Hồi 61: Miên Canh Nghiêu, một dữ tướng
Hạn kỳ nán lại kinh đô đã mãn,
đại tướng quân Miên Canh Nghiêu bèn từ biệt hoàng thượng, phó nhiệm Thiểm Cam
tổng đốc. Dọc đường có quan địa phương đón tiếp đầy đủ. Trong đoàn còn có mấy
tay thám tử của hoàng đế trà trộn vào và sau này nhất cử nhất động của Miên đại
tướng, chúng đều báo mật về kinh cả. Thế mà Miên chẳng biết gì, cứ y như người
nằm ngủ trong trống. Miên đại tướng cậy mình là một vị công thần trụ cột, hơn
nữa lại vừa mới bình định được Thanh Hải, Tây Tạng, cho nên trời thì cao, hoàng
đế thì xa Nghiêu đâm ra ỷ thế làm càn.
Trước đây đã có nói qua tinh lực của
Nghiêu quả thật hơn người. Cứ mỗi tối, trước khi ngủ, thế nào Nghiêu cũng phải
có năm, bảy cô gái vạm vỡ, lực lưỡng thay phiên nhau hầu hạ. Vô phúc đêm nào mà
không có gái đô vật thì đêm đó đừng hòng Nghiêu ngủ được. Thực ra, thì Nghiêu
cũng có năm thê, bảy thiếp, bà nào, cô nào cũng mắt phượng mày ngài, phấn điểm
son tô, nhưng trước mắt Nghiêu, đó chỉ là những bức tranh để ngắm, để khen, để
ve vuốt tí tẹo cho vui vậy thôi.
Hồi 62: Một phương pháp
dạy trẻ kì tuyệt
Thầy thì phán thằng bé có số
đại tướng nhưng Miên Hà Linh đâu có tin, bèn gặng hỏi. Thầy tướng xem đi xem
lại đôi ba lần rồi cả quyết nói:
-
Ghê thật! Làm đẹp mặt cho gia đình sau này chính là nó! Nhưng làm tan cửa nát
nhà lại cũng là nó! Nó cần phải đọc nhiều sách thì may ra mới thoát khỏi hoạ
này!
Nghe thầy tướng nhắc đến chuyện
đọc sách, ông Linh chạnh lòng, thở dài nói:
- Thằng bé này hư hỏng quá rồi.
Nó lại kỵ nhất là việc đó.
Thầy tướng nói:
- Thưa lão ông, nếu lão ông tin
mà uỷ thác, vãn sinh sẽ xin cố giúp cho cháu trở thành người văn võ toàn tài.
Miêu Hà Linh bèn mời thầy tướng
về nhà nghỉ lại. Đêm đó thầy tướng bèn đem lai lịch của mình cũng như cách thức
giáo dưỡng thằng bé kể cho ông Linh nghe. Ông phục hết chỗ nói, muốn thầy tướng
nhận ngay Nghiêu làm học trò. Thầy bảo:
- Hãy khoan! Xin lão ông xuất
ra cho hai vạn lạng bạc giao cho vãn sinh lo liệu mọi thứ đã.
Ông Linh không do dự chút nào,
tức tốc làm theo, còn cho quyền thầy tuỳ nghi sử dụng. Từ đó về sau, toàn gia
họ Miên đều gọi thầy tướng là tiên sinh.
Tiên sinh nọ lấy tiền xong,
chẳng thèm nói tới chuyện dạy dỗ gì Nghiêu hết. Ông đem số tiền mua một miếng
đất trống ở đằng sau Miên gia trang, mướn rất nhiều thợ gấp rút xây cất một toà
hoa viên tráng lệ với nhiều cây cối xum xuê hoa lá ở trung tâm, ông lại cho xây
một thư viện chứa đầy sách.
Cuối đông năm đó, toà hoa viên
mới được xây cất xong. Chung quanh, ông lại cho xây hai lần tường vây kín, chỉ
để một cái cửa nhỏ ở về hướng tây nam thông ra ngoài mà thôi.
Thế rồi tiên sinh nọ chọn đúng
ngày mười sáu tháng giêng năm sau, là ngày lành tháng tốt, khai tâm cho tên học
trò duy nhất Miên Canh Nghiêu của ông.
Hôm đó, Miên Hà Linh cho mời
thân bằng cố hữu tới dự bữa tiệc đãi tiên sinh. Rượu xong, chính Miên Hà Linh
đưa Miên Canh Nghiêu tới để làm lễ nhập môn. Ông Miên chắp tay lạy tiên sinh nọ
ba lạy rồi gởi lời ký thác, xong cáo từ quay về. Tiên sinh nọ tiễn Miên Hà Linh
ra khỏi hoa viên bằng cái cửa nhỏ duy nhất nọ, rồi sai thợ hồ xây bít luôn lại,
chỉ trừ có một cái lỗ nhỏ đủ để đưa cơm nước vào trong mà thôi.
Toà hoa viên xây cất tráng lệ
cho nên Miên Canh Nghiêu bị nhốt bên trong mà cũng không lấy làm buồn chán lắm.
Nghiêu tung tăng chạy nhảy, rong chơi suốt ngày, tha hồ muốn làm gì thì làm,
chẳng ai thèm nói tới. Vị tiên sinh khả kính nọ thì suốt ngày ngồi trong thư
viện, tay không rời sách, cũng chẳng thèm để ý tới Nghiêu, cũng chẳng bao giờ
bắt Nghiêu mó đến bút giấy. Nghiêu được hoàn toàn tự do, khoái lắm, thế là cứ
việc chạy nhảy suốt ngày trong hoa viên, không có chỗ nào là không đạp chân
tới. Nhưng có điều lạ là Nghiêu chẳng bao giờ bén mảng tới thư phòng, chẳng bao
giờ chuyện trò lấy nửa lời với tiên sinh nọ. Thư phòng đối với Nghiêu dường như
là một cấm địa mà chính Nghiêu tự nhủ phải chừa ra.
Càng được tự do, Nghiêu càng thấy
khoái. Nghiêu cởi hết quần áo, ở truồng nồng nỗng, nhảy đại xuống ao bơi lội,
bắt cá. Lại có lúc Nghiêu leo lên cây hái trái ăn, phá tổ chim chơi.
Mùa xuân, Nghiêu lấy sáo ra
thổi vang lên. Mùa hè Nghiêu vác cần ra ao câu cá. Mùa thu, Nghiêu đuổi ve, bắt
dế suốt ngày. Mùa đông Nghiêu nghịch tuyết rỡn cười. Một năm có bốn mùa thì
không mùa nào là Nghiêu không có cái thú để tiêu khiển. Chơi những trò đó chán
rồi, Nghiêu lại có lúc cuốc đất, đào hố, trồng cây…, thôi thì đủ trò của một
thằng nhỏ mười hai, mười ba, nghịch ngợm khôn ranh.
Nghiêu tự do tự tại như vậy
được một năm, thì tường đổ, vách xiêu, hoa tàn, nước cạn, thậm chí những trụ đá
xây hết sức vững chắc cũng bị Nghiêu đập gục xuống hết. Không chỗ nào là còn
lành lặn dưới sự tàn phá của Nghiêu. Riêng toà thư viện đã trở thành cấm địa
đối với Nghiêu thì quả thực Nghiêu không bao giờ đụng tới. Tiên sinh nọ thấy
Nghiêu phá phách đến quỷ khốc thần sầu như vậy mà vẫn mặc, chẳng thèm
"hừ" lên một tiếng nhỏ nào.
Ít lâu sau nữa, Miên Canh
Nghiêu chơi nghịch đã chán hết mọi chỗ mọi trò rồi, bèn liều lĩnh mò vào thư
phòng tính chuyện quấy phá. Để "lấy đà", cu cậu mặt hầm hầm, mắt trợn
ngược lên, làm oai quát bảo:
- Mau mở cửa ra cho ta! Ta muốn
ra khỏi nơi đây.
Tiên sinh nọ mặt lạnh như tiền,
đáp:
- Khu vườn này không có cửa. Mi
muốn ra cứ việc nhảy qua tường mà ra.
Nghiêu thấy tiên sinh nọ không
chịu, liền xắn tay áo giơ cao quả đấm, thoi mạnh một cú vào mặt ông. Chỉ thấy
ông quắc mắt lên giơ bàn tay ra chộp ngay lấy cánh tay Nghiêu, văn mạnh. Nghiêu
la lên oai oái và giẫy đành đạch. Tiên sinh quát lớn:
- Quỳ xuống!
Nghiêu sợ đau, lúc này chẳng
quỳ cũng chẳng được. Tiên sinh thả tay, Nghiêu vội lủi đi, mất hút.
Luôn một lèo, hơn mười ngày,
Nghiêu trốn biệt, chẳng dám bén mảng đến thư phòng. Mùa thu đã lại về, phong
cảnh có điều tiêu sơ Nghiêu không còn thấy cảnh đẹp nữa, liền lẻn tới thư
phòng, thấy tiên sinh nọ đang cúi đầu xem sách. Nghiêu rón rén lại bên bàn,
đứng một lúc rồi bỗng mở miệng nói:
- Này lão kia, một toà hoa viên
rộng lớn thế mà ta chơi cũng đã chán rồi. Cuốn sách nho nhỏ kia, sáng xem đến
tối, tối xem đến sáng. Có gì hay trong đó mà lão xem mãi thế?
Tiên sinh nghe Nghiêu nói xong,
cười lên khà khà, bảo:
- Thằng nhỏ, mày biết gì! Cuốn
sách này còn có những cảnh trí rộng lớn bằng vạn lần khu vườn kia, suốt đời
cũng khó xem hết được, mày không biết, thật đáng tiếc!
Miên Canh Nghiêu nghe xong bảo:
- Lão thử nói ta nghe có gì vui
trong đó?
Tiên sinh lắc đầu:
- Thầy mày chẳng lạy mà lại dám
bảo nói cho mày nghe hở? Đâu có dễ thế chú bé.
Nghiêu nghe đoạn dựng ngược đôi
mày, giơ thẳng cánh tay đập cái rầm xuống mặt bàn, quát.
- Lạy! Lạy cái con khỉ ấy à!
Đừng hòng!
Quát xong, Nghiêu khoát tay làm
bộ, huênh hoang bước ra khỏi phòng. Tiên sinh mặc kệ, chẳng thèm gọi lại.
Lại hơn mười ngày sau, Nghiêu
quả đã chịu hết nổi, bèn chạy vào thư phòng, quỳ xuống đất lạy thầy và nói:
- Xin thầy dạy cho con với.
Tiên sinh nâng Nghiêu dậy, bảo
ngồi xuống. Bộ sách đầu tiên mà ông dạy cho Nghiêu là bộ Thuỷ Hử. Ông đem những
chuyện trong Thuỷ Hử ra kể. Nghiêu nghe khoái bằng chết, thôi thì khoa chân múa
tay, lắm lúc như điên như dại. Tiên sinh giảng tiếp Tam Quốc Chí, rồi Tống Nhạc
Phi, rồi những chuyện anh hùng, hiệp khách ly kỳ khác. Sau nữa, ông giảng tới
binh thư, sử ký kinh điển, rồi các loại sách về khoa học.
Những lúc rỗi rảnh, ông lại dạy
cách dương cung bắn tên hạ cờ, dần dần về sau dạy đủ mười tám ban võ nghệ,
không một ban nào là không đến độ tinh vi. Ông còn dạy cả cách ra quân bày
trận, phép chạy trên tường, bay trên mái nhà. Thế rồi, sau tám năm công phu
đằng đẵng, ông dạy Nghiêu thành một người văn võ toàn tài. Đến lúc đó ông mới
bảo Nghiêu phá tường mà ra.
Miên Canh Nghiêu trở về nhà,
bái kiến phụ thân. Ông Miên Hà Linh sau tám năm không gặp, nay thấy con trở về
với toàn tài văn võ, bản lãnh phi thường thì làm sao chẳng mừng. Ông vội tới
lạy tà tiên sinh nọ. Tiên sinh chỉ chào rồi cáo từ ra đi mặc cho cha con họ
Miên khẩn khoản lưu lại. Tiên sinh nọ chỉ dặn đi dặn lại Nghiêu có một câu
"cấp lưu dũng thoái" (nghĩa là đi thì cho nhanh mà về thì cũng cho
lẹ).
Đến lúc này, đại tướng quân
Miên Canh Nghiêu phú quý đã tột bực. Mỗi lúc nhớ tới vị thầy xưa, Nghiêu lại
thấy kính trọng vô bờ. Cũng bởi lẽ đó nên Nghiêu hết sức kính trọng Vương tiên
sinh hiện dạy học cho con mình.
Ông Vương Hàm Xuân tuy không
phải là một ông thầy văn võ toàn tài như tiên sinh thuở nọ nhưng ở trong nhà họ
Miên, ông luôn tỏ ra ngay thẳng trung hậu, nên được Nghiêu tin cậy ký thác mọi
việc cho. Ngoài việc dạy cho cậu út học, ông còn trông coi cả việc nhà cho
Nghiêu. Những lúc nhàn rỗi, Miên thường tới gặp ông để trò chuyện.
Vương tiên sinh vốn nhân hậu
nên khi thấy Miêu đại tướng quân giết chóc quá nhiều thì lòng ông không yên.
Phải cái Miên tính nóng như lửa, việc khuyên can nhiều khi cũng chẳng dễ dàng
gì. Trong nhà đã có hai đầu bếp, một hầu gái mất mạng vì ông khiến ông suốt đời
không thể nào quên được. Cứ mỗi khi nằm, ông lại giở cuốn kinh Kim Cương ra
tụng niệm, mong siêu sinh tịnh độ cho những oan hồn đã chết vì mình. Ông nguyện
rằng công quả này sê không bao giờ sao nhãng, cho mãi tới khi ông chết. Gia
nhân thứ nhất họ Hồ, làm cho Miên đã bốn năm. Một hôm, Miên mời khách dự tiệc.
Trong bữa có món đặc biệt tên gọi "Nguyên quần", do Miên bảo làm.
Ông thầy Hàm Xuân bữa đó ngồi
ghế nhất. Khi gia nhân dâng bát Nguyên quần, ông không biết món gì liền hỏi thì
Miên giải thích đó là món thịt ba ba cắt ở chung quanh cái viền thịt trên lưng
ba ba. Giải thích xong, Miên bèn lấy thìa múc lên đãi khách.
Ông tiếp lấy miếng thịt. Miên
hỏi mặn nhạt ra sao, ông chưa kịp đáp, chỉ nhíu đôi lông mày, lắc nhẹ cái đầu
một cái. Không đáp kịp chỉ tại miếng thịt nóng quá, khiến đầu lưỡi của ông gần
như tê đi, không nói được. Miên thấy thế cho là ông chê món ăn không ngon, bèn
khẽ hất đầu ra hiệu cho đám thị vệ túc trực bên ngoài. Một lát sau, ông thấy
một tên thị vệ chạy từ ngoài vào, tay bưng chiếc mâm sơn đỏ, trên phủ một tấm
khăn đỏ. Tên thị vệ quỳ xuống, miệng bẩm lớn:
- Hồ nhà bếp nấu món không
ngon. Nay đã chém đầu đem nộp.
Nói đoạn thị vệ giở tấm khăn đỏ
ra. Ông thấy một cái đầu người vừa mới cắt xong, máu đang còn ứa. Tân khách
trong tiệc, người nào người nấy ghê quá, quay mặt không dám nhìn , ông hỏi tại
sao thì Miên đại tướng giải thích:
- Bản chức thấy tiên sinh nhíu
đôi mày, biết món ăn không ngon nên đã bảo nô dịch chặt đầu tên nhà bếp.
Ông vừa nghe đoạn, bất giác
chồm dậy, luôn miệng nói:
- Tội quá! Tội quá!
Rồi ông giải thích lý do tại
sao lại nhíu đôi mày và lắc đầu Miên đại tướng mới vỡ lẽ nhưng đâu thèm để ý,
chỉ cười xoà một tiếng coi như xong.
Hồ nhà bếp chết rồi, ít lâu sau
lại đến Tiền nhà bếp. Anh nhà bếp họ Tiền này biết rõ lý do cái chết của người
đi trước cho nên hết sức cẩn thận: Cứ mỗi bữa định nấu món gì, Tiền nhà bếp lại
tới hỏi Vương gia sư trước đã. Sự khôn ngoan ấy đã giúp cho anh ta được yên ổn,
không xảy ra chuyện gì.
Vương tiên sinh vốn người Hàng
Châu. Một hôm, ông nhớ tới món đậu hũ xứ Hàng, liền bảo Tiền nhà bếp làm cho
một nồi. Miên đại tướng thường ngồi ăn với Vương tiên sinh, khi thấy chén đậu
hũ, đột nhiên cả giận quát:
- Đậu hũ là món tồi tệ nhất,
tại sao dám đem đãi tiên sinh? Bay đâu? Chém!
Ông thầy họ Vương nghe quát,
hoảng quá, vội bảo món đậu hũ chính là do ông bảo làm. Miên đại tướng không ngờ
món này ngon thật, bèn dặn Tiền đầu bếp bữa nào cũng phải có một chén cho Vương
tiên sinh. Vương ăn mãi cũng chán nhưng không dám nói. Về sau Tiền nhà bếp bận
việc nhà xin cáo về, một anh bếp mới tới nghe nói Vương thích món đậu hũ liền
bắt chước anh bếp cũ làm theo. Miên đại tướng nếm thử, không ngờ đậu hũ vừa
đắng vừa mặn, thế là đùng đùng nổi giận, quát chém, khiến Vương tiên sinh vội
can mà không kịp.
Ít lâu sau, Tiền nhà bếp xong
việc nhà, trở lại bếp nhà Miên. Y lại chế món đậu hũ, mùi vị thật hết sức ngon
thơm.
Vương tiên sinh lấy làm lạ, bèn
cho gọi tới hỏi xem thì mới biết rằng: Cứ mỗi nồi đậu hũ phải lấy một trăm bộ
óc cá mè trộn vào mới được ngon thơm như vậy.
Vương nghe xong luôn mồm nói:
- A di đà phật! Anh bếp mới nọ
thật là oan, như thế thì làm sao anh ta biết được! Thôi từ mai anh bỏ cái món
đó đi nhé!
Ít hôm sau, Miên Canh Nghiêu
lại nghĩ ra một món nhậu đặc biệt. Ngài cho mời một số tân khách tới dự tiệc.
Vương tiên sinh lần này cũng vẫn ngồi ghế nhất. Rượu được vài tuần, Miên truyền
lệnh bưng ra. Người ta thấy bọn gia nhân vội vã sắp đặt, cứ trên mỗi bàn đặt
một cái bếp hoả than, trong nòi nào xáo gà, nào vây cá sôi sùng sục, khói bốc
nghi ngút. Trước mỗi thực khách, chúng để tiếp một cái mâm đầy đủ đồ gia vị,
một cái dùi bạc, một con dao bạc, một cái thìa bạc. Khách khứa chẳng ai hiểu ra
sao.
Đợi một lát, lại thấy bọn gia
nhân đặt trước mặt mỗi thực khách một cái lồng nhỏ bằng gỗ, bên trong nhốt một
con khỉ nhỏ, đầu nhô lên trên chóp lồng, chìa hẳn ra bên ngoài, cứng ngắc không
thể cựa quậy, y như bị cùm chặt vào đó, còn cổ thì bị khoá chặt vào những thanh
lồng, khiến khỉ ta không thể thò lên thụt xuống được. Bầu không khí ồn ào trong
bữa tiệc bỗng dưng biến mất. Mọi người im lặng, đợi chờ một sự lạ nào đó sắp
xảy ra.
Miên đại tướng quân động thủ
trước. Ngài cầm dùi bạc, giơ cao lên, đập mạnh vào sọ con khỉ, thủng thành một
lỗ lớn. Đoạn, ngài cầm thìa bạc thọc vào sọ khỉ, múc óc ra, nhúng nhúng vào nồi
hoả than rồi bỏ vào miệng, ăn hết sức ngon lành. Xong ngài lại lấy con dao bạc
cắt cái sọ khỉ khác bỏ vào nước đang sôi.
Nhiều thực khách thấy cách ăn
của Nghiêu cũng bắt chước theo. Thế là cả bữa tiệc rùm lên vì tiếng kêu la thàm
thiết của lũ khỉ, tiếng đập đôm đốp của dùi, tiếng xẻo tiếng cắt xoèn xoẹt của
dao. Rồi tiếng người khen ngon, kẻ khen tuyệt, ồn ĩ cả lên.
Vương gia sư ngồi trên ghế nhất
nhìn cử toạ, thấy mặt mũi tối sầm lại. Ông thác cớ nhức đầu, rút lui về phòng,
thiếu điều nôn thốc nôn tháo.
Bữa tiệc kéo dài mãi tới mặt
trời gác núi mới tan. Tính ra đến gần một trăm con khỉ đã thiệt mạng. Nghiêu
đại tướng quả được một bữa mãn nguyện. Ngài vào thư phòng thăm Vương tiên sinh,
cũng vừa lúc con a hoàn dâng trà lên cho Vương.
Ông đứng lên để đón Nghiêu,
không ngờ trật tay nghe đánh choang một tiếng, chiếc chén ngọc đã rớt, bể tan
trên mặt đất, còn nước trà bắn tung tóe lên cả áo quần mình. Ông lấy khăn, vừa
cúi xuống lau những giọt nước trà trên quần áo, tai đã nghe thấy tiếng gió vút,
vội ngẩng lên thì đã thấy đầu con a hoàn bị Nghiêu chém đứt, lăn lông lốc trên
sàn nhà.
Vương tiên sinh lúc này không
nhịn được nữa, đành phải lên tiếng khuyên can Nghiêu. Ông còn nói thêm:
- Người đời thường nói công cao
át cả chúa, đó là điều không lợi Đại tướng quân ở nơi đây, nhất cử nhất động e
khó qua được tai mắt của hoàng thượng. Thiết tưởng đại tướng quân nên làm nhiều
điều nhân đức, cố kết lòng quân mới phải.
Giữa lúc Vương tiên sinh đang
can gián Nghiêu, từ bên ngoài bỗng trình vào một phong văn thư. Nghiêu mở xem,
nhận ra là thư của tâm phúc từ kinh gửi tới. Đọc chưa xong, hùng khí của Nghiêu
vốn cao đến vạn trượng, bỗng thấp hẳn xuống chỉ còn độ vài gang. Nghiêu lắp bắp
nói:
- Hỏng rồi Hỏng rồi!
Vương tiên sinh tiếp lấy thư,
xem qua, bất giác cũng phải nhíu đôi lông mày lại, mặt lộ vẻ buồn thảm vô hạn…
Hồi 63: Hủy diệt công
thần
Thì ra khi Miên Canh Nghiêu
đáo nhiệm, nhất cử nhất động của Nghiêu đều có thám tử của Ung Chính hoàng đế
đặt ngầm chung quanh tâu báo thường xuyên về triều. Thế rồi Đô ngự sử dâng sớ
cực lực lên án Nghiêu. Trong thì sáu bộ Chính Khanh, ngoài thì tuần phủ, tướng
quân, tất cả dâng sớ hạch tội Nghiêu, có mấy điều rất nguy hiểm như: âm mưu
phản loạn, coi thường nhân mạng, cưỡng dâm phụ nữ, giết hại đề đốc.
Miên
Canh Nghiêu xem xong thư, biết tính mạng mình khó toàn, bèn sửa soạn ngay đêm
đó chút đồ tế nhuyễn. Rồi giao cậu nhỏ Miên Thành cho Vương tiên sinh đem về
phương nam dạy dỗ để giữ lại giòng máu cho họ Miên. Vương tiên sinh vừa đem
Thành ra đi thì thánh chỉ từ Bắc Kinh tới.
Thánh chỉ nói:
"Gần đây Miên Canh Nghiêu
cử bậy tên Hồ Kỳ Hằng làm tuần phủ lại dung túng bọn Kim Nam Anh nhũng nhiễu lê
dân trại Nam Bình rồi dùng lời lẽ che đậy, tâu báo về triều.
Nghiêu lại còn dấu giếm triều
đình cả việc dàn đói ở các vùng Thanh Hải, Mông Cổ, thật không thế tha thứ
được. Miên Canh Nghiêu trước đâu có đến nỗi đó. Hoặc y cậy mình có công cho lên
kiêu láo, hoặc y chém giết quá nhiều cho nên hôn am. Con người đã như vậy thì
làm sao còn có thể giữ chức Xuyên Thiểm tổng đốc. Trẫm xét Miên Canh Nghiêu còn
có thế luyện tập được cho quân sĩ, bởi vậy trẫm điều động y bổ sung chức tướng
quân tỉnh Chiết Giang và Hàng Châu. Còn ngôi tổng đốc thì Phân Uy tướng quân
Cam Túc đề đốc kiêm lý tuần phủ Nhạc Chung Kỳ mau tới Tây An đảm nhận. Ấn tín
của Phủ Viễn đại tướng quân thì gửi về kinh. Ấn tín của Phân Uy tướng quân nếu
thấy vô dụng thì cũng gửi về kinh luôn".
Nhạc Chung Kỳ chơi thân với
Miên Canh Nghiêu, nên khi được tin này, Kỳ vội tới Tây An tiếp thu ấn tín, đồng
thời lấy lời an ủi và giúp Nghiêu dâng sớ xin được bảo toàn. Kỳ còn sai một
trăm tên thân binh hộ vệ cho Nghiêu ở dọc đường.
Nghiêu và Kỳ hai bên gạt lệ
chia tay nhau.
Khi tới Nghi Trưng thuộc tỉnh
Giang Tô, Nghiêu thấy trước mình có hai đường thuỷ - bộ: đường thuỷ xuôi về nam
thẳng tới Hàng Châu còn đường bộ ngược lên bắc dẫn tới Bắc Kinh.
Nghiêu tự nghĩ mình từng đã đem
hết tâm lực ra để giúp hoàng đế nay chi bằng tới Kinh điện cầu chút ân huệ,
biết đâu ngài chả nghĩ tới công trạng thuở nọ mà cho hồi nguyên chức. Nghĩ vậy
Nghiêu tự ý thảo sớ trong đó có hai câu như sau: "Nghi trưng thuỷ bộ chia
đường. Thần tới đây yên lặng đợi sắc lệnh của thánh thượng" (Nghi trưng
thuỷ lục phân trình. Thần chì thử tĩnh hậu luôn âm). Hai câu này, đối với Nghiêu, bất quá
chỉ là mong hoàng thượng hồi tâm chuyển ý. Nào ngờ Ung Chính hoàng, đế xem xong
tờ sớ, lại càng nghi Nghiêu còn ý phản loạn, muốn đem quân về kinh để uy bức
ngài. Thế là ngài giao ngay tờ sớ cho nha môn lại bộ duyệt xét.
Từ xưa, người ta thường nói:
dậu đồ bìm leo. Huống hồ Miên Canh Nghiêu ngày thường uy phúc tự chuyên, đắc
tội rất nhiều với quan trường cho nên cả bọn này chúng khẩu đồng từ, cùng nói
Nghiêu đã được ân huệ lớn mà còn cuồng vọng làm nhiều điều bất pháp đến thế,
tội thật cực lớn, và xin hoàng đế cách chức Nghiêu tức khắc, truy hồi những ân
thưởng đã ban. Tiếp đó, dân cư dọc bên đường cũng đầu đơn gửi về triều đình
bướm bướm, tố Nghiêu nhiễu loạn dân lành. Điều này rõ ràng là do kẻ thù Nghiêu
xúi bảo.
Ung Chính hoàng đế xem đơn, tức
giận đến cùng độ, chỉ nội một đêm mà ngài hạ đến mười tám đạo chỉ dụ, giáng
luôn một lèo vị Xuyên Thiểm tổng đốc phủ viên, đại tướng quân uy danh hiển hách
là Miên Canh Nghiêu xuống mười tám cấp, biến thành một tên lính canh giữ cổng
thành Hàng Châu tại cửa Võ Lâm. Đến nước này, Miên Canh Nghiêu cũng đành cam
chịu, đem theo vài tên lính già, đến Hàng Châu lâm quan giữ cửa thành, hễ thấy
các quan lớn trong thành ra hay từ ngoài vào thì phải sửa mũ, xốc áo để tiếp
rước và đưa tiễn. Cửa Võ Lâm lại náo nhiệt đông đúc nhất, mỗi ngày ra vào không
biết bao nhiêu vị quan. Nhưng cái điều thú vị nhất là tướng quân Hàng Châu lúc
đó chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là thủ hạ của Nghiêu, trước đây đã từng làm
quan trung quân, suýt bị Nghiêu giết, xin mãi mới toàn mạng, chi bị giáng xuống
làm tên lính gác dưới gầm cầu.
Vị tướng quân đó, chính là Lục
Hổ Thần.
Uất hận vì Nghiêu hại mình, Lục
Hố Thần tìm cách chui luồn cửa khác. Sau ba năm, Thần lại lên tới chức đề đốc.
Thần nghe nói Nghiêu bị tội, phát lạc tại Hàng Châu làm quan giữ cổng thành,
liền hết sức vận động để được làm tướng quân Hàng Châu, thật là "oan gia đường hẹp".
Thần vừa đáo nhiệm có một hôm, liền chỉnh đốn toàn quân tiến vào thành. Quan
viên văn võ đều đứng tại cổng thành đón tiếp, duy chỉ có mình anh quan giữ cổng
Miên Canh Nghiêu là tự do tự tại, coi như không có chuyện gì. Nghiêu mặc áo,
bào vào rồi xếp bằng ngồi nhìn mặt trời. Khi Lục Hổ Thần đi qua trước mặt,
Nghiêu vẫn chẳng thèm để ý. Thần nổi giận đùng đùng, quát lớn:
- Miên Canh Nghiêu! Mi có nhận
ra ta đây không? Tại sao mi không quỳ lạy?
Nghiêu nghe xong, nhìn Thần
cười lạt nói:
- Mi bảo ta ư? Chính ta mới bảo
mi phải quỳ ngay xuống!
Thần ha hả cười lớn:
- Ta đường đường là một vị quan
đầu phẩm, thế mà mi dám bảo ta phải quỳ trước một tên canh cửa? Ha ha! Ha ha!
Nghiêu lại bảo Thần:
- Mi không quỳ trước một tên
canh cổng, nhưng nếu thấy hoàng thượng, chắc mi quỳ chứ?
Thần gật đầu bảo:
- Cái đó tự nhiên!
Nghiên không vội gì, từ từ đứng
dậy bảo Thần:
- Mi có thấy ta ngồi trên cái
gì không?
Thần liếc mắt nhìn xem, thì ra
đó là cái Long điếm(1) cũ mà Khang Hi hoàng đế đã thưởng cho Nghiêu, Nghiêu còn
thò tay vào bọc lấy tấm vạn tuế bài ra đật lên trên Long điếm, xong rồi quát
lên một tiếng lớn:
- Lục Hổ Thần! Quỳ xuống!
Thần lúc đó ngoan ngoãn như một
con cừu non, vội quỳ xuống đất, làm lễ Tam
quy cửu khấu. Thấy Thần hành lễ xong, Nghiêu mới đem vạn tuế bài cất đi!
Việc nhục nhã không ngờ này
càng làm cho Thần căm thù Nghiêu. Thần về tới nha môn, ngay đêm đó dâng sớ về
triều tố Nghiêu có năm tội đại nghịch, chín tội khi võng, mười sáu tội thiện
chuyên, mười tám tội tham vàng, sáu tội kỵ khắc, mười lăm tội xâm thực, bốn tội
tàn nhẫn, cộng tất cả là chín mươi hai tội và chiếu luật thì phải xử lăng trì.
Bản tấu này quả đã là một Thôi
mệnh phù đòi mạng Nghiêu. Một đạo thánh chỉ ban xuống đại ý nói:
"Cô nghĩ cái công bình
định Thanh Hải của Miên Canh Nghiêu khi giao cho thông lĩnh bộ quân A Tê đồ
giám nên Cô cho Nghiêu tự xử lấy. Miên Phú (con trai thứ hai của Nghiêu ỷ thế
cha, không điều gì ác mà không làm) lập tức đem chính pháp. Miên Hà Linh (cha
Nghiêu), Miên Hy Nghiêu (anh Nghiêu) hãy đoạt lại tước vị, cho miễn xử phấn.
Còn gia sản của họ Nghiêu thì tịch biên sung công hết" .
Đạo thánh chỉ này ban xuống tức
là toàn gia họ Nghiêu tan tành rồi! Việc này tuy do tội kiêu ngạo của Nghiêu
gây ra nhưng thực cũng do cái thâm ý của Ung Chính hoàng đế muốn huỷ diệt công
thần mà có. Mặc dầu đã loại bỏ được Miên Canh Nghiêu, nhưng còn có quốc cữu
Long Khoa Đa, Đại học sĩ Trương Đinh Ngọc và tướng quân Ngạc Nhĩ Thái, ba người
này trước đây đã cùng hoàng đế mật mưu hành sự, cho nên ngài lúc nào cũng canh
cánh bên lòng, muốn trừ cho bằng hết.
Khổ cái là ngài không tìm ra
được nguyên do nào.
Hồi đó, phàm các vị quan lớn
được triều đình cho ra ngoài tức thì hoàng đế sai một người thân tín ngầm sung
vào hàng mạc hữu(2) hoặc làm một kẻ thân tuỳ để giám sát cử chỉ và hành động của
vị quan đó mật báo về cung. Trong số quan ngoại phóng này, có vị tổng đốc Hà
Đông tên Điền Văn Kính.
Kính vốn tương đắc với bọn đại
thần Ngạc Nhĩ Thái và Lý Mẫn Đạt. Khi được ngoại phóng, Lý Mẫn Đạt có tiến cử
một vị mạc hữu tên gọi Ổ Sư Gia cho Kính, nhắn với Gia là người do Đạt tiến cử,
nên Kính đặc biệt xem trọng và thường bàn bạc mọi chuyện với Gia.
Một hôm, Gia hỏi Kính:
- Minh công có muốn làm một vị
danh thần không?
Trước câu hỏi đó, Kính đương
nhiên gật đầu.
Gia lại nói:
- Minh công đã muốn làm một vị
danh thần, thì tôi đây cũng muốn làm một kẻ danh mặc.
- Làm một danh mặc là làm thế
nào?
Gia đáp:
- Xin minh công giao cho đại
quyền, mọi việc khỏi cần phải hỏi tới làm gái:
- Kính hỏi lại:
- Tiên sinh muốn làm việc gì
vậy?
Gia đáp tiếp:
- Tôi tính thay ngài dâng một
bản tấu chương. Ngài không cần phải đọc. Bản tấu chương này sẽ giúp ngài đạo
công cáo thành.
Kinh thấy Gia nói có vẻ chắc
chắn lắm bèn gật đầu ưng chịu. Thế là ngay đêm đó, Ổ Sư Gia thức trắng, cố viết
cho kỳ xong bản tấu chương rồi xin Kính gửi đi.
Bản tấu chương về tới triều,
Ung Chính hoàng đế mở xem thì thấy đó là bản đàn hặc quốc cữu Long Khoa Đa. Bản
tấu chương tố cáo Đa bênh che Miên Canh Nghiêu; lại huênh hoang chứa ngọc điệp,
âm mưu nhiều chuyện bất pháp…
Hoàng đế xem xong bản tấu thấy
rất hợp với ý ngài, ngài bèn hạ chỉ tước bỏ hết quan tước của Long Khoa Đa,
giao cho Thuận Thừa quận vương là Tích Bảo nghiêm hình thẩm vấn.
Long Khoa Đa vốn là một nguyên,
huấn đại thần, khi thấy hoàng đế bỗng trở mặt, đời nào chịu. Bởi thế lúc Thuận
Thừa quận vương lấy cung, Long Khoa Đa cứ oang oang chửi bới.
Đa lại còn vạch ra hết cả những
chuyện xưa, khi Ung Chính còn là một quận vương, mưu hại thái tử ra sao, tự cải
di chiếu thế nào… không sót điều gì. Tố mãi đến lúc đã mới thôi.
Thuận Thừa quận vương thấy Long
Khoa Đa khi quân đến vậy, không dám hạch hỏi nhiều thêm nữa, bèn một mặt tống
Đa vào lao, một mặt nghi tấu, nói Đa phạm toàn trọng tội, xin chém lập tức.
Đông Thái Phi được tin này, vội
đích thân tới khẩn cầu Ung Chính tha mạng cho anh. Lúc đó, hoàng đế cũng nghĩ
tới công lao thuở trước, tha cho Đa tội chết và hạ một đạo dụ, nói:
"Long Khoa Đa vốn một cựu
thần tiên triều. Trẫm nghĩ tới đó nên tha cho tội chết. Đa phải cất một ngôi
nhà ba gian ở phía ngoài Sướng Xuân viên và tự giam mình viễn tại đây. Vợ con
khỏi tội chết gia sản khỏi bị tịch biên" .
Chuyện này xảy ra, Ung Chính
hoàng đế lại nhẹ thêm được một phần tâm sự. Cũng từ đó, Điền Văn Kính oai danh
nổi lên cao ngất. Hoàng thượng truyền dụ ghi công, lại thưởng thêm khá nhiều
trân bảo phẩm vật. Còn Ổ Sư Gia được Kính tặng một ngàn lạng bạc.
Gia thấy tổng đốc trọng dụng
mình, đâm ra làm tàng. Y chiếm độc quyền kiện tụng, cưỡng dâm phụ nữ, không có
gì bậy mà y không làm. Tin đồn đến tai tổng đốc, Kính lập tức loại Gia ra khỏi
nha môn. Y bèn làm một toà nhà ở ngay trước cổng nha, suốt ngày chỉ rỡn chơi,
hỏi liễu tìm hoa.
Một điều hết sức kỳ lạ là từ
khi Điền Văn Kính đuổi Ổ Sư Gia đi rồi mời một vị mặc hữu khác thay thế, thì
mỗi lần dâng sớ tấu việc, Kính đều bị bác hồi, có khi lại còn bị truyền chỉ
trách mắng là khác. Kinh đâm hoảng, đành nhờ người tới mời Ổ Sư Gia vào nha như
cũ, nhưng Gia làm cao, không thèm tới. Mãi về sau, nhờ người trung gian cố sức
giàn xếp, Gia mới đưa ra hai điểu kiện: một là làm việc ở nhà, khỏi cần phải
vào phủ, hai là mỗi ngày tổng đốc phải trả công cho y một nén vàng. Bởi muốn
giữ yên ngôi vị. Điền tổng đốc chẳng còn biết làm cách nào, đành phải nhất nhất
đáp ứng điều kiện của Gia.
Và Gia cũng từ đó, hôm nào thấy trên bàn tại nhà
riêng có nén vàng thì y làm việc, còn hôm nào không thấy là y gác bút ngay. Đến
khi Điền Văn Kính qua đời người ta vẫn thấy ân điển của hoàng đế còn trọng hậu.
Thánh chỉ hạ xuống ban thuỵ cho Kính là Đoan Túc, được xây cất đền thờ ở trong
thành Khai Phong và nhập tự trong đền Dư Tinh hiền lương từ. Sau đó ít lâu Ổ Sư
Gia bỗng biến mất, chẳng ai còn thấy tung tích đâu nữa. Thì ra đó chính là
người của hoàng đế sai tới để giám sát hành động của tổng đốc Điền Văn Kính.
Hồi đó có một vị án sát sứ tỉnh
Phúc Kiến tên gọi Vương Sĩ Tuấn tiến kinh bệ kiến. Khi ra về, Tuấn được Đại học
sĩ Trương Đinh Ngọc tiến cử một thân tuỳ. Người này tỏ lòng hết sức trung
thành. Ngày tháng thoi đưa, đã ba năm trôi qua, Vương Tuấn nhân có việc cần,
muốn lên kinh thỉnh huấn thì người thân tuỳ nọ trước đó ba hôm cũng xin cáo từ
ra về. Tuấn giữ lại bảo:
- Nhà ngươi ở kinh. Ta cũng
muốn tiến kinh. Bọn ta cùng đi một chuyến có phải tiện không?
Người thân tuỳ nọ tươi cười
nói:
- Xin nói thực để ngài rõ: tôi
vốn chẳng phải kẻ thân tuỳ nào cả mà chính là người của hoàng đế đặt ngầm nơi
đây đề coi xét hành vi của đại nhân đấy! Đến nay đã ba năm qua, tôi nhận thấy
án sát sứ quả là người thanh chính, cho nên tôi về kinh trước, thế cho đại nhân
mà tâu báo hoàng thượng đó thôi.
Vương Sĩ Tuấn nghe xong, hoảng
hồn bạt vía, chỉ còn biết chắp tay hướng về phía người thân tuỳ nọ mà lạy lấy
lạy để, miệng lắp bắp:
- Mọi… điều… nhờ lão ca chiêu
liệu giùm cho với…!
Tin này đồn ra ngoài, tức thì
bọn quan viên ngoại nhiệm, anh nào anh nấy nơm nớp lo sợ, lúc nào cũng đề phòng
có kẻ dò xét mình. Kẻ lo sợ nhất lại chính là Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đinh
Ngọc. Hai vị đại thần này, qua vụ án Long Khoa Đa, đều rõ dụng ý của Ung Chính
hoàng đế. Họ cảm thấy nguy và cùng tìm cách thoát hiểm. Trương Đinh Ngọc vốn
tinh ranh khôn khéo, vội dâng sớ cáo lão về quê. Hoàng đế giả đò giữ lại. Sau
thấy Ngọc cố nài nỉ, hoàng đế mới chuẩn tấu. Lúc tiễn hành, ngài ban yến ở Sùng
Chính Điện. Giữa buổi tiệc, ngài dùng ngự bút, viết một câu đối tặng Ngọc đem
về nhà treo. Câu đối như sau:
Văn trị nhật trong sáng
Ơn trời xuân mênh mang
Ngọc về lại hoá hay. Hoàng đế
muốn mua lòng y nên thường lấy tiền bạc trong nội khố thưởng cho. Mỗi lần
thưởng như vậy có đến cả vạn lạng. Trong khoảng mười năm, ngài thưởng tới sáu
lần. Nhiều lần Ngọc dâng sớ từ tạ, nhưng thánh chỉ hạ xuống nói:
- Thân phụ ngươi thanh bạch
truyền gia. Ngươi tuân theo gia huấn nên tuyệt không có chuyện ăn hối lộ. Trẫm
không đành lòng thấy ngươi túng quẫn.
Trương Đinh Ngọc không còn cách
gì từ chối, bèn xây cất một toà Tứ Kim viên (Vườn cho vàng), mục đích tỏ lòng
cảm kích ân điển của hoàng đế. Ngọc có một người chị tên gọi Diêu thị, tuổi trẻ
ở goá mà có mưu trí. Nàng xét thấy thủ đoạn huỷ diệt công thần của Ung Chính
hoàng đế, biết ngài là con người lật lọng phản trắc nên bảo rõ cho Ngọc hay rồi
chuyển hết đồ tế nhuyễn của riêng tây, gia tài của Ngọc về nhà riêng của mình.
Quả nhiên vài năm sau, không
ngoài sự dự liệu của Diêu thị, hoàng đế hạ thánh chỉ sai tổng đốc Lưỡng Giang
tra xét gia sản của Ngọc, tịch biên và sung công. Anh em bạn hữu của Ngọc sợ bị
liên luỵ, bèn quyên góp mười vạn quan tiền đem đặt vào nhà Ngọc, đợi tra xét.
Về sau Lưỡng Giang tổng đốc đem mười vạn gia tài của Ngọc sung vào Giang Ninh
khố.
Tuy nghe cuối cùng có thánh chỉ
ban xuống trả gia sản lại nhưng Ngọc cũng chẳng dám lĩnh về nữa…
Mưu toan huỷ diệt công thần của
Ung Chính chưa phải đến đây là hết, nó còn gây tai hoạ cho nhiều người sau này
nữa.
Chú thích:
(1) Vật dùng lót chỗ ngồi cho
Hoàng đế.
(2) Người giúp việc trong trướng .
Hồi 64: Những cái án
văn tự
Lại nói ông thầy Vương
Hàm Xuân đem cậu nhỏ Miên Thành, con thứ ba Miên Canh Nghiêu, ngày đêm gấp rút
đăng trình. Trên đường về, ông được tin Nghiêu bị giáng xuống chức tướng quân
Hàng Châu. Vài hôm sau, ông lại nghe luôn một lúc mười tám đạo thánh chỉ, giáng
Nghiêu mười tám cấp, làm một tên quan giữ cổng thành. Rồi khi về tới nhà, ông
lại được tin Nghiêu đã chết và nhị công tử đã bị chính pháp. Tiểu công tử được
hung tin của cha, nhưng không dám khóc, không dám mặc hiếu phục. Ông Xuân đổi
họ tên cho nó, gọi là Hoàng Tồn Niên.
Gia đình Vương Hàm Xuân ngụ tại
một phố nhỏ thành Dương Châu. Khi về tới nhà, Xuân không còn thấy ba căn phố
trệt xưa kia nữa mà lại là một toà nhà rộng lớn có lầu cao mái dài, còn trong
nhà thì Vương phu nhân mặc toàn lụa là gấm góc, con ăn đứa ở từng lũ, ngựa nhốt
đầy cả chuồng.
Thấy lạ, Xuân hỏi vợ mới biết
rằng ba năm về trước, đại tướng quân Miên Canh Nghiêu đã cho người tới làm nhà
cho ông, lại còn cho vợ ông một món tiền lớn là hai mươi vạn lạng bạc tuỳ ý sử
dụng. Nay đã đem tiểu công tử họ Miên về nhà riêng cũng đem tất cả nhà cửa,
tiền bạc giao lại cho y. Nhưng Hoàng Tồn Niên nhất định không chịu nhận. Ông
không biết làm cách nào nữa. Về sau Vương phu nhân nghĩ ra một cách là đem gả
cô con gái Bích Vân cho Tồn Niên, đồng thời để Niên ở rể luôn.
Lúc này, ông Vương Hàm Xuân còn
được tin Quốc cữu Long Khoa Đa đã bị giam giữ. Trương Đinh Ngọc xin lui về
hưởng già, ông thở dài nói:
- Chim bay hết thì cung bị gác.
Thỏ khôn chết thì chó bị thịt! Đó chính là sự đáp ứng xứng đáng cho các công
thần. Quả thực là quá ác độc!
Lại nói Ung Chính hoàng đế thấy
những kẻ đối đầu với mình đã chết hết, những tay công thần đã bị diệt sạch rồi
thì ngài hẳn được thư thái trong lòng, tha hồ gối cao ngủ kỹ mới phải chứ?
Chưa, bởi vì ngài vẫn còn một điều đáng ngại là con trai của thái tử Dân Nhung
tên gọi Hoằng Triết, đem theo vợ con hiện cư ngụ tại Trịnh gia trang ngoài
thành Bắc Kinh. Ngài sợ Triết rắp tâm báo thù cho cha, bởi vậy thường sai bọn
tay chân tới nhà Triết để dò xét. Dân Nhung trước đây bị giam ở trong lao, sau
đó lại bị Ung Chính sai người đánh thuốc độc chết thử hỏi Hoằng Triết là con
sao không ôm hận phục thù, tất nhiên nhiều khi không khỏi buột miệng oán trách.
Vợ của Hoằng Triết là phu nhân Qua Nhĩ Giai người rất hiền. Bà thường hay
khuyên chồng ăn nói nên giữ gìn cẩn thận, kẻo khó thoát nguy.
Không ngờ những lời oán hận của
Hoằng Triết, Ung Chính hoàng đế đều đã biết rõ cả. Một hôm, bỗng có hai tên nội
giám mang theo năm, sáu chục lính xông vào phủ, bắt hai vợ chồng Triết điệu về kinh,
và đưa vào trong cung. Ung Chính hoàng đế thăng điện, đem hai vợ chồng Triết
ra, đích thân thẩm vấn. Ngài vừa nhìn thấy Triết, vụt nhớ lại những lời chửi
bới oán hận, bất giác cơn giận bốc cao đến mấy trượng.
Định hạ lệnh xử ngay, bỗng ngài
liếc thấy cô cháu dâu, tức là phu nhân Qua Nhĩ Giai, quỳ bên cạnh Triết có một
sắc đẹp quả là tuyệt, da ngà mặt hoa, duyên dáng, quyến rũ, thân dài mà đầy
đặn. Ung Chính gần đây nghe lời bọn hoà thượng Lạt ma chơi gái, đã có một sự
từng trải đặc biệt về đàn bà.
Ngài liền hỏi cô cháu dâu bao
nhiêu tuổi thì được biết tuổi mới ba mươi. Tuổi ba mươi là cái tuổi lửa tình
đang vượng.
Đứng trước sắc đẹp của mỹ nhân,
ngài chẳng còn để ý tới việc khác Ngài không thèm hỏi tội Hoằng Triết nữa, vội
bước xuống bảo toạ, đích thân giơ tay nâng bà Qua Nhĩ Giai đứng dậy. Ngài quên
luôn đó là cô cháu dâu của ngài, dắt tay chạy tuốt vào thâm cung…
Qua ngày hôm sau, một đạo thánh
chỉ ban xuống, tha cho Hoằng Triết trở về Trịnh gia trang, đã thế lại còn phong
cho Triết làm quân vương nữa. Hoằng Triết nghĩ rằng, cha thì bị người giết, vợ
thì bị người cưỡng đoạt, mình còn mặt mũi nào sống trên đời nữa. Bởi vậy nhân
lúc vắng người, Triết lấy cây bảo kiếm kề vào cổ và chỉ với một nhát, vong hồn
đã theo cha về suối, vàng.
Ung Chính hoàng đế từ khi cướp
được cô cháu dâu, ngày đêm vui thú mây mưa chẳng thiết gì tới việc khác. Ngài
cao hứng đến mức đem bà Qua Nhĩ Gia và quý phi tới cung Ung Hoà để xem ngày
"Phật mừng" (Hoan hỉ phật). Hôm đó vị quốc sư của ngài cũng đem bọn
sư Lạt ma tới cung Ung Hoà để "nhảy phật" (khiêu phật), thành thử
ngài được một bữa vui thoả thích. Nhảy phật là gì vậy? Đây là một nghi lễ của
bọn sư Lạt ma Tây Tạng thời đó. Cứ mỗi tháng họ chọn một ngày đại cát để đưa
một số đông nữ đệ tử vào cung Ung Hoà, trước hết cởi bỏ hết quần áo ở phòng
ngoài rồi vào cung bắt đôi mà giao cấu dưới tượng phật. Bọn nữ đệ tử này quá
nửa đều thuộc con nhà quan, cô nào cũng xinh đẹp cả. Vả lại, nếu không đẹp thì
đâu có được vào.
Từ đó trở về sau, Ung Chinh
hoàng đế cứ khi nào rảnh lại đến Ung Hoà cung để du hí, quên phứt chương trình
huỷ diệt công thần của ngài.
Cách sau đó ít hôm, bỗng có
viên tổng đốc Chiết Giang tên là Lý Vệ bí mật dâng sớ nói Giang Tây học chính
là Tra Tự Đình ra đề thi trong có bốn chữ "Duy dân sở chỉ" quả
là có dấu hiệu phản nghịch. Lần này Đình ra đề thi hai chữ "Duy chỉ" (rút ngắn
bốn chữ Duy dân sớ chỉ)
lây hai chữ "Ung Chính", niên hiệu của hoàng đế mà bỏ mất cái đầu, là
để trù ếm hoàng đế, rõ là một kẻ đại nghịch bất đạo.
Ung Chính hoàng đế đọc xong tờ
sớ, đột nhiên nổi giận đùng đùng, tức khắc hạ dụ cách chức Tra Tự Đình, bắt
giải cho Hình bộ giam xét hỏi, Một đạo chỉ ban xuống cho Lý Vệ như sau:
"Tra Tự Đình vốn là
viên đại thần hành tẩu trong nội đình, về sau được giữ chức nội các học sĩ.
Nhận thấy Đình ăn nói dối trá, lại có tướng ác dữ khiến ai thấy cũng phải cho
rằng tâm thuật của y không ngay. Triều đình nhân khuyết chỗ, bất đắc dĩ phái y
đi Giang Tây, nay xét lại đề thi có bốn chữ "Duy dân sở chỉ" thì đúng
là y có ý oán hận. Đình đã có ý xấu đó tất nên bình nhật phải có bút tích ghi
chép, cần phải tới nơi tra xét. Việc tra xét này giao cho Chiết Giang tổng đốc
Lý Vệ cấp tốc thi hành!"
Lý Vệ được chỉ ý, liền đem mấy
chục tên thân binh, hùng hùng hổ hổ kéo tới nhà Tra Tự Đình khám xét. Bà Tra
lão thái thái, tức là mẹ Đình, sợ quá ngất đi. Vợ Đình là bà Chúc phu nhân thấy
thế vội quát mắng bọn thân binh không được hỗn, rồi đưa tất cả gia đình lớn nhỏ
ra ngoài.
Lý Vệ lục lọi tra xét mãi, suốt
cả buổi mà chẳng thấy giấy má, thư từ, chữ nghĩa, trước tác gì tỏ ý phản nghịch
cả. Mãi sau, Vệ tìm được một cuốn nhật ký cất trong rương sách. Vệ cầm về nha
môn, bắt chước kiểu chữ của Đình viết thêm vào nhiều chuyện hoang đường nguy
hại cho Đình rồi gởi về Kinh.
Thế là một đạo thánh chỉ hạ
xuống ghép Tra Tự Đình vào tội phản nghịch, tức khắc đem chính pháp. Người con
trai cả Tra Tự Đình cũng bị xử chém. Còn gia thuộc của Đình thì bị sung quân
lên mãi Hắc Long Giang, khiến một dòng họ quan sai đang yên ấm, đang sung sướng
bỗng chốc tan tành.
Tại sao Lý Vệ lại thù hận Tra
Tự Đình đến thế? Câu chuyện chỉ do cô tiểu thư mà ra. Đình có đứa con gái tên
gọi Thiếu Vân, năm đó mười bảy tuổi, dung mạo tuyệt đẹp, lại phải cái hết sức
đa tình. Ngoài ra Đình còn nuôi một đứa trẻ mồ côi, con của một người bạn, tên
gọi Từ Ngọc Thành… Ngọc Thành lớn lên cũng hết sức bảnh trai, chơi rất thân với
Thiếu Vân. Thế rồi hai cô cậu đã ngầm ước việc chung thân với nhau.
Việc này, bà mẹ của Vân cũng đã
biết. Càng lớn, Thành càng khôi ngô tuấn tú lại chịu khó chăm học, mới mười sáu
tuổi đã đỗ tú tài. Còn Vân, sắc đẹp đồn dậy trong ngoài, ai biết cũng trầm trồ
khen ngợi.
Hồi đó, Lý Vệ với Tra Tự Đình
là bạn thân với nhau. Vệ nhờ người đánh tiếng cầu hôn Thiếu Vân cho con trai
mình.
Đình về nhà bàn tính với vợ,
Chúc thị mới đem nỗi niềm tâm sự của con gái nói cho chồng biết. Đình vốn cưng
con gái, không muốn gây đau khổ cho con, bèn cứ nói thực ra và cự tuyệt bên họ
Lý. Không ngờ, Vệ bèn đem lòng thù oán, lúc nào cũng chỉ tìm sơ hở của Đình để
trả hận. Đình là người có tính cao ngạo, không chịu chiều đời thì làm sao bảo
ông ta chịu khuất được. Rồi cũng từ đó, đôi bên nhạt nhau, và từ nhạt đến thù
kể cũng chẳng bao xa. Trước đó vài năm, chính Đình đã dâng sớ tố cáo Vệ nhưng
vì mả nhà Vệ còn vượng nên chẳng thể lay chuyển được y. Lần này, đến lượt Vệ báo
thù. Đình bị giam trong lao Hình bộ, chỉ còn đợi có thánh chỉ xuống là chính
pháp. Uất ức quá, Đình tắt thở ngay trong lao.
Ấy thế mà Ung Chính hoàng đế
cũng chẳng tha, vẫn bắt mang Đình ra băm xác để thị chúng. Tiểu thư Thiếu Vân
theo mẹ là bà Chúc thị bị sung quân lên miền Hắc Long Giang, dọc đường chịu
không biết bao nhiêu là đói rét khổ cực, may nhờ được Từ Ngọc Thành chung tình,
lo liệu giúp đỡ, hai mẹ con nàng mới được yên ổn tới nơi. Thành đem sở học ra
để dạy học nuôi thân, đồng thời nuôi sống cả hai mẹ con Thiếu Vân.
Sau khi án văn tự xảy ra, Ung
Chính hoàng đế rất lưu ý tới trước tác của bọn văn thân. Ngài dặn dò đám đại
thần tâm phúc sục sạo tra xét khắp nơi… Thế rồi, chỉ ít hôm sau, một án văn tự
khác lại đến. Đó là cái án Lục Mai Sinh. Sinh vốn là một nhân viên cung sự của
bộ Lễ. Nhân vì xét tâm lý của các vị vương thỉnh cầu phong vương kiến địa, Sinh
bèn sáng tác mười bảy Thiên "Thông
giám luận", nội dung nói chế độ phong kiến hữu ích như thế nào! Chế độ
quân quyền tệ hại ra sao? Có kẻ muốn thủ lợi bèn đem văn bản của Sinh đến mật
cáo với Thuận thừa quân vương Tiểu Bảo.
Thuận thừa quân vương được uỷ
thác của Ung Chính hoàng đế nhưng chưa tìm ra được vụ nào, nay vớ được bản văn
"Thông giám luận" này chẳng khác gì vớ được vàng. Nắm được
bằng chứng chắc chắn, Vương quan trọng hoá vấn đề lên, rồi viết sớ tâu:
"Thông giám luận" chỉ
là những lời lẽ của kẻ bất bình. Những lý lẽ trình bày về cái hay cái lợi của
triều đình đều láo xược tỏ ý mỉa mai rõ rệt tội thật khó dung ".
Ung Chính xem tờ sớ, nổi giận
đùng đủng, lập tức hạ chỉ kết án Lục Mai Sinh tà thuyết loạn chính, chém đầu
tức thì.
Lục Mai Sinh vừa bị giết xong,
chẳng ngờ hai vụ án văn tự khác lại xảy ra, gây náo loạn cả trong ngoài. Vụ thứ
nhất tại Chiết Giang, do bộ sách "Tây chinh tuỳ bút" của Uổng
Cảnh Kỳ. Nội dung của bộ sách này có nhiều lời lẽ phỉ báng triều đình hoàng
thượng, ca tụng Miên Canh Nghiêu. Viên địa phương quan tra ra, vội báo lên
triều đình. Một đạo thánh chi ban xuống hạ lệnh chém đầu Uổng Cảnh Kỳ, đồng
thời phát vãng vợ con Kỳ lên Hắc Long Giang sung quân. Thứ nhì là vụ thị lang
Tiền Danh Thế, vốn là tri gia của Miên Canh Nghiêu. Nghiêu còn sống, Thế sáng
tác rất nhiều thơ văn ca tụng. Những bài này sau cũng bị quan địa phương phát
giác và cấp báo về kinh. Lại một đạo thánh chỉ ban xuống kết tội. Thế là xuẩn
nịnh quyền quý, lập tức cách tuột chức tước, may mà thoát khỏi tội chết.
Ung Chính hoàng đế dùng những
thủ đoạn độc ác như vậy, tưởng rằng sẽ đàn áp được lòng người. Ai ngờ, hoàng đế
càng hung ác bao nhiêu thì nhân tâm càng phẫn nộ bấy nhiêu, khiến ngài lại càng
ăn ngủ không yên bấy nhiêu.
Nhân một hôm nhàn rảnh, Ung
Chính hoàng đế chợt nhớ tới tên đại đạo Ngư Xác vẫn chưa trừ được. Đây là một
mối lo lớn lúc nào cũng nơm nớp trong đầu. Ngài được tin Ngư Xác thường xuất
hiện tại Hổ Vi Sơn, vùng Hoài Bắc, đánh cướp bọn khách thương qua lại, bèn hạ
một mật chỉ cho tổng đốc Lưỡng Giang là Vũ Thành Thuỵ tới truy nã và nếu bắt được
lập tức chính pháp Ngư Xác.
Vũ Thành Thuỵ vốn là một tay cừ
khôi trong việc dẹp cướp. Thuỵ nhận thánh chi, lập tức cho tay chân bí mật dò
thám và được tin Xác ở ngay trong Hổ Vi Sơn, cũng lại biết Xác chỉ đánh cướp
của bọn tham quan ô lại, gian thương, ác bá mà thôi. Lúc trước Xác được Khang
Hi hoàng đế mời về triều để bảo vệ thái tử Dân Nhung. Về sau, khi thái tử bị
phế, Ung Chính hoàng đế đã có lần mời Xác về giúp, nhưng vì cảm, kích ân đức
của thái tử, Xác không chịu, đem người con gái tên gọi Ngư Nhương vào ở trong
Hổ Vi Sơn chuyên ra tay nghĩa hiệp giúp dân chúng địa phương dẹp bỏ những
chuyện bất bình. Do đó dân tình thảy đều cảm kích và hàm ơn Xác.
Nay được tin triều đình ban
lệnh truy lùng Xác, ai nấy đều vội đi báo tin ngay, Xác nghe xong chẳng đổi sắc
mặt, chỉ đem Ngư Nhương tới gửi một người bạn tên gọi Cầu Nhiêm Công.
Cách vài hôm tổng đốc Lưỡng
Giang đích thân tới gặp Xác. Gặp Thuỵ, Xác chẳng thèm úp mở gì, kể toạc ra Ung
Chính là người tàn bạo ra sao và mình một đời hành hiệp thế nào cho Thuỵ nghe.
Thuỵ cho Xác biết về vụ thánh chỉ ban xuống. Xác tuyệt nhiên không chút sợ hãi,
tự mình chạy tới nhà lao Giang Minh chịu giam cầm. Thế rồi vài ngày sau, trên
giới giang hồ đồn rầm lên rằng tên đại đạo Ngư Xác đã bị Lưỡng Giang tổng đốc
điệu từ lao ra chính pháp rồi.
Tin tức này loan đi, truyền đến
tai cô con gái Ngư Nhương khiến nàng khóc đến chết đi sống lại mấy lần. Và cũng
từ đó, nàng quyết chí báo thù cho cha, theo Cầu Nhiêm Công luyện tập võ nghệ để
chờ dịp hạ thủ. Đó là việc trong tương lai, ta hãy nán lại ít lâu.
Lại nói Ung Chính hoàng đế sau
khi đã giết được Ngư Xác thì trong thiên hạ coi như không còn ai là đối thủ
nữa.
Lòng ngài vô cùng khoan khoái.
Nào ngờ chẳng được mấy hôm, Tứ Xuyên tổng đốc Nhạc Chung Kỳ mật tấu Tăng Tính
người Hồ Nam kết đảng mưu phản. Ung Chính hoàng đế nghĩ uy vũ của mình đến thế
mà vẫn còn có tên Tăng Tính nào đó còn dám mưu đồ nọ kia thì lạ thật. Phải dùng
hắn làm tấm gương cho kẻ khác mới xong. Ngài bèn phái ngay hai viên đại thần,
một Mãn một Hán, tới Tứ Xuyên hợp lực với Nhạc Chung Kỳ để tra xét và dẹp bỏ vụ
này.
Tăng Tính là ai mà dám đối đầu
với Ung Chính hoàng đế như vậy? Xin thưa: Tăng Tính hiệu là Bô Trạch, vốn là
một kẻ sĩ có sở học uyên bác của tỉnh Hồ Nam. Tính thấy các vua quan nhà Thanh
áp bức dân Hán quá đáng, trong lòng phẫn hận, thường có ý nghĩ tập hợp bạn bè
cùng chí hướng khởi nghĩa, đuổi người Mãn, khôi phục lại Trung nguyên.
Một hôm, Tính gặp Trương Hy
cũng ngụ trong xóm. Hy vừa mượn được cuốn sách bình luận về thời cuộc do Lã Văn
Thôn sáng tác, nội dung quá nửa nói về sự khác biệt giữa Hoa và Di (Hoa là
Trung Hoa, Di là những quốc gia nhỏ chung quanh Trung Quốc như Mông, Mãn v.v…);
cũng nói cả về sự giao tỉnh giữa vua tôi phải như bạn hữu; lại nói cả đến việc
dọn dẹp bọn ngoại bang để cứu Trung Quốc, đó là sứ mệnh của người quân tử. Tóm
lại suốt cuốn sách, chỗ nào cũng có lời lẽ bài xích người Mãn. Tính xem xong,
không khỏi vỗ bàn khen tuyệt.
Lã Văn Thôn hiệu là Lưu Lương,
vốn một văn nhân nổi tiếng đất Hồ Nam. Học trò của Thôn rất đông, đều là những
người thành đạt cả. Khang Hi hoàng đế biết danh tiếng của Thôn, bèn phái người
tiến cử Thôn ứng thí vào Bác học hồng tư khoa. Thôn trong lòng ghét cay ghét
đắng người Mãn, bảo Thôn làm quan nhà Thanh sao được. Thôn liền cắt tóc đi tu,
rồi trốn biệt vào rừng sâu làm hoà thượng. Con trai Thôn là Lã Nghi Trung, cũng
người có chí khí. Trung nối chí cha, bèn cùng bọn môn sinh của cha mình như
Nghiêm Hồng Lục, Thám Tại Khoan, kết thành hội nhóm rồi đem tác phẩm của cha
sao chép thành nhiều bản để phân phát cho cả hội cùng đọc.
Trương Hy vì thế cũng sao được
một bản cất trong nhà. Khéo thay hôm đó Tăng Tính bắt gặp, xem xong lấy làm
khoái, bèn hỏi Lã Nghi Trung hiện ở đâu thì được Hy cho biết đang ở ngay trong
thành. Thế là ngay đêm đó, Tính bắt Hy đưa tới gặp Trung cho bằng được. Sau đó
Trung cũng mời Tính đến gặp một số anh em của mình. Từ đó, hai bên hợp một
thành một đảng lớn.
Tính một hôm nói với mọi người
là có biết Tứ Xuyên tổng đốc Nhạc Chung Kỳ và kế hoạch của mình là dùng ba tấc
lưỡi thuyết Kỳ dấy binh ở Tứ Xuyên, trong khi bọn Tính nổi đậy ở Hồ Nam để
hưởng ứng. Tất cả nghe xong vỗ tay cho là diệu sách và sửa soạn lên đường đi Tứ
Xuyên dụ thuyết…
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét