Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

23 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 166-171

Hồi 166: Tây Thái Hậu trốn chạy ra Nhiệt Hà

Bọn Nghĩa hoà đoàn càng gây chuyện càng hăng. Chúng đi đập phá lung tung. Trong khi đó các chiến hạm ngoại quốc tấn công cửa bể Đại Cô, nã đại bác vào các pháo đài ven bờ.

Đô đọc Trực Lệ Nhiếp Sỹ Thành, Xuyên quân Lý Bỉnh Hành, Thiểm quân Mã Ngọc Côn, nhất thời không có cách chi địch nổi, đành phải quay giáo chạy lui. Còn bọn Nghĩa hoà đoàn thì mới được nếm có loạt đại bác đầu đã chạy có cờ, mặt xanh lại như gà cắt tiết, chân như muốn đóng đinh luôn xuống đất.
Nhiếp Sỹ Thành hô quân xông lên. Vừa được vài bước, không ngờ một viên đại bác bắn trúng ngay vào, khiến đầu Thành vỡ tan ra, máu me loang lổ cả đám cỏ già trên mặt đất, chết ngay tức khắc.

Mã Ngọc Côn một mình một ngựa chạy biến. Lý Bỉnh Thành thấy toàn quân đã tan rã, rút kiếm tự tử chết luôn.

Thế là pháo đài Đại Cô thất thủ. Liên quân tám nước: Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nhật, Nga, Ý, Áo đổ bộ lên Thiên Tân. Tư lệnh hạm đội Đức quốc là Ngoã Đức Tây tổng chỉ huy quân đội Liên quân hạ lệnh tiến thẳng vào Bắc Kinh, bức bách kinh thành.

Tin tức truyền đi nhanh chóng. Tình hình thực vô cùng khẩn trương, tổng đốc Du Lộc uống thuốc độc tự tử, Vinh Lộc lúc này bấn loạn, vội chạy vào Di Hoà viên tâu Thái hậu:

- Bát quốc Liên quân đánh phá Đại cô, hiện đã bức bách Bắc Kinh.

Nghe Vinh Lộc tâu trình một lượt, Tây thái hậu vội cho triệu Đoan vương và Cương Nghị vào Di Hoà viên để hỏi chuyện.

Đoan vương nghe tin tức đồn đại bện ngoài, mà tin nào cũng dữ, trong lòng đã có ý sợ hãi, nay được lệnh của thái hậu truyền vào, biết thế nào thái hậu cũng cật vấn và trách quở, nhưng không đi không được, bởi thế vương đành phải cùng với Cương Nghị líu ríu kéo nhau vào.



Sau khi bọn Đoan vương tham kiến xong, Tây thái hậu tỏ ý giận tức đến cực độ, cất tiếng hỏi:

- Chủ chiến lần này đều do bọn ngươi gây ra. Hiện mọi việc đã hỏng hết rồi, tình trạng đã thế, bọn ngươi còn không biết tìm lấy một kế sách chi để đối phó nữa sao?

Đoan vương và Cương Nghị đứng cả bên cạnh Tây thái hậu miệng nín thinh, không nói lên được lời nào.

Giữa lúc đó, bỗng có nội giám hất hoảng chạy vào báo:

- Ngoại binh đã kéo tới đang hướng súng để nổ vào thành.

Tây thái hậu hoảng hồn thất sắc, mặt xanh như chàm đổ.

Vinh Lộc thấy việc nguy cấp quá rồi, bèn tâu:

- Việc đã quá gấp. Quyết không thể nào để cho bọn ngoại nhân kéo vào đây để giày xéo làm nhục được. Theo ngu kiến của nô tài, kính xin Thái hậu ngự giá xuất kinh, tạm thời tránh khỏi cơn nguy là hơn.

Tây thái hậu nhỏ lệ hỏi:

- Lúc cấp bách này, đi đâu được bây giờ chứ?

Tuy nói vậy chứ rồi bà cũng gọi ngay mấy người thân tín lại bàn tính sơ qua để quyết định. Thế là cá bọn chấp thuận chạy lên Nhiệt Hà, rồi sau hãy hay.

Mọi việc đã rõ. Cương Nghị được lệnh ra ngoài sửa soạn xa giá, một mặt tới Doanh đài thông báo cho Quang Tự hoàng đế biết, đồng thời triệu tập hết cung tần, mỹ nữ lại để chuẩn bị lên đường.

Trân phi lúc đó cũng có mặt trong đám, nước mắt chạy quanh đứng ngay bên cạnh thái hậu. Tây thái hậu thấy thế, chọt nhớ tới chuyện xưa, thấy chuyện ngày nay còn hối hả gấp gáp hơn chuyện thất trận năm Giáp Ngọ nhiều, trong lòng càng lấy làm ghét cay ghét đắng Trân phi, vì bà cho rằng thế nào bà cũng bị nàng chê cười mai mỉa. Bà nguýt Trân phi một cái dài thượt, cười nhạt nói:

- Hiện nay mọi người đã chuẩn bị ra đi, còn "bà" thì thế nào?

Trân phi giơ chiếc khăn hồng lên gạt lệ nói:

- Xin nghe theo lời chỉ dạy của thái hậu cả.

Tây thái hậu nói:

- Theo ý bọn này thì vào lúc gấp gáp hối hả này, con gái trai trẻ xuân sắc đi đường chẳng tiện, mà ở lại đây thì lại bị chúng làm nhục, thôi thì bọn ta để mặc "bà" tự quyết lấy.

Trân phi nghe xong lời nói này biết rằng mình khó thoát được nghịch cảnh, bèn nhỏ lệ đáp:

- Thần thiếp đã mong được ân tứ. Duy chỉ phải hoàng thượng là một vị vua của một nước, muôn vàn không nên rời kinh mà đi xa. Nếu không, trong kinh không chủ, biết lấy ai để thu xếp mọi việc!

Trân phi vừa nói tới đây, Tây thái hậu đã quát ầm lên:

- Quốc gia đại sự, đã có ta và hoàng thượng gánh vác, không cần đến mi phí nhiều lời.

Nói đoạn, Tây thái hậu lệnh cho nội giám ban cho Trân phi một cái chết toàn thây. Hai tên nội giảm chạy đi lấy chiếc chăn rộng, chụp lấy Trân phi, bó chặt lại rồi khiêng tới cái giếng trong vườn, ném xuống.

Lúc này, Cẩn phi cũng có mặt bên cạnh, thấy em gái bị hành hình như vậy, bất giác động lòng oà khóc. Quang Tự hoàng đế cũng tính can ngăn nhưng bởi vẫn e sợ Thái hậu nên đành thúc thủ. Thật đáng thương cho một kiếp hoa.

Giết xong Trân phi như nhổ được cái gai trước mắt, Tây thái hậu vội cải trang thành người dân chạy loạn, leo lên xe, mặt buồn rười rượi. Vinh Lộc chạy tới xin lệnh, bà nói:

- Sau khi bọn ta chạy khỏi kinh thành, tất cả mọi việc đều do ngươi tạm thời định đoạt. Còn nếu bọn Tây dương chấp nhận mở cuộc hoà nghị, ngươi tự nghĩ lấy ý chỉ, triệu tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Hồng Chương lên kinh, cùng với Khánh vương Dịch Khuông Đồng làm đại thần toàn quyền để nghị hoà. Nghị hoà đã xong xuôi, bọn ta sẽ hồi loan.

Vinh Lộc nhận dụ xong lui ra, Tây thái hậu quay lại nhìn bọn đại thần theo xa giá chỉ vỏn vẹn có hai người là Vương Văn Thiều và Triệu Thư Kiều mà thôi. Bà nhớ tới hồi nào ăn mừng lễ thượng thọ mà càng thêm xúc động can trường.

Không chần chừ, Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế vội vã khởi hành. Khi xa giá ra khỏi cửa Đức Thắng môn, thì đã có Mã Ngọc Côn đem theo bốn, năm trăm quân đợi sẵn.

Đó là đoàn quân của Vinh Lộc đã chuẩn bị để bảo vệ thái hậu và hoàng thượng Tây hành.

Xe chạy được vài chục dặm, lúc đó vua tôi mới sực nhớ ra rằng không mang theo lương thực. Bụng người nào người nấy đói meo. Khổ cái là đây lại thuộc vùng hoang vu rậm rạp, chẳng thấy một mái nhà, một xóm làng nào cả.

Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế đành phải nhịn đói gắng gượng lên đường. Nhưng phải cái bọn phu xe đói quá, khiêng vác không nổi nữa, đành nằm quay ra bên đường, ngổn ngang như những thây ma, nhất định không chịu đi nữa. Mãi sau, đích thân Tây thái hậu đành phải hạ thân vỗ về khuyến khích, chúng mới cố gượng đi tiếp.



Xe đi gập ghềnh, người ngựa đều đã quá mệt. Lại vài ba chục dặm nữa, đoàn người mới thấy được một thôn trang bên vệ đường. Bọn nội thị, cung nữ lần đầu gặp cảnh gian truân người thì nằm bò trên xe, kẻ lăn quay ra vệ đường, trông mà thê thảm.

Tây thái hậu nhìn trước trông sau chợt cảm thấy lòng mình như bất nhẫn, như xúc động mãnh liệt. Bà truyền lệnh ngừng xe. Lý Liên Anh chạy vào trong thôn hỏi bọn dân làng:

- Bọn ta vốn thuộc gia đình quyền quý, tỵ nạn qua đây. Nhân lúc đi quá vội, không kịp đem theo lương thực, tiền nong, bởi thế mong các người cung cấp cho chút ít thực phẩm.
Mai sau về kinh, bọn ta sẽ xin hậu tạ.

Bọn dân quê thấy đoàn người mặt mày đều hốc hác, tai tóc bơ phờ nhưng vẫn còn y nguyên cái vẻ quyền quý trên người, bèn tranh nhau đem cơm nước ra.

Ai nấy ăn uống ngon lành, kể cả Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu cũng như Cẩn phi, người nào cũng ăn uống đôi chút, chỉ riêng Tây thái hậu, làm sao mà nuốt cho trôi cái thứ gạo lức khô đến cháy cổ đó được? Bất giác bà rưng rưng nước mắt nhìn Quang Tự hoàng đế rồi cất tiếng run run nói:

- Bọn ta sống trong cung cấm, làm sao biết được cái cảnh khổ cực của dân! Ngươi nhìn xem, chúng chỉ có cái thứ cơm đó để no lòng thôi đấy. Còn bọn ta, ngày nào cũng mâm cao cỗ đầy, ấy thế mà vẫn cho là không vừa miệng. Có từng trải gian nan mới biết sự đời không dễ.

Nói đoạn Tây thái hậu khóc lên hu hu, tiếng khóc vô cùng bi thiết. Trong đám tòng vong cạnh thái hậu, còn có cả ba con gái của Khánh vương, Bối tử Phổ Luận và bọn Quế công phu nhân… Nhìn thấy tình cảnh bi thương của Tây thái hậu, cả bọn xúm lại khuyên giải, an ủi, một mặt cho đoàn người tiếp tục lên đường. Đi một thôi nữa thì gặp chợ. Tây thái hậu lại sai Lý Liên Anh đem theo một bọn người vào trong chợ để tìm cơm kiếm nước. Tây thái hậu cũng như Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu mệt quá, chẳng buồn xuống nữa! Ngồi liền mãi trên xe cho đến sáng mai.

Qua hôm sau, xa giá lại khởi trình. Tây thái hậu bị thuốc hành, vì đã hai ngày bà chưa được mồi thuốc phiện vào người, hơn nữa cũng đã hai ngày không ăn bà mệt lử, ngồi co ro trong xe, chẳng khác gì cái xác không hồn.

May thay, đến gần trưa, xe chạy tới địa phận huyện Hoài Lai, Tây thái hậu cho Lý Liên Anh đi trước thông báo cho viên tri huyện là Ngô Gia Khôi. Được tin, hắn hốt hoảng chạy ra khỏi thành nghênh tiếp, rồi đặt tiệc khoản đãi.

Đến lúc Tây thái hậu, hoàng thượng và hoàng hậu dùng cơm, bữa cơm tuy nói rằng của quan huyện đãi nhưng cũng chẳng lấy gì gọi là sang, chỉ tại miền Hoài Lai này cũng là miền nghèo túng, khổ cực. Thực ra, thì bữa cơm của quan huyện Hoài Lai cũng còn ngon hơn bữa cơm của bọn dân nghèo hôm qua nhiều.

Tây thái hậu ăn xong, gọi huyện lệnh phu nhân giúp chải lại mái tóc. Bà ở ngay trong cái phòng khách của huyện đường.

Đợi cho thái hậu và hoàng thượng yên giấc, Lý Liên Anh mới lẻn ra ngoài đi tìm một bộ bàn đèn với một chút thuốc về. Cái dọc tẩu chỉ là một cái ống trúc đã cũ, hai mép lem nhem. Còn cái bàn đèn, trời ơi! Nó dơ dớp sao chứ!

Tây thái hậu nhìn thấy những của nợ nọ, nhiều lúc lợm giọng, nhưng cơn nghiện đã bắt đầu lên, thì chẳng cần kể đến chuyện dơ hay sạch nữa. Bà cố rít mấy điếu cho đã thèm. Nhờ được bữa thuốc mà đêm đó bà ngủ một giấc ngon lành, khi thức dậy, lại tỉnh như sáo sậu. Thật là một loại thuốc tiên!

Bọn nội thỉ cung nữ hôm đó cũng được một bữa no say, sung sướng. Tây thái hậu buột miệng than thở:

- Người ta có khổ mới biết sướng! Câu nói đó không ngờ hôm nay lại đặt vào miệng ta.

Sáng hôm sau, thái hậu thức dậy. Tri huyện Hoài Lai đi thuê thêm mấy cỗ xe để đưa thái hậu và hoàng thượng, hoàng hậu lên đường.

Đoàn người ra đi vừa được nửa ngày, bỗng nghe tiếng la lối quát tháo om xòm ở phía trước. Tây thái hậu lúc này chẳng khác gì chim sợ là cây cong, mặt biến sắc, từ màu xanh ra màu đen sậm vội cho người chạy lên trước hỏi xem có biến cố gì xảy ra. Viên nội giám chạy đi một lúc rồi quay lại hồi tấu Thì ra đó là cánh quân năm trăm của Mã Ngọc Côn hết lương, suốt ngày phải theo giá tây hành, bụng đói meo mà không có ăn, muốn làm reo, không chịu đi nữa, xúm lại cãi cọ nhau, suýt nữa choảng nhau.

Tây thái hậu nghe lời tâu của viên nội giám, nhất thời chẳng nghĩ ra kế gì, chỉ còn cách truyền lệnh cho bọn cung nữ lột hết những trâm vàng thoa ngọc trên đầu ra để khao thưởng cho đám quân đang có ý phản đến nơi, để chúng vui lòng ra đi, lòng bà thầm mong không còn một trở ngại nào trên đường.


Hồi 167 : Hòa Ước Bắc Kinh

Gặp bao nỗi vất vả gian nan Tây thái hậu lặn lội mãi mới tới Thái Nguyên. Tuần phủ Cam Túc là Sầm Xuân Huyên đem quân Cần vương theo tới kịp. Bọn đại thần khác như Vương Văn Thiều, Triệu Thư Kiều cũng lục tục kéo đến.

Lúc này Tây thái hậu tâm thần hơi yên, lệ nhỏ ròng ròng trên đôi má hóp lại vì phong trần, run run nói với Sầm Xuân Huyên:

- Bình sinh, thực ta chưa từng gặp phải cảnh khốn khổ này bao giờ. Đấy, khanh cứ xem, xưa kia bao kẻ lúc nào cung một chung, hai chung, thế mà khi hoạn nạn thấy được mấy ai? Khanh không nề nao khổ, hoạn nạn theo chân, mai yên ổn về kinh, ta quyết không quên.

Nói đoạn Tây thái hậu giơ tay vỗ mạnh vào lưng Sầm Xuân Huyên khóc rống lên, Huyên thấy tình cảnh quá bi thương, vội tìm lời an ủi:

- Thái hậu nên bảo trọng mình vàng, chớ có bi thương quá độ Sự an ninh trên đường bộ, đã có tiểu thần lo liệu, quyết chẳng có điều gì xảy ra, xin thái hậu yên lòng.

Tây thái hậu nghe xong câu nói, nuốt lệ gật đầu, truyền chỉ tạm trú lại Thái Nguyên. Song thái hậu đã bị một phen hoảng sợ, do đó, phủ đài tỉnh Sơn Tây liền tiến cử Huyện thăng Diệp Thừa Tự tới nơi để chần trị cho bà. Tự hốt một thang thuốc "hoà vi thư can", uống vào bà thấy có đỡ một đôi phần.

Tin tức từ Bắc Kinh cho hay tình hình chiến sự vô cùng hiểm nguy. Tây thái hậu lòng càng thêm lo lắng muôn phần. Bà tức tốc truyền lệnh xa giá tây tiến.

Việc ra đi này, đối với vua Quang Tự thực chẳng được ngài đồng ý. Vì đã không tán thành buổi đầu nên khi thấy Tây thái hậu còn muốn giá hạnh Tràng An thì cực lực phản đối. Thế là hai mẹ con đâm ra cãi nhau. Cuộc cãi vã om xòm xảy ra đến mấy lần. Nhưng Tây thái hậu vốn người vừa cương quyết vừa ngang bướng, nào có chịu nghe ai. Quang Tự hoàng đế chống chẳng lại đành phải riu ríu đi theo.

Khi xa giá đến Tràng An, Tây thái hậu liền hạ chiếu tự bắt tội mình. Cũng chính lúc này, tại kinh thành Bắc Kinh, Vinh Lộc đã nghĩ đến việc viết chiếu thư, triệu Lý Hồng Chương tiến kinh mở cuộc nghị hoà.

Trong bàn hội nghị, viên đầu lãnh của Đức quốc do tám nước đề cử, đưa ra những điều khoản vô cùng khắc nghiệt.

Lúc đầu, mọi người tưởng như không thể nào hoà hội được. Mãi về sau, phải nhờ đến cái óc thông minh của Lý Hồng Chương mới có thể tìm ra được một con đường khéo léo để giải quyết.

Con đường tốt đẹp đó chẳng qua chỉ là một người đẹp tên gọi Sai Kim Hoa. Nàng Sai Kim Hoa vốn là một danh kỹ, lại còn là cục cưng của Hồng Dung. Khi Hồng Dung được lệnh đi sứ qua nước Đức, có chơi thân với viên thượng uý pháo binh Đức tên là Ngoã Đức Tây. Sai Kim Hoa cũng thân với viên thượng uý này lắm. Theo tập quán của Tây phương, thì chuyện nam nữ giao thiệp vốn rất tự nhiên, cho nên mối quan hệ giữa Hoa và Ngoã càng có chỗ thân mật, dẫn tới say mê nhau, nhất là Ngoã lại có tính hiếu sắc, đặc biệt là cái sắc của làn da mịn màng, thân hình thon thả của người con gái Đông phương.

Đến lúc về nước, Hồng Dung quay ra ốm nặng, sau một thời gian liệt giường đâm ra bất lực; khiến Sai Kim Hoa tuổi xuân còn hơ hớ chẳng biết trông cậy vào đâu.

Khi liên quân tám nước bức bách cửa bể Đại Cô ở Thiên Tân, quân Đức lấy danh nghĩa là báo thù cho viên công sứ Khắc Lâm Đức, tuyên chiến với Trung Hoa. Ấy cũng vì chỗ đó nên các nước chầu rìa khác đã suy tôn Đức lên làm minh chủ, rồi viên tướng Đức Ngoã Đức Tây mới vọt ngay lên chức thống soái liên quân.

Lý Hồng Chương vì chuyện nghị hoà cấp bách, đành phải uỷ thác nhiều việc cho Sai Kim Hoa, nhất là việc đến tỷ tê, ỷ ôi để tán tỉnh, khuyên giải viên tướng Đức dại gái này.

Ngoã Đức Tây lâu ngày nay mới gặp lại người tình thuở nọ, biết bao sung sướng. Thế là chỉ qua một đêm viên tướng Đức thay đổi ngay thái độ: hôm qua gay cấn bao nhiêu thì hôm nay lại dễ dãi bấy nhiêu, chẳng những thế, Ngoã ta còn quay lại tích cực giúp đỡ Trung Quốc. Kết quả: cảnh binh đao chấm dứt, ngai vàng nha Thanh còn nguyên vẹn. Nhưng Lý Hồng Chương thi ngay sau đó lâm bệnh và… từ giã cõi đời.

Tây thái hậu được tin Lý Hồng Chương chết, lấy làm xót thương lắm, lập tức hạ lệnh ban thưởng cho tang quyến một vạn đồng bạc để làm ma chay. Ngoài ra, bà còn sai Dịch Khuông thay mặt triều đình đi điếu để an ủi anh hồn của người tôi trung liệt. Sau hết, còn thưởng tứ cái tên thuỵ là Văn Trung.

Xin nhắc lại nơi đây những điều ước trong cuộc nghị hoà giữa Lý Hồng Chương và bát quốc liên quân. Hoà ước có mười hai điều cả thảy. Tuy nói rằng hoà ước đã ký nhưng còn bao nhiêu thủ tục đâu đã xong. Tây thái hậu liền phái Vương Văn Thiều đến thay thế Lý Hồng Chương, để kết toán cho kỳ xong một phen đại hoạ.

Biến cố lịch sử tưởng có mòi làm tan tành cả sự nghiệp của bao đời tổ tiên Thanh triều dày công xây dựng lên, may thay đã trôi qua dù còn có người coi đó như một cơn ác mộng.

Ngồi buồn, Tây thái hậu lúc đó mới kiểm điểm lại mọi việc, nhất là cái việc đã chính tay mình gây ra. Bà thấy rõ ràng là một việc nhục quốc táng quyền, mình chỉ còn biết trách mình mà thôi. Bất giác, hai hàng lệ từ từ lăn trên đôi gò má bà lúc này đã xám đen đi vì phong trần, cũng có khi vì thiếu thuốc phiện trong những ngày vất vả vừa qua.

Lại nói Quang Tự từ khi bị cầm tù tại Doanh đài, trong lòng căm tức khôn nguôi, không có lúc nào phát tiết ra hết được Rồi đến khi liên quân tám nước kéo đại binh bức bách Bắc Kinh, thái hậu hoảng hốt bỏ chạy, Quang Tự hoàng đế được tin này, liền mặc triều phục chinh tề định đến sứ quán ngoại quốc. Tây thái hậu sợ quá, vội bảo nhà vua:

- Ngươi đi lúc này có khác chi nhảy vào miệng cọp không?

Quang Tự hoàng đế thản nhiên nói:

- Bọn họ vốn người nước văn minh, đối với các bậc vua chúa của các nước láng giềng họ quyết chẳng gia hại đâu mà ngại. Con đi chuyến này, nếu có bàn đến việc nghị hoà thì thế nào cũng thành công.

Tây thái hậu vội vàng ngăn trở:

- Ừ thì ngươi đi, nhưng lúc này đâu có phải là lúc đi! Lúc này mà ngươi đến sứ quán, thử hỏi có phải ngươi đến để nộp mạng, nhận tội không? Còn nếu nói tới để nghị hoà, thì thực chẳng có một lý do chi hết! Tại sao ngươi lại mạo hiểm vô ích như vậy?

Quang Tự hoàng đế không nghe, cương quyết ra đi. Tây thái hậu thấy vậy không còn cách nào hơn, chỉ đành đổ cho nhà vua quá hoảng hốt, thần kinh thác loạn, sai bọn nội giám dìu ngài lên xe, cưỡng bức lên đường chạy loạn. Về sau, khi đến Thái Nguyên, Tây thái hậu hạ lệnh tây tiến qua Tràng An, Quang Tự hoàng đế không chịu, lại một phen đấu khẩu kịch liệt. Giờ phút gay cấn này, Tây thái hậu lại chỉ còn cách đổ diệt cho ngài lên cơn điên, bức ngài đi theo. Trong khi xa giá tây hành, có ai biết được một ông vua còn trẻ vốn sẵn bầu máu nóng đành chịu khoanh tay trước sự cưỡng bách của một bà già tai quái, chỉ còn biết rỏ lệ ròng ròng để cho nguôi đôi phần uất hận?

Có người tiếc cho trường hợp này, ví thử Tây thái hậu để Quang Tự hoàng đế lai kinh, kịp thời chống đỡ, thì đâu đến nỗi bị ngoại nhân dày xéo tơi bời, nhục quốc, táng quyền.

Lại cũng có người cho rằng Đức Tông hèn kém hôn muội, cho nên mới để đất nước và nhân dân bị bao cảnh tang thương.

Nhưng lại cũng có kẻ cho đó là nhà Thanh đã đến hồi mạt vận không thể cưỡng lại lòng trời.

Vì bị bức bách như vậy cho nên từ sau khi xa giá Tây An trở về, Quang Tự hoàng đế thường u uất trong lòng, chẳng có lúc nào vui. Lời ăn tiếng nói, có nhiều khi phẫn kích, giận tức, khiến Tây thái hậu không thể nào lượng thứ được. Do đó, Tây thái hậu có dụng ý đổ cho nhà vua bị bệnh thần kinh và tìm mọi cách làm cho quần thần tin tưởng ở chuyện đó.



Một hôm, nhân có cô con gái lớn của Khánh vương tên là Nguyên Đại Nải Nải thường đến hầu hạ bên cạnh hoàng đế, thái hậu bèn ngầm bảo Quang Tự hoàng đế lấy hộp trang sức của nàng đem giấu đi. Ông vua ngây thơ này không hiểu dụng ý của Tây thái hậu cứ thực thà làm theo. Kịp đến khi Nguyên Đại Nải Nải tắm rửa xong, tìm không thấy cái hộp, nhìn quanh thấy hoàng đế giấu vào nơi nọ, liền hỏi để lấy lại Quang Tự hoàng đế không đưa lại mà còn nói:

- Đâu được! Cái hộp này, chính Thái hậu cho đấy. Làm sao lại dám trao cho kẻ khác được?

Nguyên Đại Nải Nải nghe nói vậy, đành thôi, nhưng khi yết kiến thái hậu, nàng bèn đem chuyện cái hộp ra nói, Tây thái hậu cười bảo:

- Đường đường là một vị hoàng đế mà đi ăn cắp cái hộp của người ta. Thế mà bảo hắn không điên thì là gì?

Sau khi câu chuyện này xảy ra, trong âm mưu hãm hại của thái hậu, tin đồn Quang Tự hoàng đế mắc bệnh điên loạn truyền đi càng ngày càng xa, và đã có nhiều người tin theo.

Mặc dù cũng không ít người vẫn biết, nhà vua bất quá chỉ vì rắp tâm hãm hại của Thái hậu mà chịu điều tiếng ấy.

Lại nói đến chuyện hoà đàm với hoà ước mười hai điều khoản. Trong đó có một điều ước: trừng phạt hết tất cả những tên đầu sỏ gây hoạ. Thế là Tây thái hậu phải đem thực hành ngay khi chưa hồi loan. Do đó, bà hạ chiếu từ Tây An: đem Tải Lan, Dục Hiền ra chính pháp. Đoan vương thì bắt đi lính thú mãi Tân Cương, Cương Nghị được tin này đã tự tử ngay khi còn trên đường đi Tây An. Ngoài ra, quá nửa bọn triều thần có dính dấp tới Nghĩa hoà đoàn đều bị cách chức.

Mọi việc giải quyết xong xuôi cả, lúc đó Tây thái hậu mới chuẩn bị hồi loan.

Hạ tuần tháng bảy năm Tân Sửu, Tây thái hậu sai quần thần đi quan sát các hành cung bên đông lộ cũng như những con đường xa giá đi ngang qua để sửa soạn hồi cung. Mặt khác, bà truyền dụ xuống các quan lại địa phương, phàm những nơi xa giá đi ngang, khỏi phải cung đốn, đón rước trọng thể, trái lại cần phải kiệm ước đến mức tối đa. Điều khuyến dụ lạ lùng này bất quá chỉ tại khi phong trần thái hậu đã cảm thấy nỗi cực khổ của dân, và đã có lòng thương xót.

Hôm hồi loan, tất cả những đường phố của thành Tây An đều được sơn quét màu vàng. Hai bên phố sá đều chăng đèn kết hoa, trông hết sức náo nhiệt. Tình hình lúc này nếu đem so sánh với tình cảnh thuở nọ thì quả một trời một vực.

Tây thái hậu lại truyền dụ cho kéo hết những bức màn che xe loan lên cao, để cho dân chúng tha hồ chiêm ngưỡng dung nhan của bà.

Ngay cái lúc xa giá chưa xuất thành, người ta đã thấy một toán lính có nhiệm vụ dẹp đường, tay cầm roi mây đi khắp các phố để càn quét bố ráp trước. Rồi sau đó, mới đến một toán ngựa đi tiền đạo, cứ một cặp rồi lại đến một cặp đi song song với nhau. Tiếp đến là bọn nội giám khăn vàng áo vàng và bọn quan lại mặc áo hoàng mã quải. Sau nữa là đám nội giám cưỡi ngựa. Bọn nội giám đi bộ, tay đều cầm cái lư hương, khói hương bốc lên nghi ngút. Trên đường đi, tứ bề vắng lặng, chim chóc bặt tăm. Những người tuỳ giá hai bên tả hữu, quá nửa là bọn vương công đại thần mặc xiêm vàng bằng lụa. Sau bọn này, có quân cấm vệ. Hết cấm vệ, thì đó là Quang Tự hoàng đế, với đoàn xe chở hoàng hậu, phi tần. Phía sau, trong cái kiệu vàng, đặt ngồi chú Đại A Kha, và rất nhiều thân vương theo hộ giá.

Xe loan của Tây thái hậu cần đến những ba mươi sáu người khiêng, tất cả đều mặc áo đoàn long quái tử, đi đứng hết sức chình tề nghiêm mật.

Đấy là tất cả những hành trang nghi vệ hôm hồi loan của Tây thái hậu. Quang cảnh thật vô cùng oai nghiêm. Ấy thế mà không ngờ giữa cái đám quân cảnh vệ hàng hàng lớp lớp đi đều ấy, một tên đại hán mình trần trùng trục xông ra, giơ cao hai cánh tay sắt nổi bắp cuồn cuộn của y lên, phóng thăng cặp giò bự như hai cái cột nhà lại trước xe loan của Tây thái hậu…

Hồi 168 : Quỷ hiện trong cung cấm

Lại nói tên đại hán mình trần trùng trục, mặt vẽ đầy hoa hoét, hai tay giơ cao, múa may quay tít, xông thẳng đến trước mặt Tây thái hậu. Đám thị vệ đi bên lập tức đuổi bắt lấy, chém phắt một đao chết tốt.

Chuyện kỳ khôi này xảy ra, bọn đại thần đi theo hộ giá sợ rằng có thích khách âm mưu hành thích, tức tốc điều tra ngay lý lịch tên đại hán. Bọn quan lại địa phương sau một hồi chạy đôn chạy đáo quay về báo cáo cho biết tên đại hán nọ chỉ là một thằng điên ở vùng này chứ chẳng phải của đảng phái nào.

Xe loan đi ngang chỗ nào cũng vậy, đám phụ nữ dân gian đua nhau ra ngắm thánh dung, đều quỳ xuống hai bên đường để đón giá. Trong cái đám, đàn bà thôn dã ấy, Tây thái hậu nhìn thấy một người mặc áo vá quỳ đó, có vẻ hết sức cung kính, biết đó phải là một mệnh phụ, liền cấp cho một cái ngân bài gọi là ân thưởng.

Đoàn xa giá hồi loan cứ trật tự như thế mà đi về ngã Đông Quan. Khắp dọc đường, chỗ nào cung thấy có từng nhóm quan lại quỳ dài để đón rước thánh giá. Lính đi theo, để hộ giá, ngoài toán của Mã Ngọc Côn hơn năm trăm người có từ trước ra, lúc này còn có các toán của Lộc Truyền Lâm, của Tống Khánh Hoà.

Khi đi qua Thái Nguyên, Quang Tự hoàng đế sai người ban phát cho những đền miếu địa phương nơi đóng quân, mỗi nơi một tấm biển. Lúc đó, Nam thư phòng cung phụng chỉ có một mình Lục Nhuận Tường. Ấy thế mà chỉ trong một buổi, hơn bảy chục nơi đền miếu đều có đầy đủ biển treo. Quang Tự hoàng đế khen Tường mấy câu, còn cho thêm một trăm tấm vải để gọi là ân thưởng.

Trong lúc Tây thái hậu còn ở Tây An, có một đứa con trai của tên hầu cận Vinh Tân, thường hay lui tới chỗ thái hậu, rất được bà yêu mến. Vinh Tân có một người thiếp yêu, lúc đó cung đến hầu hạ Tây thái hậu. Bởi thế, con trai của Tân cung được đem theo vào.

Đứa bé năm đó, tuổi vừa lên bốn, nhưng hết sức thông minh, Tây thái hậu cho nó ăn, nó không lấy ngay. Trước hết, nó chắp tay kính cẩn hành lễ, xong mới dám lấy. Do đó, Tây thái hậu thường cho gọi nó vào chạy nhảy bên cạnh, để cho khung cảnh thêm vui. Về sau, khi Tây thái hậu hồi loan, thằng bé bỗng dưng quay ra chết. Tây thái hậu buồn bã, chẳng lúc nào vui. Có lẽ cũng mất đến bốn, năm hôm, bà mới nguôi đi được.

Xa giá của Tây thái hậu đến Đại Đồng, tuần phủ tỉnh Sơn Tây là Ân Minh đã chuẩn bị sẵn cho bà cả một chuyến xe lửa. Trên xe có đặt ngai vàng, thêu long phụng đủ màu sắc sặc sỡ. Tây thái hậu leo lên xe lửa, quay lại nhìn đám vương công, đại thần, bất giác nở nụ cười trên môi, nói:

- Bọn ta còn cái ngày hôm nay nhỉ?

Nói đoạn, ngài nguýt Quang Tự hoàng đế một cái thật dài, trong khi đó, hoàng đế cúi đầu thấp xuống, giả tảng như không thấy gì. Chuyến xe lửa khởi hành, thẳng một mạch về hướng Bắc Kinh…

Chẳng bao lâu, xe lửa đã về tới kinh thành. Ra ngoài thành đón rước, đã có đầy đủ bọn đại thần văn võ người Mãn cũng như người Hán, lại còn có cả bọn công sứ của các nước Tây dương nữa. Bọn công sứ này thấy Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế xuống xe, đều bỏ mũ chào cung kính.

Tây thái hậu chỉ nhìn qua từng người rồi se sẽ gật đầu, xong lên xe loan chạy thẳng vào thành để về cung.

Thế rồi lúc trở về đến cung, bà buồn rầu khi thấy quang cảnh điêu tàn: đồ đạc bừa bãi ngổn ngang, những đồ quý, của báu trang hoàng khắp nơi, cái thì mất, cái thì vỡ tan tành.

Một nơi cung đình lộng lẫy như thế mà nay hoang lương như một bãi tha ma. Tây thái hậu đứng trước cái cảnh đổ nát này, chỉ còn biết rơi đôi dòng lệ xót xa mà thôi.

Nhưng từ sau cuộc hồi loan, đầu óc của Tây thái hậu cũng biến đổi dần. Lúc đó, Thuần thân vương Tải Phong đi sứ qua nước Đức trở về, cũng đề cao cái văn minh của ngoại bang.

Tây thái hậu thấy đại thể đã biến, không thực lòng cải cách quyết không xong. Do đó, bà cho phục lại tước cho tất cả bọn quan lại bị chết oan vì vụ Nghĩa hoà đoàn, và cho vào trong miếu Hiền Lương để hưởng cúng tế. Đối với Trân Phi, bà cũng cho vớt xác từ đáy giếng lên, lấy lễ quý phi an táng. Mặt khác bà hạ chiếu thực hành tân chính. Phàm những điều mà ngày trước bọn Khang, Lương điều trần như: bỏ khoa cử kiểu cũ, mở trường học, không được tán thành, thì nay lại đem ra cố thực hiện cho bằng được.

Nhưng từ khi cung nội trải qua một cuộc biến lớn, bao nhiêu bảo vật mất sạch, kẻ hầu người hạ cũng chẳng còn được mấy người. Cây bút hội hoạ trứ danh của bà Giao Tố Quân cũng bị bệnh chết tử lâu. Cô em gái Lý Liên Anh cũng đã ra đi lấy chồng. Bà phúc tấn vợ Đoan vương, nhân vì vương bị đày làm lính thú, trở thành vợ của kẻ tội thần nên bất tiện vào chầu. Thế là ngày nay, bà chỉ còn lại có môi một mình Thọ Xương công chúa ở bên cạnh mà thôi. Bởi thế, bà cảm thấy hiu quạnh, vắng vẻ và vô cùng cô độc.

Thấy hoàn cảnh ấy của Tây thái hậu, Khánh vương bèn cho phúc tấn của mình đem theo cô con gái tên là Trân Châu vào hầu. Tây thái hậu thấy Trân Châu lanh lẹ đáng yêu, liền giữ lại trong cung. Nàng Trân Châu vốn đã du học sang Nhật nên vào những lúc nhàn rỗi, thường giảng giải cho Thái hậu nghe về nghề nuôi tằm của chị em phụ nữ Nhật. Nàng kể rằng: Đám chị em phụ nữ Nhật này qua Trung Quốc học nghề nuôi tằm. Khi học thành tài rồi, họ còn học thêm cách trồng dâu nữa. Họ quyết định nuôi tằm lấy cho mình. Do đó, nghề trồng dâu nuôi tằm đối với Nhật đã là một môn thực nghiệp được liệt vào trong nông học, và được coi trọng hết sức Chỉ tiếc có mỗi một điều là khí hậu tại Nhật Bản không thích hợp thành thử nghề này không phát đạt được. Tây thái hậu nghe nói vậy nổi tánh hiếu kỳ liền bảo Trân Châu:

- Xưa nay, các bậc đế hậu cũng có nhiều người nuôi tằm dệt vải. Bọn mình e làm không nổi chăng?

Nói đoạn Tây thái hậu lập tức truyền dụ chọn hai mươi người phụ nữ xinh xắn trong dân gian tại miền Giang Nam để đưa vào Đại nội nuôi tằm. Bà cũng truyền lệnh cho các miền dân giã phải chiết cành dâu đưa vào trong cung cho bọn nội giám trồng.

Tây thái hậu cho làm một khu nhà riêng để cho bọn đàn bà ở lại nuôi tằm. Thế rồi, tằm làm tổ, quậy kén. Bọn đàn bà ươm tơ kéo sợi, mua khung cửi, đem về dệt lụa. Tiếng khung cửi rầm rập, tiếng thoi đưa sột soạt, vang dậy khắp cung nội. Cái người điều khiển bọn thợ dệt này cũng chính là Tây thái hậu.

Phải cái đám đàn bà này phần lớn đều có chồng con. Bởi vậy, Tây thái hậu cũng lượng tình cho họ, cứ mỗi năm cho về nhà một lần. Còn những lúc ngày thường ở trong cung, họ cũng được thái hậu ban thưởng hết sức hậu hĩ. Cứ hễ người nào dệt xong tấm lụa, bà lại thưởng cho bốn lạng bạc, dệt xong được một cuộn lụa thật dài bà thưởng mười lạng.

Mỗi khi gặp chính mùa tằm, bà còn thưởng thêm cho mỗi người hai mươi lạng bạc nữa. Những buổi diễn tuồng ở trong cung, bà cũng cho họ tới xem. Cái đám phụ nữ nhà quê này được ân sủng đến thế, kể cũng là chuyện lạ, xưa nay chưa từng có, nhất là đối với Tây thái hậu, một con người ráo riết, tàn ác, khinh người. Bởi thế, đám đàn bà nhà quê ra vào nơi cung cấm tự do này bỗng nhiên sáng giá, khiến chẳng một ai dám đựng tới họ.

Có một lần, giữa lúc nghề tằm đang vượng, bọn đàn bà Giang Nam chuẩn bị lên kinh để cung chức. Chiếu lệ thường thì trước khi lên đường, quan lại địa phương phải đến tiễn đưa họ đi. Trong đám, có một người đàn bà không chịu nghe lời dặn của bọn quan lại địa phương, cho nên viên tri huyện liền sai nha dịch đuổi về. Chẳng ngờ người đàn bà nhà quê này dám nổi xung lên mà bảo:

- Ta ở trong cung của thái hậu, đã từng được gặp biết bao nhiêu là quan to quan nhỏ, có lẽ nào ta lại sợ một tri huyện quèn như ngươi?

Nói đoạn, mụ nhà quê này tính nhảy lên giáng cho viên tri huyện nọ cái tát. May nhờ lúc đó có mấy người đồng bọn khuyên can, mụ ta mới chịu thôi mà ra về.

Viên tri huyện tức quá, xoá tên bà thợ dệt lếu láo ấy, nhưng không ngờ khi tới kinh, thái hậu thấy thiếu mất một người liền hỏi, hậu quả tất nhiên vô cùng thê thảm cho viên tri huyện nọ.

Số là khi được Tây thái hậu hỏi tới, bọn họ tố cáo ngay viên tri huyện nọ, nào là kiếm chuyện để ăn tiền, nào là gây khó dễ hách dịch, khiến người đàn bà nọ không thể lên được kinh. Tây thái hậu lập tức truyền dụ xuống Giang Nam, gọi đích danh bà ta, viên tri huyện chẳng còn biết làm sao hơn, đành phải tới nhà gọi, rồi làm đủ giấy tờ cần thiết để cho bà đi. Nhưng chuyện đâu có dễ như vậy? Khi lên đường, bà thợ dệt chỉ thẳng vào mặt viên tri huyện, chửi bới xỉa xói một hồi đã đời rồi mới chịu ra đi cho.

Trong cung nội, tử sau khi Tây thái hậu xa giá hồi loan, thường xảy ra nhiều chuyện quái dị. Có khi người ta thấy cái ghế tự nhiên ở chỗ này chuyển qua chỗ nọ. Cũng có khi người ta nghe tiếng dép đi lẹt xẹt từ phòng này sang phòng khác.

Chạy ra xem thì chẳng thấy gì. Nhưng khi bỏ đi chỗ khác, lại thấy tiếng dép ấy ở trong phòng, nghe rõ mồn một. Những chuyện quái dị này càng ngày càng nhiều, lâu dần càng thấy khủng khiếp, quái lạ hơn. Có tối người ta thấy quỷ hiện hình hoặc ma đùa cợt nữa.

Bọn cung nữ trong cung còn thấy cả Trân phi diễu qua diễu lại khắp nơi. Nhưng khi chạy lại gần xem thì lại chẳng thấy gì. Tin ghê khiếp này càng ngày càng đồn đại đi khắp hoàng cung. Đến tai Tây thái hậu, mới đầu bà không tin. Nhưng có một lần, chính Tây thái hậu cũng thấy. Lúc đó, bà mới vội vàng hội họp nội thần bàn cách phụ ma bắt tà, làm ma làm chay một phen để đuổi cho bằng hết oan hồn ma quái. Quan Thị lang Dụ Côn đề nghị mời sư sãi Lạt ma để lo việc này.


Hồi 169: Chiếc áo da rái cá

Vì chính mắt mình đã nhìn thấy ma quỷ hiện hồn trong cung cấm, Tây thái hậu liền truyền lệnh tập hợp binh sư Lạt ma vào cung, lập đàn chay cúng giải. Thế là ngày đêm chiêng trống vang rền, nơi cung cấm yên tĩnh bỗng trở thành một ngôi chùa miếu. Chuẩn bị mãi mấy ngày gần xong, sư Lạt ma tâu lên Tây thái hậu viện bắt đầu bắt quỷ trừ tà.

Bắt quỷ trừ ma thực là cả một thoại kịch thú vị vốn đã từng có trong cung Ung Hoà. Chuyện xảy ra như thế này.

Dùng một tên Lạt ma nhỏ tuổi, cho mặc áo trắng, đầu đội mũ trắng, mặt bôi năm sắc nham nhở, rồi cho nằm nép tại một nơi kín đáo bí mật trong cung. Vị Đại Lạt ma tụng kinh làm phép ở trên đài, bỗng đèn đóm tắt ngủm, rồi một tiếng rống lên ghê rợn… Tên tiểu Lạt ma giả làm quỷ sống khi nãy tức tốc từ trong chỗ núp xông ra. Bọn Lạt ma khác đứng chực sẵn chung quanh, tay cầm lăm lăm những thanh tre dài, khi nghe Đại Lạt ma quát rầm mấy tiếng, lập tức xông tới gần tên tiểu Lạt ma, dùng thanh tre phang vào người, vào đầu tới tấp. Con ma (tức là tên tiểu Lạt ma cải trang bị đánh co cẳng chạy lung tung tìm cách trốn thoát, cả bọn Lạt Ma cứ thế đánh đuổi, ma chạy trước, sư chạy sau, gây thành một đám đông hỗn loạn hết sức tức cười. Ma cứ chạy mà sư cứ theo mãi ra khỏi cung môn, theo mãi đến khi không thấy nữa mới quay trở về. Ma đã chạy rồi, lúc đó ai cũng yên chí rằng không còn ma quỷ tà yêu gì nữa, đèn đuốc lại đốt lên sáng choang.

Nhưng lần bắt quỷ trừ ma này vì được tâu lên thái hậu biết trước, nên làm quỷ đều phải là bọn thái giám đảm trách.

Đến lúc đuổi quỷ, tất cả bọn cung nữ phì tần trong cung đều phải tham gia. Cô nào cô nấy đều cầm thanh tre, đứng chực sẵn để "lâm trận".

Từ trên đàn cao, vị Đại Lạt ma niệm thần chú, bắt ấn bắt quyết xong, miệng rống lên một tiếng lớn: "Đuổi quỷ".

Tức thì, bọn cung nữ tay múa chân nhảy xông tới đuổi đánh bọn thái giám giả làm lũ quỷ vừa từ trong các ngõ kẹt xông ra. Bọn quỷ bị đuổi đánh ôm đầu chạy tứ tung, nhảy qua tường, xuyên qua rãnh, luồn hết cung này chui sang điện nọ, chẳng một nơi nào là không băng qua, nhất là những nơi có ma quỷ hiện hồn trước đây.

Bọn thái giám giả làm quỷ chạy như điên, còn bọn cung nữ được đuổi đánh thì miệng cười như nắc nẻ, tay múa những thanh tre như múa gươm giáng thẳng cánh vào đầu mấy tên thái giám đôm đốp. Nhiều tên bị u đầu rát tai, hoặc tay chân rớm máu, chỉ trong nháy mắt quang cảnh đã trở thành hỗn độn tùm lum, y như một đám giặc.

Tây thái hậu, hoàng thượng và hoàng hậu, Cẩn phi hôm đó đều tới đàn chay xem đuổi quỷ bắt ma. Thấy quang cảnh hỗn độn như vậy, nín không được cũng phá lên cười ngặt nghẽo.

Bọn cung nữ đuổi lũ quỷ giả chạy một mạch tới mãi một cái ao nước đã chuẩn bị trước. Tới đây, lũ thái giám giả quỷ co cẳng nhảy ùm hết xuống, lấy hai tay vội vàng rửa mặt cho hết những mực phấn tô lên. Đến lúc này tức là đã coi như đuổi hết quỷ rồi vậy, quỷ nhảy xuống ao theo Long vương Hà bá mất tăm rồi.

Chuyện đuổi quỷ trừ tà nực cười như vậy đấy, thế mà cũng lạ, từ đó về sau quả nhiên được yên ổn, không còn thấy ma quái hiện hồn phá quấy, doạ nạt nữa. Bởi thế việc này dần dần trở thành một tập quán, cứ đến cái mùa ấy là trong cung lại tổ chức một buổi lễ cúng kiếng rồi bắt ma trừ tà ầm ỹ như vừa kể.

Ta hãy quay lại chuyện vua Quang Tự… Từ khi xa giá hồi loan về cung, Tây thái hậu nhìn Quang Tự hoàng đế như một cái đinh trong mắt. Bởi vì Quang Tự, khi dùng Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu để thi hành việc cải cách chế độ cũ của nhà Thanh đã quá mục nát, liền bị Tây thái hậu ngăn chặn, đồng thời bắt gọn cả bọn tân chính chư thần vào trong một mẻ lưới. Đó là cuộc chính biến Mậu Tuất (1898).

Dẹp xong, Tây thái hậu đích thân lâm triều buông rèm nghe chính. Đây là lần thứ ba Tây thái hậu quay lại nắm quyền chính và cũng là lần chót đưa nhà Thanh đến mạt vận, gây nên cuộc cách mạng năm Tân Hợi (1911).

Nhưng không ngờ sau đó, Tây thái hậu tin tưởng vào bọn đại thần gian ngoan như Đoan Vương, Cương Nghị, nhận lầm phải đường lối của bọn Nghĩa hoà đoàn khiến đến nỗi phải trốn chạy khổ sở. Trong cuộc trốn chạy ấy. Tây thái hậu phải tự nhận rằng mình đã chẳng làm gì hơn được Quang Tự hoàng đế nên đã đích thân thi hành tân chính để mong mang lại thái bình. Bởi thế, trong lòng bà, lúc nào cũng nơm nớp bực bội xấu hổ, và nhục nhã. Tất nhiên, tâm trạng ấy kéo dài sẽ đẩy thái hậu đến chỗ nghiệt ngã và hơn thế, thù hận Quang Tự hoàng đế.

Bà hạ lệnh cho bọn nội giám và thị vệ phải nghiêm phòng các cửa vào Doanh đài, nơi Quang Tự hoàng đế ở với người đẹp Cẩn phi. Sự nghiêm phòng gắt gao đến mức Quang Tự không khác chi kẻ bị giam cầm.

Đầu năm Canh Tý (1900), Tây thái hậu đặt đủ biện pháp để cô lập Doanh đài. Ở mặt trái Doanh đài, có một cái cầu, và một số thuyền bè túc trực tại hai bên bờ hồ. Chiếc cầu này xây bằng đá tảng, những lúc cần, có thể rút đoạn giữa cầu lên được để cắt lối đi. Ban ngày người ta buông cầu xuống để đi lại. Nhưng bây giờ, thái hậu đã lệnh rút cầu vĩnh viễn.

Thế là bất luận ngày hay đêm không còn ai có thể tự do ra vào Doanh đài nữa. Mỗi khi, mong ân được triệu bọn phi tần bắt buộc phải dùng thuyền nhỏ mới vào được. Hồi đó, bên cạnh Quang Tự hoàng đế, chỉ có vỏn vẹn Cẩn phi mà thôi. Bởi thế, những lúc đầu hôm sớm mai, bên hoa dưới nguyệt, Quang Tự hoàng đế đôi khi không khỏi thấy trơ trọi, cô đơn, tình thế của ông vua bị giam cầm, phế bỏ. Rồi ngài tưởng nhớ đến Trân phi, người đẹp lý tưởng của ngài mà lòng càng thêm ngao ngán, buồn bã. Bất giác ngài nấc lên thành tiếng.

Cẩn phi thấy vậy cũng chẳng ngăn được lệ sầu tuôn chảy. Hai người ôm nhau khóc lóc thảm thiết, thương mình và thương lẫn cho nhau.

Có một lần, giữa cơn mưa tuyết lạnh thấu xương, tuyết đóng trên đất bặng dầy tới năm thước, Tây thái hậu gọi một tên tiểu thái giám khâu một cái áo bằng da con rái cá rồi đem sang Doanh đài cho Quang Tự hoàng đế. Bà còn dặn thêm tên tiểu thái giám:

- Khi dâng chiếc áo cho hoàng thượng, ngươi tâu với ngài là vải do Lão Phật gia đích thân cho để cắt may vốn là vải bố, còn cúc áo thì bằng vàng. Cứ câu nói đó ngươi nói đi nói lại mãi chừng ba bốn lần, để xem hoàng thượng trả lời ra sao, rồi trở về bảo cho ta hay, nghe chưa?

Tên tiểu thái giám lãnh chỉ, dùng chiếc thuyền nhỏ bơi qua Doanh đài, dâng chiếc áo lên cho Quang Tự hoàng đế. Hắn y theo lời Tây thái hậu dặn, nhắc đi nhắc lại mãi câu nói trên.

Lúc đầu, Quang Tự hoàng đế tuy có nghe đấy nhưng cứ tảng lờ như không. Về sau, thấy tên tiểu thái giám cứ lải nhải mải, ngài không nhẫn nại được nữa, liền nổi khùng lên, quát:

- Ta biết rồi! Y chỉ của Thái hậu là bảo ta sau này chết bất đắc kỳ tử, có thế thôi. Hiện nay cái chết của ta chưa hợp thời Ta còn phải đợi ít lâu nữa chết mới hợp, nghe chưa? Thái hậu có ý mong cho ta chết đi, nhưng ta thấy cái chết của ta chưa có giá trị thì ta chưa chết. Ngươi về tâu với thái hậu đúng như lời ta vừa nói nghe chưa?

Tên tiểu thái giám thấy Quang Tự hoàng đế nổi cơn thịnh nộ, không dám nói năng gì thêm, vội hối hả quay về cung thái hậu. Cẩn phi lúc đó cũng có bên, biến sắc mặt, nói:

- Hoàng thượng nói vậy không sợ thái hậu giận sao?

Quang Tự bất giác nhếch mép cười ruồi đáp:

- Đã đến nước này, ta còn có sợ cái gì nữa chứ? Cùng lắm thì bà lão tàn ác cũng chỉ đối xử với ta như đối xử với bọn Túc Thuận mà thôi.

Cẩn phi nghe Quang Tự hoàng đế nói vậy, vội lấy mắt ra hiệu, nhưng đang lúc căm giận tràn hông, ngài đâu có còn giữ gìn ý tứ gì.

Sở dĩ có điều báo hiệu của Cẩn phi là vì hồi đó đã có con Hương Nhi tới đây để hầu hạ hoàng thượng. Cẩn phi biết đó là người của thái hậu cử đến dò xét. Và đó đâu phải là ả. Là hắn mới chính xác. Bởi hắn chính là Quản Cẩu An. Việc hắn hoá thành Hương Nhi cũng là cả một câu chuyện.

Như ta đã biết, Quản Cẩu An nhờ tên nội giám Lý Lục Lục tiến dẫn đã được thái hậu sung vào Như Ý quán rồi rất được Thái hậu sủng ái và tín cẩn. Ngay trước mặt bọn cung nữ và thái giám, mỗi khi gọi An vào yết kiến, bà đều gọi An là "con trai tao" (ngã nhi), có lúc bà lại gọi An là Hương Nhi.

Bởi thế tất cả cung nhân trong nội đều gọi hắn là Hương bối tử. An cũng có quyền hành khủng khiếp chẳng thua gì Hương vương thuở nọ.

Đắc thế đắc thời như vậy Hương Nhi ra vào nơi cung cấm chẳng còn kiêng kỵ gì cả, lại chuyên làm tai mắt cho Tây thái hậu, do thám bất cứ hành động nào của kẻ khác, đem về mách với bà.

Hương Nhi làm cái việc do thám một cách vô cùng đắc lực nên bất cứ một chuyện gì dù nhỏ nhặt vụn vặt đến đâu, Tây thái hậu đều biết hết, Cẩn phi đã rõ Hương Nhi là ai, làm việc gì nên thấy Quang Tự chẳng giữ gìn ý tứ gì cả, thì hất hoảng lắm.

Một lát sau, quả nhiên những lời Quang Tự nói đến tai Tây thái hậu. Tức khắc bà hạ chỉ cấm tất cả các đại thần không được tới Doanh đài để vấn an hoàng thượng nữa.

Sở dĩ có thêm việc cấm chấp này là vì từ trước tới nay, suốt trong thời gian Quang Tự hoàng đế bị giam cầm tại Doanh đài, bọn đại thần còn có quyền ra vào để vấn an, hoặc là bọn cương thần (bọn quan lại trấn giữ nơi biên cương) được phép vào bệ kiến. Thực ra, Thái hậu đã muốn cấm chấp từ lâu rồi, khi có chuyện Sầm Huyên từ Tây An vào Doanh đài.

Sầm Xuân Huyên chính là người đem quân cần vương phò giá Tây thái hậu chạy trốn lên Tây An. Do đó bà mới tán dương Huyên là người trung nghĩa, và hứa thưởng tứ sau này.

Khi xa giá hồi loan về Bắc Kinh rồi, Tây thái hậu giữ lời hứa thăng ngay Sầm Xuân Huyên lên làm Tổng đốc Tứ Xuyên.

Khi ra đi nhậm chức Huyên có xin vào bệ kiến Quang Tự hoàng đế trong Doanh đài. Quang Tự vừa nhìn thấy Huyên bỗng nước mắt giàn giụa chảy ướt cả đôi gò má. Chính giữa lúc ngài định dốc bầu tâm sự với Huyên thì Quản Cẩu An đột nhiên từ ngoài bước vào. Ngài biến hẳn sắc mặt, không nói nữa.

Sầm Xuân Huyên biết có điều khó nói, bèn thừa cơ thỉnh an rồi lặng lẽ lui ra. Tuy chưa có gì lộ ra nhưng với thái độ khả nghi của Quang Tự hoàng đế cũng như Sầm Xuân Huyên, Quản Cẩu An vốn quỷ quyệt, xảo trá, làm sao mà chẳng nghi ngờ. Tức khắc, An quay về cung tâu với Tây thái hậu. Được tin này, Tây thái hậu thấy cần phải đề phòng gấp, bà tính hạ ngay một đạo chi dụ xuống để cấm chỉ không cho bọn đại thần vào bệ kiến hoàng thượng, nhưng lại thấy có điều bất tiện cho Quản Cẩu An, nên đành phải từ từ đợi thời. Và đến bây giờ, lệnh đã được ban ra.

Doanh đài, thực ra chỉ là cái tên tổng quát của một cái điện gọi là Hàm Nguyên điện mà thôi. Kích thước của Hàm nguyên điện vỏn vẹn có ba gian nhà trệt, mỗi gian rộng chỉ hơn một trượng. Lùi về phía sau, có một cái lầu nhỏ. Đấy là tất cả cái khung cảnh của Doanh đài, được dùng làm nơi giam cầm ông vua chót của nhà Thanh, sau mười mấy đời vua gốc Mãn Châu vào thống trị Trung Quốc.

Có một hôm trời đã về chiều, Quang Tự hoàng đế cùng Cẩn phi ngồi đối diện nhìn nhau mà bồi hồi thổn thức. Không ai nói với ai nhưng cả hai đều nhận biết cái buồn của nhau.

Cuối cùng Quang Tự hoàng đế gượng đứng dậy thả bộ lên lầu Ngài phóng tầm mắt ra xa, đứng bất động như pho tượng.

Bỗng ngài thở dài đánh trượt một tiếng, rồi lững thững nện những bước chân nặng nề trên thang lầu để đi xuống…

Hồi 170: Cuộc phiêu lưu trong cung cấm

Nếu đứng ở Hàm Nguyên điện mà nhìn ra trước mặt, ta sẽ thấy điện Ỷ Hương, nơi cư ngụ của hoàng hậu, hoàng hậu tuy cũng có lúc sang điện Hàm Nguyên để chầu hoàng đế, nhưng buồn thay, Quang Tự hoàng đế lại không thích nói chuyện với bà. Nhất là từ khi bị giam cầm ở Doanh đài, Quang Tự chưa từng lần nào qua chơi bên điện Ỷ Hương. Bởi thế, giữa hoàng đế và hoàng hậu, bên ngoài thì có vẻ êm đẹp, nhưng thực ra bên trong lạnh nhạt, không còn tình nghĩa vợ chồng gì nữa. Hoàng hậu lại còn thấy hoàng đế sủng hạnh Cẩn phi, lòng bà thêm ghen tức, giận hờn không lúc nào nguôi…


Hoàng hậu Na Lạp thị vốn là cháu gái ruột của Tây thái hậu. Bà gả cho Quang Tự hoàng đế là có ý nhờ cái dây tình thân thiết ấy để lung lạc hoàng đế, nắm trọn quyền hành chính trị vào trong tay mình. Bởi thế khi chọn hoàng hậu, Tây thái hậu mới bảo Quang Tự cầm ngọc Như Ý trao cho cô cháu gái của bà. Theo tục lệ từ trước, thì mỗi khi hoàng đế sách phòng hậu, người ta phải xếp đặt cho các cô khuê nữ có đủ tư cách làm hoàng hậu, ngồi thành hàng trước điện. Sau đó hoàng đế mới tự mình chọn lựa lấy, hễ yêu ai thì trao ngay ngọc Như Ý cho người đó.

Quang Tự hoàng đế chi muốn chọn Trân phi nhưng phải cái Tây thái hậu đã định trước mọi việc, khiến ngài không thể nào trái lệnh được. Tuy vậy, khi đưa ngọc Như Ý cho hoàng hậu, ngài giả vờ lỡ tay đánh rớt xuống đất, khiến chiếc ngọc quý giá tốt đẹp như vậy mà vỡ tan thành những mảnh vụn.

Tây thái hậu thấy vậy, trong lòng rất không vừa ý. Cho đến sau ngày cưới, Quang Tự hoàng đế lại càng chán ngán bà hoàng hậu bất đắc dĩ này. Tây thái hậu biết Quang Tự hoàng đế sủng ái Trân phi, liền cho lập ngay hai chị em Trân phi và Cẩn phi làm phi tử để mong bắt được ông vua trẻ ham sắc phải phục tùng vì cái ơn trên của bà.

Trớ trêu thay, từ khi ôm được hai người đẹp Trân phi và Cẩn phi trong lòng rồi, thì cái của nợ hoàng hậu kia, Quang Tự hoàng đế càng không thèm để ý tới nữa. Mặt khác, hoàng hậu thấy mình là chánh cung mà không được sủng hạnh, trái lại mấy con phi tử lại được cái vinh dự bên vua, thì làm sao cho khỏi ghen tức. Chỉ còn cách ngày ngày sang cung Tây thái hậu tỷ tê, ỷ eo, khóc lóc cho bà nghe, may ra bà có tìm cho mình lối thoát? Chưa hết, hoàng hậu còn thừa dịp thuận lợi bắt chị em Trân, Cẩn hai phi đánh cho những trận đòn nên thân để trả thù.

Làm như thế, tuy có hả được đôi phần, nhưng hoàng hậu lại càng khiến hoàng thượng chán ghét hơn. Rồi tới cái chết tức tưởi của Trân phi, Quang Tự hoàn toàn đổ lên đầu hoàng hậu, cho bà là thủ phạm. Vì thế hai người tuy cùng ở trong Doanh đài, cách nhau chẳng bao xa, nhưng Quang Tự hoàng đế không bao giờ bén chân đến điện Ỷ Hương của hoàng hậu. Thậm chí còn không thèm nói chuyện với bà. Có một hôm, lòng buồn vô hạn, Quang Tự hoàng đế đứng tựa bên song cửa, lòng bồi hồi. Trong khi buồn bã đó, ngài nhân thấy mặt nước đã dần dần đóng thành băng. Bỗng ngài có ý nghĩ đợi cho băng đóng dày rồi bước lên trên mà băng qua hồ, sang bên kia.

Cẩn phi không chịu, vội khuyên ngăn:

- Băng nổi lềnh bềnh trên mặt nước, dưới không có gì là chắc vững. Giả thử khi bước lên trên, lỡ băng vỡ chẳng nguy hiểm lắm sao?

Nhưng Quang Tự hoàng đế nào có chịu nghe, ngài gọi một tên tiểu thái giám dắt, dò dẫm hết bước này qua bước khác, cứ thẳng trên mặt băng mà vượt sang phía bờ bên kia.

Tảng băng ở gần bờ thì cứng, có thể bước lên trên một cách vững vàng, nhưng càng ra ngoài, nước càng sâu, băng càng mỏng đi. Quang Tự hoàng đế bước tới giữa chừng, mới thấy nguy hiểm. Lúc này, ngài bắt đầu hối tiếc vì không nghe lời Cẩn phi. Ngài tính quay về, thì một chân của tên tiểu thái giám đã lọt hẳn xuống nước, rồi đến cả người cũng sắp sửa xuống luôn.

Tên thái giám ở phía trước mặt thấy vậy vội vàng chèo một chiếc thuyền con lại để vớt. Chỉ có vớt tên tiểu thái giám và đưa được Quang Tự hoàng đế lên được bờ, ấy thế mà cũng mất tiêu cả một buổi.

Trong khi đó, không ai ngờ là hoàng hậu đã nhìn thấy. Đó chính là lúc bà đang chải tóc và trang điểm. Thấy cảnh Quang Tự đi trên băng, bà vội chạy ra trước cửa sổ điện Y Hương nhìn xem. Bà nghĩ:

- Gần đây hoàng thượng bị bệnh thần kinh thác loạn, hành động thường có những điều lầm lẫn. Cẩn phi cũng đã biết chuyện đó, tại sao nàng lại không ngăn cản ngài? Vạn nhất có điều gì nguy hiểm cho ngài, thì đến ta đây cũng không khỏi mang tội.

Nghĩ thế, hoàng hậu liền vội vã trang điểm qua quýt cho xong, lấy một chiếc thuyền nhỏ, bơi qua bờ phía bên kia, chạy vội đi báo với Thái hậu.

Trong khi hoàng hậu đang lon ton chạy tới cung thái hậu, thì Quang Tự hoàng đế đã lên bờ và bảo tên tiểu thái giám chèo ngay thuyền về phía Doanh đài để đón Cẩn phi sang.

Đã qua được bờ bên kia, hai người dắt tay nhau đi dạo chơi một vòng khắp cả mọi nơi. Khi đi qua trước mặt điện Nhân Thọ, Quang Tự hoàng đế không khỏi thở dài nói:

- Ta còn nhớ năm đó, tại nơi đây, ta cùng sư phó ông Đồng Hoà thương nghị việc triều đình, rồi triệu kiến Khang Hữu Vy, nhưng không ngờ cũng tại nơi đây ta lại gặp thêm Viên Thế Khải để rồi ngay sau đó, ta không còn được bước chân tới nơi đây nữa! Nhớ lại quang cảnh hồi đó, ta thấy rõ mồn một, y như còn ở trước mặt. Nếu có khác với hiện tại chăng, chỉ là khác ở chỗ cảnh vật không còn như thuở xưa nữa. Càng nghĩ lại, càng nhớ lại, ta càng thấy thương tâm quá!

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế đặt đôi mắt đau thương của mình vào cặp mắt chẳng kém phần buồn bã của Cẩn phi, để mong tìm lấy cho mình một nguồn an ủi, một ý nghĩ cảm thông trong nỗi khổ của mình.

- Bệ hạ đừng lo! Đó bất quá chỉ là trường hợp con giao long còn bị kẹt trong ao. Nhưng rồi đây, chỉ một sớm gặp được mây mưa, con giao long ấy sẽ bay lên đến tận mây xanh, kẻ nào đó, dù có ba đầu sáu tay cũng không thể nào cản ngăn được.



Quang Tự hoàng đế nghe Cấn phi nói, sẽ gật đầu tỏ vẻ ưng chịu, nhưng rồi lại thở dài nói tiếp:

- Đời sống được bao, tuổi xuân chóng hết. Kiếp sống của đôi ta thật chẳng bằng cuộc đời của kẻ dân giã tầm thường. Đời sống của họ thật là ung dung thong thả, phu xướng phụ tuỳ chẳng, có gì đau khổ lo âu, khanh có còn nhớ khi bọn ta ở Tây An không? Khanh há chẳng than hôm đó, có một đám nông dân vợ chồng hoà ấm, chồng cày vợ cấy, con cái đầy đàn đó sao? Gia đình họ ai dám nói là không hạnh phúc sung sướng? Bọn ta là đế vương phi hậu, nhưng bằng họ sao được? Phải đến lúc này, ta mới tin được lời nói Tự Tông nhà Minh là đúng: "Đời đời kiếp kiếp, xin đừng sinh vào gia đình đế vương". Đấy! Khanh đã cảm thấy cái nỗi đau lòng của Tự Tông và cũng là cha bọn ta chưa?

Ý muốn của Quang Tự hoàng đế và Cẩn phi là đi du ngoạn khắp đó đây cho thoả lòng khao khát tự do bấy nay đã bị nỗi niềm tâm sự bỗng dưng nổi dậy dập tắt, khiến cả hai không còn chút hứng thú nào để đi thêm nữa. Bởi thế, Quang Tự hoàng đế bảo tên tiểu thái giám gọi chiếc thuyền con lại, và quay trở về Doanh đài.



Về đến Doanh đài, bốn bề tuyết phủ sương che, xa trông bát ngát. Quang Tự hoàng đế càng cảm thấy tình cảnh cô đơn đau xót của mình. Ngài truyền cho cung nữ dọn rượu, hầu mong quên đi những nỗi éo le của cuộc đời, những viễn cánh tương lai mà ngài biết không lấy gì làm sáng sủa lắm. Ngài nâng chén, cạn ly, Cẩn phi hầu bên cạnh liên tục rót rượu.

Ly này cạn, ly khác cạn, nhiều ly đã cạn hết, giữa khoảng không gian u tịch vắng vẻ tại Doanh đài.

Giữa lúc ấy, Quang Tự hoàng đế bỗng thấy trên mặt hồ có năm sáu chiếc thuyền con, bên trong ngồi bảy, tám tên nội giám, mỗi tên cầm một cái cuốc sắt, đang gắng sức chèo chống lại Quang Tự hoàng đế nhìn thấy cảnh tượng lạ kỳ này, cất tiếng hỏi Cẩn phi:

- Bọn chúng làm cái trò khỉ gì vậy?

Cẩn phi nghe hỏi, vội chạy ra cửa sổ, nhô đầu ra ngoài lên tiếng hỏi. Tức thì có tiếng trả lời vọng vào:

- Bọn nô tài vâng ý chỉ của Lão Phật gia tới đây cuốc băng ạ.

Cẩn phi nói lại cho Quang Tự hoàng đế nghe. Quang Tự cười nhạt:

- Hừ! Lão Phật gia bảo chúng tới cuốc băng nhất định là do chuyện bọn ta đã đi trên băng hồi nãy. Ta nghĩ rằng trong thiên hạ này, có bữa tiệc nào là chẳng đến lúc tàn? Tội gì mà phải bắt khoan bắt nhặt, ép lên buộc xuống mãi như vậy?

Quang Tự hoàng đế vừa nói với Cẩn phi vừa cất chén liên hồi. Sau khi cạn luôn mấy chén ngài chỉ sang điện Ỷ Hương phía bên kia, nghiến răng, dằn mạnh từng tiếng bảo:

- Câu chuyện này quyết lại do con mụ khốn nạn kia chạy đi ton hót với thái hậu đó thôi!

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế cười bảo Cẩn phi:

- Nếu ta có dịp nắm lại quyền bính, ta quyết bắt cho bằng hết lũ hồ ly láo xược đó.

Cẩn phi vội xua tay nói nhỏ với ngài:

- Vách có tai, bệ hạ có sợ luỵ đến thần thiếp chăng?

Quang Tự hoàng đế nghe câu này lại càng nổi sùng hơn. Ngài cất tiếng nói lớn như quát vào mặt những tên chó săn của Tây thái hậu lẩn quất xung quanh.

- Sợ cái gì? Đứa nào dám tới đây bắt khanh làm nhục khanh? Em gái khanh đã bị chúng giết chết một cách oan uổng rồi. Chúng lại còn muốn tới đây để hãm hại khanh nữa sao? Ví thử nay mai chúng làm chuyện đó, ta sẽ chết cùng khanh. Chẳng lẽ dám giết cả ta?

Càng nói, Quang Tự hoàng đế càng hăng, ngài đã thấm rượu, và rượu đã bốc được cái máu điên của ngài lên rồi. Miệng ngài nói, tay ngài múa, cao đàm khoát luận có bao nhiêu uẩn khúc, lúc này ngài cho ra bằng hết.

Giữa lúc đó, hoàng hậu lại sang tìm Quang Tự hoàng đế. Thật là lửa được đổ thêm dầu, Quang Tự hoàng đế càng lồng lộn lên như hổ dữ. Từ lâu, ngài vốn đã không thèm trò chuyện, đối đáp bất cứ việc gì với hoàng hậu. Mỗi khi bà sang hầu, ngài để mặc bà ngồi đó, ngồi chán thì về. Tình nghĩa vợ chồng coi như không còn chút nào nữa. Nhưng lần này thì khác, khác là vì hôm nay Quang Tự hoàng đế có chén rượu đã ngấm, chất men đã bốc sặc lên. Vừa mới trông thấy hoàng hậu, ngài đã nổi máu hoả, chỉ muốn tát cho bà mấy chiếc. Nhưng ngài lại e lễ tiết, sợ dư luận. Bởi thế, ngài lập tâm hỏi ngắn hạch dài, trong khi hoàng hậu chẳng tiện chống báng, đành chỉ ầm ừ đối đáp vài ba câu cho qua.

Quang Tự hoàng đế hỏi mãi, hạch mãi mà chẳng tìm ra được một chỗ hở nào của hoàng hậu để quở mắng. Ngài đành quay lại gọi Cẩn phi rót rượu thêm rồi mời luôn cả hoàng hậu cùng uống. Đến lúc này, hoàng hậu không vâng theo cũng không được, nên nâng chén cố cạn. Bà miễn cưỡng cạn một chén. Nhưng hết chén này, Quang Tự hoàng đế lại bảo Cẩn phi rót thêm chén khác, ngài không muốn để cho hoàng hậu thôi ngang trong khi ngài đang có tửu hứng. Hoàng hậu vốn không biết uống rượu, đành phải nói lời thoái thác. Quang Tự hoàng đế nhân lúc tửu hứng, đổi sắc mặt, bảo hoàng hậu:

- Tửu lượng của bà kém, không uống được nữa, phải không? Năm nọ, trên tiệc rượu vạn thọ của Thái hậu, bà đã chẳng cạn luôn một hơi trăm chén là gì?

Cẩn phi đứng bên cạnh, thấy Quang Tự hoàng đế mặt đầy giận dữ, biết chắc thế nào cũng có chuyện chẳng lành, vội cất tiếng nói:

- Ngự tửu ban xuống, kẻ cung nhân xin được uống thay!

Quang Tự hoàng đế cười nhạt nói:

- Không! Không được…! Chính mắt ta phải thấy bà ta uống. Ngươi thay để làm gì?

Nói đoạn Quang Tự hoàng đế khỏi nói thêm, cầm cả chén rượu đưa lên môi hoàng hậu, một tay ôm ngang lấy người bà đè ngửa ra, dùng sức đổ đại cả chén rượu vào miệng, buộc phải nuốt xuống ừng ực.

Nào ngờ tửu lượng của hoàng hậu quả có kém thực. Chỉ một chén rượu đó thôi đủ để cho bà thấy đầu choáng mắt hoa, tấm thân không còn tự chủ được mấy nữa. Bà thấy hoàng đế cố ép mình uống nữa, bèn giơ tay cản lại, không ngờ chiếc chén ngọc bị tung lên trên không, rớt xuống sàn gạch vỡ tan tành.

Quang Tự hoàng đế chạm tự ái, ngài nổi giận lôi đình quát lớn:

- Cho ngươi uống rượu, đó là do hảo ý của ta. Tại sao ngươi lại hất chén đi? Ngươi đã không muốn uống thì ta đây phải cho ngươi uống thêm vài chén nữa mới được.

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế lại gọi Cẩn phi rót thêm một chén rượu lớn hơn. Giữa lúc Cẩn phi tiến thoái lưỡng nan, thì bỗng đánh vút một cái, hoàng hậu đã đứng vùng dậy, cất bước chạy ra phía ngoài, chân lảo đảo, đầu lắc lư, chỉ muốn té.

Thấy hoàng hậu như vậy, Quang Tự hoàng đế sợ rằng bà đem chuyện tố cáo với Tây thái hậu, cho rằng ngài cố ý làm nhục bà, ngài cũng chạy theo sát gót, mong níu hoàng hậu lại Nhưng ngài không biết rằng ngài đã quá chén, chân đã mềm ra như bún, không còn thể nào đứng vững được nữa. Ngài vừa đứng lên thì thân hình lắc lư như muốn té ra sau.

Cẩn phi giật mình, vội sấn lại, giơ hai tay ôm ngang lấy lưng ngài, trong khi đó Quang Tự hoàng đế đã đưa tay phải ra quơ được tà áo của hoàng hậu ở phía trước, khiến bà bị trì lại, xuýt nữa cũng té nốt.

Thực ra thì Quang Tự hoàng đế nghi oan điều này cho hoàng hậu, chứ thực lúc đó hoàng hậu vì tửu lượng kém, đầu đã choáng mắt đã hoa, chỉ muốn quay về nằm nghỉ, đâu nghĩ tới chuyện đi đâu. Quang Tự hoàng đế đã hiểu lầm điềm này, khiến xảy ra quang cảnh xô đi đẩy lại, và thân hình hoàng hậu mới nghiêng bên này, ngả bên kia, cuối cùng chúi đầu luôn xuống đất. Bỗng một vật gì óng ánh sáng đẹp từ trên đầu hoàng hậu văng ra. Cẩn phi nhanh mắt nhìn thấy, vội giơ hai tay ra đỡ nhưng không kịp. Một tiếng "đốp" vang lên trên sàn gạch. Vật đó đã vỡ tan.

Hoàng hậu quay lại nhìn thấy, cả kinh vội nói:

- Chết tôi rồi! Bảo vật ngự tứ (nhà vua thưởng) vỡ mất rồi!

Quang Tự hoàng đế nghe nói quay lại nhìn, thấy Cẩn phi đang củi xuống đất lượm chiếc bảo vật nọ. Ngài xem kỹ lại thì ra bảo vật nọ đã bị gãy làm đôi. Lòng ngài bỗng có điều gì sợ hãi dâng lên, mặt dần dần tái đi, báo hiệu một sự gì nguy biến khủng khiếp sắp xảy ra cho ngài và có thể cho nhiều người khác nữa.

Hồi 171: Phấn đổ hương rơi

Chiếc trâm bằng ngọc thạch của hoàng hậu vốn từ đời Cao Tông truyền lại. Trâm dài chừng bốn tấc trong sáng long lanh không có chút tì vết nào, đúng là một bảo vật. Khi kết hôn, Quang Tự hoàng đế được Tây thái hậu giao cho để trao lại cho hoàng hậu. Cho nên chiếc trâm còn là một bảo vật truyền gia. Nay lỡ không may chiếc trâm rớt gãy, hoàng hậu hoảng hốt, cuống quýt lên, chỉ còn biết rơi lệ chứa chan và kể lể:

- Cành trâm đó vốn là di vật của tổ tông, mà Lão Phật gia đã cho trước đây. Nay hoàng thượng đánh gãy mất, bảo tiện thiếp ăn nói làm sao với Lão Phật gia chứ?

Long Dụ hoàng hậu nói đến đây, khóc nức nở. Cẩn phi biết rằng chuyện này xảy ra to rồi, cho nên nàng một mặt khuyên nhủ hoàng hậu một mặt giúp hoàng đế thu xếp. Hoàng hậu khóc một hồi rồi gạt lệ nói:

- Còn nói gì được bây giờ? Trâm đã gãy rồi! Tội này thì hoàng thượng phải hoàn toàn chịu lấy! Chỉ còn cách đưa nhau lên gặp Lão Phật gia phân xử cho thôi.

Quang Tự hoàng đế lúc đầu có đôi chút hối hận vì đã lỡ tay làm gãy chiếc trâm, nhưng đến khi nghe hoàng hậu nói, kéo nhau lên thưa gửi Tây thái hậu, thì máu hoả lại bốc lên ngùn ngụt. Ngài nổi giận nói lớn:

- Lúc nào cũng chỉ lo có chiếc trâm. Ừ, thì chính ta làm gãy đấy, làm đếch gì thì làm? Cứ hễ mở mồm ra là y như ngươi đem Tây thái hậu ra để cho ta sợ phải không?

Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế mắm môi nghiến răng, cất cao chân phải lên rồi dậm mạnh một cái xuống chiếc trâm gãy nằm trên mặt đất và nói tiếp:

- Ngươi đi tố cáo với thái hậu đi, bảo ta cố ý làm gãy đấy! Để xem làm gì ta thì làm.

Trong lúc nói những câu này, Quang Tự hoàng đế tỏ ra vô cùng tức giận. Hoàng hậu thấy hoàng đế nổi giận, cũng không dám nói gì thêm nữa, chỉ đành lau mắt lệ, rồi gọi tên tiểu thái giám lấy đò chở bà sang phía bờ bên kia gặp thái hậu.

Sau khi hoàng hậu đi đã một lúc, Quang Tự hoàng đế vẫn còn chưa nguôi cơn giận. Cẩn phi tìm lời an ủi và khuyên giải:

- Hoàng hậu đi chuyến này, chẳng biết có thêm bớt điều gì nữa không?

Quang Tự hoàng đế vẫn thái độ tức tối như trước nói:

- Mặc thây bọn chúng! Bọn chúng muốn làm gì thì làm, ta đâu có sợ.

Đêm hôm đó yên ổn, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng qua ngày hôm sau, Tây thái hậu cho thái giám đến triệu hoàng đế. Cẩn phi biết ngay chuyện hôm qua đã xảy to rồi. Nàng rỉ tai Quang Tự hoàng đế:

- Thái hậu tuyên triệu hoàng thượng quyết không có chuyện tốt đẹp đâu. Nguyên do chiếc trâm gãy gây ra. Lúc gặp Thái hậu, ngài nên để mặc bà nói, đừng có gây gổ, tranh luận gì như hôm qua, kẻo thái hậu trách mắng, liên luỵ cả đến thần thiếp đó.

Quang Tự hoàng đế gật đầu mấy cái, tỏ ý nghe theo, trong lòng nhớ đến câu chuyện hôm qua mà sợ. Sợ vì hôm nay ngài tỉnh rượu rồi.

Tây thái hậu chờ cho Quang Tự hoàng đế làm lễ xong, lúc đó mới lên tiếng:

- Ngươi là vua của một nước, mà hành vi xem ra không bằng thằng dân. Ngươi say rượu đến nỗi đánh cả hoàng hậu, hung dữ lồng lộn như một con thú dữ. Hành động như thế, phải chăng ngươi tỏ ý chống ta? Ta đem cháu gái ta gả cho ngươi là mong tạo hạnh phúc cho ngươi. Ta không ngờ kết quả đều ngược lại cả. Ví thử hoàng hậu có nhiều điều sai lầm tội lỗi đối với ngươi thì ngươi cứ nói rõ ra, bố cáo cho toàn thể thiên hạ biết, rồi đem phế thẳng đi, hà tất phải làm như vậy? Nếu ngươi không muốn làm như thế, ngươi để ta làm giùm cho. Ta phế ngay hoàng hậu giúp cho ngươi. Ngươi chỉ việc kê khai hết những tội lỗi của vợ ngươi ra đây, đừng có giấu giếm một điều nào là ta giúp cho ngươi hết mọi tức bực ngay.

Quang Tự hoàng đế nghe nói đến đây, vội vàng dập đầu tâu:

- Nhi thần quả không có nói là hoàng hậu có điều sai lầm nào. Hôm qua, chỉ vì quá chén nên say, thành thử xảy ra chuyện chẳng hay đó thôi. Nhi thần xin cải quá từ đây, lần sau không bao giờ dám có những hành động như vậy nữa. Kính xin Lão Phật gia rộng lòng thương mà tha thứ cho nhi thần lần này.

Tây thái hậu cười nhạt bảo:

- Rượu say nên mất khôn ? Quốc gia đại sự mà cũng cứ rượu say mất khôn như vậy thì mấy chốc mà đất nước đi đứt? Ta biết tính ngươi vốn trung hậu quyết không đến nỗi vô lại du côn đến thế. Đây chắc chỉ tại cái con hồ ly chín đuôi nọ nay ton hót mai ton hót cho nên mới có chuyện. Ta phải cho nó một trận biết thân, để sau này hết ton hết hót.

Tây thái hậu nói đoạn, quay đầu lại truyền cho gọi Cẩn phi tới. Chẳng bao lâu, Cẩn phi mặt mũi đầy lệ, theo chân một tên thái giám đến quỳ trước Tây thái hậu. Tây thái hậu quát hỏi:

- Hôm qua, lúc hoàng thượng và hoàng hậu gây lộn, mi có mặt ở đấy không?

Cẩn phi vội cúi thấp mình xuống đến sát mặt đất, tâu:

- Dạ! Tỳ tử có mặt ở ngay bên, và đã cố khuyên giải.

Tây thái hậu nổi giận nói:

- Đã đến đây mà mi còn leo lẻo cái mồm phải không? Nếu mi có khuyên giải thì làm sao lại xảy ra chuyện?

Cẩn phi bị cật vấn, hoảng hồn vội dập đầu tâu:

- Tỳ tử đâu có dám thế!

Tây thái hậu không đợi cho nàng nói thêm, giơ thẳng tay nện xuống mặt bàn đến thình một cái, quát lớn hơn, khiến Cẩn phi giật bắn mình lên, mặt xám ngoét lại:

- Cấm cãi! Con khốn nạn kia! Kéo cổ nó ra đánh bốn mươi gậy cho ta!

Quang Tự hoàng đế thấy nguy quá, vội chạy ra xin cho Cẩn phi:

- Kính xin Lão Phật gia mở rộng lòng thương mà xét cho. Việc này do nhi thần gây ra cả. Mong Lão Phật gia ân từ mà tha cho nàng.

Tây thái hậu nói:

- Hừ! Cứ mỗi lần trách phạt là mỗi lần ngươi năn nỉ cầu xin để che chở cho con khốn nạn. Ấy chính vì thế mà nó càng làm tàng, chẳng những không coi hoàng hậu ra cái gì, mà đến ngay ta đây nó cũng xem thường luôn! Hôm nay ta quyết không thể tha cho nó được. Nội giám đâu? Lãnh chỉ rồi kéo ngay con khốn nạn ra ngoài kia đi cho rảnh mắt ta.

Đáng thương cho Cẩn phi đã đành, nhưng cũng đáng thương cho Quang Tự hoàng đế, không có cách gì cứu được người yêu.

Lòng đau như cắt, hôm qua lại quá chén nên say, Quang Tự hoàng đế có lẽ không còn đủ sức để chống lại với cơn khủng hoảng tâm hồn quá kịch liệt này, cho nên ngài cảm thấy mặt hoa đầu choáng, chỉ chực muốn té.

- Ngươi nên bảo trọng tấm thân một chút mới được, ngươi cần biết là ta chỉ còn như ngọn đèn trước gió đó thôi. Trách nhiệm tương lai, há lại không phải ngươi gánh vác đấy sao? Lâu nay, ta vẫn biết ngươi tự bạo, tự khi quá nhiều, chứ không còn biết giữ gìn cẩn thận như xưa, đó là điều đáng tiếc cho ngươi đó.

Một mặt nói vậy, một mặt Tây thái hậu giả bộ nhỏ mấy giọt nước mắt. Bỗng bà thấy Quang Tự hoàng đế như có gì mắc trong họng, không phun ra được, rồi chỉ trong một phút, oẹ lên một tiếng lớn, khạc ra một bụm máu tươi, bắn thẳng ra trước mặt xa đến vài thước, dây be bét cả lên chiếc áo mới của bà.

Tây thái hậu nhìn kỹ lại, thấy đúng là máu, bà giật nảy mình, lòng vô cùng sợ hãi, vội nói:

- Bệnh ngươi đã quá nặng. Gọi ngay thái y vào chữa trị đi.

Bọn thái giám nghe nói vậy vội ba chân bốn cẳng chạy đi triệu thái y, trong khi Tây thái hậu tựa cho Quang Tự hoàng đế ngủ yên trên giường được một lúc.

Chẳng mấy chốc, thái y xách dao cầu, thuyền thuốc tới. Hành lễ quần thần xong, viên thái y chẩn bệnh cẩn thận một lúc rồi đoán bệnh:

- Bệ hạ nổi giận cho nên nỗi khí xung can, uất hoả bốc lên, khiến máu nghịch hàn sinh thổ huyết. Hơn nữa khí cũng bị tích lại quá lâu, dược lực nhất thời e khó thấy kiến hiệu.

Tây thái hậu nghe lời đoán bệnh của thái y, bất giác thở dài một tiếng, tỏ ý như thoải mái, nhẹ nhõm. Cũng lúc này, bọn nội giám đã đẩy cái xe nằm lại, rồi hè nhau vực Quang Tự hoàng đế lên xe. Tây thái hậu đích thân cầm cái gói đặt xuống phía dưới đầu cho ngài, miệng không quên dặn dò ba, bốn lần là nên tĩnh dưỡng cẩn thận, chớ có liều lĩnh, nhìn ngoài mà xét, thì Tây thái hậu lúc này như tỏ một tình cảm vô cùng thâm hậu với Quang Tự hoàng đế.

Trong trạng thái mơ màng, Quang Tự hoàng đế lại được đưa trở về Doanh đài. Cẩn phi đã đợi từ lâu, mặt mày tự nhiên xám ngoét chứng tỏ nàng đã bị đánh quá đau.

Quang Tự hoàng đế vừa trông thấy Cẩn phi bèn giơ bàn tay xanh gầy lên vẫy vẫy, có ý như bảo nàng hãy lui đi, hoặc đi xa hẳn đi, khỏi phải hầu hạ ngài.

Sau khi đưa Quang Tự hoàng đế về Doanh đài rồi, Tây thái hậu biết bệnh tình của nhà vua đã đến lúc trầm trọng, e khó có thể qua khỏi, mà lấy làm lo. Đã từ lâu, một mình buông rèm nhiếp chính, giải quyết mọi việc trong triều đình, bà cảm thấy Mãn tộc đã có nhiều người đem lòng đố kỵ, còn các thân vương thì không một kẻ nào là không dòm ngó ngôi lớn, thừa dịp có kẽ hở là hành động. Nếu chẳng may Quang Tự hoàng đế có mệnh hệ nào, ắt người trong họ thế nào cũng tranh nhau nhào vô kế vị. Đến lúc đó, một triều thiên tư một triều thần, kẻ khác làm vua tất có kẻ khác nhiếp chính. Nhất đán, đại quyền không còn trong tay, làm sao khỏi có kẻ khác chỉ huy lại bà? Và như vậy, bà đâu có còn cái ngày vinh hoa phú quý oai quyền nhất thiên hạ như bây giờ. Nghĩ đi nghĩ lại, bà càng thấy địa vị của bà lúc này lung lay hết sức, hoàn cảnh của bà vô cùng nguy hiểm. Do đó, bà vội vàng cho lệnh triều quân cơ đại thần Vinh Lộc nhập nội để bàn tính đại sự.

Nhưng cuộc bàn bạc đã kéo dài rất lâu mà vẫn chưa tìm được một giải pháp, Tây thái hậu vì vậy suốt ngày đêm buồn bã âu sầu, mặt không thấy lúc nào vui, nằm liệt trong cung cấm.

Khánh Vương Dịch Khuông thấy Tây thái hậu lo rầu như vậy bèn thừa lúc vắng tâu lên:

- Tây thái hậu, ngày mai là ngày âm thọ kỵ thần của Mục tông Nghị hoàng đế, Lão Phật gia có tính sửa soạn gì không?

Tây thái hậu giật mình quay lại bảo Khánh Vương:

- Ừ nhỉ! Mấy hôm nay bận việc quá khiến ta quên hết cả!

Nói đoạn, bà truyền lệnh cho bọn sư Lạt ma sửa soạn để tụng kinh niệm Phật, siêu sinh tĩnh độ suốt ngày hôm đó, lại cũng sai bọn đại thần cúng tế linh đình một phen. Nhưng chưa hết, Dịch Khuông còn tâu thêm:

- Theo thiển ý của nô tài thì trừ chuyện tế lễ ra, bọn nội giám còn cần phải diễn tuồng hát hội một ngày để cho Lão Phật gia giải phiền mới phải.

Bình sinh Tây thái hậu vốn thích ca nhạc tuồng chèo, bởi thế sau khi nghe Khuông tâu, tuy bà chẳng nói chi, chỉ sẽ gật đầu mấy cái mà Khuông cho là bà đã bằng lòng rồi. Thế là Khuông tự cho mình vinh hạnh lắm, nói mà thái hậu nghe ngay, liền tức tốc chạy vội ra ngoài kêu kép gọi đào, om xòm cả Bắc Kinh lên.

Ngày âm thọ kỵ thần của Mục Tông đã tới. Văn võ bá quan trong triều bỏ áo xanh ra, thay bằng bộ đồ trắng màu tang lũ lượt tiến về nhà Thái miếu để cúng tế. Từng hàng một, họ bước vào trong miếu xì xụp lạy, ra vẻ tôn kính nghiêm trang lắm. Lễ xong họ lũ lượt kéo về ngả Di Hoà viên để vào cung lạy Tây thái hậu.

Tây thái hậu truyền lệnh cho cả bọn lưu lại trong điện Đại Viện, rồi đặt tiệc chay thưởng tứ ân điển cho họ. Tiệc tùng xong, đến hát xướng. Khốn nỗi là sau vụ Canh Tý nọ, bọn đào kép cung phụng trong nội đình đã tứ tán đi hết, chỉ còn lại duy có mỗi anh kép già tên Tôn Cúc Tiên. Muốn để cho Tây thái hậu đẹp lòng, biết cho cái công trâu ngựa của mình, dù chỉ la cái công đi tìm mấy thằng kép và mấy con đào hát, Dịch Khuông vội chạy ra ngoài gọi cho bằng được một tên xướng võ sinh tên gọi là Liễu Tiểu Các.

Liễu Tiểu Các vốn là con trai của Liễu Nguyệt Các. Bố hắn cũng vốn là một võ sinh xuất thân, hắn cừ cả về lối diễn tuồng thần quái, cho nên mới có cái biệt danh là Tiểu hầu tử.

Liễu Tiểu Các được thày nghề là Dư Lão Mao bí truyền cho nhiều thuật vừa khéo vừa tài, cho nên khi diễn tuồng, Tiểu Các xem ra xuất sắc hơn cha nhiều. Nhờ đó, trong kinh thành Bắc Kinh, Tiểu Các cũng có đôi chút tên tuổi.

Hôm đó, Liễu Tiểu Các diễn ba tuồng: Thuỷ Liêm động, Kim tiền báo, Ba tiêu phiến, do chính Tây thái hậu chọn. Tiểu Các đem hết tài nghệ để cố sao được Tây thái hậu khen thưởng.

Quả nhiên hắn đã không biết để đâu cho hết lời khen của thái hậu.

Tuồng diễn xong, Tây thái hậu cho triệu Liêu Tiểu Các vào cung, hỏi tên họ, tuổi tác đủ thứ. Các nhất nhất đều trả lời rành mạch. Tây thái hậu rất lấy làm vừa lòng, bèn hạ lệnh cho Nội vụ phủ thưởng cho Các ba trăm quan tiền.

Liễu Tiểu Các lĩnh thưởng, tạ ơn, lui ra. Bọn con hát cùng gánh, kẻ nào cũng ca tụng Các, tâng bốc Các. Từ đó về sau, cứ hễ cung nội cần hát xướng, thế nào cũng phải có hắn. Và hắn còn được ra vào tự do trong cung cấm.

Có một hôm, Liễu Tiểu Các vào cung diễn tuồng, đem theo đứa con gái nhỏ tên là Tiểu Nguyệt. Diễn hát xong, Tây thái hậu thưởng cho hai cha con Liễu Tiểu Các nào vải, nào lụa.


Tiểu Các đem con gái vào trước Tây thái hậu để tạ ơn. Thấy Tiểu Nguyệt vừa xinh xẻo, mặt đầy đặn như trăng tròn, da thịt mịn màng như trứng gà bóc, lại vừa hoạt bát đáng yêu, Tây thái hậu bèn chỉ hỏi.

- Chứ con cái nhà ai vậy?

Liễu Tiểu Các dập đầu tâu:

- Nó vốn là con gái của nô tài.

Tây thái hậu hỏi thêm:

- Năm nay nó mấy tuổi? Nếu tiện, ngươi hãy để nó ở lại đây với ta cho vui. Mai ngươi bảo vợ ngươi tới đây đem nó về nhé!

Liễu Tiểu Các dạ dạ luôn mồm, rồi lạy tạ lui ra, và khi về nhà, chuẩn bị mọi chuyện để cho vợ tên gọi Nguyệt Hương ngày mai vào tiến cung gặp Thái hậu.

Bé Tiểu Nguyệt ở lại bên cạnh Tây thái hậu, mặc dù mới năm tuổi, nhưng rất khôn khéo, đặc biệt nhất là biết chiều người trong những lúc vui buồn, giận tức. Bởi thế, được Tây thái hậu hết lòng yêu.

Qua ngày hôm sau, Liễu Tiểu Các sửa soạn cho vợ vào cung để gặp Thái hậu.



Tây thái hậu thấy Nguyệt Hương tuy chỉ là một người đàn bà hạ lưu, nhưng diện mạo xinh xắn, nói năng dịu dàng, cử chỉ đoan trang, lễ phép bèn bảo Liễu Tiểu Các:

- Hiện nay trong cung cấm đang cần một người đàn bà hầu hạ. Vợ ngươi rất vừa ý ta. Ngươi hãy tạm thời để nàng ở lại đây ít lâu rồi hãy về nhà!

Liễu Tiểu Các vốn người ranh mãnh khôn ngoan, thấy Tây thái hậu nói vậy, mừng quýnh trong lòng, vì đó là điều cầu mong lâu nay mà chưa được.

Các vội vàng quỳ xuống tạ ơn.

Tây thái hậu bèn truyền nội giám đem ban thưởng cho Các nào tơ lụa, nào là đồ chơi, đồ cổ đủ thứ. Còn vợ con của Các cũng từ đó được lưu lại bên cạnh bà để hầu hạ. Tây thái hậu còn cho bé Tiểu Nguyệt một chiếc kiềng vàng, một đôi xuyến cũng bằng vàng.

Các loại kiềng vàng này nặng đến bốn lạng, nội vụ phủ làm sẵn để vào dịp lễ vạn thọ, dâng Tây thái hậu bán thưởng cho các nàng cách cách. Ấy thế mà mẹ con thằng kép hát ngày nay cũng được ân thưởng vật đó, há chẳng phải là một điều kỳ lạ đặc biệt đó sao?

Nguồn: http://vnthuquan.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved