HỒI 99
Xét tội phản, vua nhớ ơn tôi, định tha,
Vẹn duyên lành, người hẹn với hoa, cùng rụng
Từ rằng:
1. Bề tôi phản nghịch, tội không tha
Thánh chúa cầm cân, luật chẳng tà
Phép nước dẫu nghiêm, ơn cũng nặng
Tử sinh đôi ngã: ái, nhân, hòa.
2. Rung rinh mai nọ trắng hoa
Thâm cung lạnh lẽo sao mà muốn rơi
Phải rằng hoa lại rủ người
Hồn thơm bay tới đền đài xưa chăng?
Theo điệu "Ức thiếu niên"
Cổ nhân nói: "Cầu trung thần tất ư hiếu tử chi môn", muốn có kẻ bề tôi trung phải tìm ở cửa nhà người con hiếu, ý nói rằng đã là con hiếu thì có thể làm tôi trung. Than ôi! Thờ cha mẹ không gì lớn bằng biết giữ thân mình, từ sợi tóc, cho đến móng tay, không dám để thương tổn. Thờ vua thì lại lấy điều tận tâm, quên cả thân mình làm đầu. Hai trách nhiệm này tưởng như khác nhau, nhưng thực ra là một. Đã là bất hiếu, thì lẽ đương nhiên cũng bất trung, mà đã tận trung, thì đấy chính là hiếu vậy. Ngày xưa, có những người không làm được tôi trung. Phận làm con gặp phải người cha như thế, chính là sự trừng phạt bởi tội lỗi kiếp trước. Huống chi lại được làm con của bề tôi danh tiếng, đời đời mang ơn xã tắc, mà đến khi gặp nạn nước, không nghĩ đến việc chết theo nước lại đem thân hàng giặc, vứt bỏ cả danh tiếng của gia tộc, làm nhục cả giang sơn, thì rõ ràng là kẻ phản nghịch của quốc gia, đồng thời là đứa con bất hiếu của gia tộc. Bất trung là bất hiếu vậy. Tội quả đáng chém đầu, dẫu đấng thiên tử nghĩ đến công quả của phụ thân, mà tha cho mạng sống, thì tiếng nhơ để đến vô cùng, dẫu sống đó nhưng khác gì chết. Lại chẳng được bằng kẻ phi tần, đã một lần bị đày ra lãnh cung, mà chẳng hề phụ ơn mưa móc của thánh thượng, trong lúc hoạn nạn, sợ thân mang nhục, thề lấy cái chết để giữ gìn lòng trung với đấng chí tôn. May được thần tiên cứu đỡ, trong cái chết lại tìm ra đường sống, để rồi ơn phúc lâu dài, hưởng tròn mệnh trời, đời sau ngợi ca như một tấm gương tốt.
Lại nói chuyện thượng hoàng đang trò chuyện cùng Mai Phi, thì có nội thị vào tâu:
- Muôn tâu thượng hoàng, chúa thượng dâng biểu chương trình thượng hoàng!
Minh Hoàng xem, chính là việc xét xử những quan viên theo giặc. Túc Tông lúc mới về Trường An, triều đình tâu soi đưa bọn này ra chịu chỉnh pháp, thì Đông bình chương sự Lý Hiện tâu rằng:
- Trước đây khi lũ nghịch tặc vào Trường An, thượng hoàng vội vã xuất bôn. Trăm quan không biết xa giá về đâu, nên mạnh ai nấy tìm lấy đường sống. Nhiều kẻ chạy không kịp, nên đành thất thân với tụi giặc, như thế thì so với những viên tướng võ, quan văn có trọng trách giữ thành, giữ đất mà can tâm hàng giặc thì quả là khác, nay cùng xếp vào một loại mà bắt tội chết cả, không phải việc làm của bậc nhân trí vậy. Hơn nữa đất Hà Bắc chưa bình xong, những người bị giam hãm ở đấy còn nhiều, nếu mà giết tất cả người bị hãm trong tay giặc, thì chính là lại cho những kẻ này quyết lòng theo giặc thôi!
Túc Tông nghe theo, liền đem những người này xét từng người mà khoan giảm khác nhau. Nhân bên pháp ty nhiều lần tâu trình đem ra trị tội, để làm sáng tỏ phép nước, thượng hoàng cũng cho rằng, đối với lũ giặc này, không thể coi thường mà khoan giảm tội lỗi. Túc Tông bèn đem chia tất cả lũ này ra làm sáu hạng để xử xét. Pháp ty xét thấy lũ Đạt Hề Tuân, gồm một trăm hai mươi tám đứa đều đáng chém đầu, gia quyến phải làm nô lệ trong các nhà quan. Lũ Trần Hy Liệt gồm bảy đứa, ban lệnh cho tự tận, còn lại thì hoặc lưu đày biếm trích hoặc phạt trượng, tùy từng tội trạng mà xử rõ ràng. Túc Tông chuẩn theo, nhưng trong số chịu tội chém, ý muốn tha cho hai người con của Yên Quốc Công và Trương Duyệt, là Hình bộ thượng thư Trương Quân và Thái thượng khanh phô mã đô úy Trương Tự.
Vì sao Túc Tông lại muốn ân xá cho hai người này? Cũng bởi vì khi Huyền Tông còn đương làm thái tử, Thái Bình Công chúa rất ghen tức, sớm tối theo dõi mọi chuyện xấu tốt ở Đông cung phủ để ton hót với Duệ Tôn: Bọn tay chân thân cận bên cạnh Duệ Tôn, đều về hùa với công chúa, ngầm làm tai mắt. Lúc ấy Túc Tông còn chưa ra đời, mẹ là Dương phi, vốn là hàng cung nga đẹp mắt của phủ Đông Cung mà thôi, ngẫu nhiên được ăn nằm với Long Cơ Thái tử mang thai. Cung nga họ Dương thấy thế mừng lắm, thưa với Long Cơ. Lúc này Long Cơ đang bị Duệ Tôn nghi ngờ, địa vị thái tử do đó bấp bênh, bèn tính toán: "Việc này mà Thái Bình Công chúa nghe được, lại đem ra làm đầu mối cho sự xấu xa, là ta ở Đông cung rất nhiều tỳ thiếp được chiều chuộng, xiểm nịnh ngay trước mặt phụ hoàng, chi bằng lấy thuốc thôi thai. Chỉ tiếc rằng không rõ là trai hay gái!". Tính đi tính lại, chẳng biết bàn bạc với ai. Trương Duyệt đương làm thái tử thị giảng, nên luôn được ra vào Đông cung phủ, liền đem chuyện này ra hỏi. Trương Duyệt bèn khuyên:
- Dòng dõi rồng thiêng, nào phải có thể dễ dàng vứt bỏ cho được!
Thái tử bèn đáp:
- Ta tuổi còn ít, đường con cái nối dõi nhất định chẳng thiếu, việc gì lo lắng vì một cái thai của lũ cung nga này, để rồi phải đối phó với lời ra tiếng vào, nhưng không thể cho tay chân ở đây biết được Xin tiên sinh hãy lo liệu hộ thì may mắn lắm!
Trương Duyệt đành vâng lời, về nhà nghĩ ngợi: "Cung nữ mang thai, nếu sinh con trai, chẳng thiên tử cũng vương tôn, nay mà coi thường bỏ đi; thì đáng tiếc bao nhiêu, biết đâu mai kia lại hối hận. Nhưng nếu như không nghe lời Đông cung, thì lời đồn xấu xa không thể tránh khỏi, ý Đông cung đã quyết như thế, khó mà cưỡng lại. Nay Đông cung đã ủy cho ta tìm thuốc, ta hãy tuân theo mệnh trời mà làm vậy. Cứ cắt lấy hai thang thuốc, một thang an thai, một thang thôi thai, đưa trình Đông cung tâu rằng đều là thuốc thôi thai, đợi đã dùng một thang rồi, nếu đúng là thang an thai, thì quả là mệnh trời chưa nỡ tuyệt, lúc ấy ta sẽ dùng lời lẽ mà khuyên Đông cung giữ thai lại vậy"
Đến ngày hôm sau, giấu kín hai thang thuốc trong ống tay áo, vào phủ trình:
- Đây đều là thuốc thôi thai rất hiệu nghiệm, xin hãy cứ cho uống một gói xem sao đã!
Thái tử rất mừng, đêm ấy đuổi hết tay chân, đặt lò thuốc ngay ở trong phòng ngủ, tiện tay lấy một gói thuốc, sắc rất cẩn thận, bưng đưa cho Dương Thị, nói rõ đầu đuôi, lấy lời ôn tồn khuyên nhủ. Dương Thị vốn không đang, nhưng không dám trái mệnh thái tử, đành vừa khóc vừa uống kỳ hết. Thái tử thấy uống xong, yên tâm thế nào thai cũng ra, chẳng ngờ bụng dạ Dương Thị vẫn chẳng động đậy, mà lại còn yên ổn là đường khác, ngủ thẳng một mạch cho đến sáng, bởi được uống thuốc an thai vậy?
Thái tử lấy làm kỳ lạ, ngày hôm ấy phải vào nội cung hầu yến với Duệ Tôn nên chưa kịp gặp Trương Duyệt, mãi đến tối mới được quay về Đông cung phủ, lại đuổi hết tả hữu, đặt lò, nấu nốt gói thuốc còn lại. Nấu sắp được, bỗng thấy trong người mỏi mệt, lim dim ngủ gật, tâm thần mơ mơ màng màng, trên mái điện cô một luồng ánh sáng đỏ rực lấp lánh, trong khoảng sáng rực rỡ đó, hiện lên một vị thần, hình dáng quả là:
Mắt đỏ râu dài
Mày tầm mắt phượng
Mình cao khoảng hơn trượng, mặc áo gấm thêu màu xanh.
Lưng rộng chừng mười vi, thắt đai tơ nạm ngọc trắng
Thần uy lẫm lẫm
Tướng mạo hùng hào
Ngờ rằng Đại Hán Thọ Đình Hầu
Đúng thật Tam giới Phục Ma Đế.
Vị thần lượn quanh trên hỏa lò một vòng, rồi không thấy đâu nữa. Thái tử kinh hoàng, đứng dậy xem xét, thì thấy siêu thuốc lăn quay, than lửa trong lò đã tắt ngấm cả, lấy làm kinh hãi vô cùng.
Ngày hôm sau, Trương Duyệt vào phủ, thái tử kể lại chuyện đun hai lần thuốc thế nào, rồi lại lệnh cho tìm thuốc khác. Trương Duyệt bái lạy chúc mừng, rồi thưa rõ ràng:
- Đây chính là thần thánh phụ hộ bậc con rồng cháu thánh vậy. Vốn trước thần đã nói dòng giống thánh đế không thể xem thường, nhưng chỉ sợ phạm uy của điện hạ, nên mới thử xem mệnh trời đoán định ra sao. Hai gói thuốc hôm nọ thần dâng lên một gói là thuốc an thai, tức là gói uống đêm hôm trước. ý thần là để mặc điện hạ chọn lấy một gói, ở bên trong đã có số trời định sẵn, ngược lại chuyện thôi thai lại thành an thai. Lần thứ hai định cho uống gói thôi thai, thì lại có thần linh xuất hiện cứu đỡ. Ý trời như thế đã rõ. Dẫu điện hạ có lo chuyện dèm pha đi nữa, thì vẫn còn có mệnh trời. Kẻ đang còn trong bụng kia, rõ ràng không phải bậc tầm thường. Còn phải giữ gìn chu đáo vậy?
Thái tử nghe theo, bỏ ý định phá thai, nên lại nói riêng với Dương Thị phải giữ gìn cẩn thận. Dương Thị thường thèm ăn của chua, thái tử không sai bọn tay chân, nói riêng với Trương Duyệt. Trương Duyệt mỗi lần vào Đông cung phủ giảng sách, thường giấu mơ chua, dưa chua để dâng lên. Lại mừng là thai rất khỏe mạnh.
Chẳng bao lâu Duệ Tôn cho Thái tử Long Cơ lên ngôi, tức Đường Huyền Tông. Đến năm sau Thái Bình Công chúa vì mưu thoán nghịch mà phải chết, trong cung trở nên yên ổn. Túc Tông ra đời, ngay từ nhỏ đã tỏ ra tuấn tú khác thường, trước mắt các quan đại thần, Trương Duyệt khéo léo rất giống Đường Thái Tông Lý Thế Dân, vì vậy Thái thượng hoàng Duệ Tôn rất vừa ý, phong ngay làm Trung Vương. Đến khi thái tử Anh bị phế, liền được Huyền Tông lập làm Thái tử.
Chính là:
Xây nền đắp gốc tự trong thai
Gìn giữ vuông tròn ấy thật tài
Vóc dáng thật như ông nội lắm
Đông cung ngôi báu hẳn lên ngay
Trương Duyệt vì vậy trong những năm Khai Nguyên, rất được nể vì. Đến khi Túc Tông lên ngôi, Dương Thị đã chết, được phong là Nguyên Hiền Hoàng hậu, Dương Thị thường ngày vẫn đem chuyện mang thai lạ lùng của mình kể cho Túc Tông nghe, Túc Tông do đó rất đội ơn Trương Duyệt. Hai người con của họ Trương: Trương Quân, Trương Tự, từ nhỏ là bạn thân cùng vui chơi, ăn uống với Túc Tông, chẳng khác gì anh em ruột. Trương Duyệt chết rồi, hai người đều làm quan cao, Trương Tự được kén làm phò mã, ân sủng tưởng chẳng ai hơn. Không ngờ vì theo Lộc Sơn mà phải tội chém. Túc Tông bởi không quên ơn cũ, cũng muốn tha tội, nhưng vì đã có ý của thượng hoàng rằng lũ quan viên theo giặc, không thể coi thường mà tha tội, nay nếu đặc xá cho hai người này, nhất định không dám không tâu lên Minh Hoàng, may ra Minh Hoàng nghĩ đến chuyện xưa mà bằng lòng chăng? Không ngờ thượng hoàng xem xong biểu tâu, liền ngự phê ngay rằng: .
"Trương Quân, Trương Tự đội ơn sâu của quốc gia, nhưng tán tận lương tâm mà theo giặc, quả thật phản thần của triều đinh, đúng là con ngỗ nghịch của Trương Duyệt, tội không thể tha được. Ta nay đã già rồi, chẳng muốn thay đổi công việc của triều đình làm gì, nhưng việc giết kẻ phản nghịch, trừng trị kẽ tội lỗi là lẽ trọng của phép nước, chỉ có thể tuân theo, không thể lấy tình riêng mà làm sàng bậy, phải chiếu theo nghị luận rõ ràng của pháp ty mà làm vậy thôi!
Vì sao thượng hoàng lại không bằng lòng tha cho hai người này. Cũng có nguồn cơn cả. Nguyên là xa giá lên đường đi Thục, khi tới Hàm Dương, Huyền Tông quay lại hỏi Cao Lực Sĩ:
- Trẫm ra đi chuyến này, trăm quan phần lớn đều chưa biết ngay, nên số đi theo còn rất ít. Khanh hãy đoán ai là người sẽ theo trước tiên nào?
Lực Sĩ thưa:
- Những bậc lâu nay, chẳng bao giờ ăn ở hai lòng, nhất định đều sẽ đi theo. Chỉ có Thị lang Phòng Quán người người vẫn đồn. sẵn tài làm tể tướng, nhưng vẫn chưa được triều đình cất nhấc, nhất là được An Lộc Sơn tiến cử nữa, nay sợ sẽ không theo. Còn thượng thư Trương Quân, phò mã Trương Tự, chịu ơn dày của hoàng gia, lại hàng quốc thích, tất sẽ đến với bệ hạ đầu tiên vậy.
Huyền Tông mỉm cười, lắc đầu:
- Chuyện này thì không chắc chắn đâu!
Xa giá đến Tấn An, Phòng Quán theo đến lạy chào trước xe, Huyền Tông cúi xuống hỏi:
- Khanh có thấy Trương Quân, Trương Tự ở đâu không?
Phòng Quán thưa:
- Thần đã hẹn cùng lên đường. Nhưng họ do dự chẳng quyết, thần xét ý tứ có vẻ khác thường.
Huyền Tông quay lại nói với Lực Sĩ:
- Trẫm vốn biết hai người này là hạng hèn hạ, tham lam lại bất nghĩa mà lại.
Lực Sĩ thưa:
- Lũ này chịu ơn dày nặng đến thế mà còn ăn ở hai lòng, thì quả là khó mà liệu tính được lòng người vậy!
Từ đó thượng hoàng thường nguyền rủa hai người này không tiếc lời nên giờ không chịu ân xá cho. Túc Tông được chỉ, lòng vẫn không yên, thân tới Hưng Khánh cung, yết kiến thượng hoàng, tâu rằng:
- Thần đâu dám vì tình riêng mà làm bại hoại phép nước. Nhưng thần nghĩ rằng trước đây nếu không có Trương Duyệt, thì làm gì có thần ngày nay. Vì vậy không thể không uyển chuyển ít nhiều để khoan ân cho lũ con cái, cúi xin phụ hoàng hãy đặt ra ngoài phép nước, mà thương cho ít nhiều.
Thượng hoàng vẫn không bằng lòng. Mai Phi đứng bên cạnh đỡ lời:
- Nhà họ Trương cả hai con đều phải hứng chịu phép nước, quả là Yên Quốc Công mai này không người tế lễ, thật cũng ái ngại quá chừng. Huống chi Trương Tự lại là phò mã, hoặc có thể vin vào việc thân thích mà khoan giảm cho ít nhiều chăng (1)
1 Pháp luật phong kiến quy định "Bất nghi", là tám trường hợp phạm tội mà được khoan giảm: Nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quý, nghị cần, nghị tân (Hán Việt tân tự điển). Đây chính là vận dụng "uyển chuyển" trường hợp nghị thân!
Túc Tông hai ba lần năn nỉ, thượng hoàng mới phán:
- Ta nể mặt kim thượng, mà khoan ân cho Trương Tự, còn Trương Quân, ta còn nghe y dẫn bọn phản nghịch lùng sục khắp cung cấm, phá đổ bao cung điện của ta, quyết không thể sống.
Túc Tông không dám nói gì nữa, tạ ơn lui ra. Thượng hoàng ngay hôm ấy liền ban chiếu:
"Trương Quân, Trương Tự đáng tội chém là đúng. Nay theo ý của kim thượng thì Trung Quân đem chịu chính pháp, còn Trương Tự tha cho mà đày ra miền Lĩnh Nam.
Tên Đạt Hề Tuân, khi giặc An Lộc Sơn hiến ngựa, có dâng mật biểu can gián, nên nay chỉ chém một mình y, còn toàn gia quyến thì cho khỏi tội vào làm nô lệ trong nhà quan.
Các việc khác như lời nghị xét mà làm."
Chiếu ban xuống, pháp ty cứ thế thi hành, Trương Quân cùng lũ Đạt Hề Tuân đều phải đem ra chịu chém ở chợ.
Chính là:
Ngày xưa Diều Sùng chết
Sai bảo được Trương Duyệt
Ngày nay Trương Duyệt chết
Không cứu được Trương Quân.
Hồi trước, khi Trương Duyệt khởi công làm phủ đệ của mình, có một nhà sư giỏi thuật phong thủy, tên gọi là Pháp Hoàng, đến xem quy mô của phủ đệ, nói rằng:
- Miếng đất này rất tốt, phú quý nối đời này sang đời khác không hết. Nhưng nhất định không lấy đất ở góc tây bắc kia, dù ít cũng không dược?
Trương Duyệt lúc ấy cũng không để ý lắm đến lời dặn dò này, chẳng hề nhắc nhở người nhà. Mấy năm sau. Pháp Hoàng quay lại, kinh ngạc nói:
- Cớ sao khí tượng ở đây giờ sa sút khác thường, tất là có kẻ đã đào đất ở góc tây bắc rồi đây mà!
Vội vàng ra xem, quả nhiên bọn người làm đào đất ở đây để đổ nền, khoét thành ba bốn hố rất lớn, hố nào cũng sâu đến mấy thước cả. Trương Duyệt vội sai người khiêng đất lấp lại như cũ, Pháp Hoàng phán:
- Đắp lại như thế có ích gì! Đất mượn làm gì có khí sắc như cũ được!
Vì thế thở than mãi không thôi, nhưng Pháp Hoàng chỉ nói riêng với người khác rằng:
- Trương đại nhân phú quý chỉ hưởng đến đời mình là hết, hai mươi năm sau, bọn con cái khó mà giữ được cho toàn mạng, chứ đừng nói gì giàu sang.
Đến nay, những lời này quả nhiên là đúng. Đời sau có người làm thơ cãi rằng:
Tai vạ chẳng vì đất đắp nền
Đừng tin nhảm nhí, nói quàng xiên
Làm ăn chính trực, tâm trong sáng
Lòng người yên thì thổ trạch yên.
** *
Nhàn rỗi, nói miên man, lại quay lại chuyện Đường Minh Hoàng ở cung Hưng Khánh, công việc triều đình đều không nhìn đến nữa, duy chỉ có việc gì thật lớn, như kéo quân đi đánh dẹp, thi hành những hình phạt lớn, phong thưởng cao, Túc Tông đều có dâng biểu tâu trình. Lúc này, Túc Tông đã lập em gái Trương Lương làm hoàng hậu.
Trương Hoàng hậu quả là không chút hiền lành, từ thuở theo Túc Tông trong quân doanh, thường vẫn kín đáo cờ bạc vui chơi với Túc Tông ngay trong trướng, tiếng ầm ĩ ra cả bên ngoài nghe rất rõ, mới mật sai khắc những con cờ, con xúc xắc bằng gỗ để không nghe rõ tiếng kêu. Tính tình Trương Hoàng hậu vừa giảo hoạt vừa thông tuệ nên rất vừa lòng Túc Tông, đến khi được lập thành hoàng hậu, vì vậy dễ áp chế nhà vua, lại nương dựa vào hoạn quan Lý Phụ Quốc. Phụ Quốc tiến dẫn theo một loạt bọn cùng cánh như Ngư Triều Ân, Thời An...
Cũng bởi loạn An - Sử chưa diệt hết, nên lệnh cho Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng chín viên tiết độ sứ mãi kéo binh tiễu trừ kỳ hết. Lại thấy bọn hoạn quan Ngư Triều Ân làm Quang quân dung sứ giám sát tất cả quân đội, quân sĩ không phục. Đến lúc ra trận, lại không may gặp trận gió lớn nổi mù trời tối đất, tất cả các toán quân đều thua chạy toán loạn. Quách Tử Nghi đem quân Sóc Phương, chặt cầu Hà Dương để giữ lấy Đông Kinh. Túc Tông nghe theo lời Ngư Triều Ân, triệu Quách Tử Nghi về triều, sai Lý Quang Bật thay.
Lúc Quách Tử Nghi lên đường về kinh sư, trăm họ khóc lóc lăn ra đường giữ lại, Tử Nghi phải cưỡi ngựa không, bỏ cả xe mà về Trường An. Thượng hoàng nghe tin, sai người nói miệng với Túc Tông:
- Hai tướng Lý, Quách đều có công lớn, nhưng công của họ Quách còn lớn hơn cả công họ Lý, phục hưng nhà Đường vừa qua, đều là công lao của họ Quách. Thất bại vừa rồi chỉ bởi không được tự quyết đoán mọi sự, chứ thực ra chẳng có tội gì.
Túc Tông vâng mệnh, nên khi ban lệnh phong thưởng, thì Lý Quang Bật được phong làm Thái úy Trung thư lệnh, Quách Tử Nghi được phong Phần Dương Vương. Phú quý mà Tử Nghi được hưởng này, chẳng ai là người dám ghen tỵ. Ngay cả khi còn nắm quyền hành rất lớn, cai quản cả quân đội triều đình, giữa lúc có chiến trận ở ngoài hành doanh, mỗi lần có chiếu thư, biểu chương đều nói, đều làm rất minh bạch, thẳng thắn, vì vậy chẳng ai có thể hiềm khích, chê bai. Con trai Quách là Quách Ái, đời Đường Đại Tông, được lấy công chúa Thăng Bình, mỗi lần vợ chồng cãi nhau, Quách Ái chửi công chúa:
- Mày cậy cha mày làm thiên tử phải không? Cha ta coi ngôi thiên tử không đáng, nên chẳng thèm làm đấy thôi!
Thăng Bình Công chúa bèn đem những lời này mách lại Đại Tông, Tử Nghi bèn nhốt Quách Ái lại, chờ chịu tội. Đại Tông biết chuyện, nhưng lệnh dẹp đi không hỏi đến, vẫn sợ Tử Nghi trong lòng thấp thỏm không yên, bèn ban lời phủ dụ rằng:
- Chẳng đui chẳng điếc, thì làm sao thế nào mà thông gia với nhau cho được. Những lời của bọn nhi nữ, thiếu niên ở trong buồng ngủ, chẳng hơi đâu mà nghĩ ngợi cả!
Mấy đời đối xử ơn nghĩa đến thế. Tử Nghi những năm cuối, xin về nghỉ ở phủ riêng, lấy chuyện thanh sắc làm vui, các tướng dưới trướng ngày xưa, ra vào ăn ngủ tùy thích, Tử Nghi đều đối xử rất thoải mái, như lúc còn gian lao. Tử Nghi có tới bảy con trai, tám con rể, tất cả đều làm quan hiển hách. Trong nhà, của quý chất như núi, hưởng thọ tới tám mươi lăm tuổi, mãi tới năm thứ hai hiệu Kiến Trung, đời Đường Đức Tông mới khuất núi, được triều đình đứng ra làm lễ tống táng, ban tên thụy, thật đúng là "Phúc thọ song toàn, sinh vinh tử ai!" (1)
1 Hưởng phúc, sống lâu, cả hai đểu vẹn toàn, sống thì vinh hiển, chết thì được thương xót, cúng tế.
Sách "Đường sử , nói rất đúng, rất hay rằng: "Ròng rã ba mươi năm trời, thiên hạ an hay nguy, đều lệ thuộc vào sự cống hiến của Quách Tử Nghi. Công nghiệp vậy quả là bao trùm cả thiên hạ, mà thiên tử không chút nghi ngờ. Ngôi bậc như vậy là đứng trên cả trăm quan từ lớn đến nhỏ, mà người người không chút ghét ghen. Hưởng thụ cùng cực xa hoa mà không hề có một lời chê trách. Một công thần cả bốn chữ: Phú, Quí, Thọ, Khang đều đủ như thế, quả là từ xưa đến nay, chưa có ai hơn?"
Nhưng đó là chuyện sau này, để khỏi phải nói lại mà thôi. Hãy tiếp chuyện Đường Minh Hoàng ở Hưng Khánh cung thường nghĩ tới công lao của Quách Tử Nghi, nhân đó phán rằng:
- Tử Nghi thuở ban đầu mà không gặp Lý Bạch, tính mạng cũng chẳng giữ nổi, nói gì đến chuyện kiến công lập nghiệp. Thế mới biết Lý Bạch có con mắt thấy rõ bậc anh hùng, chứ đâu phải chỉ là kẻ thư sinh, chỉ biết mỗi chuyện văn tự thôi đâu.
Lúc này chính là lúc Lý Bạch vì dính dáng với Vĩnh Vương Lý Lân mà phải đi đày mãi Dạ Lang. Thượng hoàng liền xuống đặc chỉ ân xá cho trở về rồi giục triều đình ban quan tước cho ngay, thì nghe tin đã qua đời rồi. Thượng hoàng than thở mãi không thôi.
Mai Phi thường nghe thượng hoàng ngợi ca tài năng của Lý Bạch, nhớ chuyện trước kia, nói riêng với Cao Lực Sĩ rằng:
- Ta trước kia đã từng mong đem nghìn vàng để mua một bài phú, bắt chước như bài "Trương Môn phủ" của Tư Mã Tương Như, người nói rằng thiên hạ hiện nay chẳng có ai có tài như vậy, từ chối không chịu thuê cho ta. Thế Lý Bạch này thì sao? Chẳng nhẽ không bằng Tương Như?
Lực Sĩ thưa:
- Lúc bấy giờ Lý Bạch chưa vào Trường An, thì kẻ hèn này tìm đâu cho ra được. Vả lại Dương Quý Phi đang được thượng hoàng rất sũng ái, chẳng thế nào lấy chữ nghĩa văn chương mà giằng cho ra được. Nếu làm được việc ấy, thì bài "Lâu Đông Phú" của nương nương, há chẳng phải tuyệt diệu, nhưng rồi cũng có làm nên chuyện gì đâu?
Mai Phi gật đầu:
- Người nói cũng có lý vậy!
Nội thị vào tâu, Giang Nam thứ sử dâng hoa mai đã về đến kinh sư. Nguyên là từ khi Mai Phi được quay lại hầu hạ thượng hoàng, thì bốn phương lại theo lệ cũ tiến hoa mai. Nhưng Mai Phi có hoa mai của tiên cho, thì những thứ mai của trần gian đều trở thành bình thường. Cành tiên mai này, quả là nở suốt cả bốn mùa, hương càng ngày càng ngát thơm, sắc càng ngày càng trong trắng. Mai Phi lúc nào cũng để ngay cạnh thưởng ngoạn.
Bỗng một hôm sớm dậy, thấy mùi hoa chỉ còn thoang thoảng, sắc hoa cũng có vẻ tiều tụy, cầm lên khẽ rung nhè nhẹ, thấy từng cánh, từng cánh bay lượn, rơi xuống nền điện, Mai Phi kinh hãi kêu:
- Tiên sư đã dặn rằng: Ta cùng với hoa là một mệnh, cùng sống chết với nhau. Nay hoa đã tàn rồi, mệnh ta cũng đã rõ!
Từ đó trong lòng thảng thốt không yên, chẳng mấy chốc thành bệnh, nằm dài trên giường không dậy dược nữa. Thái y viện bắt mạch xem bệnh, cắt thuốc dâng lên. Mai Phi không chịu uống, mà rằng:
- Mệnh số sắp hết, há thuốc hay có thể vãn hồi được sao!
Thượng hoàng thân ngự thăm, ngồi trên giường, vuốt ve khắp người, cầm tay mà an ủi:
- Khanh bỗng nhiên mắc bệnh, có gầy thêm ít nhiều, chỉ cần chịu khó uống thuốc là lại lành bệnh mà thôi!
Mai Phi khóc mà thưa:
- Thần thiếp từ ngày lui về cung Thượng Dương, tự coi mình là kẻ bỏ đi rồi, sau đó gặp bao hoạn nạn, những tưởng tính mệnh chẳng còn. Không ngờ vẫn còn được sống để hầu hạ đấng chí tôn, thật đã là vạn phần may mắn. Nay phúc duyên đã hết, tiên sư đã nói: cùng hết mệnh với hoa mai. Thế thì rõ ràng đã đến kỳ rồi. Sau khi thiếp chết, cành mai kia có giữ lại nhân gian, cũng chẳng trồng được. Đem mà chôn theo, sợ không kính cẩn, tốt hơn cả hãy đem ra trước Phật đường mà đốt.
Thượng hoàng vẫn phán:
- Khanh nói những chuyện ấy làm gì vội!
Mai Phi lại thưa:
- Người ta ai mà chẳng chết, đến nay thiếp qua đời, có thể gọi là toàn mệnh rồi vậy. Thật quả còn hơn nhiều người lắm. Huống chi thiếp mất nhưng tinh thần chẳng hề hủ nát, lại nhận vào miền tiên cảnh, nhất định chẳng thể khổ sở. Chỉ hận rằng, ơn thánh đế dồi dào, dẫu có nghĩ tới báo đáp cũng chẳng xong, thật không lúc nào khuây!
Thượng hoàng tiếp:
- Khanh trong sạch thông tuệ đến thế, đúng là bậc thần tiên rồi. Nhưng do đâu mà khanh biết rằng mai sau khanh sẽ được về tiên cảnh?
Mai Phi đáp:
- Đêm hôm trước thiếp nằm mơ, lại gặp tiên cô Vi Thị, ngay trong mây trời, tay đỡ một con chim anh vũ trắng, tay kia chỉ vào chim mà nói với thiếp rằng: "Con chim này nhân túc duyên thiện quả mà được từ trong cung vua về Phật. Nay lại được từ nước Phật mà về miền tiên cảnh. Tại sao mà người lại không được như chim sao. Quý Phi hai kiếp vừa qua thác sinh vào cung vua, phải luôn nhớ vào nguồn gốc của mình, đừng luyến tiếc gì nữa cõi trần, cung Nhụy Châu vốn là quê quán của Quý Phi, sao không sớm về?". Cứ như những lời này, thì may ra không đến nỗi rơi xuống hố xấu xa vậy!
Thượng hoàng rơi nước mắt:
- Khanh bỏ cả trẫm về tiên cảnh như thế, thì những năm cuối đời này, trẫm còn sống với ai?
Mai Phi cúi lạy trên gối:
- Nguyện thượng hoàng "thánh thọ vô cương", xin đừng vì chuyện ra đi của thần thiếp mà làm đau lòng!
Nói xong ngồi ngay dậy, giơ hai tay vái lên không trung, mà kính cẩn:
- Tiên cô tới rồi! Thiếp xin đi đây?
Rồi nhắm mắt qua đời.
Chính là:
Dẫu xưa thác dưới gốc mai
Mã Ngôi nỗi ấy thương ai vật vờ
Mừng nay người rụng theo hoa
Nhụy Châu cung, gặp Phật bà, Tiên Cô.
Thượng hoàng không ngờ Mai Phi ốm thế mà đã qua đời, ôm mặt khóc lớn. Cao Lực Sĩ ra công khuyên giải. Thượng hoàng phán:
- Mai Phi cùng với trẫm, chẳng khác nào duyên nợ mấy kiếp với nhau rồi, nay bỏ trẫm mà đi như thế này, không đau xót làm sao được!
Liền lệnh cho lấy lễ Quý Phi mà khâm liệm, mai táng cho Giang Thái Tần. Lại sai trồng rất nhiều hoa mai xung quanh mộ, ban cho cỗ tế, tự làm một văn tế, đại lược như sau:
Dung nhan nàng chừ, như hoa xinh tươi
Đức độ nàng chừ, như ngọc sáng ngời
Ta không quên nàng, gửi tình riêng vào vật báu
Nàng chẳng phụ ta, trao mạng đẹp vào cõi không
Như ngọc trong lóng lánh
Như đá cứng trung trinh
Nàng bỏ ta mà đi chừ, như cánh mai phơi phới
Ta một mình ở lại chừ, như hồn bướm vật vờ.
Thượng hoàng nhớ lời dặn dò của Mai Phi, liền sai đem cành tiên mai, lấy đỉnh hóa trước Phật đường. Nói ra thì thật kỳ quái khó tin, cành mai vừa đưa vào lò, mùi hương bỗng tỏa ngát, hàng vạn đốm lửa nhấp nháy, bay thẳng lên không trung, chẳng khác gì đốt một đống lửa lớn. Những đốm lửa lấp lánh đó, đều mang hình hoa mai, bay cao rồi biến mất vào chín từng mây.
Chính là:
Giống tiên không ở lại trần
Hoa mai lại trở về sân Diêu Trì. (1)
Sau này, có người nhân chuyện cành mai khô này bỏ vào thiêu trong lò, biến thành hàng vạn đóa hoa mai bằng lửa, có làm một bài văn để làm vui, lời lẽ rất trau chuốt, xin phụ chép ra đây luôn:
Trời lạnh, bình đồng, nụ nở chưa(2)
Cành nam chầm chậm, gió xuân chờ
Hoa lê lối ấy, đừng vào mộng (3)
Một tấm lòng, thành một nắm tro
Nhớ hoa xưa:
Ẩn kín trong lò hóa của Phật tổ
Hiện rõ trước linh vị của Tiên Mai
Vốn quê ở núi La Phù, (4)
Về trồng ở miền Dứu Lĩnh (5)
Hình khô như que củi, gồ ghề này núi kia đầm (6)
Da mượt hơn mỡ đông, óng ánh ấy sương hay tuyết
Giữa đông giá rét, đứng trong tranh tam hữu hiên ngang (7)
Xuân mới ôn hòa, chiếm đầu nhóm bách hoa chững chạc (8)
Lều tranh gác ngọc, không chút bận lòng
Điều vạc nêm canh, còn khi kết quả (9)
Ai ngờ đạo trưởng chậm bước, vội lìa gốc bẻ mà cất bước.(10)
Cũng do mưa gió dập vùi, nên đành trở lại nước Hoa Tư (11)
Xương lò than gọi hoài không tỉnh
Hòn cắt giấy hú mãi chẳng về
Màn mỏng đêm dài, lẩn quẩn tìm hương trong giấc mộng
Rèm che trăng sáng, đu đưa giỡn bóng trên đầu cành
Dạ đá lòng gang, Tống Quảng Bình tĩnh kia khó dứt (12)
Tô xanh bôi đỏ, Hoa Quang Lão gắng vẽ chẳng nên (13)
Buồn sao tơi tả một cành xuân
Mừng gặp Nát Bàn ba kiếp lửa (14)
Hỡi người quân tử quý hoa khắp cõi thấp cao
Tìm kiêm hồn thơm nay ở nơi nao! (15)
Ôi! Thôi thôi! Ví không thơ thẩn mà theo gió đông
Hẳn đã dập dờn trên dòng trăng lạnh.
1 Diêu Trì: Ao bằng ngọc. Chỗ ở của bà tiên Tây Vương Mẫu.
2 Theo Trương Công Phủ: muốn thưởng thức hoa mai cho trang trọng, phải có đủ hai mươi sáu điều kiện: phải có bình bằng đồng mà cắm, phải có mưa phùn lạnh, phải có trăng sáng, phải có người đẹp, trời phải có mây mỏng nhẹ che...
3 Thơ Vương Kiến, "Lê hoa mộng" có câu: "Lạc, hạc, mạc mạc lộ bất phân; Mộng trung hoãn tác, lê hoa vân” (Mịt mù, mơ màng, đường không rõ ràng; Trong giấc mộng, bảo rằng là mây của hoa lê).
4 Sách "Long thành lục": Đời Khai Hoàng nhà Tùy, Triệu Sử Hùng đi chơi núi La Phù, đến một quán rượu, có người con gái ra vời, lại thêm một tiểu đồng múa hát. Sử Hùng say ngủ mãi, sáng mai tỉnh dậy thì thấy mình ngủ dưới một gốc mai.
5 Sách Quyện du lục: Một phụ nữ trồng nhiều cây hoa mai ở Dứu Lĩnh, cùng chồng quay về thăm, mai đã thành rừng, do đó núi này cũng có tên là Mai Lĩnh.
6 các nhà thơ xưa thường tả mai gầy như dáng người phụ nữ: "Mai cốt cách, tuyết tinh thần", truyện Kiều. Cổ thi: "Nhân gian na hữu thử cù tiên” (Trên trần sao lại có cô tiên xù xì thế), chỉ Vỏ Cây mai xù xì, nham nhở.
7 Truyền thống vẽ tranh Trung Quốc: ba cây chịu được lạnh mùa đông: mai, tùng, trúc.
8 Cổ thi: “Thả hướng bách hoa đầu thượng khai” (Hãy cứ đi trước trăm loài hoa mà nở hoa trước đã).
9 “Kinh Thư”, thiên "Duyệt mệnh", vua Cao Tông nhà An, nói với tể tướng Phó Duyệt. Về việc nấu canh, nêm canh thì nhà ngươi sẽ là muối, là mơ.
10 Sách "Quần phương phả". Hoa Quan Trưởng lão vẽ mai. Hoàng Lỗ Trực xem bức tranh rồi khen: "Như buổi sáng đầu xuân, trời vẫn còn rét, mà đi men theo bờ rào cạnh dòng suối nhỏ dưới chân núi Cô vậy thay".
11 Thần thoại Trung Quốc kể: Bà Hoa Tư dẫm lên một vết chân người rất to, có mang mười hai năm, đẻ ra ông Phục Hy. Hoa Tư cũng là tên nước cổ đại dân chúng sống rất yên hàn, hòa mục. Ý hai vế này thực ra không rõ lắm. Xin dẫn nguyên văn như sau: "Bất liệu đạo nhân kiên vãn, trục ly hữu sắc chi căn; Phù hà băng thị tương lăng, để phản Hoa Tư chi quốc".
12 Sách “cổ kim hợp bích”: Tống Quảng Bình làm tể tướng, dáng dấp cứng cỏi. Mọi người cho ông là dạ đá gan sắt, chẳng có tình cảm gì. Nhưng khi đọc bài "Phú hoa mai" của ông thì lời văn đẹp đẽ, mới lạ, không giống với vẻ người.
13 Xem chú thích trước, nhưng ý lại nói, dẫu có tài như Hoa Quan Trường lão cũng khó mà vẽ được cái thần của hoa mai.
14 Nguyên văn: "Xà bì tam muội hỏa". Xà bì, tiếng Phạn, theo kinh Phật, nghĩa là đốt cháy.
15 Lâm Bô, người đất Tiền Đường; tự Quán Phúc, ưa thanh đạm, không màng danh lợi, ẩn tại Cô Sơn, hai mươi năm liền không bước chân tới thị thành, thơ hay, chữ tốt, vẽ đẹp, không lấy vợ, trồng nhiều mai, nuôi hạc. Người đời nói về Lâm Bô: "Mai là vợ, hạc là con” . Nay ở Tây Hồ còn mộ, trên mộ trồng mai, cạnh là mộ của hạc. (Điển cố văn học).
Lại kể, Túc Tông nghe tin Mai Phi đã mất, hoàng thượng rất buồn rầu, liền tự thân đến an ủi, kính cẩn làm lễ tế trước linh vị Mai Phi. Các phi tần, cung nga đều mang lễ tới viếng. Chỉ có Trương Hoàng hậu, thác bệnh không chịu đến. Thượng hoàng bực bội, không bằng lòng, nói với Cao Lực Sĩ:
- Hoàng hậu ngạo ngược đến thế thì thôi!
Lực Sĩ khẽ tâu:
- Nội giám Lý Phụ Quốc cùng về hùa với hoàng hậu, phàm những việc tai quái của hoàng hậu, đều là do Phụ Quốc dẫn dắt cả thôi.
Thượng hoàng ngạc nhiên:
- Trẫm từ lâu đã nghe thằng hèn hạ này chuyên quyền tai quái lắm. Đợi lúc nào đức kim thượng lại đây, trẫm phải nói cho rõ mới được.
Lực Sĩ thưa:
- Hoàng hậu áp chế đức vua đã lâu, Phụ Quốc lại nắm quyền bính trong tay, thế lực như vậy chẳng thể lung lay đâu, đến đức vua chẳng làm gì được. Thượng hoàng có nói cũng vô ích, chi bằng hãy gác ngoài tai đừng bàn luận gì lại hơn.
Thượng hoàng trầm ngâm không đáp.
Chính là:
Vợ ngược, đứa ớ ác
Chả thuốc nào chữa được
Dù khéo nói bao nhiêu
Chỉ càng thêm ác ngược.
Trương Hoàng hậu quả là không chút hiền lành, từ thuở theo Túc Tông trong quân doanh, thường vẫn kín đáo cờ bạc vui chơi với Túc Tông ngay trong trướng, tiếng ầm ĩ ra cả bên ngoài nghe rất rõ, mới mật sai khắc những con cờ, con xúc xắc bằng gỗ để không nghe rõ tiếng kêu. Tính tình Trương Hoàng hậu vừa giảo hoạt vừa thông tuệ nên rất vừa lòng Túc Tông, đến khi được lập thành hoàng hậu, vì vậy dễ áp chế nhà vua, lại nương dựa vào hoạn quan Lý Phụ Quốc. Phụ Quốc tiến dẫn theo một loạt bọn cùng cánh như Ngư Triều Ân, Thời An...
Cũng bởi loạn An - Sử chưa diệt hết, nên lệnh cho Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng chín viên tiết độ sứ mãi kéo binh tiễu trừ kỳ hết. Lại thấy bọn hoạn quan Ngư Triều Ân làm Quang quân dung sứ giám sát tất cả quân đội, quân sĩ không phục. Đến lúc ra trận, lại không may gặp trận gió lớn nổi mù trời tối đất, tất cả các toán quân đều thua chạy toán loạn. Quách Tử Nghi đem quân Sóc Phương, chặt cầu Hà Dương để giữ lấy Đông Kinh. Túc Tông nghe theo lời Ngư Triều Ân, triệu Quách Tử Nghi về triều, sai Lý Quang Bật thay.
Lúc Quách Tử Nghi lên đường về kinh sư, trăm họ khóc lóc lăn ra đường giữ lại, Tử Nghi phải cưỡi ngựa không, bỏ cả xe mà về Trường An. Thượng hoàng nghe tin, sai người nói miệng với Túc Tông:
- Hai tướng Lý, Quách đều có công lớn, nhưng công của họ Quách còn lớn hơn cả công họ Lý, phục hưng nhà Đường vừa qua, đều là công lao của họ Quách. Thất bại vừa rồi chỉ bởi không được tự quyết đoán mọi sự, chứ thực ra chẳng có tội gì.
Túc Tông vâng mệnh, nên khi ban lệnh phong thưởng, thì Lý Quang Bật được phong làm Thái úy Trung thư lệnh, Quách Tử Nghi được phong Phần Dương Vương. Phú quý mà Tử Nghi được hưởng này, chẳng ai là người dám ghen tỵ. Ngay cả khi còn nắm quyền hành rất lớn, cai quản cả quân đội triều đình, giữa lúc có chiến trận ở ngoài hành doanh, mỗi lần có chiếu thư, biểu chương đều nói, đều làm rất minh bạch, thẳng thắn, vì vậy chẳng ai có thể hiềm khích, chê bai. Con trai Quách là Quách Ái, đời Đường Đại Tông, được lấy công chúa Thăng Bình, mỗi lần vợ chồng cãi nhau, Quách Ái chửi công chúa:
- Mày cậy cha mày làm thiên tử phải không? Cha ta coi ngôi thiên tử không đáng, nên chẳng thèm làm đấy thôi!
Thăng Bình Công chúa bèn đem những lời này mách lại Đại Tông, Tử Nghi bèn nhốt Quách Ái lại, chờ chịu tội. Đại Tông biết chuyện, nhưng lệnh dẹp đi không hỏi đến, vẫn sợ Tử Nghi trong lòng thấp thỏm không yên, bèn ban lời phủ dụ rằng:
- Chẳng đui chẳng điếc, thì làm sao thế nào mà thông gia với nhau cho được. Những lời của bọn nhi nữ, thiếu niên ở trong buồng ngủ, chẳng hơi đâu mà nghĩ ngợi cả!
Mấy đời đối xử ơn nghĩa đến thế. Tử Nghi những năm cuối, xin về nghỉ ở phủ riêng, lấy chuyện thanh sắc làm vui, các tướng dưới trướng ngày xưa, ra vào ăn ngủ tùy thích, Tử Nghi đều đối xử rất thoải mái, như lúc còn gian lao. Tử Nghi có tới bảy con trai, tám con rể, tất cả đều làm quan hiển hách. Trong nhà, của quý chất như núi, hưởng thọ tới tám mươi lăm tuổi, mãi tới năm thứ hai hiệu Kiến Trung, đời Đường Đức Tông mới khuất núi, được triều đình đứng ra làm lễ tống táng, ban tên thụy, thật đúng là "Phúc thọ song toàn, sinh vinh tử ai!" (1)
1 Hưởng phúc, sống lâu, cả hai đểu vẹn toàn, sống thì vinh hiển, chết thì được thương xót, cúng tế.
Sách "Đường sử , nói rất đúng, rất hay rằng: "Ròng rã ba mươi năm trời, thiên hạ an hay nguy, đều lệ thuộc vào sự cống hiến của Quách Tử Nghi. Công nghiệp vậy quả là bao trùm cả thiên hạ, mà thiên tử không chút nghi ngờ. Ngôi bậc như vậy là đứng trên cả trăm quan từ lớn đến nhỏ, mà người người không chút ghét ghen. Hưởng thụ cùng cực xa hoa mà không hề có một lời chê trách. Một công thần cả bốn chữ: Phú, Quí, Thọ, Khang đều đủ như thế, quả là từ xưa đến nay, chưa có ai hơn?"
Nhưng đó là chuyện sau này, để khỏi phải nói lại mà thôi. Hãy tiếp chuyện Đường Minh Hoàng ở Hưng Khánh cung thường nghĩ tới công lao của Quách Tử Nghi, nhân đó phán rằng:
- Tử Nghi thuở ban đầu mà không gặp Lý Bạch, tính mạng cũng chẳng giữ nổi, nói gì đến chuyện kiến công lập nghiệp. Thế mới biết Lý Bạch có con mắt thấy rõ bậc anh hùng, chứ đâu phải chỉ là kẻ thư sinh, chỉ biết mỗi chuyện văn tự thôi đâu.
Lúc này chính là lúc Lý Bạch vì dính dáng với Vĩnh Vương Lý Lân mà phải đi đày mãi Dạ Lang. Thượng hoàng liền xuống đặc chỉ ân xá cho trở về rồi giục triều đình ban quan tước cho ngay, thì nghe tin đã qua đời rồi. Thượng hoàng than thở mãi không thôi.
Mai Phi thường nghe thượng hoàng ngợi ca tài năng của Lý Bạch, nhớ chuyện trước kia, nói riêng với Cao Lực Sĩ rằng:
- Ta trước kia đã từng mong đem nghìn vàng để mua một bài phú, bắt chước như bài "Trương Môn phủ" của Tư Mã Tương Như, người nói rằng thiên hạ hiện nay chẳng có ai có tài như vậy, từ chối không chịu thuê cho ta. Thế Lý Bạch này thì sao? Chẳng nhẽ không bằng Tương Như?
Lực Sĩ thưa:
- Lúc bấy giờ Lý Bạch chưa vào Trường An, thì kẻ hèn này tìm đâu cho ra được. Vả lại Dương Quý Phi đang được thượng hoàng rất sũng ái, chẳng thế nào lấy chữ nghĩa văn chương mà giằng cho ra được. Nếu làm được việc ấy, thì bài "Lâu Đông Phú" của nương nương, há chẳng phải tuyệt diệu, nhưng rồi cũng có làm nên chuyện gì đâu?
Mai Phi gật đầu:
- Người nói cũng có lý vậy!
Nội thị vào tâu, Giang Nam thứ sử dâng hoa mai đã về đến kinh sư. Nguyên là từ khi Mai Phi được quay lại hầu hạ thượng hoàng, thì bốn phương lại theo lệ cũ tiến hoa mai. Nhưng Mai Phi có hoa mai của tiên cho, thì những thứ mai của trần gian đều trở thành bình thường. Cành tiên mai này, quả là nở suốt cả bốn mùa, hương càng ngày càng ngát thơm, sắc càng ngày càng trong trắng. Mai Phi lúc nào cũng để ngay cạnh thưởng ngoạn.
Bỗng một hôm sớm dậy, thấy mùi hoa chỉ còn thoang thoảng, sắc hoa cũng có vẻ tiều tụy, cầm lên khẽ rung nhè nhẹ, thấy từng cánh, từng cánh bay lượn, rơi xuống nền điện, Mai Phi kinh hãi kêu:
- Tiên sư đã dặn rằng: Ta cùng với hoa là một mệnh, cùng sống chết với nhau. Nay hoa đã tàn rồi, mệnh ta cũng đã rõ!
Từ đó trong lòng thảng thốt không yên, chẳng mấy chốc thành bệnh, nằm dài trên giường không dậy dược nữa. Thái y viện bắt mạch xem bệnh, cắt thuốc dâng lên. Mai Phi không chịu uống, mà rằng:
- Mệnh số sắp hết, há thuốc hay có thể vãn hồi được sao!
Thượng hoàng thân ngự thăm, ngồi trên giường, vuốt ve khắp người, cầm tay mà an ủi:
- Khanh bỗng nhiên mắc bệnh, có gầy thêm ít nhiều, chỉ cần chịu khó uống thuốc là lại lành bệnh mà thôi!
Mai Phi khóc mà thưa:
- Thần thiếp từ ngày lui về cung Thượng Dương, tự coi mình là kẻ bỏ đi rồi, sau đó gặp bao hoạn nạn, những tưởng tính mệnh chẳng còn. Không ngờ vẫn còn được sống để hầu hạ đấng chí tôn, thật đã là vạn phần may mắn. Nay phúc duyên đã hết, tiên sư đã nói: cùng hết mệnh với hoa mai. Thế thì rõ ràng đã đến kỳ rồi. Sau khi thiếp chết, cành mai kia có giữ lại nhân gian, cũng chẳng trồng được. Đem mà chôn theo, sợ không kính cẩn, tốt hơn cả hãy đem ra trước Phật đường mà đốt.
Thượng hoàng vẫn phán:
- Khanh nói những chuyện ấy làm gì vội!
Mai Phi lại thưa:
- Người ta ai mà chẳng chết, đến nay thiếp qua đời, có thể gọi là toàn mệnh rồi vậy. Thật quả còn hơn nhiều người lắm. Huống chi thiếp mất nhưng tinh thần chẳng hề hủ nát, lại nhận vào miền tiên cảnh, nhất định chẳng thể khổ sở. Chỉ hận rằng, ơn thánh đế dồi dào, dẫu có nghĩ tới báo đáp cũng chẳng xong, thật không lúc nào khuây!
Thượng hoàng tiếp:
- Khanh trong sạch thông tuệ đến thế, đúng là bậc thần tiên rồi. Nhưng do đâu mà khanh biết rằng mai sau khanh sẽ được về tiên cảnh?
Mai Phi đáp:
- Đêm hôm trước thiếp nằm mơ, lại gặp tiên cô Vi Thị, ngay trong mây trời, tay đỡ một con chim anh vũ trắng, tay kia chỉ vào chim mà nói với thiếp rằng: "Con chim này nhân túc duyên thiện quả mà được từ trong cung vua về Phật. Nay lại được từ nước Phật mà về miền tiên cảnh. Tại sao mà người lại không được như chim sao. Quý Phi hai kiếp vừa qua thác sinh vào cung vua, phải luôn nhớ vào nguồn gốc của mình, đừng luyến tiếc gì nữa cõi trần, cung Nhụy Châu vốn là quê quán của Quý Phi, sao không sớm về?". Cứ như những lời này, thì may ra không đến nỗi rơi xuống hố xấu xa vậy!
Thượng hoàng rơi nước mắt:
- Khanh bỏ cả trẫm về tiên cảnh như thế, thì những năm cuối đời này, trẫm còn sống với ai?
Mai Phi cúi lạy trên gối:
- Nguyện thượng hoàng "thánh thọ vô cương", xin đừng vì chuyện ra đi của thần thiếp mà làm đau lòng!
Nói xong ngồi ngay dậy, giơ hai tay vái lên không trung, mà kính cẩn:
- Tiên cô tới rồi! Thiếp xin đi đây?
Rồi nhắm mắt qua đời.
Chính là:
Dẫu xưa thác dưới gốc mai
Mã Ngôi nỗi ấy thương ai vật vờ
Mừng nay người rụng theo hoa
Nhụy Châu cung, gặp Phật bà, Tiên Cô.
Thượng hoàng không ngờ Mai Phi ốm thế mà đã qua đời, ôm mặt khóc lớn. Cao Lực Sĩ ra công khuyên giải. Thượng hoàng phán:
- Mai Phi cùng với trẫm, chẳng khác nào duyên nợ mấy kiếp với nhau rồi, nay bỏ trẫm mà đi như thế này, không đau xót làm sao được!
Liền lệnh cho lấy lễ Quý Phi mà khâm liệm, mai táng cho Giang Thái Tần. Lại sai trồng rất nhiều hoa mai xung quanh mộ, ban cho cỗ tế, tự làm một văn tế, đại lược như sau:
Dung nhan nàng chừ, như hoa xinh tươi
Đức độ nàng chừ, như ngọc sáng ngời
Ta không quên nàng, gửi tình riêng vào vật báu
Nàng chẳng phụ ta, trao mạng đẹp vào cõi không
Như ngọc trong lóng lánh
Như đá cứng trung trinh
Nàng bỏ ta mà đi chừ, như cánh mai phơi phới
Ta một mình ở lại chừ, như hồn bướm vật vờ.
Thượng hoàng nhớ lời dặn dò của Mai Phi, liền sai đem cành tiên mai, lấy đỉnh hóa trước Phật đường. Nói ra thì thật kỳ quái khó tin, cành mai vừa đưa vào lò, mùi hương bỗng tỏa ngát, hàng vạn đốm lửa nhấp nháy, bay thẳng lên không trung, chẳng khác gì đốt một đống lửa lớn. Những đốm lửa lấp lánh đó, đều mang hình hoa mai, bay cao rồi biến mất vào chín từng mây.
Chính là:
Giống tiên không ở lại trần
Hoa mai lại trở về sân Diêu Trì. (1)
Sau này, có người nhân chuyện cành mai khô này bỏ vào thiêu trong lò, biến thành hàng vạn đóa hoa mai bằng lửa, có làm một bài văn để làm vui, lời lẽ rất trau chuốt, xin phụ chép ra đây luôn:
Trời lạnh, bình đồng, nụ nở chưa(2)
Cành nam chầm chậm, gió xuân chờ
Hoa lê lối ấy, đừng vào mộng (3)
Một tấm lòng, thành một nắm tro
Nhớ hoa xưa:
Ẩn kín trong lò hóa của Phật tổ
Hiện rõ trước linh vị của Tiên Mai
Vốn quê ở núi La Phù, (4)
Về trồng ở miền Dứu Lĩnh (5)
Hình khô như que củi, gồ ghề này núi kia đầm (6)
Da mượt hơn mỡ đông, óng ánh ấy sương hay tuyết
Giữa đông giá rét, đứng trong tranh tam hữu hiên ngang (7)
Xuân mới ôn hòa, chiếm đầu nhóm bách hoa chững chạc (8)
Lều tranh gác ngọc, không chút bận lòng
Điều vạc nêm canh, còn khi kết quả (9)
Ai ngờ đạo trưởng chậm bước, vội lìa gốc bẻ mà cất bước.(10)
Cũng do mưa gió dập vùi, nên đành trở lại nước Hoa Tư (11)
Xương lò than gọi hoài không tỉnh
Hòn cắt giấy hú mãi chẳng về
Màn mỏng đêm dài, lẩn quẩn tìm hương trong giấc mộng
Rèm che trăng sáng, đu đưa giỡn bóng trên đầu cành
Dạ đá lòng gang, Tống Quảng Bình tĩnh kia khó dứt (12)
Tô xanh bôi đỏ, Hoa Quang Lão gắng vẽ chẳng nên (13)
Buồn sao tơi tả một cành xuân
Mừng gặp Nát Bàn ba kiếp lửa (14)
Hỡi người quân tử quý hoa khắp cõi thấp cao
Tìm kiêm hồn thơm nay ở nơi nao! (15)
Ôi! Thôi thôi! Ví không thơ thẩn mà theo gió đông
Hẳn đã dập dờn trên dòng trăng lạnh.
1 Diêu Trì: Ao bằng ngọc. Chỗ ở của bà tiên Tây Vương Mẫu.
2 Theo Trương Công Phủ: muốn thưởng thức hoa mai cho trang trọng, phải có đủ hai mươi sáu điều kiện: phải có bình bằng đồng mà cắm, phải có mưa phùn lạnh, phải có trăng sáng, phải có người đẹp, trời phải có mây mỏng nhẹ che...
3 Thơ Vương Kiến, "Lê hoa mộng" có câu: "Lạc, hạc, mạc mạc lộ bất phân; Mộng trung hoãn tác, lê hoa vân” (Mịt mù, mơ màng, đường không rõ ràng; Trong giấc mộng, bảo rằng là mây của hoa lê).
4 Sách "Long thành lục": Đời Khai Hoàng nhà Tùy, Triệu Sử Hùng đi chơi núi La Phù, đến một quán rượu, có người con gái ra vời, lại thêm một tiểu đồng múa hát. Sử Hùng say ngủ mãi, sáng mai tỉnh dậy thì thấy mình ngủ dưới một gốc mai.
5 Sách Quyện du lục: Một phụ nữ trồng nhiều cây hoa mai ở Dứu Lĩnh, cùng chồng quay về thăm, mai đã thành rừng, do đó núi này cũng có tên là Mai Lĩnh.
6 các nhà thơ xưa thường tả mai gầy như dáng người phụ nữ: "Mai cốt cách, tuyết tinh thần", truyện Kiều. Cổ thi: "Nhân gian na hữu thử cù tiên” (Trên trần sao lại có cô tiên xù xì thế), chỉ Vỏ Cây mai xù xì, nham nhở.
7 Truyền thống vẽ tranh Trung Quốc: ba cây chịu được lạnh mùa đông: mai, tùng, trúc.
8 Cổ thi: “Thả hướng bách hoa đầu thượng khai” (Hãy cứ đi trước trăm loài hoa mà nở hoa trước đã).
9 “Kinh Thư”, thiên "Duyệt mệnh", vua Cao Tông nhà An, nói với tể tướng Phó Duyệt. Về việc nấu canh, nêm canh thì nhà ngươi sẽ là muối, là mơ.
10 Sách "Quần phương phả". Hoa Quan Trưởng lão vẽ mai. Hoàng Lỗ Trực xem bức tranh rồi khen: "Như buổi sáng đầu xuân, trời vẫn còn rét, mà đi men theo bờ rào cạnh dòng suối nhỏ dưới chân núi Cô vậy thay".
11 Thần thoại Trung Quốc kể: Bà Hoa Tư dẫm lên một vết chân người rất to, có mang mười hai năm, đẻ ra ông Phục Hy. Hoa Tư cũng là tên nước cổ đại dân chúng sống rất yên hàn, hòa mục. Ý hai vế này thực ra không rõ lắm. Xin dẫn nguyên văn như sau: "Bất liệu đạo nhân kiên vãn, trục ly hữu sắc chi căn; Phù hà băng thị tương lăng, để phản Hoa Tư chi quốc".
12 Sách “cổ kim hợp bích”: Tống Quảng Bình làm tể tướng, dáng dấp cứng cỏi. Mọi người cho ông là dạ đá gan sắt, chẳng có tình cảm gì. Nhưng khi đọc bài "Phú hoa mai" của ông thì lời văn đẹp đẽ, mới lạ, không giống với vẻ người.
13 Xem chú thích trước, nhưng ý lại nói, dẫu có tài như Hoa Quan Trường lão cũng khó mà vẽ được cái thần của hoa mai.
14 Nguyên văn: "Xà bì tam muội hỏa". Xà bì, tiếng Phạn, theo kinh Phật, nghĩa là đốt cháy.
15 Lâm Bô, người đất Tiền Đường; tự Quán Phúc, ưa thanh đạm, không màng danh lợi, ẩn tại Cô Sơn, hai mươi năm liền không bước chân tới thị thành, thơ hay, chữ tốt, vẽ đẹp, không lấy vợ, trồng nhiều mai, nuôi hạc. Người đời nói về Lâm Bô: "Mai là vợ, hạc là con” . Nay ở Tây Hồ còn mộ, trên mộ trồng mai, cạnh là mộ của hạc. (Điển cố văn học).
Lại kể, Túc Tông nghe tin Mai Phi đã mất, hoàng thượng rất buồn rầu, liền tự thân đến an ủi, kính cẩn làm lễ tế trước linh vị Mai Phi. Các phi tần, cung nga đều mang lễ tới viếng. Chỉ có Trương Hoàng hậu, thác bệnh không chịu đến. Thượng hoàng bực bội, không bằng lòng, nói với Cao Lực Sĩ:
- Hoàng hậu ngạo ngược đến thế thì thôi!
Lực Sĩ khẽ tâu:
- Nội giám Lý Phụ Quốc cùng về hùa với hoàng hậu, phàm những việc tai quái của hoàng hậu, đều là do Phụ Quốc dẫn dắt cả thôi.
Thượng hoàng ngạc nhiên:
- Trẫm từ lâu đã nghe thằng hèn hạ này chuyên quyền tai quái lắm. Đợi lúc nào đức kim thượng lại đây, trẫm phải nói cho rõ mới được.
Lực Sĩ thưa:
- Hoàng hậu áp chế đức vua đã lâu, Phụ Quốc lại nắm quyền bính trong tay, thế lực như vậy chẳng thể lung lay đâu, đến đức vua chẳng làm gì được. Thượng hoàng có nói cũng vô ích, chi bằng hãy gác ngoài tai đừng bàn luận gì lại hơn.
Thượng hoàng trầm ngâm không đáp.
Chính là:
Vợ ngược, đứa ớ ác
Chả thuốc nào chữa được
Dù khéo nói bao nhiêu
Chỉ càng thêm ác ngược.
Không biết sự thể sẽ ra sao, xem thêm hồi nữa sẽ rõ.
HỒI 100
Đưa sang cung Nam Nội, ly gián tình phụ tử,
Sai phù thủy Hồng Đô, kết thúc truyện Tùy Đường.
Từ rằng:
Hoạn quan kết bè cùng hoàng hậu
Khiến triều Đường điên đảo đắng cay
Vua tôi họ Lý đoạ đày
Cha con xa cách, tớ thầy vất vơ
Tình thăm viếng sớm trưa lỗi đạo
Lời gữi thưa thô bạo lăng loàn
Tuổi già lòng nhũng héo hon
Cảnh xưa nhớ lại thở than một mình
Tìm hồn phách u minh ba cõi
Cấp tiên ông đặng hỏi nguồn cơn
Phải rằng báo oán báo ơn...
Theo điệu "Dạ du cung”
Trăm điều đức hạnh, đứng đầu là hiếu. Nhưng hiếu của đấng thiên tử so với đức hiếu của người thường không giống nhau. Mạnh Tử nói: "Cái lớn nhất của đức hiếu, không gì bằng là tôn kính, tôn kính hơn cả đối với bậc thiên tử không gì lớn bằng là lấy thiên hạ mà phụng dưỡng, đấy mới là tôn kính, mới là hiếu vậy!" Ngang ngược ai cho bằng Cổ Tẩu, mà vua Thuấn vẫn thờ hết đạo làm con, vì vậy Khổng Tử khen là đại hiếu. Khiến cho hậu thế, khắp các bậc vua chúa, đế vương, nói đến chuyện cha con, không ai dám nghi ngờ. Dễ sinh sự hiềm nghi hơn cả là do bản thân sự việc: người làm trên thì không nhân từ, kẻ làm con lại không hiếu thuận. Mà việc sau thì phần lớn bởi vợ con, mang sự đố kỵ của kẻ tiểu nhân. Đúng như Túc Tông thờ phụng Đường Minh Hoàng nguyên lúc đầu rất hiếu thuận cũng như Minh Hoàng cư xử với Túc Tông rất là từ tâm, nhưng chẳng qua gặp phải người đàn bà kiêu nghịch, bọn hoạn quan lộng quyền, để đến nỗi kẻ làm con trở thành khiếm khuyết trong chữ hiếu. Hoặc có người nói: Thượng hoàng những năm còn ở ngôi, nghe theo lời bọn gian nịnh, một ngày giết ba người con, lại lấy người thiếp yêu của Thọ Vương là Dương Ngọc Hoàn làm quý phi, thì quả hại đến luân lý, nên về sau chịu cảnh con dâu ngỗ ngược, hoạn quan lộng hành, là quả báo của đạo trời, nên mới đến nỗi thế. Thượng hoàng với Dương Quý Phi, vẫn có tiền duyên túc trái, kiếp này mới gặp gỡ. Cũng như các người khác vậy thôi, hoặc là được yêu thương, hoặc bị chém giết, đều có nhân có quả, nào phải chuyện bất ngờ. Đúng như lời các vị thần tiên, chép đầy trong các sách dật sử, nay xin chép ra ở cuốn sách diễn nghĩa này, để hoàn chỉnh câu chuyện về hai đời thiên tử: Tùy Dượng đế cùng Đường Minh Hoàng, cho mọi người đều thấy rõ lẽ "tiền nhân hậu quả" vậy.
***
Một hôm, Túc Tông tới vấn an, thượng hoàng ban yến, trong lúc ăn uống, nói đến việc triều chính. Thượng hoàng hỏi:
- Xưa nay việc trị nước, dẹp yên thiên hạ, trước hết là phải giữ gìn được trong nhà. Nay nghe bọn hoạn quan Lý Phụ Quốc tác oai trong cưng như thế, tình thế càng ngày càng nguy. Kim thượng có biết hay không?
Túc Tông nghe xong hoảng sợ đứng lên thưa:
- Để rồi phải tìm ngay cách tra xét, xử trị.
Thượng hoàng tiếp:
- Lúc này mà không ngăn ngừa ngay, sợ mai kia có muốn thay đổi lại cũng không còn kịp nữa đâu!
Túc Tông vâng vâng dạ dạ lui ra. Nguyên là Trương Hoàng hậu dựa vào việc được sủng ái, ngày càng ngỗ nghịch. Túc Tông từ chỗ quá yêu đến chỗ quá sợ, chẳng bao giờ dám dòm ngó thêm chuyện thanh sắc. Lý Phụ Quốc lâu nay nắm mọi binh quyền trong tay, vào hùa với hoàng hậu, cả hai dựa thế nhau mà càng ngang ngược. Túc Tông trong lòng ghét dẫu muốn trừ ngay cũng không làm được. Vì vậy tuy có lời của thượng hoàng, nhưng sợ hãi không dám khởi sự. Chính là:
Nực cười thay thiên tử sơ vợ
Hoàng hậu dựa thêm hoạn quan
Trong ngoài một bọn tiểu nhân
Chữ tình chữ lý, sao phân tỏ tường.
Túc Tông cứ nhịn nhục mãi không dám ra tay, không ngờ những lời vừa rồi của thượng hoàng, bọn nội thị mới truyền tai nhau, đến ngay Lý Phụ Quốc. Phụ Quốc liền tâu riêng với Trương Hoàng hậu, cả hai đều lấy làm căm tức, bàn với nhau:
- Thượng hoàng ngồi sâu ở trong cung cấm, từ lâu đã không tham dự triều chính, nay bỗng buông ra những lời phiền toái như thế này, tất là do Cao Lực Sĩ nói ra nói vào, nên mới có những lời này ở thượng hoàng được. Lực Sĩ hiện nay là tai mắt của thượng hoàng, phải tìm cách dẹp ngay đi. Ngoài ra càng cần phải làm cho quan gia không thường xuyên qua lại chỗ thượng hoàng. Tốt nhất là nên đưa thượng hoàng chuyển ra ở Tây Nội.
Từ đó mỗi lần Túc Tông định ra thăm thượng hoàng, Trương Hoàng hậu lại tìm đủ mọi cách nhỏ to ngăn trở. Thượng hoàng lâu nay ở cung Hưng Khánh thuộc Nam Nội, rất gần với các ngõ phố của dân chúng bên ngoài.
Phía góc tây bắc, có một tòa lầu, tên gọi Trường Khánh. Trèo lên lầu có thể nhìn thấy phương thôn. Thượng hoàng thường lên lầu này, người đi đường thường vẫn nhìn lên mà bái vọng. Lúc hứng lên, hoàng thượng còn sai Cao Lực Sĩ lấy những thức ăn thừa của ngự thiện, ban cho các ông già bà lão trong phố, ai nấy đều hân hoan, tung hô: "Vạn tuế! Vạn tuế!” Lý Phụ Quốc bèn dùng lời ngon ngọt tâu riêng với Túc Tông:
- Thượng hoàng ở Hưng Khánh cung lại có Cao Lực Sĩ ngày đêm đi lại với người ngoài phố phường, chỉ sợ có điều không lợi cho bệ hạ. Hưng Khánh cung quá gần khu dân cư, vốn không phải nơi ở thích hợp với đấng chí tôn. Vùng Tây Nội thâm nghiêm, nên đưa thượng hoàng về đấy, để sau nữa dứt ra được bọn tiểu nhân, thì chẳng còn điều gì đáng lo ngại nữa.
Túc Tông phán:
- Thượng hoàng thích ở cung Hưng Khánh, từ ngày ở Thục về đến nay đã ở ngay nơi này rồi. Không có cớ gì mà lại thay đổi thế, sợ lại trái ý thượng hoàng không nên vậy. Phụ Quốc thấy Túc Tông không nghe theo lời mình, lại mật tâu với Trương Hoàng hậu, hoàng hậu lại nhỏ to với Túc Tông. Túc Tông vẫn sợ kinh động đến thượng hoàng, vẫn không chịu nghe theo, Trương Hoàng hậu giận dữ:
- Thiếp chỉ vì bệ hạ mà tính liệu, nay không nghe theo lời hay lẽ phải, mai kia đừng có mà hối hận.
Nói xong phất áo đứng dậy mà đi. Túc Tông lặng yên không nói, nhưng trong lòng thì tức tối, lại gặp ngay một cơn gió lạnh, người thấy ớn rét, liền tạm bãi triều, về cung tĩnh dưỡng.
Phụ Quốc nhân cơ hội, bàn riêng với Trương Hoàng hậu, lệnh cho lũ nội thị tâm phúc cùng đội vũ lâm quân, xe ngựa chỉnh tề, đến Hưng Khánh cung đón thượng hoàng, chuyển sang Tây Nội, ngay ngày hôm đó. Thượng hoàng ngạc nhiên không rõ nguồn cơn, nội thị tâu rằng Hưng Khánh cung gần dân chúng, sợ làm kinh động đến sự yên tĩnh của thượng hoàng, nên riêng mời thượng hoàng về Tây Nội. Đức kim thượng hiện đang ở Tây Nội, chờ đón ngự giá thượng hoàng.
Thượng hoàng trong lòng nghi ngại, dùng dằng không chịu đi, chỉ sợ có chuyện gì không hay chăng? Cao Lực Sĩ tâu:
- Chúa thượng đã có chỉ đến đón, thì thượng hoàng xin cứ ngự giá, chờ gặp ngay chúa thượng bàn bạc, hoặc chuyển hoặc không, kẻ hầu hạ này xin được đi trước vậy.
Thượng hoàng không còn biết nên thế nào, đành vội vàng lên kiệu. Lực Sĩ lệnh cho quân lính đi trước dẫn đường, nội thị theo xung quanh, tất cả lên đường.
Sắp tới Tây Nội, chỉ thấy Phụ Quốc mặc võ phục, đeo kiếm, dẫn mấy trăm quân sĩ, vác thương, cầm kiếm, xếp hàng hai bên đường.
Thượng hoàng ngồi trên kiệu, trông thấy kinh hoàng, Cao Lực Sĩ bỗng nổi cơn thịnh nộ, lên tiếng quát lớn:
- Thượng hoàng ngự giá Tây Nội, Lý Phụ Quốc mang giáp trụ, đeo khí giới, dẫn quân sĩ tới là ý ra sao?
Phụ Quốc nghe quát, sợ hãi, vội vàng quỳ xuống thưa:
- Kẻ hèn hạ này vâng lệnh chúa thượng tới đón ngự giá hoàng thượng.
Lực Sĩ vẫn lớn tiếng:
- Nếu đã tới để hộ giá, thì phải bỏ kiếm ra mà đi theo kiệu rồng!
Phụ Quốc dành phải cởi kiếm, cùng theo hộ giá với Lực Sĩ. Lực Sĩ liền truyền cho quân sĩ quay ra, không phải theo ngự giá nữa.
Vào đến Tây Nội, ngự thẳng vào điện Cam Lộ, thượng hoàng xuống kiệu, lên sập vàng ngồi xong xuôi, cất tiếng hỏi:
- Đức kim thượng đâu?
Phụ Quốc tâu:
- Chúa thượng vừa rồi định tới đây đón ngư giá, nhưng gặp phải gió lạnh, bỗng phát rét, chưa thể đến ngay, lệnh cho kẻ hèn này tâu lại với thượng hoàng. Đợi lúc nào đỡ bệnh, sẽ xin tới triều kiến thượng hoàng.
Thượng hoàng phán:
- Đức kim thượng đã không khỏe, thì chẳng cần đến bây giờ. Đợi mai kia khỏi hãy đến cũng được!
Phụ Quốc vâng mệnh, cúi lạy rồi ra về. Thượng hoàng than thở mãi. rồi nói với Lực Sĩ:
- Hôm nay không có lòng can đảm của Cao tướng quân, trẫm cơ hồ không thoát nạn này vậy!
Lực Sĩ cúi lạy thưa:
- Chỉ sợ thượng hoàng sợ hãi, nên thần phải lên tiếng vậy. Thượng hoàng đã từng năm mươi năm làm hoàng đế của thời thái bình, kẻ nào dám bất kính?
Thượng hoàng lắc đầu:
- Mỗi người mỗi khác nhau!
Lực Sĩ thưa:
- Việc chuyển sang Tây Nội này, chỉ sợ chính là Phụ Quốc đầu têu rồi hoàng hậu chủ trương, chưa hẳn đã là ý của chúa thượng!
Thượng hoàng phán:
- Hưng Khánh cung chính là cũng do trẫm xây nên, được ở đó mà vui tuổi già, thì quả là hợp ý hơn. Chẳng ngờ chuyển sang bên này, một mình lủi thủi thân già, vẻ như khó yên ổn. Thật đáng than thở vậy?
Thượng hoàng nói xong, buồn bã như muốn khóc. Người đời sau có thơ than rằng:
Oan thay! Một lúc giết ba con
Cướp vợ Thọ Vương, nghĩa mất còn?
Gặp nỗi con dâu ngang ngược lắm
Đến bao giờ, mới biết ăn năn?
Lý Phụ Quốc nhân lúc Túc Tông bị bệnh, thác chỉ vua đưa thượng hoàng chuyển sang Tây Nội, chỉ sợ Túc Tông sẽ trách phạt, liền tìm cách để Trương Hoàng hậu tự tâu việc này lên Túc Tông.
Nhà vua giật mình hỏi:
- Có làm cho thượng hoàng hoảng sợ không?
Trương Hoàng hậu liền đáp:
- Thái thượng bằng lòng ở cung Cam Lộ, không nói một lời nào cả.
Túc Tông trầm ngâm, Phụ Quốc lại dẫn văn vũ tướng quan tới trước ngự tiền quỳ lạy chịu tội. Túc Tông thầm nghĩ: "Sự đã đến thế này, truy cứu chẳng ích gì?". Lại có hoàng hậu, không tiện làm to chuyện, vì vậy cuối cùng Túc Tông lại tìm lời an ủi lũ Phụ Quốc đang quỳ dưới thềm:
- Các ngươi làm việc này, nguyên muốn tránh những chuyện đáng tiếc, vốn vì xã tắc mà tính liệu. Nay thái thượng đã yên lòng, các ngươi chẳng việc gì mà thảng thốt nhiều!
Bọn Phụ Quốc dập đầu dưới điện, tung hô:
- Vạn tuế! Vạn tuế!
Người sau có câu thơ than:
Đứa ở lăng loàn ăn hiếp cha
Con không trừng trị, chỉ ậm à
Hay vì cha giết con hồi trước
Nên bây giờ cha con sợ ma?
Thực ra, lúc này Túc Tông vẫn chưa khỏe hẳn, nên vẫn chưa đến Tây Nội thăm thượng hoàng, nay muốn đi ngay, nhưng lại bị Trương Hoàng hậu tìm cách ngăn trở. Một hôm, mới triệu ẩn sĩ Lý Đường vào cung yết kiến. Túc Tông đang vui đùa với công chúa nhỏ tuổi nhân đó mới nói với Lý Đường:
- Trẫm yêu con bé này lắm! Khanh đừng lấy làm lạ!
Lý Đường thưa:
- Thần nghĩ rằng thái thượng hoàng yêu bệ hạ, cũng chẳng khác gì bệ hạ yêu công chúa vậy!
Túc Tông liền đứng ngay dậy, lên xe rồng tới Tây Nội, thăm thượng hoàng. Nghi lễ xong xuôi, thượng hoàng ban yến, vẫn chưa nói gì, duy thỉnh thoảng lại thở dài. Túc Tông trong lòng không yên, lần lữa một lúc nữa rồi xin quay ra. Trở về cung, Trương Hoàng hậu ra đón, cũng chỉ mấy câu lạnh nhạt. Túc Tông càng thêm buồn bã, bệnh cũ lại phát.
Thượng hoàng nghe tin Túc Tông không khỏe, sai Cao Lực Sĩ đến tận long sàng thăm hỏi. Túc Tông nghe tâu, lập tức gọi vào. Nào ngờ lúc này Trương Hoàng hậu, Lý Phụ Quốc đang căm giận Lực Sĩ, nên cùng nhau bàn kế hãm hại. Mật sai quan giữ cửa ngăn lại, không cho vào. Lại sai tiểu nội thị truyền chỉ của Túc Tông, cho Lực Sĩ quay về. Đợi cho Lực Sĩ bỏ đi rồi, lại truyền chỉ gọi lại, Lực Sĩ vội quay lại trước cửa cung. Phụ Quốc đã đứng sẵn đấy quát lớn:
- Cao Lực Sĩ vâng mệnh đến vấn an chúa thượng, sao không chờ để vào, chưa gì bỏ về. Quả là đại bất kính, phải trị tội mới xong!
Trương Hoàng hậu liền ép Túc Tông xuống chiếu, đày Cao Lực Sĩ ra Vu Châu, không được quay về Tây Nội nữa. Một mặt sai thái giám tâu cho thượng hoàng rõ mọi chuyện, một mặt truyền pháp ty ngay ngày hôm sau áp giải Lực Sĩ đem an trí ở Vu Châu. Khá thương thay cho Lực Sĩ suốt đời được ân sủng, tự do ra vào cung cấm, quan cao tước lớn, vinh hiển một đời, ai ngờ nay là Trương Hoàng hậu cùng Lý Phụ Quốc đuổi ra.
Lực Sĩ đến Vu Châu, sống trong bốn bức tường cô độc, lại luôn luôn sợ hãi chẳng biết lúc nào tai họa sẽ đến tiếp, cho nên ngày đêm thắc thỏm. Cho đến ngày Đường Minh Hoàng qua đời, biết được tin dữ này, Lực Sĩ nhớ tới ơn xưa cao dày, ngày đêm than khóc, đến nổi thổ ra máu mà chết. Người đời sau có thơ than:
Lũ hoạn quan gian ác kéo bè
Riêng Cao Lực Sĩ chẳng nên chê
Dẫu không bằng được Trương Thừa Nghiệp(1)
Trung cẩn vẫn hơn hẳn bọn kia.
1 Trương Thừa Nghiệp cũng là hoạn quan cuối đời Đường. Khi Lý Tôn Húc cướp ngôi, Trương Thừa Nghiệp can mãi không được, buồn bực, khổ sở, ốm mà chết. (Từ Hải).
Nhưng đó là chuyện sau này, hãy tiếp chuyện Phụ Quốc chuyển Đường Minh Hoàng sang Tây Nội, làm thượng hoàng càng không yên lòng, nay lại nghe Cao Lực Sĩ phải tội đày di xa, không dược hầu hạ bên mình như xưa, càng thảng thốt. Từ đó, tả hữu chỉ còn lại toàn người mới, ít còn ai là quen thuộc cũ. Bọn cung nga chỉ còn Tạ A Di, cùng với nhạc công cũ Trương Dã Hồ, Hạ Hoài Trí, Lý Mô, là thường lui tới hầu hạ.
Một hôm Tạ A Di dâng lên một viên hồng ngọc mà tâu rằng:
- Viên hồng ngọc này chính là ngày xưa Dương Quý Phi ban cho tiện tỳ này.
Thượng hoàng cầm lấy xem rồi phán:
- Thuở trước, Thái Tông hoàng đế của trẫm phá Cao Ly, thu được hai vật báu: một là đai vàng tía, hai là viên hồng ngọc này. Trẫm mới đem đai vàng tía đó ban cho Kỳ Vương, còn viên hồng ngọc ban cho Quý Phi, chính là viên ngọc này đây. Về sau nước Cao Ly nói rằng, bởi trong nước mất hai vật báu, nên mưa gió thất thường, người vật đều điêu tàn, khô héo, vậy nên xin lại để lấy làm của quý giữ nước nhà. Trẫm bèn trả lại đai vàng tía, chỉ còn viên ngọc vẫn giữ lại. Trải qua cơn loạn lạc vừa rồi, nghĩ rằng người cùng vật đều mất, không ngờ khanh vẫn giữ được. Nay trẫm trông thấy, lại càng đau xót vậy thay!
Nói xong lại khóc!
Một hôm, Hạ Hoài Trí vào thưa:
- Thần nhớ trước đây, đang giữa mùa hè oi ả, thượng hoàng cùng với Kỳ Vương ngồi ở thủy tạ đánh cờ vậy, sai thần gảy đàn tỳ bà ở bên. Đàn này trục làm bằng đá, dây đàn làm bằng gân gà vùng Hồ, phải gảy bằng phím sắt. Quý Phi Nương nương tay ôm con mèo nhỏ trắng như tuyết của nước Khang Quốc tiến cống, đứng ở phía sau thánh hoàng, tai nghe tỳ bà, mắt trông vào bàn cờ, thấy thượng hoàng còn vài nước nữa là thua, Quý Phi liền thả ngay con mèo vào giữa bàn cờ, các con cờ tóe tung cả. Thượng hoàng thích chí lắm. Lúc này thần vẫn chưa gảy xong một khúc, bỗng luồng gió mát thổi bảy dải lụa của Quý Phi, quấn vào khăn đội đầu của thần, làm rơi cả xuống nền điện. Chiều hôm ấy trở về nhà, thần vẫn thấy khắp người tỏa hương thơm, đúng là hương ở túi thơm mà ra. Cho mãi tới nay, hương thơm vẫn chưa hết, thật là kỳ dị. Nay thần xin đem cái khăn mà thần vẫn giữ gìn trân trọng dâng lên thánh thượng xem.
Thượng hoàng đáp:
- Loại hương đó, gọi là "Thụy long não hương", do nước ngoài tiến cống. Trẫm dã từng lấy một ít, giấu vào trong những đóa hoa sen bằng ngọc ở phòng tắm nóng, cứ mỗi lần tắm, mùi hương vẫn rất thơm như mới lấy ra vậy. Huống chi khăn đội đầu của khanh, vốn làm bằng tơ lụa là thứ mềm ấm, thì giữ được càng lâu cũng chẳng có gì là lạ vậy!
Nhân đó lại than thở:
- Hương thơm còn đó! Người đã đi đâu!
Rồi lại càng ảo não rầu rĩ luôn luôn, miệng lẩm nhẩm ngâm bài thơ sau:
Đẽo gỗ chằng dây thành lão già
Cũng thì tóc bạc cũng da gà
Múa may hết tích rồi im phắc
Một đời thiên tử cũng thế a?
Lại có một thầy phù thủy họ Dương tên Thông U, tự xưng là Hồng Đô đạo sĩ, đạo pháp rất mầu nhiệm, từ Thục vân du vào Trường An. Nghe nói thượng hoàng thương nhớ Quý Phi, tự xưng có thuật kỳ của Lý Thiếu Quân, có thể gặp gỡ hồn người đã chết. Lý Mô, Trương Dã Hồ đều nhận rằng có biết người này từ xưa, mới tiến cử vôi thượng hoàng, thượng hoàng bèn triệu vào Tây Nội, đòi Hồng Đô làm pháp thuật, để gọi được hồn Quý Phi cùng Mai Phi về gặp gỡ.
Hồng Đô liền lập đàn ngay trong cung, đốt bùa, phát hịch, múa may, khấn vái trước đàn làm hết mọi phép thuật rồi, vẫn chẳng thấy hồn phách hiện về đâu cả. Thượng hoàng không vừa ý, phàn nàn rằng:
- Dạo trước ở Tây Thục, Trương Sơn Nhân tìm hồn phách của Mai Phi không ra, do thực lúc ấy Mai Phi nào đã chết. Nay quả cả hai đều qua đời, hồn thơm vẫn tìm không ra. Phải chăng duyên nợ với trẫm thế là hết rồi sao?
Hồng Đô tâu rằng:
- Hai vị quý phi tất là không phải người thường, mà là tiên nữ giáng sinh, nơi ở của các vị tiên nhân rất xa xôi, không dễ tìm. Muốn gặp được, thần phải thỉnh được các vị thần thông, đi mây về gió, tới tận cùng trời viễn điểu tìm cho ra tông tích, sẽ xin về tâu lại.
Hồng Đô lại phủ phục khấn vái trước đài. Vận xuất thần khí, cưỡi mây đạp gió, đi vào chín tầng tiêu hán, thấy trong đám mây đẹp phía trước, có một con chim anh vũ màu trắng, cánh vỗ dập dờn, cất tiếng người mà rằng:
- Kẻ đi tìm người đến đây rồi!
Hồng Đô thầm nghĩ: "Con chim này biết cả ý người, nhất định là chim thần tiên rồi!". Bèn cứ theo sau chim mà bay. Chẳng mấy chốc trước mắt, thấp thoáng một tòa cung điện, chim anh vũ bay vào trong tòa cung điện đó biến mất. Nhìn rõ, thì thấy:
Đài đao như vẽ
Gác ngọc như bay
Cột cao ngút mây che, sửng sốt hương thơm ngào ngạt
Rèm trong ngời sắc sáng, ngập ngừng khí tốt bời bời
Cao cao chọc mấy tầng trời
Thênh thênh chẳng bến, chơi vơi chẳng bờ
Phải chăng hải thị thẩn lâu(1)
Dẫu rằng Bồng Đảo, Doanh Châu nào bằng.
1 Theo "Tam Tề lược ký": Khi con thẩn, một loài rồng biển, thở hơi thì trên mặt đại dương kết thành lâu đài gọi là hải thị, tức là thành thị trên mặt biển.
Hồng Đô đạo sĩ tới trước cửa cung, thấy có một tấm biển lớn bằng ngọc, đề chữ vàng, nổi rõ ba chữ lớn "Nhụy Châu cung". Hồng Đô không dám tự tiện vào, đang lúc đắn đo, thấy hai tiên nữ từ bên trong đi ra. Một tiên nữ y phục đủ năm màu. Một tiên nữ mặc áo trắng, tay cầm phất trần. Tiên nữ mặc ngũ sắc, đưa ngọc như ý chỉ Hồng Đô mà hỏi:
- Linh hồn ở dưới trần thế, lên đây có việc gì?
Hồng Đô cúi đầu thưa:
- Bần đạo ở hạ giới, vâng lệnh thượng hoàng nhà Đường, tìm hồn các quý phi dã khuất, được chim thần dẫn lối, nên đi tới đây, may gặp hai vị tiên cô. Phải chăng hai vị là Dương Thái Chân, cùng Giang Thái Tần chăng?
Nàng tiên áo ngũ sắc cười đáp:
- Không phải! Ta vốn là con gái Quách Tử Nghi, chính là Hà Bá phu nhân vậy!
Hùng Đô hỏi tiếp:
- Hà Bá phu nhân, sao lại là con gái Quách Nguyên soái cho được? Đã thế sao lại ở đây nữa?
Nàng tiên áo ngũ sắc cất tiếng:
- Thuở trước phu nhân ta ra trấn giữ Hà Trung, sông lớn chuyên gây thủy họa. Phụ thân ta mới cầu tế Hà Bá, hứa rằng nếu trị thủy hoàn toàn, sẽ đem con gái gả cho. Đến khi sông nước yên hàn rồi, ta bỗng chẳng bệnh tật gì mà qua đời. Phụ thân ta mới chôn cất ta ở ngay sau đền thờ Hà Bá, ta từ đó thành Hà Bá phu nhân. Việc này thì người đời làm sao mà biết được.
Rồi chỉ tiên nữ áo trắng mà tiếp:
- Đây chính là Long Nữ trong hồ Lăng Ba ở vườn ngự uyển.
Trước đây vua Huyền Tông đã gặp trong mộng, gảy đàn Hồ, làm ra điệu từ "Lãng ba khúc". Đến lúc tỉnh lại, đức vua vẫn nhớ kỹ, nhân đó mới lập miếu thờ Long Nữ ngay bên hồ Lăng Ba. Long Nữ với Hà Bá vốn thân thiết, cho nên thường hay gặp gỡ. Về sau Long Nữ bị tuyển vào Nhụy Châu cung, nên ta thường lui tới đây. Còn Mai Phi Giang Thái Tần, kiếp trước vốn là tiên nữ trong Nhụy Châu cung, đã hai lần bị đày xuống nhân gian, nay mới được về chốn cũ. Mai Phi duyên trần đã hết, tuy ở đây, nhưng đạo trưởng chẳng gặp được đâu. Còn Dương Thái Chân thì trả chưa hết kiếp trước, phải đầu thai xuống cõi người, vì lần vừa rồi vẫn giữ thói kiêu sa dâm loạn, làm nhiều điều ác nghiệt, nên nghiệp báo vẫn nhiều, làm sao mà được ở đây Đạo trưởng có muốn gặp, thì phải tìm ở chỗ khác kia!
Hồng Đô thưa:
- Mai Phi đã không gặp được, tất phải tìm cho ra dấu vết Dương Thái Chân, mới có thể quay về phục mệnh thượng hoàng. Mong được tiên nữ chỉ vẽ cho!
Tiên nữ áo trắng đáp:
- Đạo trưởng cứ hướng đông mà đi, chẳng mấy chốc sẽ có người chỉ tường tận.
Nói xong, kéo tiên nữ áo ngũ sắc, quay vào Nhụy Châu cung.
Hồng Đô liền cứ trong mây lành mà bay về phía đông, gặp một tòa núi cao. Tả sao hết cảnh sắc của núi, từ xa đã nhìn thấy từng hàng tùng bách xanh ngắt dưới chân núi. Ngay dưới một cây tùng già, ba vị tiên ông ngồi. Hai vị đánh cờ vây, một vị ngồi bên xem. Hồng Đô tới bên lạy chào. Hai vị tiên tạm dừng cuộc cờ mà cả cười, Hồng Đô xin được biết họ tên. Vị tiên ngồi ở chính giữa cất tiếng:
- Ta là Trương Quả, hai vị này chính là Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn. Chúng ta đều có duyên nợ với thái thượng hoàng. Vì vậy thường bày vẽ cho ít nhiều, chỉ vì thượng hoàng duyên trần còn nặng, lòng trí còn tối tăm, quên cả bản tính của chân thân, đành phải bỏ mà đi vậy. Thượng hoàng nay tuổi đã cao, chuyện yêu đương nghiêng ngả đâu còn, cũng nên giác ngộ đi còn gì. Thuở trước giá có theo ta mà tu tiên học đạo, thì đâu đến nỗi đắm chìm trong bể họa như thế.
Hồng Đô lại hỏi:
- Mai Phi hiện đang ở Nhụy Châu cung. Bần đạo vừa được biết rồi. Chỉ còn chưa rõ hồn phách Dương Quý Phi hiện ở nơi nào. Xin các vị tiên sư cho gặp một lần, để có thể về phục mệnh thượng hoàng.
Trương Quả đáp:
- Đạo trưởng có biết chuyện "Lưỡng thế nhân duyên" giữa thượng hoàng cùng Dương Quý Phi chăng?
Hồng Đô thưa:
- Bần đạo ngu muội, nhiều điều chẳng rõ, xin mong được dạy bảo ít nhiều!
Trương Quả cất tiếng:
- Đường Minh Hoàng chân thân vốn là Nguyên Thủy Khổng Thăng Chân nhân, vốn là đồng đạo với chúng tiên đấy cả. Cũng bởi một lần nghe giảng đạo pháp ở Thái Cực cung, không ngờ gặp một tiên nữ ở Nhụy Châu cung, cười nói sỗ sàng, phạm phải giới luật, nên phải đày xuống phàm trần, phạt làm phi tần trong cung vua, chính là Chu Quý Nhi trong cung nhà Tùy vậy. Đến lúc Chu Quý Nhi tái sinh kiếp khác thì lại trở thành thiên tử Huyền Tông nhà Đường nay là thái thượng hoàng vậy.
Hồng Đô hỏi:
- Chu Quý Nhi vì làm sao lại được chuyển kiếp thiên tử kia?
Trương Quả đáp:
- Chu Quý Nhi trung thành với chủ, mắng giặc rồi tuẫn tiết mà chết. Ở thiên đình vốn rất trọng trung nghĩa, vì vậy mà được hưởng phúc lớn. Huống chi vị tiên này bị đày xuống trần thế, chẳng qua so với ngôi cũ thì chỉ bằng hòa. Bởi Chu Quý Nhi vốn có duyên nợ với Tùy Dượng Đế, đã riêng cùng nhau thề nguyền, kiếp sau nên duyên vợ chồng, vì vậy mới sinh làm thiên tử, để trọn lời ước xưa vậy!
Hồng Đô hỏi:
- Chu Quý Nhi với Tùy Dượng Đế duyên nợ ra sao?
Trương Quả đáp:
- Dượng Đế kiếp trước vốn là một con chuột đã thành tinh trong núi Chung Nam, có lần ăn trộm viên thuốc tiên của Hoàng Phủ Chân Quân ở Cửu Hoa cung, nên bị Chân Quân trói giam trong nhà đá, đã một nghìn ba trăm năm nay. Ở nhà đá, con chuột thành tinh này dốc trí tu luyện để mong kiếp sau dược làm người, hưởng phú quý ở nhân gian. Lúc bấy giờ Khổng Thăng Chân nhân, đến Cửu hoa cung, biết con chuột này bị giam đã lâu, thương y thành tâm tu luyện, mới ra sức khuyên Hoàng Phủ Chân Quân tạm thả cho y xuống trần gian, hưởng ít nhiều mùi phú quý, để thỏa chí nguyện của y, cũng là ít nhiều khuyến lệ kiếp sau, may ra hối cải tu hành chăng. Hành động khuyến khích này, không ngờ lại kết thêm duyên nợ. Lúc này gặp vận nhà Tùy đã mãn, Độc Cô Hoàng hậu ghen tuông ngang ngược, Thượng đế tức giận, Hoàng Phủ Chân Quân liền nhân đó tâu xin cho con chuột này thác sinh làm Tùy Dượng Đế, ứng đúng như vận số. Khổng Thăng Chân nhân cũng vừa bị tội, giáng xuống trần làm Chu Quý Nhi, thề là kiếp này được gặp gỡ, kết cùng Dượng Đế là Đường Huyền Tông, nên chưa được về tiên vậy.
Hồng Đô lại hỏi:
- Quý Nhi chuyển sinh làm thiên tử nhà Đường, còn Tùy Dượng Đế thì chuyển sinh làm người nào?
Trương Quả đáp:
- Trương lão bảo Dượng Đế sẽ là ai? Chính là Dương Quý Phi vậy. Dượng Đế làm thiên tử, tính yêu quái cũ lại có dịp phát mạnh, kiêu sa, dâm dục, ngang ngược, lại thêm tội sát nghịch. Thượng đế càng giận, chỉ cho ở ngôi mười ba năm, để đền lại một nghìn ba trăm năm khổ công tu luyện, nhưng bắt phải "bất đắc kỳ tử", lấy vải lụa trắng mà thắt cổ cho chết, phạt tái sinh làm kiếp dàn bà, chính là làm con gái họ Dương vậy. Để rồi cùng Chu Quý Nhi sau này kết duyên vợ chồng, hoàn toàn lời thề nguyền trên ngựa, rồi lại phải chịu lại cái cảnh dây lụa thắt cổ chết ở trạm dịch Mã Ngôi. Mai này còn phải đến âm phủ, xử tội sát nghịch, dâm loạn. Thuở làm Quý Phi, cậy được yêu thương, tội lỗi chồng chất càng nhiều. Nay hồn phách Quý Phi vẫn chẳng được tự do. Trưởng lão biết tìm ở đâu cho được.
Hồng Đô thưa:
- Thì ra chuyện nhân quả là thế! Nếu không có tiên sư chỉ giáo, bần dạo làm sao biết được. Nhưng bần đạo chính là phụng mệnh thượng hoàng mà đến đây. Nay làm thế nào mà chỉ về phục mệnh thượng hoàng bằng những câu chuyện kể suông thế này cho được?
Trương quả trầm ngâm không đáp, Diệp Pháp Thiện liền cất lời:
- Thượng hoàng cũng chẳng còn ở trần thế bao lâu nữa. Sau khi qua đời, thượng hoàng sẽ rõ ngay mọi chuyện tiền kiếp, nên đạo trưởng cứ tùy đó mà thêm bớt vài lời cho vừa ý thượng hoàng.
Hồng Đô thưa:
- Dẫu có thêm bớt đi nữa, nhưng chẳng có bằng cứ, sợ thượng hoàng chẳng tin nào!
La Công Viễn cười:
- Đạo trưởng cần có chứng cứ, quay lại mà hỏi hai tiên nữ vừa rồi, chẳng việc gì phải chuyện miên man, làm mất cả hứng đánh cờ của chúng tiên đây làm gì?
Từ xa bỗng thấy một đám mây lành bay lại. Diệp Pháp Thiện chỉ tay:
- Đạo trường xem hai tiên nữ đã tới kia kìa!
Đám mây hạ xuống, hai vị tiên nữ chào hỏi ba tiên ông, rồi quay ra nhìn Hồng Đô đạo sĩ mà cười:
- Linh hồn trường lão vẫn còn ở đây để nghe chuyện nhân quả hay sao?
Trương Quả đỡ lời:
- Trương Quả này đã đem chuyện. "Lưỡng thế nhân duyên" của Dương Quý Phi cùng Đường Minh Hoàng ra nói, nhưng trưởng lão vẫn đòi gặp kỳ được Quý Phi, mới dám quay về phục mệnh. Xin hai vị tiên cô hãy dẫn trưởng lão đi gặp một phen.
Hai tiên nữ bằng lòng, dẫn Hồng Đô cưỡi mây mà đi về phía bắc, chẳng mấy chốc đã đến một vùng, trông ra chỉ thấy:
Khắp trời u ám mây sầu bay
Gió rít từng cơn, bụi cát xoay
Hang núi đen mò, cành trụi lá
Xám ngắt một mầu, cỏ rủ cây
Âm ty địa ngục đâu đây
Sởn tóc gáy, choáng mặt mày. Sợ chưa!
Phía bên lối đi bỗng lại thấy một tòa thành, trên cổng treo biển lớn, để mấy chữ "Bắc âm biệt trạch", phía dưới là hai cánh cửa sắt khép chặt, lại thêm hai quỷ sứ đứng gác hai bên. Hai tiên nữ lệnh cho quỷ sứ mở cửa, dẫn Hồng Đô vào theo. Bên trong cảnh trí rất hoang tàn, khí lạnh sởn da gà. Qua thêm hai từng cửa chắc chắn nữa, từ xa một người đàn bà, mặc y phục vải xấu, đầu tóc bù xù, mặt mày buồn bã rười rượi, ngồi rũ ở ghế dựa. Hai tiên nữ chỉ cho Hồng Đô thấy:
- Đây chính là Dương Quý Phi đấy! Đạo trưởng hãy tiến lên mà gặp. Chúng tiên nữ đây không muốn giáp mặt Quý Phi làm gì đâu!
Hồng Đô bước lên chào, Dương Quý Phi đứng dậy tiếp. Hồng Đô nhắc lại việc thượng hoàng sai phái, Quý Phi khóc nức nở không thôi.
Hồng Đô tiếp:
- Hồn thơm nương nương, sao đến nỗi phải vào nơi u trệ thế này?
Quý Phi vừa khóc vừa đáp:
- Ta kết nghiệp chướng từ kiếp trước, kiếp mới đây lại chồng chất thêm nữa, nên phải chịu quả báo. Chỉ đến bao giờ nợ duyên trả hết, án xưa đã được xét xử xong xuôi, lúc ấy sẽ chịu tội rõ ràng. Còn nay vẫn phải giam giữ trong nhà ngục này, chờ ngày định tội. Cũng còn may, thuở còn ở nhân gian ta đã từng tự tay sao một quyển "Bát Nhã tâm kinh" để tụng niệm, lại thêm chim oanh vũ Tuyết Y nữ cảm ơn ta xưa, thường vì ta mà tụng kinh niệm Phật, vì ta mà sám hối, cho nên bây giờ mới được giam lỏng ở dây. Thật đội ơn sâu của thánh hoàng nhớ đến. Nay đạo trưởng trở về, muôn ngàn đừng nói rằng ta ở trong tình cảnh này, càng làm cho thượng hoàng thêm bi thương, chỉ nói rằng ta ở nơi rất vừa ý là được rồi.
Hồng Đô thưa:
- Trở về tâu thế nào cũng phải có vật gì đó làm bằng, thì thượng hoàng mới khỏi nghi ngờ.
Quý Phi đáp:
- Những vật mà chôn theo ta sau này, thì chỉ có hai cành thoa, cùng là cái hộp bằng bạc mà thường ngày ta vẫn rất thích. Trước đây đã nhờ Tuyết Y nữ ngậm đem về đây. Nay hãy chia đôi, một đường một cành thoa, đạo trưởng hãy mang về cùng cả hộp bạc, có thể lấy nó làm tin vậy.
Nói xong, liền lấy ngay thoa vàng, hộp bạc giao cho Hồng Đô.
Đạo sĩ ngắm nghía một hồi rồi thưa:
- Hai vật này ở dưới trần đều có, chẳng đủ lấy làm bằng. Hoặc là có chuyện, có việc gì đó, người ngoài chẳng biết, xin nương nương hãy kể lại cho, cũng đủ tin cậy hơn rồi!
Quý Phi cúi đầu nghĩ ngợi một lúc rồi đáp:
- Có đây rồi! Ta nhớ ra rằng năm thứ mười đời Thiên Bảo, theo thượng hoàng đi tránh nóng ở Ly Sơn cung, nhân đêm "xin khéo" tháng bảy, ngồi trước sân điện hóng gió mát, đã quá nửa đêm, cung nga đều đi ngủ cả, ta cùng thượng hoàng riêng trao lời gắn bó thề thốt, nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng. Việc này hoàn toàn chẳng có người nào biết. Đạo trưởng cứ thế mà kể lại, cũng đủ để thượng hoàng tin rồi!
Hồng Đô còn định hỏi nữa, thì thấy hai quỷ sứ chạy lại giục:
- Mau đi đi thôi! Đi thôi!
Hồng Đô không dám lưu luyến, vội vàng ra cổng, hai vị tiên nữ đã không thấy đâu nữa. Một trận cuồng phong nổi lên, cuốn theo cả Hồng Đô đi xa tít, rồi đặt Hồng Đô xuống một nơi, mà nhìn kỹ, thì ra là ở chân núi vừa rồi, ba vị tiên ông vẫn còn ngồi đó đánh cờ, mới chỉ được một ván.
Trương Quả gọi Hồng Đô đến trước mặt mà bảo rằng:
- Đạo trưởng đã gặp được Dương Quý Phi, đã được bằng chứng rồi, hãy nhanh quay về hạ giới đi thôi!
Hồng Đô thưa:
- Vẫn còn một việc nữa xin nhờ các tiên sư chỉ giáo, là tiền kiếp của Mai Phi Giang Thái Tần ra sao, để về tâu lại thượng hoàng.
Trương Quả đáp:
- Mai Phi vốn là tiên nữ trong Nhụy Châu cung, nhân có chuyện cười đùa với Khổng Thăng Chân nhân, lòng phàm trỗi dậy, nên phải giáng xuống trần hai kiếp. Cả hai kiếp đều thác sinh vào cung vua. Thời nhà Tùy, thì sinh làm Hầu phu nhân, cậy tài cậy sắc nhưng lại không được gặp mặt nhà vua, để đến nỗi phải tự tận. Sau đó chuyển thành Mai Phi, cũng bởi đã từng cười cợt với Khổng Thăng Chân nhân. Nhưng phải nạn ganh ghét, đày ra lãnh cung Thượng Dương, là bởi Thiên đình trừng phạt tội xưa vậy thôi. Về sau nhân lâm nạn, mà vẫn giữ được khí tiết, trung nghĩa thật đáng khen cho nên được tiên nữ xuống cứu. Cuối cùng được quay về cung cũ, trùng phùng với Đường Minh Hoàng. Hưởng trọn mệnh trời, rồi được trở về kiếp tiên ở Nhụy Châu cung như xưa.
Hồng Đô vẫn nói:
- Chu Quý Nhi cùng Tùy Dượng Đế thề nguyền riêng tây, kiếp sau lại được tái hợp như lời. Nay thượng hoàng cùng Dương Quý Phi cũng thế thốt đã nhiều, liệu lai sinh có được hội họp vợ chồng chăng?
Trương Quả đáp:
- Chu Quý Nhi lấy thân trung nghĩa mà cảm thần thánh, vì vậy mới được như nguyện, Dương Quý Phi thì trinh tiết dã chẳng có, lại làm đủ điều gian ác, những lời thề nguyền kia chuyển qua chỉ là những lời ham muốn dâm loạn, cuồng si, đâu có thể lấy làm chính đáng. Cũng như Vũ Tắc Thiên, Vi Hoàng hậu, Thái Bình, An Lạc Công chúa, Hàn Tần, Quắc Quốc phu nhân, đều là một lũ dâm loạn đến cuồng điên. Trong những lúc dục tình bột phát kẻ nào chẳng chỉ non thề biển, viện đủ mọi kiếp, cùng trăm thứ thánh thần chứng giám, nhưng chỉ là những lời nhảm nhí, chẳng ai mà hoài hơi tính đến làm gì.
Hồng Đô lại hỏi tiếp:
- Bây giờ Vũ Thái hậu, Vi Hoàng hậu cùng bọn người kia, rồi những kẻ phản nghịch An Lộc Sơn nữa, hồn phách về đâu rồi?
Trương Quả đáp:
- Vũ Tắc Thiên vốn là kiếp sau của Ngụy Công Lý Mật, nên tìm mọi cách giết sạch con cháu nhà Đường, để báo thù kiếp trước. Chính vì vậy mà tội nghiệt, dâm dật kiếp này còn lớn, nên đến nay đang cùng bọn Vi Hoàng hậu, Thái Bình, An Lạc Công chúa, cộng thêm những quan tham lại nghiệt, đều đáng rơi vào A Tỳ địa ngục, vĩnh viễn không bao giờ còn được thác sinh kiếp khác nữa đâu. Đến như bọn phản nghịch An Lộc Sơn, Sử Tử Minh, cùng bọn phản thần chạy theo giúp chúng, rồi tướng tá của họ An, họ Sử, cả những kẻ lớn nhỏ quan viên gian ác, xiểm nịnh, những hoàng hậu, phi tần, hoạn quan, ngỗ nghịch, lăng loàn, tàn ác của bản triều, vốn ứng với nghiệt chướng kiếp trước mà thác sinh, thì nay cứ đối chiếu việc làm xấu xa kiếp này mà đưa vào địa ngục, vạn kiếp chỉ được chuyển hồi trong vòng loài vật. Bọn này thì quả là không đếm hết. Đạo trưởng hãy quay về tâu lại với thượng hoàng đúng như lời dặn của Dương Quý Phi, hoặc cứ nói rằng Quý Phi đang chịu tội. Lại cố khuyên để thượng hoàng rửa lòng trần, sám hối tội lỗi, sạch duyên sạch nợ, nếu đạt đến cõi giác ngộ, thì lúc qua đời, chúng tiên này sẽ sẵn sàng tiếp đón thượng hoàng vậy!
Nói xong, vẫy mạnh ống tay áo, Hồng Đô đạo sĩ đã giật mình tĩnh dậy thấy mình đang quỳ trước đàn khói hương nghi ngút.
Hồng Đô lặng ngồi lúc lâu, khỏi cơn bàng hoàng nhớ lại mọi chuyện, sờ vào trong ống tay áo, vẫn còn cả hai vật thoa vàng, hộp bạc. Tiến lên trước điện, đem những lời của Trương Quả, không quên cả những lời dặn riêng, tâu rằng Mai Phi, Quý Phi đều là tiên nữ ở Nhụy Châu cung giáng thế, Mai Phi thì không được gặp, còn Quý Phi giáp mặt chuyện trò. Rồi nhân đó thưa luôn lời Quý Phi:
"Thượng hoàng vốn cũng là tiên nhân giáng thế, nên cùng ta có duyên nợ, vậy nên mới có cuộc gặp gỡ vừa rồi ở trần thế. Nay tuy xa cách, nhưng vẫn còn ngày gặp gỡ. Chẳng nên bi thương. Xin thượng hoàng hãy di dưỡng tính tình, nghìn thu vạn kiếp sau này lại vẫn được quay về nơi tiên cảnh như xưa!"
Nói xong liền đưa thoa vàng hộp bạc dâng lên làm chứng.
Thượng hoàng ngắm nghía, tuy ngoài miệng thở than, nhưng thực lòng vẫn nửa tin nửa ngờ. Hồng Đô liền đem những lời thề đêm thất tịch tâu lại rồi tiếp:
- Thần nghĩ rằng thoa vàng hộp bạc đâu đủ tin, vì vậy phải thưa lại Quý Phi. Quý Phi liền nói lại chuyện này, đều là những việc riêng, chẳng người nào có thể biết, nên về tâu lại, tất thượng hoàng thấy những việc này đều không phải bịa đặt.
Thượng hoàng nghe xong, nghẹn ngào, rớt nước mắt, bèn thưởng cho Hồng Đô rất hậu rồi truyền lui ra.
Về sau này, Bạch Lạc Thiên chỉ căn cứ vào lời tâu lại bịa đặt của Hồng Đô đạo sĩ để viết "Trường hận ca", nói rằng Dương Quý Phi là tiên nữ, nên được trở về tiên cảnh. Những việc này được "Trường hận ca" truyền đi như là một câu chuyện đẹp đẽ, nào có biết đâu toàn là những điều không có thực.
Chính là:
Chính sử điên đảo giả chân
Dã sử thuật chuyện oán ân nhãn tiền
Dương Quý Phi mà thành tiên
Bạo tội ác, lại được khen hết lời
Đạo trời đâu cớ lạ đời...
Thượng hoàng từ đó ngăn bình phong ở riêng hẳn một phòng, cách tuyệt những nơi huyên náo, ngày đêm tụng kinh niệm Phật.
Đến năm Bảo ứng nguyên niên đời Túc Tông, tháng tư mùa hạ, ngoài mười sáu, bỗng thượng hoàng lấy sáo ngọc ra cầm chơi, rồi đưa lên miệng thổi mấy tiếng, thấy một đôi chim hạc bay đến trước sân điện múa, rồi lại vỗ cánh bay đi. Lúc này có một cung nga đang đứng hầu bên cạnh, thượng hoàng bèn nói với người cung nga này:
- Đêm qua, trẫm mơ thấy gặp Trương Quả, Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn đều tới mà nói rằng trẫm xưa kia vốn là Nguyên Thủy Khổng Thăng Chân nhân, bị giáng xuống thế gian này đã hai kiếp rồi, mệnh số đã mãn, nên riêng tới đây, đón trẫm về Tu Chân quán tu hành, sám hối đủ một giáp tý (1) nữa, sau này lại sẽ được trở về tiên giới như cũ. Nay hai chim hạc đã tới đón, thì quả là đến thời rồi vậy.
1 cách tính thời gian theo hàng can hàng chi của Trung Quốc, tròn 60 năm. Có lẽ Đường Minh Hoàng còn phải đầu thai làm đạo sĩ một kiếp nữa rồi mới được về cõi trên?
Sai lấy nước thơm tắm rửa, sau đó thượng hoàng vào trong đi nằm, truyền lệnh tả hữu không được làm kinh động.
Sáng ngày hôm sau, cung nữ ai nấy đều nghe rõ trong phòng ngủ thượng hoàng cười rất vui vẻ, sợ hãi vào xem, thì thượng hoàng đã băng rồi!
Chính là:
Hai kiếp phồn hoa thành mộng ảo
Một sớm lìa đời hóa chân thân!
Thượng hoàng qua đời rồi, Túc Tông vẫn đang ốm, nghe tin dữ, vừa kinh sợ buồn rầu, bệnh ngày càng nặng, chẳng bao lâu sau cũng băng hà.
Trương Hoàng hậu ý muốn phế thái tử, riêng tự lập mình lên làm vua. Lý Phụ Quốc bèn giết Trương Hoàng hậu, đưa thái tử lên ngôi, tức là Đường Đại Tông, vì vậy Phụ Quốc ngày càng ngang ngược. Về sau Phụ Quốc bị thích khách đâm chết. Người này quả thực lại chính do Đại Tông sai làm.
Còn dư đảng của bọn An Lộc Sơn, Sử Tử Minh, mãi tới những năm Quang Đức đời Đại Tông, mới thực bị diệt hết.
Sau đời Đại Tông, nhà Đường còn truyền được mười ba đời thiên tử nữa. Trong mười ba đời đó, thiếu gì chuyện hay việc dở, đều đáng để chép thành sách riêng, bạn đọc nếu vẫn chưa chán, chưa mệt mỏi, xin cứ dần dần lại sẽ trình bày tiếp. Còn sách này, chỉ kể chuyện "tiền nhân hậu quả" của hai đời thiên tử Tùy Dượng Đế cùng Đường Minh Hoàng, những chuyện xa xôi khác làm sao mà nói hết cho được!
Có bài từ làm chứng việc kết thúc sách "Tùy Đường diễn nghĩa” sau đây:
Dở xem sử cũ nghĩ cho rành
Tướng gỗ một bầy múa rối tinh
vay trả nợ nần, chính sử đó
Vẫn cần dã sử mới phân minh
Ngoài chính sử phải thêm diễn nghĩa(1)
Chiến Quốc, Xuân Thu, Hán cùng Sở
Vương Mãng, Lưu Tú, Ngụy Thục Ngô
Nam Bắc Lục triều, vẫn chưa đủ!
Ta (2) nay diễn nghĩa thêm Tùy Đường
Sách dài, dài trọn một trăm chương
Dẫu vậy vẫn chưa được tường tận
Kỹ càng mới chỉ chữ hưng vong
Sau có gắng rõ lẽ vô thường
Luân hồi, nam trung với nữ tiết
Quả báo đức độ sánh xương cuồng
Rành rành sách đó, xem thì biết
Phật tiên ma quỷ kể rõ ràng
Có không vốn ở tâm ra cả
Cũng câu phúc họa, điều nhân quả
Sáng soi, Dượng Đế đến Minh Hoàng.
Theo điệu "Nhất tùng hoa"
1 Chính sử: Những sách sử do nhà nước đứng ra tổ chức biên soạn, hoặc được nhà nước chính thức công nhận. Dã sử: Những sách do một hay nhiều người biên soạn, mang tính chất cá nhân, do đó mang nhiều dấu ấn riêng biệt. (Hán việt tân từ điển). Theo ý tác giả thì những loại tiểu thuyết diễn chí, diễn nghĩa đều thuộc dã sử.
2 Ta: Chử Nhân Hoạch tự xưng.
Nguồn truyenviet.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét