Not seeing a Scroll to Top Button? Go to our FAQ page for more info.

3 thg 11, 2013

Tùy Đường diễn nghĩa- Chữ Nhân Hoạch Hồi 46,47

HỒI 46

Giết Địch Nhượng, Lý Mật phụ bạn,
Loạn cung phi, Đường Công dấy binh.

Từ rằng: 
Bã vinh hoa miệng mồi ngon ngọt 
Nhử đứa tham, được mất nịnh ghen 
Hại sừng ốc nhỏ đua chen (1) 
Chẳng bao giờ hết đê hèn nhiễu nhương 
Cơ duyên lại đưa đường dẫn lối 
Rượu cừu thù miệng lưỡi gươm đao 
Công danh ấy, công danh nào 
Cao gò xương trắng, đầy hào máu đen. 
Theo điệu "Thanh sam thấp" 


1 "Nam hoa kinh": Ở hai đầu sừng của con sên, có hai nước, đánh nhau suốt năm này sang năm khác, gieo vạ không cùng cho dân chúng. 

* * * 
Lại nói Tần Thúc Bảo ở chùa Đại Hải lo chuyện chôn cất Trương Thông thủ cùng Kiến Uy, Vạn Nhẫn, lại làm thêm mấy ngày lễ cầu siêu chu tất, rồi mới cùng Đơn Hùng Tín, La Sĩ Tín lên đường tới Khang Thành hội họp với Huyền Thúy, Bá Đương, hỏi chuyện cũ, bàn việc mới, thật là đằm thắm.
Thúc Bảo khuyên Huyền Thúy dùng lính khinh kỵ đánh úp Đông Đô, để lấy làm nơi cơ bản, rồi từ đó mà yên định bốn phương. Địch Nhượng nghe được kế này, liền làm ngay, lệnh cho đầu mục Bùi Tự Phương, đem theo một số tay chân lanh lợi, đi trước thăm dò đường lối, chỗ nào sông sâu chỗ nào núi cao cửa ải, cầu cống ra sao, binh mã triều đình thế nào. Không ngờ bị quân triều đình phát hiện, bắt được ba bốn người, biết rõ là gian tế của Địch Nhượng, liền giải ngay về phủ Binh Bộ của Vũ Văn Thuật để tra khảo, rồi đem chém đầu. Chỉ còn Tư Phương cùng ba bốn người khác trốn được về. Sau việc này, Đông Đô tăng cường phòng bị. 

Còn Huyền Thúy cử ngay Thúc Bảo, đem theo Giảo Kim, Sĩ Tín, dẫn khinh binh lặng lẽ tập kích Dương Thành, lẻn qua Phương Sơn, thắng chiếm Thương Thành, Địch Nhượng, Huyền Thúy mới lục đục kéo đến sau. Cả một vùng Lạc Khẩu, chẳng mất một mũi tên, rơi vào tay Địch Nhượng. Huyền Thúy mở kho lương phát không cho trăm họ bốn phương, vì vậy xung quanh vùng, dân chúng đều đua theo về. Bọn sĩ đại phu Thời Đức Duệ, huyện lệnh Túc Thành Tổ Quân Ngạn cũng bỏ theo. 

Đông Đô nghe báo chuyện này, Việt Vương Đồng liền sai Hổ bôn lang tướng Lưu Nhân Cung, Quang lộc thiếu khanh Phòng Tắc, dẫn hai vạn năm nghìn binh mã, cùng Hà Nam thảo bổ đại sứ Bùi Nhân Cơ trước sau tiến công, hội quân ở Thương Thành. Không ngờ mọi sự đã được Huyền Thúy định liệu từ trước, điều năm cánh tinh binh, đánh cho quân Tùy thua to. Lưu Nhân Cung, Phòng Tắc bỏ chạy thoát thân. Bùi Nhân Cung nghe tin cánh quân Đông Đô thua trận, cũng án binh bất động. Tiếng tăm Huyền Thúy càng ngày càng lớn rộng. 

Địch Nhượng có một viên quân sư là Giả Hùng, thấy Huyền Thúy yêu người đãi sĩ, liền ngầm liên kết với Huyền Thúy. Khi Địch Nhượng muốn tự tập làm vua. Giả Hùng được sai gieo quẻ bói mấy lần, đều nhìn cách nói dối là quẻ không tốt, chỉ nên làm tay chân cho Huyền Thúy, lại viện cớ rằng: 
- Huyền Thúy vốn đã được tước phong Bồ Sơn Công, còn tướng quân họ Địch, Địch cũng là đầm lầy, cỏ bồ gặp đầm lầy thì sinh (1). Số mệnh đã an bài thế rồi! Huống chi gần đây thấy có câu đồng dao: 
1 chữ "Địch”, cũng đọc là "trạch", đồng âm với chữ "trạch" là đầm lầy. Bồ là một loại cỏ mọc ở đầm lầy, gần giống lác ở ta vậy. 

Đào lý tử 
Hoàng hậu lạc Lạc Dương 
Quanh quẩn giữa vườn hoa 
Đừng nhiều lời 
Ai không nói! 

"Đào Lý tử” nghĩa là "chạy về với con cái họ Lý", hai câu tiếp chỉ triều Tùy xuống Dương Châu rồi không còn về bắc nữa. Hai câu cuối chính là chỉ chữ "mật", tên riêng của Huyền Thúy (1). 

1 “Đào" là cây đào, đồng âm với "đào" là trốn là theo. Chữ "mật" có nghĩa là bí mật, giữ kín không nói cho ai biết, vì thế hai câu cuối hàm ý chữ "mật" vậy! 

Vì vậy Địch Nhượng bàn với chúng hào kiệt, tôn Huyền Thúy lên làm Ngụy Công, lập đàn lên ngôi, xưng hiệu là Vĩnh Bình nguyên niên, ban lệnh đại xá thiên hạ, tuyên cáo khắp cõi, đặt Nguyên soái phủ, bái Địch Nhượng làm Thượng trụ quốc tư đồ Đông Quận công, Từ Mậu Công làm Tả phiên vệ đại tướng quân, Đơn Hùng Tín làm Hữu phiên vệ đại tướng quân, Tần Thúc Bảo làm Tả vũ hầu đại tướng quân; Vương Bá Đương làm Hữu vũ hầu đại tướng quân; Trình Giảo Kim làm Hậu vệ tướng quân; La Sĩ Tín làm Phiêu ký tướng quân; Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê, Vương Đương Nhân đều làm Hổ bôn lang tướng, Phòng Ngạn Tháo làm Nguyên soái phủ Hữu trưởng sử; Giả Nhuận Phủ làm Tả tư mã; Liên Cự Chân làm Hữu tư mã, quan Tùy theo về, huyện lệnh Củng Huyện làm giám sát ngự sử. 




Bùi Nhân Cơ tuy đóng ở Hà Nam nhưng lại không hòa thuận với giám sát ngự sử Tiêu Hoài Tĩnh. Hoài Tĩnh tìm đủ mọi cách để chèn ép Nhân Cơ, đến nỗi Nhân Cơ không thể nào chịu nổi. Nhuận Phủ vốn có quen biết cũ với Nhân Cơ, thường vẫn lén đến quân doanh thuyết phục Nhân Cơ cùng với con là Bùi Hằng Nghiễm giết Hoài Tĩnh, kéo toàn quân theo Nhuận Phủ đến hàng Ngụy Công. Ngụy Công lấy lễ đối xử rất ưu ái, phong cho Nhân Cơ làm Thượng trụ quốc, Hà Đông Công, Hằng Nghiễm làm Thượng trụ quốc, Giáng Quận công. Huyền Thúy dẫn quân lấy được Lạc Thương, Đông Đô vội làm văn thư cáo cấp về Giang Đô. Vua Tùy sai Giang Đô thông thủ Vương Thế Sung, kéo tinh binh vùng Giang Hoài về giữ Đông Đô, Huyền Thúy liền rút quân về, Thúc Bảo kéo quân đánh Vũ Dương. Vũ Dương quận thừa là Nguyên Bảo Tạng, nghe tin binh Thúc Bảo đến, vội gọi ngay ký thất Ngụy Trưng để bàn cách đối phó. Ngụy Trưng chính là Ngụy Huyền Thành, đạo sĩ ở Hoa Sơn vật. Ngụy Trưng thấy thiên hạ đại loạn, chính là lúc anh hùng đắc ý, bèn hoàn tục đến làm dưới trướng Bảo Tạng. Bảo Tạng hỏi: 
- Huyền Thúy đang lúc tướng mạnh binh hùng, Thúc Bảo lừng tiếng. Bản quận đây có bao tinh binh thì đã phái đi cứu viện cho Đông Đô, làm thế nào mà chống giặc giờ? 
Ngụy Trưng bàn: 
- Huyền Thúy thế mạnh, Thúc Bảo anh hùng, lại thêm có tiếng hiền đức. Vũ Dương ta mà đối địch với họ, cũng chẳng khác gì lấy một hòn đất mà định ngăn dòng sông lớn vậy. Minh công nên chọn lấy kế hay, để bảo toàn lấy dân chúng, quan binh, thành quách. 
Bảo Tạng đáp: 
- Còn kế gì hay nữa bây giờ, chỉ có cách là theo hàng quách, giữ được yên ổn cả thành. Túc hạ hãy mau viết thư hàng, rồi thân đến quân doanh của họ một chuyến vậy. 
Quân Thúc Bảo kéo đến, Ngụy Trưng đến gặp. Ba bạn cũ gặp nhau, mười phần hoan hỉ, Thúc Bảo cười nói với Ngụy Trưng: 
- Tiểu đệ từ trước đã đoán tiên sinh chẳng mặc được bộ áo vàng của đạo sĩ suốt đời, nay quả nhiên như vậy. 
Nhân hỏi đến tình trạng hiện thời của Vũ Dương, Ngụy Trưng đáp: 
- Quận thừa Nguyên Bảo Tạng có đức độ biết thuận mệnh trời, nguyện đem toàn thành quy phục chẳng phiền cố nhân phải binh đao khó nhọc. 
Thúc Bảo đáp: 
- Đó chính là nhờ công dàn xếp của tiên sinh, xin hãy đến dưới trướng của Ngụy Công, trình hàng thư cho hợp lễ nghi vậy. 
Rồi giữ lại trong quân doanh chuyện trò cho bõ những ngày xa cách: Thúc Bảo lại làm tờ trình, nói rõ Ngụy Trưng có tài giúp dựng nghiệp vương bá, trù liệu nơi màn trướng, Ngụy Công nên trọng dụng. Thấy được Thúc Bảo hết lòng tiến cử, Huyền Thúy liền cử Ngụy Trưng làm Nguyên soái phủ văn học tham quân ký thất, còn Bảo Tạng được giữ chức Ngụy Châu tổng quản. 

*** 

Nay nói chuyện Địch Nhượng, lúc đầu vốn là một tay vũ dũng vô mưu, cho nên khi còn ở giữa đám lục lâm nổi bật vẻ anh hùng, đến khi có bọn Huyền Thúy đều thuộc loại túc trí đa mưu, đánh thành chiếm đất, hoạch định mưu lược, thì sao theo nổi, lại nghe theo lời bọn Giả Hùng, Lý Từ Anh, nhường cho Huyền Thúy lên ngôi Ngụy Công, còn mình cam chịu phận dưới. Về sau nhiều người về theo, Huyền Thúy càng quyền thế, trong lòng càng sinh lòng không cam chịu. Lại có thêm người anh là Địch Hoàng, được phong là Thượng trụ quốc Vinh Dương Công, vốn cũng một phường thô lỗ, Địch Hoàng nói: 
- Quyền bính của nhà ta, cớ gì lại rơi vào tay kẻ khác, để rồi lại phải đi hầu hạ dưới trướng bọn chúng nó. 
Lại thêm bọn tay chân cũ, nay thấy tâm phúc Huyền Thúy quyền hành ngang dọc, còn mình bị bỏ rơi, nên càng bày vẽ, xúi giục nhiều chuyện càn rỡ. Người xưa đã từng nói: "Vật tiên hủ dã, nhi hậu trùng sinh", vật trước tiên phải thối nát đã, sau ròi bọ mới theo đó mà sinh. Lúc này mà có kẻ đứng ra dàn xếp, thì cũng chẳng có chuyện gì lớn. Hùng Tín dẫu có thân thiết cả hai bên, nhưng vốn là người thẳng tính. Bá Đương, Thúc Bảo, Giảo Kim vốn chỉ thân thiết với Huyền Thúy, Mậu Công thì dẫu có tài thao lược, nhưng lại sợ đứng ra đương đầu chẳng xong, chỉ tổ mang họa. 

Một hôm, Địch Nhượng vòi tiền bạc của thứ sử Yên Long Thôi Thế Khu vừa mới quy hàng, rồi dọa bỏ giam ngục tối, Huyền Thúy sai người đến đòi Thế Khu, nhưng Địch Nhượng vẫn không chịu thả. Ký thất nguyên soái phủ là Hình Nghĩa Kỳ, được Địch Nhượng gọi đến đánh cờ, đến chậm, bị Nhượng đánh cho tám mươi roi. Phòng Ngạn Tháo đánh Nhữ Nam về, Nhượng đòi chia vàng lụa, nói: 
- Tại sao ngươi dâng cho Ngụy Công mà không chịu dâng cho ta. Ngụy Công là do ta lập nên, còn chuyện sau này ra sao thì ta không thèm biết. 
Do những việc này, Phòng Ngạn Tháo, Hình Nghĩa Kỳ, cùng tư mã Trịnh Đinh khuyên Huyền Thúy trừ Nhượng. Huyền Thúy nói: 
- Nghĩ đến ban đầu tới đây, nhờ Nhượng mà thoát khỏi họa lớn, thực là công lớn. Nay định bức hại Nhượng, người ngoài nào biết ngang ngược, mà đổ cho ta bội nghĩa ghét tài, rồi đem lòng đố kị, không thể nào làm được. 
Nhưng lại thầm nghĩ: "Nhượng là kẻ hảo hán, chỉ sợ lâu ngày bị bọn thủ hạ lôi kéo làm bậy, thì đúng là nuôi họa ngay bên nách vậy", Trịnh Đinh thưa: 
- Rắn cắn, chất độc lan cả cánh tay. Tráng sĩ ngang dọc, anh hùng hành sự, không thể để ý đến hết những chuyện tiếng danh, nghĩa khí lặt vặt. Nay chỉ sợ chạm đến hư danh, mai kia sẽ thực chịu vạ chu di, lúc ấy thì dẫu có hối cũng quá muộn vậy. 
Phòng Ngạn Tháo tiếp: 
- Địch tư đồ là người hồ nghi, không quyết đoán, minh công có được ngày nay, mà cũng lại trù trừ như vậy, thì sợ rằng theo vết của tư đồ mất thôi. Minh công phải biết rằng, đã là một kẻ vô mưu, không thể nào bày mưu tính kế cho người, thì lại có gan làm những thủ đoạn tàn ngược. 
Huyền Thúy đáp: 
- Các ngài vì ta mà bày mưu hay, kế lạ, nhưng phải làm sao cho chu tất. 
Ngày hôm sau, Huyền Thúy đặt tiệc rượu, mời Địch Nhượng, Địch Hoàng cùng Bùi Nhân Cơ, Hách Hiếu Đức. Huyền Thúy lệnh cho tướng sĩ phải ra ngoài cửa doanh chờ, chỉ giữ mấy kẻ tâm phúc của mình ở lại phục dịch. Tiệc rượu đã bày, Tư mã phủ Vương Nhu Tín cùng tay chân của Địch Nhượng vẫn chưa chịu ra. Phòng Ngạn Tháo tâu: 
- Trời lạnh, những người theo hầu tư đồ, cũng xin mời tiệc rượu khao thưởng. 
Huyền Thúy đáp: 
- Hãy bày thêm rượu thịt ra! 




Bọn này vẫn chưa chịu đi, Địch Nhượng lên tiếng: 
- Nguyên soái đã khao thưởng, các ngươi cứ ra mà nhận phần của mình. 
Bọn này mới lạy tạ đi ra, còn lại một tráng sĩ dưới trướng của Huyền Thúy, tên gọi Sái Kiến Đức, cầm đao đứng hầu bên. Huyền Thúy lên tiếng: 
- Gần đây có kiếm được một cái cung rất tốt, bách phát bách trúng, xin được đưa ra để các vị xem thử. 
Đầu tiên đưa cho Địch Nhượng xem, nói rằng nặng tám thạch, 
Địch Nhượng cãi: 
- Chỉ độ sáu thạch là cùng? Để ta thử xem? 
Rồi rời ghế đứng dậy, giương cung như vành trăng, bị ngay Sái Kiến Đức chém một đao vào sau gáy, ngã lăn ra tức khắc, nhưng vẫn còn kịp rống lên một tiếng như trâu vậy. Thương thay, bậc anh hùng trăm trận, khoảnh khắc mạng gửi ba thước đất. 
Lúc này Hùng Tín, Mậu Công, Quốc Viễn, Như Khuê, Nguyên Chân, năm người đang ngồi tiệc rượu ở dinh Giả Tử mã, đang đưa rượu lên miệng, thì thấy tiểu hiệu vào báo: 
- Địch tư đồ bị nguyên soái chém chết rồi! 
Hùng Tín nghe nói hoảng hồn, chén rượu dang cầm trên tay, rơi ngay xuống đất, than: 
- Như thế là tại sao? Dẫu cho họ Địch có ngang ngược ít nhiều, cũng nên tha thứ, mà nghĩ đến buổi đầu cùng tụ hội ở Ngõa Cương này, mới có được ngày nay chứ! 
Nguyên Chân tiếp: 
- Tự xưa đã nói rồi: hai anh hùng khó chung đứng một nhà. Việc này tiểu đệ nghĩ thế nào cũng không tránh khỏi. 
Mậu Công nhận xét: 
- Trước mắt hành sự, ai là người có thể tự nhận thua kém người khác. Chỉ đáng tiếc...
Như Khuê hỏi: 
- Đáng tiếc cái gì? 
Mậu Công đáp: 
- Không phải tiếc cho Địch Nhượng đâu, mà chỉ tiếc cho Lý đại ca thôi! 
Nhuận Phủ gật đầu hiểu ý. 
Đang lúc bàn luận, thấy thủ hạ vào thưa: 
- Ngoài kia có người xưng là bạn cũ, xin gặp Lý tướng quân. 
Như Khuê chạy ra đón, dắt tay một người vào, nói rằng: 
- Đơn viên ngoại, xem Viên ngoại có nhận ra người này không? 
Hùng Tín đứng lên nhìn kỹ, thì ra là Đỗ Như Hối, liền cùng mọi người chào hỏi. Như Hối nói với Mậu Công: 
- Từ lâu đã nghe tiếng anh tài của Từ đại huynh, nhưng chưa được gặp, nay mới được thấy mặt, thật thỏa ước bình sinh. 
Mậu Công đáp lời: 
- Tiểu đệ trước khi lên Ngõa Cương này, gặp Lưu Văn Tĩnh, có nói tới tài văn chương, tế thế, thông minh mẫn tiệp, thiên hạ ít có của hiền huynh, tiểu đệ đáng ra phải lùi lại phía sau mà vái đúng ba vái vậy. 
Hùng Tín nói: 
- Đỗ đại huynh, từ chỗ Trương Công Cẩn ở Trác Châu lên thẳng đây sao? Lâu nay không được gặp mặt khiến bọn Hùng Tín này vẫn thường nhắc tới luôn. Không biết ngọn gió nào thổi được đại huynh tới đây? 
Như Hối đáp: 
- Tiểu đệ ngẫu nhiên có việc qua đây, muốn gặp Thúc Bảo đại huynh, không ngờ Thúc Bảo đã dẫn quân đi Lê Dương rồi, nhân thế biết Lý hiền huynh ở đây, nên tìm gặp nhau trò chuyện một phen. Không ngờ Đơn viên ngoại, cùng các vị hào kiệt, đều ở đây cả, cũng bởi thế mà Ngụy Công chẳng cần lâu la gì đã làm được nghiệp lớn như thế này. Quả là việc tên ghi gác khói, tượng truyền đài lân, các vị chiếm mất cả rồi! 
Hùng Tín thở dài: 
- Đời người ta lúc thịnh lúc suy chẳng thể nào mà lường trước được nói gì đến chuyện đài lân, gác khói ghi công nghiệp. Nghe nói đại huynh ra với triều đình, làm hiệu úy Ôn Thành, sao bị đuổi về vậy? 
Như Hối đáp: 
- Giữa buổi bốn phương loạn lạc, dính vào chuyện đấu gạo quan tiền, bị bọn nha lại làm trò chó ngựa, sao có thể nên nghiệp lớn cho được? 
Cùng nhau chuyện vãn một hồi, rồi đứng dậy từ biệt. Như Khuê, Quốc Viễn kéo Như Hối về chỗ ở của mình, bày tiệc rượu khoản đãi. 
Như Hối hỏi: 
- Vừa rồi tiểu đệ có đi qua soái phủ, thấy tiếng người la hét ầm ĩ không hiểu có chuyện gì? 
Quốc Viễn vốn thẳng tình, đáp luôn: 
- Chẳng có chuyện gì lớn, chẳng qua là ở đó giết một người thôi mà! 
Như Hối hỏi tiếp: 
- Giết ai thế? 
Như Khuê đành phải đem chuyện bất hòa giữa Huyền Thúy và Địch Nhượng dẫn đến việc vừa rồi kể lại, rồi tiếp: 
- Ban đầu, ở Ngõa Cương này, Huyền Thúy, Đơn viên ngoại, Quốc Viễn cùng tiểu đệ đều được Địch đại huynh mời về, làm thành một bọn với nhau cả, nay có sự như thế này, ai nấy trong lòng đều có đôi chút ngần ngại. 
Như Hối nói: 
- Vừa rồi tiểu đệ xem Đơn viên ngoại có vẻ rầu rĩ, chán chường, thấy tiểu đệ có vẻ lạnh nhạt, tiểu đệ nghĩ viên ngoại đã làm quan rồi, thay đổi tâm tính cũng là chuyện thường, không ngờ là bởi tại có việc này vậy. Huyền Thúy mà đối đãi như vậy, càng thấy nhẫn tâm. Các vị khác nghĩ đến thân phận của mình, cũng đều như cá trên thớt cả hay sao? 
Quốc Viễn đáp: 
- Hai anh em chúng tôi ở đây, chẳng có gia quyến để trói buộc, trơ trọi một thân, thân thiết thì ở, chẳng ra sao thì lại đi, xem họ làm được gì mình nào! 
Như Hối nói: 
- Có một nơi rất dễ dung thân, chỉ sợ hai vị không bằng lòng đi mà thôi! 
Cả hai đều hỏi: 
- Ở đâu thế? 
Như Hối đáp: 
- Mùa xuân vừa rồi, tiểu đệ đến công đường của Lưu Văn Tĩnh ở Tấn Dương, gặp Sài Tự Xương, vốn quen thân với tiểu đệ. Tự Xương nói chuyện về Thúc Bảo cùng hai vị, dạo ở Trường An xem hội đèn nguyên tiêu, anh hùng hào kiệt thế nào, rất là khen ngợi, lại biết các vị đã quy tụ về đây liền nhờ tiểu đệ ngầm tới thăm, nhắn rằng mai kia lệnh nhạc Đường Công sẽ khởi đại sự, rất cần đến sự giúp đỡ của các vị. Không ngờ Thúc Bảo đã được phái đi công cán. Hai vị chẳng vừa lòng lắm với nơi này, hãy cùng tiểu đệ tìm đến Tự Xương, nghiệp lớn may thành, phú quý cùng hưởng. Lại thêm người em, con lệnh nhạc Đường Công là Lý Thế Dân, vấn khoan nhân đại độ, kính hiền, đãi kẻ sĩ, các vị vốn là chỗ quen biết cũ, nhất định được đối đãi đặc biệt. 
Quốc Viễn đáp: 
- Tiểu đệ cũng định đi quách, ở dưới tay người khác, chẳng bằng riêng mình làm đầu lĩnh một sơn trại. 
Đang nói, một người từ bên ngoài đột nhiên chạy vào, túm chặt lấy ngực áo Như Hối, quát lớn: 
- To gan thật? Người dám tới dây để làm thuyết khách cho kẻ khác sao? Ta phải lôi ngay tới soái phủ mới xong? 
Như Hối sợ hãi, mặt mày xanh xám, Quốc Viễn nhận ra Hách Hiếu Đức, bèn nói: 
- Nguy to rồi! Tất cả hãy rút kiếm ra! 
Rồi rút ngay kiếm xông vào. Hiếu Đức vội bỏ tay, cười lớn, nói: 
- Xin hai vị khoan khoan đã? Những điều các vị bàn bạc, tiểu đệ đã nghe rõ ràng cả. Ý tiểu đệ cũng chẳng khác gì hai vị ở đây. Nếu được cùng đi, sống chết cũng không dám nài. Tiểu đệ trước đây đã được nghe Ngụy Trưng dạy, trên đường lại gặp Từ Hồng Khách, đều nói chân chúa đã xuất hiện ở Thái Nguyên. Huyền Thúy khó mà làm nên công trạng gì. Việc vừa rồi, đối với Địch đại huynh còn như vậy, chúng ta nào khác gì đồ bỏ đi thôi! 
Như Khuê tiếp: 
- Hách hiền đệ bàn thật thẳng thắn, nhưng chúng ta đi như thế nào bây giờ? 
Hiền Đức đáp: 
- Cái này thì không có gì khó cả. Vừa rồi tiêu mã về báo, Vương Thế Sung vừa kéo quân lên Lạc Bắc, ngày mai Ngụy Công thế nào cũng phát binh, hai vị mặc chuyện thành bại, cứ lĩnh một cánh quân, theo lối Hộ Huyện mà đi, ai ra đó mà đuổi theo các vị. 
Như Khuê khen: 
- Hay lắm! 
Hiếu Đức hỏi Như Hối: 
- Đại huynh ở đây xong thì đi đâu? 
Như Hối đáp: 
- Giờ thì về chỗ nghỉ. Sang canh năm sẽ lên đường sớm để về Cảnh Dương! 
Hiếu Đức lại hỏi: 
- Đêm nay đại huynh nghỉ ở đâu? 
Như Hối đáp: 
- Nhà từ Hàm Huy ngoài cửa Nam. 
Hiếu Đức liền vái chào đi ra. Như Hối thấy thế, trong lòng không khỏi nghi ngại, vội thêm vài câu dặn dò rồi cũng từ biệt ra cửa. Về đến nhà Hàm Huy, thì đã thấy Hiếu Đức cùng hai tay chân, yên cương, hành lý đầy đủ chờ sẵn, lấy làm kinh ngạc hỏi: 
- Sao hiền huynh vội vàng thế? 
Hiếu Đức đáp: 
- Ngụy Công tính hay nghi ngờ, dùng dằng chỉ tổ sinh biến. Tiểu đệ biết soái phủ đã có lệnh, sang canh năm sẽ xuất binh, cho nên phải đi ngay lúc này mới hòng yên ổn! 
Cả bọn sai chủ quán dọn ăn bữa tối, rồi thu thập hành lý lên đường đi ngay Cảnh Dương. 
Đi được vài ngày, đến thôn Vũ Dương thuộc Sóc Châu, vào giữa một thôn lớn, gặp tiết trọng đông (l), hoa tuyết phơi phới bay, thấy trước mắt, lá cờ hiệu của quán rượu khẽ lay nhẹ. Hiếu Đức lên tiếng: 
- Đỗ đại huynh. Chúng ta hãy vào quán rượu này làm vài chén, rồi hãy đi tiếp có nên không? 
1 Tiết trọng đông: giữa mùa đông, tháng theo âm lịch, là tháng mười một. 
Như Hối đáp: 
- Hay lắm, ta vào thôi! 
Cả hai xuống ngựa, vào quán ngồi. Chủ quán bày rượu, thức nhắm ra. Ăn được mấy cái bánh bao, uống vài chén rượu nóng, thì bên tai vang tiếng búa đập đe chói tai, cả hai nghiêng đầu nhìn qua cửa sổ thì thấy cạnh quán, dưới gốc cây cổ thụ, có một lò rèn, ba bốn người đang xúm quay bể than đỏ rực, thay nhau giương búa tạ đập chí chát. Cạnh đó kê một cái bàn lớn, trên bàn bày một đĩa thịt bò, một đĩa ngỗng quay, một đĩa bánh bao lớn. Ngồi ngoảnh mặt về hướng nam là một người đàn ông to lớn, cao tới chín thước, hai vai rộng, râu đâm tua tủa, mặt đen như sắt, hai mắt sáng như sao, oai phong lẫm lẫm, khí phách hiên ngang. Hai bên là hai người nữa. Một người cầm bình rượu, một người nâng bát, rót rượu đầy đưa mời người to lớn ngồi giữa. Người này không từ chối, cầm lấy dốc cạn, xem như xung quanh không còn ai khác, cứ thế một mạch uống cạn mười bát, rồi vuốt râu cười lớn mà rằng: 
- Người ta đi vay, đến nhà giàu mà vay, hai vị lại đòi kẻ cùng này phải đứng lên viết văn tự, thì thật là kỳ quặc. 
Người ngồi ở bên phải lên tiếng: 
- Không phải sợ đại huynh trả một hai ly bạc đâu, chỉ cần đại huynh viết cho mấy chữ, chính là đã cứu tính mạng chúng tôi rồi đấy! 
Rồi lại vội vàng rót rượu tiếp. Người to lớn đáp: 
- Nếu nói như thế, thì mau mang giấy mực ra, đặt trên bàn kia. Đợi ta viết xong sẽ uống tiếp. Nếu không, ta uống say, viết chẳng ra sao đâu! 
Hai người này nghe nói, một người rút ngay trong ngực áo một mảnh giấy hoa tiên màu hồng, một người vào trong nhà đem nghiên bút ra bày cẩn thận trên bàn. Người ngồi bên trái vội vàng cúi lạy vị to lớn vội nói: 
- Khoan hãy bái lạy, khoan hãy bái lạy! Đợi ta viết xong đã. 
Rồi cầm lấy bút, giục: 
- Bảo ta viết cái gì nào? Đọc to lên! 
Người bên phải đáp: 
- Chỉ cần viết: "Uất Trì Cung lấy ở kho bạc năm trăm lạng chẵn. Phiếu này làm ngày mùng hai, tháng giêng, năm thứ mười hai, niên hiệu Đại Nghiệp". (1) 
1 Năm cuối của nhà Tùy, tức năm 616. Việt Nam đang thời Bắc thuộc, thuộc Tùy. 
Người to lớn viết theo đúng như lời xong, vứt bút lên bàn, cười khà khà, rồi lại nâng bát rượu uống một hơi cạn sạch, cũng chẳng một lời cảm ơn, đi lại chỗ lò rèn cùng làm với mọi người. Chẳng bao lâu, thu thập mọi thứ linh tinh của mình, người to lớn bỏ đi về phía đông. Như Hối lúc này mới bước ra, chào hỏi hai người kia: 
- Thưa hai vị, vị hảo hán vừa rồi là ai, tài đức ra sao, mà hai vị có kẻ kính trọng vậy? 
Một người đáp: 
- Ông ta họ Uất Trì, tên Cung, hiệu là Kính Đức, người ở Mã Ấp. Đôi tay của ông ta có thể nâng nổi hai ba nghìn cân, rất thạo dùng một cây roi sắt gọi là "Hỗn thiết đơn tiên", cũng đã từng học chữ nghĩa, đọc thi thư, từng đi thi, nhưng không muốn ra làm quan, tổ tiên lại vốn làm nghề thợ rèn, nhân nhàn rỗi, mở lò rèn ở đây làm qua ngày. 
Như Hối lại hỏi: 
- Vừa rồi hai vị nhờ họ Uất Trì viết mấy chữ để làm gì vậy? 
Một người đáp: 
- Việc này dài dòng lắm, không tiện nói ra, xin từ biệt thôi! 
Như Hối thấy Uất Trì Cung đường đường hào kiệt anh hùng, mà vẫn chẳng ai dùng đến, nên định ở lại đây vài ngày, làm quen với Uất Trì, rồi tiến cử với Đường Công. Nhưng Hiếu Đức không chịu, cứ giục lên đường, Như Hối đành phải lên ngựa ra đi, trong lòng vẫn đinh ninh chuyện Uất Trì Cung. 
Chính là: 
Nhũng mong gặp mặt anh hùng 
Rồi ra cách trở muôn trùng nước non! 
*** 
Lại nói chuyện Đường Công Lý Uyên từ ngày bị vua Tùy hắt hủi, kén được Sài Tự Xương làm rể, không tiếc ngọc vàng của quý, đi lại với bọn nịnh thần của Dượng Đế, để được về Thái Nguyên, tránh khỏi mọi tai họa, chẳng hề có ý tranh đoạt thiên hạ. Lý Uyên có bốn người con trai, con trưởng là Kiến Thành, là một công tử tầm thường, chỉ ham ăn mặc đẹp, cưỡi ngựa hay đắm say tửu sắc, con thứ ba là Huyền Bá, chết sớm, con thứ tư là Nguyên Cát, rất mực cơ mưu, giảo hoạt, nhưng cũng chẳng có tài vương bá gì cả. Chỉ có con thứ hai là Thế Dân, sinh ở chùa Vĩnh Phúc dạo nọ, lúc mới bốn tuổi, có một thư sinh trông thấy, lấy làm lạ nói rằng: 
- Dáng vẻ rồng phượng, uy nghi thiên tử, chỉ cần đến lúc làm lễ đội mũ (l) là có thể "tế thế an dân". 
1 Lễ đội mũ: lễ "gia quan", thời xưa, ở Trung Quốc, con trai nhà giàu, hai mươi tuổi thì làm lễ đội mũ. 
Nói xong đi mất. Lý Uyên sợ những lời này truyền rộng, mới sai người đuổi theo thư sinh để giết đi, thì không tìm thấy đâu nữa, bèn nghĩ là bậc thần nhân, nên mới bớt câu "tế thế an dân" mà đặt tên là Thế Dân. Từ nhỏ đã thông minh như trời phú sẵn, kiến thức khác hẳn người thường, đúng bậc "tướng môn chi tử". Binh thư võ nghệ, là chuyện hàng ngày, lại thích đọc cả thư sử, ham kết giao bạn bè, con nhà đại gia, tiêu vàng như bùn, chỉ cần chiêu đãi khách khứa, bạn bè xa gần đều nức tiếng. Rất thân với một người có võ nghệ, thao lược họ Lưu, tên Văn Tĩnh, hiện làm huyện lệnh Tấn Dương, người này đầy một bụng mưu trí, tài kiêm văn võ. Lại thêm một người là Lưu Hoàng Cơ ở Trì Dương, lấy vợ là Trường Tôn Thuận Đức, cũng đều võ nghệ tuyệt luân, không phải như con cái phường khố lụa ngày nay, mà thấy chín châu đại loạn, cũng mong tìm được bậc chân chúa, vâng chịu mệnh trời như Hán Cao Tổ ngày xưa.
Lưu Văn Tĩnh từng quen thuộc với Huyền Thúy, nên khi Huyền Thúy khởi sự, Văn Tĩnh bị bắt bỏ ngục Thái Nguyên. Thế Dân một lần lẻn vào nhà ngục gặp, Văn Tĩnh mới nói để gợi chuyện: 
- Nay thiên hạ đại loạn, phi tài của Vũ Thang Cao Quang, thì không dẹp nổi! 
Thế Dân đáp: 
- Không phải là không có những bậc đó, chứ khổ là không biết họ ở đâu thôi. Ta trông dáng nhà ngươi, không phải là hạng tầm thường, hãy nói cách thay đổi thời cuộc, bàn đại sự xem sao nào? 




Văn Tĩnh thưa: 
- Nay vua Tùy ngự du Giang Hoài, binh lính trấn giữ dọc sông, Lý Mật vây Đông Đô, các đám giặc cỏ khác chiếm giữ châu huyện, cát cứ các vùng đầm núi, kể có hàng vạn. Giữa lúc này, có một vị chân chúa xuất hiện, chỉ cần hô lên một tiếng, thì bốn biển sẽ yên ổn ngay. Nay ở Thái Nguyên, trăm họ đều chạy vào thành để trốn tránh giặc giã. Văn Tĩnh này đã làm huyện lệnh mấy năm, biết khá rõ các bậc hào kiệt anh hùng, một sớm mà thu nạp, sẽ được vài chục vạn trong tay, lúc ấy tôn Đường Công lên nắm giữ binh quyền, thêm vài vạn tinh binh nữa, một lệnh ban xuống, ai mà chẳng theo, rồi nhằm chỗ trống mà vào trung nguyên, ban lệnh khắp thiên hạ. Chỉ cần khoảng nửa năm, nghiệp đế dựng xong vậy. 
Thế Dân cười đáp: 
- Ngươi nói chính hợp ý ta? 
Bèn tìm cách đưa vào hàng tân khách, giúp cho việc huấn luyện binh sĩ, chờ dịp sẽ cất nhắc cao hơn. Hơn tháng sau, Văn Tĩnh đàng hoàng ra khỏi ngục. Thế Dân định khởi sự, chỉ sợ phụ thân không nghe, bèn bàn với Văn Tĩnh. Văn Tĩnh bày kế: 
- Đường Công vốn rất thân thiết với phó cung giám Tấn Dương cung Bùi Tịch, Bùi Tịch bày gì cũng nghe theo. Muốn Đường Công bằng lòng khởi sự, không có người này không xong đâu! 
Thế Dân cũng biết chuyện này không thể dùng miệng mà nói không với Bùi Tịch. Vì biết rõ Bùi Tịch vốn nghiện rượu, hám tiền, có thế mới hết lòng lo việc cho mình, Thế Dân liền đem hàng vạn quan tiền, sai Cao Vũ Liêm, huyện lệnh Long Sơn cùng Bùi Tịch đánh bạc, giả vờ thua luôn mấy ván. Sau Bùi Tịch biết rõ ý định của Thế Dân, cả mừng, kết thân với Thế Dân. Thế Dân bèn đem chuyện nói rõ đầu đuôi Bùi Tịch sẵn sàng đứng ra làm, nói: 
- Việc này cứ giao cả cho ta? 
Ngày đêm nghĩ ngợi, tính toán, bỗng nảy ra một kế, vào thẳng cung Tấn Dương, gặp ngay Trương Phi cùng Doãn Phi đang ở dinh Khánh Vân thưởng ngoạn hoa mai tháng giêng. Thấy Bùi Tịch đến, cả hai đều cất tiếng hỏi: 
- Ngươi tới có việc gì? 




Bùi Tịch đáp: 
- Thì cũng muốn bẻ hoa cho thêm vui vẻ. 
Trương phu nhân cười: 
- Hoa này là của các phu nhân trồng, có can hệ gì đến ngươi đâu? 
Bùi Tịch đáp: 
- Phu nhân nghĩ rằng đàn ông không biết trồng sao, lòng yêu thích, ham muốn ai mà không có. Nhưng hoa dẫu đẹp bao nhiêu, mà chỉ ngắm suông thì chỉ trang sức thêm ít nhiều, chẳng thể nào thay đổi được cảnh cô đơn của con người, lại cũng chẳng thể ngăn được sự hoạn nạn đang đến. 
Doãn phu nhân cười: 
- Người hãy nói cách chữa bệnh cô đơn ngăn được tai họa như thế nào. 
Bùi Tịch đáp: 
- Nhà Tùy hoang loạn, chúa thượng thì mãi ngự du Giang Đô, vui đến quên cả quay về. Thay vua coi sóc công việc, toàn một lũ tiểu nhân, trong nước vô chủ, bốn phương anh hùng nổi dậy như ong, kẻ xưng cô, người xưng quả rất nhiều. Gần đây có tin hiệu úy Chu Vũ ở Mã Ấp chiếm cứ Phần Dương cung, xưng làm Khả hãn, rất có lợi hại. Phần Dương cách Thái Nguyên chẳng bao xa, nếu đao binh lan tới đây thì ai ra mà ngăn. Thần dẫu có nhiệm vụ coi sóc nhưng tài hèn sức mọn, đến thân mình còn khó giữ, các phu nhân thì lấy đâu chỗ yên ổn mà tránh? 
Hai phu nhân hoảng hốt: 
- Thế thì làm sao bây giờ? Nếu đúng như lời, chị em chúng ta đều chết cả sao? 
Bùi Tịch bàn: 
- Nay thần có cách này, cùng xin bàn với hai phu nhân, không những có thể giữ mình, mà lại có thể mang lại phú quý nữa. 
Doãn Phu nhân đáp: 
- Phú quý thì sao còn dám mong, chỉ cần tránh được tai họa là đủ rồi! 
Bùi Tịch chậm rãi: 
- Lưu thú Lý Uyên ở Thái Nguyên này, trong tay có mười vạn binh mã, con trai là Thế Dân, anh hùng vô địch, chiêu nạp hào kiệt chín châu, khởi lo việc lớn, chỉ sợ Lý Uyên không nghe theo, cho nên không dám tự quyết. Thần tin rằng thiên hạ chẳng sớm thì muộn sẽ vào tay người này. Nay hai phu nhân suốt đời bị đày ra ly cung, sống buồn tẻ đã có hơn năm nay rồi, sao không nhân cơ hội này, tìm cách thờ Lý Uyên, thì có thể chuyển họa thành phúc, chẳng bậc tần phi, cũng bậc hoàng hậu, phú quý khôn người sánh, có phải hay biết bao nhiêu không? 
Trương phu nhân nói: 
- Chúng ta từ lâu cũng muốn gặp Đường Công một lần, nhưng phận đàn bà thật khó mà mở miệng như các ngươi. Chỉ sợ Đường Công vẫn ôm lòng trung nghĩa mà cự tuyệt chăng, rồi việc vỡ lở, thì còn gì là tính mạng? 
Bùi Tịch đáp: 
- Chỉ sợ hai phu nhân trong lòng chưa định hẳn, nếu dã quyết chí thì chẳng sợ gì việc không thành. 
Hai Phu nhân nghe nói thế, lập tức mặt mày rạng rỡ: 
- Nếu việc mà thành, ơn sâu của người, chị em chúng ta suốt đời không dám quên, nhưng không biết mưu kế tính sao cho tốt? 
Bùi Tịch ghé tai hai phu nhân nói nhỏ: 
- Chỉ cần như thế... như thế... chẳng thể nào lo Lý Uyên không mắc! 
Hai phu nhân gật đầu bằng lòng. 
Ngày hôm sau, Bùi Tịch bày tiệc rượu trong cung Tấn Dương, sai người mời Lý Uyên. Chẳng mấy chốc, Lý Uyên đến, vái chào xong xuôi, vào ngồi bàn tiệc. Bùi Tịch không một lời nói đến chuyện Thế Dân định khởi sự, chỉ một mực rót rượu mời Lý Uyên say khướt, Bùi Tịch tiếp: 
- Rượu buồn khó cạn, có hai mỹ nhân muốn ra mời minh công một chén, liệu có được chăng? 
Lý Uyên cười đáp: 
- Cùng ngồi với tri kỷ, chỉ còn thiếu chuyện này nữa thôi, sao lại không được! 
Bùi Tịch sai tả hữu đi gọi. Chẳng bao lâu, tiếng ngọc ngập ngừng, hương bay sực nức, hai mỹ nhân khoan thai bước vào, mười phần kiều diễm, Lý Uyên nhìn kỹ, chỉ thấy: 
Liễu cợt hoa cười, xuân ghẹo xuân 
Thâm cung kiều mị khéo ần khăn 
Trần ai, ai đoán, ai thiên tử 
Vân vũ Tương Vương, nợ đỉnh Thần. 
Hai mỹ nhân đến trước tiệc rượu, ra mắt Lý Uyên, Lý Uyên đáp lễ. Bùi Tịch sai bày hai ghế nhỏ, ngồi hai bên. Lý Uyên lúc này rượu đã say mềm, cũng chẳng hỏi lai lịch, chỉ thấy mỹ nhân nghiêng thành, khoái chí uống mãi. Hai mỹ nhân lại biết cách chiều chuộng. Bùi Tịch giúp thêm một tay, Lý Uyên chẳng mấy chốc đã nghiêng ngửa. Bùi Tịch lặng lẽ đi ra, Lý Uyên vẫn còn uống mấy chén nữa, chân đã không vững, hai mỹ nhân dìu vào giường ngủ, tai mơ màng, cũng chẳng nhận ra là cung cấm hay phủ đường. 



Chính là: 
Hoa dễ lây cười, rượu dễ thân 
Đôi mày uốn éo lại gần gần 
Đừng chê lơ lẳng Tùy Dượng Đế 
Thiên tử anh minh cũng chán lần! 


Lý Uyên tỉnh dậy, nhớ lại chuyện đêm qua, trong lòng băn khoăn, lại thấy nằm trên long sàng, mình khoác hoàng bào, kinh hoàng hỏi: 
- Hai người là ai? 
Hai phu nhân cười thưa: 
- Đại nhân đừng sợ, chúng thiếp chẳng ai khác lạ, vốn là Trương Phi cùng Doãn Phi vậy. 
Lý Uyên hoảng hốt: 
- Bậc quý nhân trong cung cấm, sao lại có thể cùng chăn gối cho được. 
Vội vàng khoác áo ngồi dậy, hai phu nhân quỳ thưa: 
- Chúa thượng ngự giá xuống miền Nam chẳng thấy về, anh hùng nổi dậy khắp nới. Bùi Tịch phó giám trông vào đại nhân, nên khuyên chúng thiếp lo thờ đại nhân, để mưu chuyện lâu dài sau này. 
Lý Uyên cất tiếng than: 
- Bùi Tịch làm lỡ việc ta rồi! 
Rồi đứng dậy, bước ra tiền điện, Bùi Tịch ra đón, hỏi vờ: 
- Trong cung vắng không có ai, việc gì phải dậy sớm vậy? 
Lý Uyên đáp: 
- Dẫu không người biết, nhưng thực trong lòng không khỏi hoảng sợ. 
Bùi Tịch nói: 
- Anh hùng vì cả thiên hạ mà làm, hơi đâu mà để ý đến những chuyện lặt vặt. 
Rồi gọi tả hữu hầu Lý Uyên rửa ráy, chải dầu. Bùi Tịch lại sai bày tiệc rượu. Uống được vài chén, Bùi Tịch mới nói: 
- Hiện nay, vua Tùy vô dạo, trăm họ khốn cùng, anh hào đều nổi dậy, ngoài thành Tấn Dương này đều là chiến trường. Minh công tay nắm quyền lớn, lệnh lang thì ngầm chiêu binh mãi mã, sao không nghĩ chuyện khởi binh phạt Nam cứu dân, xây dựng nghiệp vạn đời. 
Lý Uyên hoảng sợ đáp: 
- Ngài sao lại nói những lời như vậy, để đổ cái vạ tru di ba họ lên đầu ta hay sao! Lý Uyên này vốn một lòng với nước, chịu ơn sâu của triều đình, không có lòng nào khác? 
Bùi Tịch nói. 
- Nay kim thượng hình phạt hà khắc, phía dưới thì giặc giã như ong như kiến, minh công cứ lo giữ cái tiểu tiết, thì cái nguy lớn sẽ có ngày đến. Chi bằng theo lòng dân mà khởi binh, chuyển họa thành phúc, đó chính là trời trao mệnh cho minh công, xin đừng để lỡ. 
Lý Uyên đáp: 
- Xin ngài hãy cẩn trọng cho, mọi sự tiết lộ thì tội không lường được 
Bùi Tịch cười: 
- Hôm qua việc hai người riêng hầu minh công, những sợ minh công không nghe, nên phải cùng lệnh lang bàn bạc. Cũng chẳng qua vì sợ lỡ dịp tốt, để mọi chuyện vỡ lở thì đúng là không tránh khỏi vạ lớn cả bọn vậy. 
Lý Uyên đáp: 
- Con ta đâu có tính chuyện này, ngài sao lại bức người vào chuyện bất nghĩa này? 
Nói chưa dứt lời, thì thấy cửa bên, một người bước ra, đội mũ kinh khôi, mặc áo bào hoa tròn lớn, cất tiếng: 
- Bùi Công thực là biết rõ thời cuộc, phụ thân nên theo vậy! 
Lý Uyên nhìn ra, thì là Thế Dân, sợ to tiếng thêm họa, đành nén giận mà nói: 
- Phải trói mày lại để tránh cái họa này mới xong. 
Thế Dân không chút sợ hãi: 
- Dẫu có bắt trói con giải đi, chết cũng không dám từ. Nhưng rồi tội của phụ thân cũng không vì thế mà khỏi. Nếu không khởi sự, thì làm sao bây giờ? 
Lý Uyên than: 
- Tan nhà nát cửa, không giữ được toàn thân cũng là do mày, biến nhà thành nước cũng là do mày! 
Lý Uyên bèn sai người ngầm đi Hà Đông, gọi Kiến Thành, Nguyên Cát về Thái Nguyên hội họp, để có thể yên tâm lo việc lớn. Lấy tiếng phế hôn quân, lập minh chúa, tôn đại vương Dương Hựu trấn thủ Trường An hiện nay làm Tùy Cung Đế, ít lâu sau làm lễ nhường ngôi cho Lý Uyên. Lý Uyên xưng hoàng đế, lên ngôi ở Thái Nguyên, lấy quốc hiệu Đường, cải niên hiệu là Vũ Đức nguyên niên, lập Kiến Thành làm Thái tử, phong Thế Dân làm Tần Vương, Nguyên Cát làm Tề Vương. Lệnh cho Tần Vương hưng binh diệt giặc, rồi tự mình kéo quân vào cửa ải. 
Chính là: 

Bóng nước ánh cờ lồng rực đỏ 
Tuyết rọi gươm, thương chĩa sáng ngời 
Cầu vồng dựng suốt một trời 
Thiên binh thần tướng phơi phơi xuống trần.



HỒI 47

Xem hoa quỳnh, vui tàn, Tùy hết,
Chết tiết nghĩa, trâm gãy bình rơi.

Từ rằng: 
Hưng vong quay tít, 
Tháng ngày thoi dệt 
Xuân thu chẳng dừng 
Đánh đông dẹp Bắc, anh hùng là đâu 
Phương Nam tươi ấm 
Cột ngà buồm gấm 
Khắp chốn rong chơi 
Chiều tà quạ kêu rời rạc 
Bờ liễu gió thu nhớn nhác 
Hồi tưởng năm xưa 
Nhớ quên việc trước 
Mộng đẹp qua rồi, một giấc Dương Châu 
Khá thương thuở ấy thuở nào 
Men hoa ủ rượu, chuốc sầu nghìn năm 
Nửa đời hưởng thụ chưa cam 
Xương tan vía bạt trong hầm truy hoan 
Dễ nhen, dễ bén, dễ tàn 
Sầu này, sau nữa, mấy lần cho nguôi 
Nhắn ai, ai có tin lời 
Thử nhìn dải lụa bên vai... dạ đài. 
Theo điệu “Phong lưu tử" 

  
  
Họa phúc thịnh suy, là chuyện nối theo nhau mà thay đổi, thật đáng nực cười cho kẻ nghĩ rằng do ơn mưa móc của tổ tiên nhà mình mà giữ mãi được giang sơn, chỉ lo đến việc “triêu hoan mộ vũ” hưởng lạc ở nơi nhà quỳnh lầu dao, để cuối cùng ngày khổ bỉ tới, thân mình cũng chẳng toàn, làm bia cười cho nghìn đời. 

*** 

Nay hãy khoan nói chuyện Lý Uyên phát binh khởi đại sự ra một bên, hãy nói chuyện Tùy Dượng Đế ở Vũ Thành, Giang Đô, lại mới xây thêm một cung điện nữa, chẳng kém phần hoa lệ, có thêm hẳn Mê lâu quan nguyệt, với chín khúc hồ uốn quanh, dựng một cầu đá lớn ngay bên lầu. Dượng Đế suốt ngày ở trong Mê lâu quan nguyệt, nếu không ở trên xe rồng, ở sau bình phong, mặc ý dâm đãng, chẳng khác gì một gốc cây lớn, mặc cho cành lá đã xơ xác, nhưng vì gốc sâu rễ chắc, mặc cho mọi người lay chuyển, búa đao thay nhau bổ chặt, cũng chưa dễ đã đổ ngay. Lại nghĩ sức lực người ta phỏng được nhiêu, lúc nào cũng biếc đón hồng đưa, phi tần mỹ nữ, thời thời khắc khắc dâm loạn, Dượng Đế dẫu thế nào, cũng phải đến lúc tinh lực hao gầy, mệt mỏi vậy. 

Một sáng mới ngủ dậy, ngồi bên cửa sổ, nhìn ra bên ngoài, Nguyệt Tân, Giáng Tiên đang đuổi bắt bướm, thì Dượng Đế thấy một nội giám vào thưa: 
- Tâu chúa thượng, Phiên Ly quán hoa quỳnh nở rộ, mời chúa thượng ra thưởng ngoạn. 

Dượng Đế cả mừng, ra lệnh bày yến tiệc ở Phiên Ly quán, mời Tiêu Hậu cùng mười sáu viện phu nhân cùng tới thưởng ngoạn hoa quỳnh. 



Chẳng bao lâu, Tiêu Hậu cùng các phu nhân đều có mặt, chỉ riêng Viên Tử Yên ốm nằm ở viện Bảo Lâm không đến. Dượng Đế phán: 
- Hoa quỳnh là loại hoa đặc biệt ở Giang Đô này, thiên hạ không có nơi nào có, trẫm xưa nay chưa từng thấy. Nay nghe nói hoa nở rộ, nên đặc biệt mời hoàng hậu cùng các phu nhân đến xem cho biết. Sao Sa phu nhân không thấy đến? 
Chu Quý Nhi thưa: 
- Lúc thiếp ở viện ra đi, thấy Sa phu nhân nói Triệu Vương bị cảm gió, có lẽ vì thế nên không đến được chăng? 
Tần phu nhân ở Thanh Tu viện gật gật đầu, Dượng Đế nói: 
- Cảm gió thì có hề gì, hoa quỳnh ít được thấy, sao lại không đến xem. 
Quý Nhi thưa: 
- Vạn tuế không hiểu được đâu. Trong người Triệu Vương chỉ cần một chút khó chịu, Sa phu nhân cũng trăm phần lo lắng, không làm gì khác đâu. 
Dượng Đế vui mừng nói: 
- Triệu Vương được Sa phu nhân thương yêu chăm sóc đến thế, thực là không phụ sự ký thác của trẫm vậy. 

Liền ra lệnh lên xe, rồi cùng Tiêu Hậu bước lên xe rồng, mười lăm phu nhân cùng các mỹ nhân lên hương xa kéo tới Phiên Ly quán. Bước lên thì thấy trên điện lớn bày đủ Tam Thanh thánh tượng, điện các cao rộng, nhưng phía đông đổ nát, phía tây hư hại, tượng thánh cũng cũ kỹ. Tiêu Hậu dù sao cũng là phụ nữ, thấy quang cảnh đền thánh như thế vẫn cúi xuống bái lạy, Dượng Đế vội ngăn: 
- Trẫm cùng khanh đường đường bậc hoàng đế, hoàng hậu, sao lại đi bái lạy các pho tượng gỗ này? 
Tiêu Hậu thưa: 
- Thần thánh uy nghiêm hiển ứng, người người đều nhờ cậy che chở, bệ hạ cũng nên kính phục mới phải. 
Dượng Đế hỏi tả hữu: 
- Hoa quỳnh ở đâu? 
Tả Hữu thưa: 
- Tâu chúa thượng, ở đường sau điện kia ạ! 

Vốn cây hoa quỳnh này, do một đạo sĩ có đạo hiệu là Phiên Ly, nhân nói các thứ hoa cỏ của đạo giáo là đẹp hơn tất cả, người xung quanh không tin. Phiên Ly liền lấy một viên bạch ngọc, vùi xuống đất, chẳng mấy chốc, mọc ngay một cây cao, rồi nở hoa chẳng khác gì viên ngọc quỳnh dao. 
Cũng bởi vì trồng ngọc mà thành như thế, nên mới gọi là hoa quỳnh. Về sau đạo sĩ bỏ đi mất, xóm thôn thấy giống hoa đẹp, liền dựng ngay Phiên Ly quán ở bên, để ghi nhớ câu chuyện lạ. Gần đây, cây quỳnh này có một cành rất cao, hoa nở như tuyết, phô nhụy tròn trặn, đầy vẻ trinh trắng của bậc tiên phong đạo cốt, hương thơm sực nức, so với các loài hoa hoàn toàn khác xa, vì vậy trở nên nổi tiếng khắp vùng Giang Đô. 

Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ra sau điện, đã thấy trên cành cao, một đám trắng tinh khiết, hương đưa từng đợt, tỏa khắp người thơm ngát. Dượng Đế hoan hỉ phán: 
- Thật là danh bất hư truyền, nay mới thực là thấy cái chưa từng thấy. 

Lại gần cây để xem cho rõ, nào ngờ có chuyện không thể lường trước, vừa mới bước xuống thềm sau, bỗng thấy một trận gió hương thơm rất mạnh, Thái giám cung nữ thấy gió lớn nổi, vội vàng lấy quạt che, rồi vây kín lấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vào giữa, chờ cho trận gió qua đi, mới lại tản ra. Dượng Đế ngẩng đầu nhìn hoa, thì chỉ thấy cánh bay, nhị rụng, từng điểm trắng tinh rơi đầy đất, trên cành am một cánh hoa sót lại cũng khó. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu thấy thế, kinh ngạc ngây người. Dượng Đế bỗng nổi giận: 
- Trẫm chưa thấy cho rõ ràng, đã rơi rụng cả thế này, có đáng tức giận hay không? 

Quay vào trong điện, tiệc yến thưởng hoa đã bày xong hàng hàng lối lối chỉnh tề, hai bên là bọn nhạc công với những đàn sáo sênh phách, thật là đầy đủ, như chẳng biết đến hoa quỳnh đã tan tác hết, cuốn theo cả nỗi vui thưởng ngoạn của mọi người. 

Dượng Đế thấy quang cảnh này, lòng càng giận dữ quát: 
- Nào có phải gió thổi rụng đâu, mà chính là yêu quái càn rỡ, không muốn cho trẫm xem. Hãy đem chặt ngay đi, để làm gì cho thêm tức tối trong lòng. 
Liền truyền chỉ đốn cây. Các phu nhân đều khuyên can: 
- Hoa quỳnh khắp trong thiên hạ chỉ có mỗi một cây này, xin giữ lại, sang năm có hoa sẽ lại ngự lãm , nếu đốn đi sợ mất giống. 
Dượng Đế vẫn chưa nguôi: 
- Trẫm đường đường ở ngôi thiên tử, mà còn không được xem, thì giữ lại cho ai xem. Năm nay mà còn thế, trông mong gì sang năm, nếu dẫu có tuyệt chủng đi nữa, cũng chẳng can gì. 

Rồi cứ truyền chặt cây. Bọn thái giám không dám trái mệnh, vội dùng kim qua phủ việt nhất loạt chém đổ cây, bởi vậy sau này thế gian hết giống hoa này, một cành, một mầm nhỏ cũng chẳng còn. 

Dượng Đế chẳng buồn dự tiệc rượu, lập tức cùng Tiêu Hậu lên xe rồng, cùng các phu nhân trở về ngự uyển ngay. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu: 
- Trẫm cùng hoàng hậu xuống thuyền rồng, ngự chơi chín khúc hồ đã, có nên chăng?
Tiêu Hậu thưa: 
- Cảnh trời trong xanh, mặt hồ sắc núi, thật đáng nên xem lắm. 

Dượng Đế liền sai tả hữu bày yến tiệc trên thuyền rồng, dạo chơi trên chín đoạn hồ mới đào, còn bọn cung nữ đi theo đều cho trở về ngự uyển trước. Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng các phu nhân xuống thuyền rồng, vừa uống rượu vừa ngắm cảnh, bên chèo bên chống, chơi đến nửa ngày trời, mới nguôi hứng thú. Dượng Đế lệnh ghé thuyền lên bờ, tất cả lại lên kiệu, lên xe rồng, đi về phía cầu đá lớn, lúc này là thượng tuần tháng tư, đã thấy trăng nhú nửa vành long lanh trên mặt nước. Xe lên tới mặt cầu, cầu vừa cao vừa rộng, đều lát bằng đá trắng vừa bóng vừa sạch như luôn được lau chùi, hai bên đại thụ rủ bóng, dưới cầu cá vàng đủ màu nhởn nhơ bơi thấp thoáng dưới ánh trăng. 

Dượng Đế bởi chuyện hoa quỳnh rụng sạch, trong lòng vẫn phiền muộn chưa nguôi, nay thấy cảnh này như được uống một liều thuốc mát mẻ, trong lòng cũng thư thái ít nhiều, lệnh dừng xe rồng, sai đem tới hai cái đôn gấm, cùng Tiêu Hậu ngồi, trải đệm gấm khắp mặt cầu cho các phu nhân ngồi, yến tiệc lại bày ngay ra. Dượng Đế dựa vào lan can cầu, cùng các phu nhân vừa cười nói vừa uống rượu, Tần phu nhân cất tiếng: 
- Chỗ này thật đẹp, đúng là cảnh cầu đá liễu rũ, hơn hẳn cảnh buổi ngày. 
Tiêu Hậu hỏi: 
- Cầu này tên là cầu gì? 
Dượng Đế đáp: 
- Chưa có tên! 
Hạ phu nhân thưa: 
- Bệ hạ sao không nhân đêm nay, đặt cho cầu này một cái tên, lưu lại cho đời sau một chuyện lý thú. 
Dượng Đế đáp: 
- Việc này cũng hay đấy? 
Rồi cúi đầu nghĩ ngợi, nhìn quanh đếm xem bao nhiêu người, nói: 
- cảnh vật vì có người mà càng đẹp, cổ nhân có Thất Hiền hương, Ngũ Lão đường, đều là lấy số người mà đặt tên. Nay trẫm cùng hoàng hậu, với mười lăm phu nhân, cộng thêm Quý Nhi, Bảo Nhi, Giáng Tiên, Dã Nhi, Hạnh Nương, Thỏa Nương, Nguyệt Tân bảy người nữa, là có hai mươi tư người đây, vậy nên đặt cho cầu này tên là "Nhị thập tứ kiều”, chẳng phải không hay sao! 
Mọi người đều hân hoan thưa: 
- "Nhị thập tứ kiều", hay quá? Thế cũng đủ biết bệ hạ nghĩ thật sâu xa, thật rộng lớn! 
Rót rượu dâng mời, Dượng Đế vô cùng khoan khoái, uống liền mấy chén, rồi phán: 
- Trước đây ở viện Ảnh Văn, trẫm được nghe Hoa phu nhân thổi địch rất là réo rắt, khiến người nghe như ôm sầu ngậm tủi, sao không thổi trẫm nghe. 
Lương phu nhân thưa: 
- Tiếng địch nên nghe từ xa, mới thấy hết vẻ du dương, uyển chuyển. 
Địch phu nhân tiếp: 
- Đêm vừa rồi, ngồi ở viện Hạ phu nhân, thiếp nhìn lên Điệp lâu nghe Lý phu nhân cùng Hoa phu nhân, một người hát, một người thổi địch, cả hai đều tuyệt diệu, càng về cuối lúc thì nghe khắp nơi đều vang tiếng địch, lúc lại như chốn chốn vang tiếng ca, thật là lòng say dạ túy, khoan khoái vô cùng! 
Tiêu Hậu nói: 
- Có những chuyện hay như thế, sao các phu nhân không rủ ta với? 
Dượng Đế lại hỏi: 
- Các khanh hát khúc gì vậy, lời cũ hay lời mới? 
Hạ phu nhân thưa: 
- Đó là do Sa phu nhân gần đây một mình lên cầu nhỏ Ngọc Lang, nhân đó mà làm, nên từ lời đến ý đều rất hay. 
Dượng Đế vui mừng hỏi: 
- Các khanh ai nhớ không? Đọc cho trẫm nghe xem có thông không nào? 
Hạ phu nhân bèn đọc: 


Ngày xuân cung vắng, vẳng tiếng đàn. 
Lơ đểnh kìa ai tóc sỗ sàng 
Lạnh buốt tiếng sênh lầu gác ấy 
Thì thào, dứt nối, tiếng bay sang 
Tơ liễu dài dễ vịn 
Vươn tay cuốn bức màn tiên 
Gió đông đâu bỗng nổi lên 
Lòng vơ vẩn 
Lần lữa đổi khác dung nhan 
Tin vời không thấy 
Lệ khô tràn 
Thần ngọc y nguyên, điện các này Trăng kia còn đó bóng còn đây 
Hết dãy núi này, còn dãy khác 
Xuân đã về, xuân có tỉnh say? 
Trời hè, hè chẳng đổi thay 
Tơ trời không rối, sầu nay vẫn sầu 
Sông xuân kéo ngược cách nào... 

Dượng Đế nghe xong, xuýt xoa khen: 
- Sa phu nhân thật đúng là một nữ học sĩ, làm được những tác phẩm toàn bích đến như thế. Chúng ta rót ra hai chén rượu, mời Lý phu nhân cùng Hoa phu nhân uống, rồi nhờ hai phu nhân ra Nguyệt đình ở phía đông cầu này, chúng ta ngồi đây để nghe lời ca tiếng nhạc vậy! 
Hai phu nhân thấy ý vua đã như vậy, liệu có chối cũng chẳng xong nào, nên uống cạn ngay hai chén rượu, đứng dậy. Lý phu nhân đưa mắt liếc Địch phu nhân mà rằng: 
- Cũng chỉ tại mồm mép nhanh nhẩu của phu nhân mà khiến người khác đứt từng khúc ruột vậy thôi! 
Rồi cùng Hoa phu nhân trèo lên xe đi về phía Nguyệt đình. Đình này vừa cao lại vừa được che loáng thoáng bóng cổ thụ, hai phu nhân giở ngọc địch, phách gõ ra, giọng ca trong trẻo cất lên, tiếng địch hòa theo, thật khiến mây quang trời sáng gió lay hoa thẹn, Dượng Đế vừa nghe vừa tán thưởng không ngớt lời. 
Tối hôm ấy, mới khoảng mùng bảy, mùng tám, ánh trăng chỉ có một chốc buổi đầu canh. Dượng Đế phán: 
- Cây trùm tối um, chúng ta hãy chuyển tiệc rượu vào Nguyệt đình có phải tốt hơn không? 
Bèn cùng Tiêu Hậu, các phu nhân chậm rãi lần theo tiếng địch, tiếng ca mà đi tới, gần tới Nguyệt đình, thì bài ca cũng vừa xong. Hai phu nhân trông thấy vội ra khỏi Nguyệt đình đón vào, Dượng Đế nói với Hoa phu nhân cùng Lý phu nhân: 
- Lời ca tiếng nhạc từ miệng người đẹp mà ra, khiến người nghe cũng hồn tiêu phách lạc, hai khanh thật là một đôi tuyệt mỹ vậy? 
Cung nữ vội vàng xếp dọn, Dượng Đế giục rót rượu mời hai phu nhân, rồi nói với Tiêu Hậu. 
- Hôm nay tuy bị yêu nghiệt của hoa quỳnh làm cho mất hứng, nhưng giờ lại được hưởng những cảnh vui vẻ như thế này, mai kia có nghĩ lại cũng còn thấy thú vị. 
Tiêu Hậu thưa: 
- Nhờ có tài tuyệt diệu của các phu nhân cả. 
Dượng Đế tiếp: 
- Trăng lặn rồi, đèn đóm thì chẳng có, làm thế nào bây giờ? 
Lý phu nhân khẽ cười thưa: 
- Bây giờ mà mang một cây đèn "Huỳnh phượng đăng" của Địch phu nhân tới đây, thì cũng đủ sáng mà lại chẳng cần thắp lửa, thắp đóm gì cả. 
Tiêu Hậu vội hỏi: 
- "Huỳnh phượng đăng" là cái gì thế? 
Địch phu nhân thưa: 
- Chỉ là trò chơi thôi mà, có ra cái gì đâu, xin đừng nghe cái miệng hớt lẻo của Lý phu nhân. Trước mặt bệ hạ cùng hoàng hậu mà dám nói bậy, có gì thì tháng sáu may ra mới dùng được. 
Dượng Đế cười nói: 
- Tốt hay xấu cũng cứ đem ra đây xem sao! 
Địch phu nhân nghe nói thế, đành phải sai bọn cung nữ của viện mình: 
- Ngươi hãy về viện, ngay trong phòng trang điểm, đem tất cả những "Huyền phượng đăng” đã làm xong ra đây. Rồi bảo cung nữ ở viện bắt được bao nhiêu đom đóm cũng đổ tất vào hộp mang tới đây ngay. 
Chẳng bao lâu, cung nữ bưng đến một cái hộp, chăng bằng sợi tơ vàng, đưa cho Địch phụ nhân. Địch phu nhân lấy một cái cần hình mỏ chim Phượng treo lên, rồi bỏ vào đến hai ba chục con đom đóm, đưa trình Tiêu Hậu. Tiêu Hậu cùng Dượng Đế nhìn kỹ, thì thấy bên ngoài được che bằng những cánh con ve mỏng, gần giống hình chim Phượng, phía trên đậy bằng những lớp the mỏng có thêu rất đẹp, đầu chim Phượng được đẽo gọt từ san hô, miệng ngậm một hạt ngọc minh châu, Trông chẳng khác gì đóm sáng của ngọn đèn, tỏa ánh ra bên ngoài, đem treo lên. Hai cánh con chim Phượng kết bằng những cánh ve nhỏ cứ theo gió nhẹ mà khẽ lay động. Dượng Đế nhìn kỹ hồi lâu, khen: 
- Địch phu nhân thật khéo nghĩ khéo làm, đúng là đến mức "xuất thần nhập hóa" vậy.
Tiêu Hậu tiếp: 
- Đúng là thật khéo tay! 
Đưa cho cung nhân, treo cả lên. Ngoài ra lại còn đến bảy tám cái nữa, Địch phu nhân lần lượt bỏ đom đóm vào, đưa cho các phu nhân, cùng treo cả lên, thế là mấy cái "Huỳnh phượng đăng” chiếu sáng cả tiệc rượu. Dượng Đế vỗ tay cười: 
- Thật lạ lùng, mấy con đom đóm này đêm nay thật có công. Sao không sai người bắt thêm ít nữa, đem vào trong ngự uyển, tuy chẳng bằng ánh trăng, nhưng cũng có thể sánh được bốn năm phần... 
Tiêu Hậu hùa theo: 
- Thế thì thật là kỳ quan! 
Dượng Đế lại truyền chỉ: phàm các cung nữ cùng nội giám, bắt được một túi đom đóm thưởng cho một tấm lụa. Chẳng mấy chốc, cung nữ, nội giám, cả trăm họ nữa bắt được đến sáu bảy chục túi đom đóm, Dượng Đế sai lấy ngay lụa ra thưởng, sai người ra trước đình, sau đình, trong vườn, trước núi thả tất cả đom đóm ra, trông ra chốc lát chẳng khác gì hàng vạn vì sao sáng xanh rơi xuống, chiếu sáng cả bốn chung quanh. Dượng Đế cùng mọi người say sưa nhìn, vỗ tay tán thường, lại nâng chén chúc mừng mãi tới canh ba mới về cung. 
*** 
Nay hãy thôi nói chuyện Dượng Đế ở trong cung đêm ngày dâm loạn, hãy nói chuyện Vũ Văn Hóa Cập, là con của Vũ Văn Thuật, làm tới chức Tả đồn vệ tướng quân, vốn cũng là phường tục tử. Em ruột là Tri Cập, lại là một tay giảo hoạt, đang vào lúc Dượng Đế vô đạo, cũng phường theo nước giỡn sóng, đập phá cho qua ngày, chạy đông ngó tây rồi lại viễn chinh Cao Ly, hết xây nhà chỗ này, làm phủ chỗ kia, lại làm cả lầu gác riêng ở Đơn Dương. Đến khi giặc giã bốn bề, đáng lẽ phải ra sức đánh dẹp, thì chẳng bao giờ làm cả việc cung cấp cho binh lính lương thực, khí giới, cũng chẳng hề lo lắng, vua quan ngồi cả ở Giang Đô, mặc cho một ngày kia mất một huyện, ngày qua mất một thành, hôm nay thêm một kho bị cướp, ngày mai lại mất những gì, những gì nữa... vua chẳng hề biết đến, thần chẳng hề nói đến, tất cả chỉ ngày nào biết ngày ấy. 
Cho đến khi có tin báo Lý Uyên đã làm phản, đang kéo quân vào cửa quan, các quan tùy giá của Dượng Đế đều chẳng có chủ ý gì cả. Trước tiên là Lang tướng Đậu Hiền, lãnh quân bản bộ bỏ chạy vào cửa quan trước, vua Tùy nghe tin, sai quân chém đầu, nhưng rồi lại thôi, mà đưa về Giang Đô giam cho chết đói. Nhưng rồi trong cảnh cái chết đến chân, cũng phải tìm cho mình một đường sống, nên Hổ bôn lang tướng Tư Mã Đức Kham, Nguyên lễ trực các Bùi Kiến Thông, Nội sử xá nhân Nguyên Kính, Hổ nha lang tướng Triệu Hằng Khu, Ủng dương lang tướng Mạnh Bính, Huân thị Dương Sĩ Lâm cùng nhau thương nghị: 
- Chúng ta đều phải lo mà thoát thân, chẳng có lính tráng nào đuổi theo bọn ta làm gì, dẫu có đuổi theo nữa, thì ta cũng chẳng có gì để mà sợ. 
Bọn này chẳng có kế sách gì lạ, chẳng qua là bàn để chạy thoát lấy thân. Trong số này chỉ mỗi Vũ Văn Hóa Cập là khôn ngoan hơn cả thì nói: 
- Chúa thượng vô đạo, nhưng uy lệnh vẫn còn, cho nên dẫu có bỏ chạy, chưa chắc đã thoát. Ta xem trời định làm mất nhà Tùy, anh hùng đua nhau nổi dậy. Hiện nay Vũ Văn này cũng có vạn người, chi bằng cùng nhau xúm lại lo việc lớn, đây là chuyện mưu đồ vương bá, nếu mọi chuyện thành công, phú quý ta cùng hưởng vậy. 
Ai nấy nhất tề đáp: 
- Hay lắm! 
Rồi bầu Hóa Cập làm minh chủ, Tư Mã Đức Kham có công chiêu tập mọi người thì làm thủ lãnh, cả hai xếp đặt công việc, ai nấy nghe theo. Trước tiên là lấy trộm ngựa trong chuồng ngựa của Dượng Đế, tìm kiếm khí giới. Hóa Cập lại tìm cách lôi kéo cả Tư không Ngụy Thị, phạm vi càng ngày càng rộng, lời đồn càng ngày càng loang, ngay cả trong cung cấm cũng nhiều người biết. Hôm ấy Hạnh Nương đứng hầu yến tiệc, tâu mọi chuyện cho Dượng Đế rõ. Dượng Đế nghe xong liền lệnh cho Hạnh Nương nói chiết tự chữ "Tùy" để tìm cách tránh tai họa, Hạnh Nương thưa rằng: 
- Chữ "Tùy" vốn là quốc hiệu, chỉ có một bên tai, mà lại bịt kín, ở giữa có chữ "công”, chữ "công" này gần giống chữ "vương", nhưng không phải chữ "vương", ngoài ra chẳng có chữ nào nữa, cho nên có trốn cũng chẳng thoát. 
Lại lệnh cho đoán chữ "trẫm". Hạnh Nương thưa: 
- Chuyển phấn bên phải sang bên trái, thì giống chữ "Uyên", chỉ vào việc hiện này Lý Uyên đang khởi loạn. Giờ chỉ còn có người xưng trẫm là ngu tối, chẳng chịu thấy gì. Nếu nói thẳng với bệ hạ, thì tháng này rồi chỉ còn tám ngày nữa thôi? 
Dượng Đế nổi giận quát: 
- Ngươi sẽ chết vào lúc nào? 
Rồi lệnh cho đoán chữ "Hạnh", Hạnh Nương đáp: 
- Thiếp sợ chết ngày hôm nay! 
Dượng Đế vặn: 
- Làm sao ngươi biết? 
Hạnh Nương đáp: 
- Chữ "Hạnh" gồm các chữ "thập, bát, nhật" chẳng còn cách nào khác, hôm nay chính là ngày ấy, ngày mười tám? (1) 
1 Hạnh Nương dùng cách "chiết tự" để đoán việc các chữ "Tùy", "Hạnh", đã giải thích ngay trên, riêng chữ "trẫm”, thì phải hiểu đó là chỉ chữ "Quang", tên của Dượng Đế, trong số chữ "Quang", có chữ có bộ "ấp" ở bên phải gần như chữ "Quảng" của Dương Quảng! 
Dượng Đế nổi giận dùng đùng, sai chém, từ đó trở đi, chẳng ai dám nói. Dượng Đế thường soi gương, rồi tự hỏi. 
- Cái đầu đẹp thế này, đứa nào dám chém? 
Rồi lại ngửa nhìn trời sao, nói với Tiêu Hậu: 
- Bên ngoài có kẻ đang muốn giết trẫm, nhưng trẫm thì chưa mất Trường Thành Công, hoàng hậu thì vẫn không làm Thẩm hoàng hậu mà! (1) 
1 Trường Thành: Lâu dài, mãi mãi, Thẩm: chìm đắm, ý nói cả hai đều còn được lâu dài. Dượng Đế cố tự huyễn hoặc! 
** 
Nay lại hãy nói chuyện Vương Nghĩa, từ lâu đã biết mọi việc thế xong, lại ân hận mình là người nước ngoài, chằng có cách nào cứu vớt chỉ có cách đem gia tài giấu giếm. Làm thân với thủ uyển thái giám Trịnh Lý cùng các viên túc vệ giữ cửa cung, đều là tay chân của họ Vũ Văn, để dò la xem bao giờ thì bọn này hành sự. Khi đã biết tin chắc chắn, liền sai ngay Khương Đình Đình, cùng một a hoàn nhỏ tuổi đi một chiếc xe nhẹ vào trong ngự uyển. Bởi Đình Đình ngày ngày vẫn thường ra vào, nên chẳng ai ngăn cản. Đình Đình xuống xe, cùng a hoàn vào thẳng Bảo Lâm viện, thấy cả Tần phu nhân ở Thanh Tu viện, Địch phu nhân ở Văn An Viện, Hạ phu nhân ở Ỷ Âm viện, Lý phu nhân ở Nghi Phương viện đều đang ở đây, lại thêm cả Viên Bảo Nhi, Sa phu nhân cùng Triệu Vương là bảy người cả thảy, đang xúm lại chơi cờ. Sa phu nhân thấy Đình Đình vào, vội hỏi: 
- Ngươi hãy ngồi đi! Tin tức ở bên ngoài ra sao rồi! 
Đình Đình thưa: 
- Xin các phu nhân thứ lỗi, sự thể bên ngoài chỉ chẳng sớm thì chiều, thế mà các phu nhân vẫn ở đây ngồi nhàn cho được. Vương Nghĩa sai thiếp vào đây, hỏi xem ý Sa phu nhân như thế nào? 
Các phu nhân nghe thấy thế chỉ ôm mặt khóc, chỉ riêng Sa phu nhân cùng Bảo Nhi là không. Sa phu nhân nói: 
- Khóc cũng vô ích! Chị em chúng ta giờ tính chuyện đi đứng ra sao đây? 
Tần phu nhân đáp: 
- Trước mắt ta đây đều là chị em tâm phúc cả, xin được nghe chỉ vẽ. Mọi người mấy tối trước có nói: "Năm đầu thánh thượng đưa cung nữ vào cung còn vừa phải, cho nên ân tình còn sâu nặng. Giờ thì phía đông cũng là Phật, trời tây cũng là Phật, thánh thượng chẳng còn biết đi đâu nữa?" Chỉ riêng câu này cũng đủ biết ta phải làm gì rồi, chẳng trông mong được vào ai nữa đâu! 
Sa phu nhân đáp: 
- Ta cũng chẳng có ý gì cả đâu. Ta mà không có Triệu Vương, thì sống cũng có cách sống, chết cũng có cách chết, nhưng nay thánh thượng đem Triệu Vương phó thác cho ta, ta đành chỉ có cách... 
Rồi chỉ Đình Đình, nói tiếp: 
- Đành chỉ có cách dựa vào vợ chồng họ Vương này thôi. Các phu nhân nếu đã quyết chí xin hãy về ngay viện mình, thu thập mọi thứ rồi đến đây ngay đi! 
Các phu nhân nghe nói thế, liền chạy như bay về viện. Duy chỉ có Viên Tử Yên, do biết xem thiên văn, hiểu rõ số nhà Tùy đã hết, từ lâu đã thác bệnh, thu thập tế nhuyễn riêng tư, nằm ở viện Bảo Lâm. 
Ba người đang ở đấy tính chuyện thoát thân, thì thấy Tiết Dã Nhi đi thẳng vào, thấy Đình Đình, liền nói: 
- Tốt lắm rồi! Ngươi đang ở đây rồi! Vừa rồi Chu Quý Nhi bảo ta đến gặp Sa phu nhân, bên ngoài mọi chuyện gấp lắm rồi, kiếp này thì chẳng còn được gặp nhau đâu. Triệu Vương là ý thánh chúa đã thác gửi, vạn lần xin đừng phụ lòng thánh chúa. Ta cũng chịu ơn dày của chúa thượng, đáng ra cũng nên chết theo chúa thượng mới phải, nhưng rồi Chu Quý Nhi ba bốn lần đinh ninh dặn dò, nên đành phải trộm sống mà theo hộ giá Triệu Vương vậy. 
Sa phu nhân nói: 
- Ta đang cùng Đình Đình tính toán, bảy tám người như thế này, thì đi làm sao cho được? 
Dã Nhi đáp: 
- Chuyện này thì không sợ, Quý Nhi cùng với Dã Nhi này đã lo liệu đầy đủ. 
Rồi lấy ở trong tay áo ra một đạo thánh chỉ: 
- Đây chính là do trước kia định sai người đi Phúc Kiến để tìm hoa lan, tuy viết rồi, nhưng rồi chúa thượng ngày đêm tiệc rượu, cho nên lại chưa làm. Quý Nhi nhân chuyện bảo toàn Triệu Vương, nên lặng lẽ lấy trộm, giao cho Dã Nhi này cùng các phu nhân, tùy đó mà hành sự vậy thôi. 


Sa phu nhân rơi nước mắt đáp: 
- Quý Nhi đúng là hai lần đều trung trinh, thật đáng phục vậy. 
Đang nói thế thì thấy bốn vị Phu nhân, đem theo hành lý bước vào, Sa phu nhân đưa thánh chỉ ra cho các phu nhân xem. Tần phu nhân nói: 
- Có được đạo bùa này, chẳng còn lo không đi được nữa rồi. 
Tử Yên nói: 
- Cứ như ý của Tử Yên này, nên đi làm hai lần thì tốt hơn. 
Đình Đình thưa: 
- Đã dự liệu cả rồi đây. Mau giả trang cho Triệu Vương thành con gái, đổi quần áo cho con a hoàn này để Triệu Vương mặc, còn a hoàn thì giả làm một tiểu thái giám. Thiếp cùng Triệu Vương ra trước. Còn a hoàn dẫn các phu nhân cải trang theo sau, từ từ ra khỏi cung đến nhà thiếp. Cứ thế này thì chỉ có quỷ thần mới nhận ra được. 
Hạ phu nhân nói: 
- Chỉ sợ trong lúc gấp gáp như thế này, lấy đâu ra sáu bảy bộ áo thái giám? 
Sa phu nhân đáp: 
- Chẳng cần các phu nhân phải lo. Ta từ lâu đã trữ sẵn cả đây rồi? 
Sa phu nhân mở ngay rương, lấy ra một loạt quần áo thái giám, mới có, cũ có, đủ cả mũ, cả khăn. Các phu nhân vui mừng, lập tức mặc ngay vào. Sa phu nhân đang cải trang cho Triệu Vương, nhìn bốn phu nhân, nói: 
- Thật xấu hổ, các phu nhân trên mặt còn đầy những phấn những sáp, sao đã vội ăn mặc ngay vào thế kia. 
Các phu nhân đều rũ rượi. Đình Đình thấy Triệu Vương đã cải trang xong, trời đã về chiều, Sa phu nhân lấy một cái hộp vàng, bày rất nhiều hoa vào, đưa cho Triệu Vương bưng, Đình Đình nói với a hoàn: 
- Chờ một lát, mày hãy dẫn các phu nhân về nhà! 
Rồi cùng Triệu Vương, lặng lẽ ra khỏi viện, lên xe về nhà. 
Vương Nghĩa ở nhà, sau khi Đình Đình vào viện, liền chạy ngay đến tìm Trịnh Lý, mời về nhà, chuốc rượu cho đến kỳ say mới cho về. Trịnh Lý say khướt về trông cửa cung, thấy tiểu thái giám bưng quả hoa, lại thấy xe của Đình Đình liền nói: 
- Khương nương nương ở trong viện về đây à? Ta vừa ở đường nhà làm một tiệc say với Vương Nghĩa xong! 
Đình Đình đáp: 
- Đúng rồi! Nhưng cũng còn sớm chán! 
Trịnh Lý tiếp: 
- Lại thêm cả con a hoàn này để lấy phần hoa quả về sao? 
Đình Đình đỡ lời: 
- Đấy chính là ơn huệ của các phu nhân ban cho! 
Nói rồi, ung dung rời khỏi cửa cung, chưa đầy một dặm, đã về đến nhà. Vương Nghĩa thấy Triệu Vương liền dặn Đình Đình đừng thay quần áo Triệu Vương làm gì, đưa vào giấu ở phòng kín bên trong, rồi chạy ngay khỏi nhà, vào cửa cung nghe ngóng, đã thấy sáu bảy nội giám, suýt soát như nhau, trong đó nhận ra cả a hoàn nhà mình, liền cùng quay về nhà cho nhanh. Các cửa thành, Vương Nghĩa đã giải tiền kết thân từ trước, chẳng ai ra mà bị ngăn trở. Cho nên đến lúc lên đèn, Vũ Văn Hóa Cập kéo lính tráng khởi sự, vào đến cửa cung, thì Vương Nghĩa đã dẫn Triệu Vương cùng các phu nhân ra khỏi cửa thành rồi. 
Dượng Đế thường ngày rất sợ mọi người nói chuyện xấu, ai nói ra đều bị giết, nhưng đến lúc này, thì dù ở địa vị Dượng Đế nữa, cùng đã thấy rõ thảm cảnh trước mắt, chỉ đành cùng Tiêu Hậu ngồi ở gác Tây, nhìn nhau mà lo sợ suốt đêm, nghe bên ngoài ồn ào chấn động, tiếng la hét chuyển vang trời đất. Nội giám lúc một lại vào báo: 
- Đánh đến nội điện rồi? 
- Đồn vệ tướng quân Độc Cô Thịnh chết rồi! 
- Thiên ngưu Độc Cô Khai Viễn bị giết rồi! 
Bọn lính tràn vào cung, một toán tóm lấy một cung nữ, quát hỏi Dượng Đế ở đâu. Cung nữ khai là đang ở gác Tây, Bùi Kiền Thông cùng Nguyên Lễ chạy thẳng tới gác Tây. Nghe thấy trên gác có tiếng người, biết là Dượng Đế. Mã Văn Cử rút kiếm chạy lên, mọi người ùa theo sau, chỉ thấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đang ngồi khóc. Thấy mọi người, Dượng Đế nói: 
- Các khanh đều là quan thần của trẫm, năm này sang năm khác lộc trọng quyền cao ban cho các khanh, nào có phụ gì, sao lại oán nghịch như vậy? 
Kiền Thông đáp: 
- Bệ hạ chỉ nghĩ tới hưởng lạc, chẳng nghĩ gì đến kẻ dưới, nên mới có biến hôm nay vậy. 
Lại thấy phía sau lưng, Chu Quý Nhi bước ra, chỉ tay vào mặt bọn Kiền Thông: 
- Thánh ơn rộng khắp, thế vẫn chưa thỏa lòng sao. Đừng nói tới chuyện bổng lộc quanh năm, chỉ nói tới việc lo lắng cho bọn thị vệ các ngươi ở Đông Đô này, ở đất khách lâu nhớ quê nhà, tình người cô độc truyền chỉ cho cả vùng Giang Đô này, những đàn bà cô quả đều tới cung, để các ngươi tùy ý chọn lựa. Thánh ân đến thế, sao lại bảo không chăm sóc thương yêu, mà nghĩ chuyện loạn nghịch cho đặng? 
Dượng Đế tiếp: 
- Trẫm không phụ các khanh, chính các khanh đang phụ trẫm! 
Mã Đức Kham nói: 
- Đúng là chúng thần phụ bệ hạ, nhưng hiện nay cả thiên hạ đều nổi dậy làm phản, hai kinh giặc đều chiếm, bệ hạ chẳng còn chỗ mà về, chúng thần cũng chẳng còn đường sống. Hôm nay đạo nghĩa chúng thần đã đến thế này, có hối cũng chẳng kịp nữa, chỉ xin dược cái đầu bệ hạ để tạ trời đất thôi! 
Quý Nhi nghe thế liền lớn tiếng quát: 
- Lũ nghịch tặc sao dám nói điên cuồng. Dẫu chúa thượng có thất đức đi nữa, cũng vẫn là đấng thiên tử chí tôn, làm cha trăm họ, mũ áo đường đường danh phận. Các ngươi chẳng qua là lũ thị vệ tiểu quan, sao dám ức hiếp thánh chúa, vọng tướng phú quý, để rồi chịu tiếng phỉ báng loạn thần, nghịch tử của nghìn năm sau? 
Kiền Thông thấy nói thế, nổi giận quát: 
- Ngươi là con hầu ở bếp, sao dám dẻo miệng báng bổ? 
Quý Nhi vẫn lớn tiếng chửi: 
- Phản vua, hại chúa chúng bây, cậy có binh quyền trong tay muốn làm gì thì làm sao! Nhà Tùy ơn nghĩa khắp thiên hạ. Chín châu không khỏi có một kẻ trung thần nghĩa sĩ, vì thiên tử mà báo thù quân cần vương sẽ kéo về, lúc ấy thì các ngươi sẽ bị băm làm vạn mảnh, có hối cũng muộn rồi? 
Văn Cử cũng đùng đùng nổi giận: 
- Con tiện tỳ điên khùng, ngày thường thì mày chau mắt nguýt mê hoặc nhà vua, đến lúc thiên hạ nát tan, cũng nên giết chết tiện tỳ để tạ trời đất! 
Kiếm giơ cao, nhằm giữa mặt Quý Nhi mà chém, Quý Nhi vẫn chửi không ngớt, rồi ngã lăn ra nền nhà. Khá thương mình vàng, vóc ngọc thành một đám máu thịt nát tan.
Văn Cử giết Quý Nhi rồi tay cầm kiếm, tay lôi Dượng Đế xuống dưới gác, thì thấy Phong Đức Di đi lên, nói với Đức Kham: 
- Hứa Công có lệnh, không cần phải giải hôn quân tới gặp Đức Công làm gì, hãy mau hạ thủ đi. 
Tiêu Hậu thấy nói thế, vội lạy van xin mọi người: 
- Thưa các vị tướng quân, chúa thượng đúng là vô đạo, nhưng xin hãy nghĩ đến tước lộc lâu nay để chúa thượng xin nhường ngôi lại cho các vị tướng quân, giao lại tất cả ấn tín, cung khuyết, xin các vị giáng làm tam công, cho sống nốt kiếp sống thừa, như thế liệu các vị tướng quân có chấp nhận cho không? 
Lại thấy Viên Bảo Nhi hầm hầm giận dữ chạy tới, thấy Tiêu Hậu khóc lóc, một điều tướng quân hai điều tướng quân, liền cười nói với Tiêu Hậu: 
- Hoàng hậu việc gì phải khổ sở thế? Đối với lũ giặc này, chúng chẳng có một chút trung quân ái chúa gì cả đâu. Đời nào chúng bằng lòng cho chúa thượng yên ổn nhường ngôi, để rồi lại vẫn cùng hoàng hậu hành lạc cho được? 
Lại nói với Dượng Đế: 
- Bệ hạ thường cho mình là bậc anh hùng, đến nước này thì còn lưu luyến tấm thân làm gì nữa mà phải cầu xin lũ phản thần này? Người ta ai không chết? Thiếp giờ đây cũng xin chết trước mặt bệ hạ, cũng coi như là một cái chết xứng đáng. Thiếp xin đi trước, bệ hạ hãy mau mau đi theo? 
Văn Cử vội vàng ngăn Bảo Nhi lại, nhưng Bảo Nhi trừng mắt nhìn, lớn tiếng quát: 
- Lũ phản thần! Không được lại gần ta? 
Vừa nói, vừa rút đoản đao đâm vào cổ, đầu ngửa cao, từ cổ một dòng máu đỏ tươi phun ra như mưa, rồi cả thân hình đẹp như thần tiên ngã vật xuống lan can. Tiêu Hậu thấy thế hoảng sợ chạy vội xuống gác. Dượng Đế thì hồn bay phách lạc, Kiền Thông xốc kiếm định giết. Dượng Đế gào lớn: 
- Hãy khoan động thủ, thiên tử có cách chết của thiên tử, hãy đem thuốc độc ra dây! 
Kiền Thông đáp: 
- Thuốc độc không bằng mũi kiếm, nhanh hơn nhiều. Cái gì mà chẳng xong! 
Dượng Đế rót nước mắt nói: 
- Trẫm là thiên tử một đời, xin được giữ toàn thân mà chết? 
Văn Cử đưa ra một tấm lụa trắng, Dượng Đế khóc mà rằng: 
- Trước đây Lý Khánh Nhi ở Phượng Nghi viện nằm mộng thấy trẫm bị rồng trắng quấn cổ, đến nay mới nghiệm đây! 
Bọn này liền gọi vũ sĩ tới, nhất tề ra tay, lôi Dượng Đế ra, dùng lụa trắng thắt cổ cho chết. Lúc này, Dượng Đế mới hai mươi chín tuổi. 
Người đời sau có thơ điếu rằng: 

Tùy gia thiên tử giống đa tình, 
Chẳng sống lâu, cốt sướng lấy mình 
Hoa lệ mười ba năm mãn thế 
Dâm ô nghìn vạn thuở lưu danh 
Mê trăng đắm rượu: dân không gốc 
Cợt phấn đùa hương: mệnh hết tinh 
Còn giận loạn thần tham phú quý 
Máu rồng tung tóe khắp cung đình.


Nguồn maxreading.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Blog liên quan : Blog zing | Blogspot | Blog tiếng anh | Facebook
Copyright © 2011 - 2014. Thuy trinh's blog - All Rights Reserved