

- Cậu thực chẳng phải một tay hảo hán. Việc đã quyết định có gì mà phải nghi ngờ.

Cổ miễn cưỡng xuống ngựa, tiến vào trướng. Anh Minh hoàng đế ngồi trên ngai từ lúc nào, mặt sắt đen sì. Hai bên, một đoàn quân thị vệ đứng hầu, hông đeo yêu đao, mắt trừng trừng canh chừng Cổ. Bầu không khí nghiêm trang lặng như tờ. Thật là oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng.

Cổ nhìn thấy cơ nguy, lòng mỗi lúc một sợ, vội quỳ xuống một chân, còn một chân phòng hờ. Hắn tự nghĩ nếu họ muốn giết ta, âu là ta vẫn có thể vùng chạy cho lẹ. Lát sau, Cổ chỉ nghe từ trên có lời ban xuống: "Thưởng rượu!". Tức thì một tên thị vệ bưng ra một chén rượu đầy đặt trước mặt Cổ. Cổ cúi nhìn chén rượu, trống ngực đập thình thình. Y tự nhủ: Đây là chén rượu độc chứ còn gì. Ta không thể nào uống được.

Nghĩ vậy nhưng Cổ vẫn giơ tay nâng chén rượu lên môi. Hắn dùng tay áo che khuất chén rượu rồi lẳng lặng đổ nhẹ xuống đất. Hắn chẳng lạy tạ mà cũng chẳng dập đầu, đứng phắt dậy.

Bỗng hắn nghe Anh Minh hoàng đế cười nhạt một tiếng rồi bảo đại bối lặc Đại Thiện:

- Hãy đưa anh em bà con mày về Tây thành đi.

Hai anh em Bố Dương Cổ vội lui ra, trở về Tây thành.

Bà Phúc Tấn, vợ Cổ nóng lòng mong đợi, thấy chồng trở về bình an vô sự, cả mừng cười nói vui vẻ, y như bắt được vàng.

Vợ chồng hai người sai bày tiệc ngay trong phòng thù tạc với nhau để trút nỗi lo âu đã bấy lâu đè nặng trong lòng. Chè chén đến mãi khuya, vợ chồng tan tiệc đi nằm, say giấc mộng lành đi gió về mưa.

Giữa lúc cả hai đang say sưa giấc điệp, bỗng có hai tên đại hán nhảy qua cửa sổ vào trong. Chúng cầm chiếc dây lớn tiến tới cạnh giường quấn chặt dây vào Cổ. Người ta chỉ nghe Cổ thét lên một tiếng rồi lịm bặt. Thì ra Cổ đã bị thắt chết, không trối được một lời. Bà vợ Cổ, giật mình tỉnh dậy trông thấy tình cảnh hãi hùng, khóc đến chết đi sống lại nhiều phen.

Bọn thị vệ của Cổ đã trốn hết từ lâu nên lúc đó chẳng còn ai nữa để can thiệp cứu giúp. Hai tên đại hán nép trong bóng tối chờ mãi khi Cổ đã chết hẳn mới phi thân qua cửa sổ biến mất.

Hai tên đại hán đó do lệnh của Anh Minh hoàng đế sai tới để ám sát Cổ. Ngài thấy Cổ thuộc loại ngựa bất kham khó điều khiển, và sợ hắn còn có ý phản, nên đã nhổ cỏ nhổ cả gốc cho đỡ lo hậu hoạ. Còn Bố Nhĩ Hàng Cổ thì được tha là bởi vì hắn không có gì đáng để cho Kiến Châu lo ngại.

Toàn bộ Diệp Hách, sau khi Cổ chết đều quy hàng Kiến Châu.

Anh Minh hoàng đế ở lại Đông thành hai ngày rồi mới ban sư hồi quốc.

Khi về tới giữa đường, quân Kiến Châu bỗng được thám mã phi báo:

- Mặt trước có một toán binh mã, trưng cờ Mông Cổ chặn ngang đường. Vị tướng quân đi đầu, miệng nói lớn: "Vâng mạng lệnh của Lâm Đan Hãn, đem lá thư tới muốn được bệ kiến Kiến Châu hoàng đế".

Anh Minh hoàng đế được tin, tự nghĩ Mông Cổ vốn là nước lớn ở phía tây bắc, Lâm Đan Hãn lại là minh chúa của năm bộ lạc Mông Cổ, nay bỗng có sứ thần tới đây tất có sự gì quan trọng, ta chớ coi thường. Nghĩ vậy đế vội truyền lệnh an dinh hạ trại, và cho mời sứ giả vào trướng.

Một viên đại tướng hai tay bưng lá quốc thư đi từ ngoài vào, miệng nói:

- Lâm Đan Hãn sứ thần Khanh Khách Nhã Bái Hổ xin bải kiến và thỉnh an Anh Minh hoàng đế!

Nói xong, viên đại tướng cung kính hành lễ. Lúc đó, Đại bối lặc, Tứ bối lặc, cả hai đều ngồi bên cạnh. Tứ bối lặc giơ tay tiếp lá quốc thư của Mông Cổ đưa cho Anh Minh hoàng đế mở ra đọc, trong thư viết:

"Quốc chúa nước Mông Cổ Ba Đồ Lỗ Thành Cát Tư Hãn thống lĩnh bốn mươi vạn quân mã, xin hỏi thăm quốc chúa nước Mãn Châu Anh Minh hoàng đế chỉ huy ba vạn quân mã miền thuỷ tàu có được bình an vô sự không. Minh với ta, hai nước vốn địch thù. Từ năm Ngọ tới giờ, ngươi đã mấy phen gây cảnh khổ cho nước Minh. Mùa hạ năm nay, ta đích thân tới miền Quảng Ninh của Minh, chiêu dụ thành này, thu đồ tiến cống. Nếu ngươi đem binh qua Quảng Ninh, ta sẽ ngăn chặn ngươi ngay. Ta và ngươi hai bên vốn không hiềm khích. Ví thử ngươi cướp thành của ta đã chinh phục để làm thành của ngươi thì danh ta còn gì. Nếu ngươi chẳng nghe lời ta thì hai bên ắt có chuyện thị phi, có trời chứng giám. Trước đây sứ giả hai nước thường hay qua lại chỉ vì sứ thần của ngươi bảo không lấy lễ tiếp đãi khiến hai bên không lấy lễ vật mà hỏi thăm nhau nữa. Như quả ngươi cho lời ta là phải, ngươi hay lại sai tên sứ trước tới nước ta"
.

Anh Minh hoàng đế xem xong quốc thư của Hoàng đế Mông cổ, nín lặng không nói một lời. Ngài cầm thư đưa cho các bối lặc xem. Bọn đại thần cũng đổ xô tới, người nào người nấy đều ngạc nhiên thết lên:

- Há lại có lý lẽ như thế này?

Trong đám này, Tứ bối lặc là người thiếu tính nhẫn nại nhất, bèn bước tới nắm lấy Bái Hổ rồi ruốt cây bội đao định cắt mũi cảnh cáo. Anh Minh hoàng đế thấy vậy vội xua tay rồi một mặt sai người đưa Hổ ra ngoài lấy rượu thịt thết đãi, một mặt triệu tập tất cả bối lặc, đại thần tới hổ trướng để bàn cách hồi đáp Mông Cổ.

Trong cuộc hội, có kẻ bảo đem giết quách tên sứ bái Hổ rồi mặc chúng, chẳng nên để ý làm gì. Có kẻ nói bắt hết đám Mông Cổ, đem cắt tai đuổi về để cho chúng biết dân Mãn cũng chẳng vừa. Anh Minh hoàng đế lắc đầu nói:

- Không được, không được!

Thập tứ hoàng tử Đa Nhĩ Cổn tuy nhỏ tuổi nhưng lúc đó cũng theo vua cha hiện có mặt trong trướng, đứng phắt dậy nói:

- Quân Mông Cổ có bốn mươi vạn. Ta có ý cướp nước Minh từ lâu tại sao ta không liên minh với họ để lợi dụng binh lực của họ hợp sức đánh phá Minh triều. Đường ta gần, đường chúng xa, khi chiếm được nước Minh rồi, lo gì nước Mông Cổ chẳng lọt và tay ta.

Cổn nói tới đây, Anh Minh hoàng đế bỗng ngồi ngay người lại, tỏ vẻ đắc ý đến tột độ, vỗ mạnh vào cổ con mà nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ý này quả trời cho!

Ngày hôm sau, Kim đế truyền Triệu Bái Hổ vào trướng, đem việc liên minh hai nước đánh phá triều Minh ra nói. Hổ luôn mồm khen: "Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!". Tức thì, Đế sai chém một đầu ngựa trắng, một đầu bò đen, rồi hai bên quỳ xuống chỉ trời lập thệ thề rằng:

"Nay bối lặc chấp chính Bát Kỳ Mãn Châu cùng với bối lặc chấp chính năm bộ lạc nước Mông Cổ mong nhờ trời đất phù hộ khiến hai bên hợp lực đồng mưu để đánh người Minh rửa hận. Nếu có thể cùng Minh cởi bỏ thù cũ, kết được mối hoà thì cả hai họp lại định mưu rồi sau sẽ nhận. Nếu Mãn Châu bội ước, không cùng Khách Nhĩ Khách bối lặc đồng mưu hoà hiếu với Minh thì trước xin hoàng thiên hậu thổ trừng phạt họ. Nếu Minh muốn hoà hiếu với Khách Nhĩ Khách bối lặc, mật sai ly gián mà bối lặc không báo cho Anh Minh hoàng đế Mãn Châu biết thì xin hoàng thiên hậu thổ cũng trừng phạt cho. Hai nước chúng tôi cùng giữ lời thề. Xin đất trời phù hộ. Uống chén rượu này ăn miếng thịt này, bối lặc chấp chính hai nước phải trọng mạng lệnh. Con cháu trăm đời đến mãi muôn thu, hai nước như một, cộng hưởng thái hoà".

Nguồn: http://vnthuquan.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved