Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

2 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 37,38,39

HỒI 37

Tôn An Tổ thuyết phục Đậu Kiến Đức hết lẽ,
Từ Mậu Công kết giao Tần Thúc Bảo buổi đầu.

Từ rằng: 
Vua sáng suốt hoang dâm hết mực, 
Trời cao xanh đùa cợt đầy vơi 
Đua nhau một điểm hùng tài 
Mịtt mù khói bụi, sáng ngời can qua 
Chẳng phân biệt đâu là thật mộng 
Rối bòng bong hai giống tình hoài 
Huệ lan thơm nức trên đời 
Buồn vui tan hợp an bài từ lâu. 
Theo điệu "Ô dạ đề". 

Làm khổ trăm họ hơn cả công việc thổ mộc là việc đánh nhau giặc giã. Nó cướp đoạt tài sản, sức lực, tính mạng của dân chúng, làm cho vợ chồng, anh em, họ hàng, mỗi người một nơi, trẻ em mồ côi, đàn bà góa chồng, toàn những chuyện thương tâm, nghe ra đã thấy đỏ mắt, cay mũi. 

*** 

Lại nói chuyện Sa phu nhân sẩy thai, Dượng Đế đem Triệu Vương, đứa con mồ côi mẹ của mình làm con Sa phu nhân, lại sai Vương Nghĩa khắc ngọc tỷ ban cho, thêm nữa, chuyển Chu Quý Nhi sang viện Bảo Lâm, để cùng lo việc chăm sóc Triệu Vương, những mong nghĩ kế lâu dài. Nhưng có thấy đâu rằng, khắp thiên hạ, chúng dân nổi lên như ong, đến nỗi nước mất nhà tan ngay trước mất. 

Hãy nói Vũ Văn Chúc, Vũ Văn Khải sau khi được lệnh, lập tức làm văn thư đi khắp chín châu, lấy dân phu, đòi lương tiền, chẳng kể sức dân ra sao, chỉ cốt dùng hình phạt nặng nề để đốc thúc, đến nỗi dân lành chẳng còn đường nào khác là làm giặc cướp. Những kẻ có nhà cửa, gia đình, thì luôn bị bọn tham quan ô lại, mượn gió bẻ măng làm tình làm tội, thuế má nặng nề, lao dịch khổ sở, dầu có muốn tìm chốn Đào nguyên để tránh vạ Tần cũng khó (1). 
1 Nguồn Đào: Một người đánh cá, bơi thuyền ngược suối, thấy hai bờ toàn hoa đào, đi sâu qua hang, thấy làng xóm dân cư trù phú. Hỏi ra là dân đời Tần, trốn vào đây để tránh sự hà khắc của Tần Thủy Hoàng, rồi chẳng bao giờ ra bên ngoài nữa (Đào hoa nguyên ký) 

Lúc này Thôi Nhượng tụ tập ở Ngõa Cương, Chu Sán ở Thành Phụ, Cao Khai Đạo chiếm Bắc Bình, Ngụy Diêu Nhi cát cứ vùng Yên, Vương Tuy Bạt xây đồn lũy ở Thượng Cốc, Lý Tử Thông giữ Đông Hải. Tiết Cử thì vùng Lũng Tây, Lương Sư Đô ở Sóc Phương, Lưu Vũ Chu cố giữ Phần Dương, Tả Hiếu Hữu thì giành vùng Tế Quận, Hách Hiếu Đức ngồi ở Bình Nguyên, Từ Nguyên Lãng xưng vua ở Lỗ Quận, Đỗ Phục Uy tại Chương Khâu, Tiêu Tiên xưng bá vùng Giang Lăng. Bọn này phần lớn cũng đều là quan quân nhà Tùy cũ, tụ tập lính tráng, dân đinh nổi dậy làm giặc cướp, chiếm giữ một vùng. Lại thêm rất nhiều lục lâm, hảo hán, những bậc hiền đức quay về ẩn dật, ngồi đợi thời, chưa xuất đầu lộ diện. 

Lại nói chuyện Đậu Kiến Đức, đem con gái cùng đến Nhị Hiền trang ở với Đơn Hùng Tín. Thỉnh thoảng cũng có đi đây đi đó, thường thì một giờ một khắc cũng lâu quá, nhưng nếu gặp tri kỷ, thì hàng năm cũng là ngắn. Hùng Tín vẫn giao kết rộng rãi, thường có bạn bè đến chơi, rủ đi quận này phủ khác, cho nên cũng biết ngay chuyện Tần Thúc Bảo trỡ về sống cuộc đời ẩn dật, phụng dưỡng mẹ già. Biết được việc này Hùng Tín rất vừa lòng, cho nên lại càng thận trọng, chưa muốn ra mặt thi thố với đời vội, vẫn ngồi ở Nhị Hiền trang, cùng Kiến Đức luyện bàn võ nghệ. 

Quang âm thấm thoát, Kiến Đức ở Nhị Hiền trang đã được hơn hai năm. Một hôm, Hùng Tín có việc đi khỏi trang, Kiến Đức buồn bã ra cổng trang trại lang thang đi lại, thấy dưới bóng râm của rặng liễu bên đường, năm sáu nông phu ngồi nghỉ, có người đang ăn cơm, trước mặt là một dòng suối trong suốt, một chiếc cầu nho nhỏ bắc qua, phía nam cầu là một nhà sàn chênh vênh. Kiến Đức thong thả qua cầu, đến đứng bên nhà sàn, xem mấy con trâu lội qua suối, lại nghe cả tiếng suối chảy róc rách qua những khe đá, lẫn với tiếng chim hót thật êm ả, thanh bình. Lúc này thì lòng những quên chuyện lợi danh, để vui với cây cỏ chim muông. 

Bỗng thấy từ xa, một thanh niên cao lớn đi lại, đầu đội mũ cỏ, mình mặc áo ngắn, vai khoác tay nải, ngực rộng, lộ trần hai tay vạm vỡ. Trên đường có một con chó săn, nhận ra người ở xa tới, xông vào sủa rất hăng. Hảo hán thấy con chó hung dữ, giơ chân đá một cái, vào ngay đùi sau, chó văng ngay xuống giữa dòng suối. Mấy nông phu trông thấy, một người đứng lên la lớn. 
- Cái con chó sói này ở đâu đến? Dám đá con chó nhà của ta xuống suối thế này? 
Hảo hán đáp: 
- Anh không nhìn thấy sao? Sao lại thả rông để cho chó cắn người? 
Bác nông phu nổi giận, chạy lại, giơ tay đấm một cú. Hảo hán nhanh mắt, giơ ngay tay ra đỡ, thì đã thấy bác nông phu ngã lăn quay ra đất rồi, vội lồm cồm bò dậy, lu loa. Mấy nông phu thấy thế, xông lại, nhưng đều bị hảo hán đánh cho chẳng khác gì hoa rơi nước chảy. 
Kiến Đức đứng xem, hiểu rõ những nông phu của trang trại Hùng Tín đều là những người chỉ biết làm lụng, bị hảo hán đánh quá rát, vội chạy qua cầu lớn tiếng: 
- Anh kia ở đâu tới, mà dám giở thói càn rỡ ngang ngược đến thế? 
Hảo hán nhìn kỹ Kiến Đức, rồi mừng rỡ: 
- Thì ra là Đậu đại ca! Quả nhiên là ở đây thật? 
Vội vàng cúi lạy, Kiến Đức hỏi ngay: 
- Ta cứ tưởng là ai, hoá ra là Tôn hiền đệ, sao lại lạc bước tới đây? 
Hảo hán đáp: 
- Tiểu đệ có việc cần phải gặp đại ca, cũng may lại biết đại ca đem lệnh ái đi Phần Dương. Trước đây tiểu đệ có tới Giới Hưu tìm chẳng thấy đâu, may giữa đường gặp một người bạn họ Tề, mách bảo đại ca đang ở Nhị Hiền trang, tiểu đệ cứ tới đó tìm, thế nào cũng gặp. Vì vậy tiểu đệ tìm đến, may mắn lại gặp đại ca ở đây. 

Vốn là hảo hán này họ Tôn, tên An Tổ, cùng quê với Kiến Đức, dạo trước An Tổ có ăn trộm một con dê, bị huyện lệnh bắt giam, đánh đập chửi mắng trăm đường, An Tổ cầm dao đâm chết huyện lệnh, chẳng ai dám đứng ra truy bắt. Từ đó mang tên hiệu Mô dương công (1), rồi lẩn trốn trong trang trại Kiến Đức, có đến hơn năm trời. Sau đó gặp chuyện vua tuyển cung nữ, mới mỗi người một nơi, cho đến tận nay. Lúc này Kiến Đức mới bảo An Tổ: 
1 Mô dương công: ông bắt trộm dê. 
- Kia chính là Nhị Hiền trang! 
Rồi chỉ tay ra phía trước: 
- Đây chính là Đơn viên ngoại! 
Hùng Tín cưỡi một con ngựa to lớn, cùng với bốn năm người theo đang trên đường về trang trại, thấy Kiến Đức, vội nhảy xuống ngựa hỏi: 
- Vị này là ai? 
Kiến Đức đáp: 
- Đây chính là người bạn cùng quê Tôn An Tổ. 
Hùng Tín liền cùng Kiến Đức mời vào trong trang trại. An Tổ cúi chào Hùng Tín rồi thưa: 
- An Tổ này vốn là kẻ vong mạng, từ lâu đã nghe đại danh của viên ngoại như sét đánh bên tai, nay mới được thấy mặt, thật thỏa nguyện bình sinh. 
Hùng Tín đáp: 
- May được tiếp quý khách, cũng thấy rõ thịnh tình vậy. 
Rồi sai đầy tớ bày tiệc rượu. Kiến Đức hỏi An Tổ: 
- Vừa rồi anh bạn trẻ, nói có gặp một người bạn họ Tề, biết rõ ta ở đây, là người nào vậy? 
An Tổ đáp: 
- Năm ngoái tiểu đệ ở Hà Nam, ngẫu nhiên trong quán rượu, gặp một người họ Tề, tên Quốc Viễn, cũng có vẻ hảo hán ngang tàng, cùng nhau trò chuyện giang hồ, hết lời ngợi ca Đơn viên ngoại trọng nghĩa khinh tài, biết chuyện đại ca, nên mới biết chỗ mà tìm đến vậy. 
Hùng Tín hỏi: 
- Quốc Viễn giờ hiện ở đâu? 
An Tổ đáp: 
- Quốc Viễn đi Tần Trung tìm một người tên là Lý Huyền Thúy nào đó. Nói những chuyện này, mới thấy Quốc Viễn quen thuộc khá nhiều các bậc anh hùng hào kiệt, nhất định anh ta mai kia sẽ làm nên sự nghiệp. 
Hùng Tín than thở: 
- Đường đời thế đấy! Có được mấy đám bạn bè, chẳng ẩn nhẫn được mãi, rồi cũng phải xuất đầu lộ diện thôi! 
Tiệc rượu bày ra, mọi người ngồi vào. Kiến Đức hỏi tiếp: 
- Anh bạn trẽ hai năm vừa qua đi những đâu? Gần đây cảnh tượng bên ngoài ra sao rồi? 
An Tổ đáp: 
- Đại ca ẩn ở đây không rõ cảnh thế. Bên ngoài quả không ra đất nước nữa rồi. Tiểu đệ từ biệt đại ca, đi khắp Yên cho đến Sở cho đến Tề, trăm họ bốn phương, thì triều đình làm cho vợ chẳng thấy chồng, cha chẳng thấy con, mỗi người mỗi phương, của tiền tan nát, căm giận thấu xương, chỉ giận chưa kéo nhau làm giặc được để may ra còn sống nổi. Trước mặt, các nơi đều có người chiếm giữ, có nơi là tụ mà chính là tan, có nơi tan mà chính là tụ, nhưng nhìn lại, thì cùng chỉ thấy lợi vong nghĩa, cũng là phường tửu sắc cả thôi. Nếu được bậc huynh trưởng trí dũng kiêm toàn như hai đại ca ở đây đứng ra, xướng nghĩa tập hợp mọi người, anh em bốn phương nhất định sẽ trông gió mà theo cả. 
- Vừa rồi anh bạn trẻ, nói có gặp một người bạn họ Tề, biết rõ ta ở đây, là người nào vậy? 
An Tổ đáp: 
- Năm ngoái tiểu đệ ở Hà Nam, ngẫu nhiên trong quán rượu, gặp một người họ Tề, tên Quốc Viễn, cũng có vẻ hảo hán ngang tàng, cùng nhau trò chuyện giang hồ, hết lời ngợi ca Đơn viên ngoại trọng nghĩa khinh tài, biết chuyện đại ca, nên mới biết chỗ mà tìm đến vậy. 
Hùng Tín hỏi: 
- Quốc Viễn giờ hiện ở đâu? 
An Tổ đáp: 
- Quốc Viễn đi Tần Trung tìm một người tên là Lý Huyền Thúy nào đó. Nói những chuyện này, mới thấy Quốc Viễn quen thuộc khá nhiều các bậc anh hùng hào kiệt, nhất định anh ta mai kia sẽ làm nên sự nghiệp. 
Hùng Tín than thở: 
- Đường đời thế đấy! Có được mấy đám bạn bè, chẳng ẩn nhẫn được mãi, rồi cũng phải xuất đầu lộ diện thôi! 
Tiệc rượu bày ra, mọi người ngồi vào. Kiến Đức hỏi tiếp: 
- Anh bạn trẽ hai năm vừa qua đi những đâu? Gần đây cảnh tượng bên ngoài ra sao rồi? 
An Tổ đáp: 
- Đại ca ẩn ở đây không rõ cảnh thế. Bên ngoài quả không ra đất nước nữa rồi. Tiểu đệ từ biệt đại ca, đi khắp Yên cho đến Sở cho đến Tề, trăm họ bốn phương, thì triều đình làm cho vợ chẳng thấy chồng, cha chẳng thấy con, mỗi người mỗi phương, của tiền tan nát, căm giận thấu xương, chỉ giận chưa kéo nhau làm giặc được để may ra còn sống nổi. Trước mặt, các nơi đều có người chiếm giữ, có nơi là tụ mà chính là tan, có nơi tan mà chính là tụ, nhưng nhìn lại, thì cùng chỉ thấy lợi vong nghĩa, cũng là phường tửu sắc cả thôi. Nếu được bậc huynh trưởng trí dũng kiêm toàn như hai đại ca ở đây đứng ra, xướng nghĩa tập hợp mọi người, anh em bốn phương nhất định sẽ trông gió mà theo cả. 
Kiến Đức nghe An Tổ nói, đưa mắt nhìn Hùng Tín mà không 
Đáp. Hùng Tín lên tiếng: 
- Vũ trụ thênh thang, riêng hai chúng tôi, đáng kể vào đâu. Nhưng trời sinh ra thân mình bảy thước, nhất định phải làm nên sự nghiệp oanh liệt, tung hoành một phen, thành bại cũng do mệnh trời cả chỉ khác nhau ở chỗ chữ thời mà thôi vậy. 
An Tổ tiếp lời: 
- Nếu được hai vị huynh trưởng cứu dân ra khỏi chốn nước lửa, ra cửa một phen. Tiểu đệ hiện có khoảng hơn nghìn người, đang đóng giữ ở Cao Kê Bạc chờ các huynh trưởng tới sẽ hành sự. 
Kiến Đức đáp: 
- Chỉ khoảng nghìn người thì cũng chưa phải là nhiều, đến lúc làm rồi thì sẽ phải đông hơn, kẻo rồi vua không ra vua, cướp không ra cướp, thì chi cho bằng không ra khỏi cửa còn hơn! 
Hùng Tín đáp: 
- Ngắm núi cao, thưởng suối trong, nói cho cùng ra cũng không phải thân phận của anh em chúng ta. Việc thành bại cũng khó mà định liệu. Đậu đại huynh đã muốn ra đi, thì đệ Hùng Tín này xin thay lo liệu công việc nhà vậy. 
Đang chuyện trò, bỗng có người nhà đến báo tin tức xa gần, Hùng Tín nghe xong, quay lại, đập bàn mà than thở: 
- Thật đúng là một tên vua ngu tối, đến bây giờ mà vẫn còn lo tu bổ Trường Thành, lo đem binh đi chinh phạt Cao Ly, chẳng những nhiễu nhương dân chúng, mà còn tự làm nước mất nhà tan cho mà xem. Dù có được Lai Tổng quản tài cán đến đâu chăng nữa, thì nhà lớn đã xiêu, một cây cột khôn chống đỡ. Hôm trước Từ Mậu Công đến đây, Hùng Tín đã nhờ đưa thư cho Tần Thúc Bảo. Nay mà Lai Tổng quản xuất chinh thế này, làm sao mà lại không phiền đến Thúc Bảo cho được, rồi ra Thúc Bảo cũng khó mà ngồi ngắm hoa, nghe chim hót được đâu. 
An Tổ tiếp: 
- Người xưa nói rất đúng: "Dẫu có trí khôn, không bằng thừa thể”. Nay mà không tìm thấy cách tung hoành, thu phục nhân tâm, để đến nỗi lòng người ngày càng ly tán, tìm nơi tụ tập rồi, thì sẽ không còn đâu thời cơ. 
Kiến Đức tiếp: 
- Đây cũng không phải chuyện lo gần nghĩ xa. Nhưng quả là có hai việc: Ơn che chở của Đơn nhị ca thật là chu đáo, chưa phải một lúc mà bỏ ngay đất này được, hai là còn cháu gái vẫn phải nhờ cậy Đơn nhị ca, xin phiền nhị ca lo liệu giùm cho. 
Hùng Tín đáp: 
- Đậu đại huynh nói thế sai rồi! Đại phàm cha con anh em, dẫu có chuyện lợi danh nữa, cũng khó mà có thể ngăn cách dược. Huống chi chuyện bạn bè sum họp, chia tay, lại thêm lệnh ái cùng với cháu trong nhà thân thiết quá ruột thịt, con của đại huynh cũng là con của Hùng Tín này. Đại huynh cứ đi trước, công việc thành bại ra sao, về đây đón lệnh ái cũng chưa muộn. Còn về phía Hùng Tín này, nếu có chuyện thay đổi, thì sẽ đưa lệnh ái đến tận chỗ đại huynh, xin cứ yên lòng. 
Kiến Đức nghe nói thế, cũng ứa nước mắt, nghẹn ngào nói: 
- Nếu được như vậy, cha con Kiến Đức này xin ghi xương khắc cốt vậy! 
Chí đã quyết, Kiến Đức thu thập hành lý, dặn dò con gái, cùng với Hùng Tín say sưa chuyện trò suốt đêm. Sáng ngày ra, Hùng Tín lấy hai gói bạc, một gói năm mươi lạng, giao tặng Kiến Đức, một gói hai mươi lạng, đưa tiễn An Tổ. Cả hai từ tạ lên đường. 
Chính là: 
Lòng dạ anh hùng sáng tựa sao 
Gặp nhau bèo nước chẳng rời đâu 
Những phường xảo quyệt, vô nhân nghĩa 
Chẳng thể giao du đến bạc đầu. 

*** 
Nay lại nói tiếp chuyện Tần Thúc Bảo, từ ngày bị Ma Thúc Mưu đuổi về, chuyển ra ở ngoài thành Tế Châu, ngày ngày tưới hoa trồng trúc, sống trong cảnh thanh nhàn, thấm thoát đã hơn một năm trôi qua.

Một hôm đang lững thững dạo chơi phía ngoài vườn, dưới gốc một cây du lớn, đưa mắt nhìn ra phía bãi trước thấy một hảo hán dung mạo khôi ngô, dáng vẻ đàng hoàng, dắt một con ngựa, đội một chiếc nón lá đi về phía Thúc Bảo lễ phép hỏi: 
- Xin chỉ giùm tiểu đệ Tần gia trang đi lối nào? 
Thúc Bảo bèn hỏi: 
- Hiền đệ người ở đâu đến? Tìm Tần gia trang có việc gì? 
Hảo hán đáp: 
- Tiểu đệ là người nhà của Đơn viên ngoại ở Lộ Châu, được sai đem thư đến Tần Thúc Bảo ở Tế Châu, hỏi thăm đều được chỉ đã dọn nhà ra vùng này. 
Thúc Bảo vội nói: 
- Hiền đệ định tìm Thúc Bảo, thì chính là tiểu đệ rồi vậy! 
Rồi cùng hảo hán dắt ngựa vào nhà. Hảo hán cởi nón lá, xốc lại quần áo. Thúc Bảo cũng vuốt lại áo ngoài, cùng nhau làm lễ lạy chào. Hảo hán lấy thư đưa. Thúc Bảo mở ra xem, thì đúng là thư của Hùng Tín, lâu ngày cách mặt, biết chuyện Thúc Bảo rời khỏi Thư Dương về quê nên viết thư hỏi thăm tin tức. Cuối thư lại giới thiệu hảo hán cầm thư, là Từ Thế Tích, tự Mậu Công, người vùng Ly Hồ, gần đây cũng là bạn "bát bái chi giao" của Hùng Tín, nhân Mậu Công đến Hoài Thượng thăm người thân, nên Hùng Tín nhờ đến thăm Thúc Bảo. Thúc Bảo xem xong, nói: 
- Hiền đệ đã là bạn bè của Đơn nhị ca, thì cũng chính là bạn của Thúc Bảo này vậy. 
Liền sai bày bàn, thắp hương, làm lễ kết giao huynh đệ, thề cùng sống chết. Sau đó dọn tiệc rượu cùng ngồi. Hào kiệt gặp hào kiệt, chuyện lập tức thân mật đầy vẻ thân thiết. Thúc Bảo rất mừng, mấy lần sai lấy thêm rượu, thức nhắm. Lúc to, lúc nhỏ, cùng nhau bàn chuyện người đời, thế sự. 
Rượu đã ngà say, Thúc Bảo vốn có ý ngại Mậu Công tuổi còn ít, giao du chưa nhiều, hiểu chưa rộng nên hỏi thêm: 
- Mậu Công hiền đệ, hiền đệ ở chỗ Đơn nhị ca lại đây, có thấy bậc anh hùng nào đến Nhị Hiền trang không? 



Mậu Công đáp: 
- Tiểu đệ tuổi chưa nhiều, nhưng cũng đã thấy lắm sự đời, nghe lắm tình người. Chúa thượng thì đến cha đến anh cũng giết, đạo lớn chẳng vững, nói gì đến chuyện tu dưỡng luân thường, thi hành nhân nghĩa mà chỉ chú trọng những việc thổ mộc, xây đắp Đông Kinh, đào sông khơi ngòi. Từ Trường An cho chí Dư Hàng, đất trời như đảo lộn, dân chúng đói rách, từ hàng dặm lũ lượt kéo tới để phu dịch, năm này chất năm khác, dẫu có về được thì vườn cũ, ruộng xưa đã hoang tàn, còn sức lực đâu mà khai phá, chỉ còn cách tụ tập nhau ở hang núi, cùng nhau làm giặc. Chúa thượng ngày càng hoang dâm xa xỉ, ngày hôm nay thì từ Đông Kinh ngự chơi Giang Đô, ngày mai lại từ Giang Đô ngự về Đông Kinh. Lại còn muốn tu bổ Trường Thành, ngự du Hà Bắc, chẳng lúc nào xa giá chịu yên, việc cung đốn, thiên hạ làm sao chịu nổi. Bọn gian thần, sớm tối còn ngang ngược trăm phần, đón ý vua để làm điều ác nghiệt. Chẳng cần đến bốn năm năm nữa, chín châu sẽ đại loạn, chính vì vậy mà tiểu đệ cũng muốn tìm cách kết giao với các bậc hảo hán, tìm cho kỳ được minh chủ. Cứ như con mắt của tiểu đệ thì các bậc như Đơn nhị ca, Vương Bá Đương, đều có thể là những vị tướng giỏi. Nhưng nếu nói tới việc bàn mưu tính kế nơi màn trướng, quyết thắng ngoài nghìn dặm, thì sợ chưa đủ tài. Còn ngoài ra thì không thiếu hạng ếch ngồi đáy giếng, chứ bậc minh quân thì quả là tiểu đệ chưa từng được gặp vậy. Kẻ này người khác, nhân thời mà chiếm cứ nơi nọ chỗ kia, nhưng sợ rồi đến cái đầu mình cũng chẳng giữ nổi. Đáng buồn thay, bậc minh quân vẫn chẳng thấy đâu! 
Thúc Bảo nói: 
- Hiền đệ đã gặp Lý Huyền Thúy chưa? 
Mậu Công đáp: 
- Tiểu đệ cũng đã gặp. Huyền Thúy rõ là kẻ hơn người, nhiều thông minh tài chí, lại dũng lược, biết lấy lễ mà kết giao với bậc hào kiệt, thật đáng là bậc anh hùng đời này. Nhưng thực ra thì quá ỷ vào tài năng của mình, không tin kẻ khác. Mà theo ý của tiểu đệ một vị minh chủ mở nước, khó không phải ở chỗ hạ mình để chiêu nạp nhân tài mà cái chính là ở chỗ biết dùng họ, biết quý cái mưu lược, tính toán của kẻ khác, chứ không phải chỉ khư khư ở tài chí của mình. 
Cho nên nếu đặt ở ngôi chân chúa, thì Huyền Thúy sợ rằng cũng chưa xứng, Đại huynh có thấy thế chăng? 
Thúc Bảo vẫn hỏi: 
- Cứ như hiền đệ nói, thì tài năng của bậc tướng quân, thì xứng đáng hơn cả có lẽ là bạn thân của tiểu đệ: Trình Tri Tiết ở Đông A, vừa khỏe mạnh, vừa dũng cảm. Trước đây, Lý Dược Sư có nói chuyện với tiểu đệ: "Vượng khí hiện rõ ở vùng Thái Nguyên". Nên Dược Sư cũng đang ở vùng này tìm kiếm. Còn như tiểu đệ với hiền đệ thì thuộc loại người nào? 
Mậu Công cười đáp: 
- Thì cũng chỉ là bậc hào kiệt một thời. Ra trận giữ thành, chiếm đất, tiểu đệ không theo được đại huynh. Tính kế bày mưu, đại huynh lại không bằng tiểu đệ. Nhưng đều là những kẻ phò tá chân chúa, lập công một thuở, nên đều phải tìm chân chúa mà thờ. Chứ không thể có tài năng đứng đầu vậy. 
Thúc Bảo tiếp: 
- Người tài trong thiên hạ nhiều lắm, nhưng cứ như lời hiền đệ, thì chỉ có vậy thôi à? 
Mậu Công đáp: 
- Đúng là hào kiệt trên đời nhiều thật, tầm mắt chúng ta có hạn, nên phải còn xem xét thêm nhiều. Nhưng nếu bàn tới bậc tướng sĩ thì vẫn còn có thể trông cậy vào lớp trẻ phía sau. Mới rồi tiểu đệ có thấy một trong những người này; không biết đại huynh có biết không? 
Thúc Bảo hỏi: 
- Người nào thế? 
Mậu Công đáp: 
- Trên đường tìm đến đây, tiểu đệ qua thôn trước mặt, gặp lúc hai con trâu đang húc nhau, chắn ngay giữa đường. Tiểu đệ bèn dừng ngựa bên cạnh đứng nhìn, thấy có một đứa trẻ, bất quá mười tuổi, chạy đến gào lớn: "Đồ súc sinh, không được húc nhau, mau mỗi con mỗi ngả ngay!". Hai con trâu vẫn không chịu nghe, bốn sừng vẫn như quấn lấy nhau, đứa trẻ liền nạt tiếp: "Ra ngay!". Rồi mỗi tay túm sừng một con, hai chân xoãi rộng. Lập tức mỗi con một phía. Đứa trẻ liền nhảy lên lưng một con, thổi sáo đi mất. Tiểu đệ đang định hỏi họ tên, thì thấy phía sau có một đứa trẻ khác chạy tới gọi: "Anh họ La kia ơi! Làm sao mà sừng trâu nhà em gãy mất một nửa thế này?" Vì vậy tiểu đệ biết được đứa trẻ này họ La, chăn trâu ở đây, nên nhà có lẽ cũng chẳng xa đâu. Nó đã có sức lực như vậy, nếu có người bảo ban võ nghệ, nhất định sẽ trở thành một võ tướng tài năng. 
Đâu chẳng có người tài, 
Chưa biết nhau đấy thôi 
Đánh thành rồi cướp trại 
Lưới thỏ dễ tìm tòi. 

Hai người tâm đầu ý hợp, cầm tay dài ngắn trò chuyện suốt ba ngày trời, Mậu Công vì đã quyết ý đến Ngõa Cương xem Địch Nhượng động tĩnh ra sao. Thúc Bảo bèn sắm quà hậu đưa tiễn, viết thư phúc đáp Đơn Hừng Tín, thêm một thư nhờ Hùng Tín chuyển cho Ngụy Trưng. Nâng chén từ biệt, cả hai ân cần dặn dò, nếu gặp được minh chủ, tiến dẫn lẫn nhau, để cùng lập nghiệp. 
Thúc Bảo đưa tiễn xong, lững thững quay về, thấy từ ven rừng tiếng la hét ồn ào, một toán trẻ con có đứa mười bảy, mười tám, cũng có đứa khoảng mười lăm, mười sáu, mười hai, mười ba, kể cả có đến ba bốn chục. Sau rốt là một đứa khoảng mười tuổi. Trên người mỗi một chiếc quần rách, mình để trần, hai tay nắm chặt, mất long lanh tròn xoe, chạy theo đuổi đánh bọn này. Bọn này có đứa lấy đất đá ném túi bụi, đứa trẻ này mặc cho đất đá trúng người, vẫn lau xả vào bọn kia. Thúc Bảo thầm nghĩ: "Đây có lẽ chính là đứa bé Mậu Công kể hôm trước chăng?". 
Hai bên ẩu đả, một đứa trong bọn bị đuổi riết chạy về phía Thúc Bảo ngã sóng soài. Thúc Bảo đỡ dậy hỏi: 
- Này cháu, thằng bé kia là con nhà ai mà dữ tợn thế? 
Đứa bé ngã vừa khóc vừa nói: 
- Đó chính là thằng ở chăn trâu cho nhà Trương Thái Công. Ngày ngày đều đóng vai tướng quân, bắt chúng cháu hầu hạ. Nó thì nằm trên bãi cỏ ngủ suốt, bắt chúng cháu thay nhau chăn trâu cho nó. Không chịu chăn thì nó đánh. Hầu hạ không vừa ý, cũng bị nó đánh. Chúng cháu đánh không lại, nhưng cũng không chịu hầu hạ nó được nên đã nhiều lần rủ nhau đánh lại nó, có cả nhiều đứa hơn nó sáu bảy tuổi, vẫn không làm gì được, nên rồi vẫn phải nghe nó sai phái. 
Thúc Bảo nghĩ: "Mậu Công nói thằng bé họ La, đường này lại là người họ Trương. Hay lại là đứa ở chăng?". Rồi chạy lại, nắm tay thằng bé kia, bảo: 
- Chú em hãy từ từ xem nào! 
Thằng bé giương to hai mắt hỏi: 
- Can hệ gì đến bác. Nó họ hàng gì với bác mà bác định giúp nó một tay chăng ? 
Thúc Bảo nói: 
- Ta không muốn đánh nhau với chú em đâu, mà chỉ muốn hỏi chú em vài câu thôi. 
Thằng bé đáp: 
- Nếu muốn nói chuyện gì, hãy đợi cháu cho thằng bé tóc vàng này một trận đã. 
Nói rồi cố giằng tay ra kỳ được, nhưng làm sao mà thoát khỏi tay Thúc Bảo. 
Đang giằng co, thì thấy bọn trẻ vỗ tay reo ầm: 
- Tới rồi! Tới rồi! 
Rồi một ông già bước tới, nắm lấy trái đào của thằng bé mà kéo. Thúc Bảo nhận ra Trương xã trưởng ở thôn trước. Trương xã trưởng lớn tiếng mắng: 
- Bảo mày chăn trâu, trâu chẳng chăn, chỉ chuyên đánh nhau. Từ nay trở đi thì ngồi ở nhà thôi, chứ còn cứ đánh con nhà người ta thế này, ngộ nhỡ xảy chuyện gì, ta làm sao mà cáng đáng nổi? 
Thúc Bảo lên tiếng khuyên giải: 
- Xin thái công nguôi giận, đây liệu có phải lệnh tôn chăng? 
Trương xã trưởng đáp: 
- Chúng tôi nào có con cháu thế này. Đây chính là con ông láng giềng La Đại Đức, vợ con đều chết, chỉ còn mỗi thằng này. Đại Đức bị bắt đi đào sông, đem thằng này nhờ lão cai quản hộ. Cơm nước nuôi trong nhà, rồi ngày ngày chăn trâu. Gần đây nghe nói Đại Đức đã chết ở chỗ đào sông, lão đành phải nuôi thằng báo hại này vậy. 
Thúc Bảo nói: 
- Chuyện này không có gì đáng ngại. Thái công cứ để thằng bé này cho Tần Thúc Bảo, tiền thuê đã trả bao nhiêu, xin trả lại đủ cho thái công. 
Trương xã trưởng đáp: 
- Cũng chẳng có thiếu đồng xu nào đâu. Tần đại ca đã muốn nuôi, thì xin cứ nhận cho. Nhưng mai kia có xảy ra chuyện gì, xin nhớ kỹ cho là lão đây không có tội lỗi đâu nhé. 
Thúc Bảo cười: 
- Chuyện này thì thái công đừng ngại. Nhưng không biết chú em có bằng lòng không? 
Thằng bé họ La quay lại hỏi Trương xã trưởng: 
- Thái công định giao cháu cho người này sao, làm sao mà đi với người không quen biết gì cả cho được? 
Trương xã trưởng quát: 
- Cai quản mày không được, lão chỉ ôm lấy bực mình suốt ngày này sang ngày khác.
Nói xong bỏ đi, Thúc Bảo nhỏ to: 
- Chú em đừng lo lắng gì cả. Ta là Tần Thúc Bảo, trong nhà không có anh em, chỉ có mẹ già cùng vợ, một con trai nhỏ, nên cũng muốn kết anh em với chú, cứ về nhà ta rồi sẽ xong cả thôi. 
Họ La bỗng sáng mắt nói: 
- Bác chính là Tần Thức Bảo sao. Cháu là La Sĩ Tín, ngày thường cháu vẫn nghe người trong thôn nói bác bỏ quan về ở đây, lại kể bác rất giỏi võ nghệ, dùng thương, múa giản rất điêu luyện. Nếu được bác thương đến cảnh bố mẹ mất, anh em không mà bảo ban cho, đừng nói tới việc kết giao anh em khác họ, mà dẫu có làm tôi tớ, cháu cũng tình nguyện theo ngay. 
Rồi định cúi lạy, Thúc Bảo vội giơ tay cản lại: 
- Đừng chào lạy vội, hãy chờ về nhà, trước tiên hãy gặp mẫu thân, rồi sau sẽ làm lễ kết giao cũng chưa muộn. 
Thúc Bảo đưa Sĩ Tín về nhà, trình mẫu thân, rồi sai Trương Thị tìm một bộ quần áo ngắn cho Sĩ Tín mặc. Sĩ Tín lạy chào Tần mẫu, thưa: 
- Cháu lúc nhỏ cũng chẳng có mẹ, nay được có lão mẫu đây, thật là mẹ của cháu vậy. 
Rồi đốt nến thắp hương, làm lễ kết nghĩa, bái lạy tám lạy, để rồi từ lúc ấy gọi Tần mẫu là mẫu thân. Sau nữa cùng Thúc Bảo, mỗi người vái bốn vái, nhận nhau là anh em, xưng là đại huynh, tiểu đệ. Cuối cùng, lạy chào Trương thị, nhận làm chị dâu, Trương thị cũng coi như em trai vậy. 
Đại phàm sức lực, khí huyết người ta, khi không có chỗ dùng, thường phải tìm những việc bậy bạ để khuây khỏa, phát tiết. Nay có chỗ thi thố, thì chuyên tâm gắng sức làm cho tốt, nên bao tính cách ngang ngược đều như mất đâu cả. Người ta không gặp kẻ bảo ban dạy dỗ, thì rồi cũng đến uổng phí cả năng lực, nay như thép gặp lò, khi gặp thầy dạy giỏi, tự nhiên thuần phục, chịu cho sai bảo, vì vậy từ một La Sĩ Tín ngang dọc, biến thành một người nền nếp, chăm chỉ. Thúc Bảo ngày ngày dạy cho võ nghệ, sớm tối rèn luyện, mỗi giờ mỗi hơn. 
Một hôm Thúc Bảo cùng Sĩ Tín đang tập luyện trên sân, thấy một kỳ bài quan, cưỡi ngựa, mình ngựa còn đầm đìa mồ hôi, tới gần, lên tiếng hỏi: 
- Đây có phải là Tần gia trang chăng? 
Thúc Bảo đáp: 
- Đại nhân hỏi Tần Thúc Bảo chăng? 
Kỳ bài quan đáp: 
- Đúng, cần gặp Tần Thúc Bảo! 
Thúc Bảo nhận: 
- Thúc Bảo chính là tiểu nhân đây! 
Rồi bảo Sĩ Tín dắt ngựa, mời vào nhà. Kỳ bài quan vái chào xong, lên tiếng: 
- Vâng lệnh của Hải đạo đại nguyên soái, đem theo tướng lệnh, đến mời tướng quân làm tiền bộ tiên phong. 
Thúc Bảo không cầm tướng lệnh, chỉ đáp: 
- Tiểu nhân cũng vì có mẹ già tuổi cao, nhiều bệnh, nên về ẩn ở đây không ra nhận quan chức đã lâu. Ngày ngày cày cuốc, gân sức hao mòn, sao có thể gánh vác được trọng trách này. 
Kỳ bài quan nói: 
- Tướng quân không nên chối từ. Trọng trách này bao nhiêu người ước mơ mà không được, chẳng nói đến chuyện thê phong tử ấm, chỉ nói tới chuyện lương tiền, lộ phí cũng đủ để cả nhà phú quý. Tướng quân lại càng không nên phụ tình sâu nghĩa nặng của Lai Nguyên soái, ngu ý của hạ quan này là thế. 
Thúc Bảo đáp: 
- Quả thật là mẹ già tuổi cao sức yếu! 
Rồi dọn cơm rượu thết đãi kỳ bài quan, lại đưa tặng hai mươi lạng bạc làm tiền lộ phí, viết thêm một lá thư, nhờ kỳ bài quan nói thêm ít nhiều. Kỳ bài quan thấy Thúc Bảo kiên quyết, đành lên ngựa ra đi. 
Vốn là Lai Tổng quản sau khi nhận được sắc chỉ của vua Tùy, liền nghĩ: "Từ Đăng Lai tới Bình Nhưỡng, cả đường thủy lẫn đường bộ, dẹp cướp chống giặc, nhất định phải có được một võ tướng hơn người. Tần Quỳnh vốn có sức khỏe vạn người khôn địch, cử làm tiền bộ, thì chẳng còn điều gì đáng phải lo ngại". Liền sai kỳ bài quan đi mời, không ngờ thấy kỳ bài quan về thưa: 
- Tần Quỳnh viện cớ mẫu thân bệnh tật già nua không chịu nhận chức, xin về trình nguyên soái rõ. 
Lai Tổng quản xem thư xong liền nói: 
- Tần Quỳnh chỉ vịn chuyện mẹ già, không chịu nhận chức, nhưng từ xưa muốn có trung thần, phải cầu ở cửa nhà con hiếu. Tần Quỳnh đã không phụ mẹ già, há lại có thể phụ chủ hay sao. Huống chi ta hiện nay đang không thiếu dưới trướng một người như Tần Quỳnh được. 
Lai Tổng quản lại nghĩ thầm: "Ta đã có cách này!" Liền viết một phong thư, nói với kỳ bài quan: 
- Ta sai ngươi đến phủ Trương Quận thừa ở Tế Châu, nhờ đến khuyên Tần Quỳnh nhận chức mới xong. 
Kỳ bài quan lại lên ngựa, đến Tế Châu vào phủ Trương Quận thừa. 
Viên Quận thừa này vốn họ Trương, tên Tu Đà, là người trung hậu, văn võ toàn tài, có lòng thương dân, kính trọng hiền tài, xứng đáng là bậc hào kiệt trong đời. Xem xong thư của Lai Tổng quản. Tu Đà lại hỏi kỹ thêm mọi chuyện qua kỳ bài quan, từ lâu đã nghe tiếng Thúc Bảo là bậc anh hùng, nay thấy Thúc Bảo lại giữ ý không chịu nhận chức, thấy rõ Thúc Bảo không những có tài, mà còn có phẩm cách hơn người. Liền sai đem ngựa, tìm đến Tần gia trang ngay. Được người nhà báo cho biết Trương Quận thừa tới thăm, Thúc Bảo cũng vì thấy đây là quan bản quận, không tiện gặp mặt, cho nên sai nói thác là không có nhà. Trương Quận thừa liễn xin gặp Tần mẫu, Tần mẫu đành phải ra tiếp. Sau khi chào lễ, Trương Quận thừa lên tiếng: 
- Lệnh lang vốn dòng dõi tướng môn, anh hùng hơn người. Nay quốc gia hữu sự, là lúc kiến công lập nghiệp, sao lại chối từ không nhận chức? 

Tần mẫu đáp: 
- Cháu nhà chỉ sợ mẹ già bóng xế cành dâu. Trong người cháu lại cũng có bệnh, nên không dám mãi theo đòi việc quân. 
Trương Quận thừa cười: 
- Phu nhân tuy tuổi cao, nhưng tinh thần vẫn sáng suốt, hà tất quá quyến luyến. Còn như bệnh tật, thì làm kẻ trượng phu, nên chọn cách chết da ngựa bọc thây, chẳng hơn là nằm trên giường bệnh, trong vòng tay đàn bà hay sao. Phu nhân chẳng nghĩ đến tấm gương mẫu thân Vương Lăng sao? (1) Nếu phu nhân đã dạy, thì lệnh lang thế nào chẳng phải nghe. Ngày mai, hạ quan lại sẽ xin đến gặp vậy! 
1 Vương Lăng thờ Lưu Bang, mẹ Vương mẫu bị Hạng Võ bắt. Lăng đi sứ sang Hạng Võ. Hạng Võ bắt Vương mẫu dụ con theo mình, Vương mẫu ngầm dặn con phải tận tụy thờ Lưu Bang, rồi cầm kiếm đâm cổ chết, để con khỏi do dự. Về sau Vương Lăng làm đến tả thừa tướng đời Hán (Từ Hải). 
Nói rồi đứng dậy ra về. 
Tần mẫu liền nói với Thúc Bảo: 
- Khó mà không nghe Trương Quận thừa cho được, con lại phải đi một chuyến thôi. Chỉ nhờ trời phù hộ, công thành danh toại, rồi lại được về sum họp với gia quyến! 
Thúc Bảo vẫn trù trừ không quyết, Sĩ Tín liền khuyên: 
- Chuyện bình Liêu này, với tài cán của đại huynh, nhất định sẽ thành công, công việc trong nhà đã có chị cáng đáng. Giặc cướp giờ nhiều như ong như kiến, nếu không Sĩ Tín này cũng xin theo giúp đại huynh một phen, nhưng cũng xin ở nhà, trông coi cửa ngoài, bọn trộm cướp tất không dám bén mảng đâu! 
Ba người bàn định xong xuôi, ngày hôm sau, Thúc Bảo lại sợ Trương Quận thừa lại đến, thì thật khó nói, nên vội vào thành, nai nịt gọn gàng, vào phủ gặp Trương Quận thừa. Quận thừa cả mừng, gọi kỳ bài quan, đem tướng lệnh giao ngay cho Thúc Bảo. Quận thừa lại sai mang ra hai gói bạc lớn: một gói để Thúc Bảo làm lộ phí lên đường, một gói để Thúc Bảo phụng dưỡng mẹ già. Thúc Bảo không dám chối từ, xin cáo biệt ra về. Quận thừa còn cầm tay căn dặn. 
- Với tài năng của hiền huynh, lần này nhất định "Mã đáo công thành". Binh tướng Cao Ly tuy ít, nhưng hay dối trá, nên phải chia quân ra mà đóng giữ. Đường ven biển binh tướng càng ít hơn, hiền huynh lại đi tiền bộ, nhớ đừng giao chiến ở vùng sông Liêu Thủy, áp Lục Giang. Duy chỉ có sông Bối Thủy, cách Bình Nhưỡng không xa, vốn là quốc đô của Cao Ly, phải nhân lúc không phòng bị mà đánh thẳng vào. Lúc này địch có quay về, thì cả hai cánh thủy bộ cùng hiệp lực nhất định sẽ thắng. 
Thúc Bảo đáp: 
- Những lời chỉ giáo sáng suốt của đại nhân, xin nhớ kỹ? 
Rồi cảm tạ ra khỏi phủ, về sắp xếp việc nhà, chuẩn bị hành trang, cùng kỳ bài quan lên đường. Sĩ Tín tiễn đến hai ba dặm đường, căn dặn đủ điều, kẻ đi người ở rồi mới quay về. 

Thúc Bảo cùng kỳ bài quan, đi suốt ngày đêm, tới tận Đăng Châu, vào soái phủ ra mắt, Lai Tổng quản cả mừng, liền giao cho Thúc Bảo hai vạn thủy quân, thuyền thanh long, hoàng long mỗi loại trăm chiếc. Chỉ chờ có tin tức đưa về của Tả Vũ vệ tướng quân Chu Pháp Thượng, xem vua Tùy đã ra khỏi kinh đô, là lập tức xuất quân.
Chính là: 

Cờ bay rợp biển oai ghê nhỉ, 
Buồm gióng Cao Ly thế dữ chưa?

HỒI 38

Dương Nghĩa Thần ra quân phá giặc cỏ,
Vương Bá Đương dùng mẹo cứu bạn hiền.

Từ rằng: 
Ấy việc đời như hơi bong bóng 
Bọn ngu si lên giọng ta đây 
Gươm đao chật đất đùn mây 
Rắn rồng vật lộn, lang sài cắn nhau 
Rồi gió thảm mưa sầu cũng hết 
Ngẫm nguồn cơn coi chết như về 
Còn ra cái xác con ve 
Vợ chồng nam bắc lỗi bề keo sơn 
Góc trời bể lần khân đắm đuối 
Để cái danh làm lụy cái thân 
Mày chau một chén rượu tàn 
Mưu càng sâu, nỗi oán hờn càng to 
Hạc kêu vượn hú mà lo. 

Theo điệu "ý nan vong” 
  
  
Người ta sinh ra gặp buổi thái bình, kẻ có gia tư sản nghiệp, đều nghĩ tới chuyện vui thú ruộng vườn, bậc anh hùng hào kiệt, nếu chẳng có chỗ thi thố tài năng, cũng chỉ đành nhìn trời mà than dài. Gặp buổi ly loạn, người người đều nghĩ mình đáng tài võ tướng, xứng mưu Gia Cát Khổng Minh. Có biết đâu chân ít giả nhiều, để rồi bỏ thân nơi đất khách, làm trò cười cho người đời. Bởi vậy chính kẻ biết thời, hiểu mình mới xứng tài tuấn kiệt. Nhưng nào đã mấy ai? 

*** 

Chưa nói chuyện Tần Thúc Bảo ở Đăng Châu rèn luyện thủy quân, chỉ chờ Dượng Đế rời đô là xuất binh chinh phạt Liêu Đông, hãy nói chuyện Dượng Đế, một hôm ngồi vui tiệc với Tiêu Hậu, nói: 
- Vương Hoằng đóng thuyền rồng, tưởng cũng sắp xong. Bộ công lo việc may buồm gấm, bện dây lụa ngũ sắc cũng đã đầy đủ. Chỉ còn việc tuyển đội "Điện cước nữ" của Cao Xương là chưa biết đến đâu rồi. 
Tiêu Hậu bàn: 
- "Điện cước nữ” nghe tên thì có vẻ đẹp, nhưng thiếp sợ sức lực con gái yếu đuối, thuyền rồng vừa lớn vừa nặng, dẫu có hàng trăm cô gái nữa, liệu có kéo nổi. Bằng không phải cho cả nội thị giúp vào, mới có thể xong việc. 
Dượng Đế đáp: 
- Dùng con gái kéo thuyền rõ ràng là rất đẹp. Nếu thêm cả nội thị vào, sợ không giữ được vẻ tự nhiên nữa. 
Tiêu Hậu thưa: 
- Nhưng nếu chỉ dùng toàn con gái, thuyền khó mà chạy nhanh cho được. 
Dượng Đế hỏi: 
- Như thế thì làm thế nào bây giờ? 
Tiêu Hậu ngừng chén, nghĩ ngợi một hồi rồi thưa: 
- Người xưa dùng dê kéo xe ngự, trông cũng rất tao nhã. Nay ta hãy chọn lấy khoảng một nghìn con dê to khỏe, có thể kéo được mười chiếc thuyền rồng. Cũng như kéo xe ngự vậy thôi, rất thanh tao, cứ xen lẫn giữa người với dê lại càng ngoạn mục. 


Dượng Đế cả mừng: 
- Hoàng hậu thật chiều ý trẫm hết lòng. 

Liền sai nội thị truyền dụ cho hữu ty, chọn ngay một nghìn con dê khỏe mạnh, lông mượt, dáng đẹp để chuẩn bị kéo thuyền. 

Hoàng hậu cùng chúng phu nhân bận rộn sắp xếp cung nữ, hành trang cho cuộc ngự du Giang Đô, thì thấy trung môn sứ Đoàn Đạt đem tấu chương dâng. Dượng Đế xem qua, thì ra Tôn An Tổ cùng Đậu Kiến Đức, chiếm cứ vùng Cao Kê Bạc, dẫn quân đánh vào Trác Quận, giết chết thái thú Quách Huyến, lại liên kết với Trương Kim Xứng ở Hà Khúc, và bọn Cao Sĩ Đạt ở Thanh Hà, cả ba làm thành một thế chân vạc, tương cứu lẫn nhau, cướp bóc các quận huyện, quan binh địa phương nhiều lần đánh dẹp không nổi vì vậy phải tâu về triều đình, xin binh tiễu trừ. Dượng Đế xem xong, nổi giận: 
- Lũ đầu trâu mặt ngựa này dám ngang ngược đến thế. Nay cần một viên quan đại tướng, kéo đến quét sạch, đem lại yên ổn cho vùng này mới xong. 

Nhưng nghĩ mãi vẫn không biết cử ai cho xứng. Lúc này quý nhân Viên Tử Yên đứng bên cạnh thưa: 
- Có thái bộc Dương Nghĩa Thần, nghe nói tài kiêm văn võ, không biết hiện giờ trấn thủ ở đâu? 
Dượng Đế kinh ngạc hỏi: 
- Quý nhân làm sao mà biết được Nghĩa Thần tài kiêm văn võ? 
Tử Yên thưa : 
- Thái bộc vốn là cậu của thiếp. Thiếp tuy chưa bao giờ thấy mặt, nhưng từ nhỏ đã được nghe phụ thân thiếp lúc sinh thời thường ngợi ca tài năng của thái bộc, vì vậy thiếp mới biết. 
Dượng Đế nói: 
- Thì ra Dương Nghĩa Thần là cậu của quý nhân. Nếu quý nhân không nhắc kịp, thì ta cũng quên mất người này. Nghĩa Thần hiện đã về chí sĩ, đúng là một người có tài. 

Nói xong, liền viết sắc chỉ cử thái bộc Dương Nghĩa Thần làm Hành quân đô tổng quản. Chu Vũ, Hầu Kiều làm tiên phong, dẫn mười vạn tinh binh, chinh thảo giặc cỏ vùng Hà Bắc. Truyền nội quan đem sắc chỉ cho bộ Binh, bộ Lại xong, Dượng Đế nói với Tử Yên: 
- Nghĩa Thần thuở xưa chỉ là có nghĩa quân thần, nay lại thêm quốc thích, nhất định sẽ không phụ lòng tin cậy của trẫm. Ngày khải hoàn, trẫm sẽ cho gọi vào cung, để được gặp quý nhân. 
Từ Yên cúi đầu tạ ơn. 
Chính là: 

Số trời muôn dứt nhà Tùy 
Hôn quân cố cưỡng sao đây 
Tà nịnh cặp kè bên nách 
Trung trinh hết cách cứu nguy. 

Lại kể, Dương Nghĩa Thần tiếp được sắc chỉ, bèn tập họp tướng sĩ chọn ngày tốt phát binh, vài ngày sau, binh tướng đã kéo tới cửa Tề Cừ. Chỉ mới nghe trong vòng bốn mươi dặm quanh vùng này, là nơi đi về cướp bóc của Trương Kim Xứng, nên vội đồn quân đóng trại. 

Cũng bởi chưa rõ đường đi lối về của Kim Xứng, nên nghiêm cấm quân sĩ không được tự tiện hành động, lại cho lính đi thám sát hư thực, để tìm cách đánh gọn. 

Kim Xứng nghe tin quân triều đình đến, kéo ngay lâu la tới trước doanh trại Nghĩa Thần khiêu chiến, thấy quân sĩ cố thủ không chịu ra, nên suốt ngày cho lâu la chửi bới thậm tệ, cứ như thế kéo dài hơn một tháng, ai cũng ngờ rằng Nghĩa Thần khiếp nhược, không dám giao chiến. Nguyên là Nghĩa Thần chờ cho kẻ địch mệt mỏi, rồi mới ngầm sai Chu Vũ, Hầu Kiều hai tướng, dẫn hai nghìn kỵ binh tinh nhuệ, đang đêm vượt sông ở bến Quán Đào mai phục, chờ cho lâu la của Kim Xứng rời khỏi trại, khiêu chiến. 

Quân Nghĩa Thần, nghe tiếng pháo hiệu, cả hai phía cùng nhất tề tấn công. Nghĩa Thần tự thân nai nịt gọn gàng, dẫn quân nghênh địch.




Kim Xứng thấy quân triều đình hàng lối lộn xộn, trận pháp chẳng nghiêm, dẫn lâu la xông vào. Hai bên giao chiến, chưa được vài hợp, quân mai phục hai bên đông tây cùng kéo ra, cắt lâu la ra làm mấy mảnh, trước sau cùng đánh, Kim Xứng đại bại, một người một ngựa chạy về cửa Thành Hà, gặp ngay quận thừa Thanh Hà Dượng 
Thiện, theo lệnh kéo quân đi bắt giặc, chém chết Kim Xứng ngay ở vùng Phần Khẩu, sai người đem thủ cấp nạp ở quận doanh Nghĩa Thần. Tàn quân của Kim Xứng ngày đêm chạy về với Kiến Đức. 

Nghĩa Thần đem tất cả vàng bạc, của cải, trâu bò, lừa ngựa ở sào huyệt Kim Xứng thưởng cho binh lính. Những đàn bà, con gái bị bắt đều thả cho về, rồi kéo quân về phía Bình Nguyên, tiến công Cao Kê Bạc, trừ sạch dư đảng. 

Lúc này ở Cao Kê Bạc, Kiến Đức cùng An Tổ giúp Cao Sĩ Đạt đóng giữ, biết ngay tin Nghĩa Thần phá tan bọn Kim Xứng, đang thừa thắng kéo đến, nay đang hạ trại ở Vu Thương, chỉ cách Cao Kê Bạc chưa đầy hai mươi dặm. Kiến Đức nghe tin hoảng sợ, bàn với An Tổ, Sĩ Đạt: 
- Từ thuở ta chưa tới đây, đã nghe tiếng Nghĩa Thần là kẻ tài kiêm văn võ, dụng binh như thần, nhưng chưa từng giao chiến lần nào. Nay đã giết Kim Xứng, thừa thắng tới đây, nhuệ khí đang hăng, khó lòng địch nổi. Sĩ Đạt hiền đệ hãy tạm dẫn quân nấp kín ở vùng hiểm trở, chờ cho khí thế đối phương suy giảm ít nhiều, khoảng một vài tháng sau, lương thực cạn dần, lúc ấy hãy chia binh công kích, thì có cơ bắt được Nghĩa Thần. 

Sĩ Đạt không nghe lời khuyên của Kiến Đức, tự coi mình là vô địch, để lại ba nghìn quân ốm yếu cho Kiến Đức coi giữ sào huyệt, rồi cùng An Tổ nhân đêm kéo một vạn lâu la đi cướp trại Nghĩa Thần. Không ngờ Nghĩa Thần đã dự tính đến mưu mô này nên điều binh ra cả bốn phía mai phục.  Canh ba đêm hôm đó, Sĩ Đạt kéo quân xông thẳng vào trại Nghĩa Thần, thấy trại trống không, biết là trúng kế, đang lúc quay ra, thì pháo hiệu bốn bề nổ ran, gặp ngay tướng đi đầu của Nghĩa Thần là Đặng Hữu Kiến, bắn một phát tên. Sĩ Đạt ngã ngựa, bị Hữu Kiến chém dầu, thừa thắng bốn bên tung hoành. An Tổ thấy Sĩ Đạt đã chết, vội quay ngựa chạy, Kiến Đức lập tức kéo quân ứng cứu, nhưng thế quân triều đình quá mạnh, chẳng làm gì nổi, lâu la mười phần chết đến tám chín. Kiến Đức cùng An Tổ chỉ còn hơn hai trăm quân kỵ, nhân thấy thành Nhiêu Dương không phòng bị, liền chiếm lấy. Khoảng ba bốn ngày sau, bọn lâu la thua chạy dần dần tìm về, cũng được khoảng hơn hai nghìn, bàn nhau cách chống cự quan triều đình. Kiến Đức nói với An Tổ: 
- Trước mắt thế quân Nghĩa Thần rất lớn, lại thêm Nghĩa Thần túc trí đa mưu, nhất thời khó mà địch nổi, tòa thành nhỏ này khó mà giữ được. 
An Tổ hỏi: 
- Nghĩa Thần không rút quân, chúng ta đành ngồi trong thành này chờ chết hay sao? 
Kiến Đức đáp: 
- Ta có một kế này: cần có một người tin cẩn, mang theo vàng ngọc, lên ngay kinh đô, hối lộ bọn gian thần, bắt chúng điều Nghĩa Thần đi chỗ khác, thì chúng ta chẳng còn gì phải sợ nữa. 
An Tổ nói: 
- Nếu đã như vậy, tiểu đệ xin đi một chuyến, nhưng chưa điều y đi được ngay thì sự thể sẽ ra sao? 
Kiến Đức đáp: 
- Không có chuyện đó. Hôn quân chỉ tin bọn gian thần. Một khi bọn này đã nắm mọi quyền hành trong triều thì kẻ trung nghĩa chẳng làm được việc gì ở ngoài biên này đâu. 
Rồi Kiến Đức thu thập vàng ngọc, châu báu, giao cho An Tổ chọn một tên tay chân tin cẩn, cõng hành lý, từ biệt Kiến Đức, đương đêm lên đường. 

Hôm ấy đi đến thôn Bạch Tửu, vùng Lương Quận, trời đã về chiều, chỉ sợ phía trước không còn hàng quán, lại thấy có ngay quán trọ bên đường, thầy trò liền vào, Tiểu nhị niềm nở hỏi chào: 
- Quý khách hai vị, còn ai nữa phía sau chăng? 
An Tổ thật thà đáp: 
- Chúng ta chỉ có hai người thôi. 
Tiểu nhị liền đon đả: 
- Ở đây còn một gian lớn, chưa có khách trọ, có thể chứa được bốn năm vị, nhưng sợ còn có khách tới nữa. Phía tây kia, có một gian rất sạch sẽ, yên tĩnh, hiện đã có một vị khách ở, thêm hai vị nữa là vừa, xin để tiểu nhân dẫn quý khách vào nghỉ ngơi.
Nói rồi dẫn thầy trò An Tổ vào phòng phía tây, mở cửa bước vào thấy một hảo hán, nằm ngang giữa giường, ngáy như sấm. Tiểu nhị nói: 
- Quý khách chẳng qua ngủ có một đêm, như thế này cũng tươm tất chán! 
An Tổ đáp: 
- Được rồi! 
Tiểu nhị ra khỏi, thầy trò đặt hành lý xuống một góc. An Tổ nhìn kỹ người nằm ngủ trên giường, dáng cao lớn, vai rộng, lưng có đến mười vòng, mặt mày sáng sủa, râu tóc đều rất đẹp. 
An Tổ nghĩ thầm: "Ông bạn này cũng không phải kẻ tầm thường. Đợi thức dậy sẽ hỏi chuyện xem sao". An Tổ mệt mỏi bèn sai tên tay chân trải chăn chiếu, thì thấy tiểu nhị đem trà nước vào. Vị khách đang ngủ, nghe tiếng người nói chuyện, nhổm dậy, nhìn kỹ An Tổ một hồi, rồi hỏi: 
- Xin được biết họ tên huynh trưởng? 
An Tổ đáp: 
- Tiểu nhân họ Tổ, hiệu An Sinh, xin hỏi quý tính cao danh đại huynh? 
Khách đáp: 
- Tiểu đệ họ Vương, tự Bá Đương. 
An Tổ cả mừng: 
- Thì ra đại huynh Vương Bá Đương ở Tế Dương. 
Rồi vội vàng vái lạy, Bá Đương đáp lễ, hỏi: 
- Hiền huynh sao biết tên tuổi tiểu đệ? 
An Tổ cười: 
- Tiểu đệ không phải Tổ An Sinh đâu, mà thực là Tôn An Tổ. Nhân năm ngoái ở Nhị Hiền trang, nghe Đơn viên ngoại nói tới đại danh, vì vậy mới rõ. 
Bá Đương hỏi: 
- Hiền huynh đến Đơn viên ngoại có việc gì? Nay đang trên đường đi đâu mà lại đến đây? 
An Tổ đáp: 
- Vì tìm đại huynh Đậu Kiến Đức, nên tìm đến Nhị Hiền trang. 
Bá Đương lại hỏi: 
- Nghe nói Đậu đại huynh dấy binh ở Cao Kê Bạc, thanh thế rất lớn, sao hiền huynh không theo, lại tới chốn này? 
An Tổ bèn đem chuyện Nghĩa Thần dẫn quân giết chết Kim Xứng, Sĩ Đạt, thừa thắng dồn ép Kiến Đức, Kiến Đức về Nhiêu Dương, mình phải tìm về kinh đô, kể lại một lượt, rồi quay ra hỏi Bá Đương: 
- Thế hiện nay đại huynh đi đâu mà lại một thân một mình ở đây? 
Bá Đương thấy hỏi, thờ dài định lên tiếng trả lời, thì thấy tên tay chân An Tổ đi lại, nên yên lặng không nói nữa. An Tổ vội giục: 
- Tên này vốn là tiểu hiệu tâm phúc của tiểu đệ, đại huynh không phải ngần ngại gì cả. 
Nhân đó nói với tên tay chân: 
- Mày ra ngoài kia gọi đem rượu, thức nhắm vào! 
Tên này nghe lời ra bưng rượu thịt bày lên bàn tươm tất rồi bỏ ra ngoài. Hai người ngồi vào bàn, An Tổ lại hỏi. Bá Đương mới đáp: 
- Tiểu đệ có một người anh em kết nghĩa, cùng là bạn bè với Đơn viên ngoại, họ Lý tên Mật, mắc phải chuyện lớn, nên tiểu đệ phải tìm đến dây. 
An Tổ hỏi: 
- Tiểu đệ dạo trước có gặp Tề Quốc Viễn, cũng thấy Quốc Viễn nói đang tìm Lý Mật mưu việc lớn, bây giờ thế nào rồi, xảy ra chuyện gì vậy? 
Bá Đương đáp: 
- Chả cần phải hỏi. Tiểu đệ nhân có việc phải tìm đến vùng Sở, cùng Huyền Thúy chia tay. Không ngờ Huyền Thúy được Dương Huyền Cảm mời về Quan Trung, cùng với Huyền Cảm dấy binh. Tiểu đệ thì rất rõ Huyền Cảm chỉ là hạng người ếch ngồi đáy giếng, cũng đồ vô dụng bỏ đi, nên đời nào theo về, nhưng không ngờ Huyền Thúy vẫn đi, tất nhiên công việc bại hoại. Huyền Cảm bị sứ của triều đình là Sử Vạn Tuế chém đầu. Lúc này đệ đang ở Ngõa Cương với Địch Nhượng, nghe tin Huyền Thúy và Quan Trung sau đó bị lính bắt, đưa về kinh đô, nghĩ tất phải giải qua đường này, nên tiểu đệ chờ sớm tối ở đây vậy. 
An Tổ lên tiếng: 
- Cái này thì không có chuyện gì khó, nếu như đại huynh cùng tiểu đệ đón gặp, đại huynh nói có Huyền Thúy trong bọn, tiểu đệ chỉ cần vung tay mấy cái, vài đứa về chầu Diêm vương là xong ngay thôi mà! 
Bá Đương đáp: 
- Nơi này là đường hiểm yếu đi kinh đô, nếu làm to chuyện quá, cũng chẳng hay ho gì, phải dùng mưu mới xong, không nên dùng sức. 
Chỉ cần làm thế này... thế này... mới là kế vạn toàn vậy. 

Đang thì thầm, nghe bên ngoài tiếng người ngựa huyên náo, Bá Đương cùng An Tổ ra cửa phòng nhìn, thấy có sáu bảy viên công sai, giải bốn kẻ tội phạm, đều bị đóng gông dài, đeo còng lớn, ngồi ngay trước cửa quán. Bá Đương nhìn kỹ một lượt, thấy rõ Huyền Thúy trong đó, còn ba người kia, nhận ra được Vi Phúc Tự, một người là Dương Tích Thiện, một người là Bính Nguyên Chân, nhưng vẫn yên lặng không nói, chỉ đưa mắt liếc một cái rồi bỏ đi. Bốn người nhận ra Bá Đương, Huyền Thúy thầm mong: "May lắm, có mấy tay này ở đây, ta phải tìm được kế thoát thân mới xong, nhưng không biết họ có cùng một bọn không?". Đang lúc trù trừ, thì thấy Bá Đương vứt ra bàn mấy tấm lụa, nói lớn: 
- Tiểu nhị đâu rồi! Ta thiếu một ít tiền, có mang theo mười tấm lụa Lộ Châu đây, xin nhượng lại nguyên vốn, vừa khỏi mang theo nặng, vừa có cái trả hết nợ, lại có tiền ăn đường. 
Tiểu nhị đứng dậy đáp: 
- Quý khách, tiểu nhân lấy đâu ra tiền mà mua cả mười tấm lụa này, dù quý khách chỉ lấy vốn cũng vậy thôi. Thôi thì quý khách trọ ở quán mấy ngày, cứ thế tính ra, chứ bọn tiểu nhân đây, mấy khi dám dùng đến thứ hàng quý như thế này. 
Bá Đương mở ra một tấm giơ ra trước quầy, nói với mọi người: 
- Các bác xem đây, nào phải hàng giả, hàng xấu gì để phải lừa đảo người mua, đều là những tấm thượng hạng chọn lựa chu đáo. Mua ngay tận nguồn cũng đã phải hai lạng rưỡi bạc một tấm rồi. Nếu là loại bạc tốt, xin bớt cho một hai tiền gì đó cũng được. 
Viên đô đầu cùng mấy người công sai cũng lại bên quầy hàng, cầm lụa lên xem. Viên đô đầu nói: 
- Đúng là loại lụa tốt, vừa dày vừa nhỏ, vừa nặng, đem về vùng dưới kia, chẳng sợ không được bốn lạng một tấm hay sao. Đáng tiếc là chúng ta chẳng ai có dư tiền để mua cả. 

Tất cả đang xúm lại bàn cãi, thì thấy Huyền Thúy cũng tiến lại bên quầy xem, Bá Đương đưa mắt cho Huyền Thúy, rồi lớn tiếng: 
- Tay tử tù này, ngươi cũng lại xem lụa làm gì? Ngươi lấy đâu ra tiền, vì vậy mới mắc phải tội chứ. 
An Tổ đứng bên cười: 
- Đại huynh chẳng nên cười họ. Có khi họ có tiền mua cũng chưa biết chừng. 
Huyền Thúy lên tiếng: 
- Bác lái buôn ơi, bác có bao nhiêu lụa quý, xin cứ mang cả ra đây anh em chúng ta sẽ mua kỳ hết, nếu không mua, không phải là kẻ hảo hán! 
Bá Đương nói với An Tổ; 
- Hiền huynh, còn năm tấm ở trong phòng kia, hiền huynh đem cả ra đây. 
Huyền Thúy tiến lại, gọi một tên công sai nhiều tuổi tên gọi 
Trương Long: 
- Trương đại ca, đại ca xem loại lụa Lộ Châu này có tốt không. 
Ta có mười lạng bạc ở đây, biếu đại ca mua lấy mấy tấm, cũng đủ tiền để đại ca đi đường đấy? 
Trương Long đáp: 
- Chuyện ấy thì chẳng cần. Anh hãy mua lấy mấy tấm mà biếu Huệ đô đầu đây, thì ít nhiều ta còn dễ bề chiếu cố đến anh hơn. 
Huyền Thúy đáp: 
- Ta thì ngày chết đã định, một ngày qua là gần một ngày, giữ tiền hạc bên người cũng chẳng ích lợi gì, chi bằng mua lấy số lụa tốt này. Đem một nửa với mười lăm lạng bạc biếu Huệ đô đầu, còn thì tặng mỗi vị mỗi tấm, với năm lạng bạc. Về kinh khi chết nhờ các vị chôn cất hộ. Chúng tôi có lời thưa như vậy, nếu được, xin tặng thêm mười lạng bạc nữa để ta làm một bữa rượu vậy. 

Trương Long thấy thế, liền vội nói lại với mọi người. Huệ đô đầu vốn là kẻ hám tiền, lập tức đồng tình. 

Trương Long nói lại với Huyền Thúy, Huyền Thúy liền đến bên Phúc Tự cùng Tích Thiện, lấy ra đủ một trăm lạng bạc, giao cho Trương Long. 
- Xin nhờ đại ca chia cho mọi người hộ. 
Trương Long cầm mười lạng bạc, lại ném xuống mặt quầy, nói 
Với tiểu nhị: 
- Nhờ bác chủ cứ liệu tiền đó mà cân cho đúng đưa cho các vị giùm cho! 
Tiểu nhị đáp: 
- Xin có ngay! 
Rồi vừa quay ra vừa tính toán: 
- Tất cả có mười lăm tấm lụa. Tính thành tiền là ba mươi bảy lạng năm tiền. Tất cả đều là bạc loại tốt, một ly cũng không thiếu. 
Cứ thế giao cho Bá Đương, còn bao nhiêu trả lại cho Huyền Thúy, Huyền Thúy lấy từng tấm trải ra xem, lóng lánh, rực rỡ một màu, tấm nào cũng như tấm nào. Bèn đưa cho Trương Long, biếu từng người, ai nấy đều lên tiếng cảm tạ. Huyền Thúy lại thò tay vào trong túi lấy ra một thỏi bạc, khoảng hơn một lạng, nói với tiểu nhị: 
- Xin thêm cho một ít rượu nữa, gọi là qua cơn nhọc nhằn vậy! 
Bá Đương cười: 
- Ta cũng quên mất, số bạc lẻ này, bảy lạng năm tiền cả đây, cũng xin đem một lạng ra thêm vào với tiểu nhị vậy. 
Vừa nói vừa lấy ra một lạng đưa cho tiểu nhị. Tiểu nhị lên tiếng: 
- Tiểu nhân không dám, có nhọc nhằn gì lắm đâu mà được cả hai vị thưởng cho thế này. 
Lời qua tiếng lại mãi, An Tổ khuyên: 
- Tiểu đệ xin góp một lời vậy. Đại huynh của tiểu đệ góp một lạng, xin cứ đưa đây. Vị này góp một lạng. Cũng xin đưa cho tiểu đệ. 
Tiểu đệ cũng xin góp vào một lạng nữa là ba. Phiền chủ quán bày cho mấy đĩa nhấm, bưng cho một hũ rượu nữa, coi như chủ quán đãi anh em chúng ta, để cùng nhau nâng chén, có phải là vui vẻ cả không? 
Mấy viên công sai nhất tề hưởng ứng: 
- Ông bạn này lý sự như vậy, thật chẳng sai chút nào, chúng ta cũng thêm vào ít nhiều uống cho thoải mái vậy! 
Tám viên công sai lần lượt đưa tiền cho An Tổ, An Tổ cân tất cả được ba lạng bảy, liền đưa cho tiểu nhị: 
- Xin chủ quán cầm cho, cứ thế mà bày rượu thịt cho chúng tôi. 
Tiểu nhị cười đáp: 
- Cái này thì tiểu nhân biết rồi. Xin quý khách cứ ngồi vào bàn xơi cơm trước. Chờ tiểu nhân dọn rượu cùng thức nhắm, thong thả uống sau càng ung dung. 
An Tổ dặn: 
- Thức nhắm không cần nhiều lắm, nhưng rượu thì phải thật ngon. Lại thêm đông người, nên phải cho nhiều nhiều vào. 
Tiểu nhị đáp: 
- Nhất định rồi? 
Mọi người vào bàn ngồi. Chẳng mấy chốc, hoàng hôn đã xuống, chủ quán bày rượu thịt ra các bàn. Lại bày cho Huệ đô đầu một bàn riêng, xếp cho Trương Long ngồi tiếp, không ngồi cùng với công sai và tù nhân. Huệ đô đầu vốn cũng là phường xiểm nịnh, xu thời tầm thường, nay lại được ít nhiều lễ vật, liền nôi với Trương Long: 
- Thôi thì cũng là ý tốt của mọi người, ta cũng chẳng đang một mình ngồi một tiệc. Vả lại ở đây là nơi thôn vắng hoang dã, ai mà biết được, cùng ngồi một bàn chẳng sao, lại càng dễ ăn uống. 
Trương Long đáp: 
- Với nói cho cùng, bốn tay tù nhân này, cũng đều là loại "con ông cháu cha" cả, chẳng may mang phải sự nhẹ dạ của tuổi trẻ, mà phạm tội, chỉ cần Huệ đô đầu cho phép là xong ngay. Chúng tôi xin gọi họ vào luôn. 
Huệ đô đầu đáp: 
- Nãy giờ đều nhờ Trương Long xếp đặt, vậy hãy ra gọi bọn họ vào đây luôn. 
Thế là cả bọn bày ba bốn bàn cơm rượu tại ngay trong gian phòng lớn, kể cả chủ quán là có đến mười bảy, mười tám người. Ai nấy ngồi yên vị rồi, chén lớn, bát nhỏ, anh rót, tôi mời, thật là ầm ĩ, không còn phân biệt được nữa. Tiểu nhị cứ việc khuân rượu hết chai này đến chai khác như nước chảy. An Tổ nói với tiểu nhị: 
- Bác nếu có mệt, xin cứ đi ngủ trước, đã có anh em chúng tôi đây đỡ đần bác một tay. 
Tiểu nhị uống liền mấy chén nữa rồi bỏ đi ngủ. Huệ đô đầu cũng là phường tửu hữu, uống hết chén này đến chén khác, nói cười ầm ĩ. 
Thấy bọn này đã say đến bảy tám phần, lúc này mới độ canh hai. Bá Đương liền nói: 
- Rượu không nóng, uống buồn lắm. 
An Tổ đáp: 
- Hãy đợi tiểu đệ một chốc, vào bếp là có rượu nóng ngay thôi. 
Rồi đi ra, lát sau bưng vào một vò rượu nóng, vừa cười vừa nói: 
- Bác chủ cùng vào bếp với tiểu đệ đây. Giờ thì cứ uống thật say, rồi nằm quay ngay ra đây, cho bõ công tiểu đệ hâm rượu chứ! 
Bá Đương đỡ vò rượu, rót ra một bát lớn, bưng lại cho Huệ đô đấu rót tiếp bảy tám bát nữa, nói với bọn công sai: 
- Xin mời các vị cạn ngay cho, rồi sẽ đến lượt chúng tôi. 
Bọn công sai nói: 
- Cảm tạ thịnh tình của các vị, quả là không thể nào uống nữa. 
An Tổ nói: 
- Lần này thì xin các vị cứ phải cạn cho, còn bao nhiêu chúng tôi xin gánh tất. 
Trương Long nâng bát, uống một hơi cạn sạch, bọn công sai cũng lần lượt uống hết. Phút chốc, cả Huệ đô đầu lẫn tám tên công sai đều ngã lăn quay ra đất, An Tổ cười nói: 
- Thế, thế, đúng rồi! Chỉ sợ thuốc không mạnh, bọn này tỉnh ngay mất thôi? 

Rồi vội lục trong hành lý một cây nến thắp lên. Bá Đương thì phá cả mấy cái gông, còng cho bốn người. Huyền Thúy lại ngay túi của Huệ đô đầu, tìm ra tờ công văn đốt ngay trên lửa nến. Thu lại tất cả mười lăm tấm lụa Lộ Châu, cùng số bạc đưa cho Bá Đương bỏ vào tay nải. Tên tay chân lại khoác hành lý lên vai, bảy người lặng lẽ rời khỏi quán rượu. Chỉ thấy bầu trời đầy sao, ánh sáng mờ mờ, tất cả yên lặng không một lời, rảo bước như chạy. 

Khoảng năm canh, đi cách quán rượu được sáu bảy mươi dặm rồi, An Tổ nói với Bá Đương: 
- Tiểu đệ phái chia tay với chư huynh ở đây thôi, không thể nào theo tiễn Lý đại huynh cùng mọi người đến Ngõa Cương được đâu. 
Huyền Thúy nói với An Tổ: 
- Tiểu đệ được hiền huynh thương đến, nên thoát được nạn lớn này, xin hãy đến phía trước, cùng uống với nhau ba chén rượu đã rồi hãy chia tay. 
Bá Đương đỡ lời: 
- Không phải thế đâu. Tôn hiển đệ còn phải có việc phải lo với Đậu đại ca, không thể trù trừ được nữa đâu. 
An Tổ tiếp: 
- Tiểu đệ còn có lời này, phải nói với chư huynh ngay. Nên chia làm ba nhóm, hoặc hai nhóm gì đó mà đi, chạy trốn mà đi cả bọn như thế này, thì chỉ cần một hai dặm nữa là sẽ bị tóm tất cả. Phải chia tay nhau ngay đi! 
Huyền Thúy đáp: 
- Điều này là lẽ đương nhiên. Xin hiền huynh cho gửi lời thăm Kiến Đức. Tiểu đệ mà tới được Ngõa Cương yên ổn, sẽ có dịp đến Nhiêu Dương. Nếu được gặp cả Đơn viên ngoại, cũng cho gửi lời thăm của Huyền Thúy này! 

Nói xong, chia đông tây hai ngả. Còn lại Bá Đương, Huyền Thúy, Nguyên Chân, Phúc Tự, Tích Thiện, đi thêm vài dặm, đã tới ngã ba Tam Soa, Bá Đương lên tiếng: 
- Cũng chẳng cần nói nhiều, giữa chốn lưới giăng, bẫy chờ này, sống chết là chuyện bất ngờ. Nay may đã được sổ lồng tới đây, chính là lúc mạnh ai nấy bay. Nhân đến ngã ba Tam Soa này rồi, xin mỗi người mỗi đường. Tiểu đệ xin đi cùng với Lý đại huynh vậy. 
Phúc Tự cùng với Tích Thiện vốn là bạn thân với nhau, liền lên tiếng tiếp: 
- Nếu đã như vậy, chúng tôi xin theo đường nhỏ, đi ngược mãi lên phía bắc vậy? 
Nguyên Chân nói: 
- Tiểu đệ cũng chẳng theo đường lớn, cũng chẳng chọn đường nhỏ, sẽ có cách đi riêng của mình, xin chư huynh cứ đi trước vậy. 
Họ Vi cùng họ Dương chọn đường nhỏ mà đi, còn họ Vương, họ Lý theo đường lớn đi tiếp. 
Chưa được hơn một dặm. Bá Đương thấy phía sau có người đuổi theo, vỗ vào hai vai Huyền Thúy mà rằng: 
- Chư huynh sao không đợi tiểu đệ với, cứ thế mà đi mãi? 
Bá Đương đáp: 
- Đại huynh nói có cách đi riêng rồi, sao lại còn chạy theo làm gì? 
Nguyên Chân đáp: 
- Đại huynh thật thà quá. Lúc nãy là tiểu đệ lừa hai người kia, để họ chọn lấy đường chết đấy thôi! 
Huyền Thúy hỏi: 
- Tại sao thế? 
Nguyên Chân đáp: 
- Bọn công sai tỉnh lại, tất cả phải tìm đến nhờ lính tráng địa phương tầm nã, đường nhỏ sẽ nhiều người tìm đến, đường lớn nhất định sẽ ít hơn. Nay ba chúng ta cứ đàng hoàng mà đi, dẫu có hàng trăm quan quân kéo qua, cũng chẳng để mắt đến. Chỉ cần lúc nào thuận lợi, phải kiếm lấy vài thứ vũ khí mà giữ thân nữa là xong. 
Bá Đương nói: 
- Cứ đi cho nhanh đã, được bước nào hay bước đó. 
Thế rồi, Huyền Thúy giả đóng Toàn Chân (1) đạo sĩ, Bá Đương cùng Nguyên Chân giả làm khách buôn, cứ nhìn phía trước mà đi. 
1 Toàn Chân: Đời Kim, đạo sĩ Vương Triết, tu ở am Toàn Chân, truyền đạo "Toàn Chân giáo", từ đó đồ đệ đều xưng là Toàn Chân đạo sĩ. 

Chính là: 

Ruột gan chưa  sự tình 
Mà người đã nhớ câu Bình Nguyên Quân.


HỒI 39

Vua Trần, vua Tùy nhắc chuyện tình thâm u,
Nàng Trương, nàng Doãn lại mang vạ biếm trích.

 Thơ rằng: 
Vương sư dập khói lửa, 
Đại tướng tài dọc ngang 
Anh sớm chói cờ đỏ 
Mây chiều phơi lọng vàng 
Động rừng trống trận nổi 
Rẽ sóng mái chèo vang 
Lòng quyết trừ Huyền Thố (1) 
Công ghi sườn Am San (2). 

1 Huyền Thố. Cũng đọc Huyền Thỏ, tên một quận ở Bắc Trung Quốc, gần các tỉnh Sát Cáp Nhĩ và Nhiệt Hà. Đây chỉ Liêu Đông. 
2 Am San: Dải núi sát phía bắc Trung Quốc quãng vùng Cát Lâm hiện nay. 

Đại phàm chuyện các bậc vua chúa rất là rối ren, ngòi bút dù tài giỏi đến đâu, một lúc cũng không tài nào ghi chép cho tường tận. Sự việc trong vũ trụ này, từ ngày có mặt trời chiếu sáng đã đủ chuyện, trong khoảnh khắc, tài nào nói cho hết. Chỉ bằng một đôi mắt nhìn của mình, làm sao mà thấu cả mọi chuyện. Người làm sách cũng như kẻ rút một sợi tơ trong búi tơ rối, từ từ rút lần từng đoạn, có trước có sau khiến cho người xem thấy được thứ tự rõ ràng, không phải khổ công đoán trước nghĩ sau. 

*** 

Nói chuyện Tôn An Tổ, từ biệt Lý Huyền Thúy, Vương Bá Đương về kinh đô, tìm đến bạn bè quen biết, đưa mối lần manh, đem vàng ngọc, vật quý dâng cho bọn Đoàn Đạt, Ngu Thế Cơ, cùng một loạt bọn nịnh thần khác, rồi tìm chỗ yên ổn chờ tin tức. Quả là thần tiên linh ứng không lường, chẳng qua mấy ngày sau, đã có thánh chỉ ban xuống: 
"Dương Nghĩa Thần xuất binh đã lâu chưa thấy báo tin thắng trận, án binh bất động, là ý làm sao? Trẫm nghĩ thương bậc lão thần, cho về nguyên quán hưu trí. Tiên phong Chu Vũ tạm thay cầm việc quan, chờ điều tướng khác, trừ diệt dư khấu.” 
An Tổ nghe được tin xác thực, vội ngày đêm rời kinh đô về Nhiêu Dương báo ngay cho Đậu Kiến Đức. Chính lúc Nghĩa Thần bày xong mưu kế để phá Kiến Đức, thấy thánh chỉ ban xuống, nhìn tả hữu mà thở than rằng: 
- Cơ ngơi nhà Tùy thật đáng đổ lắm rồi. Ta chỉ chưa biết nó sẽ mất về tay ai. 
Rồi đem vàng bạc của riêng, khao thường ba quân, gạt nước mắt, trở về vùng hồ Lôi Hạ, thuộc Bộc Châu đổi họ tên, giấu tung tích, lấy cày cấy, suối rừng làm vui. 
Kiến Đức biết Nghĩa Thần đã về, lại đem quân về Bình Nguyên, chiêu tập binh lính, cũng được vài nghìn, rồi chẳng mấy chốc những quận huyện quanh vùng đều phải quy phục, quân lên tới hơn một vạn, thanh thế ngày càng lớn, mưu đồ ngày càng cao, sai tướng tâm phúc, mang thư về Nhị Hiền trang đón con gái, mời Đơn Hùng Tín cùng nhập bọn. Chuyện không nói nữa. 
Chính là: 

Đừng cho cốt nhục thành Ngô Việt 
Luôn nhớ anh em chốn biển trời. 

Chuyện chia làm hai mối, đây nói chuyện Dượng Đế kiểm điểm cung nữ cho việc ngự du Quảng Lăng. Đại để cung nữ được kén vào cung, thì nhất định không thể nào xấu cho được, ít ra cũng phải là loại có sắc đẹp trung bình mới có thể lọt vào cung cấm. Khi đã vào cung rồi, trang điểm phấn son, tô mày bôi môi, học cười học nói, nhan sắc cũng có thể tăng thêm hai ba phần. Cũng vì thế mà luôn suốt bảy tám ngày, Dượng Đế ở trong cung kén chọn cung nữ mà chẳng thể bỏ được một người nào, người có thể loại ra, thì lại mặt mày, vóc dáng không đến nỗi nào, hoặc là chỗ quen thân quyến luyến, giở mẹo khóc cười, cho nên càng làm càng rối. Dượng Đế không biết làm thế nào, trong lòng bực bội, liền bỏ mặc việc tuyển lựa cho Tiêu Hậu cùng các phu nhân, còn mình thì dẫn Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi, cùng ba bốn viên tiểu thái giám, lên thuyền rồng, ra tận Bắc Hải, trèo lên Tam Thần Sơn xem mặt trời buổi chiều. Bỗng nhiên mây kéo mù mịt, ánh mặt trời như tắt hẳn. Dượng Đế vội chạy vào Quan Lan đình (l) ngồi một hồi, tâm thần hoảng loạn, thấy mặt hồ có một chiếc thuyền nhỏ, nhấp nhô trên sóng biếc, nhằm chân đảo mà vào. Dượng Đế ngỡ là thuyền của các phu nhân theo tìm, trong lòng thấp thỏm chờ đợi. Thuyền ghé sát bờ, thì ra không phải, chỉ thấy một viên thái giám tiến vào quỳ thưa: 
1 Quan Lan đình: Lầu xem sóng biển, dựng ngay trên núi giữa hồ lớn. 

- Trần Hậu Chủ muốn xin gặp bệ hạ. 
Nguyên lai Dượng Đế cùng Trần Hậu Chủ thuở ban đầu cũng có đi lại thân mật, nên nghe Hậu Chủ xin gặp liền mời ngay vào. 




Chẳng mấy chốc, Hậu Chủ từ trong thuyền bước ra, vào Quan Lan đình, định làm lễ quân thần. Dượng Đế vội giơ tay ngăn lại mà phán:
 
- Trẫm với khanh là bậc cố giao, chẳng cần phải giữ lễ làm gì? 
Hậu Chủ theo lời, vái dài một cái rồi ngồi xuống. Hậu Chủ lên tiếng trước: 
- Nhớ lại thuở còn ít tuổi, cùng bệ hạ vui chơi, thân thiết như cùng thanh khí, xa nhau đã lâu, chẳng biết bệ hạ còn nhớ những chuyện xưa chăng? 
Dượng Đế đáp: 
- Chuyện chơi bời quen thuộc, thuở để tóc trái đào, tình hơn cốt nhục, lòng vẫn thường nghĩ tới, sao lại có thể quên cho được! 
Hậu Chủ tiếp: 
- Dẫu bệ hạ có nhớ đi chăng nữa, nhưng nay đã là thiên tử, bốn biển trong tay, khác hẳn ngày xưa, mọi người ngưỡng vọng. 
Dượng Đế cười đáp: 
- Phú quý chẳng qua là chuyện ngẫu nhiên. Khanh tình cờ mà mất, trẫm tình cờ mà được, chẳng nên lấy đó làm chuyện tỵ hiềm vậy. 
Nhân đó bèn hỏi: 
- Gần đây ba viện Lâm Xuân, Kết ỷ, Vọng Tiên quang cảnh ra sao? 
Hậu Chủ đáp: 
- Trăng gió vẫn cảnh xưa, chỉ có điều lầu gấm, hồ biếc nay đã thành bạch dương, cỏ mượt cả rồi! 
Dượng Đế lại hỏi: 
- Nghe nói khanh đã từng vì Trương Lệ Hoa mà xây Quế cung, ngay phía sau Quang Chiêu Điện, mở cửa tròn chẳng khác gì mặt trăng, bốn phía đều làm bình phong thủy tinh. Hậu đình xây bằng đá ngọc trắng, bên trong để trống không, chẳng hề bày trí gì cả, chỉ trồng một cây quế thật lớn, dưới gốc cây để sẵn chày cối giã thuốc bằng ngọc. Bên cạnh cối ngọc, lại nuôi một con thỏ trắng. Cho Trương Lệ Hoa mặc toàn đồ trắng, tóc búi cao như mây, chân đi hài giát ngọc mũi nhọn, ung dung thơ thẩn, chẳng khác gì Hằng Nga trên trăng (1). Quả có chuyện này chăng? 
1 Những chi tiết này đều rút ở thần thoại, cổ thư như "Dậu Dương tạp trở", 

"Hoài Nam Tử..." nói trong trăng có Hằng Nga lấy trộm thuốc trường sinh của chồng uống, rồi trốn lên cung trăng. Trên cung trăng có cây quế đỏ cao năm trăm trượng, có thỏ ngọc giã thuốc tiên... 
Hậu Chủ đáp: 
- Thực là có chuyện đó! 
Dượng Đế nói: 
- Nếu đúng như vậy thì thật là quá xa phí! 
Hậu Chủ đáp: 
- So với việc đền đài cung quán, để theo kịp vua chúa xưa, thì việc xây Nguyệt Cung này có đáng bao nhiêu, Thần chẳng may mất nước, vì vậy sau này mang tiếng xa hoa. Chẳng cần gì phải dẫn người xưa làm chứng, mà cứ xem ngay như Văn Hoàng Đế bệ hạ thôi, lúc còn ở ngôi, thì nào có chừng gì đâu, cũng vì Trần, Sái phu nhân dựng Tiêu Tương, Lục Ỷ bốn phía đều ghép hoa phù dung bằng vàng. Phía trên cũng lưu ly làm cột, gỗ hạnh có vân làm xà, điêu khắc đủ cảnh chim bay cá lượn, cứ một bước một nghìn vàng. Tất cả cảnh đó, mắt bệ hạ đều thấy rõ, thử hỏi có xa xỉ không? May mà thiên hạ thái bình, truyền ngôi đến bệ hạ, ngày sau sử quan ghi chép chuyện này, nếu cứ nói là tiết là kiệm, thì thử hỏi có thỏa đáng không? 
Dượng Đế cười đáp: 
- Khanh cũng giỏi chuyện trào phúng nhỉ. Nếu cứ như thế mà nói, thì khi tiên đế ngự Giang Nam, khanh cũng oán hận lắm thì phải? 
Hậu Chủ đáp: 
- Làm một ông vua mất nước thì dám oán hận gì nữa. Chỉ nghĩ tới cảnh hoa đào trước núi, theo chiến thuyền lên phía bắc. Lúc ấy Trương Lệ Hoa đương ở trên Lâm Xuân Các, thử bút Từ Hào của Đông Quách Nguy, trên giấy Hồng Tiên bóng, họa lại bài thơ "Ánh trăng chiếu vách bên sông", mà vẫn chưa xong, thì bỗng Hàn Cầm Hổ dẫn binh ập vào, rồi hết chuyện bức bách này sang sự trói buộc khác, làm cho bài thơ của Trương Lệ Hoa vẫn chưa xong, để hận mãi đến giờ vậy. 
Dượng Đế hỏi: 
- Giờ Trương Lệ Hoa đang ở đâu? 
Hậu Chủ đáp: 
- Hiện đang ở dưới thuyền. 
Dượng Đế nói: 
- Sao không mời lên cùng gặp gỡ? 
Hậu Chủ sai thái giám xuống thuyền mời, thì thấy trong thuyền bước ra có đến mười mấy cung nữ, cầm theo đàn địch, bưng theo cả rượu thức nhắm, một đoàn đi lên, thấy Dượng Đế, nhất tề quỳ lạy. 
Dượng Đế vội mời đứng dậy, nhìn kỹ trong bọn, một người hai vai như ngọc rũ xuống, mặt trắng như tuyết ngưng, phong thái mười phần yểu điệu. Dượng Đế nhìn không nháy mắt. Một hồi lâu, Hậu Chủ mới cười hỏi: 
- So với dung mạo Tuyên Hoa phu nhân nhà thần (1) thì ai hơn ai kém? 
1 Trần Phu nhân, được Tùy Văn Đế phong Tuyên Hoa phu nhân, vốn là con vua Trần Tuyên Đế, có họ với Trần Hậu Chủ, vì vậy Hậu Chủ xưng thế. 

Dượng Đế đáp: 
- Thì cũng như nàng Hinh so với nàng Doãn, suýt soát như chị như em vậy thôi. 
Hậu Chủ nói: 
- Bệ hạ nhìn kỹ người nào, thì người ấy chính là Trương Lệ Hoa đấy! 
Dượng Đế cười: 
- Thì ra là Trương Quý Phi, thật đúng là danh bất hư truyền. Từ lâu đã nghe tiếng Quý Phi, nay mới thấy mặt, chẳng khác gì được gặp lại người quen cũ, chỉ hận không tiệc rượu, để cùng vui với hai khanh. 
Hậu Chủ đáp: 
- Thần có đem theo mấy chén, chỉ sợ bệ hạ quen dùng ngự tửu, nên không dám dâng. 
Dượng Đế nói: 
- Trẫm gặp cố nhân, nhất thời thích chí, việc gì phải quá giữ lễ. 
Hậu Chủ liền gọi Trương Lệ Hoa dâng rượu lên, Dượng Đế uống liền ba chén, rồi nói với Hậu Chủ: 
- Trẫm nghe nói khúc hát "Hậu đình hoa", hay vào nhất trên trời dưới thế suốt từ xưa tới nay, giờ may gặp nhau đây, sao lại không cho trẫm nghe một lần? 
Trương Lệ Hoa từ tạ: 
- Thiếp từ ngày phí hoài năm tháng đến nay, lời ca điệu múa của nhân gian không nhớ đã lâu. Huống chi lần ở dưới giếng lên đến nay, xương cốt đau nhức, chẳng còn giữ được phong thái thuở xưa, sao lại dám trước mặt thiên tử mà cuồng ca loạn xướng cho được. 




Dượng Đế nói:
 
- Quý phi hình dung yểu điệu, chẳng cần ca chẳng cần múa cũng làm người tiêu hồn lạc phách, lại thêm ca múa nữa, thì chưa nghe chưa xem cũng đã thấy hay thấy đẹp, hà tất phải quá khiêm nhường. 
Hậu Chủ lên tiếng: 
- Bệ hạ đã ân cần đến thế, khanh hãy cố múa ca một khúc vậy. 
Trương Lệ Hoa không tiện chối từ, liền bảo cung nữ giải thảm, tấu nhạc, rồi bước lên, theo nhịp nhạc du dương, giải lụa phất phơ, lưng cong uốn éo, nhẹ nhàng như bướm lượn trong hoa, chập chờn như chuồn chuồn điểm nước biếc, lúc đầu thì như chập
chờn đùa giỡn chẳng chậm không mau, về sau tiếng nhạc càng dồn dập, Trương Lệ Hoa cũng quay tít đến không nhận ra rõ hình người, rồi lại từ từ trở lại hiện rõ nét mặt tươi hồng, chẳng khác gì ráng mây sáng sớm, nhẹ nhàng di chuyển giữa từng không. 




Tiếng nhạc ngừng, điệu múa hết, lúc này Trương Lệ Hoa mới cao giọng hát: 

Cảnh đẹp rừng hương kề cao các 
Điểm trang diễm lệ bậc khuynh thành 
Lộng lẫy dừng chân bên cửa điện 
Chúm chím hoa đào hé trước mành 
Sương đọng lung linh vẻ diễm kiều 
Ngọc thụ ngời ngời Hậu đình hoa. 

Dượng Đế hồn phách như tiêu đâu mất, ngẩn người ca ngợi, sai rót ngay hai chén rượu, một chén đưa mời Hậu Chủ, một chén mời Trương Lệ Hoa. Hậu Chủ đỡ chén rượu, bỗng nức nở mà nói: 
- Thần làm ra khúc hát này, phí không biết bao nhiêu tâm lực, mà chẳng được hưởng bao nhiêu, cuối cùng hát câm, đàn lặng. Đến nay mới nghe lại, khiến lòng không ngăn nổi niềm đau mất nước. 
Dượng Đế nói: 
- Khanh tuy mất nước, nhưng khúc hát "Ngọc thụ Hậu đình hoa" nay nghìn thu sẽ còn mãi, hà tất phải đau đớn đến thế. Khanh vốn có tài văn chương, từ ngày xa nhau đến nay, nhất định có nhiều bài hay, hãy đọc một hai bài, để trẫm nghe thử xem sao! 
Hậu Chủ đáp: 
- Thần gần đây tình cảnh không được thư thái, nên chẳng có hứng làm thơ, chỉ có hai bài thơ tặng cung nữ Bích Ngọc, Tiểu Song, cũng là vụng về cho xong, xin bệ hạ đừng cười. 

Rồi đọc bài tặng Tiểu Song: 
Giữa trưa đang ngon giấc 
Bỗng dưng sao giật mình 
Bóng chiều như ý ghẹo 
Cánh cửa nhỏ rung rinh. 

Tiếp theo, Hậu Chủ đọc bài tặng Bích Ngọc: 

Biệt ly lòng muốn dứt 
Tương tư bóng hao gầy 
Hồn theo mưa lất phất 
Tựa cửa lặng nhìn theo. 

Dượng Đế nghe xong hết lời tán thưởng, Hậu Chủ lên tiếng: 
- Mất nước nằm dài, sao bằng được bệ hạ hùng tài thao lược, nổi tiếng một thời. 
Trương Lệ Hoa cũng thưa: 
- Thiếp nghe bệ hạ thi từ tao nhã, nay may được chiêm bái long nhan, xin được nghe một vài câu để lấy làm nỗi vinh hạnh suốt một đời. 
Dượng Đế cười đáp: 
- Trẫm xưa nay chưa từng biết làm thơ bao giờ, thật phụ lời thỉnh cầu của Quý phi, làm thế nào bây giờ? 
Trương Lệ Hoa thưa: 
- Bệ hạ trong khi say làm từ "Vọng Giang Nam" rồi ngự chế "Thanh dạ du khúc", đều trong một khoảnh khắc mà xong, sao lại nói là không biết? Hay vì thần thiếp thô lậu, không đáng để bệ hạ buông lời châu ngọc, nên nói thác ra như vậy chăng? 
Dượng Đế đáp: 
- Quý phi nào có lỗi gì ở đâu. Trẫm xin cố nghĩ vài câu để đáp Quý phi vậy. 
Trương Lệ Hoa sai cung nữ đem văn phòng tứ bảo bày ra, Dượng Đế giở giấy hoa tiên viết ngay một bài sau đây: 

Gặp mặt sao ngần ngại 
Nghe danh kể những khi 
Rốn ngồi trăm vẻ đẹp 
Thật đáng bậc tương tri. 

Dượng Đế viết xong, đưa cho Trương Lệ Hoa, Trương Lệ Hoa cầm xem một lượt, thấy lời thơ có ý khinh bạc, lại hàm cả vẻ đùa cợt, bất giác hai má ửng đỏ, một lúc lâu không nói gì. Hậu Chủ thấy Trương Lệ Hoa có vẻ giận dữ, trong lòng cũng thấy bực bội, liền hỏi Dượng Đế: 
- Nhan sắc như người này, không biết nếu so với Tiêu Hậu của bệ hạ, thì hơn kém ra sao? 
Dượng Đế đáp: 
- Quý phi so với Tiêu Hậu thì xinh tươi hơn, Tiêu Hậu so với Quý phi yểu điệu hơn, cũng chẳng khác gì mùa xuân thì của hoa lan, mùa thu thì của hoa cúc. Mỗi hoa đều có vẻ đẹp nhất thời của riêng mình, làm sao mà so được? 
Hậu Chủ nói: 
- Nếu đã là vẻ đẹp nhất thời cả, sao trong lời thơ của bệ hạ lại hàm ý khinh bạc Trương Lệ Hoa đến thế? 
Dượng Đế khẽ cười đáp: 
- Thơ của trẫm là thơ của thiên tử, chẳng qua là cũng để ghi lại cái hứng nhất thời, làm gì có chuyện khinh bạc hay không ở đây? 
Hậu Chủ giận dữ: 
- Ta cũng từng làm thiên tử, nhưng không đến nỗi tự cao tự tôn như ngươi. 
Dượng Đế cũng nổi giận: 
- Ngươi là kẻ mất nước, sao lại dám vô lễ? 
Hậu Chủ càng tức tối: 
- Thử xem ngươi còn được bao lâu nữa để vênh vang, mà dám chê ta là ông vua mất nước. Chỉ sợ đến lúc ngươi mất nước, kết cục sẽ chẳng có điều gì được như ta thôi! 
Dượng Đế điên cuồng: 
- Trẫm đường đường thiên tử ngôi cao, sao lại thèm so với ngươi? 
Rồi đứng dậy định túm lấy Hậu Chủ. Hậu Chủ hỏi: 
- Ngươi định bắt ta chăng? 
Trương Lệ Hoa vội kéo Hậu Chủ ra: 
- Đi thôi! Đi thôi! Một hai năm sau, xuống dưới dạ đài, sẽ còn nhiều dịp gặp nhau nữa mà! 
Cả hai cùng ra phía bờ biển, Dượng Đế vội chạy theo kéo lại, chỉ thấy bóng Trương Lệ Hoa lúc ẩn lúc hiện, lúc mờ lúc tỏ, rồi mất hẳn, Dượng Đế đành đứng ngây ra nhìn theo. 
Dượng Đế bỗng sực tỉnh, như vừa thoát khỏi cơn mơ, liền nhớ lại cả hai người này chết đã lâu, thì sợ hãi lạnh cả chân tay, mở mắt nhìn ra, thấy trước mắt là Quý Nhi, Bảo Nhi đang lấy ống tay áo rộng che người Dượng Đế. Dượng Đế vội hỏi: 
- Các khanh có thấy gì không? 
Hai mỹ nhân đáp: 
- Chẳng thấy gì cả. Chỉ thấy bệ hạ như ngủ thiếp đi, nói ú ớ trong mơ, chân tay nâng lên đặt xuống luôn luôn. 
Dượng Đế ra lệnh: 
- Mau xuống thuyền về thôi! 
Tất cả kéo xuống thuyền rồng, Dượng Đế đem những điều tai nghe mắt thấy vừa rồi kể lại tỷ mỹ, Quý Nhi, Bảo Nhi vô cùng kinh sợ. Dượng Đế trong lòng cũng lo lắng, giục thuyền chèo mau hơn nữa. 
Bỗng nghe tiếng đàn tiếng sáo du dương, theo gió đưa đến. Dượng Đế trong lòng nghi ngại, thì bỗng đã thấy Ỷ Âm viện xa xa, Tần phu nhân, Sa phu nhân, cùng Triệu Vương lẫn Viên Quý nhân, Tiết Dã Nhi cả bọn cùng ra đón. Lại thấy cả Hạ phu nhân đang gảy đàn, Dượng Đế vội vàng lên bờ nói: 
- Các khanh hãy làm thế nào để trẫm được vui lên xem nào. Hãy cùng nhau kéo cả ra đây cho đủ mặt? 
Mọi người tranh nhau thưa: 
- Chúng thiếp tìm khắp nơi chẳng thấy bệ hạ đâu cả, chẳng ai ngờ bệ hạ lại ra tận Bắc Hải. 
Dượng Đế đáp: 
- Hạ phu nhân hôm nay tại sao lại mang theo cả đàn ra đây? 
Hạ phu nhân thưa: 
- Thiếp đội ơn bệ hạ đặt cho ở viện này, đã bốn năm năm nay, cũng khác nào Phật tử say mùi thiền rồi, bóng tùng xanh mát, dáng núi lại nhấp nhô, mưa nhỏ hoa thêm sắc, tường cao đón ánh trăng, đài tạ ngâm nga, lại đã cùng chứng kiến bao sự buồn vui cùng bệ hạ, nay nhất đán bỏ mà đi, sông núi linh thiêng cũng như rơi lệ. Vì vậy thiếp đem đàn theo, cũng là có ý từ biệt cùng cảnh vật, để sông núi cũng không đến nỗi cười thiếp là kẻ bạc tình vậy! 

Dượng Đế nghe nói thế, cũng than thở: 
- Nơi này trẫm cũng thật không muốn rời bỏ đâu, bởi hoàng hậu bỗng nổi cơn hứng muốn ngự du Giang Đô. Ngỡ là mọi việc khó mà thu xếp xong, nào ngờ giờ đây ước nguyện đã thành. Đây cũng là chuyện số trời. Sức người thì làm gì nổi? 
Bỗng thấy Cao Xương cùng bảy tám kẻ tay chân tâm phúc thái giám, tới quỳ tâu: 
- Một nghìn cô gái trong đội "Điện cước nữ" bọn bề tôi này đã đi về vùng Giang Nam tuyển, nay đã đủ số. 
Dượng Đế cả mừng: 
- Nay đang ở đâu? 
Thái giám thưa: 
- Vương Hoằng vâng lệnh đã chia làm thành từng đội theo số hiệu thuyền rồng, để tiện cho việc tập dượt. Không biết đến bao giờ thì bệ hạ ngự giá? 
Dượng Đế nghĩ ngợi: 
- Trẫm chinh Liêu chẳng qua chỉ là lấy danh vậy thôi, thực ra là tuần du Giang Đô. Nhưng nay dã mang tiếng là thiên tử thân chinh, không thể nào giống kẻ khác, lẽ ra phải phân làm hai mươi tư đội cả thảy. 
Đắn đo một hồi, Dượng Đế quay về đại diện, viết một tờ sắc rằng:

"Nay ban rằng: Vũ Trọng Văn làm Tả dực vệ đại tướng quân, Tân Thế Hùng làm Hữu dực đại tướng quân, Kinh Nguyên Hằng làm Tả kiêu vệ đại tướng quân, Tiết Thế Hùng làm Hữu kiêu vệ đại tướng quân; Mạch Thiết Trượng làm Tả đồn vệ đại tướng quân, Trần Lăng làm Hữu đồn vệ đại tướng quân; Trương Cẩn làm Tả ngự uy tướng quân, Triệu Hiếu Tài làm Hữu ngự uy tướng quân; Chu Pháp Thượng làm Tả vũ vệ tướng quân, Thôi Hoằng Thăng làm Hữu vũ vệ tướng quân, Vệ Văn Thăng làm Tả ngự vệ hổ bôn lang tướng, Khuất Đột Thông làm Hữu ngự vệ hổ bôn lang tướng. Cộng tất cả là hai mươi tư viên tổng quản. Lại lệnh cho Lưu Sĩ Long làm Tuyên dụ sứ, hiệp đồng với Tổng đốc lục quân đội nguyên soái Vũ Văn Thuật, Thủy quân thống lãnh nguyên soái Lai Hoạch Nhi, làm tiểu đội vương sư, cùng tiến vào Bình Nhưỡng.” 

Viết xong, Dượng Đế đưa cho nội giám, truyền cho các bộ, các ty biết rõ, chọn ngày tốt, thiên tử ngự tế trời đất, miếu tổ, khao thưởng ba quân, thống lãnh một vạn Vũ lâm quân, chia đường hướng Liêu Đông cùng tiến. 

Tướng quân Lai Hoạch Nhi rõ tin hoàng đế đã rời đô thành, liền lệnh cho Tần Thúc Bảo xuất quân. Thúc Bảo từ lâu đã tìm người hiểu rõ đường sông biển làm hướng đạo, lại đinh ninh lời dặn dò của Trương Tu Đà, trước tiên sai tướng hiệu tâm phúc đi trước phát hiện những ổ mai phục dọc theo áp Lục Giang, rồi chờ sẵn ở Bình Nhưỡng đón đại quân đến sau, tiễu trừ tận sào huyệt, nội ngoại cùng giáp công. 
Chính là: 

Mẹo thần đã chẹn họng rồi 
Bọn tiểu nhân rối tơi bời, vỡ gan. 

Lại nói Dượng Đế sau khi đã ban một loạt thánh chỉ cho việc ngự du Giang Đô, liền vào cung hỏi Tiêu Hậu: 
- Chúng cung nữ cùng đi Giang Đô, tuyển đã xong chưa? 
Tiêu Hậu cười đáp: 
- Bệ hạ ra cho thiếp một cái đề thật muôn ngàn khó khăn, bảo thiếp làm sao mà làm cho xong được. Cung nữ thì nhiều kẻ chẳng nói chẳng rằng, đi cũng không nói, ở cũng chẳng một lời. Ai cũng như người say rượu, thấy bệ hạ đi khỏi, cả ba bốn trăm cung nữ nhất tề kéo đến quỳ trước thềm tâu rằng: "Chúng thiếp giữ Tây Uyển từ lúc hoa sớm nở đến lúc trăng khuya mọc, trải đủ mọi sóng hồ gió núi, rồi cũng đã từng ở điện Chiêu Dương đội nhiều ơn mưa móc của chúa thượng, bao cảnh phồn hoa đã trải đủ. Chúng thiếp cũng từ Tây Kinh lại Đông Kinh, hai phen theo ngự giá. Tuy chẳng phải châu quý ngọc lành, nên chẳng dám nghĩ tới chuyện bệ hạ sủng ái, trước mắt âu cũng chỉ là cảnh trâm gãy vòng rơi, nhưng cảnh ngoài muôn dặm, Giang Đô tiên giới, tuy tai đã được nghe, mắt chưa từng thấy, dẫu chúa thượng có bỏ chúng thiếp, xin hoàng hậu hãy nói đỡ cho vài lời vậy!" 
Nói xong, tất cả như cha mẹ chết, khóc lóc ầm ĩ, thì thử hỏi thiếp làm sao mà phân xử cho được? 
Dượng Đế cười đáp: 
- Bọn tiện tỳ này giỏi thật, cũng biết kéo tới cả để kêu xin kia à? 
Tiêu Hậu thưa: 
- Cũng có nguyên cớ dấy. Nhân hai phi tử họ Trương họ Doãn xúi bẩy: "Hai chúng ta thì tuổi đã cao rồi, nhan sắc đã tàn tạ rồi, nhưng các ngươi đều còn như đóa hoa tươi cả, ngày tháng còn dài, sao không nhân lúc này mà tìm cách chiếm được sự lưu tâm của chúa thượng, còn chờ đến lúc bị bỏ rơi, bị quên lãng nữa sao?". Vì vậy mà chúng cung nữ mới cùng nhau kéo đến van xin vậy. 
Dượng Đế vừa nghe vừa gật gật đầu, gọi một thái giám truyền ngay binh bộ, chuẩn bị ngay bốn mươi chiếc thuyền, thái giám lĩnh chỉ đi ngay. 

Thì ra Trương Phi tử, vốn có tên Diễm Tuyết, Doãn Phi tử, vốn có tên Cầm Sắt, cả hai đều cùng một lứa với Tuyên Hoa phu nhân thời Tùy Văn Đế, tuổi tác cũng xấp xỉ như Tuyên Hoa phu nhân thôi, nhưng nhan sắc thì không bằng, lúc này khoảng ba tám, ba chín gì đó. Bởi Dượng Đế chung tình với Tuyên Hoa phu nhân, nên chẳng bao giờ để ý tới hai phi tử này. Huống chi sau khi Tuyên Hoa phu nhân chết, tiếp đó là chuyện Dương Tố ngã lăn ra ở Tây Uyển, trước khi chết còn nói đủ chuyện oan cừu, chuyện hiển linh của Văn Đế giữa ban ngày, vì vậy Dượng Đế trong lòng cũng có phần sợ hãi, không dám nối mãi gót xưa. 
Trường An lại bao phen lộn xộn, Hứa Đình Phủ bao phen tuyển cung nữ, Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử cậy mình xưa kia được Văn Đế sủng ái, chẳng có lý nào dám đầy họ nơi này nơi khác. Mà dù có đẩy họ ra lãnh cung suốt đời đi chăng nữa, thì lòng họ cũng đã như tro tàn rồi còn hy vọng gì. Tiêu Hậu vốn là kẻ nhỏ nhen, đố kỵ, chỉ thích người khác tới xum xoe, nịnh hót, nay lại thấy cả hai người này không chịu tới xu phụng, vì vậy mới dựng nên chuyện này, để nhổ quách mấy cây cỏ dại ngứa mắt, mà vẫn được tiếng khoan nhân, rộng lượng. Dượng Đế làm thế nào mà biết được những mưu đồ đen tối đó. 

Ngày hôm sau, những cung nữ không được chọn đi nhìn sau rèm cửa phòng, thấy Dượng Đế đang lên xe rồng, tất cả cùng kéo ra, níu lấy xe, kêu xin thảm thiết. Lại thấy khoảng chục viên nội giám, kéo đến nơi ở của Trương Phi tử, Doãn Phi tử, cao giọng nói: 
- Chúa thượng có chỉ truyền: cả bốn trăm cung nữ chưa có trong số được chọn, lệnh cho Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử đưa số này xuống thuyền ngay, không được sai sót. 

Trương, Doãn hai người đều lấy làm ngạc nhiên: "Cả hai chúng ta đều chưa từng xin triều đình việc này, cũng chẳng lụy lục gì hoàng hậu, tại sao trong cái nồi hông lạnh, mà lại có hơi bay ra cho được!". 

Bọn cung nữ lập tức vui mừng, thu thập tế nhuyễn riêng tư, chất cả lên mấy xe lớn, nhất tề ra khỏi cung cấm. Đi ròng rã một ngày trời, mãi tới hoàng hôn mới được lên thuyền. Sáng ngày hôm sau, Trương, Doãn hai người đều nghi ngờ, bèn hỏi bọn nội giám: 
- Thuyền của chúa thượng ở đâu? 
Nội giám đáp: 
- Ở phía trước! 
Trương Phi tử hỏi: 
- Nghe nói triều đình mới đóng một trăm chiếc thuyền rồng, nay chúng ta đang đi là thuyền trưng dụng của dân chúng, chẳng phải thuyền rồng. Trong này nhất định có gì phải giấu giếm, che dậy rồi. Các người lừa chúng ta đi đâu, hãy mau nói ra xem nào? 
Bọn nội giám thấy không thể giấu nổi, đều nhất tề quỳ thưa: 
- Xin nhị vị phu nhân đừng nổi giận, đây chính là làm theo thánh chỉ của chúa thượng, sai bầy tôi đưa nhị vị phu nhân cùng các cung nữ về Tấn Dương cung. Nhược bằng nhị vị không tin, hiện có sắc chỉ chính tay chúa thượng ngự phê ở đây! 
Bọn nội giám đưa sắc chỉ ra, các cung nữ trong thuyền, cùng hai Trương, Doãn Phi tử xúm lại đọc thì thấy ghi rõ: 

"Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử, vốn được tiên triều sủng ái quá nhiều, nay để lại đây cung phụng khó khăn, lệnh cho đem theo hơn bốn trăm cung nữ không có tên đi Giang Đô, trở về Tấn Dương cung ở Thái Nguyên trước. Truyền cho phó giám giữ cung Bùi Tịch đối chiếu sổ sách nhận đủ, trông coi chu đáo, không được sai sót.” 

Các cung nữ đọc xong thánh chỉ, biết rõ không phải đi Giang Đô mà là trở về Tây Kinh, đều khóc lóc ầm lên, có cả kẻ đâm đầu xuống sông tự tử, có kẻ tìm dao đòi đâm cổ. Chỉ riêng Trương Phi tử thì cười ha hả mà nói: 
- Ta xem ra các ngươi đều là một lũ ngốc. Dù có tới Giang Đô, cũng chẳng cha mẹ thân thích gì ở đó, bất quá chẳng qua là rong chơi một vùng. Việc sủng ái nào đến phần các ngươi. Cứ như ta đây còn đến thế này. Các ngươi sao không rõ số phận của mình. Về Thái Nguyên lại tự do tự tại, chẳng phải xin xỏ, chẳng phải lạy lục, chẳng người sai phái, sướng biết bao nhiêu. Cứ chờ đó mà xem bọn họ đắc ý ra thế nào! 





Các cung nữ nghe nói thế, lòng cũng thanh thản hơn, lại nói nói cười cười trong vòng một tháng mới về đến Tấn Dương cung. Nội giám dẫn hai phi tử cùng bọn cung nữ, giao cho phó giám Bùi Tịch minh bạch, rồi quay về Giang Đô phục chỉ. 
Không biết mọi chuyện sẽ ra sao, xin xem hồi sau phân giải.


 Nguồn maxreading.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved