Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

20 thg 11, 2013

Thanh Cung Mười Ba Triều - Hứa Tiếu Thiên - Hồi 76-80

Hồi 76: Một diễm sử tâm kỳ độc đáo

Ở là tuổi dậy thì, tình trai gái chính lúc này phát triển mạnh nhất. Suốt ngày thái tử nô đùa cười cợt với bọn cung nữ phi tần, chẳng kiêng cữ điều gì. Bọn chúng lại biết thái tử là con cưng của hoàng hậu thì đố kẻ nào dám không ưng thuận. Hơn nữa thái tử lại đẹp trai, cho nên cô nào cô ấy đều thích được cùng chàng đùa giỡn. Trong bọn, đặc biệt có nàng phi Mã Giai cậy mình xinh đẹp, tính tình đâm lạnh nhạt, kiêu kỳ, nhất định không thèm chơi đùa với thái tử.
Song oái oăm là thái tử lại thích nàng nhất. Thừa lúc nàng không đề phòng chàng thường ôm bừa lấy, nào hôn hít, nào vuốt ve khiến nàng bực mình lắm lắm.

Trò chơi điên rồ này đã diễn đi diễn lại chẳng biết bao lần. Một hôm Mã Giai rảnh việc ngồi buồn ở cung, thấy mái tóc mây của mình không được óng chuốt, bèn gọi bọn cung nữ giúp nàng xổ ra để búi lại. Giữa lúc đang chải tóc thì Bảo Thân vương lẻn vào. Bọn cung nữ chợt thấy định hô to lên nhưng chàng đã đứng ngay sau lưng Mã Giai và ra hiệu bảo bọn cung nữ không được lên tiếng. Vương rón rén bước gần lại thêm nữa, rồi giơ hai bàn tay bịt lấy đôi mắt nàng. Mã Giai chẳng ngờ có người bịt mắt mình, vội lên tiếng hỏi ai. Vương nhịn không được, phá lên cười sằng sặc. Bọn cung nữ cũng cười ầm lên. Mã Giai cho rằng có đứa nghịch đùa nàng, nên sẵn cái lược ngà trong tay, ngoắc ra sau đánh mạnh. Cả bọn chỉ nghe tiếng kêu "ôi chao," một tiếng. Thì ra cái lược ngà nọ đã đánh trúng giữa đôi chân mày thái tử, máu chảy ra có dòng. Bảo Thân vương đau quá vội buông tay ra, quay mình chạy khỏi cung.

Mã Giai biết mình đánh lầm phải thái tử, trong lòng vừa sợ hãi vừa mắc cỡ, bỗng oà lên khóc một hồi. Bà không ngờ rằng mai chính là ngày đại hoạ tới với bà.

Thật không may cho Mã Giai, ngày hôm sau là ngày mồng một đầu tháng. Theo qui củ trong cung thì cứ ngày mồng một là các hoàng tử, công chúa đều phải vào cung để triều bái hoàng phụ, mẫu hậu. Bảo Thân vương bị Hoàng hậu Nữu Cô Lộc trông thấy vết thương trên mặt. Bà thương con, trong lòng rất lấy làm đau xót, liền kéo lại gần xem xét, mới biết bị người đập phải. Bà lấy làm lạ, bèn cật vật vấn xem đánh nhau với ai mà bị thương. Vương thấy bà hỏi dồn vừa hoảng sợ, vừa xấu hổ, khiến cái lưỡi cứ líu lại, ấp úng mới chẳng nói ra lời. Bà Nữu Cô Lộc thấy vậy càng nghi thêm bèn quát hỏi.

Vương bị mẹ hỏi gấp, nhất thời không có cách gì thoái thác bèn khai rõ với mẹ là đùa nghịch với phi Mã Giai chẳng may bị bà ta lỡ tay đánh phải. Bà Nữu Cô Lộc vốn ghét Mã Giai, vì tính tình lạnh nhạt, kiêu kỳ, lại được hoàng đế sủng ái nay vớ được cơ hội tốt, bèn bắt tội Mã Giai quấy phá thái tử, liền cho đòi tới, rồi cho bọn thái giám dùng gậy đánh cho một trận, xong đưa ra cửa Nguyệt Môn dùng dây thắt cổ chết.

Bảo Thân vương thấy mẹ nổi giận đùng đùng, chẳng dám khuyên mà cũng chẳng dám chạy đi đâu, đành cứ đứng chết trân tại chỗ, mắt nhìn thái giám vật ngửa nàng ra rồi khiêng đi như khiêng heo khỏi cửa cung. Lòng Vương lúc đó chẳng khác gì mười tám cây đao sắc đâm vào đau đớn không để đâu cho xiết.

Vương chờ cho mẹ nguôi giận trở về cung rồi, lúc đó mới ba chân bốn cẳng chạy tới cửa Nguyệt Hoa môn. Vương vừa chạy tới thì chiếc dây cũng vừa thắt cứng lấy cổ nàng Mã Giai, nàng chỉ còn thoi thóp thở. Vương khóc nói:

- Ta hại nàng mất rồi!

Vương nói xong, bèn cắn vỡ đầu ngón tay cho máu nhỏ giọt vào cổ nàng, nói:

- Kiếp này ta không cách gì cứu được nàng thì xin duyên nối kiếp sau. Nếu thấy ai có nốt ruồi ở cổ thì ta nguyện đem tính mạng mà báo đáp cho người ấy.

Câu nói vừa dứt, nàng bỗng ứa hai giọt lệ xuống má rồi chết. Bảo Thân vương bỏ ra một ngàn quan tiền, ngầm thuê bọn cung nữ lấy cho bộ quần áo nàng thường mặc đem về treo luôn luôn bên cạnh giường ngủ của mình. Câu chuyện này chỉ được quên dần sau khi vương lên ngôi hoàng đế ít lâu.

Một hôm Càn Long hoàng đế đi hành hương ở Đại Miêu trở về cung, bọn ngự tiền thị vệ và nhân viên Loan nghi vệ đều đã giải tán đi hết rồi, bỗng người ta thấy một tên thái giám trong cung Nội loan truyền ra rằng hoàng đế lại muốn xuất cung để đi thăm Hiệp biện đại học sĩ là Trần Đại Thị hiện bị bệnh. Lời truyền này khiến bọn nhân viên Loan thị vệ cuống quýt, ba chân bốn cẳng hè nhau vác nghi trượng ngự dụng ra để chờ sẵn, nhưng có điều là không biết bỏ cái tán vàng nơi đâu, kiếm mãi mà không thấy. Từ bên trong hoàng thượng đã bước ra khỏi cung, trèo lên kiệu rồi.

Bọn nhân viên nghi trượng càng hoảng sợ, chạy ngược chạy xuôi tìm tán vàng nhưng vẫn không thấy. Càn Long hoàng đế ngồi trên kiệu bực mình lắm, dậm chân nói:

- Đứa nào gây ra chuyện này? Thực là cẩu thả, bậy bạ hết sức!

Lúc đó, có một viên quan học sinh khiêng kiệu nghe tiếng vội quỳ xuống tâu rằng:

- Tâu thánh thượng! Việc này điển thủ không thể tránh được trách nhiệm!

Càn Long hoàng đế thấy hắn tuổi còn rất nhỏ, bèn lệnh cho ngẩng đầu lên. Nhưng thoạt nhìn vào mặt hắn, ngài bỗng "ủa" lên một tiếng lớn, rồi cứ ngây người ra mãi.


Hồi 77: Một chuyện tình kì lạ

Càn Long hoàng đế vừa nhìn thấy mặt tên thiếu niên khiêng kiệu lòng bỗng xúc động bồi hồi. Ngài tự nhủ hình như đã gặp hắn tại nơi nào rồi, có vẻ như quen thuộc lằm mà nghĩ mãi chẳng ra. Bọn nội giám chờ đợi quanh đấy thấy thái độ của ngài cũng lấy làm lạ, đều lẳng lặng dừng tay ngó xem. Bỗng hoàng đế bỏ kiệu bước xuống, bảo cả bọn thu dọn hết nghi trượng, không xuất cung nữa. Ngài quay về cung, cho đòi gã khiêng kiệu vào theo.

Từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ được vào cung, nay bỗng bị gọi vào, tên khiêng kiệu hoảng hồn bạt vía, toàn thân run lên bần bật. Một tên nội giám đưa hắn thẳng tới Ngự thủ phòng, hắn quỳ mọp dưới đất, chẳng dám cử động.

Càn Long hoàng đế đi đi lại lại mấy lần dưới mái hiên, bảo bọn nội giám lui ra hết, rồi mới cất tiếng hỏi:

- Tên ngươi là gì?

Hắn dập đầu lâu:

- Tâu bệ hạ! Kẻ tiểu nhân tên gọi Hoà Khôn.

Hoàng đế lại hỏi:

- Tuổi ngươi bao nhiêu?

- Tiểu nhân hai mươi bốn tuổi.

- Ngươi xuất thân từ đâu?

- Tiểu nhân xuất thân là một học sinh, người Mãn Châu.

Đến lúc này, Càn Long hoàng đế đã nghĩ ra được điều ngài băn khoăn nghi ngờ nãy giờ. Ngài nhận thấy khuôn mặt của Hoà Khôn giống hệt khuôn mặt của nàng phi Mã Giai bị thắt cổ chết ở Nguyệt Hoa môn trước đây. Ngài lại bấm đốt ngón tay nhầm tính, thì ra nàng Mã Giai chết đến nay vừa đúng hai mươi bốn năm. Càng nghĩ đến chuyện xưa, càng thấy chua xót trong lòng, ngài ngồi phịch xuống ghế, cho phép Hoà Khôn quỳ lại gần bên mình, rồi bảo Khôn cởi rộng cổ áo.

Ngài rùng mình khi thấy trên cổ Khôn quả có một nốt tròn màu đỏ hồng. Không còn nhịn được nữa, ngài đưa tay ra ôm choàng lấy Khôn kéo vào lòng, lệ chảy ròng ròng trên má, nghẹn ngào hỏi:

- Tại sao ngươi lại đầu thai làm con trai như vậy?

Song Hoà Khôn nhận thấy Hoàng đế như điên như khùng, sợ quá, chẳng dám cử động gì, để mặc cho ngài khóc ngài nói…

Hoà Khôn vốn khôn khéo lanh lợi nên khi nghe hoàng đế kể lể chuyện ân tình với nàng Mã Giai thuở nọ, liền giả bộ nũng nịu, hờn dỗi rồi nói:

- Bệ hạ làm khổ thân thiếp biết bao rồi!

Nói đoạn, Khôn để cho dòng lệ tràn trề trên má. Càn Long hoàng đế lấy ống tay long bào chùi nước mắt cho Khôn. Hai người cứ thế, thì thào tri kỷ mãi với nhau. Sau đó, Hoà Khôn được tặng rất nhiều quần áo đắt tiền, lại được thưởng năm vạn lạng bạc nữa.

Qua ngày thứ hai, một đạo thánh chỉ hạ xuống, đặc biệt phong Hoà Khôn lên làm Nội vụ đại thần chưởng quàn nghi trượng. Và từ đấy, Càn Long hoàng đế đâm ra sủng ái Hoà Khôn hết mức. Khôn thường vào cung hâu hạ hoàng đế, cũng có khi nằm ngủ cùng giường với ngài trong ngự thư phòng.


Càng được sủng ái. Khôn càng đem hết khoa nịnh bợ, chiều chuộng để lấy lòng ngài. Còn Long hoàng đế coi Khôn chẳng khác gì nàng Mã Giai thuở trước.

Bên ngoài, nhiều viên quan đại thần thấy Khôn được sủng ái bèn tìm cách ton hót, xu phụng, kẻ cho tiền, cho nhà cửa, kẻ lại cho cả gái đẹp hoặc châu báu ngọc ngà. Khôn vốn là một tên tiểu nhân đắc chí, chẳng hiểu gì là lễ nghĩa, phép tắc lại cậy có hoàng đế sủng ái, tha hồ ăn hối lộ, tham tàn, làm đủ việc phi pháp, chẳng cần kiêng nể ai. Mới chỉ có vài năm Hoà Khôn đã có một sản nghiệp lớn lao, cửa nhà san sát, tiền của như nước, con ăn đứa ở hàng bầy, gái đẹp đầy nhà. Chẳng cần phải nói Hoà Khôn, ngay như bọn gia nô của y cũng thiếu gì quan viên lui tới để hiếu kính, mong sao chúng nói cho một lời với chủ là lập tức được thăng quan tiến chức, phát tài phát lộc ngay. Trong lòng Càn Long hoàng đế lúc nào cũng chỉ có Hoà Khôn. Ngoài Hoà Khôn ra, ngài chẳng tin một ai. Hoà Khôn nói một lời, hoàng đế tin một lời Hoàng đế nổi trận lôi đình, chỉ cần gọi Hoà Khôn tới là y như ngài đổi giận làm vui ngay. Xưng hô với Hoà Khôn, hoàng đế thường nói ta với mình, mình với ta như đôi bạn tình chí thiết. Bảo vật bốn phương tiến công, hoàng đế đều cho phép Khôn tự chọn và đều thưởng cho Khôn. Thực ra mà nói Hoà Khôn với hoàng đế cùng chia nhau những món tiến cống mới đúng. Nhưng đồ tiến cống trước hết phải qua tay Khôn, để Khôn chọn và cất vào nhà đã, còn lại mới đưa cho hoàng đế. Ấy thế mà hoàng đế còn đem những đồ còn lại này cấp cho Khôn một lần nữa. Cũng vì thế mà trong nhà Khôn chứa không biết là bao nhiêu châu báu vàng ngọc, có lẽ còn nhiều hơn cả trong đại nội nữa.

Có một hôm ngày rằm, hoàng tử, công chúa đều phải vào cung triều kiến. Hoàng hậu giữ cả lại, cho du ngoạn tại Thượng Xuân cung, chẳng may A Kha đánh vỡ mất một đôi mâm bích ngọc bầy trong đó. Đôi bích ngọc này rộng tới một thước (thước Tàu) màu xanh cánh trĩ. Đây là đôi mâm được Càn Long hoàng đế quý lắm. Thất A Kha làm vỡ rồi, lo sợ quá, chỉ ngồi trước đôi mâm vỡ mà khóc. May thay lúc đó có Hoà Khôn từ trong viện đi tới. Thành Thân vương đã lớn tuổi, biết việc này chỉ có Hoà Khôn giúp được mà thôi. Thế là hai người vội chạy tới trước mặt Khôn dập đầu nhờ vả. Thoạt đầu, Khôn không muốn can thiệp tới; nhưng về sau y thấy Thất A Kha có vẻ lo sợ quá rồi, hơn nữa Thành Thân vương lại hứa với y là về bẩm với cha mẹ và tình nguyện hiếu kính y một vạn quan tiền, mong Khôn tìm cách nào giải cứu cho A Kha. Lúc đó Khôn mới nhận lời.

Qua ngày hôm sau, phụ thân của Thành Thân vương quả mang tới nhà Khôn một vạn quan tiền thật. Khôn bèn lấy cặp mâm bích ngọc của nhà y, lặng lẽ đặt vào chỗ đôi mâm bị vỡ trong Trường Xuân cung. Cặp mâm này xem ra còn rộng hơn cặp mâm cũ. Thì ra, lúc có người đem tiến cống, Khôn đã chọn lấy cặp lớn để lại nhà.

Hoà Khôn không những đánh "xoáy" bảo vật của hoàng đế theo kiểu đó, mà mỗi khi tới nhà các đại thần, y thấy có châu báu này nọ là chẳng kiêng nể gì cả, thẳng tay lấy luôn.

Viên đại thần nào gặp phải trường hợp này, dù có tiếc của đến đâu cũng đành để y lấy đi. Do đó, bọn đại thần bảo nhau đem trân châu báu vật cất đi hết, không bao giờ để cho Khôn thấy nữa.

Có một hôm Hoà Khôn đi vào cung chầu sớm, thấy một viên đại thần tên gọi Tôn Sĩ Nghị được phong tước Văn Tỉnh công đã đến triều phòng ngồi đợi từ lâu. Nhân lúc chờ đợi, chẳng có chuyện gì giết thì giờ, Nghị bèn lấy chiếc Tị yên hồ trong bọc ra ngắm nghía chơi. Khôn thấy thế, chạy tới xem.

Thì ra chiếc Tị yên hồ này là khối trân châu lớn vừa bằng một cái hột gà, chạm trổ rất đẹp. Khôn thích quá, liền giơ tay ra muốn cầm lấy. Nghị hoảng lên vội nói:

- Ngọc này, nhân tôi đi đánh An Nam nên cướp được đó. Hôm qua, tôi đã tâu rõ với hoàng đế là hôm nay đem hiếu kính ngài, quyết không thể nào cho đại nhân được đâu.

Khôn thấy Nghị có vẻ hoảng sợ quá, bèn cười nói:

- Tôi có ý đùa đại nhân đấy thôi, chứ đâu có muốn lấy mà đại nhân sợ!

Cách ba hôm, Tôn Sĩ Nghị lại vào chầu, ngồi đợi tại triều phòng và gặp Hoà Khôn. Hoà Khôn đưa tay vào bọc rút ra một chiếc Tị yên hồ đưa cho Nghị xem và nói:

- Đại nhân xem! Tôi cũng có một chiếc Tị yên hồ đây nầy!

Nghị cầm lấy xem, nó chẳng khác tý nào chiếc mà Nghị đã đem dâng, cho Càn Long hoàng đế.

Nghị hỏi Khôn:

- Đại nhân lấy ở đâu vậy?

Khôn nói:

- Lấy của hoàng thượng chứ còn ở đâu nữa!

Những chuyện ngang tàng của Khôn, không dè đều lọt vào tai mắt bọn ngự sử. Bọn này thấy gai mắt quá, thế là nay một bản, mai một bản, tấu chương đưa vào triều như bươm bướm để hặc tội Khôn. Nhưng họ có biết đâu rằng Càn Long hoàng đế xem Khôn như hậu thân của nàng Mã Giai, tất cả những điều bậy bạ đó đều được tha thứ hết. Ngài thường bảo Khôn:

- Cánh mình đều là người một nhà. Có phúc ta cùng hưởng. Tiền của trẫm tức là tiền của ngươi. Ngươi muốn lấy tiêu thì cứ lấy, bất tất phải e ngại.

Thành thử bọn ngự sử đã không làm cho Khôn bị giáng chức mà trái lại còn thăng chức nữa là khác. Chỉ có mấy năm, Khôn thăng quan một lèo, leo mãi tới chức Đại học sĩ, rồi làm luôn tể tướng. Lúc đó, Lưu Văn Chính chỉ mới vươn lên tới Hiệp biện đại học sĩ mà thôi.

Lưu Văn Chính vốn là người chính trực, thấy Khôn làm nhiều điều bỉ ổi, thường trách Khôn ngay trước mặt hoàng đế. Càn Long hoàng đế thấy Chính là một vị lão thần chính trực, hơn nữa do không muốn trách mắng Hoà Khôn, nên nhờ Chính giám sát Khôn khiến Khôn không dám phóng túng bừa bãi. Do đó, mỗi khi thấy Chính tố cáo Khôn tham tàn, ăn hối lộ, làm bậy, thì Càn Long hoàng đế chi dùng lời ngon ngọt xoa dịu Chính mà thôi.




Có một năm, quân binh đi dẹp giặc, khải hoàn trở về, Càn Long hoàng đế cho những công lao đó là của Hoà Khôn vì ngài bảo là Khôn có công trù mưu định kế, rồi phong cho Khôn tước công. Nhân dịp này, Khôn làm tiệc mừng linh đình đến bảy ngày đêm liền.

Hôm đó, Khôn mời hoàng đế đến dự. Mãi tới chiều tối Càn Long hoàng đế mới bày giá xuất cung. Đèn đuốc dọc đường sáng rực như ban ngày, mãi tới tướng phủ, chẳng khác gì một con rồng lửa chạy dài trong kinh thành. Trong dinh tể tướng của Khôn, đèn đóm còn rực rỡ hơn nữa. Đứng xa trông, người ta chỉ thấy một toà thành lửa phía trên che vải màu năm sắc, dưới đất lót nệm gấm dày tới hàng thước suốt từ cổng vào, đến nỗi vó ngựa nện xuống êm như đạp trên cỏ dày không nghe thấy một tiếng động.

Hoà Khôn đích thân đứng chực ngoài cổng phủ đón giá. Lễ bộ thượng thư hôm đó làm quan chiêu đãi. Cửu môn đề đốc phải đứng trên cổ đài đánh trống. Còn những bọn khua chiêng đánh khánh trong dinh đều phải là quan tứ phẩm trở lên mới được cái hân hạnh đó.

Một lát sau, hoàng đế đến ngôi dự yến. Phía trước tuồng bắt đầu diễn mua vui. Hoàng đế đích thân bảo diễn tuồng "Nghiêu Thuấn nhường ngôi" theo tích xưa. Bọn đại thần ngài hầu rượu hai bên đều lấy làm ngạc nhiên. Tại chiếu trên, hoàng đế cùng Hoà Khôn lúc cười lúc nói, y như một đôi bạn tâm giao.

Khôn đem hết tài sức mình hầu rượu. Hoàng đế quá chén say mềm. Bọn đại thần đều rút lui ra bên ngoài. Lúc đó, Khôn lại còn cho gọi bọn ca kỹ ra múa hát, dâng rượu tiếp. Hoàng đế hết sức khoái lạc, cùng bọn ca kỹ tha hồ lả lơi suồng sã.

Mãi đến khi ngài say đến tột độ, Khôn mới chọn một con ca kỹ tuyệt sắc trong bọn, dìu hoàng đế vào trong phòng an nghỉ. Thế là ngay đêm đó con ca kỹ này đã được hoàng đế "chăn gối" luôn.

Canh ba đêm đó ngài thức dậy, lại cùng con ca kỹ rửa chén, rót rượu uống nữa. Khi uống tới lúc quá cao hứng rồi, Càn Long hoàng đế bèn cởi áo ngủ ra, mặc chiếc áo long bào vào giá như bọn tuồng trên sân khấu, rồi cười bảo con ca kỹ:

- Trẫm có giống một ông vua người Hán không?

Hoà Khôn uống lúc đó cũng đã say, liền lấy áo ngủ của Càn Long mặc vào mình rồi cười hỏi Hoàng đế:

- Thần có giống bệ hạ không?

Vua tôi hai người cứ đùa giỡn nhau kiểu đó mãi suốt đêm.

Trời đã sáng tỏ. Càn Long hoàng đế thấy trên cổ áo Hoà Khôn thêu một con rồng vàng, liền hỏi Khôn xem thêu như vậy có ý nghĩa gì thì Khôn tâu:

- Chiếc cổ áo này đã được chính tay của Bệ hạ sờ vào. Thần cho thêu con rồng này là để bảo vệ nó đấy!

Càn Long hoàng đế giơ tay vào cổ áo, bảo Khôn:

- Khanh thật là người khéo chiều ý trẫm.

Hai người cứ đùa nhau mãi như vậy. Qua ngày thứ hai ấy, quan khách đi mừng đều đã tề tựu trước cửa phủ. Cả bọn được tin hoàng đế vẫn chưa về cung, anh nào anh nấy hoảng hồn bạt vía, vội bảo nhau rút lui có trật tự. Duy chỉ có một mình Lưu Thống Huấn đi thẳng vào phía trong mời hoàng đế về cung mà thôi.

Càn Long hoàng đế thấy Huấn vào, trong lòng cũng có phần e ngại, đành phải bày giá trở về cung. Về sau, Hoà Khôn ngầm đưa một con em gái vào cung dâng Càn Long hoàng đế và nói:

- Bệ hạ thấy em gái của thần cũng như thấy thần.

Càn Long cũng đem lòng sủng ái em gái Hoà Khôn từ đó.

Khôn chẳng những dẫn dắt hoàng đế dâm lạc tại trong cung, về sau còn đưa hoàng đế ra khỏi cấm thành.

Hồi đó, ở kinh thành có một con điếm tên tuổi nổi như sóng cồn, gọi là Tam cô nương. Nào là đại quan, nào là quý nhân, anh nào cũng đều phải tới lui nhà nàng. Ngay cả đến Hoà Khôn mà cũng còn là khách quý của Tam cô nương nữa là! Bởi vậy, bọn quan lại trong kinh thành nếu muốn chạy chọt này nọ đều phải tới nhờ ả ta nói giúp. Tam cô nương vốn tính kiêu kỳ, thích thì tiếp, chẳng thích thì đừng hòng, do đó, ngoài cổng có những anh quan nhị, tam phẩm mà vẫn phải đợi có khi cả ngày mà chưa được vào. Đến khi Hoà Khôn đưa Càn Long hoàng đế tới nhà, Tam cô nương lại càng lên mặt làm phách. Bọn quan lại lui tới trước đây, lúc này bị ả ném ra sau ót hết. Hằng ngày ả chỉ chầu chực để hầu hạ hoàng đế.



Nói đến nhan sắc của Tam cô nương thì quả hiếm có trên đời. Ngoài dung mạo đẹp như ngọc ra, ả có cái phong vận yểu điệu quyến rũ vào bậc nhất, dù người đẹp thượng thặng trong cấm cung cũng khó có thể bì kịp. Còn nếu lại chấm cái nghệ thuật trong phòng kín thì hẳn từ xưa đến nay chưa có ai dám sánh. Chả thế mà chỉ cần một tối thôi cũng đủ cho Càn Long hoàng đế lăn lóc trước ả rồi.

Cũng nhờ cái công phu thượng thặng ấy mà Tam cô nương đã trói chặt ông vua chơi bời, từ đó không thể bỏ ả được nữa. Càn Long hoàng đế ngày ngày lẻn ra khỏi cung, tới nhà ả để tìm vui thú.

Hồi đó, có một vị công tử con trai Di Thân vương, nghe danh tiếng Tam cô nương bèn bỏ ra cả vạn quan tiền, chỉ mong ả cho gặp mặt một lần. Chàng công tử này quả đã yêu Tam cô nương tha thiết. Ngày ngày, chàng cho người đưa tiền đến cho nàng, tưởng rằng rồi đây hẳn có lúc được ngắm mặt ngọc, được sờ vào làn da như tuyết như nhung của ả. Nào ngờ tiền đối với Tam cô nương chẳng có nghĩa gì lúc này.

Hồi 78: Vua chơi, quan đi bắt

Chàng công tử bỏ tiền ra ngày càng nhiều, bỏ luôn một hơi đến hai mươi vạn lạng bạc. Vãi vung quá xá, chàng bị cha là Di Thân vương nghi ngờ. Thế là ông cật vấn thằng con trai hư đốn và lúc đó ông mới biết bao nhiêu tiền của nhà ông đều chui cả vào cái lỗ nhà Tam cô nương. Bất giác ông nổi máu nóng, chạy như bay đến nhà quan thống lĩnh bộ binh và quan Cửu môn đề đốc, gầm thét một hồi, buộc hai vị quan lớn này tức tốc sai nha dịch quân binh tới nhà Tam cô nương để vừa lấy số tiền lại, vừa đuổi ngay con điếm ra khỏi thành.

Quan thống lĩnh và quan đề đốc nghe nói con điếm bịp bợm ngang tàng đến như vậy, cũng đùng đùng nổi trận lôi đình, lập tức phái nha dịch tới bắt.

Bọn nha dịch quân binh được lệnh của quan trên, hùng hùng hổ hổ xông vào, thấy đồ là đập, thấy người là bắt, chỉ trong chốc lát, tất cả bọn mụ dầu em út, ma cô ma cạo, đều một loạt bị trói gô lại như đàn heo chờ chọc tiết. Chưa xong, bọn nha dịch còn lùng ra nhà sau để tính làm một mẻ nữa cho tỏ đủ cái oai quyền của triều đình. Nhưng vừa tới thềm nhà thì cả bọn đã bị một ông lão giơ tay cản lại. Bọn nha dịch đâu có chịu, xô ông lão ra bên, định cứ xông bừa vào.

Không ngờ ông lão trụ vững như một tảng đá, ba bốn người cùng lúc cũng khó xô cho nhúc nhích được. Cả bọn hầm hè một chặp nhưng chẳng tên nào nhào vô được. Có vài tên tính luồn qua nách ông lão để vào trong, nhưng ông lão sớm biết đã dùng ngón trỏ điểm trúng vào huyệt trên hũm vai, tức thì mấy tên này đứng sững cả lại, mắt trợn ngược, miệng há hốc, chẳng khác gì những bức tượng vô hồn. Bọn nha dịch phía sau, thấy tình hình nguy hiểm, bèn quay lại, chuồn một mạch về nha môn cấp báo.

Quan thống lĩnh bộ binh lúc đó là chú của bà hoàng hậu Phú Sát. Được tin này, ông tức đến chết được, gầm lên như hổ rống beo gào, rồi lập tức đích thân chỉ huy một đội thân binh rầm rộ kéo tới nhà Tam cô nương. Lúc đó trời đã hoàng hôn bên ngoài căn nhà Tam cô nương im ắng khác thường. Tất cả như chìm trong bóng chiều đang nhuộm một màu tang tóc.

Quan thống lĩnh cậy mình là quan lớn nào có ngán ai, nên cứ xông thẳng vào nhà sau. Nhìn qua khung cửa sổ treo bức màn gấm, ông thấy có ngọn đèn le lói, ánh sáng lúc mờ, lúc tỏ, Lại có tiếng phách, tiếng đàn thánh thót vọng ra. Quan thống lĩnh máu sôi sùng sục, đứng ngay giữa sân, quát lớn:

- Bắt lấy nó!

Giữa lúc nguy cấp, bỗng từ trong nhà một đứa con gái chạy thẳng ra trước mặt quan thống lĩnh, đưa cho ông ta mẩu giấy. Quan thống lĩnh xem xong, bỗng giật mình đánh thót một cái, chân như muốn khuỵu xuống. Thì ra trong tờ giấy, quan đọc thấy dòng chữ sau đây: "Ngươi hãy trở về. Ngày mai, trẫm sẽ có chỉ. Khâm thử". Phía dưới mười hai chữ đó, ông thấy dấu son còn tươi của chiếc ngọc tỷ.

Quan thống lĩnh đến lúc này một câu chẳng dám nói, lẳng lặng kéo đội binh trở về nha môn, một mặt biệt phái đội thủ vệ binh âm thầm kéo tới bao vây khắp bốn phía quanh nhà Tam cô nương để bảo vệ cho hoàng đế chơi gái.

Sang ngày thứ hai, quan thống lĩnh vào triều kiến Hoàng đế đang lúc định tẩu khuyên hoàng đế chớ nên vi hành, không ngờ Càn Long đã không cho ông mở miệng mà vừa cười vừa bảo ông:

- Khanh làm việc cần mẫn lắm, nhưng bất tất phải nhìn rõ đến thế, e mất cả cái đẹp đi!

Quan Thống lĩnh nghe đoạn, giật mình phát hoảng rồi đập đầu xin tha tội. Càn Long hoàng đế ngoài miệng tuy nói vậy nhưng trong lòng lại nghĩ là hoàng hậu đã sai quan thống lĩnh tới phá đám. Bởi vậy, ngài bắt đầu chán ghét bà.



Hoàng hậu Phú Sát khi mới lấy Càn Long hoàng đế, ân tình kể ra thắm thiết lắm, nhưng tính bà thẳng thắn đàng hoàng nên thấy hoàng đế hiếu sắc hay sủng ái phi tần thì thường ngầm ngỏ ý khuyên can. Trong cung nhà Thanh có một luật lệ đặc biệt, đó là đọc lời "Tổ huấn" (lời dậy của tổ tiên). Sợ hoàng đế hoang dâm vô độ, cứ mỗi khi được tin hoàng đế ngủ tại phòng bà phi nào mà đến canh năm chưa dậy, tức thì hoàng hậu sai thám giám đầu đội Tổ huấn đi thẳng tới ngoài cửa phông ngủ, quỳ xuống, miệng đọc thao thao bất tuyệt, hết lượt này đến lượt khác. Khi nghe đọc Tổ huấn, hoàng đế lập tức phải mặc áo, xuống giường quỳ nghe. Nếu vẫn mặc kệ, thản nhiên nằm trên giường thì tên thái giám cứ đọc hoài, đọc mãi cho đến lúc hoàng đế phải ngồi dậy mới thôi. Hoàng hậu thường lấy phương pháp đó để trị. Càn Long hoàng đế ghét cay ghét đắng bà là vì thế.

Có một hôm, hoàng đế vừa ở nhà Tam cô nương về, hoàng hậu biết được, bèn bỏ trâm cài đầu đế rủ tóc xuống rồi đem hết lời khuyên can. Hoàng đế thấy vậy, bảo bà một cách lạnh lùng:

- Hậu tính hùa với cả trong lẫn ngoài để áp chế trẫm phải không? Trẫm đâu có phải bọn nhu nhược vô dụng! Hậu nên nhớ điều đó, bất tất phí công vô ích.

Nói đoạn, Càn Long hoàng đế quay mình bước ra khỏi cung.

Từ đó, mỗi lần ngài tới ổ điếm của Tam cô nương tìm vui trở về, đều bị hoàng hậu eo xèo năm ba tiếng chứ chẳng lần nào không. Hoàng đế cảm thấy bị kiềm chế, ở trong cung hết sức bực bội, đến không thể chịu nổi. Bởi vậy, ngài tính phụng thỉnh thái hậu xa giá Nam tuần để nhờ đó có thể toại nguyện bình sinh với cảnh vật, với chùa chiền, với mỹ nhân. Chủ ý đã định. Ngài bèn hạ chiếu tuần hành Giang Nam suốt chuyến đi này. Ngài đem tất cả đại quyền phó thác cho Hoà Khôn.

Ngài cũng cho Lưu Thông Huấn ở cạnh Khôn trông coi việc nước. Lúc đó ngài mới phụng thỉnh Hoàng thái hậu tựu tại cửa Ngọ môn để tiễn đưa. Trong số, độc có mình Hoà Khôn đưa ngài ra mãi tới ngoại ô kinh thành. Càn Long hoàng đế nhìn thấy vẻ mặt Hoà Khôn buồn rầu thê thảm, cho rằng Khôn có ý không muốn rời xa mình, bèn bảo:

- Trẫm đã có ý định cùng khanh đi du ngoạn miền Giang Nam nhưng vì việc nước không người lo liệu, nên đành phải làm phiền khanh. Đợi đến lúc trở về kinh, Trẫm sẽ cùng khanh uống rượu tìm vui, khanh chẳng nên buồn rầu mà làm gì!

Hoà Khôn tâu:

- Chỉ ý của Thánh thượng đâu dám chẳng phụng mạng, nhưng vì trong nhà thần gần đây chết mất một ái thiếp, nên thần buồn bã âu sầu khiến những nét sầu buồn đó hiện ra ngoài mặt, cầu mong hoàng thượng rộng lượng khoan thứ cho.

Càn Long hoàng đế nghe nói phá lên cười:

- Buồn mà làm gì? Miền Giang nam gái đẹp đâu thiếu, trẫm đi chuyến này sẽ tìm giùm khanh một trang mỹ nhân tuyệt sắc để khanh giải mối sầu.

Hoà Khôn nghe xong vội quỳ xuống đất tạ ơn. Càn Long hoàng đế cùng mẹ rời khỏi kinh thành trên hai chiếc thuyền rồng lớn, theo sau là gần trăm chiếc quan thuyền nữa. Đoàn thuyền rồng bơi theo sông Vận Hà, qua Thiên Tân, vào địa phận tỉnh Sơn Đông. Dọc đường bọn quan địa phương hối hả đón giá và cung ứng đầy đủ mọi thứ cần thiết. Bọn buôn muối ở Dương Châu cậy gia tài muôn vạn lượng đều muốn lấy lòng hoàng đế. Trước đây bọn họ đã có lần được vinh hạnh đón giá nay nghe hoàng đế Nam tuần, lại hí hửng xun xoe, chạy vạy hết mình để chuẩn bị tiếp giá và cũng để phô trương cái giàu có của mình. Trong bọn này ta phải kể hai tên cự phách nhất và cũng kình địch nhau nhất là Giang Hạc Đình và Uông Như Long. Trước đây cũng vì chuyện tiếp giá mà hai tay buôn muối này đã kết mối oan cừu. Bây giờ, họ đâu có chịu bỏ lỡ cơ hội. Họ vò đầu bóp óc, đem hết tâm lực ra tìm cho kỳ được một trò vui kỳ diệu nhất để lấy cho bằng được lòng hoàng đế mới nghe.

Bởi thế cho nên đám dân sĩ đất Dương Châu tin tưởng rằng phen này hai họ Giang, Uông thế nào cũng có cách đón giá hết sức tinh diệu tân kỳ.

Số là khi đón giá lần thứ nhất. Uông Như Long đã lo tính tới việc đón giá lần thứ hai. Nàng Tuyết Như từ khi được Càn Long hoàng đế ban ơn mưa móc, nay được Uông Như Long cho ở trong Tảo Thuỷ viên. Hai vai của Long trước đây đã được chính đôi tay của Hoàng đế đặt vào, Long bèn cho thêu ngay hai con rồng nhỏ ở trên đôi vai áo chính xác chỗ đặt tay của hoàng đế. Và từ đó, Uông thân sĩ cũng đổi giọng gọi Tuyết Như là Tuyết nương nương, một niềm kính trọng.



Long còn mua về hai mươi mấy đứa con gái và xin Tuyết Như dạy chúng múa hát. Tuyết Như bèn chọn những điệu múa khúc hát nào mà hoàng đế thích nhất để dạy cho chúng. Nàng cũng còn dạy chúng thêm những điệu múa mới lạ nữa. Uông thân sĩ lại mời khá nhiều danh sĩ sáng tác mấy bài hát mới để dạy chúng ca. Tập luyện vừa thuần thục thì được tin Càn Long hoàng đế ngự giá Nam tuần, Uông thân sĩ vội kéo cả đoàn tới bến Thành Giang đón giá.

Thành Giang vốn là bến sầm uất vào bậc nhất thời đó. Long đã tính đúng. Sau khi thuyền ra khỏi tỉnh Sơn Đông, đi từ Tế Nam tới, bỗng thấy bến này có vẻ đẹp, Càn Long hoàng đế lấy làm thích nên muốn ghé lại ít hôm.

Bởi đã liệu trước điều đó nên Uông thân sĩ đã cho một bọn thợ tới bến sông sửa soạn từ trước, chỉ chờ ngự thuyền tới là có đủ chỗ cho bọn quan viên thân sĩ sắp hàng quỳ một dọc dài như kiểu tràng xà trạm.

Càn Long hoàng đế ngồi trên thuyền, nhìn ra thấy non xa mờ nhạt, cây đứng thành hàng, càng lấy làm thích cái cảnh non sông hùng vĩ. Một lát sau, ngự thuyền ghé sát vào bến.

Đám thần dân chờ chực tiến ra, đồng thanh hô vang dậy:

- Hoàng thái hậu, Hoàng thượng vạn tuế!

Càn Long hoàng đế đang lúc tựa cửa khoang thuyền nhìn lên bờ, miệng cười chúm chím, thì bỗng thấy trên cây đại thụ phía bờ cao treo một trái đào thật lớn.

Hồi 79: Những cuộc tiếp rước linh đình

Cặp mắt của Càn Long hoàng đế đang chăm chú nhìn vào trái đào lớn trên cây, bỗng thấy trái đào tự nó chuyển động, rời khỏi cành, rớt xuống, rồi lại từ từ di chuyển trên mặt đất tới bờ sông, sát ngay cạnh thuyền rồng. Đợi đến lúc trái đào nọ tới gần, ngài mới nhìn thấy bên trong nó là cả một công trình, còn bên ngoài được sơn phết một màu hồng tươi, lại có cả hai cái cánh lá xanh rờn. Khiến bọn quan viên hiếu kỳ đều đổ xô lại xem xét, ngắm nghía.

Nhưng giữa lúc họ đang ngắm nghía say mê bỗng một tiếng thanh la vang dậy, tức thì trái đào bị tách đôi ra, ở giữa để lộ một cái sân khấu nhỏ, phía trên là các tài tử đang diễn tấn tuồng cổ "Quần viên chúc thọ", trăm cái miệng xếp thành một hàng dài đồng ca khúc"Vạn thọ vô cương".

Càn Long hoàng đế nhìn xem mới biết là người đóng vai hoàng mẫu chính là Tuyết Như. Nàng Tuyết Như hôm nay xinh đẹp còn hơn thuở nào. Đã vài năm nay hoàng đế không được gặp Tuyết Như rồi, tình xưa nghĩa cũ trở lại khiến ngài không khỏi động tâm. Ngài lại nhìn một lượt toán tiên tử chúc thọ, cô nào cô nấy dầu còn nhỏ tuổi nhưng đều xinh tươi lộng lẫy…

Giữa lúc đang trong phút xuất thần, Càn Long hoàng đế bỗng thấy một cô gái buông xoã mái tóc mây, trẻ đẹp tuyệt trần, múa đôi bàn tay ăn nhịp với giọng ca réo rắt. Cô gái ca múa một lát rồi thoăn thoắt bước xuống đài, tay nâng một bình ngọc tiến gần lại cửa sổ bên khoang thuyền dâng lên hoàng đế.

Càn Long thấy nàng có cặp chân mày đen như tranh vẽ, miệng cười xinh như đoá hoa hàm tiếu, đôi mắt liếc như biển tình gợi sóng, bất giác cảm thấy như ngây như dại. Ngài còn thấy những ngón tay nõn nà như ngọc của nàng với những móng tay rất dài được gọt dũa cẩn thận, bèn cười hỏi nàng:

- Khanh đúng là tiên nga giáng thế. Trẫm không biết tiểu danh của khanh.

Cô gái nọ thấy hỏi, bèn nhỏ nhẹ tâu lên:

- Tiểu tử tiện danh là Chiêu Dung!

Nói đoạn, nàng lấy ống tay áo che nửa miệng cười, liếc ngang một cái quay đi. Càn Long hoàng đế vội hối thái giám nắm lấy chéo quần của người đẹp: Nhưng nàng đã lách mình chạy vội lên đài, ca bản "Nghê thường vũ y khúc" thế là cả đoàn ca vũ cùng nàng đồng ca tiếng ca nhịp nhàng, êm ái, khi khoan lúc nhặt, lan toả trên dòng sông.

Càn Long hoàng đế truyền chỉ: Thưởng Tuyết Như một viên ngọc như ý, một chiếc hộp đựng phấn, một cái thau rửa ngón tay đều bằng ngọc bích hà, một đôi bình vàng, một đôi trâm bằng ngọc màu xanh lục, một cái chén bằng ngọc bích xanh, một chuỗi hạt châu. Ngài cũng truyền chỉ thưởng cho Chiêu Dung một viên ngọc như ý, một đôi bình vàng, một đôi trâm bằng ngọc màu xanh lục, một chuỗi hạt châu. Ngoài ra các cô đào khác cũng đều được hoàng đế ban cho một cành trâm bằng ngọc màu xanh lục, một chuỗi hạt châu.

Nàng Tuyết Như đem cả toán tới bái lạy, tạ ơn hoàng đế bạn thưởng.

Tối đến, Càn Long hoàng đế truyền lệnh cho hai nàng Tuyết Như và Chiêu Dung lên ngự thuyền để hầu hạ ngài nghỉ ngơi.



Nàng Chiêu Dung vốn là em của Tuyết Như, tuổi vừa đôi tám, xinh đẹp tuyệt trần. Hoàng đế thấy nàng tuổi còn non, tính tình ngây thơ dễ thương nên lại càng sủng ái.

Ngày hôm sau Càn Long hoàng đế tuyên triệu Uông Như Long lên thuyền ngự, thưởng cho Long chiếc mũ đệ nhị phẩm, năm chục vạn lạng bạc và bảo về Dương Châu sớm để chuẩn bị đón giá. Uông Như Long lãnh chỉ, tạ ơn, vội vã quay về Dương Châu diễu võ dương oai. Chuyến này thực chẳng còn coi Giang Hạc Đình ra cái gì nữa.

Giang Hạc Đình thấy Uông Như Long đắc thế vênh váo, lấy làm cay cú lắm. Đình bèn bàn với nàng Huệ Phong âm thầm sửa soạn một trò vui tân kỳ bằng vạn họ Uông và quyết sẽ cho họ Uông biết tay một phen. Giang không hiểu đối phương đang mưu tính việc gì nhưng kỳ thực Uông đang ráo riết chuẩn bị một trò mới lạ khác, hấp dẫn hơn bao giờ hết, để cho thiên hạ bở vía một phen, trong dịp thuyền rồng của Hoàng đế cập bến Dương Châu sắp tới.

Hôm đó, Càn Long hoàng đế ngồi trên lầu cao, hai bên có văn võ bá quan đứng hầu. Thoạt đầu, người ta chỉ thấy trước mặt tối om như mực. Rồi dần dần một đốm lửa xuất hiện. Đốm lửa này phun tia sáng ra bốn phía. Càng phun, đốm lửa càng lớn. Bỗng một tiếng nổ lớn như xé không gian, đỏ rực khắp bầu trời, rọi sáng cả một khu đất làm trước mặt toà lầu cao. Giữa vùng ánh sáng đó hiện rõ một cây đại thụ, khắp mọi cành đều nở rộ những đoá hoa đào. Những đoá hoa này bỗng nở xòe trong ánh sáng hồng, mỗi lúc một lớn. Nhưng chốc lát, hoa tàn cánh rụng, từ đó nảy ra một chùm trái. Những chùm trái đào này lớn phồng dần lên rồi một trái lớn nhất bỗng lìa cành rụng xuống, cũng vừa lúc cây, cành lá, tất cả đều biến mất, chẳng còn thấy bóng dáng đâu nữa. Trái đào vừa rụng xuống lại nứt toác ra làm đôi, biến thành hai cái sân khấu ở hai bên, bên này diễn tuồng Tây Du Ký có yêu ma quỷ quái biến ảo khôn lường, còn bên kia bày cảnh bửu tướng trang nghiêm, có toà sen vòi vọi tượng phật Quan Âm và bầy tiên nữ đang quỳ lạy dưới chân. Một lát sau, về phía sân khấu đóng tuồng Tây Du Ký, người ta thấy Tôn Hành Giả diễn một màn ăn trộm đào tiên, tay đang bưng mâm đào ra. Cùng lúc đó, ở phía sân khấu bày bửu tướng, người ta thấy một nàng tiên nữ giơ đôi bàn tay ngọc ra đỡ lấy chiếc mâm đào rồi dâng thẳng lên cho Hoàng đế ngồi trên lầu cao.




Càn Long hoàng đế nhìn kỹ vị nữ lang cũng lại là một trang tuyệt thế giai nhân, tóc mây buông xoã, tay áo vén cao, duyên dáng muôn phần. Người cười nói:

- Miền Giang Nam quả có nhiều người đẹp!

Câu nói đó vừa thốt ra thì một tên thái giám bước lên nắm giữ nàng lại. Thế là từ hôm đó, Hoàng đế đã có ba vị mỹ nhân, luân phiên hầu hạ đêm ngày.

Đoàn thuyền ngự thong thả chèo đi giữa dòng sông. Hai bên bờ nào quan lại, nào thân sĩ hối hả đón rước. Nhưng hoàng đế còn có thì giờ nào nữa để truyền lệnh cho bọn họ vào bệ kiến.

Đoàn thuyền ngự ra khỏi địa phận bến Dương Châu, bỗng từ hai bên bờ nổi lên giọng ca êm ái như đàn chim oanh vui đón tình xuân. Càn Long hoàng đế đẩy bức rèm cửa sổ nhìn ra. Ngài thấy hai bên bờ sông có hai đoàn phụ nữ, một đoàn mặc quần áo xanh, một đoàn mặc quần áo đỏ. Cả hai đoàn có độ trăm người, người nào cũng đều da trắng mặt hoa, yểu điêu thướt tha. Trên vai mỗi người có đeo một sợi dây thừng ngũ sắc. Một trăm dây nhỏ đó hợp lại thành hai sợi dây chão lớn được cột chặt vào cái trụ ở trước thuyền rồng của hoàng đế. Từ đỉnh trụ của mũi thuyền này tới mãi đuôi thuyền lại treo không biết bao nhiêu những lá Tiểu long kỳ bằng gấm hoa, tung bay theo gió như trăm ngàn con rồng uốn lượn trên không trung. Hai bên mạn có hai đội phụ nữ chèo thuyền - một đội là nữ ni ăn vận toàn y phục màu da cam, một đội là đạo cô, ăn mặc toàn quần áo vàng. Tất cả hai đội này, người nào cũng trau son dồi phấn, lộng lẫy muôn phần. Dưới thuyền thì chèo, trên bờ thì kéo, tiếng chèo, tiếng ca phối hợp với nhau tạo thành một khúc hát nhộn nhịp tưng bừng, vô cùng hào hứng.

Càn Long hoàng đế nhìn khắp một lượt, bất giác thở dài, cảm khoái, quay đầu hỏi bọn thái giám:

- Trò lạ này của ai vậy?

Viên tổng quản thái giám liền tâu:

- Đó là trò "Kéo râu rồng" (Long tu khiên) của nhân sĩ Giang Hạc Đình đất Dương Châu hiếu kính hoàng thượng đấy ạ!

Càn Long hoàng đế quan sát thêm một lượt nữa, thấy trên bờ có trồng khắp nơi, nào đào nào liễu. Hoa đào nở tươi một màu hồng rực rỡ, lá liễu rủ xuống mát tươi cả một vùng. Một hồng một xanh chen kẽ phô bày muôn ngàn thi vị của thiên nhiên. Chưa hết, giữa khoảng cách dưới bóng cây đào, liễu, lại còn chăng những bức tường gấm. Cứ cách một dậm đường, lại xây cất một toà cẩm đình, trong đình có đủ mùng màn chăn đệm tiện nghi không thiếu một thứ gì, Càn Long hoàng đế hỏi:

- Các toà đình ấy để làm gì vậy?

Viên tổng quản thái giám lại tâu:

- Đây là nơi sẵn sàng dành cho bọn phụ nữ nghỉ ngơi!

Càn Long hoàng đế nói:

- Phong cảnh hai bên bờ đẹp quá. Trẫm cũng muốn lên bờ thưởng thức một phen.

Viên thái giám nghe nói vội bảo ngừng thuyền. Hoàng đế bước ra phía mũi. Bá quan vội tiến lên đón giá rồi theo sau hoàng đế về ngả cẩm đình trang hoàng lộng lẫy; nào trang đài nào kính bình mới đẹp, tinh vi. Hoàng đế truyền lệnh cho bốn đoàn phụ nữ đến gần. Đoàn thứ nhất ăn mặc quần áo hồng, đó là những nàng xử nữ mày liễu mặt hoa, son trẻ ngây thơ thật dễ thương. Đoàn thứ hai ăn vận y phục màu xanh, đó là đoàn quả phụ, trang điểm nhã đạm, phong lưu đặc biệt.

Đoàn thứ ba là đoàn nữ ni và đoàn thứ tư là đoàn đạo cô, cũng phong lưu yểu điệu, làm rơi hồn lạc phách mọi người.

Càn Long hoàng đế nhìn bốn đoàn phụ nữ, lòng thấy sướng vô hạn miệng cười nói như nắc nẻ. Ngài giơ bàn tay ra vỗ nhẹ vào những chiếc cổ thoa phấn, mân mê những bàn tay búp măng màu ngà. Bọn này được vậy thì cảm thấy muôn phần vinh dự…

Càn Long hoàng đế truyền chỉ thưởng cho mỗi người một chiếc kim bình (lọ bằng vàng), năm trăm lạng bạc. Ngài còn bảo giữ lại bốn người: Trần Tứ Di, Vương Thị, Uông Nhị Cô, và Ngọc Ni.

Nàng Trần Tứ Di chỉ huy đoàn áo xanh. Tuy là một sương phụ nhưng tuổi còn trẻ, xinh đẹp phải liệt vào hạng thượng thừa. Vương Thị cầm đầu đoàn đạo cô, có một nhan sắc nghiêng thành, phong nhã thanh cao như thần tiên nơi thượng giới.

Hai nàng này được Càn Long triệu hạnh, bèn đem hết bán lĩnh ra để thửa tiếp khiến hoàng đế mê ly đến điên đảo đảo điên, không bút nào tả xiết được cái khoái lạc nữa.



Uông Nhị Cô là đoàn trưởng đoàn áo hồng. Ngọc Ni là người cầm đầu đoàn Nữ ni. Nói đến nhan sắc của hai nàng này thì đến như Trần Tứ Di, Vương Thị vừa nói trên cũng còn thua xa. Đây là cái sắc một cười đổ thành, hai cười nghiêng nước. Tất cả chị em bạn gái trong bốn đoàn thực chẳng có ai có thể sánh kịp hai nàng. Tiếc thay, đẹp đến thế mà hai nàng không được lòng hoàng thượng khiến đến nỗi một người bị chết tươi dưới hàng trăm chiếc côn lớn vụt xuống tới tấp, còn một người lại phải chết chìm dòng nước bạc vô tình.

Uông Nhị Cô vốn con gái một nhà nghèo nơi thôn quê, cha nàng làm nghề bán dưa độ nhật, mẹ nàng mất sớm. Khi còn thơ ấu, vì mồ côi mẹ, nàng phải đầu tắt mặt tối làm lụng giúp cha. Tuy đầu bù tóc rối, vất vả vì công việc nhưng cái sắc tuyệt trần của nàng cũng chẳng vì thế mà lu mờ được.

Bọn thanh niên trong xóm thấy nàng đẹp như tiên nga giáng thế, đều cảm thấy lòng mình như vương víu không thể nào bỏ qua được. Bởi thế ngày nào cũng thường có đôi ba tên, nhất là những tên vô loại hiếu sắc, cứ tới lui nhà nàng để giờ trò chọc ghẹo bướm ong. Về sau, cha nàng bực mình quá không chịu nổi, bèn tới cửa quan tố cáo. Vị quan địa phương phái sai nha tới bắt hết bọn vô lại, từ đó nàng mới được yên thân làm ăn. Nhưng cũng từ đó đến cả viên tri phủ cũng biết cái sắc đẹp của nàng là tuyệt trần hiếm có. Thế rồi nhân Càn Long hoàng đế Nam tuần, Giang Hạc Đình nhận lo chuyện tiếp giá, muốn lấy lòng ngài bèn nghĩ ra trò lạ "kéo râu rồng", và cho tay chân đi khắp nơi tìm kiếm người đẹp. Nghe tiếng Nhị Cô là một trang tuyệt sắc nên nhờ quan tri phủ địa phương đem nhiều vàng bạc đến mời nàng. Lúc đầu nàng không chịu, nhưng do người cha tham tiền, khuyên nhủ:

- Con chỉ phải đóng vai người kéo dây chứ có phải tới gặp hoàng đế đâu mà e ngại!

Uông Nhị Cô chẳng biết nói sao, đành từ giã cha già ra đi. Khi tới nhà họ Giang, nàng được mụ quản sự cho đi tắm nước bông, cho mặc đồ gấm vóc, cho tô son điểm phấn, bỗng nhiên trở thành xinh đẹp lạ lùng, có sức quyến rũ không ngờ. Do đó, mụ quản gia cho nàng làm trưởng đoàn áo hồng.

Hôm đó Càn Long hoàng đế triệu Trần Tứ Di và Vương Thị vào hầu trước. Hai cô này được ngài lâm hạnh và được thưởng đến trên vạn lạng bạc. Đám phụ nữ nghe tin, ai cũng ngưỡng mộ.

Một lúc lâu sau, thánh chỉ lại hạ xuống, truyền cho Uông Nhị Cô vào bệ kiến. Đi phen này dữ nhiều lành ít, nên nàng dù chết cũng không chịu vào. Thấy không còn cách gì khác, hai tên thái giám lực lưỡng liền nắm hai cánh tay nàng kéo đại vào Vài phút sau, người ta bỗng nghe bên trong đình vọng ra tiếng khóc của Nhị Cô hết sức thê thảm. Hai tên thái giám khi nãy lại hớt hải chạy ra và kéo luôn cô gái họ Chu vào. Cô gái họ Chu nhan sắc cũng chẳng thua ai hiện làm phó đoàn áo hồng. Sở dĩ có chuyện gọi gấp cô gái họ Chu này là vì Nhị Cô tuy được gặp hoàng đế nhưng nhất định không chịu chiều ý ngài cho nên nàng phải vào thế ngay cho ngài dùng gấp…

Hồi 80: Khi Bà Hậu nổi máu ghen

Lúc đó trong căn đình có khá nhiều phụ nữ ngồi chờ đợi. Sau khi cô gái họ Chu vào bên trong được một lúc thì mọi người thấy một tên tiểu thái giám đẩy nàng trở ra. Đám phụ nữ nhìn cô gái họ Chu thì thấy đầu tóc rối bù, mặt mày đỏ ửng lên. Nàng cúi mặt xuống như có vẻ thẹn thùng, nhưng trên mái tóc của nàng đã thấy cắm một cành châu thoa song phụng, ở miệng mỗi con phụng có ngậm một viên minh châu lớn như hạt bắp, chỉ cần nói một viên đó thôi cũng đã thấy có đến hơn vạn quan tiền rồi. Mọi người nhìn kỹ thêm, lại còn thấy trên cổ tay nàng đeo một đôi xuyến vàng nạm ngọc lưu ly Bọn phụ nữ chạy vội tới xúm quanh nàng, cô nào cô nấy ríu rít tán tụng.

Lát sau, mọi người lại thấy một thái giám truyền gọi bọn thị vệ vào trong đem xác nàng Uông Nhị Cô ra. Tức thì hai tên thị vệ bước vào, khiêng ra cái xác và ném ở mé ngoài vọng đình. Mọi người thấy Uông Nhị Cô hai mắt nhắm nghiền, máu me bê bết khắp mình. Đám phụ nữ thấy vậy, vội hỏi cô gái họ Chu. Cô liền kể:

- Khi tôi bước vào bên trong đình thì thấy hoàng đế đang ôm Nhị Cô trong lòng, nhưng nàng vừa khóc lóc vừa kháng cự. Hoàng đế tức giận lắm, xô mạnh nàng xuống đất quát lớn: "Kéo nó ra mà đập chết". Chỉ thấy hai tên thái giám chạy tới tay cầm một cây côn dài sơn đỏ, nắm lấy đầu tóc nàng kéo sang căn phòng bên cạnh. Lúc đó chính là lúc tôi đang bị hoàng đế "ân ái", nhưng tai tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng kêu gào thảm thiết của Nhị Cô. Tôi sợ quá, hồn vía như bay biến nghĩ bụng, Nhị Cô hẳn đã bị hai thái giám đánh chết.

Đám phụ nữ nghe kể xong, cô nào cô nấy lạnh đến tận gáy, tóc như dựng ngược cả lên.

Về sau người cha của Uông Nhị Cô tìm đến nơi này lấy xác. Viên quan tri phủ địa phương nói thác ra rằng nàng bị cấp bệnh mà mất. Uông lão ông cũng đành tin như vậy chứ còn biết gì hơn, tất tưởi đem quan tài con gái về quê an táng.

Còn Ngọc Ni, bởi đã thấy cái chết thê thảm của Nhị Cô, biết rằng rồi đây mình cũng không thoát khỏi cái cảnh làm đồ chơi cho hoàng đế, bèn lừa lúc mọi người không lưu ý, nhảy tùm xuống sông mất tích. Mụ quản sự sợ để hoàng thượng biết việc này sẽ gây ra nhiều chuyện nguy hiểm về sau, bèn chọn ngay một ni cô khác đợi sẵn để dâng lên thay thế.

Lần Nam tuần này, suốt dọc đường du ngoạn, Càn Long hoàng đế triệu hạnh có tới mười sáu cô cả thảy. Hầu hết đều do tâm tư tài lực của một mình Giang Hạc Đình dâng hiến.

Bởi vậy Càn Long hoàng đế trong lòng hết sức cảm kích họ Giang. Ngài cho triệu Giang vào bệ kiến khen ngợi y ngay trước mặt, lại thưởng cho y chiếc mũ Hồng đính hoa linh và truyền bảo Giang Ninh phiên ty thưởng y sáu chục vạn lạng bạc. Giang Hạc Đình cũng cảm kích ân đức của hoàng đế, bèn đem cả khu "Sư viên" (một khu vườn trồng cây sư) của nhà y dâng cho ngài.

Khu Sư viên của họ Giang được kiến trúc hết sức tân kỳ, u nhã. Nơi đây chính là cái nền của toà mê lâu thuở trước của vua Tuỳ Dạng Đế. Người Dương Châu thường gọi vườn này là Tiểu mê lâu. Trong Sư viên có hiên ấp thăng, gác Điện có đình Đương phong, đài Dương liễu, có đê Tàng Xuân, mái Mộng tiêu, có toà Bích thành nhị lâu (thành màu ngọc bích có cả thảy mười hai toà lâu đài).

Càn Long hoàng đế được nơi danh thắng này bèn đem bọn gái đã triệu hạnh cho ở tại nơi đây, mỗi người một nơi, đều là nơi có phong cảnh xinh đẹp. Nhưng nơi đẹp u nhã tột bậc trong vườn này phải nói là toà Bích thành thập nhị lâu. Nơi đây vốn dành riêng cho Quách thị, là vợ bé của Giang Hạc Đình. Đình rất yêu quý Quách thị nhưng vì cảm kích ân đức của hoàng đế, bèn dâng luôn vợ mình cho ngài. Tuy nói là vợ bé của Đình, nhưng vì tuổi còn quá nhỏ nên chưa từng bị "phá thân". Quách thị vào hầu hạ Càn Long hoàng đế, ngay đêm đầu, biết được nàng còn là một xử nữ trinh trắng, ngài vô cùng yêu quý, liền phong cho nàng là Yên hoa viện phủ.

Quách thị có một con a đầu họ Tưởng năm đó mười tám tuổi, tính nết rất phóng đãng. Con a đầu này có một cái tài đặc biệt về nghề ngón chơi bời. Bất cứ người đàn ông nào đã gặp Tưởng thị đừng hòng quên nổi ả. Lẹo tẹo thế nào chẳng rõ, con a đầu họ Tưởng câu trúng được Càn Long hoàng đế, Càn Long tuy chơi bời khét tiếng nhưng thực ngài chưa bao giờ nếm được cái mủi vị đặc biệt này. Thế là ngài cũng mê tít con a đầu họ Tưởng, có phần còn cưng chiều hơn chủ nữa là khác.

Càn Long hoàng đế ngự giá qua Hàng Châu. Toán gái đẹp được ngài triệu hạnh ở Dương Châu đều ở lại Sư viên, duy chỉ có một mình Tưởng thị là được ngài cho theo hầu bên cạnh mình.

Thuyền tới địa phận Tô Châu, Càn Long hoàng đế sực nhớ lời đồn bọn gái làng chơi đất Kim Xương vốn nổi tiếng thiên hạ. Ngài tự nhủ mình làm vua trùm cả trăm họ mà chưa được hưởng cái sướng của nhân gian, bèn nói cho viên Tổng quản thái giám nghe. Viên Tổng quản hiểu rõ tâm sự ngài, bèn đi gặp bọn quan viên địa phương tiếp giá, rỉ tai bàn tính với bọn này để tìm kế sách.

Giữa ban ngày, nếu để hoàng đế công nhiên chơi điếm, e rằng thiên hạ dị nghị, bởi vậy bọn quan viên mới dùng một cỗ xe bồ luân (xe mà bánh quấn cỏ bồ để kéo đi cho êm và không gây tiếng động ầm ĩ trên đường) chở bọn danh hoa Kim Xương đưa lên ngự chu cho ngài dùng. Đám son phân này cộng cả thảy đến ba mươi sáu ả. Ả nào cũng mặt hoa mày liễu nói năng ngọt ngào. Ngồi trước đám danh hoa khuynh quốc này, vị thiên tử phong lưu nhà Mãn Thanh mắt hoa tâm loạn. Ngài truyền lệnh bày yến, ba mươi sáu ả luân phiên nâng ly chuốc chén, miệng ca những khúc hát xuân tình, càng làm say lòng ngài.

Càn Long hoàng đế ôm bên tả, bế bên hữu, mắt càng mờ, tâm càng mê. Đã đến lúc chịu hết nổi, ngài bèn bế xốc luôn mấy cô tuyệt sắc nhất lên giường để thoả mộng Vu sơn vân vũ.

Hoàng đế du dương suốt đêm, mãi tới canh tư mới tạm hoãn cuộc "hành trình". Bọn gái kia cũng quỳ lạy hoàng đế, rồi lên xe trở về.

Suốt dọc đường, Càn Long hoàng đế biết bao phen nằm hoa ngủ liễu như vậy mà Hoàng Thái hậu như ngủ trong trống, chẳng biết gì cả. Sở dĩ có chuyện này vì một là hoàng đế cố sức giấu nhẹm việc mình, hai là thái hậu vốn ngự tại chiến thuyền phía sau ngự chu không thể biết được. Bọn cung nữ, thái giám tay chân của Thái hậu đều được hoàng đế đối xử tử tế nên mọi chuyện đều che đậy cho ngài cả. Hơn nữa, mỗi khi muốn "lâm hạnh", hoàng đế khôn khéo lắm, ngài đều lên bờ vào nhà quan viên, thân sĩ, hoặc chờ lúc đêm khuya cho người lẻn đưa gái lên thuyền, thử hỏi một Thái hậu già lão lại ít thắc mắc việc đời làm sao mà biết được.

Tuy che mắt được thái hậu, nhưng hoàng đế đã không lừa dối được chính cung hoàng hậu Phú Sát. Ngài cho rằng bà Phú Sát ở tít mãi kinh sư, tai mắt của bà quyết không thể ranh mãnh tinh tế mà biết được những chuyện của ngài làm. Nhưng ngài có ngờ đâu đích thân bà đã nằm ngay trong thuyền của thái hậu từ lúc nào.

Lúc còn trẻ, bà Phú Sát với hoàng đế vốn mười phần ưu ái, nhưng đến nay, bà thấy ngài chỉ thích trộm hương cắp ngọc, lạnh lùng đối với mình thì làm sao chẳng giận tức. Bà lại được tin cuộc Nam tuần thứ nhất ngài sủng hạnh nàng Tuyết Như, rồi ngay tại kinh thành ngài sủng hạnh Tam cô nương.

Bởi vậy cuộc Nam tuần này, bà bèn đòi cùng đi cho biết. Càn Long hoàng đế nhất định không chịu, bởi vậy bà Phú Sát ngầm tới nói rõ đầu đuôi cho Thái hậu nghe và xin phép cho bà cải trang làm thị nữ đi hầu hạ, lẻn ra khỏi kinh sư, ẩn mặt trong thuyền của Thái hậu. Trên đường Nam tuần, bà sai mấy tên thái giám tâm phúc dò la từng hành động của chồng. Nhờ đó bà biết rõ hoàng đế đã chơi bời đến mức nào. Đáng lý những điều tệ lậu này nên tâu bầy với Thái hậu mới phải, nhưng bà đã không làm là bởi vì biết Thái hậu rất cưng chiều hoàng đế, lại sẽ chỉ trách mắng qua loa mà thôi. Riêng bà, bà biết mình tự ý xuất kinh nên không thể nào trực tiếp đến gặp hoàng đế được. Do đó, suốt dọc đường biết bao chuyện dâm loạn vô đạo của ngài, bà đều phải nhẫn nại chịu đựng.

Nhưng hôm nay, bà được mấy tên thái giám báo cho biết hoàng đế đem cả một lũ gái thanh lâu lên thuyền để chơi bời thì bà ghen tức đến điên lên, buồn giận đến xám xanh cả mặt mày lại. Bà đã tính chạy đến ngự chu để khuyên can nhưng lại sợ chuyện vỡ lở ra làm mất mặt hoàng đế, đành nuốt hận ngồi nghe tiếng đờn ca vọng tới.

Bà hậu Phú Sát vốn thâm thông văn mặc. Bà quay nào trong khoang lấy giấy bút, thảo một bán tấu chương dài khuyên hoàng đế nên bảo trọng thân thể, chớ có hoang dâm vô độ.

Viết đến chỗ thương tâm, bà ôm mặt khóc vùi. Bà khóc chán rồi lại viết… Bọn cung nữ và thái giám hầu hạ bên cạnh đều muốn khuyên nhủ bà mà chẳng dám. Bà viết xong tờ sớ rồi nhìn lên bờ, thấy đèn đóm sáng trưng, ngựa xe rầm rộ. Thì ra, đó chính là lúc đám gái lầu xanh lên bờ để trở về tổ quỉ.

Bà lẩm bẩm nói:

- Lũ yêu tinh đó cút rồi, ta có thể đến gặp hoàng đế được.



Thế là bà trang điểm lại, lau hết lệ trên má, tay cầm bản tấu chương, mạnh bước xông ra, mặc cho bọn cung nữ, thái giám kẻ nắm áo bà giữ lại, người hết lời khuyên can. Viên Tổng quản thái giám hoảng quá, vội bò xuống dưới chân bà, dập đầu liên hồi nói:

- Lúc này chính là lúc hoàng thượng đang khoan khoái, sung sướng. Nếu nương nương quyết ý tới gặp, chẳng những không đi tới chỗ tốt đẹp, trái lại còn khiến ngài tức giận. Đã đành cái đầu của kẻ nô tài này quyết không thể còn mà đến danh mệnh của nương nương cũng nhiều điều bất tiện. Huống hồ lúc này đêm đã canh tư, bọn điếm kia lại đã ra đi, hoàng thượng hẳn đã ngủ say rồi. Ví thử nương nương có tấu chương dâng lên thì hãy để sáng mai, nô tài xin vì nương nương mà đem đi, há lại chẳng hay hơn hay sao?

Phú Sát hoàng hậu nghe đoạn, hai hàng lệ lại ròng ròng chảy xuống như mưa. Bà nức nở nói:

- Hoàng thượng hoang dâm như vậy, tránh sao khỏi dân oán trời giận, rồi đây cảnh quốc phá gia vong ắt phải đến ngay thôi. Ta cùng với hoàng thượng vốn tình nghĩa vợ chồng, thì làm sao mà nhịn được. Nay chủ ý ta đã định, đành liều một thác, mong gặp mặt ngài lần chót. Nếu chẳng may ta có mệnh hệ nào nào ngay tại ngự chu, thì bọn ngươi hãy gói ghém mớ áo lót mình của ta và chiếc bảo tỷ (chiếc ấn bằng ngọc của hoàng hậu) mà gởi về nhà Đại tướng quân là cha ta và nói với người rằng ta vì hết sức khuyên can hoàng thượng mà đành phải thác.

Phú Sát hoàng hậu nói tới đây, bi thương quá đôi, nghẹn ngào tưởng ngất đi được. Bà gieo mình xuống ghế. Bọn cung nữ chạy lại phục thị cho bà, kẻ lau mặt kẻ dâng trà.

Một lát sau, bà nín khóc. Bỗng bà nhảy chồm dậy, đứng thẳng người, dằn giọng nói:

- Ta quyết phải gặp hoàng thượng!

Rồi nhanh như cắt, bà chạy ra khoang sau, bởi sợ làm mất giấc ngủ của Thái hậu ở khoang trước. Ra tới khoang sau, bà nhảy lên tấm ván cầu. Bọn cung nữ và thái giám vội chạy theo đỡ cho bà. Vừa chạy, bà vừa nhìn qua chiếc ngự chu. Bỗng bà thấy trên cây cột buồm có treo lủng lẳng ngọn đèn đỏ, ánh sáng lóng lánh như chiếu thăng vào mắt bà. Cơn giận lại tới, bà tức đến nghẹn cả cổ, giơ tay chi ngọn đèn đỏ, đôi mắt trợn ngược lên, té ngửa vào vòng tay bọn cung nữ, ngất đi không còn biết gì nữa. Bọn cung nữ hoảng quá nhưng chẳng dám kêu la. Chúng lật đật bế bà Phú Sát trở về khoang, vỗ nhẹ vào mỏ ác và đổ nước sâm vào miệng bà. Bà Phú Sát dần dần tỉnh lại, bất giác lệ lại tuôn rơi lã chã.

Theo luật lệ trong cung, mỗi khi hoàng đế có triệu hạnh bà nào, cô nào, thì phía ngoài cửa phòng có treo chiếc đèn đỏ để mọi người biết mà tránh đi, hơn nữa còn ngầm bảo mọi người chớ có làm rộn giấc mộng đẹp của ngài. Hoàng đế lâm hạnh ngay tại khoang thuyền, chả có chỗ nào treo đèn, nên chiếc đèn đỏ tai hại kia đành phải giương trên cột buồm, khiến Phú. Sát hoàng hậu nhìn thấy, máu ghen lại nổi lên làm bà té xỉu đi. Khi tỉnh lại rồi, bà Phú Sát bảo một tên thái giám tới ngự chu do thám xem hoàng đế đêm đó có những ai hầu hạ.

Tên thái giám đi một lát, trở về bẩm báo:

- Hầu hạ đêm nay trong ngự chu có ba người: một là Tưởng thị đem theo từ Dương Châu tới, và hai ả trong đám gái thanh lâu.

Bà Phú Sát nghe xong bất giác thở dài nói:

- Hoàng thượng quả không còn thiết tới cả mạng mình nữa rồi! Như vậy ta lại càng không thể không khuyên can ngài được.

Lời nói vừa dứt thì ngoài xa, tiếng gà gáy sang canh cũng rộn rã vang lên. Bà nói:

- Canh năm rồi! Lúc này hoàng thượng hẳn đã dậy.

Bà sửa soạn lại y phục chỉnh tề rồi lẳng lặng bước lên bờ.

Bọn cung nữ dìu bà đi. Bọn thái giám đi trước, cầm chiếc đèn lồng sừng dê nhỏ soi đường. Cả đàn tiến về chiếc ngự chu.

Bọn thị vệ canh đêm trên ngự chu cùng bọn quân sĩ canh gác trên bờ bỗng thấy hoàng hậu ngự giá tới, tên nào tên nấy giật mình hoảng sợ, vội bò rạp xuống dập đầu lạy. Tên thái giám truyền lệnh của hoàng hậu, không được nói lớn, sợ mất giấc ngủ của hoàng thượng. Bọn thái giám gác tại đầu khoang thấy hoàng hậu đột nhiên xuất hiện, nét mặt hết sức nghiêm nghị, hệ trọng thì hoảng hồn bạt vía, rụt cổ lại đứng nép vào một xó, chẳng dám lên tiếng thưa trình. Hoàng hậu chẳng cần ai thông báo, bà cứ bước thẳng vào trong. Bà thấy trên bàn còn bốn, năm chén rượu uống dở, dưới gầm bàn rơi ra một chiếc hài nhỏ thêu đoá lan hồng bằng kim tuyến, rực rỡ, óng ánh. Bà thấy vậy, thốt ra một tiếng thở dài rồi bước thẳng về khoang sau có trướng gấm màn vóc vây quanh: đây chính là tẩm thất của Càn Long hoàng đế.

Nguồn: http://vnthuquan.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved