Hồi 171: Cách Mạng Dân Chủ Trung Hoa
Lại
nói nhà Thanh trải qua loạn Quyền phỉ, rồi Bát quốc Liên quân dày xéo Bắc Kinh,
thêm vào đấy những bồi khoản về chiến phí, từ đó về sau xem ra nhụt hẳn nhuệ
khí, mất hãn bộ mặt kiêu bạc như trước. Nhưng ở đời, phần nhiều cứ đến hồi đốn
mạt, thì việc trước chưa qua, việc sau đã tiếp.
Thực tế, những miền như Hà Nam, Quảng
Đông, các đảng cách mạng đang nổi lên như nấm chống lại nhà Thanh. Những đảng
cách mạng đó có từ đâu vậy? Ngay từ khi Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu cùng
vua Thanh thi hành tân chính thì những đảng này đã được phát động rồi.
Tại Quảng Đông, hồi đó có một
tổ chức gọi là Hưng Trung hội, vị thủ lĩnh tên là Tôn Văn, tự là Dật Tiên. Văn
người huyện Hương Sơn, tỉnh Quảng Đông, tất nghiệp trường Trung Tây Y học hiệu.
Văn cũng đã từng là giáo sĩ đạo Thiên Chúa.
Như thế Văn vừa là y sĩ vừa
là giáo sĩ. Về sau, Văn chuyên dùng nghề thuốc Tây chữa bệnh, đến đâu Văn cũng
tuyên truyền cách mạng. Người tin theo Văn hồi đó đông lắm. Ấy cũng vì vậy nên
triều đình nhà Thanh mới được mật báo, và từ đó theo dõi hành động của Văn.
Tổ chức thành Trung Hưng hội,
Tôn Văn thấy hội viên của hội mình càng ngày càng đông. Bọn mật thám nhà Thanh
ở Quảng Đông cũng được lệnh theo dõi Văn, và cuối cùng bắt Văn, bảo Văn kết hội
lập đảng, giải tới nha môn của Tổng đốc Lưỡng Quảng.
Tổng đốc Lưỡng Quảng lúc đó là
Lý Hông Chương. Chương thấy Văn ăn nói hoạt bát, biện luận khéo léo, nhìn người
lại ra vẻ phẩm cách xuất chứng, tự nhiên phát sinh lòng mến.
Chương tự nghĩ một nhân tài như
vậy, Trung Quốc đâu phải dễ có, hơn nữa bảo rằng Văn mưu phản chống lại triều
đình thì chứng cứ chẳng có để kết tội. Thế là Chương thừa lúc công chuyện chưa
đâu vào đâu liền phóng thích để Văn chạy thẳng một mạch, mất hút.
Sau khi thoát ngục, Tôn Văn
tuyên truyền cách mạng càng hăng. Thêm một chuyện nữa là Lý Hồng Chương chẳng
bao lâu lại được lệnh điều động về kinh để đứng ra nghị hoà với nước Đức, viên
Tổng đốc kế nhiệm là Đàm Chung Lân. Nhân thấy Tổng đốc mới đáo nhiệm chưa am
tường mọi việc, Tôn Văn bèn mưu việc khởi sự với bọn Trịnh Bật Thần, Lục Hạo
Đông, Hoàng Bân Lệ, Chu Hạo Thanh, tính cướp chính quyền tỉnh Quảng Đông trước.
Văn lại đánh điện cho bọn Đường Tài Thường ở Hồ Nam đợi tới giờ quyết định thì
hưởng ứng.
Nhưng không ngờ chuyện bại lộ,
Tổng đốc Lưỡng Quảng Đàm Chung Lân biết được mưu cơ của bọn Văn, đặt kế hoạch
bắt trọn ổ bọn Lục Hạo Đông, đem ra pháp trường chém đầu ngay tức khắc.
Chuyện hỏng rồi, Tôn Văn hết
thế đứng ở đây, nên chỉ còn cách tìm đường chạy sang Nhật Bản, nếu không thì
rồi cũng bị thanh trừng như Lục Hạo Đông.
Đảng cách mạng đâu có chịu
thua, đảng viên của Trung Hưng hội là Sử Kiên Như lập tức xách một trái tạc đạn
ném vào giữa nha thự của Tổng đốc Lưỡng Quảng để báo thù và gây tiếng vang. Thực
thế, tiếng vang cách mạng sau trái tạc đạn này càng ngày càng lan rộng đến
khủng khiếp trong nội địa Trung Hoa, khiến nhưng người yêu nước lâu nay trùm
chăn đều thức tỉnh.
Triều đình nhà Thanh lúc này đã
biết rõ Tôn Văn là thủ lĩnh đảng cách mạng. Bởi thế, chuyện ném tạc đạn của Sử
Kiên Như đều bị bọn vua nhà Thanh đổ lên đầu Văn. Biết Văn đã trốn ra hải
ngoại, Thanh triều tức tốc đánh công điện cho công sứ Trung Quốc tại các nước
ngoài, lưu ý lùng bắt.
Văn trốn sang Nhật Bản, Thanh
triều biết được, liền chiếu hội Nhật Bản bắt giùm. Nhưng may cho Văn là khi ở
Hoành Tân, Văn có quen một người Nhật tên là Cung Kỳ Dần Tàng, được ông này cho
biết nếu không sớm chạy thì thế nào cũng bị bắt, chi bằng chạy sang Anh Quốc là
hơn. Tôn Văn hoảng hốt tính cách chuồn khỏi Nhật Bản, nhưng khổ là tiền nong
không có một đồng một cắc. Trong tình cảnh này, Văn nhận thấy có hoạt động cũng
chẳng được, hơn nữa còn nguy đến tính mạng. Cung Kỳ Dần Tàng bèn giúp cho Văn
mấy trăm bạc làm lộ phí để Văn lên đường sang Tây phương.
Tôn Văn miễn cưỡng ra đi, lên
tàu thuỷ vượt Thái Bình Dương, thẳng nẻo Anh Quốc tiến phát. Ít lâu sau, Văn đã
có mặt tại Luân Đôn, thủ đô sầm uất của Anh Quốc. Văn vội vàng tìm tới nhà y sĩ
Kinh Lập Đức, nói rõ cho Đức biết lý do lưu vong của mình.
Tôn Văn và Kinh Lập Đức là hai
bạn cũ quen nhau từ trước. Thấy tình cảnh Văn như vậy Đức liền dặn Văn phải cẩn
thận:
- Thanh triều gửi điện đi khắp
nơi truy nã ngươi rất gắt. Hiện nay, tại Anh Quốc, cũng có Trung Quốc sứ quán. Có
thể bọn công sứ Trung Quốc tại đây đã nhận được lệnh của Thanh triều. Bởi thê,
hễ khi nào ngươi muốn đi ra ngoài phố, nên báo cho ta biết một lời để ta sai
người theo hộ vệ cho.
Tôn Văn gật đầu đồng ý, để tỏ
lòng chiều theo ý kiến của Kinh Lập Đức đó thôi, chứ thực bụng Văn vẫn nghĩ
rằng đâu có chuyện động trời đó. Văn cho rằng mình đã chạy ra hải ngoại, nhất
là mãi Anh Quốc xa xôi này, dù Thanh triều có tìm cách truy lùng gắt gao đến
đâu chăng nữa cũng chẳng thể biết được mà bắt. Lý luận kiểu đó, Tôn Văn bất cần
những lời khuyên của Đức, đi ra ngoài, chẳng thèm báo cho Đức, cứ ngang nhiên
xông xáo khắp nơi. Đã thế, Văn còn hay lảng vảng vào những nơi lưu trú học sinh
Trung Quốc ở Anh, chẳng coi bọn công sứ Trung Quốc ra gì cả.
Thế rồi bỗng một hôm, có một
người đồng hương tỉnh Quảng Đông tới mời Văn đi chơi. Văn chẳng nghi ngờ gì,
liền đóng bộ vào đi ngay. Người đồng hương nọ dẫn Văn đi loanh quanh mấy phố,
đến một toà nhà, mời Văn bước lên lầu. Khi lên tới trên lầu, quay lại nhìn
không thấy người đồng hương nọ đâu, lúc đó Văn chột dạ đâm nghi. Văn vội đẩy
cánh cửa sổ bên hông lầu, nhìn xuống dưới, bất giác hoảng hồn bạt vía, tóc gáy
tự dưng dựng ngược cả lên.
Thì ra Tôn Văn nhìn thấy một
cây Long kỳ (cờ có thêu con rồng biểu hiện cho Trung Quốc) đột nhiên kéo cao
trên ngọn cột cờ, tung bay phấp phới trước gió. Văn vội quay vào trong, lớn
tiếng gọi mấy tiếng; tức thì phía trong có một người đầy tớ chạy ra, trạc tuổi
trung niên, vừa cười vừa hỏi chuyện gì Tôn Văn cất tiếng hỏi:
- Đây là nơi nào? Tại sao mời
ta đến, lại giam cầm ta nơi đây như vậy?
Người đầy tớ nọ mỉm cười nói:
- Ngài tới đây đã một lúc rồi
mà vẫn chưa biết gì sao? Nơi đây chính là tư gia của Củng công sứ Trung Quốc
đấy. Sở dĩ có chuyện mời ngài tới đây là vì hoàng đế nhà Thanh muốn tìm ngài về
nước để làm quan. Điện văn gửi tới tri chiếu cho ngài công sứ hiện có đây.
Nghe tên đầy tớ nói xong, Tôn
Văn biết mình đã tự đưa cổ vào thòng lọng, tra chân vào cùm rồi, có lắp cánh
vào lúc này cũng khó mà thoát nổi. Văn mặt tái xanh đi, bụng rối như tơ vò, suy
đi nghĩ lại mãi mà vẫn không tìm ra một kế nào thoát thân. Văn nghĩ rằng chỉ
còn có mỗi một cách gửi thư cho Kinh Lập Đức để nhờ Đức lập kế cứu mình, nhưng
ai đem thư đi mới được chứ? Nghĩ quanh tính quẩn mãi một lúc, Văn đành quay về
với anh chàng đầy tớ cất tiếng nói khó:
- Đã vào đây rồi, ta cũng chẳng
tính đến chuyện ra làm gì Song ta có một người bạn, rất cần cho y biết tin ta. Vậy
ngươi có vui lòng đi giúp ta đưa một bức thư không?
Lúc đầu, anh chàng đầy tớ nọ
không chịu đi, nhưng sau nhiều lời ngon ngọt khéo léo của Văn, anh chàng nọ mới
gật đầu ưng thuận, Văn được lời mừng quýnh lấy bút giấy viết vội mấy câu đưa
cho anh đầy tớ nọ dặn đưa tới cho Kinh Lập Đức.
Tay cầm bức thư đưa cho anh
chàng nọ, nhưng bụng vẫn sợ nửa đường hắn thay lòng đổi dạ, Văn bèn đem cái
thuyết cứu người của Gia tô giáo ra thuyết cho anh chàng đầy tớ người Gia tô nọ
nghe, mãi một lúc mới yên tâm để cho anh nọ ra đi.
Thực ra, Tôn Văn muốn làm yên
lòng anh chàng đầy tớ nọ không phải chỉ có cái thuyết cứu người lúc cấp nạn của
Gia tô giáo mà được. Văn còn phải cam kết một câu thật chắc, "Ngươi cứ can
đảm mà đi. Nếu có xảy ra chuyện gì, ta sẽ nhờ người Anh can thiệp, khỏi phải lo
tí nào".
Anh chàng đầy tớ nọ nghe được
lời nói quyết này, lại thấy Văn không phải là một kẻ tầm thường, trong lòng
cũng thấy tin tưởng sẽ không xảy ra việc gì liên luỵ đến y, bởi thế mới hăng
hái ra đi cho Văn. Anh chàng giấu bức thư nguệch ngoạc mấy dòng của Văn vào
trong túi áo rồi te te lên đường tới gặp y sĩ Kinh Lập Đức. Đức mở thư ra xem,
hiểu rõ sự thật, giật mình hậm hực nói:
- Chết rồi! Mình đã dặn hắn rồi
mà hắn văn không nghe. Thế là hắn đã tự đút cổ vào thòng lọng.
Kinh Lập Đức một mặt cho anh
chàng đầy tớ nọ ra về, mặt khác chạy tới xúi anh chàng ký giả một tờ báo Anh
đăng tải và chỉ trích tùm lum việc viên đại sứ Trung quốc ngang nhiên bắt người
giữa nước Anh, không coi chính quyền Anh ra cái quái gì cả.
Chính phủ Anh được tin này, đời
nào chịu bỏ qua, để cho người Tàu ngang tàng coi khinh luật pháp của nước mình.
vội thảo ngay công văn chiếu hội sang cho sứ quán Trung Quốc, nói trắng rằng sứ
quán Trung Quốc bắt người giữa nước Anh như thế làm tốn thương pháp quyền của
nước Anh. Đã thế, chính phủ Anh còn giải thích thêm về Quốc tế công pháp và
quyết rằng không một nước nào hiểu luật pháp mà lại đi làm việc vô luật pháp
như vậy…
Sứ quán Trung Quốc thấy ngoại
nhân đã can thiệp vào nội vụ, tự nhiên đâm ra ngán, chẳng dại gì mà trái luật,
chỉ có nước thả Tôn Văn rồi ra nghiêng mình trước chính phủ Anh mà phân trần
với những lời lẽ hết sức khiêm nhường lễ độ. Thế là công việc xong. Tôn Văn
thoát được một tai nạn chết người.
Văn thoát thân rồi, tự lấy làm
hối không theo lời bạn mình, mặt khác cũng không còn gan mật nào ở lại Anh
Quốc. Ngay đêm hôm đó, Văn vội vàng cuốn gói khỏi nước Anh, lại quay về Nhật
Bản, tìm một số đồng chí kỳ cựu hiện lấn trốn tại đây để bàn mưu tính kế hoạt
động cách mạng.
Trong khi Tôn Văn thất bại bỏ
trốn khỏi Trung Quốc, nhưng vẫn đeo theo sự nghiệp cách mạng, thì ở Quảng Đông,
hội viên Dương Thiếu Bạch cùng một số đồng chí khác cũng nhất định không rời bỏ
cái sự nghiệp của mình. Nhưng họ án binh bất động để chờ thời.
Đám cách mạng Quảng Đông thì
chờ thời, nhưng những người ở Hồ Nam là nhóm Lý Tiếp Hoà, lại không chịu ngồi
im. Họ cứ hoạt động, gây rất nhiều tổn thất cho Mãn Thanh, khiến tuần phủ Hồ
Nam phải sai mật thám giăng lượn khắp nơi để lùng bắt.
Lý Tiếp Hoà thấy cơ nguy sắp
tới, biết không tiếp tục hoạt động được nữa, vội chạy sang Mỹ.
Tôn Văn ở Nhật Bản được tin
Trung Hưng hội của mình vẫn không bị tiêu diệt, bèn in một số lớn truyền đơn
gửi về nước, tuyên truyền cách mạng, chiêu dụ thêm những thanh niên ưu tú vào
hội.
Tin tức này truyền tới Bắc
Kinh, bọn ngự sử người Mãn bèn dâng sớ tâu thái hậu, trong bản sớ có kèm theo
cả tờ truyền đơn của Tôn Văn.
Tây thái hậu đọc một lượt bản
sớ tâu lên, nhận thấy tờ truyền đơn của Tôn Văn, câu nào câu nấy đều nói về
chính trị của nhà Thanh: nào là nội chính hủ bại, nào là dành riêng đại quyền
cho người Mãn, nào là coi người Hán như nô lệ v.v… Những lời trình bày bên
trong thật vô cùng thống thiết lâm ly. Hơn nữa tơ truyền đơn còn nêu rõ hết
những tệ đoan, đập trúng vào tâm khảm của Tây thái hậu.
Tây thái hậu xem xong, suy nghĩ
một chập, bất giác cả cười bảo bọn đại thần:
- Tên này hoạt động cách mạng
lâu nay nhiều kẻ đã bị hắn mê hoặc tưởng chẳng phải là kẻ không tài. Đáng tiếc
là hắn không chịu quy chính. Rồi đây mọi việc ngửa nghiêng cũng không ngoài con
người này.
Lời nói này của Tây thái hậu
tuy nhẹ nhàng, kín đáo nhưng xem ra cũng rất hợp với ý kiến chung của đám đại
thần, ngự sử. Và cả bọn cũng đều coi đó như một ý chỉ của Thái hậu muốn đem ra
thi hành.
Thế là qua ngày hôm sau, cả bọn
dâng ngay lên Tay thái hậu một tờ sớ xin cho chiêu dụ Tôn Văn trở về với triều
đình. Tây thái hậu đọc xong tờ sớ, không nói gì nhưng miệng lại cười ruồi làm
cho bọn đại thần ngơ ngác không hiểu ra sao cả!
Thời giờ thấm thoát thoi đưa,
chẳng mấy chốc mà cuộc đời đã tàn tạ. Thực thế, Vinh Lộc, viên đại thần cháu
ngoại cưng nhất của Tây thái hậu đã chết. Bà được tin, triệu tập bọn đại thần
lại để tìm cho Lộc một cái thuỵ hiệu, cả bọn nghĩ mãi mới ra được bốn chữ:"Khác
cương chính trung" rồi
trình lên. Tây thái hậu bèn cầm ngay châu bút khoanh tròn lấy chữ "Trung"
ở dưới chót, do đó, thuỵ hiệu của Lộc là hai chữ "Văn Trung"…
Sau cái chết của Vinh Lộc,
người ta lại thấy các chức vụ trong triều thay đổi suốt lượt. Lưỡng Hổ tổng đốc
Trương Chi Động được điều về làm Thự Quân cơ đại thần, Na Đồng là Hiệp biện đại
học sĩ. Ngoài ra, còn xuống chiếu cấm tục bó chân, thực hành việc thông hôn
giữa hai dân tộc Mãn Hán (trai gái Mãn và Hán đều được phép lấy nhau).
Trong triều đình tuy có những
cuộc tranh cãi như vậy, nhưng bên ngoài, bảy tỉnh an duy, bỗng sinh ra cuộc
binh biến.
Hùng Thành Cơ hiệu triệu Dân
đảng gây phong trào, dựng cờ khởi nghĩa, nhưng cuối cùng bị tiêu diệt. Binh
biến vừa êm thì cuộc cách mạng phát sinh vào trung tuần tháng năm năm đó, đạo
viên hậu bổ là Từ Tích Lân phát động phong trào cách mạng. Lân vốn là một học
sinh tại Nhật Bản, tuổi chưa đầy ba chục, nhưng thường ôm chí lớn, tư tưởng lúc
nào cũng đầy ắp lý thuyết cách mạng dân tộc. Thấy triều đình Mãn Thanh thối
nát, bọn Tây phương bên ngoài xâm lăng, láo lếu khinh miệt dòng tộc Hán, Lân
quyết chí xô đổ triều đình Mãn Thanh để tổ chức thành một quốc gia theo thể chế
Cộng hoà. Có chủ trương như vậy, Lân kết giao một số các đồng chí khi còn ở
Trường Kỳ (một hòn đảo lớn tại Nhật) sau đó quay về Trung Quốc tuyên truyền
cách mạng.
Triều đình Mãn Thanh nhận thấy
cách mạng hoạt động thường nổ ra đó đây gây nhiều vụ náo loạn, bèn ra lệnh truy
nã các đảng viên cách mạng gắt gao.
Từ Tích Lân thấy mình là một
anh lưu học sinh, nhất cử nhất động đều bị bọn quan lại địa phương theo dõi, tự
biết mình rơi vào thế bất lực trong việc hoạch định kế sách. Bởi thế Lân nhận
ra rằng phi nhảy vào trong chính giới quyết không thể hoạt động gì được. Hơn
nữa, lúc này Lân hai tay trắng thì thử hỏi làm ăn gì được. Giữa lúc tiến thoái
lưỡng nạn ấy, Lân may thay gặp được một nữ hiệp tên gọi Thu Cẩn.
Thu Cẩn và Tích Lân vừa giao
đàm, tức thì hợp ý tâm đầu ngay. Thế là Thu Cẩn bỏ tiền ra giúp Tích Lân hoạt
động.
Thu Cẩn vốn là một người đẹp
nổi tiếng đương thời, lại là con gái trong một gia đình khá giả, đã từng tốt
nghiệp tại đại học đường. Sau khi tốt nghiệp, nàng còn đi du lịch khắp Anh, Mỹ,
Nhật Bản. Vừa có tài năng vừa có tư tưởng cách mạng, nàng được rất nhiều người
tôn trọng. Cũng nhờ có ưu điểm này nàng thường giao du với bọn quan trường hiện
đại, đấy chính là một con đường rất thuận lợi, khả dĩ giúp Từ Tích Lân hoạt
động được.
Sau khi hai người đã tính toán
trù liệu, Từ Tích Lân bèn mua lấy một chức đạo viên, để tiện việc hoạt động
chính trị cách mạng, còn Thu Cẩn thì trở về quê nàng tức Thiệu Hưng, để tổ chức
một trường học gọi là Đại thông học đường, mong quảng bá được tư tưởng cách mạng
của mình.
Từ Tích Lân từ khi quyên được
chức vị đạo viên, liền dốc hết tâm, mưu sự trong giới quan trường. Lân xoay sở
nhập vào được cửa của viên quan phủ đài An Thuỷ tên là Ân Minh.
Chỉ cần thảo luận có một hôm
thôi, Lân đã được Ân Minh công nhận là một nhân tài của đất nước. Thế là Lân
được trọng dụng. Ít lâu sau, Lân được Ân Minh cho bổ sung vào chức vị uỷ viên
luyện quân.
Cái mộng của Lân là làm sao nắm
được binh quyền vì phải có binh quyền thì mới cách mạng được. Nay Lân đã có đủ
thứ cần thiết trong tay, chỉ còn dần dần tìm cơ hội thuận lợi cho công cuộc nổi
dậy của mình mà thôi. Một mặt luyện binh, Lân một mặt ước hội với các đồng chí
ở Thiên Tân để thừa cơ khởi sự. Ở Thiệu Hưng, Thu Cẩn cũng tích cực chuẩn bị để
hưởng ứng phong trào.
Không ngờ trời chẳng chiều
người. Số là trước ngày khởi sự một hôm, một đảng viên tại Thiên Tân để cơ sự
bại lộ, khiến bị bắt. Tin tức này tuy xảy ra, nhưng bị bịt kín, khiến Từ Tích
Lân cũng chẳng hay biết một tí gì. Cho nên đúng ngày phủ đài An Thuỷ Ân Minh
duyệt binh, Lân đã mật ước với đồng chí thừa dịp ám sát xong rồi khởi sự luôn.
Giữa lúc gieo neo nhất của sự
kiện, tin tức bỗng đồn rầm lên là tại An Huy có cách mạng khởi nghĩa, bọn đồng
đảng bị bắt tại Thiên Tân rồi. Viên tri phủ được tin ấy, vội hạ lệnh lùng bắt
Từ Tích Lân, trong khi Từ Tích Lân lại đang đi tới gặp phủ đài Ân Minh.
Từ Tích Lân nghe tin đồn xôn
xao phía ngoài dinh, cũng như phủ đài Ân Minh, cả hai đều không hiểu đấu đuôi
ra sao. Viên phủ đài vội hỏi tin tức bên ngoài.
Từ Tích Lân lúc này biết cơ mưu
đã bại lộ, chĩa ngay súng vào Ân Minh nã luôn hai phát, nhưng Ân Minh chưa chết
ngay miệng vẫn còn hô lên được mấy tiếng:
- Bắt thích khách! Bắt thích
khách!
Được báo động và nhất là nghe
mấy tiếng "Bắt thích khách!" các quan văn võ trong nha môn nhất tề ùa
ra và cổng phủ được đóng kín lại. Từ Tích Lân dù có cánh cũng khó lòng bay
thoát được. Thế là chi trong mấy phút, Lân đã bị bắt.
Bọn nha lại hè nhau kéo đi bắt
tiếp bọn học sinh quân. Đáng thương thay cho bọn này, ít không thể địch được
nhiều, đến gần một nửa bị chết dưới làn đạn của quan binh.
Diệt xong đám học sinh quân,
bọn nha phủ đem Từ Tích Lân ra thẩm vấn, Lân chẳng thèm chối cãi, nhận tất cả. Một
vài kẻ còn đề nghị đem Lân ra mổ bụng lấy gan phổi để tế Ân Minh nữa. Chưa hết,
còn có kẻ lục lọi hết những thư từ giấy má của Lân để tra xét; lúc đó, lại lòi
thêm ra cái điện văn ước kỳ cử sự gởi cho Thu Cẩn. Tức tốc, họ đánh điện ngay
cho viên tri phủ Thiệu Hưng, hạ lệnh bí mật lùng bắt Thu Cẩn, đem chính pháp để
thị chúng.
Lại nói Thu Cẩn ở Thiệu Hưng
mỏi mắt trông chờ hành động của An Huy, nhưng chẳng thấy tin tức gì. Giữa lúc
nghi ngờ lo lắng ấy, Thu Cẩn bỗng nghe đồn. An Huy cách mạng bị thất bại. Tin
đồn mỗi lúc một nhiều, nàng biết việc không thành rồi, tính tìm cách chạy trốn.
Nhưng chưa kịp thoát ra ngoài thì bọn quan binh An Huy đã kéo đến vây khắp Đại
thông học đường. Thấy không có cách nào trốn thoát Thu Cẩn đành thúc thủ chịu
trói.
Điểm đặc biệt là tuy bị bắt,
Thu Cẩn vẫn thản nhiên như không, chẳng có chút nào sợ hãi. Sở dĩ có thái độ
thản nhiên đó, chỉ là do nàng tin tưởng ở viên tri phủ Thiệu Hưng vốn là nghĩa
phụ của nàng. Nàng tin rằng thế nào rồi đây nàng cũng sẽ được nghĩa phụ nàng
tìm cách cứu thoát.
Nhưng Thu Cẩn đâu có ngờ được
rằng thế lợi thường làm mờ hết tình người.
Viên tri phủ Thiệu Hưng vỗ bàn
đánh thình một cái, quát lớn:
- Thu Cẩn! Mi kết bè kết đảng,
móc nối với bọn phản loạn như thế nào, khai thực hết ra đây, để bản phủ khỏi
phải dùng hình.
Thu Cẩn đột nhiên thấy viên tri
phủ trở mặt, bèn lớn tiếng kêu lên:
- Nghĩa phụ! Nghĩa phụ mà cũng
ném đá xuống giếng nữa sao?
Viên tri phủ thấy Thu Cẩn nói
vậy cũng giật mình, sợ mình liên luỵ vào nội vụ, liền lấy tay áo che mặt, miễn
cưỡng nói:
- Tội mi đã rõ ràng, đừng che
chống nữa!
Nói đoạn, viên tri phủ liền hét
lớn, sai quân thẳng tay một hơi đánh bốn mươi roi song, máu bắn ra đầm đìa,
xong rồi tống giam ngay Thu Cẩn vào nhà lao, đợi lệnh trên quyết xử.
Vài hôm sau, bọn đao phủ lôi
nàng ra ngoài hiệu đình để xử chém. Khi ra pháp trường, từ biệt mọi người, Thu Cẩn
nói lớn lên cho mọi người nghe thấy:
- Tội của ta bất quá chỉ là một
tội tình nghi chưa đến nỗi bị chết chém! Đấy các người thấy chưa? Ta chỉ vì kết
giao với bọn quan trường để đến nỗi mất mạng đó. Các người về sau này có muốn
kết giao với chúng hãy nên lấy gương của ta mà soi trước.
Nói đoạn, Thu Cẩn ngang nhiên
giơ thẳng cổ ra để cho bọn đao phủ chém, không hề tỏ ra sợ hãi. Quần chúng đi
xem xử chém hôm đó đều than thở tiếc thương cho Thu Cẩn, mặt khác chửi rủa viên
tri phủ vô tình, nhẫn tâm, chỉ vì tham ông cầu danh, khiến cho một cái đầu
người phải rơi xuống một cách oan ức đau thương.
Lại nói Thanh triều thấy cách
mạng càng ngày càng nổ ra, náo loạn khắp mọi nơi, chỗ này vừa dẹp tan thì chỗ
kia lại xuất hiện, chỉ trong vòng một tháng mà đã thấy đến hai, ba lần ở hai ba
nơi khiến gần như không còn một chỗ nào là yên tĩnh nữa. Mấy ông quan to trong
triều cũng như các ông quan ở địa phương lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, bóp óc nặn
gan ra để tìm cách cứu vớt tình hình xem ra đã đến lúc quá nát rồi. Bọn đại
thần như Trương Chi Động lúc này đều cùng một chủ trương là phải lập hiến để
thuận lòng dân. Họ cho rằng một khi lòng dân đã yên, thì cách mạng tự nhiên phải
hết. Tây thái hậu nghe chủ trương này cũng rất tán thành.
Do đó, bà liền sai bọn Tải
Trạch đi ra hải ngoại, và các nước tiền tiến văn minh, khảo sát hiến chính.
Bọn Tải Trạch lĩnh chỉ ý, đang
sửa soạn lên đường, không ngờ bị Ngô Viện ném cho một tạc đạn ngay phía ngoài
cửa Chính Dương. Trong số năm anh đại thần xuất dương, thì hai anh không may trúng
phải mảnh tạc đạn bị thương nặng. Vụ ném tạc đạn này càng làm cho Thanh triều
hoảng kinh và phải quyết tâm cao hơn nữa để tổ chức hiến chính. Bởi thế, Thanh
triều lại định một ngày khác để cho phái đoàn khảo sát lên đường.
Hồi này, Khánh thân vương Dịch
Khuông nắm trọn đại quyền trong tay. Bởi vậy, đồng bọn của vương như Kỳ Thiện
Tải, Thiết Lương, ấm Xương… đều nhờ đó nắm quyền lớn cả.
Dịch Khuông vốn là một người
hết sức tham lam. Nhất thiết chính sự, đều kệ bọn tiểu nhân mặc sức thao túng
và vẽ vời, riêng ông chỉ biết ngồi để lượm bạc cắc do bọn này đem tới hiếu
kính.
Tây thái hậu, từ sau khi hồi
loan, mọi việc chính sự đều không tha thiết tới, nhưng chuyện tiền tài thì một
mảy may cũng không tha, cho nên, trước khi có loạn quyền phỉ, bà đã để riêng
được hơn một ngàn năm trăm vạn lượng vàng nén.
Khi bát quốc liên quân đánh vào
Bắc Kinh, Tây thái hậu hoảng hốt chạy trốn, số vàng kếch xù này bị bọn nội giám
chia nhau lấy hết sạch. Rồi lúc trở về đến cung tìm kiếm lại, bà chẳng còn thấy
được một mảy may nào, ngay cả đến một đồng tiền. Đã nhiều đêm, nhớ đến đồng
tiền do bao nhiêu mưu chước tinh quái mới có được bà ứa nước mắt. Nhưng địa vị,
thế thần của bà thì cái gì mà chả được, cho nên bà lại quyết chí làm giàu một
phen nữa. Bà thường nói với bọn nội giám thế nào bà cũng phải cho chúng thấy
cái tài của bà.
Dịch Khuông được cơ hội này,
bèn giả danh hiệu "liềm tiền" (tiền đóng góp) để hiếu kính Thái hậu,
nhưng sự thật thì tám phần mười đóng vào hầu bao của Khuông, chỉ có hai phần
mười vào tay Thái hậu mà thôi. Về sau, các khoản tiền này càng ngày càng nhiều.
Chân đạo đài ở Thượng Hải thuộc tinh Giang Tô có thể nói là béo bở vào bậc
nhất, mỗi năm phải cúng mười vạn lạng, gọi là tiền phấn sáp cho Thái hậu. Phàm
văn võ quan viên, tất cả đều phải nói tới tiền trước, đều phải có tiền cúng đầy
đủ, theo cấp bậc to nhỏ trên dưới. Bất luận chức vụ, cấp bậc cao thấp nào đều
phải đánh giá qua cái tính cách béo gầy, thâu được nhiều hay ít lợi Đấy là cái
lối tham nhũng ăn tiền, đục khoét của thời Quang Tự, mà lại do chính Tây thái
hậu chủ trương trước.
Hối lộ tham nhũng công nhiên
chẳng thèm che giấu như vậy trách sao bọn quan lại từ trên xuống dưới lại không
tham nhũng và đục khoét xã hội Trung Hoa khiến người dân cơ hồ như không còn
miếng ăn nữa.
Rồi đến lúc bọn quan lại bên
ngoài bóc lột đã hết mức, không còn cách gì để bóc lột nữa, Dịch Khuông bèn
nghĩ ra một kế hoạch mới: đó là mở toạc chiếc cổng hối lộ cho mọi người thấy,
khỏi cần phải úp mở gì. Ai muốn làm quan lúc này thì đã có giá sẵn rồi, cứ việc
đem số tiền đó mà cúng vào thì tự nhiên là thành quan, khỏi cần phải thi cử đỗ
đạt, học hành gì cho thêm mệt. Ví dụ như: Chức tri huyện thì phải nua năm ngàn
đồng bạc, từ chức tri phủ trở nên, muốn mua thì hoặc là một vạn, hoặc hai vạn,
và cứ như thế mà tăng lên dần dần, đến mãi chỗ nào không thể được mới thôi.
Cái địa vị mà kẻ bạch đinh chân
trắng dù nhiều tiền mà không thể ngồi lên nổi được, đó là hai cái ngôi vị của
tước vương và tước công. Hai cái chỗ này thì quả là quan trọng, chỉ dành riêng
cho những bậc hoàng thân quốc thích và những người đỗ đạt cao như tiến sĩ,
trạng nguyên và có uy danh lừng lẫy, có công trạng đối với triều đình và quốc
dân. Thực ra, lệ này cũng chỉ có hiệu lực ở buổi đầu thôi, chứ dần dần về sau,
thì duy chỉ có tước vương là dân bạch đinh không thể leo lên được thôi, chứ còn
từ cấp nhị phẩm trở lên cho đến tước công như ta vừa nói tới đều có thể với
tới, miễn là có nhiều tiền. Có trường hợp ba, bốn anh họp lại thành một bọn để
cùng mua một chức quan, rồi một anh đứng ra nắm chính quyền.
Mấy anh hùn vốn kia cũng kéo
nhau tới nhiệm sở để hùa nhau tìm cách đặt kế bóc lột dân, đào khoét công quỹ
đến kỳ hết mới chịu thôi. Cả bọn vơ vét được bao nhiêu, Lúc đó đem tính toán
với nhau, trừ số tiền vốn hùn để mua quan ra, lời lãi còn lại sẽ đem chia đều
để đút túi.
Chuyện mua quan bán tước này
tuy nói rằng công khai đấy nhưng thực ra chỉ công khai đối với bọn thính mũi
ngửi được hơi địa vị quan trường thôi chứ quần chúng thì thực như ngủ trong
trống, không được biết một tí gì. Nhưng về sau, một câu chuyện bi hài xảy ra
như sau khiến lúc đó tệ trạng này tiếng tăm tùm lum lên, không còn ai là không
biết nữa:
Tại tỉnh Cam Túc, có ba anh
chàng bán quán thường gọi là chú Ba, chú Tư, chú Bảy làm ăn ngày càng xuống
dốc, sắp đi tới chỗ cụt vốn, anh nào anh nấy chán nản muốn tự tử.
Bỗng một hôm chú Ba ta nghĩ ra
được một lối thoát. Chú reo lên vì vui sướng, chạy tới bàn với hai chú kia?
- Này các cậu! Bọn quan lại
hiện nay bóc lột quần chúng đến xương tuỷ, cách làm ăn của bọn ta xuống dốc
mãi, thì chỉ còn nước tự tử hay bị gậy thôi. Phải tìm cách khác mà sống. Trừ
phi cái nghề làm quan lúc này còn thì không nghề gì sống nổi. Các cậu nghĩ xem?
Tư và Bảy thoạt nghe nói phá
lên cười, cười ngặt nghẽo, cười đến đổ ghế xiêu bàn, cho rằng chú Ba nhà ta
điên rồi.
Cười một lúc, Tư và Bảy mới chỉ
vào mặt Ba mà bảo:
- Chú mày muốn được làm quan? Xin
hỏi chú mày lấy cái tài gì, tư cách gì mới được chứ?
Hỏi vậy xong, Tư và Bảy lại
cười tiếp. Ba ta nghiêm ngay sắc mặt lại, cất tiếng như quát vào hai tên kia:
- Tụi bay ngu lắm! Ngu thiệt!
Ngu hơn ai hết! Làm quan đời nào, chứ đời này thì, có cần tư cách gì đâu. Tụi
bay chỉ cần có năm ngàn đồng bạc là thành ông huyện ngay, nghe chưa?
Tư và Bảy nghe nói lấy làm lạ,
hỏi ra mới rõ chuyện mua quan là thế nào, nghe mê quá, bàn ngay tới kế hoạch
thực hiện. Thế là cả ba anh chàng bán quán chạy về nhà, có, gì bán nấy, bán hết
bành cờ hiệu, thậm chí đến cái váy của vợ, cái quần xà lỏn của con cũng mang đi
bán, cốt làm sao thu đủ được số tiền năm ngàn quan cho Ba để Ba ta lên đường mặc
cả chức tri huyện với bề trên…
Việc mua bán đã xong chỉ còn
chờ. Chẳng bao ngày, ghế tri huyện Thanh Điền khuyết, chàng Ba quán nhậu ta
được bổ ngay vào đấy. Thật là trời chiều người, cờ đã đến tay, lúc này tha hồ
phất.
Khi bát quốc liên quân đánh Bắc
Kinh, Ba mất số tiền lớn là một ngàn năm trăm vạn, ấy thế mà ngoài số tiền một
ngàn năm trăm vạn này đã thu lại nguyên như trước, Ba còn kiếm thêm được cả hai
ngàn vạn nữa.
Nếu nói đến bọn nội giám trong
cung đình hồi này, thì Lý Liên Anh già quá đã chết rồi, còn một số khác thì đã
quá già hoặc cũng chết hết cả rồi. Kẻ đắc thế nhất lúc này phải nói tới tên nội
giám Tiểu Đức.
Tiểu Đức vốn họ Trương, cho nên
mọi người trong kinh thành vẫn thường gọi là Tiểu Đức Trương. Khi bước chân vào
cung, Tiểu Đức Trương mới có mười tám tuổi, mặt mũi thật tuấn tú xinh đẹp và
duyên dáng nữa là khác. Cha đẻ của Tiểu Đức có nghề buôn đồ cổ rất giỏi. Vào
thời trung niên, ông ta làm ăn, góp nhặt được một sản nghiệp kha khá. Nhưng khi
sanh Tiểu Đức ra chưa được bao lâu, người cha chẳng may mất đi, để lại hai mẹ
con Tiểu Đức goá bụa, côi cút.
Bởi chỉ có một đứa con, bà mẹ
Tiểu Đức cưng quá mức, khiến đến khi lớn lên, Đức suốt ngày lêu lổng, cờ bạc,
chơi bời, đĩ điếm, không một cái gì truy lạc là không làm. Cơ nghiệp của người cha
để cho hai mẹ con được bao nhiêu thì ngày nay Đức cho đội nón ra đi bằng hết. Mẹ
Đức khuyên bảo con hết lời, nhưng tính nào vẫn tật ấy, Đức không động tâm,
không sửa chữa, và đương nhiên là không nghe lời hơn lẽ thiệt của mẹ. Bà lão
cũng vì thế mà buồn chán, rồi đâm bệnh, chẳng bao lâu bà đi theo luôn với ông
già ngày nọ.
Cha chết, rồi mẹ chết, lúc này
Tiểu Đức quả thực là tứ cố vô thân, không còn có chỗ nào để trông mong, nhờ cậy
nữa.
Thế rồi, không đầy nửa năm, Đức
bán cho bằng hết không gì còn sót lại của cha gây dựng trước đây, bán đến không
còn sờ thấy một cây rơm cọng rác nữa. Nhà cửa sạch không rồi, Đức chỉ còn cách
bỏ xứ đi tha phương cầu thực. Đức lang thang mãi, sự trời may nhờ gặp được Tiểu
Vương, xin vào hầu hạ trong nhà kiếm chút cháo.
Tiểu Vương vốn là một tên nội
giám trong cung cấm của Thanh triều. Thấy Tiểu Đức mặt mũi khôi ngô điển trai,
Tiểu Vương bèn bảo:
- Mặt mũi mi khá quá. Nếu mi
chịu thiến cái "của nợ" đó đi, thì tao quyết tìm cho mi cái
giàu sang hơn người một phen cho mà xem. Giàu sang rồi thì mi tha hồ sung
sướng.
Tiểu Đức nghe lời của Tiểu
Vương dạy khôn. Sau một tháng trời rên la nhức nhối vì vết thương, Đức trở
thành một con người có giá, lúc này có thể vào bên cạnh nhưng người đẹp của
hoàng đế để hầu hạ vuốt ve nâng giấc thay cho ngài.
Thấy đã đến lúc nên đưa Tiểu
Đức vào cung, Tiểu vương một hôm vào tâu và tiến cử thẳng cho Tây thái hậu. Được
cái hay là Tiểu Đức vốn người hết sức lanh lợi, ngoài cái dáng vẻ điển trai ra.
Tây thái hậu thấy thế càng thích, càng sủng ái. Bởi thế chẳng bao lâu, Tiểu Đức
được Tây thái hậu cho làm thủ lãnh bọn tiểu thái giám trong nội.
Thấy được Tây thái hậu sủng ái,
Tiểu Đức càng ngày càng lộng hành. Đức vốn chỉ là một kẻ tiểu nhân cho nên khi
hầu hạ thân cận bên Thái hậu hắn tìm mọi cách để khiến cho bà tin cẩn để dễ bê
làm bậy.
Bình sinh, Tiểu Đức thích đánh
bạc. Trong cung cấm, hắn lại giở cái trò này ra. Thế là cả bọn, nào tiểu thái
giám, đại thái giám, nào lão thái giám, nào cung nữ già, nào cung nhân trẻ, tất
cả đều đổ xô lại kiếm hắn để đánh bạc. Chuyện thú vị nhất là chính Tây thái hậu
cũng biết và thích chơi súc sắc, nữa. Thế là cái tính đánh bạc của Đức đã chẳng
những được bà tha thứ lượng tinh, mà còn được bà cho phép tổ chức ngay tại
trong cung để rồi chính bà cũng ghé vào đánh cho vui nữa.
Đã nhiều lần Tây thái hậu bảo
Đức đứng ra làm cái để cho bà cùng bọn cung tần mỹ nữ trong cung cùng đánh Từ
khi trò đánh bạc lên cao, toàn thể cung nhân nơi cung cấm đều túm năm tụm ba
từng góc tường xó cửa để chơi. Bọn nội giám kẻ thua người được đâm tranh nhau,
cãi nhau, thậm chí đánh nhau nữa. Quy chế hà khắc trong cung cấm đến lúc này
quả đã hư hỏng đến cùng độ rồi.
Có một hôm, Tiểu Đức mở sòng.
Tây thái hậu cũng như bọn phúc tấn và cách cách xúm nhau vào đặt tiền. Tây thái
hậu nhắm đôi mắt lại để nhẩm tính nước bài. Giữa lúc ấy, Tiểu Đức cố ý đặt tay
lên nắp hộp súc sắc, cất tiếng xướng lớn:
- Mở này! Mở này!
Tây thái hậu mở mắt lớn, cả
giận nói:
- Thằng kia! Ai dạy cái lối hạ
lưu đó?
Tiểu Đức thấy Tây thái hậu cả
giận, vội dập đầu tâu:
- Nô tài vốn không biết cái lối
này. Nhưng năm ngoái nô tài nhờ được một vị hậu bổ tỉnh Sơn Tây tên gọi Từ Tử
Minh dạy cho lối đó. Tử Minh bảo nô tài: Thảng hoặc có người nhẩm tính nước bài
thì thường mình chỉ có thua chứ khó lòng được. Bởi thế, bất luận xấu tốt cách
nào, cũng phải chặn ngay, làm cho người đó phân tâm đi, không tính toán được
nữa.
Tây thái hậu nghe Đức nói, gật
đầu mỉm cười, không còn có ý tức giận, trái lại còn khoái nữa là khác.
Câu chuyện cờ bạc này truyền đi
mỗi ngày một xa. Hậu bổ Từ Tử Minh được tin này lấy làm khoái lắm liền nói phét
lác rằng:
- Cái lối đánh bạc của ta đến
Tây thái hậu cũng biết đấy chứ chẳng phải chơi đâu! Chúng bây thấy chưa?
Doạ đàn em, vậy rồi, Tử Minh
bèn mở ngay một sòng bạc lớn, công nhiên đánh bạc, lấy hồ, chẳng coi ai ra gì. Tri
phủ Sơn Tây là Đào Cảnh Như thấy Minh làm chuyện phi pháp bèn bắt trói Minh,
tống vào nhà giam, tước luôn cả chức vị của Minh. Khi nằm trong ngục, Tử Minh
cho người đem tiền bạc hối lộ cho viên tri phủ Cảnh Như, nhờ đó Cảnh Như cũng
vơ vét được một mẻ kha khá. Được chấm mút rồi, Cảnh Như thả ngay Từ Tử Minh,
lấy cớ rằng Minh bị bệnh thần kinh.
Thoát ngục rồi, Từ Tử Minh lại
mở sòng bạc, chuyến này còn lớn hơn nhiều.
Tri phủ Đào Cảnh Như mắt nhắm
mắt mở, tuy có trông đấy nhưng hình như không thấy gì, nhất là cái sòng bạc lớn
lù lù trước mắt. Thực là một quái trạng nhưng kỳ thú trong giới quan trường đời
nhà Thanh hồi mạt diệp.
Tiểu Đức có một thế lực như vậy
trong cung cấm, tất nhiên bọn nội giám bất đắc chí kéo nhau tới quy luỵ, nịnh
nọt. Ngay cả bọn cung nữ, phi tần không một chị nào là không chạy tới để nhờ
Đức che chở và làm theo mệnh lệnh của Đức. Kẻ không bị Đức chỉ huy có lẽ chỉ có
một mình Long Dụ hoàng hậu mà thôi. Bình thời Đức chẳng sợ một ai cả, ngoài Tây
thái hậu ra. Ấy thế mà duy chỉ có mỗi một mình Long Dụ hoàng hậu là Đức nghe
theo hết mọi mệnh lệnh sai khiến. Cũng do chỗ kỳ lạ này mà người ta thấy Long
Dụ hoàng hậu rất tin lời của Đức, rồi dần dần, ngày một ngày hai, Tiểu Đức biến
thành một tên hầu thân tín nhất của hoàng hậu. Trong chốn cung đình, từ đó điều
nọ tiếng kia, đồn đại trong ngoài, nào những chuyện dâm bôn tục tĩu, nào những
tin giật gân, kỳ quái, xảy ra bàng ngày. Tây thái hậu e ngại những tin đồn đại
nhơ nhớp này, đành phải tống cổ Tiểu Đức ra khỏi cung.
Về sau, khi Tây thái hậu mất,
Long Dụ hoàng hậu còn tái dụng Tiểu Đức một lần nữa và thường nghe những chủ
trương của y, ví dụ như việc xây cất Thuỷ tinh cung giả hàn. Song những chuyện
này ở mãi về sau, khi nhà Thanh chẳng còn được bao lâu nữa. Chuyện sau đó, ta
hãy tạm gác tại đây.
Lại nói từ khi xảy ra chuyện
đánh gãy cành trâm ngọc của Long Dụ hoàng hậu do Quang Tự hoàng đế gây nên, Tây
thái hậu biết là bất hoà giữa hai người không còn có cách gì hàn gắn được nữa. Bởi
thế, ít lâu sau, bà truyền cho Long Dụ hoàng hậu rời khỏi Ỷ Hương điện chuyển
qua ở tại Di Tâm các. Long Dụ hoàng hậu thấy Quang Tự hoàng đế bạc tình như
vậy, trong lòng hết sức buồn bã. Nhưng từ khi Tiểu Đức vào cung, tìm đủ cách
nịnh hót, đủ lối hầu hạ, hoàng hậu bỗng cảm thấy đời tươi lên. Đối với hậu lúc
này, bất cứ việc gì, vật gì do Tiểu Đức làm hoặc dùng đều được bà khen tốt cả,
hay cả, trái lại, do một người nào khác, thì bà đều quở là dở, không bao giờ
vừa lòng. Bọn nội giám trong cung hiểu được duyên cớ bên trong của câu chuyện,
đều rút lui ra sau, để mặc cho Tiểu Đức được tự do hầu hạ hoàng hậu. Thành thử,
bất cứ chuyện gì tại cung hoàng hậu, Tiểu Đức đều tự mình lo liệu lấy hết,
không để cho một kẻ nội giám nào khác mó tay vào.
Có một hôm, mưa xuân phơi phới
đầy trời, Tây thái hậu đội mưa đi chơi xuân trong vườn, hoàng hậu cáo bệnh
không đi còn tất cả phi tần cũng có mặt phụng giá.
Không ngờ, mưa mỗi lúc một nặng
hạt, Tây thái hậu bèn ra lệnh cho các phi tử ai về nhà nấy, bà Cẩn phi vội vã
đội mưa xông gió chạy đi trước.
Cá tính của Tây thái hậu là
thích đi chơi dưới mưa bay. Bọn phi tần chạy theo sau, dù có lọng, cũng không
dám giương lên. Đã nhiều lần, bọn phi tần, phúc tấn, cách cách theo Tây thái
hậu dạo chơi dưới trời mưa trong vườn, đều phải để mặc cho mưa rơi, ướt sũng
đầu tóc cũng phải chịu. Khi thái hậu ngồi kiệu thì cả bọn nhảy lên kiệu ngồi. Trái
lại, khi thái hậu đi bộ thì cả bọn lại đành phải đi bộ, chứ không dám làm khác.
Hôm đó đi chơi dưới mưa, Cẩn
phi biết cái tính kỳ quặc của Tây thái hậu, cho nên không mang dù đi. Rồi đến
khi được lệnh cho về, quần áo bị ướt sũng, Cẩn phi thấy cần phải chạy về để
thay. Cẩn phi ba chân bốn cẳng chạy qua phía dưới gác Di Tâm, bỗng nghe một
tiếng ho, rồi một bãi đờm nhổ toẹt thẳng vào mặt nàng. Cái người nhổ đờm nào đó
có lẽ khi nhổ không có ác ý gì, Cẩn phi chắc cũng biết thế, cho nên cái nhổ đỏ
chỉ giúp cho nàng nhớ tới một việc là hoàng hậu cáo đau, không đi theo thái hậu
dạo chơi trong vườn.
Nhớ lại như vậy, Cẩn phi thấy
cần phải tới vấn an bà mới phải, hơn nữa cũng để tránh sự trách mắng vô lễ của
bà. Chủ ý đã định, Cẩn phi bèn lặng lẽ bước lên gác. Chân nàng bước đã nhẹ, mặt
đất lại lót bằng thảm nhung êm dày.
Cẩn phi bước đã lên đến từng
trên gác, mà hoàng hậu vẫn không hay biết một tí gì. Đợi đến khi Cẩn phi bước
hẳn vào bên trong cửa, nghe mấy tiếng động nhẹ, hoàng hậu mới tưởng là tên tiểu
thái giám thường hầu hạ bà. Bà lên tiếng hỏi:
- Đứa nào chạy lộn xộn ngoài đó
đấy?
Theo lệ, thường thì khi phi tần
vào yết kiến Đế hoặc Hậu, họ đều phải có một tên tiểu thái giám chạy vào báo
trước, Cẩn phi đã vào đây nhiều lần, quá quen rồi, cho nên chẳng để ý đến thông
lệ này. Bỗng tiếng hỏi bất ngờ của hoàng hậu làm cho Cẩn phi dừng ngay gót lại,
không dám tiến sâu vào nữa.
Hoàng hậu thấy người nào dừng
lại, không bước thêm liền sinh nghi, vội chạy ra. Vừa thấy bóng hoàng hậu, Cẩn
phi vội vàng cúi xuống thỉnh an. Nhưng cũng cái lúc thảng thốt mà hoàng hậu
chạy ra thì Cẩn phi đã thấy trên giường của hoàng hậu anh chàng Tiểu Đức trần
như nhộng, đang nằm dài thườn thượt như có vẻ đã được thoải mái quá rồi, đến
lúc phải nghi ngơi đôi chút.
Hoàng hậu lúc đó, cử chỉ có vẻ
hơi bấn loạn, vội lên tiếng quát bảo Tiểu Đức:
- Thằng kia! Mi không cút đi
ngay phải không? A thì ra cái thằng này láo lếu bừa bãi thực?
Tiểu Đức đâu có ngờ tới Cẩn phi
bất chợt bước vào, không một tiếng động, không một lời báo trước. Cho nên ngay
cả lúc hoàng hậu đứng nói chuyện với nàng, hắn cũng cứ thản nhiên nằm trên
giường dương dương tự đắc, chứ đâu có ngờ rằng oan gia gặp đường hẹp. Nhưng đến
lúc biết là Cẩn phi rồi, thì Tiểu Đức mới hoảng hốt vùng dậy, tay chân run lên,
quơ bên này cào bên nọ, lôi cái áo, rút cái quần, quýnh quýnh đúng như một
thằng ăn vụng có tội. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nan của Tiểu Đức, may thay cho
hắn được hoàng hậu quát thêm lên vài tiếng bảo hắn đi lấy phất trần để quét bụi
trên bàn. Ấy thế mà hắn cúng quýnh quýnh mãi một hồi nữa mới mặc xong quần áo
mà vội vã chạy đi.
Long Dụ hoàng hậu bị bắt tại
trận, tất nhiên không thể nào bình tĩnh được. Mặt bà bỗng đỏ ửng lên, mắt bà
như tá hoả thành trăm ngàn tia lửa nhưng rồi dễ tắt lịm đi, tối om. Đôi tay bà
nêu có ai để ý thì sẽ thấy mười ngón tay chúng bắt chuồn chuồn không ngớt.
Cẩn phi nhìn thấy quang cảnh
này dù chỉ trong chớp nhoáng cũng phải biết tại nơi đây, đã xảy ra chuyện gì
rồi. Nàng chẳng còn cách gì hơn là thăm hỏi vài ba câu qua loa, để từ giã hoàng
hậu ra đi, cho đỡ bẽ cả đôi đường.
Trên đường đi trở về Doanh đài,
Cẩn phi càng nghĩ càng lấy làm lạ cái cảnh vừa qua. Gặp Quang Tự hoàng đế, định
nói toạc ra nhưng lại ngập ngừng không dám nói. Tại sao vậy.
Số là sau ngày thổ huyết, bệnh
tình của Quang Tự hoàng đế không thuyên giảm được bao nhiêu. Hơn nữa, chính hôm
thổ huyết té ngửa đó, hoàng đế đã trợn mắt lên, nghiến răng ken két như có điều
vô cùng căm hận đối với hoàng hậu. Bởi thế, nếu đem nói toạc trò quỷ quái vừa
thấy ra, nàng e rằng có hại cho sức khoẻ của hoàng đế. Tuy nhiên, sực nhớ lại
những lúc hoàng hậu ton hót với thái hậu, và những lúc đánh đập làm khổ nàng
nhiều phen, nàng lại thấy máu uất bốc lên, tiếng kêu gọi trả thù lại vang lớn
trong thâm tâm. Thế rồi cuối cùng hận thù đã thắng, nàng bèn rỉ tai Quang Tự
hoàng đế thuật lại một lượt tất cả những gì nàng vừa thấy trong phòng ngủ của
hoàng hậu.
Quang Tự nghe xong chuyện kể,
nhảy đến vù một cái từ mặt giường lên khoảng không, để rồi lại rơi xuống mặt
giường, miệng quát lên như điên:
- Con tiện tỳ khốn nạn! Con
khốn nạn! Tao phải giết mi! Tao phải giết mi.
Quát xong, Quang Tự hoàng đế
nhoài ra cạnh giường, đứng dậy, tính bận quần áo chạy đến gặp Tây thái hậu. Cẩn
phi thấy quang cảnh sôi động bất ngờ và nhất định là tai hại không biết tới đâu
mà lường, vội chạy lại ôm lấy ngài để khuyên can, nàng nói:
- Bệnh tình của hoàng thượng
vừa mới bớt, cần nên tĩnh dưỡng. Chuyện này, sớm chiều gì rồi sẽ giải quyết,
vội vã làm gì? Hơn nữa, chuyện này, chính mắt thần thiếp được mục kích. Nếu câu
chuyện nổ ra tùm lum thì thế nào mà thần thiếp chẳng bị luỵ vào đấy.
Quang Tự hoàng đế suy nghĩ một
lát rồi nói:
- Ta đã biết vậy rồi. Nhưng nếu
không cho chúng biết tay một phen, thì về sau còn làm gì được nữa? Nếu không
gặp Thái hậu để tố cáo cho bà biết chuyện của con khốn nạn nọ thì rồi ta cũng
phải gọi cái thằng khốn kiếp kia đến đây để cho nó một bài học mới được.
Nói đoạn. Quang Tự hoàng đế
liền gọi một tên tiểu thái giám chạy đi triệu tên Tiểu Đức đến Doanh đài ngay
để kiến giá.
Lại nói khi Cẩn phi trở về
Doanh đài rồi, Tiểu Đức biết câu chuyện vỡ lở, thế nào cũng gây hoạ, liền nói
với Long Dụ hoàng hậu:
- Tiểu yêu chuyến này chắc nguy
rồi đây! Vạn nhất mà hoàng thượng truy ra vụ này thì tiểu yêu chỉ còn biết nhờ
vào sức che chở của hoàng hậu mà thôi.
Hoàng hậu nghe nói, nét mặt vừa
buồn vừa giận, cất tiếng nói:
- Biết làm sao được bây giờ? Chỉ
tại con khốn nạn đó nó thấy? Và cũng tại bọn ta không cẩn thận đề phòng mà ra. Ngươi
đâu có hiểu được ta với hoàng thượng vốn không thuận đã từ lâu. Giả thử hoàng
thượng cho chuyện đó là đúng là thực, thì đến ta cũng chịu, chẳng biết làm sao
hơn. E đến cái mạng ta cũng khó thoát nữa là!
Tiểu Đức nghe xong, miệng câm
như hến, đứng ỳ ra như một pho tượng đất, mặt thộn hẳn ra. Giữa lúc khó xử này,
bỗng một tên tiểu thái giám chạy tới triệu Đức. Long Dụ hoàng hậu biết câu
chuyện đã bị phát giác rồi, chỉ còn biết lấy đôi mắt nhìn theo Tiểu Đức, miệng
lặng thinh không nói một lời nào.
Tiểu Đức thấy vô phương thoát
tội, toàn thân run lên lẩy bẩy, líu ríu theo gót tên tiểu thái giám ra đi về
ngả Doanh đài.
Tiểu Đức bước lại gần giường
nằm của Quang Tự hoàng đế. Hắn nhìn thấy mặt ngài đầy vẻ căm giận bực tức, vội
quỳ xuống, dập đầu, không dám ngẩng đầu lên nữa:
Quang Tự hoàng đế lớn tiếng
quát:
- Mi đã làm một việc quá đẹp. Ta
khỏi cần phải giảng giải gì cho mi thêm.
Quát xong Quang Tự hoàng đế gọi
mấy tên nội giám kéo cổ Đức ra phía ngoài đánh một trăm gậy, tung toé máu đít,
tống cổ sang bên cung Thái hậu.
Bọn nội giám lãnh chỉ, kéo cổ
Tiểu Đức ra ngoài, đánh đúng một trăm gậy, xong rồi ngồi chờ giấy của hoàng đế.
Quang Tự hoàng đế viết bốn chữ "Tiểu
Đức vô lễ" vào một tờ
giấy rồi sai bọn nội giám cầm tờ giấy đó, đồng thời áp giải tên Tiểu Đức sang
bên cung Tây thái hậu.
Lúc này Tây thái hậu được biết
tin, liền cho gọi hoàng hậu sang trách mắng một hồi. Bỗng bà thấy bọn nội giám
áp tải Tiểu Đức tới, vội truyền lệnh cho hoàng hậu hãy tạm lánh mặt vào phía
trong. Tiểu Đức vừa thấy thái hậu, vội quỳ xuống đất, mắt sa lệ, cất tiếng van
xin:
- Cầu xin Lão Phật gia tha thứ
cho.
Tây thái hậu nói:
- Mi đã tự tay làm chuyện đồi
bại thì đến ta cũng chịu. Hiện hoàng thượng đã bảo ta phát lạc. Vậy cung nội
này không có cách gì giữ mi lại được nữa cả. Mi nên quay lẹ về nhà, thu xếp
khăn gói mà đi đi.
Tiểu Đức chỉ còn biết dập đầu
một cái, rồi đứng dậy, chạy đi thu xếp hành trang để xuất cung.
Lại nói Quang Tự hoàng đế trách
mắng đánh đòn tên Tiểu Đức xong rồi nhưng lòng giận vẫn chưa nguôi, bệnh thế
của ngài vốn đã trầm trọng từ lâu, nay lại trải qua một cơn khủng hoảng tinh
thần quá kịch liệt, khiến càng trở nên nguy nan thêm. Từ đấy, bệnh ngài đã
chẳng thuyên giảm đi mà càng ngày càng nặng mãi, để đến mùa đông năm đó, ngài
chỉ còn lại như một đống xương khô hay như một bó củi khô mà thôi. Thân xác
cũng như tinh thần của ngài lúc này đều đã mất gần hết và cái chết coi như đã
gần kề.
Thế rồi một hôm, Quang Tự hoàng
đế bỗng nhiên biến chứng, ngài đâm ra thở dốc, cuối cùng cứ thở giật từng hồi
như hắt ra. Cẩn phi ngồi trông nom bên cạnh hất hoảng đến cực độ một tay cố giữ
lấy ngực cho ngài, còn một tay khoát gọi tên tiểu thái giám hầu cận chạy ngay
đi phi báo cho Tây thái hậu biết.
Chỉ một lát sau. Tây thái hậu
đã cùng viên ngự y bước vội vào cung. Bắt mạch chẩn bệnh một lát, viên ngự y
tâu với thái hậu.
- Bệnh tình của hoàng thượng do
ở chỗ nguyên khí bị tổn thương, động tới can phong, cho nên thở dốc không chỉ. Thở
mãi mà không chỉ, ta nên đề phòng có khi ngất đi đấy.
Một viên ngự y nói vậy, bảy, tám
viên ngự y khác xem mạch chuẩn bệnh cũng đều nói thế. Tây thái hậu lúc này đã
thấy xốn xang bối rối lắm. Bà bảo Cẩn phi trông nom nhà vua, còn mình thì hối
hả chạy về Dưỡng tâm điện triệu tập tức khắc bọn quân cơ đại thần vào ngay đêm
đó để nghị sự.
Hồi này, Trương Chi Động đã
nghỉ chức, chỉ còn lại có bọn Na Đồng. Bọn đại thần này vào đến cung yết kiến
thái hậu, bà tuyên bố bệnh tình của Quang Tự hoàng đế cho họ nghe rồi nói:
- Nếu chẳng may hoàng thượng có
mệnh hệ nào, thì biết chọn ai kế vị?
Khanh thân vương Dịch Khuông
tâu:
- Theo như trước đây thì đến
Phổ Tuấn như vậy là không thể nối ngôi được nữa. Đếm ngón tay ta thấy muốn kế
vị Đức Mục tôn nghi hoàng đế, ắt vẫn phải chọn người có chữ lót là Phổ mới
được.
Tây thái hậu gật đầu nói:
- Ta đã nghĩ tới điều đó. Trong
số người có chữ Phổ trừ con trai Thuần thân vương là Phổ Nghi và con trai Cung
thân vương là Phổ Huân ra, là hết. Con của bọn Tải Tuân đã thuộc chi xa, lại
còn nhỏ tuổi hơn cả Phổ Nghi. Hơn nữa người như Tải Tuân thực chẳng đáng để
trao phó cho đại quyền. Theo ta, thì trong Phổ Nghi và Phổ Huân, hai người ấy
nên chọn lấy một. Y ta là như thế, nhưng không biết các vị thân vương nghĩ như
thế nào?
Dịch Khuông nghe Tây thái hậu
hỏi, vội cúi đầu tâu:
- Đây vốn là việc đại sự quốc
gia, tự nhiên đã có Lão Phật gia anh minh quyết đoán, hà tất phải hỏi bọn thân
vương có đồng ý hay không đồng ý mà làm gì. Công việc trong tôn tộc, có khác gì
công việc ngoài quốc gia, cả hai cũng chỉ là một, xin Lão Phật gia minh xét
cho.
Na Đồng cũng tâu lên:
- Lời nói của Khánh vương rất
đúng. Y kiến của nô tài cũng y hệt như thế đấy.
Tây thái hậu nói:
- Tuy lời nói đó có lý đấy,
song đại quyền vẫn thuộc về hoàng thượng. Ta bất quá chỉ thay thế nhất thời mà
thôi. Quyết nhiên lúc này phải là ta hạ lệnh, nhưng trong tương lai chỉ sợ có
chuyện xảy ra này nọ đó thôi.
Dịch Khuông vội nói:
- Bất tất phải quá lo xa như
vậy. Đến lúc đó, ta hãy giải quyết cũng không muộn.
Giữa lúc Tây thái hậu và bọn
đại thần đang còn hội nghị, bỗng một tên nội giám chạy vội vào tâu:
- Hoàng thượng mê đi rồi!
Vừa được tên nội giám chạy đến
báo tin cho biết Quang Tự hoàng đế đã mê đi, Tây thái hậu vội vàng cùng bọn
Dịch Khuông kéo nhau tới Doanh đài để xem tình trạng hoàng đế ra sao. Nhìn vào
thân thể ngài, họ chỉ thấy mặt ngài trắng bệch ra như tờ giấy trắng, đôi hàm
răng cắn chặt lại, đôi mắt trợn ngược lên.
Cẩn phi mặt đầy nước mắt vừa
xụt xịt khóc vừa lay gọi, Long Dụ hoàng hậu lúc này được báo tin cũng đã chạy
tới. Bà nhìn thấy Quang Tự hoàng đế trong tình cảnh như vậy, cũng không khỏi rỏ
vài giọt nước mắt.
Tây thái hậu ngồi bên cạnh bảo
hai người đừng có hoảng hốt. Bà bảo hoàng thượng đuối sức một lúc sẽ tỉnh lại,
chứ không có chi đáng ngại. Một mặt, bà cho một tên tiểu thái giám tức tối đi
gọi cả thái y viện tới để chạy chữa. Bọn Dịch Khuông thì ngồi yên lặng tại phía
dưới điện Hàm Nguyên chờ đợi.
Chỉ một lát, người ta đã thấy
bọn thái y lóc cóc chạy tới, nào dao cầu thuyền thuốc, đầy đủ đồ nghề. Nhưng
bọn nội giám sớm đã reo lên:
- Hoàng thượng tỉnh lại rồi! Hoàng
thượng tỉnh lại rồi!
Giữa lúc đang mơ mơ màng màng
như người đi trong mộng, Quang Tự hoàng đế mở choàng mắt ra, thấy mọi người vây
khắp quanh mình, người thì đứng kẻ thì ngồi, bất giác tỏ vẻ lạ lùng bèn hỏi:
- Các người tới đây làm gì vậy?
Cẩn phi ghé sát vào mặt nhà vua
khẽ nói:
- Họ tới để hầu hạ bệ hạ đó.
Quang Tự hoàng đế nói:
- Ta khoẻ mà. Hầu hạ làm gì?
Nói đoạn, ngài thở dài một
tiếng, quay mình vào trong dỗ giấc ngủ. Tây thái hậu bảo với mọi người:
- Hoàng thượng mê đi vừa mới
tỉnh, thần kinh đang thác loạn. Các ngươi không nên nói chuyện với ngài. Cho
gọi thái y chẩn mạch cho ngài xem ra sao.
Thế là bọn thái y được gọi lại,
chẩn mạch xong, chạy ra phía ngoài hất thuốc, rồi lại chạy vào ngay. Cẩn phi
đích thân lo việc sắc thuốc, sau đó đổ cho ngài uống.
Tây thái hậu đợi cho Quang Tự
hoàng đế thần sắc trở về nguyên trạng rồi lúc đó mới quay trở về cung. Hoàng
hậu và bọn đại thần Dịch Khuông cũng tiến vào cung để vấn an thái hậu rồi mới
giải tán, ai nấy về nhà mình.
Quang Tự hoàng đế thấy mọi
người đi hết rồi, mới quay mình lại, nhìn Cẩn phi hỏi:
- Bọn họ đi hết rồi ư?
Chỉ hỏi được có mỗi một câu đó,
Quang Tự hoàng đế lại đã lên cơn suyễn, tắc họng lại, không thể nói được nữa. Cẩn
phi vội nằm sát xuống bên giường, ghé miệng sát vào tai nhà vua mà nói:
- Xin bệ hạ bảo trọng thân thể.
Đừng có nói gì, đợi đến khi khỏi rồi hãy trò chuyện.
Quang Tự hoàng đế bèn thò cái
tay chỉ có xương và da ra nắm lấy bàn tay ngọc ngà của Cẩn phi rồi nói qua hơi
thở khò khè:
- Bệnh tình của ta xem ra khó
lành được rồi. Hôm nay tá muốn nói vài câu tối hậu với ngươi.
Cẩn phi nghe đến đây, bỗng đôi
dòng lệ chảy ra, ướt cả vạt áo phía trước ngực. Quang Tự hoàng đế khoát nhẹ bàn
tay, như ra hiệu thôi đừng khóc nữa, rồi nói tiếp:
- Theo ý ta lúc này thì chả còn
gì để phải lưu luyến nữa. Khi đôi mắt nhắm lại, thế là hết, hết sạch. Tiếc
thay! Con nối dõi ta không có. Quyền bính đều nằm trong tay mẫu hậu. Khi ta
chết rồi, không biết ai là người kế thừa đại thống? Ta thực chưa từng biết. Mà
cũng chẳng can dự gì đến ta. Ta cứ im lặng, chẳng nói một câu nào là hơn, cứ để
cho mọi việc trôi qua đến đâu thì đến. Ấy thế nhưng, dù sao, ta cũng không thể
bình thản được trước mọi chuyển biến. Ta nhớ lại từ khi bước vào cung để thừa
kế đại thống, tính đến nay đã hơn ba mươi năm rồi. Suốt trong thời gian lâu lắc
này, tuy ta không có công trạng gì nhưng nói cho cùng thì cuộc đời ta cũng đã
được an bài. Đến như chuyện quyền chính được rồi mất đó, thực chỉ tại ta quá
nhu nhược mà ra. Buồn thay cho ta là từ khi bước chân vào cung, trong không có ai
là người tâm phúc, ngoài không có ai là người trung lương phò trợ, muốn phấn
phát tinh thần mà làm việc đấy nhưng lại không biết hoạt động vào đâu. Năm Mậu
Tuất, có cuộc binh biến. Ta vốn tưởng đem cựu chế mà cải cách một phen, chỉnh
đốn lại chiêng trống, phóng động lên một phong trào, huy trương lại nhuệ khí,
khiến cho mọi người hăng hái canh tân lại xứ sở. Không ngờ mẫu hậu không lượng
tính, giữa đường đánh quy ta, biến ta thành một loại tội tù không hơn không
kém. Lần đả kích ta này, quả thực khiến ta vô cùng chán nản. Bởi thế, từ đó ta
đâu có còn tha, thiết đến chính sự nữa. Bất luận là chuyện trong hay việc
ngoài, ta có thèm mở miệng ra nói một lời nào nữa đâu. Giả thử lúc ban sơ đó,
mẫu hậu có nghe theo lời ta, thực hiện theo kế hoạch của ta thì quốc gia này
đâu có đến nỗi như ngày nay. Về sau, năm Canh Tý, trải qua một cuộc loạn quyền
phỉ, chạy lên Tây An rồi lại trở về, lúc đó mẫu hậu mới tỉnh ngộ cải quả, thì
sự đã trễ rồi. Tóm lại mà nói, giang sơn nhà Thanh ta chẳng bao lâu nữa sẽ bị
người khác cướp mất đó thôi.
Quang Tự hoàng đế nói đến đây,
lại ho rốc lên một hồi.
Cẩn phi nuốt lệ nói:
- Bệ hạ nói ít thôi!
Đợi cho hết ho, dễ thở, Quang
Tự hoàng đế thu hết tàn lực lại để cố nói cho được lớn:
- Nay không nói, còn đợi đến
lúc nào nữa?
Quang Tự hoàng đế khựng lại một
chút để lấy hơi, rồi tiếp để dặn dò Cẩn phi:
- Ta có câu nói khẩn yếu này,
muốn nghe hay không, tuỳ ý họ. Nếu ngươi không nói ra, ta sê có tội đối với tổ
tiên. Sau khi ta mất rồi, người kế vị chưa được định rõ, trong số mấy người thôi.
Song Tải Tuân là người kém tháo vát, nếu giao phó cho đại chính e có chỗ chưa
đủ, mất nước là cái chắc! Đến Phổ Tuấn, người đã từng lập làm Đại A Kha, Tuấn
hết sức ngu ngốc cầm quyền làm sao được chứ? Lại đến Phổ Nghi? Nghi vào thừa kế
đại thống e rằng quá con nít. Chẳng biết khi trưởng thành, Nghi sẽ ra sao. Một
đứa con nít lâm trào, cần phải có một người lớn nhiếp chính. Mà cái người nhiếp
chính ấy phải chăng là Thuần thân vương Tải Thuần? Hai người có cái tình phụ tử
với nhau, tất nhiên việc phụ chính sẽ được tận tâm kiệt sức khỏi phải nói. Song
Tải Thuần lại phải cái nhu nhược mà võ đoán. Thuần cũng chẳng phải là người an
bang định quốc, lỡ gây ra chuyện bất hảo, ta e rằng quốc gia này sẽ đi đứt do
tay y. Theo ý kiến ta thì cái đám Phổ này đều còn nhỏ cả, cần phải có người
nhiếp chính, trong khi chúng chỉ làm bù nhìn thôi. Như vậy, thì chi bằng chọn
một người kế vị lâm chính ngay trong tầng lớp của ta có hơn không? Chẳng biết
mẫu hậu quyết định ra sao?
Trong lúc nói mấy câu trên,
Quang Tự hoàng đế mắt nhìn thẳng vào mặt Cẩn phi. Rồi đến khi nói xong, đôi mắt
ngài như đứng hẳn lại, có ý chờ đợi một câu đáp của Cẩn phi. Hiểu được ý đó của
nhà vua, Cẩn phi bèn gật đầu nói:
- Để thần thiếp tâu lại cho
thái hậu rõ.
Nghe được vậy, Quang Tự hoàng
đế se sẽ gật đầu rồi nhắm dần mắt lại. Hơi thở của ngài lúc này lại trở nên gấp
gáp hơn trước. Cẩn phi cho rằng bệnh tình của ngài xem ra lành ít dữ nhiều. Nàng
một mặt thút thít khóc, một mặt nằm nép xuống cạnh giường. Nhân lúc thấy Quang
Tự hoàng đế mở choàng mắt ra, nàng ghé vào tai ngài khẽ hỏi:
- Bệ hạ có thấy đỡ phần nào
không?
Quang Tự nghe hỏi chỉ khe
"ừ" một tiếng và thêm một cái gật đầu như ra hiệu. Cẩn phi lại hỏi
tiếp:
- Ví thử bệ hạ có thực mệnh
nào, thì bảo thần thiếp phải làm sao?
Nghe xong câu hỏi của Cẩn phi,
Quang Tự hoàng đế nhìn thẳng vào mặt Cẩn phi, ngừng một lát rồi mới thì thào
nói:
- Ngươi tất phải lo. Khi ta còn
sống, bọn chúng tác oai, tác phúc. Rồi đây khi ta chết rồi, một triều đại mới
ắt sẽ có một quần thần mới. Bọn chúng cũng chỉ đối với ngươi vậy thôi. Lúc đó,
ta e rằng chúng còn phải lo cho mình chưa xong chứ còn lấy thì giờ đâu mà chống
đối với ngươi nữa. Ngươi chắc chắn lúc đó còn sướng hơn bây giờ nữa là khác.
Cẩn phi còn muốn hỏi nữa, nhưng
Quang Tự hoàng đế xem ra thần trí đã mơ hồ, không nhận định rõ được mọi vật
nữa. Cẩn phi thấy hình sắc ngài có vẻ biến thái nhiều rồi, cho nên không dám
rời khỏi bên ngài.
Cho mãi đến hửng sáng, Quang Tự
hoàng đế thực không còn có thể nói nữa. Ngài chỉ còn biết lấy tay chỉ vào miệng
mà thôi. Giờ Thìn, Long Dụ hoàng hậu chạy tới. Vừa nhìn thấy bà, Quang Tự hoàng
đế ngước mắt lên vài lượt, rồi bỗng nắm tay lại đấm vào đầu giường mấy cái, tựa
hồ như có ý tức giận lắm.
Long dụ hoàng hậu vừa gạt lệ,
vừa se sẽ hỏi Cần phi về bệnh tình của hoàng đế. Một lát sau, thái y viện lại
đến để chẩn mạch cho ngài. Tuy bề ngoài nói rằng bệnh tình của Quang Tự hoàng
đế còn có cơ hội vãn hồi được, nhưng thái y viện đã tâu nhỏ với Tây thái hậu là
nên chuẩn bị chuyện hậu sự cho nhà vua đi là vừa.
Lại nói Tây thái hậu ngay từ
hôm qua sau khi ở Doanh đài về, bà bỗng cảm thấy khó ở. Tuy đã được thái y chẩn
mạch và hết thuốc, nhưng bệnh tình của bà đã từ nhẹ chuyển sang nặng. Do đó, bà
không có thể gắng gượng đi đây chạy đó. Cho đến khi nghe nói Quang Tự hoàng đế bệnh
nguy, bà tính đích thân mình tới Doanh đài nhưng bị bọn nội giám cung nhân
khuyên can nên lại thôi,: mà chỉ sai Long Dụ hoàng hậu qua thăm để xem tình thế
bệnh trạng ra sao mà thôi.
Buổi chiều hôm đó, Quang Tự
hoàng đế chỉ còn lại có chừng ba phần khí lực. Tây thái hậu tuy lúc đó đầu
choáng mắt hoa nằm quỵ tại một nơi rồi, nhưng vẫn còn nghĩ được cách lo liệu
hậu sự cho nhà vua. Bà tức tốc truyền lệnh cho triệu ngay bọn quân cơ đại thần
như Na Đồng, Thế Tích vào cung để nghị sự.
Lúc này Khánh vương Dịch Khuông
đã đi yết Đông Lăng cho nên không có mặt tại triều. Bọn Na Đồng, Thế Tích vào
cung thấy Tây thái hậu đầu buộc một cái khăn xanh biếc đang ngồi tựa vào thành
giường. Vừa thấy bọn Na Đồng vào, bà liền cất tiếng hỏi:
- Ta định lúc này lập sử đây. Bọn
ngươi có ý kiến gì không?
Thế Tích nghe hỏi, vội tâu:
- Hoàng thượng thánh thể không
được an. Thái hậu rất nên quyết định ngay đại kế lúc này.
Tây thái hậu sẽ gật đầu nói:
- Ta định chọn một vương tử
trong số các thân vương cận chi. Các ngươi nghĩ sao?
Na Đồng lặng thinh, không nói,
Thế Tích cúi đầu tâu: